Thứ Ba, 12 tháng 4, 2011

Nguyên Ngọc














Nguyên Ngọc

Tên thật: Nguyễn Văn Báu
Bút danh khác: Nguyễn Trung Thành
(1932 - .........) Quảng Nam
Nhà văn. Nhà nghiên cứu văn hóa. Dịch giả














                                                                                                                       
Một con khỉ thật  
4/7/2010









Nguyên Ngọc là bút danh của một nhà văn, nhà báo, biên tập, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng. Ông còn được xem là một nhà văn quân đội, gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên, từng được phong hàm Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam.


Ông tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh ngày 5 tháng 9 năm 1932 quê ở xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm 1950, khi đang học trung học chuyên khoa (nay là trung học phổ thông), ông gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam, chủ yếu hoạt động ở Tây Nguyên – chiến trường chính của Liên khu V bấy giờ. Sau một thời gian ở đơn vị chiến đấu, ông chuyển sang làm phóng viên báo Quân đội nhân dân Liên khu V và lấy bút danh Nguyên Ngọc.


Văn nghiệp

Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc và viết tiểu thuyết Đất nước đứng lên, kể về cuộc kháng chiến chống Pháp của người Ba Na, tiêu biểu là anh hùng Núp và dân làng Kông-Hoa, dựa trên câu chuyện có thật của anh hùng Đinh Núp. Tác phẩm khi xuất bản được nhiều người yêu thích và hâm mộ. Sau này cuốn truyện được dựng thành phim


Năm 1962 ông trở lại miền Nam, lấy bí danh Nguyễn Trung Thành, hoạt động ở khu V, là Chủ tịch chi hội Văn nghệ giải phóng miền Trung Trung Bộ, phụ trách Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng của quân khu V. Thời gian này ông sáng tác truyện Rừng xà nu.

Sau chiến tranh, ông có thời gian làm Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ. Trong thời kỳ Đổi mới và phong trào Cởi Mở, ông đã có những đổi mới quan trọng về nội dung tư tưởng của tờ báo và được coi là người có công phát hiện, nâng đỡ nhiều nhà văn tên tuổi sau này như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Thị Hoài... Ông cũng dành nhiều tình cảm trân trọng đối với các nhà văn khác như Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải.

Tuy nhiên, khoảng đầu thập niên 1990, báo Văn nghệ một số lãnh đạo đảng Cộng sản chính thức phê phán là "chệch hướng". Sau đó, Nguyên Ngọc đã từ chức Tổng biên tập và nghỉ hưu. Người kế nhiệm ông là nhà báo Hữu Thỉnh.


Hoạt động xã hội


Sau thời kỳ làm báo, ông tham gia tích cực trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và chấn hưng giáo dục Việt Nam. Ông đã dịch một số tác phẩm lý luận văn học như Độ không của lối viết (Rolland Barthes), Nghệ thuật tiểu thuyết (Milan Kundera), tác phẩm của Jean-Paul Sartre, Jacques Dournes...
Được xem là một chuyên gia về Tây Nguyên, trong buổi hội thảo vào tháng 4 năm 2009 về vấn đề khai thác bauxite ở Việt Nam, ông cho biết ý kiến chưa đồng tình với chính sách của chính phủ.

Ông cũng từng tham gia phong trào quần chúng biểu tình phản đối việc gây hấn, xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông năm 2011 trong bối cảnh có sự ngăn cấm. Ngày 22 tháng 8 năm 2011, Đài Truyền hình Hà Nội có làm một chương trình về sự việc này, trong đó có đoạn phát thanh viên nói "một số phần tử phản động tham gia biểu tình", đồng thời khung hình đang quay cảnh Nguyên Ngọc và hai trí thức khác là giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tiến sĩ Nguyễn Văn Khải. Sự việc này làm ông bất bình và đã gửi thư phản đối lên Bí thư Thành ủy Hà Nội.

Gần đây, ông đã xin rút tên khỏi danh sách đề cử Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2011, một giải thưởng cao quý của Việt Nam, một động thái được nhiều người cho rằng nhằm phản đối quy trình bầu chọn bất hợp lý của hội đồng giải thưởng.

Bút ký Các bạn tôi ở trên ấy viết về Tây Nguyên của ông được giải thường văn xuôi năm 2013 của Hội Nhà văn Hà Nội.


Tuyên bố từ bỏ Hội Nhà văn Việt Nam
Ngày 12 tháng 5 năm 2015, trong một tuyên bố được đăng tải trên mạng xã hội, nhà văn Nguyên Ngọc cùng 19 nhà văn, nhà thơ khác tuyên bố từ bỏ Hội Nhà văn Việt Nam kể từ ngày 11 tháng 5 năm 2015.

Bị đề nghị rút toàn bộ tác phẩm ra khỏi sách giáo khoa
Ngày 13 tháng 3 năm 2018, Ban Tuyên giáo Trung ương ra công văn yêu cầu Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo rút toàn bộ tác phẩm của các tác giả tham gia Tổ chức ‘Văn Đoàn Độc lập’ ra khỏi Chương trình sách giáo khoa.


Tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 26 tháng 10 năm 2018, ông tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam nhân sự kiện Phó giáo sư, Tiến sĩ Chu Hảo bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng đề nghị kỷ luật. Trong tuyên bố, nhà văn Nguyên Ngọc cho biết đã định ra khỏi Đảng từ lâu, nhưng không có ý định gây ồn ào. Nay sau việc Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng kỷ luật Phó giáo sư. Tiến sĩ Chu Hảo, ông muốn tỏ rõ thái độ đối với thông báo của Đảng.





*





"  Nhà văn viết bằng cái gì? Theo tôi có ba cái chính: tài năng "trời cho", sự trải nghiệm hay "vốn sống" và cái thứ ba là nền tảng văn hóa dân tộc và nhân loại mà anh ta có được, anh ta "đứng" trên đó để tiếp tục đi tới. Lớp người trẻ cầm bút ở Việt Nam hiện nay thiếu hụt hơn cả chính là cái thứ ba này..."

(Nguyên Ngọc trả lời phỏng vấn Nam Dao năm 2003)










Bài viết mới






HÒA BÌNH KHÓ NHỌC (KỲ 1)

Nguyên Ngọc


Giữa năm 1978, từ chiến trường miền Nam ra và đang ở 4 Lý Nam Đế 1, tôi được quân đội gửi đi học trường Nguyễn Ái Quốc. Học chưa xong, lại có lệnh gọi về : Ban bí thư Trung ương Đảng vừa quyết định thành lập Đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam. Đảng đoàn gồm chín người : Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Nông Quốc Chấn, Giang Nam, Nguyễn Khải, Anh Đức và tôi. Tôi được chỉ định làm bí thư. Để tiện công việc, một Hội nghị Ban chấp hành Hội Nhà văn bổ sung tôi làm phó tổng thư ký Hội (hội nghị là hình thức thôi, ai cũng biết). Tổng thư ký : Nguyễn Đình Thi. Một phó tổng thư ký nữa : Tô Hoài. Theo chỗ tôi biết, tất cả là do ông Tố Hữu xếp đặt. Ý định khá rõ : tạo một ê-kíp lãnh đạo mới, trẻ, đồng thời bảo đảm “ có sự kế tục ” – đường lối cán bộ của ta trước nay vẫn thế.

Tôi còn giữ được một chiếc ảnh chụp ở ghế đá trước sân Hội, 65 Nguyễn Du, dịp Đảng đoàn họp phiên đầu tiên. Trong ảnh vắng Tô Hoài và Hoàng Trung Thông. Tô Hoài lỉnh đi đâu đó, tính anh vẫn thế. Còn Hoàng Trung Thông thì chắc chắn là đi uống rượu.

Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979

Hàng đứng : Nông Quóc Chấn, Trần Độ (Trưởng ban Văn Hóa Văn nghệ Trung ương), Nguyễn Khải, Hoàng Trung Nho (phái viên Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương), Vương Linh (Chánh văn phòng Hội Nhà văn)

Hàng ngồi : Giang Nam, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, Anh Đức

1 Trụ sở tạp chí Văn nghệ quân đội ở Hà Nội

Nhìn ảnh tôi kinh ngạc: ngày ấy, 1978-79, tôi vẫn còn trẻ thế. Sau mười mấy năm chiến trường miền Nam trông tôi vẫn còn rất thư sinh, nho nhã, trán chưa một nếp nhăn, tóc đen tuyền, hơi gầy, và có vẻ vô tư… Ra hòa bình, và cuộc vật lộn trong cái hòa bình đó lại làm mình già đi nhanh gấp mấy lần chiến tranh. Cũng phải thôi. Gập ghềnh, ác liệt hơn nhiều…

… Mấy năm sau 1975, tôi vẫn chưa viết được gì. Văn nghệ Quân đội tung một số anh em đi các chiến trường cũ, viết về cuộc đại thắng 75. Nguyễn Khải viết Tháng ba Tây Nguyên, Xuân Thiều Mùa mai đỏ, Hữu Mai, Hồ Phương, Nam Hà, Nguyễn Trọng Oánh… đều có sách. Riêng tôi, đi rồi về tay không. Đất Quảng tập II, tập III viết rồi lại xé. Rồi lại viết, lại xé. Lại viết, lại xé.

Con gái tôi bắt đầu học chuyên Toán, bảo :

- Bố cứ viết thật nhiều đi, để con có giấy làm nháp toán. Mẹ nó mắng :
- Hỗn !

Nhưng cô ấy mừng : con bé hóm, tức là thông minh. Cô vẫn lo nó bị ảnh hưởng chất

độc hóa học của bố mẹ, trí óc phát triển không bình thường.

Hồi 1971-72 ở chiến trường tôi không viết tiếp được Đất Quảng vì bị Giả của tôi đâm một phát đúng tim 2, choáng váng. Bây giờ không phải thế nữa. Không thể đổ lỗi cho nhân vật nữa. Vết thương cũ đã nguôi ngoai.


Hàng nghìn trang bản thảo bị xé vì cầm bút lên, lại… Đường chúng ta đi 3 ! Quán tính rất mạnh. Tôi muốn cưỡng lại. Cưỡng không nổi. Muốn viết khác, biết phải viết khác. Nhưng khác thế nào ? Chưa biết.

Những ngày ấy, chắc chẳng ai ngờ, tôi thành một kẻ thất nghiệp hoàn toàn. Ngày ngày lao vào làm đủ thứ công việc eo sèo của một cặp vợ chồng son ngơ ngác và vụng về. Giặt giũ quần áo cho vợ cho con, bốn giờ sáng đã dậy, hối hả chạy ra cửa hàng Đặng Dung chen lấn với mấy bà nội trợ và một lô bà phục vụ của các ông to giành giật xếp cho được một hòn gạch để chen lấy chỗ mua cho vợ được một cái chân giò, một lạng thịt nạc. Lại chen chúc đi đong gạo, mua dầu, mua cá biển đầy xương là xương và ướp đá lạnh ngắt từ Hải Phòng chở lên. Chen chúc, cả chửi bới nữa, van xin, lạy lục nữa cũng có để xin cho được một cái phiếu sữa, một phiếu đậu phụ… Rồi nấu nướng. Rồi bế con đi nhà trẻ. Rồi dẫn con đi mẫu giáo. Rồi lo cho con vào cấp I, vào chuyên toán… Bận rộn, tíu tít, cố mà bận rộn, mà tíu tít, tự đánh lừa mình và đánh lừa bạn bè… để khỏi phải ngồi vào bàn, đối mặt với trang giấy trắng, khỏi phải viết. Bởi vì biết viết thế nào ? Bí rị. Chữ viết ra cứ nằm bẹp trên mặt giấy, chết khô, chán ngán !

Thật ra, cố mà bận rộn vẫn không hết được thì giờ. Vẫn cứ rảnh rỗi một cách xấu hổ, đau đớn. Tôi lêu lổng khắp các phố, nhiều đêm lang thang ngắm các cô gái Hà Nội mới lớn lên, đẹp không chịu được mà nói tục cũng không chịu được. Lêu lổng như một thằng ma-cà-

2 Tôi viết Đất Quảng ngay trên chiến trường Quảng Đà (bắc Quảng Nam). Xong tập I, đến tập II, Giả là nguyên mẫu nhân vật chính (Thiệt) của tôi đi đầu hàng, tôi hoang mang, không sao viết được nữa.

3 Đường chúng ta đi là bài tùy bút từng nổi tiếng của tôi kêu gọi đánh Mỹ khi Mỹ đổ 20 vạn quân vào Miền Nam năm 1965. Giọng văn đầy hào sảng …

bông vô nghề nghiệp, vô tích sự. Nửa đêm mới về. Vợ tôi không bao giờ nghi chồng. Cô chỉ lo :

- Sao anh về khuya thế ?
- Anh đi có việc.
- Thôi anh nằm xuống đây, nhè nhẹ cho con ngủ. Anh sờ trán xem, hình như nó hơi ấm.

Tôi không dám nói với vợ cái điều ghê gớm này : tôi là một thằng bất tài.

Anh có biết cái cảm giác ấy không ? Anh cầm bút mấy chục năm trời, anh có tác phẩm, có danh tiếng, sách được đưa cả vào chương trình nhà trường, trung học, đại học, sinh viên làm cả luận văn về anh, các thầy ra rả giảng dạy về anh…, vậy rồi đến một lúc, tự anh, anh mới nhận ra : có lẽ nhầm đường, nhầm nghề mất rồi. Tất cả những cái đã qua chỉ là tình cờ, ngẫu nhiên, chó ngáp phải ruồi, chứ thật sự anh chẳng có tài cán gì ráo. Anh không thể, không phải là nhà văn.

Nhà văn sao chẳng viết được gì, chẳng biết viết gì cả. Nhiều bạn bè rất thân bảo tôi :
- Mày cầu toàn bỏ mẹ. Cứ viết bừa đi. Có cái hay cái dở là chuyện thường. Viết đi.
Vốn sống đầy ắp ra đấy. Cầu toàn !

Lời trách nghe rất sang trọng. Tôi im lặng, một cách dối trá, để cho người ta trách.

Để không viết, chưa viết chỉ vì quá cầu toàn, sang quá, oai quá rồi còn gì !

Thật ra, lần này thì tôi không tự dối mình, không những tôi không biết viết thế nào,

đơn giản hơn nhiều : tôi không biết viết gì cả. Chẳng có gì trong mình để viết ra cả.

Sau này tôi có đọc ở đâu đó của nhà phê bình Pháp rất tinh tế Maurice Blanchot : “ Dấu hiệu chứng tỏ tầm quan trọng của một nhà văn, là ở chỗ anh ta chẳng có gì để nói cả ” (« Le signe de son importance, c’est que l’écrivain n’a rien à dire. » (L’espace littéraire). Tất nhiên, tôi là loại nhà văn chẳng có tầm quan trọng gì. Nhưng sao cái ông Blanchot tận bên Tây ấy giỏi thế !

Tầm quan trọng của bước chuyển của một nền văn học là ở chỗ nó đột ngột cảm thấy “ chẳng có gì để nói cả ”. Một khoảng chân không tuyệt đối.

Cái cũ đã nói rồi. Cái mới chưa có.

Tôi cho rằng văn học ta khoảng từ 75 đến gần 80 là như vậy (thời gian cụ thể nói ở đây chẳng có gì chắc chắn lắm đâu).

Không làm gì có chân không tuyệt đối. Vẫn có vật chất và vận động trong ấy. Cái cũ “ đã nói rồi ” vẫn còn lải nhải được nói tiếp, nhạt nhẽo, vô vị, theo quán tính. Và cái mới đã manh nha đâu đó, mơ hồ, mò tìm, cảm giác, thiểu số, rất thiểu số.

Có lẽ Nguyễn Minh Châu là một trong ít người cảm giác ra sớm hơn cả. Nhưng anh không nói, cả với tôi, dẫu chắc anh có biết tôi cũng đang đau khổ đi tìm. Anh quờ quạng viết.

Hãy nhớ lại một ít truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ngày ấy. Đọc rất khó hiểu, chẳng biết anh

định nói cái gì. Có lẽ chính anh cũng không hiểu. Anh mới cảm giác thôi.

Tôi thua anh xa. Tôi cảm giác kém hơn, mơ hồ hơn. Và tôi im lặng.

… Tôi bắt đầu làm bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn trong tình trạng như vậy, chắc ông Tố Hữu khi sắp xếp tôi không hề ngờ đã giao trọng trách cho một kẻ dao động đến thế.

Duy có một điều – điều này chính cuộc chiến đấu lâu dài, chính Đảng đã rèn luyện cho tôi – : tôi biết phải thay đổi, quyết phải thay đổi. Không phải chỉ tôi. Cả văn học ta.

Một hôm tôi đến làm việc với anh Trần Độ, bấy giờ là phó ban tuyên huấn, trực tiếp phụ trách văn hóa văn nghệ. Tôi có biết anh Trần Độ trước đây, đã lâu lắm, một lần tôi đi cùng anh Văn Phác xuống Quân khu Hữu ngạn đóng ở Nam Định, anh Độ đang làm chính ủy quân khu ở đấy, đâu khoảng 1960, 61. Biết, chứ chưa hề quen. Chống Mỹ, anh Độ ở Nam Bộ, tôi ở Khu 5, không hề gặp nhau.

Tôi đến báo cáo với anh ý định công việc của Đảng đoàn. Cũng không còn nhớ hôm ấy tôi đã trình bày những gì. Đại thể là khá dông dài, suốt cả một buổi chiều. Anh Độ kiên nhẫn nghe. Cuối cùng tôi nói : cố gắng làm thế nào, giỏi thì khoảng mươi năm, dở thì mười lăm hai mươi năm, đưa văn học ta lên một bình diện khác, tạo nên được một số đỉnh cao mới.

Anh Độ rót nước cho tôi, rồi nói, rất thong thả :

- Kế hoạch của cậu, mình tán thành cả. Nhưng mà, cậu ạ, mình nghĩ trong nghệ thuật, muốn có đỉnh cao mới thì phải có trường phái mới.

Tôi kinh ngạc.

Và từ đó, tôi thân anh.

Sao con người ấy, vị tướng thú thực trước tôi nghĩ là giản dị, đáng yêu, nhưng chắc cũng võ biền thôi, không phải người sáng tạo, không ở trong nghề, vậy mà anh lại cảm nhận được điều đó ?

Về sau, quen thân, làm việc, chơi bời với nhau nhiều nữa, tôi chưa lần nào hỏi lại anh hồi đó anh nói trường phái mới là thế nào. Tôi chắc anh cũng cảm giác thôi. Và anh diễn đạt như vậy.

Không phải ngẫu nhiên mà sau này Nguyễn Minh Châu cũng đến với anh Độ.

Nhiều người ác mồm hay bảo anh Độ và một số anh em chúng tôi có những âm mưu ghê gớm lắm. Có âm mưu thật đấy: âm mưu thực hiện cái cảm giác ấy.



 HỒI KÝ CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC 
(KỲ 2)


Tôi về làm việc ở Hội nhà văn chưa được vài tháng thì nổ ra chiến tranh biên giới phía bắc. Anh Nguyễn Đình Thi bảo :

-Phải đi sơ tán, lên Đà Lạt, bảo vệ lực lượng. Tôi ngạc nhiên :

-Ơ, sao lại sơ tán ? Phải lên biên giới chứ. Tôi đi Cao Bằng, cùng anh Hồng Nghi.

Rồi đi Campuchia, cùng Nguyễn Khải và anh Nguyễn Văn Bổng.

Đi được là nhờ có Nguyễn Chí Trung. Sau 1975, Nguyễn Chí Trung tập hợp được một số anh em thành cái gọi là Trại sáng tác ở Đà Nẵng, nhà số 10 đường Lý Tự Trọng. Thu Bồn, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trí Huân, Ngô Thế Oanh, Nguyễn Bảo, Bùi Minh Quốc, Thanh Quế, Trần Vũ Mai… Về sau, Trại giải thể, một số ở lại Quảng Nam, một số ra Hà Nội. Nguyễn Chí Trung về Văn nghệ Quân đội số 4 Lý Nam Đế. Tính Trung không ở nổi 4 Lý Nam Đế, tôi biết. Anh quá hăng hái, việc gì cũng xông vào, hết mình, can thiệp vào mọi việc, mọi chỗ, hết sức vô tư, chẳng có gì cho mình hết, một cái quần đùi, theo đúng nghĩa đen, cho riêng mình cũng không. Mà 4 Lý Nam Đế bây giờ đã khác, cuộc sống hòa bình đã khác. Mỗi người đã có cái riêng. Trung vừa hiểu vừa không hiểu… Sau một thời gian lục đục nội bộ ở Lý Nam Đế, Trung bỏ đi. Anh là người của chiến trường. Lại ra chiến trường. Đánh giặc cực giỏi. Tổ chức chiến đấu cực kỳ điêu luyện, thấu đáo, tỉ mỉ, tháo vát, thông minh, và dũng cảm ít ai bằng. Còn tổ chức cuộc sống thì cực vụng. Bị tất cả mọi người lừa một cách trắng trợn, dễ dàng, kể cả người thân, họ hàng.

Một tính cách đặc biệt của Trung : nhất thiết phải có mặt ở những thời điểm, địa điểm của lịch sử. Anh mãi mãi là người của “ Đường chúng ta đi ”. Sáng 30 tháng 4-1975, trong khi chúng tôi còn lẽo đẽo hỏng xe ở Phan Rang, Phan Thiết, Trung đã có mặt trên cầu Cỏ May Vũng Tàu trong đội hình Sư đoàn 3 ; và ngay chiều đó lại có mặt ở Dinh Độc Lập Sài Gòn. Ngày 7 tháng 1-1979, Trung ngồi trên chiếc xe tăng đầu tiên đánh chiếm Nông Pênh.
Trung quen, hiểu và có uy tín lớn trong tất cả các đơn vị quân ta ở Campuchia, kể cả các phi đoàn không quân, từ cấp tư lệnh tiền phương bộ tổng, cấp quân đoàn, cho đến đại đội, trung dội, tiểu đội. Anh em đùa :

- Máy bay quân sự đang bay, cần đi nhờ, ông Trung vẫy một cái, nó dừng lại ngay.

Trung tổ chức cho chúng tôi đi Campuchia bằng máy bay quân sự, từ Tân Sơn Nhất lên Nông Pênh, Nông Pênh về Tân Sơn Nhất, rồi lại Tân Sơn Nhất lên Xiêm Riệp, từ Xiêm Riệp lại trở về Nông Pênh.

Đối với tôi, đó là chuyến đi quyết định.

Tôi đến Xiêm Riệp, gặp anh Thuận, anh em quen gọi là Thuận Nẹt, để phân biệt với Thuận Lạc, anh này hồi ở trên núi thời chiến tranh, sáng ra đi vệ sinh sau nhà, chẳng biết làm thế nào đi lạc luôn trong rừng suốt một tuần. Thuận Nẹt là người quen cũ thời chống Mỹ, bây giờ làm tư lệnh Mặt trận Xiêm Riệp, cỡ tương đương tư lệnh quân đoàn. Đến Xiêm Riệp, đương nhiên phải đi thăm Angkor. Tàn quân Pôn Pốt vẫn còn bắn tỉa. Tư lệnh Thuận cho một đại đội có cả xe tăng đi trước dọn đường và bố trí bảo vệ chúng tôi đi xem Angkor.

Tôi gặp may : người hướng dẫn tôi hôm đó là Vik Keo.

Phải nói rõ điều này : người Pháp có công lớn với Angkor. Họ đã phát hiện ra Angkor, đã công phu bền bỉ nghiên cứu, gìn giữ, tu bổ công trình nghệ thuật kỳ vĩ này cho Campuchia, cho nhân loại. Họ có những chuyên gia tuyệt vời về Angkor và suốt hơn trăm năm họ đào tạo cả một đội ngũ những người chuyên bảo tồn Angkor (conservateur d’Angkor) hết sức thông thạo, có hiểu biết chuyên môn và nghệ thuật cao, say mê, suốt đời sống và chết vì Angkor. Cho đến trước 1975 ở Campuchia còn được 50 nhà bảo tồn Angkor quý giá như vậy. Bọn Pôn Pốt tàn sát hết. Còn sống sót duy nhất một người : Vik Keo.

Còn ta, ta có mỗi cái đàn Nam Giao, đã bị một “ nhà văn hoá ” phá mất !

Angkor là cả một thế giới, toàn bằng đá, hoàn chỉnh, trọn vẹn, mênh mông, phong phú và hài hòa, tương đương với cái thế giới ta đang sống đây, có lẽ còn hơn thế nữa. Và Vik Keo, như một vị đạo sĩ giàu phép thần thông, dẫn tôi đi vào cái thế giới vừa khép kín vừa không cùng ấy. Anh thuộc lòng từng phiến đá, từng mẩu rêu, từng nét cong và từng vành môi mỗi pho tượng. Anh thì thầm kể cho tôi, dạy cho tôi tỏ, chi tiết mà không vụn vặt, bao quát mà lại tỉ mỉ về cái thế giới Angkor của anh, tôi như một chàng Lưu Nguyễn may mắn được một vị thần linh cầm tay dắt đi và giảng giải thâm trầm về buổi hình thành, sự tồn tại và sự vĩnh cửu của vũ trụ. Tôi được chỉ cho biết trời đất đã được tạo lập nên như thế nào, buổi khai thiên lập địa đã từ hỗn mang được sắp xếp lại ra sao, con người từ đâu đến, để làm gì, và rồi sẽ đi đâu. Vik Keo nói và đá Angkor nói. Tôi như một kẻ tín đồ, vốn là một tên vô đạo bỗng một phút đốn ngộ, im lặng lắng nghe, không dám nói một lời, hỏi một câu. Bởi vì, đi trong Angkor, anh nghe không phải lời nói của con người, mà là sấm truyền của đá. Tiếng nói của tạo hóa…

Chúng tôi lang thang từ mờ sáng đến sẩm tối, trong thế giới của đá, Angkor Thom, Angkor Wat, Bayon, Sân Voi… cho đến tận dãy “ hành lang ú tim ” (galerie de cache-cache) ngoằn ngoèo sâu lút đầu người, hẹp đến phải lách nghiêng người mới lọt qua được vậy mà hai vách vẫn đầy tượng là tượng, tuyệt đẹp, chẳng biết ai tạc, tạc để làm gì…

Mãi đến lúc tưởng đã kết thúc cuộc hành trình kỳ diệu, Vik Keo bảo tôi, giọng rất

nhỏ :

- Còn một kỳ diệu này nữa, của riêng tôi, hôm nay tôi tặng anh.

Anh nắm tay tôi, dẫn lên một đài đá cao, trước mặt là một tháp sừng sững :

- Anh xem kìa !

Tôi ngửng lên. Trên đỉnh tháp, một nàng Apsara đang múa. Chỉ có Vik Keo mới biết

được điều này, và anh dành cho tôi hạnh phúc ấy : bấy giờ đã hơn năm giờ chiều, tất cả rừng đá Angkor mênh mông đã chìm trong màn đêm tím sẫm. Chỉ còn một ngọn nắng cuối cùng, có lẽ chỉ lớn bằng hai bàn tay, óng muột, và ngọn nắng ấy chiếu đúng lên đôi má nàng Apsara trên đỉnh tháp, chỉ chiếu vào đôi má ấy thôi, khiến nàng bỗng đẹp đến mê hồn. Đôi má ửng hồng của một người con gái vừa dậy thì cách đây hàng vạn hay hàng triệu năm.

Đâu chỉ một phút.

- Thôi ta chào nàng rồi về đi anh, Vik Keo nói.

Ngọn nắng cuối ùng cũng vừa tắt. Cô gái đậy thì “ của Vik Keo ”, mà hôm nay anh cho phép tôi được hạnh phúc ngắm đúng một phút, đã lại chìm mất trong bóng đêm vĩnh cửu.

Cảm ơn, cảm ơn vô cùng Vik Keo. Từ ấy đến nay đã mấy chục năm, mấy chục năm loạn lạc trên cái đất nước đau khổ ấy. Vik Keo nay ở đâu ? Còn không ? Người bảo tồn Angkor cuối cùng…

Tôi hỏi Nguyễn Chí Trung. Anh bảo để anh sẽ cố tìm xem.

Đêm ngủ ở chỗ anh Thuận Nẹt Xiêm Riệp tôi cứ nghĩ mãi, có lẽ không phải con người đã làm nên Angkor. Nó quả quá sức con người… Nhưng vậy thì ai ?… Vẫn chỉ có thể là con người thôi.

Con người kỳ lạ đến thế đấy. Hình như các học thuyết của chúng ta đã ra sức giải thích con người một cách trần tục quá chăng ? Hãy đến Angkor một lần. Có thể anh sẽ bớt “ duy vật ” đi một ít.

Cứ đến Angkor, cũng có thể anh sẽ nghĩ : hình như dân tộc này chẳng cần đến văn học nữa. Họ viết tiểu thuyết bằng đá. Và đã viết xong rồi !

Sao Angkor lại rơi vào tôi đúng lúc tôi về làm Đảng đoàn Hội Nhà văn ? Nó có khiến tôi bắt đầu hiểu nghệ thuật khác trước đi chăng ? Có phải trước nay chúng ta, cả chính tôi, đã hiểu về nó quá thực dụng ? Nó là gì trong đời sống con người ?… Thôi, ít ra Angkor cũng buộc tôi tự đặt cho mình những câu hỏi vớ vẩn như vậy…

Những ngày Xiêm Riệp rất lạ. Hôm vừa bước xuống sân bay, anh Nguyễn Văn Bổng khóc òa.

Nguyên là chúng tôi đến Xiêm Riệp bằng máy bay quân sự Liên Xô. Có một phi đội

như vậy ở Tân Sơn Nhất. Hàng ngày bay Tân Sơn Nhất – Nông Pênh, Nông Pênh – Tân Sơn Nhất. Tân Sơn Nhất – Xiêm Riệp, Xiêm Riệp – Tân Sơn Nhất. Chở đồ tiếp tế sang cho bộ đội. Và chở thương binh về.

Chúng tôi vừa đổ xuống sân bay Xiêm Riệp thì đã thấy ba, bốn chục thương binh ngồi chờ ở đấy để được đưa về Sài Gòn. Tất cả đều trẻ măng, má còn lông tơ. Thanh niên Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Nghệ Tĩnh… Và hầu như tất cả đều… cụt chân. Mìn Trung Quốc. Sân bay chẳng có nhà ga. Họ ngồi bệt ra đường băng. Những đôi chân chỉ còn một nửa, đến đầu gối, quấn băng trắng.

Tôi quay mặt đi. Cố nén để khỏi kêu thét lên : Lại một cuộc chiến tranh nữa ư ? Đến bao giờ ?

Mới sáng nay, mới một tiếng đồng hồ trước đây, là Sài Gòn. Là bia rượu. Là xô bồ.

Là các thứ đấu tranh nội bộ, chen chúc, giành giật.

Bỗng tất cả đều trở thành vô nghĩa. Tôi biết tôi yếu đuối và sai rồi. Cái bên kia, một giờ trước, là thật. Cái này cũng là thật. Đừng có lộn xộn, mơ hồ.

Nhưng văn học làm gì ?

Tại sao cứ thánh thót mãi một bản hùng ca quán tính ?

Ở Xiêm Riệp, tôi làm quen với một đại đội trưởng trinh sát nổi tiếng tên là Trung, người Vĩnh Phú. Một đêm anh dẫn chúng tôi đi chơi trên Biển Hồ. Trong đời, chẳng dễ gì có một đêm kỳ thú như thế nữa. Trung quen khắp mặt dân Campuchia vùng này. Là ân nhân của rất nhiều gia đình người Khơme ở đây : đầu 1979, đại đội trinh sát của anh đã cứu hàng trăm người khỏi tay Pôn Pốt. Ở đây anh có vô số mẹ nuôi, chị nuôi, em nuôi. Anh về đây như về làng, về nhà. Hôm ấy tôi thấy rõ ràng có một cô gái Khơme yêu Trung đến mê mệt, bộc lộ, trắng trợn.

Tôi bảo :

- Đã sao, Trung ! Trung nói :

- Nhưng em đã có.

- Vĩnh Phú à ?

- Không, Sài Gòn. Éo le lắm, để rồi em sẽ kể anh nghe…

Chúng tôi thả thuyền rong chơi Biển Hồ suốt đêm. Nghe dân Campuchia hát. Ăn cháo cá và uống rượu. Cá Biển Hồ, cứ vục tay xuống nước, túm lên ngay được một con, to tướng, béo ngậy.

Trung kể cho tôi nghe trận anh suýt chết trên biên giới Thái Lan. Anh bị thương, và bị lạc, một mình, sang cả bên đất Thái. Chưa bao giờ tôi nghe nói về cái khát ghê gớm như vậy. Dãy Đang Rek, biên giới Miên-Thái, sáu tháng mưa tầm tã, sáu tháng khô, tuyệt không một giọt nước. Rừng toàn gai. Và mìn. Mìn dày hơn cả gai. Trung bị thương, lạc, và khát. Mười ngày. Ngày thứ ba, liếm hết giọt nước cuối cùng trong bình-đông. Ngày thứ năm, nuốt hết giọt nước đái cuối cùng tự mình cố sức rặn ra. Khát đến điên dại. Khát đến cháy thiêu tận từng tế bào. Xé hết quần áo. Khát đến hôn mê. Trung kể rằng trong một cơn mê, anh thấy anh thoả thuê uống cạn sạch cả cái Biển Hồ Tonlêsáp Campuchia. Một cơn mê khác, dữ tợn hơn, anh thấy anh bắt được một tên lính Pôn Pốt. Anh rút dao găm, đâm ngay vào cổ họng nó và… ừng ực uống cho kỳ hết máu.

Lần ấy dân Khơme quanh Biển Hồ nhà nào cũng đã lập bàn thờ cúng anh bộ đội Trung. Nhưng rồi Trung trở về : đồng đội tìm được anh trên đất Thái, đúng lúc anh đang hấp hối…

Người ta đã định phong tặng Anh hùng cho Trung. Nhưng Trung có một cái “ phốt ” nặng. Việc này, hai năm sau tôi mới biết.

Ngày giải phóng Sài Gòn, Trung đi làm công tác quân quản một phường quận 10, gặp một cô gái gốc Huế, đâu quãng 16 hay 17 tuổi. Anh yêu. Cô gái thật đẹp. Về sau có lần họ dẫn nhau ra Hà Nội, có ghé lại thăm nhà tôi. Vợ tôi bảo :

- Em mà là con trai, em cũng yêu mất !

Nhưng cô gái có một người anh là “ sĩ quan nguỵ ác ôn ” đang đi cải tạo.

Đơn vị ngăn cản, tất nhiên. Trung không nghe. 1975-1979, rồi 80, 81. Bao nhiêu lần kiểm điểm, Trung một mực không chịu thua.

Cuối cùng anh vứt tất cả, danh hiệu đảng viên, chức vụ đại đội trưởng trinh sát nổi tiếng, cả cái Anh hùng Quân đội suýt được phong…, tất cả, anh về Sài Gòn và cưới cô gái Huế của anh.

Anh bị đuổi khỏi chiến trường.

Năm ngoái vào Sài Gòn tôi có ghé thăm Trung. Anh chị ở Quận 10, trong một hẻm rất khó tìm. Họ đã có hai cháu và sống hạnh phúc. Bây giờ Trung làm một chân bảo vệ ở công viên Tao Đàn. Chị ở nhà, nội trợ. Chị bảo tôi :

- Đêm nào anh ấy về khuya quá, em lo cồn cào, chắc cũng giống như lần anh ấy sắp chết khát trên biên giới Thái…

Cuộc sống, con người đấy. Sao văn học ta xoàng thế.

Định từ Xiêm Riệp quay xuống Nông Pênh, nhưng máy bay không có chuyến, phải về Tân Sơn Nhất rồi mới quay lên.

Nông Pênh khiến tôi bàng hoàng.

Pôn Pốt là một cái gì đó rất kỳ lạ, có lẽ chỉ có một trong suốt lịch sử.

Có người đã nói đến một thứ vũ khí sinh học gì gì đó, một cuộc chiến tranh tưởng tượng, chỉ giết sạch người, còn thì tất cả đều nguyên vẹn, không chút sứt mẻ.

Nông Pênh sau Pôn Pốt là một thành phố như vậy, còn lại nguyên vẹn, không sứt mẻ. Tôi có đi thăm Hoàng Cung, Chùa Vàng, đài Độc Lập… Đến những pho tượng giát toàn vàng vẫn còn nguyên.

Chỉ có con người đã biến mất. Nguyễn Chí Trung bảo tôi :

- Ông có để ý không, tất cả các nhà đều không có số.

Trung tinh thật. Nhà cửa còn nguyên, sang trọng, lịch sự. Chỉ có các số nhà đã bị xóa hết. Một dấu hiệu rất nhỏ của thời tàn phá Pôn Pốt : trên đời này không còn bất cứ cái gì có tên, có một số hiệu để gọi cũng không.

Dấu vết tàn phá rõ nhất có thể thấy được có lẽ chỉ có cái nhà Ngân hàng : tiền riêng, hàng đống, vô số, mới tinh, rất đẹp, màu xanh và dài, từa tựa đồng đô-la, vứt đầy đường, từng xấp dày. Tôi có nhặt một xấp, mang về cho con gái tôi chơi, bây giờ vẫn còn : không có người, không có bất cứ sự quan hệ, giao lưu, đối thoại người-người nào nữa, nên đồng tiền vứt đi là phải.

Tất cả còn nguyên. Chỉ có một cái biến mất : con người. Nó biến đi đâu ?

Hàng triệu người bị giết, ta biết rồi. Hàng triệu người đã bị giết theo cách thức đơn giản nhất, thô sơ, nguyên thủy nhất : một nhát cuốc vào đầu. Tôi đến nhà tù Tuol Sleng, xưa là trường học. Tuol Sleng nay thành bảo tàng tội ác Pôn Pốt. Có một tấm bản đồ nước Campuchia lớn, chiếm cả một bức tường, kết toàn bằng đầu lâu. Hôm tôi đến, mấy anh thợ bảo tàng đang làm cái công việc kỳ dị ấy : kết tấm bản đồ toàn bằng đầu lâu. Mỗi chiếc đầu lâu đều có một vết cuốc bổ toác. Không ở đâu trên thế gian này còn có một tấm bản đồ đất nước như vậy.

… Nhưng có lẽ đấy vẫn không phải là cái chính. Hàng triệu người bị giết. Nhưng cũng còn hàng triệu người không bị giết. Vậy ai bị giết ?

Những ngày ở Nông Pênh, ở Campuchia, tôi hiểu ra điều này : Pôn Pốt chỉ giết những người muốn còn là một đơn vị. Một đơn vị người. Có tên, có tuổi, có quá khứ, có hiện tại, có tương lai, có số phận riêng, có cuộc đời riêng, có cái khác riêng, dấu hiệu riêng dầu nhỏ nhất của riêng mình. Nó không công nhận đơn vị, không công nhận cái riêng.

Không có đơn vị. Chỉ có bầy.

Không có sự hữu danh.

Chỉ có bầy, tập thể vô danh.

Bầy vô danh và hoàn toàn trong sạch. Gia đình, vợ-chồng, cha-mẹ, anh-em, bạn bè, xóm giềng, tình yêu, tình bạn… đều phải xóa hết, nghiền nát, hủy diệt hết. Dấu hiệu của cái riêng mà !

Đó là chủ nghĩa tập thể tuyệt đối. Cái đồng nhất tuyệt đối. Sự trong sạch nguyên khối, tuyệt đối.

Lịch sử, các nền văn minh nối tiếp làm nên lịch sử đã làm cho bầy đàn hồng hoang vô danh, tiến hóa, biến dần thành những con người, từng đơn vị con người hữu danh. Lịch sử phải chấm dứt. Phải trả lại sự tinh nguyên ban đầu, sự trong sạch đồng khối nguyên vẹn đầu tiên và vĩnh cửu.

Đó là chủ nghĩa Pôn Pốt. Nỗi kinh hoàng thảng thốt lớn nhất của nhân loại. Nó tìm ở đâu ra cái lý tưởng kinh hoàng ấy ?

Ở Nông Pênh tôi gặp một cặp vợ chồng trí thức còn sống sót một cách kỳ diệu, anh là kiến trúc sư, từng học ở Nhật, ở Nga, chị là kiến trúc sư nội thất. Họ còn sống sót vì họ đã khéo léo tự vô danh hóa mình, tự diệt tính đơn vị của mình trước con mắt bọn Angka (Angka : tức ‘‘ Tổ chức ’’, dưới thời Pôn Pốt). Anh chị nói cho tôi biết rằng cả Pôn Pốt lẫn Iêng Sari, và mấy tên lãnh tụ Khơme đỏ cao cấp nhất khác nữa đều từng học ở Pháp về. Chính ở phương Tây chúng học được, chúng nung nấu lòng căm thù đối với văn minh, mọi nền văn minh đã dẫn đến nền văn minh tư sản, bởi vì chính văn minh, dặc biệt văn minh tư sản, đã đưa đến sự phát hiện ra cá nhân sáng chói trong cộng đồng, dẫn đến sự hình thành cá nhân. Cá nhân là sa đọa. Chỉ có bầy đàn mới trong sạch…

Mấy năm sau, trong một lần cãi nhau với Chế Lan Viên, anh ấy nói :

- Loài người phát triển từ dị biệt đến đồng nhất, càng phát triển cao càng đồng nhất

cao.

Tôi, từ Campuchia trở về, tôi cãi :

- Không đâu, ngược lại, loài người phát triển từ đồng nhất đến dị biệt. Đồng nhất cao

trong sự dị biệt cao. Trong sự long lanh của từng cá thể. Đi ngược lại thì sẽ dẫn đến Pôn Pốt !

Nếu là xã hội chủ nghĩa, thì đó mới là chủ nghĩa xã hội. Còn có một thứ “ xã hội chủ nghĩa ” khác : chủ nghĩa xã hội Mao, và đỉnh cao của nó, chủ nghĩa xã hội Pôn Pốt. Đừng tưởng Pôn Pốt không thành tâm làm chủ nghĩa xã hội. Nó có lý tưởng lớn đấy: chủ nghĩa xã hội bầy đàn.

Chuyến Campuchia ấy đối với tôi là quyết định. Nó định hướng cho mọi suy nghĩ và công việc của tôi.



 HỒI KÝ CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC 

(KỲ 3)


Công việc Hội nhà văn, ai từng ở đấy đều biết, muốn làm thì làm bao nhiêu cũng không hết ; không làm cũng chẳng sao. Người viết vẫn viết. Người viết hay cứ viết hay. Người viết tồi cứ viết tồi.

Dạo ấy tôi cố gắng làm hai việc : hết sức góp phần lập trường Nguyễn Du. Và ra tờ Văn học nước ngoài.

Trường Nguyễn Du là để cố gắng dần dần tạo một thế hệ cầm bút mới, đỡ thất học như chúng tôi.

Tờ Văn học nước ngoài là cố gắng để cho kinh nghiệm văn học thế giới thẩm thấu dần vào ta. Xin mãi, không ra chính thức được, chúng tôi làm nội san vậy, in ronéo, in xê-len, rồi in typo. Có lần Bộ văn hóa muốn bêu diếu những anh bất hợp pháp, tổ chức triển lãm những tờ báo in lậu, Văn học nước ngoài cũng vinh dự có mặt trong cuộc đó. Anh Đào Xuân Quí giúp tôi trong công việc nội san này, bài vở, dịch thuật, mi báo, in ấn, gần như một mình anh ấy chống chọi. Văn phòng Hội kiềng riềng vì kinh phí không có, tiền báo không thu được. Tôi đánh bài lờ.

Công việc linh tinh khác cũng nhiều : đối nội, đối ngoại, chế độ, chính sách, họp hành, trợ cấp, già, trẻ… Anh Tô Hoài cùng làm việc với tôi rất ăn ý. Đã làm, anh làm đến nơi đến chốn, và gọn, nhanh. Nguyễn Khải đêm nào cũng cùng tôi chụm đầu bàn bạc, trên căn phòng của anh ở 4 Lý Nam Đế. Anh em tâm đầu ý hợp.

Công việc trước mắt là chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ III. Đại hội II họp năm 1962, lúc ấy tôi đã vào Nam. Gần 15 năm rồi còn gì. Và riêng tôi, tôi nghĩ đã đến lúc có chuyện để mà họp.

Để chuẩn bị cho một Đại hội có chất lượng, thật sự có chuyện mà nói, chúng tôi chủ trương triệu tập hội nghị đảng viên, thử cùng nhau bàn bạc trước một số vấn đề dự kiến sẽ đưa ra Đại hội. Tôi được phân công viết một tài liệu gọi là “ Đề dẫn ”, có tính cách gợi ý cho cuộc thảo luận sắp tới ở hội nghị. Anh Tô Hoài lo công việc hằng ngày ở Hội. Nguyễn Khải lo việc tổ chức hội nghị (danh sách đảng viên, triệu tập v.v…). Anh Nguyễn Đình Thi nói rõ : anh sẽ góp ý kiến mọi việc, nhưng xin để cho anh được dành nhiều thì giờ sáng tác. Giang Nam làm tổng biên tập báo Văn Nghệ. Các anh còn lại trong Đảng đoàn thì hoặc ở cơ quan khác, hoặc ở xa, ít trực tiếp tham gia công việc Hội.

Tư tưởng của chúng tôi, ít ra của chính tôi, là khá rõ ràng, nhưng cách thức làm việc thì thật luộm thuộm và vội vã. Chúng tôi hối hả, lụp chụp chuẩn bị hội nghị đảng viên.

Sau này nhớ lại, tôi có lần nghĩ : tại sao ngày ấy tôi lại hối hả như vậy. Chậm lại, chắc hơn, suy nghĩ, tính toán, viết Đề dẫn kỹ, chậm hơn ít nữa đã sao. Vậy mà tôi đã ngồi viết Đề dẫn hối hả, ngày đêm, bỏ ăn, bỏ ngủ, viết đến đâu in ronéo đến đấy, bộ máy văn phòng Hội cứ chạy tíu tít lên.

Tại sao ?

Ra tôi vẫn là người sáng tác chứ không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo sẽ từ tốn hơn, cẩn thận hơn, biết kìm mình lại hơn, nhất là khi đang toan tính một việc lớn như thế này. Quả thật tôi có toan tính một việc lớn : bắt đầu cú đột phá cho sự thay đổi văn học mà tôi mường tượng từ lâu, nay đang rõ dần trong đầu, trong mong ước. Tôi bị sự thúc đẩy mãnh liệt hệt như người nghệ sĩ khi cảm hứng tích lũy từ rất lâu, rất lâu, chợt ào đến, không cầm bút, không chộp ngay lấy bảng màu, không ngồi ngay vào bàn… thì không kịp nữa, chậm mất, hỏng mất !

Tôi viết bản Đề dẫn hệt như sáng tác một thiên tùy bút, say mê, bị cuốn hút ngay bởi những ý tưởng vừa hiện hình trên trang giấy, ý tưởng này gợi ý tưởng kia, nối nhau, cuốn nhau, dồn lên nhau ào ào chảy ra.

Tôi nói văn học ta từ sau 75 bỗng đột ngột lâm vào một tình trạng rất kỳ lạ : nó bỗng trở nên nhạt nhẽo. Người đọc, trước đây từng say mê nó thế, từng coi nó là đời sống tinh thần thắm thiết, thống thiết không thể thiếu của mình, nay bỗng đột ngột quay lưng lại với nó, thờ ơ. Họ không thèm đọc ta nữa. Họ đi đọc sách nước ngoài. Họ bỏ ta.

Chính Chế Lan Viên ngày ấy, trong một cuộc họp Đảng đoàn, cũng nói : Sách bây giờ nhiều, nhưng tác phẩm thì không có.

Vì sao ?

Câu hỏi đầu tiên, bức bách, để đặt vấn đề mở đầu bản Đề dẫn là như vậy.

Vì sao ?

Tôi cố gắng cắt nghĩa :

Bây giờ ta có thì giờ hơn, bình tĩnh, yên ổn hơn, hết chiến tranh rồi, kinh nghiệm cũng nhiều hơn, từng người viết, từng quyển sách viết ra rõ ràng khá hơn, văn chương chỉn chu hơn, chương hồi rành mạch khôn khéo hơn, sách “ hay ” hơn. Nhưng tất cả những cái hơn đó là để nói về một chuyện đã cũ, đã qua, đã xong. Chúng ta vẫn tiếp tục, theo quán tính, trả lời một câu hỏi cũ: sự mất còn của cộng đồng dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm.

Câu hỏi ấy, nóng cháy trong suốt thời kỳ trước, nay lịch sử đã trả lời xong rồi. Mà văn học thì cứ tiếp tục, theo quán tính, lải nhải trả lời một câu hỏi đã có lời giải rõ ràng của lịch sử.

Trong khi lịch sử đã sang trang. Cuộc sống đã đặt ra những câu hỏi mới, một loạt câu hỏi mới.

Người ta chán mình, bỏ mình là phải. Người ta đã đứng trước hàng vạn câu hỏi cháy lòng, ngồn ngang, phức tạp mới, mà sách của anh, viết hay hơn, dày hơn, in đẹp hơn, cứ lẩm cẩm vô duyên bắt họ nghe câu trả lời của anh về cái chuyện họ đã vượt qua rồi. Anh lạc hậu, đáng đời nhà anh !

Vậy vấn đề số một của văn học hiện nay, theo tôi, là tìm ra những câu hỏi mới của đời sống. Là nói về nó.

Chính ông Tố Hữu ngày ấy cũng nói : 30 năm nay chúng ta mới giải quyết một vấn đề : sống hay là chết; bây giờ mới bắt đầu giải quyết vấn đề : sống như thế nào ?

Chính sự thay đổi câu hỏi cơ bản đó quyết định bước biến đổi cơ bản hôm nay của văn học.

Vậy câu hỏi mới là gì ?

Tôi quả quyết : vấn đề số phận chung của cộng đồng đã xong. Bây giờ là vấn đề số phận riêng của từng con người, trong cộng đồng. Trước kia chưa có câu hỏi đó, chưa thể đặt ra, nó chìm lấp trong câu hỏi lớn chung. Bây giờ nó trồi lên hàng đầu.

Tư tưởng cơ bản của Đề dẫn là như vậy. Nó nêu vấn đề mà nó cho là lớn nhất của văn học bấy giờ ấy ra, và đề nghị hội nghị, rồi Đại hội cùng suy nghĩ, cùng thảo luận.

Tất nhiên, tôi viết hối hả, dông dài, nhiều khi khá rối rắm, không chặt chẽ, nhưng cái ý tưởng ấy là rất rõ ràng. Tôi nói : công việc của văn học bây giờ là tham gia, là đi hàng đầu trong công cuộc giải phóng năng lượng tiềm tàng và vô tận của từng cá thể con người.

Tôi nói : tập thể phải là sự tập hợp tự do và sinh động của từng cá thể tự do, và long lanh sáng tạo. Không thể là tập thể vô danh, vô chủ, tập thể bầy đàn…

Những đêm tôi ngồi viết, Nguyễn Chí Trung thường đi tới. Anh hỏi :

– Đến đâu rồi ?

Tôi buông bút. Hai anh em ngồi trao đổi, bàn luận, tranh cãi. Nguyễn Chí Trung còn thấm Campuchia hơn cả tôi. Nguyễn Chí Trung là người rất lạ : anh là nhà quân sự thực thụ, hết sức thực tế, chi li, tỉ mỉ đến lạnh lùng trong tổ chức một chiến dịch, một trận đánh. Nhưng cũng lại là người nặng suy nghĩ trừu tượng, thích đi đến những kết luận khái quát lớn. Những con người như thế thì thường rất quyết liệt trong tư tưởng và hành động.

Sau này nhiều người phê bình tôi, thường bảo : Nguyễn Chí Trung là đồng tác giả của bản Đề dẫn. Và như thế thì tôi rất vô nguyên tắc : Trung không có chân trong Đảng đoàn, ngay trong Ban chấp hành Hội cũng không. Thật tình bảo Trung là đồng tác giả cũng không hoàn toàn sai đâu. Từ Campuchia trở về, anh còn quyết liệt hơn cả tôi đối với cái chúng tôi gọi là xu hướng chủ nghĩa tập thể bầy đàn. Anh không trực tiếp tham gia bản Đề dẫn, nhưng anh làm rõ rệt, mạnh mẽ hơn những ý tưởng của tôi.

Hai anh em ngồi bàn bạc đến khuya. Rồi Trung đi nằm. Tôi lại ngồi cắm cúi viết, đến sáng. Trung cũng không ngủ. Anh đang thao thức một khái quát lớn nào đó nữa để ngày mai anh sẽ nói với tôi, tôi biết.

Nguyễn Khải cũng hay đến. Trong thâm tâm, ở chỗ lắng đọng sâu kín nhất của anh, Khải là một nghệ sĩ thực thụ. Chỉ có điều, trong một số hoàn cảnh căng thẳng, nguy hiểm trực tiếp nào đó, nhiều khi anh không đủ sức đừng để cho những lo toan khác lấn át, che lấp cái chất sâu kín ấy đi. Hồi bấy giờ chưa có nguy hiểm trực tiếp. Anh tâm đắc với mọi ý tưởng của tôi, có khi còn giúp tôi mài dũa cho những ý tưởng ấy sắc nhọn hơn…

Bản Đề dẫn được viết rõ rệt nhưng vội vàng ấy, được thông qua trong tập thể Đảng đoàn cũng qua quýt vội vàng.

Nguyễn Đinh Thi nói đôi ý kiến phân vân dè dặt.

Tô Hoài ừ ào, không nói gì, và khi làm cái động tác gọi là thông qua, anh đi ra ngoài có việc gì đó, không có mặt.

Giang Nam bảo : mới, mới lắm.

Chế Lan Viên bắt tay tôi :

– Rất được.

Ngay khi thông qua, có đoạn tôi còn chưa viết xong, chỉ trình bày những ý chính, các anh trao đổi, góp ý kiến, tôi về mới ngồi viết tiếp.

Hội nghị được triệu tập cũng rất vội vàng, luộm thuộm, sai sót lung tung. Nhiều đảng viên không nhận được giấy mời. Vài người không phải là đảng viên cũng đến.

Không khí rất vui. Cái kiểu họp nhà văn bao giờ chả thế : anh em đến, gặp nhau là vui rồi. Uống bia, bù khú, tán đủ thứ chuyện.

Tôi đọc bản Đề dẫn. Mọi người đều ủng hộ. Cãi lại, chỉ có Vũ Đức Phúc. Anh ấy là một người “ bảo thủ chân chính ”, nhất quán, đến nay tôi vẫn tin thế.

Anh Nguyễn Văn Bổng nói riêng với tôi :

– Không phải ngẫu nhiên mà người ta cử cậu làm bí thư Đảng đoàn. Chưa hoàn chỉnh, nhưng được. Mở ra một cái gì mới.

Anh Xuân Diệu nói :

– Tớ thích nhất chỗ nói “ triết học ” về lịch sử phát triển con người. Có thế chứ.

Nguyên Hồng cười ha hả.

Hoàng Trung Thông vừa đi uống rượu ở đâu đó về, nói rất dài, lý luận nghiêm trang. Chúng tôi biết anh rồi : càng say càng lý luận nghiêm trang. Anh nói về nhu cầu phải giải phóng cho sáng tạo.

Nguyễn Đình Thi cũng phát biểu dài, nói uyên bác đông tây kim cổ. Và tôi không nhớ rõ dẫn dắt như thế nào, anh lại nói đến những kinh nghiệm đau đớn của văn học Xô Viết : Essénine tự sát, Maiakovski cũng tự sát…

Trong số những người hăng hái hơn cả, có Chế Lan Viên. Anh phản kích thông minh và cay độc những người bảo thủ, đòi cách chức Vũ Đức Phúc.

Anh em trẻ càng vui hơn. Họ tố khổ sự kìm chế sáng tạo.

Trước hội nghị vài ngày, tôi đã gửi bản Đề dẫn và giấy mời tới ông Tố Hữu. Ông đến vào ngày thứ hai của hội nghị. Chế Lan Viên ra đón tận cổng.

Ông bước vào, đi ngang đến chỗ Nguyên Hồng, nắm lấy chòm râu Nguyên Hồng :

– Râu thật hay râu giả ?

Nguyên Hồng chỉ cười. Nhưng không khí đột ngột không vui. Đám nhà văn vốn nhạy : có một cái gì khác thường rồi…




Cho tôi ngừng lại một chút để nói về Nguyên Hồng.

Vài năm sau, anh mất, rất đột ngột. Hôm trước, chúng tôi đang họp gì đó trên gác 65 Nguyễn Du, bỗng thấy Nguyên Hồng đẩy cửa bước vào. Vẫn như mọi lần, quần áo bà ba nâu lôi thôi bạc thếch, tóc bờm xờm, trông rất bẩn, chòm râu muối tiêu, mặt đỏ gay. Ý Nhi tả anh trong bài thơ rất đúng : tay ôm cặp bản thảo (có thể của người khác) to đùng. Nói oang oang :

– Họp hả ?… Mình mới ở Quảng Ninh đến, chấm giúp cuộc thi cho chúng nó dưới ấy, vui lắm. Thôi chào. Họp thì cứ họp tiếp đi. Chào !

Nói xong quay ra ngay. Tôi tưởng anh sang phòng khác, thế nào cũng còn ở lại Hội chơi một hai bữa như thường lệ, đi uống rượu với ông Nguyễn Tuân, ông Tô Hoài, tối lại về Hội, cởi trần nằm ngay trên chiếc bàn dài chỗ văn phòng Hội, mở quạt vù vù, ngủ chẳng màn chiếu gì cả.

Không ngờ, trưa họp xong, tôi xuống văn phòng hỏi, anh em bảo anh đã đi mất rồi. Anh đi khắp các phòng, sang cả nhà xuất bản Tác phẩm mới, cả báo Văn Nghệ, tạt qua mỗi chỗ một chút, chào tất, rồi đi. Sau này nghĩ lại, mới thấy hơi bất thường : sao anh lại đi chào tất cả thế ? Những lần trước có thế đâu. Nhưng lúc ấy chẳng ai để ý. Cũng thường thôi, chẳng có gì lạ.

Sáng hôm sau, chúng tôi đang họp Thường vụ Ban chấp hành, bỗng nhiên được điện. Vắn tắt có mấy chữ

“ Ông Nguyên Hồng mất. Lên ngay.

Ký tên : Bà Nguyên Hồng ”.

Tôi vội lấy xe đi ngay lên Nhã Nam. Cùng với Huy Hiền, con gái anh Nguyễn Huy Tưởng, bấy giờ là cán bộ văn phòng Hội. Tôi vẫn hi vọng anh ốm nặng đột ngột, chị Nguyên Hồng đánh điện thế để chúng tôi lên gấp. Nếu vậy sẽ dùng xe này chở anh về bệnh viện Hà Nội, mong còn kịp.

Lên đến nơi, hóa ra anh đã mất thật.

Anh nằm đó, trên chiếc giường mộc, giữa căn nhà xơ xác, thanh thản, yên tĩnh như một người ngủ say, chòm râu lốm đốm bạc, nước da vẫn còn hồng hào.

Chị Nguyên Hồng kể : sáng nay anh ra ngổi đắp lại cái vách đất nhà bếp bị chuột rúc, đang làm thì kêu mệt, chắc là bị trúng gió. Anh bảo chị trải chiếc chiếu, nằm ngay gốc khế trước sân, định nghỉ một lát rồi lại dậy làm tiếp. Nhưng càng lúc càng thấy khó thở. Chị dìu anh vào nhà, vừa kịp nằm xuống giường thì anh đi luôn. Lúc ấy chỉ có mỗi chị Nguyên Hồng. Người đi đánh điện cho chúng tôi chính là bà cụ hàng xóm sau nhà anh.

Tôi ra bưu điện Nhã Nam đánh điện gấp về Hà Nội, rồi quay lại bàn với gia đình việc tổ chức tang lễ.

Đến chiều tối, anh em các nơi đã kéo lên rất đông. Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn, Nhà xuất bản Văn học, Tác phẩm mới, báo Văn Nghệ, Uỷ ban tỉnh, huyện, Hội văn nghệ Hà Bắc… Cả Hải Phòng cũng lên.

Hội Nhà văn là cơ quan chủ quản chủ trì lễ tang. Tôi phải viết ngay bản điếu văn. Nhưng ở Nhã Nam lúc nào cũng đông đúc, ồn ào, bận rộn quá, e ngồi viết không yên. Tôi lấy xe, đi thẳng về Bắc Giang, mượn một phòng vắng ở cơ quan Hội văn nghệ tỉnh, ngồi viết suốt đêm. Chẳng có tư liệu gì trong tay, tôi viết theo trí nhớ và lòng yêu mến của tôi đối với anh.

Bấy giờ Hà Bắc đã in tập I tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế của Nguyên Hồng. Bản thảo tập II đang dở dang. Tôi viết rằng anh không phải người quê gốc Nhã Nam – Yên Thế. Anh vốn người Hải Phòng. Vậy mà hàng chục năm nay, anh bỏ Hà Nội, cũng không về Hải Phòng, mang cả gia đình vợ con lên định cư ở Nhã Nam – Yên Thế là để quyết cắm sâu vào mảnh đất lịch sử Hoàng Hoa Thám này mà viết quyển tiểu thuyết lớn của đời anh. Một nhà văn quyết sống và làm việc như thế, đẹp biết bao !…

Mờ sáng, viết xong, lại hộc tốc chạy lên Nhã Nam. Vừa kịp đọc điếu văn trong lễ tang.

Lễ tang anh Nguyên Hồng là lễ tang nhà quê, có cờ phướn đi trước, có phường bát âm ò í e, áo quan đặt trên chiêc xe tang thô sơ bốn bánh xe đạp, người kéo người đẩy, cả làng xóm và bạn bè rồng rắn kéo qua cánh đồng Tân Yên, ra an táng tại nghĩa trang chung của xã…

Một tuần sau, tại Hà Nội cũng tổ chức lễ tưởng niệm. Tôi đọc lại bài điếu văn hôm nọ. Không khí thương tiếc bùi ngùi.

Lúc ra về, Tô Hoài kéo tôi cùng đi, bảo :

– Điếu văn cậu viết được, nhưng có một điểm sai toét. Cậu bảo thằng cha Nguyên Hồng bỏ về cắm sâu đất Yên Thế là để viết Hoàng Hoa Thám. Nghe cảm động đấy, nhưng đếch phải. Nguyên do thế này kia…

Thì ra – chuyện này, chắc chắn Tô Hoài biết rõ hơn tôi nhiều – sau vụ đấu tranh Nhân Văn Giai Phẩm, cả Hội Nhà văn, nhất là báo Văn (tức là Văn Nghệ bây giờ) lại bị kiểm điểm một trận ra trò, từ trên xuống dưới, chẳng thiếu mặt anh nào, gọi là vụ “ Hậu Nhân Văn ”. Anh nào cũng ít nhiều bị dính.

– Cậu có biết thằng nào nhận khuyết điểm nhanh nhất, thành khẩn, sâu sắc nhất không ? Đố đấy !

Tôi chịu.

Tô Hoài cười :

Ð Nguyễn Xuân Sanh !

Tôi phục Tô Hoài. Đúng quá! Tất cả các vị khác cọ quậy đôi chút, rồi cũng nhận hết, tất nhiên nhiều vị nhận qua quýt cho xong. Nhận rồi, phải đi thực tế, cải tạo tư tưởng. Đến như Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Văn Cao… cũng phải kéo lên làm lại tư tưởng mãi tận nông trường Mộc Châu. Chính nhờ cái đận ấy mà về sau Nguyễn Tuân viết được Sông Đà, Nguyễn Huy Tưởng thì có Mười năm…

Riêng mỗi mình Nguyên Hồng, anh dứt khoát tuyên bố :

– Tớ đếch có sai lầm khuyết điểm gì hết ! Không nhận gì hết !

Và anh vứt tất cả, quyết từ nay không dính dấp bất cứ nhiệm vụ chức tước gì với cái “ Hội nhà văn của các ông ” nữa. Anh vứt sạch mọi thứ ở Hà Nội, cả tem phiếu bao cấp là thứ sinh tử ngày ấy, về Hải Phòng cũng chả thèm, kéo toàn bộ vợ con gia đình đang nheo nhóc lên rừng Nhã Nam – Yên Thế mà ở,… cho đến chết.

Ở Nhã Nam, xã Tân Yên, có một ngọn đồi, nguyên xưa là đồi hoang, toàn sim dại, lau sậy, gọi là Đồi Cháy hay Cầu Đen. Hồi chống Pháp, một bộ phận Văn nghệ Trung ương được đưa về đóng ở đấy. Phát hoang, làm nhà, sinh sống và viết. Có cụ Ngô Tất Tố, họa sĩ Tạ Thúc Bình, Kim Lân, Nguyên Hồng… Chính họ là những vị tiên hiền đầu tiên lập ra cái ấp này, sau dân mới dần dần kéo lên ở ngày càng đông, thành làng, gọi là ấp Cầu Đen hay ấp Đồi Cháy. Cụ Tố mất ở đấy, thời bắt đầu cải cách ruộng đất.

Hòa bình, các gia đình văn nghệ sĩ lần lượt trở về Hà Nội.

Nguyên Hồng, sau Nhân văn Giai phẩm tuyên bố “ Tớ đếch sai lầm khuyết điểm gì hết ! ” và anh quyết trở lại cái ấp kháng chiến ngày xưa của anh. Xa xôi, hoang vắng, sống với dân quê, hoàn toàn trở thành một dân quê thực thụ, xa lánh hết mọi cuộc đấu tranh linh tinh, vô nghĩa trong cái gọi là làng văn. Nối anh với thế giới bên ngoài chỉ còn cái xe đạp cọc cạch, cọc cạch đạp từ Nhã Nam về Hà Nội, cọc cạch đạp từ Hải Phòng ra Quảng Ninh. Anh đi giúp anh em trẻ viết, bày vẽ, đọc của anh em mới tập tò vào nghề, chấm bài… và uống rượu với anh em.

Đêm tôi ngồi viết điếu văn trong văn phòng mượn tạm của Hội văn nghệ Hà Bắc, thấy có một cái xe đạp rất tàng dựng bên tường : chiếc xe nổi tiếng của Nguyên Hồng. Chuyến ấy anh gửi xe đạp tại Hội Hà Bắc, đi xe đò về Nhã Nam. Chắc anh đã cảm thấy trong người có gì hơi khác thường…

Nguyên Hồng là vậy.



 HỒI KÝ CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC 
(KỲ 4)


Tố Hữu vừa bước vào phòng họp hội nghị đảng viên, liền nắm lấy chùm râu Nguyên Hồng hỏi :

– Râu thật hay giả ?

Hay là ông ta vẫn chưa chịu quên được câu tuyên bố thẳng thắn ngang tàng của Nguyên Hồng mấy chục năm trước ?

Hội nghị đảng viên họp ở 51 Trần Hưng Đạo, vẫn trong cái căn phòng lát gỗ lịch sử ấy. Phòng họp có một cái bục gỗ.

Tố Hữu bước tới bục, đứng một lúc, rồi bắt đầu nói. Câu đầu tiên :

– Cái bục này đối với tôi là hơi cao đấy. Đối với anh Nguyên Ngọc, chắc còn cao hơn.

Vậy là tôi hiểu rồi.

Ông nói khoảng ba giờ liền. Tôi không nhớ hết. Đại ý bản Đề dẫn bị phê phán kịch liệt. Nó chệch hướng. Nó có mùi vị tự do tư sản. Nó cổ vũ cho tư tưởng cá nhân tư sản.

– Nghe nói có người nhắc đến chuyện nhà văn tự sát bên Liên Xô. Ở đây, ai muốn, thử tự sát coi ?…

Ông nói về sự ưu việt của chủ nghĩa tập thể. Ông kể rằng ông vừa đi một chuyến Cao Bằng, đến một thôn xóm nào đó, xa lắm, gặp một anh giữ máy bơm nước hợp tác xã. Anh ấy văn hóa i tờ, kỹ thuật chẳng học hành gì, nhưng bao nhiêu năm nay cái máy vẫn chạy ngon lành. Đó là cái gì ? Vì sao ? Tập thể có thể làm nên những điều kỳ diệu như vậy đấy. Con người mới đâu ? Đi đi, rồi sẽ thấy…

… Hội nghị lặng như tờ. Không biết ai đó ngồi phía sau tôi, thì thào :

– Phen này bỏ mẹ thằng Ngọc.

Tôi cũng im lặng. Về sau Nguyễn Khải bảo : lúc đó mình nhìn thằng bạn, thấy mặt nó cứ lầm lì. Cái thằng !

… Cuối buổi, tất nhiên tôi phải thay mặt anh em nói mấy lời. Tôi nói cảm ơn anh Tố Hữu về những ý kiến của anh, và chúng tôi sẽ nghiêm túc nghiên cứu.

Chế Lan Viên tiễn Tố Hữu ra cổng.

Nguyễn Trọng Oánh đèo xe đạp tôi về. Oánh bảo :

– Không thể chịu được cái chuyện anh máy nước hợp tác xã của ông Tố Hữu. Kỳ không thể chịu được !

Tối hôm đó, chúng tôi lại ngồi với nhau ở 4 Lý Nam Đế, trong phòng ngày xưa Nguyễn Thi thường nằm bò ra sàn, cái khăn ướt quấn chặt trên đầu, hì hục viết.

Có ba anh em : Nguyễn Khải, Giang Nam và tôi. Cũng lạ, chúng tôi vẫn bình tĩnh tính chuyện ngày mai. Chúng tôi vẫn tin rằng ý kiến của chúng tôi đúng, có thể có nhiều sơ hở, nhưng cơ bản là đúng, sơ hở thì điều chỉnh lại, chả sao.

Bất ngờ Chế Lan Viên đến. Hình như anh đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo lên tận đây. Ngồi một lúc, anh bảo :

– Khi chiều, mình đưa anh Tố Hữu ra cổng, anh ấy dặn : Nói thế thôi, chứ phải bảo vệ thằng Ngọc để nó làm việc.

Chúng tôi pha trà, mời anh uống. Uống xong chén nước, anh đứng dậy, nói :

– Thôi bây giờ thế này, để mình dẫn cậu Ngọc lên xin lỗi anh Tố Hữu. Đi với mình.

Nguyễn Khải, Giang Nam không nói gì.

Còn tôi, thực tình lúc đó tôi giận lắm.

– Cảm ơn anh – tôi nói – nhưng… một là, tôi thấy tôi chẳng có gì phải xin lỗi ông Tố Hữu. Hai nữa, tôi cũng là người lớn rồi, anh ạ, cần đi, tôi đi một mình cũng được. Cảm ơn anh.

Chế Lan Viên hằm hằm bỏ ra về.

Chúng tôi còn họp tiếp một ngày nữa. Cuối cùng, là người chủ trì hội nghị, tôi phát biểu kết luận. Tôi nói :

– Hội nghị chúng ta cơ bản nhất trí với bản Đề dẫn của Đảng đoàn…

Ra về, nhiều anh em bắt tay tôi. Người bảo :

– Được lắm !

Người bảo :

– Mày thật quá quắt. Chết, con ạ.

Cũng có người quay mặt đi.

*

Chúng tôi vẫn làm việc, nhưng công việc như cứ rã dần ra. Không khí nặng nề.

Có hôm Nguyễn Khải nói :

- Mình tưởng cậu có ông Chu Huy Mân, ông Võ Chí Công sau lưng cậu chứ. Hóa ra…

- Không, tôi chẳng có ai sau lưng cả. Tự mình chịu trách nhiệm.

Báo Văn Nghệ lại đăng cái bài “ hiện thực phải đạo” của Hoàng Ngọc Hiến 61. Giang Nam, tổng biên tập, có đưa cho tôi xem trước, hỏi ý kiến. Tôi nói :

– Tôi thấy bài anh Hiến có ý hay, nhưng không chặt. Có chỗ anh phiến diện giải thích văn học trực tiếp từ cơ sở kinh tế – xã hội, theo tôi, không ổn. Nhưng đó là ý kiến riêng của tôi. Tôi đề nghị nguyên tắc làm việc thế này : Đảng đoàn không duyệt từng bài báo. Tổng biên tập có thể hỏi ý kiến, tham khảo, nhưng đăng hay không, tự anh phải quyết định.

Nhiều người bảo bài viết của anh Hiến là “ đồng loã, bố trí hợp đồng ” với bản Đề dẫn của tôi. Hoàn toàn không phải như vậy. Có lẽ hai chúng tôi gần nhau ở một số ý tưởng nào đó, thế thôi.

Tôi lại vụng về trong quan hệ với Nguyễn Khải. Có lần anh hỏi tôi :

– Hay là mình chuyển sang bên Hội, ra khỏi quân đội luôn.

Tình hình biên chế của cơ quan Hội đang rất gay go. Quỹ lương nặng quá. Người thừa nhiều. Tôi nói :

– Để tính đã, ông ạ. Biên chế còn căng quá.

Khải giận tôi. Ít lâu sau, anh chuyển hẳn vào Sài Gòn.

Trong Đảng đoàn, Chế Lan Viên là người công kích tôi dữ dội hơn cả. Anh ở Sài Gòn, lâu lâu mới ra Hà Nội, đi đây đi đó nắm tình hình, lên chỗ Tố Hữu thăm dò… Rồi đến kỳ họp, tấn công tôi ráo riết. Anh viết cả bài đánh tôi trên báo Văn Nghệ. Giang Nam hỏi tôi :

– Có đăng không ?

Tôi nói :

– Tùy anh. Nhưng theo tôi, cứ đăng. Chẳng sao đâu.

Những ngày ấy, nhiều lúc tôi thấy cô đơn vô cùng. Đi làm về, mệt nhoài, căng thẳng, chẳng biết nói với ai.

Tôi cám ơn anh Tô Hoài. Anh vẫn làm việc với tôi, chia sẻ bao nhiêu việc linh tinh phức tạp hàng ngày. Anh làm việc chu đáo, tận tụy và nhẹ nhàng. Chỉ thường vắng mặt, ốm đau hay đi đâu đó, những khi có cuộc đấu đá căng.

Cũng có nhiều người khuyên tôi :

– Cậu nên gặp ông Tố Hữu một bữa. Gặp, nói đôi lời, lại đâu vào đấy cả thôi. Cậu tự ái lớn quá.

Tôi không đi. Vì thấy chẳng có gì để nói.

Từ ấy, mãi cho đến nay, tôi chỉ đến nhà Tố Hữu một lần. Ấy là lần Phan Tứ ốm nặng.

Phan Tứ ở Đà Nẵng, bị đau quằn quại kéo dài ở bụng suốt hàng mấy năm. Bệnh viện C Đà Nẵng chạy chữa đủ cách, không bớt. Lúc nghi tắc ống dẫn mật, lúc nghi gan, lúc bảo có thể có chuyện gì đó ở thận… Rất may bấy giờ có một hội nghị toàn quốc ngành y họp ở Đà Nẵng. Các anh ở bệnh viện C nhờ bác sĩ Đặng Văn Chung xem hộ. Đó là vị bác sĩ chẩn đoán giỏi số một ở nước ta. Nghe bảo ông không cần dùng đến cả tai nghe, chỉ sờ nắn qua ở bụng, nói ngay :

– Chỉ có thể là ở tuỵ. Ra Hà Nội ngay đi !

Tứ ra bệnh viện Việt Xô Hà Nội. Tôi vào gặp anh Điệng, phó chủ nhiệm khoa ngoại, là người quen cũ. Tôi bảo :

– Tứ là bạn tôi, tôi lại là người có trách nhiệm ở Hội, bệnh tình anh ấy thế nào, anh nói thực với tôi đi.

Điệng hỏi :

- Ông có quen ông nào thật to không ?

- Cũng có thể.

- Vậy nhờ ông ấy nói hộ một tiếng với ông Tôn Thất Tùng bên Việt Đức sang xem cho một chút, có ý kiến, bọn mình làm sẽ chắc tay hơn.

Đêm ấy tôi đến nhà Tố Hữu, kể tình hình Phan Tứ, và nhờ ông nói hộ với bác sĩ Tôn Thất Tùng. Tố Hữu rất nhiệt tình.

– Cậu ngồi đây một lát, mình gọi điện thoại cho anh Tùng ngay.

Ông vào phòng trong, gọi điện, trở ra, bảo :

– Được rồi.

Sáng hôm sau, bác sĩ Tôn Thất Tùng bỏ một phiên họp Quốc hội, vào Việt Xô xem cho Phan Tứ. Về sau chính ông mổ và điều trị cho anh.

Chuyện là vậy.


Tôi gắng gượng hết sức làm mọi việc còn có thể làm ở Hội, những việc mà tôi tâm huyết : giúp củng cố và phát triển Trường Nguyễn Du, lo cho những anh em trẻ có triển vọng, lo tờ Văn học nước ngoài, củng cố báo Văn Nghệ (anh Nguyễn Văn Bổng lại trở về thay Giang Nam), làm trại sáng tác ở Huế, ở Vũng Tàu v.v…

Nhưng cái Đảng đoàn cứ rã dần ra. Nó rã từ bên trong. Đến triệu tập họp cũng không được: Chế Lan Viên, Anh Đức không thèm ra.

Cho đến trước Đại hội Nhà văn lần thứ III, lúc này do Hà Xuân Trường trực tiếp chỉ đạo, thì nó thực tế bị giải thể lặng lẽ ; không hề có một quyết định nào của Ban bí thư là tổ chức đã quyết định lập ra nó.

Đại hội III họp tháng 9 năm 1983. Lần ấy Nguyễn Duy có đến phỏng vấn cụ Nguyễn Tuân. Cụ bảo:

– Mình đã dự mấy cái Đại hội nhưng chưa thấy Đại hội nào tợn như cái này.

Trong Đại hội tôi vẫn được bầu vào Ban chấp hành, nhưng không trực tiếp làm công tác gì ở Hội nữa. “ Được giải phóng đi sáng tác. ”

Lại bắt đầu một thời kỳ lêu lổng lang thang rất thú vị. Cái Đề dẫn đã làm khốn đốn tác giả của nó gây xao động một thời, đến nay tôi chẳng giữ được bản lưu nào trong tay 7. Bản cuối cùng, tôi gửi cho ông Lê Đức Thọ theo yêu cầu của ông, sau không thấy gửi trả lại.

Nguyên là đầu 1981, một hôm tôi đang họp Quốc hội thì được điện của văn phòng ông Lê Đức Thọ gọi: 8 giờ sáng mai đến gặp “anh Sáu” tại 6 Nguyễn Cảnh Chân.

Ông Trường Chinh, Chủ tịch Quốc hội, rất nghiêm. Ông tuyên bố:

– Đối với đại biểu Quốc hội thì trong khi Quốc hội đang họp, không có gì quan trọng hơn là họp Quốc hội.

Có bữa ông Lê Hiến Mai, bấy giờ là bộ trưởng thương binh xã hội, đến chỗ thư ký đoàn Quốc hội, nhờ tôi thưa hộ với Cụ một tiếng, xin nghỉ một buổi họp.

Cụ hỏi:

– Việc gì?

Tôi bịa ra một việc gì đó quan trọng lắm.

– Quan trọng hơn cả Quốc hội à?

Nhưng rồi Cụ cho phép.

Tôi xin phép nghỉ một buổi. Đúng 8 giờ sáng có mặt ở 6 Nguyễn Cảnh Chân. Anh Ngọc, thư ký riêng của Cụ ở đấy, bảo:

– Anh Sáu còn ăn sáng. Anh ngồi chờ một lúc.

Tôi ngồi chờ hai mươi phút. Trong hai mươi phút ấy, lần đầu tiên tôi được chứng kiến sự vận hành của cái guồng máy ở cấp tối cao. Tôi ngồi nghe anh Ngọc gọi điện thoại liên tục đến hơn chục nơi khác nhau, các Bộ của Nhà nước, các Ban của Đảng, các cơ quan và thủ trưởng cao nhất, nơi nào cũng nói nguyên một câu : “ Vấn đề các anh thỉnh thị hôm qua, ý kiến anh Sáu như sau…”.

Ra trong một đêm hôm qua, con người tôi sắp được gặp, “ anh Sáu ”, đã giải quyết và cho chỉ thị về hàng chục công việc hết sức khác nhau, toàn những việc trọng đại, liên quan đến vận mệnh quốc gia. Bộ óc ấy làm việc suốt đêm qua, bây giờ mệnh lệnh được ban ra qua cái điện thoại của người thư ký này.

Ngồi đó hai mươi phút, tôi có cảm giác được nghe tận tai, thấy tận mắt cái bánh xe vận mệnh đất nước đang quay, lịch sử đang đi, rõ ràng…

Ông Lê Đức Thọ hỏi tôi :

– Đầu đuôi thế nào, anh kể xem ?

Tôi kể hết đầu đuôi. Nghe xong, ông bảo :

Tiểu sử của anh, tôi có biết. Anh là người có kinh nghiệm, nhưng chủ yếu là kinh nghiệm chiến tranh, chiến trường. Bây giờ anh về lãnh đạo Hội Nhà văn. Ở đấy là một cái bụi gai, anh chưa kinh nghiệm gì, vấp là phải. Hôm nay tôi chỉ có thể nói với anh, tôi xác nhận ba điều : anh là người trung thực, anh có tâm huyết, và là người làm việc. Ba điều đó, có thể khẳng định. Còn chuyện quan điểm, tôi chưa đọc bản Đề dẫn, anh về gửi cho tôi một bản, tôi sẽ có ý kiến sau. Cũng phải còn trao đổi lại với anh Tố Hữu nữa.


Tôi về gặp Trà Giang, nghệ sĩ điện ảnh, bấy giờ cũng là đại biểu Quốc hội. Cô lo lắng :

– Thế nào anh ?

Tôi bảo :

– Cơ bản là được. Nhưng còn một cái cơ bản hơn nữa, quan điểm, Cụ chưa có ý kiến.

Trà Giang cười :

– Đáng kiếp, ai bảo đi làm lãnh đạo

Nguyễn Trọng Oánh ngày nào cũng đến tôi. Anh rất ít nói, chỉ hay thở dài. Vậy mà quyết liệt đáo để. Anh viết thư xin gặp ông Lê Đức Thọ. Khi được gặp, anh nói thẳng với ông :

– Nguyên Ngọc đúng. Tố Hữu sai.

Anh về bảo tôi :

– Mình nói vậy, mà không thấy ông Sáu phản ứng gì cả. Không biết đằng nào mà lần.

Riêng tôi, tôi biết những cuộc gặp gỡ ấy chẳng đi đến đâu. Tự do, kể cả tự do sáng tác, không phải là thứ có thể đi cầu xin. Cuộc sống còn phải vận động, theo những qui luật nhọc nhằn của nó.

Tôi biết công việc ở Hội lùng nhùng, chẳng ra sao, ngày càng rời rã. Nhưng tôi cũng biết, cũng tin Hội nhà văn không đồng nghĩa với nền văn học. Cái Hội chúng tôi có bệ rạc đến đâu, mặc, đời sống văn học vẫn đi theo con đường của nó, có thể càng thêm vất vả hơn, nhưng chẳng gì ngăn được.

Điều ấy đúng với cả từng nhà văn.

Nguyễn Khải bỏ vào Sài Gòn, anh không cùng tôi chèo chống tiếp những ngày sóng gió. Nhưng anh không trát bùn trên “ mặt trận ” chính của anh: sáng tác. Cha và con, và… khiến tôi hiểu và vẫn yêu Nguyễn Khải, dầu đôi khi, cô đơn quá, tôi cũng có giận anh ít nhiều.

Nguyễn Minh Châu chẳng nói chẳng rằng. Trong suốt cái cuộc cãi vã vụ Đề dẫn ấy anh hầu như hoàn toàn đứng ngoài. Đôi khi hơi cười mỉa. Nhưng chính trong những ngày ấy, anh vật vã tìm một con đường mới, trước hết cho chính anh, và như sau này ta sẽ thấy, cho cả chúng ta, cho bước chuyển khó nhọc mà quyết liệt của văn học.

Và bao nhiêu anh chị em trẻ, ở khắp nơi. Chưa rõ rệt có một cái gì, song đồng thời lại cũng rõ ràng không thể như trước nữa…

Tôi có một người quen, là một nhà phê bình trẻ rất uy tín ở Liên Xô, Evguéni Sidorov. Anh là giám đốc học viện văn học Gorki. Một nhà phê bình uyên bác, táo bạo và tinh tế, là người đã phát hiện Evtouchenko. Anh sang Hà Nội, hỏi thăm tôi, anh em bảo tôi đã vào Huế. Đến Huế hỏi, anh em bảo tôi vừa đi Sài Gòn. Vào Sài Gòn, anh em lại bảo tôi đi Cần Thơ rồi. Sidorov nhắn xuống Cần Thơ :

– Về ngay, muốn gặp một chút.

Tôi mượn xe của Văn nghệ Hậu Giang, chạy lên. Ôm hôn nhau ba lần, đúng kiểu Nga.

Sidorov ghé tai :

- Nghe nói cậu bị đi đày, phải không ?

- Tầm bậy. Làm gì có. Mình đang đi du lịch.

Tối, chúng tôi ngồi uống cognac với nhau trên tầng cao nhất của khách sạn Độc Lập Sài Gòn.

Tôi hỏi :

– Ông thấy văn học chúng tôi thế nào ?

Sidorov bỗng nghiêm trang, anh đặt cốc rượu xuống bàn :

- Các anh có một nền văn học, thật đấy. Không nói nịnh đâu. Nhưng nó… ở ngoài Hội nhà văn.

- Uống đi – tôi bảo – Đến đáy nhé… Nhưng mà này, hỏi thêm một câu : như vậy là tốt hay là không tốt ?

- Ông cật vấn tôi nhiều quá, chủ nhà thế là hơi bất lịch sự đấy.

Đêm ấy tôi uống hơi nhiều. Ngủ lại với Sidorov ở khách sạn Độc Lập. Gần sáng tỉnh dậy nhìn ra mặt sông Sài Gòn còn mờ sương, sau lớp cửa kính càng hư vô.

Sidorov hỏi :

- Sao dậy sớm thế ?

- Mình đi đây.

- Đi đâu ?

- Cần Thơ.

- Có người yêu dưới ấy à ?

- Cũng có thể.

- Thằng quỷ, thế thì đi đi. Chào !

Những ngày ấy sao lạ thế. Tôi vừa như một kẻ thất nghiệp, thừa rỗi rãi, lang thang, vừa lại cứ nôn nóng thế nào ấy trong người, không yên. Chờ đợi một cái gì đó sẽ đến, nhất định phải đến chứ. Khó nhọc lắm, nhưng tất yếu, đáng chờ, đáng tin.

Tôi không bao giờ nghĩ bản Đề dẫn luộm thuộm nọ đã mở ra một cái gì cho văn học, cho người viết, gợi ý cho một sự bừng nở mới.

Có lẽ trái lại mới đúng, chính sự trăn trở âm thầm trong hàng trăm người cầm bút ngày ấy đã gợi ý cho nó. May ra thì ưu điểm chủ yếu của nó, nếu có, là nó đã ít nhiều đánh hơi được “ cái gì đó ”. Và lên tiếng báo hiệu.


 HỒI KÝ CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC 

(KỲ 5)


(Báo VN đình bản liền ba số, vì ế quá, không còn tiền mua giấy và trả nhà in. Báo là kiểu “ sự nghiệp có thu ”, nghĩa là được nhà nước trả lương, nhưng còn mọi thứ khác phải lấy tiền bán báo mà làm. Đào Vũ, quyền Tổng biên tập, chủ trương giữ một cái marge (một cáỉ lề) an toàn tuyệt đối, anh tuyên bố “ chỉ đá bóng giữa sân, tuyệt đối không ra biên ”. Khi báo hết tiền, anh gửi một cái công văn lên Thường vụ Hội Nhà văn và Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương báo tin là báo phải đóng cửa và bỏ đi Sài Gòn. Văn nghệ dẫu sao cũng là tờ báo lớn trong cả nước, đột nhiên đình bản, dễ khiến dư luận trong ngoài nước thắc mắc nên “trên” rất lo, nhiều lần giục Thường vụ Hội Nhà văn tìm gấp Tổng biên tập mới. Thường vụ lúng túng. Một hôm Nguyễn Minh Châu hồi ấy cũng là ủy viên Ban Chấp hành hội, đến chơi ở 65 Nguyễn Du, nói với Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu : “… Hay ta mời anh Ngọc về làm báo. Anh ấy từng làm báo trong cả hai cuộc chiến tranh…”. Gặp anh Trần Độ, Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu báo lại ý kiến Nguyễn Minh Châu. Anh Độ bảo vậy các cậu về làm công văn đề nghị chính thức đi. Nhưng rồi hai anh về lại phân vân, chần chừ. Anh Độ cho người xuống giục. Cuối cùng mới có công văn chính thức của Thường vụ Hội. Tôi về làm Tổng biên tập Văn nghệ từ tháng 6-1987. Được đúng 1 năm 6 tháng. Đến cuối năm 1988 thì quan hệ giữa báo và Thường vụ Hội căng thẳng cao độ, bởi Thường vụ cũng chỉ muốn “ đá bóng giữa sân ”, giữ marge an toàn rộng, còn tôi thì quyết “ đưa bóng ra biên”, đối mặt trực tiếp với đời sống phức tạp… Cuối cùng quan hệ đổ vỡ…

Tôi muốn dành một chương dài nói riêng về “vụ báo Văn nghệ”. Xin hẹn…)

*


Đầu tháng 12-1988, lúc quan hệ giữa báo Văn Nghệ và Ban thư ký Hội nhà văn đã rất căng thẳng, những động tác cuối cùng đang được ráo riết tiến hành để cách chức Tổng biên tập báo (được gọi lịch sự là “ thuyên chuyển công tác ”), trong một cuộc họp giữa Ban biên tập chúng tôi và thường trực Ban thư ký, chị Ngọc Trai bấy giờ là phó tổng biên tập nói :

– Các anh nên chú ý : tờ báo bây giờ đang rất có uy tín, số lượng lên hàng chục vạn, nó có hàng triệu độc giả.

Chính Hữu, phó tổng thư ký trực, trả lời :

– Đừng vin vào số lượng. Một cô gái cởi truồng đứng ở ngã tư đường, cũng khối người xúm lại xem.

Hôm ấy trời rét, tôi đi giày da. Ở chiến trường những phen ác liệt, tôi vẫn được tiếng là người bình tĩnh, trong quan hệ hàng ngày cũng được xem là biết tự kìm chế. Nhưng lần này không nén được mình nữa, tôi đứng dậy, nện gót giầy đùng đùng xuống sàn gỗ của phòng bầu dục gác hai nhà 65 Nguyễn Du, chỉ mặt anh ta, mắng lại.

Nguyễn Đình Thi can :

– Anh Chính Hữu có lỡ lời, thôi anh Ngọc đừng giận quá.

Chính Hữu nói mấy lời xin lỗi gì đó.

Tôi ngồi xuống, cố kìm mình lại. Cuộc bàn bạc lại tiếp tục. Bàn cách sắp đặt cuộc ra đi của tôi như thế nào !

Riêng tôi, giận xong, lại buồn. Buồn nhiều hơn giận. Tôi biết Nguyễn Đinh Thi cũng nghĩ về tờ báo chẳng khác gì Chính Hữu, nhưng nhẹ nhàng khôn khéo hơn, anh can. Gần mười năm trước, vụ đổ vỡ Đảng đoàn Hội nhà văn, anh cũng từng làm vai trò ấy: người can gián, điều hòa. Còn Chính Hữu thật thà hơn, anh nói thẳng ý nghĩ anh ra.

Chính Hữu với tôi cũng có thể gọi là bạn quen đã rất lâu năm. Hồi 1956-57 đến 1962, cùng nhà 4 Lý Nam Đế, Chính Hữu ở phòng Văn nghệ, tôi ở tạp chí Văn nghệ Quân đội. Cái tập thể 4 Lý Nam Đế một thời trẻ trung, ấm áp, sống, làm việc, đùa nghịch vô tư. Chúng tôi từng đồng lõa với nhau làm bao nhiêu vụ yêu đương nghịch ngợm và man dại.

Ở chiến trường khoảng 1967-68 tôi viết thư cho anh Văn Phác bấy giờ cũng đã vào Nam Bộ : “ Hết chiến tranh rồi, còn sống, thế nào cũng cùng trở về 4 Lý Nam Đế, anh nhé ! ” Tôi cũng hay viết thư ra Hà Nội cho Chính Hữu lúc này đã làm trưởng phòng Văn nghệ rồi Cục phó Cục Văn hóa Quân đội, nhắc những kỷ niệm xưa, và nhiều lần giục anh chi viện thêm lực lượng viết trẻ vào cho chúng tôi. Cũng đôi khi bực anh, chỉ yêu cầu có thế mà anh chần chừ quá, mãi 1971 mới gửi cho chúng tôi mỗi Nguyễn Trí Huân.

Sau 1975, trở ra Hà Nội, tôi gặp lại một Chính Hữu đã khác, chậm chạp, bệ vệ và công chức hơn. Đôi lần làm việc đã có vài va chạm nhỏ, tôi muốn nhanh, gọn, dứt khoát, anh do dự, cân nhắc, “ nghiên cứu ” mãi… Nhưng cũng chưa có gì rạn nứt. Cái quán tính của niềm hăng say trong chiến trường còn mạnh. Ngày tôi cưới vợ, cả nhà 4 Lý Nam Đế xúm lại lo cho. Chính Hữu đứng làm chủ hôn. Đám cưới rất buồn cười, mượn hội trường Ban Thống nhất trung ương ở Thuỵ Khuê, trên tường còn treo nguyên đầy đủ ảnh Mác, Ănghen, Lênin và cụ Hồ, chỉ cất đi mỗi ông Stalin…

Hình như cho đến vụ Đề dẫn thì mọi sự mới rõ rệt. Trên tạp chí Văn nghệ Quân đội lúc bấy giờ chỉ có hai bài phê phán kịch liệt Đề dẫn, cả hai đều do Chính Hữu viết.

Sau Đại hội Nhà văn lần thứ III, Chính Hữu được điều động từ quân đội ra làm Phó tổng thư ký trực của Hội (cùng ra với Hữu Mai) để chấn chỉnh cái Hội đã bị tôi làm hư hỏng.

Đến chuyện báo Văn nghệ thì Chính Hữu trở thành người cứng rắn nhất trong Ban Thường vụ. Tôi cũng là loại bướng, không khí ngày càng căng. Có lần anh gửi cho tôi bài phát biểu của Bondarev, kèm theo mấy chữ bảo báo nên đăng, anh cho đó là một bài thể hiện quan điểm đúng đắn. Tôi trả lời : nếu là chỉ thị của Ban Thường vụ phải đăng thì xin có công văn, chữ ký và đóng dấu rõ ràng. Mấy chữ viết thư tay, tôi sẽ coi như một lời khuyên, đăng hay không là quyền quyết định và trách nhiệm của tổng biên tập.

Các anh bảo tờ báo là tiếng nói của Ban Thường vụ. Tôi chủ trương : nó chịu trách nhiệm trước Ban thư ký, Ban chấp hành và trước pháp luật, nhưng nó là tiếng nói của cả nền văn học. Nó có tính độc lập tương đối của nó. Và chính tổng biên tập chịu trách nhiệm về cái phần tính độc lập tương đối đó. Báo Văn nghệ không phải là công báo của Hội nhà văn. Nếu không, cần có tổng biên tập làm gì ?

Chính cuộc va chạm đó dẫn đến việc thường trực Ban thư ký gửi một “ tờ trình ” gay gắt lên Ban bí thư Trung ương Đảng tố cáo báo Văn nghệ đã thoát khỏi sự kiểm soát của Ban thư ký Hội nhà văn, đã lọt vào bàn tay điều khiển của Ban văn hóa văn nghệ, của anh Trần Độ. Ban thư ký tuyên bố không chịu trách nhiệm về tờ báo nữa. Dưới cái tờ trình nổi tiếng ấy, có chữ ký của ba người : Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Nguyễn Khải.

Về việc này, có mấy chuyện buồn cười.

Anh Hoài Vũ là người làm việc rất lâu năm ở báo Văn nghệ, qua đến bốn, năm đời tổng biên tập, bảo :

– Thì xưa nay có bao giờ Ban thư ký “ chỉ đạo ” tờ báo đâu. Chẳng hề nói đến bao giờ. Sao bây giờ lại đòi chỉ đạo ráo riết thế !

Trong hội nghị Ban chấp hành tháng 9-1988, Nguyễn Đình Thi yêu cầu Ban chấp hành biểu quyết Ban chấp hành nhất trí tán thành nội dung Tờ trình đã gửi lên Ban bí thư từ tháng 6-1988.

Anh Nguyễn Văn Bổng không chịu. Anh bảo :

– Tôi có đồng ý cái tờ trình ấy đâu mà biểu quyết nhất trí !

Bàn cãi lung tung một lúc, Nguyễn Đình Thi lại nảy ra sáng kiến :

– Vậy đề nghị hội nghị biểu quyết tán thành rằng Ban thư ký có quyền gửi một tờ trình lên Ban bí thư Trung ương.

Ơ, tôi ngạc nhiên. Gửi một tờ trình thì ai mà chẳng có quyền. Tôi cũng giơ tay nè. Quay lại, thấy Nguyễn Khoa Điềm vẫn ngồi im, nhất định không chịu giơ tay. Điềm nói :

– Tôi cũng là uỷ viên Ban thư ký. Nếu là tờ trình của Ban thư ký thì chỉ cần Tổng thư ký hoặc một phó thay mặt Tổng thư ký ký. Đằng này có ba người ký. Vậy là thế nào ? Vậy đấy không phải là một tờ trình của Ban thư ký. Đấy là một hành động có tính chất bè phái của ba người ấy.

Tôi phục lăn Nguyễn Khoa Điềm. Anh là người làm chính trị thật. Giỏi thế. Tôi vẫn chỉ là cái anh nghệ sĩ tùy tiện, lang thang.

Nguyễn Minh Châu, lúc này đã ốm nặng lắm, bảo tôi :

– Có cái tờ trình đó là để đi đến diệt tờ báo đấy. Cậu chuẩn bị tinh thần đi là vừa. Nhưng cứ phải giữ vững cho đến cùng, cho đến phút chót. Số cậu khổ đấy.

Châu nói đến cái số khổ của tôi. Anh không hề nói đến cái số của anh. Những ngày ấy, căn bệnh hiểm nghèo đã phá vỡ gần hết hồng huyết cầu của anh.

Cũng về chuyện cái tờ trình đó, đâu vào khoảng tháng 10-1988, một hôm ngồi với Nguyễn Khải ở 43 Đồng Khởi Sài Gòn, nói chuyện gần suốt buổi, Khải bảo tôi :

– Nhiều suy nghĩ của Ngọc, mình tán thành cả, Ngọc cũng biết rồi. Nhưng việc ông để cho tờ báo đi theo con đường ấy thì mình rất lo. Mình lo có những người, những lực lượng muốn dùng tờ báo, dùng cả cái Hội của ta, cho những mục đích chính trị riêng của họ. Rất nguy hiểm.

Tôi nói :

– Thôi được, những suy nghĩ, những mối lo của từng người trong chúng ta có thể khác nhau. Nhưng trong quan hệ bạn bè và quan hệ cùng làm việc với nhau, có một cái ranh giới không thể vượt qua được, nếu đã cùng tin nhau, cùng làm việc với nhau vì một ý hướng chung. Ông ký tên dưới cái tờ trình nọ là ông đã vượt qua cái ranh giới ấy rồi đấy. Như vậy là không được.

Khải không nói gì nữa.

Gần hai tháng sau, khi ở Hà Nội người ta đưa tôi đi khỏi báo Văn nghệ, đột ngột Nguyễn Khải từ Sài Gòn gửi ra một bức điện : “ Tôi không đồng ý thay tổng biên tập báo Văn nghệ ”.

Tất nhiên cái bức điện của vị phó Tổng thư ký Hội ấy có làm cho một số người ở Hà Nội khó chịu, nhưng nó chẳng có tác dụng gì. Có lẽ nó chỉ có một chút tác dụng nào đó đối với chính Khải thôi.

Tôi hiểu Khải, người bạn rất lâu năm của tôi, từ ngày “ Ơ, cái thằng này nó biết đọc tiếng Tây chúng mày ơi ! ” 9. Tôi hiểu bi kịch của Khải. Có lẽ trong cái cuộc vừa qua, anh là người buồn và cô đơn nhất. Anh biết tất cả nhưng vừa biết vừa thường làm ngược lại cái biết rất sắc sảo của anh. Anh cô đơn với chung quanh nhưng chắc còn gay go hơn, buồn hơn, cô đơn với chính mình.

Có thời gian Nguyễn Khải hiểu lầm anh Trần Độ, nghi rằng anh Độ muốn loại Khải ra trong phương án dự kiến của anh. Nhưng tôi thì tôi biết rõ. Chính vào lúc quan hệ giữa Khải và tôi đang căng, lại thêm sự xúc xiểm của một số kẻ trung gian, anh Trần Độ nói với tôi: “Đừng nghĩ sai về Khải. Hãy đọc những cái Khải viết. Cậu ấy có thể nói, làm thế này thế khác, nhưng trong cái viết, Khải vẫn rất rõ ràng, mạnh mẽ. Đó mới là cái chính…”.

Gần đây, một hôm ở Sài Gòn, Khải hỏi tôi :

– Nghe nói sức khoẻ anh Độ yếu đi nhiều phải không ?

Tôi nghe trong giọng anh một mối lo chân thành, một tình cảm quý trọng thật sự.

Con người như vậy đó. Chẳng đơn giản chút nào.


Chính Hữu chắc chắn khác hẳn Nguyễn Khải. Khải chưa bao giờ, không bao giờ là công chức. Anh vừa sống trong một guồng máy chính quyền, quân đội, nhẫn nhục chịu sự chi phối của guồng máy nặng nề ấy, trông anh lúc nào cũng buồn buồn, có chút gì đó như chán nản, lại vừa sống ngoài rìa bộ máy, thông minh và sắc sảo nhìn cái bộ máy ấy bằng đôi mắt mỉa mai, một sự mỉa mai pha lẫn bất lực. Anh chưa bao giờ là một nhà văn-chiến sĩ. không làm được và cũng không muốn nhận cái chức hiệu hùng hồn ấy; nhưng lại cũng không đủ sức làm một người tự do thật sự. Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà một quyển tiểu thuyết gần đây của anh mang cái tên vừa to tát vừa buồn : Một cõi nhân gian bé tí.

Nguyễn Minh Châu cũng có một quyển tiểu thuyết chưa kịp viết, định lấy tên là Cõi người. Châu muốn đắm mình, như một sinh linh bé nhỏ, trong cái đắm chìm khổ đau kiếp người. Khải cũng nhìn thấy và muốn nói về cái cõi ấy, nhưng anh không đủ sức, không dám thả hết mình vào đó như Châu. Anh vừa mỉa mai coi khinh cái guồng máy, vừa vẫn cứ bám vào nó mà sống, đôi lúc còn tham gia sự vận hành của nó nữa.

Khối mâu thuẫn ở Khải dường như cũng là khối mâu thuẫn của không ít trí thức ở ta bây giờ.

Chính Hữu thì không được đến vậy. Anh bị công chức hóa sâu hơn, liên tục hơn, dài hơn và đậm hơn nhiều. Tư thế công chức tận tụy và nghiêm túc giết đi gần hết cái phần nhà thơ từng có thể tài hoa, con người vốn từng lãng mạn trong anh. Anh cưỡng lại ngày một yếu ớt, và cuối cùng tự mình trở thành một bộ phận của cái thế lực bắt con người phải quy phục mà chính anh từng là nạn nhân của nó.

Đấy cũng là một thứ bi kịch, càng đáng buồn hơn.

Ở Chính Hữu tôi thường thấy cùng một lúc hai thái độ sống chừng như đối nghịch: anh không thích nhiễu sự, có phần an phận nữa là khác, nhưng lắm khi lại cũng rất dữ dằn, quyết liệt gây sự. Tôi tin rằng trong con người ấy cũng từng có sự giằng xé, nhưng sự giằng xé ngày càng yếu đi, mòn mỏi, đến gần như chẳng còn gì.

Những con người như vậy sẽ xa dần đời sống sinh động thực – không phải chỉ đời sống xã hội hỗn độn bên ngoài. Họ xa dần, mất liên lạc dần và đến mất hẳn, tắt hẳn mọi liên lạc với đời sống phức tạp và hạnh phúc, khát vọng và quằn quại bên trong con người.

Lời nói độc địa và hỗn xược của Chính Hữu coi công chúng thời ấy của báo Văn nghệ chỉ là đám người u mê xúm quanh “ cô gái cởi truồng đứng giữa ngã tư đường ” còn tờ báo thì chính là cô gái ô uế nọ, tôi tin rằng anh hoàn toàn nghĩ thật, nói thật. Anh không hề lỡ lời đâu. Tôi dận gót giầy đùng đùng xuống mặt sàn gỗ căn phòng gác hai 65 Nguyễn Du và hung hăng mắng lại anh, là một hành động nóng giận tức thời của tôi lúc ấy. Nhưng rồi sau đó tôi buồn nhiều hơn giận.

Không, anh không hiểu nổi cuộc chiến đấu của chúng tôi, của tôi. Nói thế này thì nghe kiêu căng quá, nhưng thật vậy : nó ở ngoài tầm với của anh. Biết làm sao ?

Trong hội nghị Ban chấp hành Hội Nhà văn tháng 9-1988 họp nhờ ở hội trường nhà khách Trung ương Đoàn 15 Hồ Xuân Hương, tuyệt đại đa số Ban chấp hành kết tội kịch liệt báo Văn nghệ, thông qua một cái nghị quyết chấn chỉnh tờ báo “ về mặt tổ chức ”, tức là sẽ cách chức người phụ trách báo, anh Nông Quốc Chấn là người lên án báo dữ dội nhất. Đến giờ giải lao, ra hành lang, anh hỏi tôi:

– Tôi nói thế, anh có giận không ?

Tôi cười :

– Chẳng chuyện gì mà giận. Chỉ có điều anh lạc hậu quá, theo tôi anh chậm mất khoảng mười năm đấy.

Về sau tôi kể lại với Nguyễn Khoa Điềm. Điềm bảo :

– Anh nói thế là còn ít quá đấy !

Quả thực cuộc đi tới gian nan và kịch liệt của xã hội, mà văn học như một mũi thăm dò tiên phong, đã chia rẽ chúng tôi quá xa. Có người bảo là bè phái. Tôi không thấy như vậy. Tôi thấy đấy là một sự chia rẽ sâu sắc. Cần gọi cho đúng cái tên của nó.


*


Trước Đại hội Nhà văn lần thứ III vài tháng, anh Đào Duy Tùng, là ủy viên Bộ Chính trị, đứng đầu phụ trách công tác tư tưởng, có mời tôi đến chơi. Chắc không phải “ đến chơi ”, bởi đến chơi thì mời về nhà riêng. Anh mời tôi đến chỗ làm việc của Ban bí thư Trung ương Đảng, đường Nguyễn Cảnh Chân. Vậy tức là “ làm việc ”.

Tôi biết sắp Đại hội Nhà văn rồi, các anh có lo lắng về tôi. Việc tôi đi khỏi báo Văn nghệ vậy mà ầm ĩ khá rộng và lâu, đến gần Đại hội lại càng rộ lên, căng hơn. Chắc chắn trong Đại hội – mà lần này là đại hội toàn thể – nhiều người sẽ đặt lại vấn đề tờ báo. Thậm chí có nguy cơ một số không ít anh chị em sẽ li khai khỏi Hội, nếu việc báo Văn nghệ không được giải quyết thỏa đáng. Và việc báo Văn nghệ thì trực tiếp liên quan đến tôi. Tôi bỗng nhiên trở thành một thứ điểm trung tâm chú ý của hai phía. Nhiều anh chị em muốn dựng tôi thành một thứ “ ngọn cờ đấu tranh ” (!). Cấp trên thì lo không biết thái độ của tôi trong Đại hội sẽ như thế nào?

Anh Đào Duy Tùng mời tôi đến hẳn là vì chuyện này thôi.

Kỳ thực sau vụ báo Văn nghệ tôi muốn đứng ra ngoài cuộc. Có buồn, bực bội ít lâu, nhưng rồi tâm trạng tôi lại thanh thản. Bởi vì tôi tin rằng tôi đã làm xong một công việc cần thiết và đúng lúc, do tình thế giao vào tay tôi một năm rưỡi ấy. Công việc đã làm ở báo có hay có dở, có đúng có sai, vụng về và lầm lẫn cũng có, nhưng tôi cho rằng về cơ bản tờ báo Văn nghệ đã làm tròn vai trò tất yếu của nó trong một bước đi tất yếu của xã hội và của văn học. Bước ấy đã xong, văn học sẽ tự nó đi tiếp bước khác, có thể còn phức tạp, gian nan, mệt mề hơn, nhưng không gì cản lại được nữa. Tôi tin. Hồi ấy, trên một tờ báo, tôi có nói: “ Tôi là người lạc quan ”.

Phần riêng tôi, tôi chỉ còn một lo lắng và đau khổ, lớn hơn nhiều: tôi vẫn chưa trở lại viết được !

Anh Lê Ngọc Trả từ Sài Gòn viết thư ra cho tôi :

“ Ở trong này anh em vẫn nhắc đến anh và biết tin vui buồn về anh. Anh em thương anh nhiều. Riêng tôi, tôi nghĩ đợt này nếu anh có thì giờ tập trung viết một cái gì đó, chắc sẽ rất hay. Văn học là nỗi đau mà. Người đang đau như anh có nhiều điều để nói hay lắm. Huống chi ở anh vốn sẵn có chất trữ tình rất đậm và sâu của người vùng Trung Bộ. Chất trữ tình ấy không nên thơ bay bổng bằng như chất thơ xứ Bắc, nhưng nó hấp dẫn và cuốn hút lắm… ”

Tôi gặp Lê Ngọc Trà lần đầu tiên là ở Maskova, sau khi đã đăng bài Văn học và chính trị của anh ít lâu. Lê Ngọc Trà đang bảo vệ luận án tiến sĩ. Đêm Maskova rét không thể tưởng, đâu đến âm 30 hay 35 độ. Chúng tôi dìu nhau đi lang thang trên các hè phố vắng ngắt và băng đóng trơn như mỡ. Chúng tôi nói với nhau về những triển vọng và khát khảo của văn học ta. Tôi đề nghị Lê Ngọc Trà sau bài Văn học và chính trị rồi, bây giờ chuyển viết tiếp cho chúng tôi vấn đề Văn học và hiện thực. Trà bảo :

– Anh suy nghĩ vậy là đúng rồi. Tôi cũng đang nghĩ vấn đề ấy. Phải lần lượt cố gắng giải quyết một số vấn đề cơ bản anh ạ.

Trà hỏi :

– Tình hình ở nhà, sau nghị quyết 05 của Bộ chính trị, như thế nào ?

Tôi nói :

– Cái nghị quyết ấy thật hay, nhưng có phần hơi sớm hơn tình hình chung. Cơ sở xã hội cho một nghị quyết như vậy ở ta chưa có đủ. Cho nên tôi chắc sắp tới nó (cái nghị quyết ấy) sẽ rất vất vả, thậm chí có thể bị đẩy lùi. Nhưng dầu sao cũng đã cắm được một cái mốc mới. Quan trọng lắm…

Hơn tháng sau, trở về Hà Nội, tôi nhận được bài Văn học và hiện thực của Lê Ngọc Trà. Đó là một trong những bài lý luận văn học cơ bản nhất trên mặt báo, suốt thời gian tôi làm Văn nghệ.

… Lê Ngọc Trà bảo là tôi “ đang đau ”. Tôi rất hiểu anh: anh hoàn toàn không muốn nói là tôi đau vì tôi mất chức, cũng không phải là nỗi đau của một phen trả giá. Cứ cho là nỗi đau đi thì đấy là do tôi hiểu đời và hiểu người hơn, hay chính xác hơn, tôi hiểu chính tôi hơn. Cuộc vật lộn vừa qua rốt cuộc, lạ thế, lại đưa tôi đến chỗ đối diện với chính mình. Với cả cuộc đời mình.

Tôi hiểu ra rằng đất nước, dân tộc này đang đối diện với chính mình. Văn học đang đối diện với chính mình. Từng người cũng vậy. Tôi cũng vậy.

Đối diện, và cố tự tìm hiểu chính mình, cuộc đời mình, toàn bộ hành trình và hành trang của chính mình. Một sự cố gắng vào loại khó khăn nhất, ráo riết và đau đớn nhất. Đòi hỏi dũng cảm lớn nhất.

Tôi lại muốn đi lang thang. Hình như trong khi đi lang thang, dễ suy nghĩ hơn…

Cho nên, thật tình tôi cho rằng sự lo lắng của các anh, của anh Tùng về cái “ thái độ ” của tôi ở Đại hội nhà văn sắp tới là lạc lõng và nhỏ nhặt quá. Tôi chẳng quan tâm gì lắm đến chuyện ấy. Có quan trọng gì lắm đâu cái Đại hội, cả cái Hội ấy nữa, mà các anh lo đến sốt vó thế!…

Quả nhiên anh Tùng hỏi tôi dự kiến Đại hội sẽ thế nào ? Theo tôi nên thế nào ?

Tôi nói thẳng với anh :

– Tôi chẳng có ý kiến gì. Bởi vì, theo tôi, Đại hội lẫn cả cái Hội nữa chẳng quyết định gì đối với văn học đâu. Có một cái Hội nhà văn tốt hay không tốt thì về cơ bản cũng chẳng làm sao đối với văn học cả. Các anh quá lo, là lầm. Khó nhất đối với nhà văn là việc anh ta ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với cái “ pháp trường trắng ” của anh, như Nguyễn Tuân nói. Đối mặt với nó, chỉ độc có mỗi mình anh. Chẳng ai, chẳng thế lực, chẳng hội hè nào giúp được anh chút gì trong cuộc đối mặt cô đơn và khủng khiếp đó. Bởi đó là cuộc đối mặt của anh với chính anh. Bản chất của công việc sáng tác là vậy. Chỉ mong đừng có ai làm phiền nhiễu thêm họ khi họ ngồi trước trang giấy, trước chính họ, trong cuộc đối chất đau đớn, khắc nghiệt đó. Hội hè tuyệt nhiên chẳng hỗ trợ gì cho họ lúc ấy đâu. Hỗ trợ cho họ lúc ấy, anh ạ – tôi nói – xin anh đừng ngạc nhiên, có khi chẳng hạn lại là sự có mặt của một người đàn bà mà họ yêu say đắm, vô lý và tuyệt vọng… Tôi xin lỗi anh, không biết anh có hiểu không?

Thế đấy, vậy việc gì các anh phải quá lo lắng thế. Tôi e các anh nhầm. Vấn đề là ở chỗ khác kia.

- Ở chỗ nào ? – Anh Tùng hỏi.

- Ở chính người sáng tác.

- …?

– Anh đã mời tôi đến, anh đã hỏi, thôi hôm nay tôi sẽ xin nói. Tôi sẽ nói về một vấn đề có thể anh cho là lạc đề nhưng tôi lại nghĩ là quan trọng hơn nhiều.

Tôi sẽ nói về giới trí thức, giới “ sĩ phu ” ở nước ta, mà cũng chỉ xin nói riêng trong văn nghệ. Tôi muốn đề nghị Đảng nhìn lại tận gốc vấn đề này, bởi đây mới là vấn đề gốc.

Hãy lấy ví dụ như nước Nga, mà ta từng rất gần. Trước Cách mạng tháng 10, nước Nga, dầu là nước Nga phong kiến, đã là một quốc gia độc lập lâu đời. Họ có một giới sĩ phu đàng hoàng, cao lớn, độc lập. Những nhân cách đại thụ, đại biểu cho cả dân tộc, cho cả nền văn minh không chỉ của nước Nga. Những Tolstoi và Dostoievski, những Nekrassov và Tourgueniev, những Ghersen và Dobrolioubov, những Leskov và Garchin. Chính vì có truyền thống lớn đó, mà sau Cách mạng, cả trong những năm đen tối nhất dưới chế độ Stalin, họ vẫn còn những tài năng và nhân cách sừng sững, có thể bị giết chết chứ không thể bị bẻ gục: những Bounin và Pilniak, những Mandelstam và Tvardovski, những Soljenitsyn và Pasternak, những Tsetaieva và Akhmatova, những Boulgakov và Eisenstein… Họ vẫn còn một nền văn học và nghệ thuật lớn…

Giới trí thức văn học nghệ thuật ở ta trước Cách mạng tháng Tám có một chỗ mạnh và rất quan trọng : lòng yêu nước nồng nàn. Và cuộc cách mạng của chúng ta suốt mấy chục năm qua chủ yếu là cuộc cách mạng cứu nước, giải phóng dân tộc. Hãy nhớ lại xem: hầu hết lớp văn nghệ sĩ ta thường gọi là tiền chiến, những người tên tuổi và tài năng nhất đều đi theo cách mạng và kháng chiến. Chúng ta chỉ mất đôi ba người. Chẳng hạn trong hội hoạ, người tài năng nhất, Nguyễn Gia Trí, không đi với kháng chiến. Nhưng ông cũng không theo giặc. Ông vào Sài Gòn, cặm cụi vẽ, rồi sang Paris, vẫn cặm cụi vẽ. (Ông Trí ko đi Pháp, NN nhầm - HH). Trong âm nhạc, có lẽ chúng ta mất một tài năng đáng tiếc: Phạm Duy… Nhưng cũng chỉ đôi ba người, đếm được trên đầu ngón tay, vậy thôi. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Nam Cao, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Bùi Xuân Phái, Văn Cao… đều đi với Cách mạng, cho đến tận ngày nay. Thật quí, không dễ gì được thế.

Nhưng đồng thời, tôi mạnh dạn nghĩ và hôm nay nói rõ với anh, về cơ bản lớp trí thức văn nghệ tiền chiến ở ta cũng chỉ là lớp trí thức nhỏ bé của một nước thuộc địa nhỏ bé. Một trong những nét tính cách bẩm sinh ở họ là sự ươn hèn. Một lớp sĩ phu ươn hèn. Những Phan Bội Châu, những Phan Châu Trinh đã hết.

Trong giới chúng tôi có một người cầm bút lão thành vẫn được tiếng là người cương trực nhất. Tôi kính trọng ông. Đám tang ông, tôi đã làm rất to trên tờ báo của tôi. Nhưng tôi cũng biết cái cương trực của ông, nói cho cùng, cũng chỉ là cương trực… vặt. Người ta dại dột đi sơn cái Tháp Rùa, ông chửi vung lên. Xây nhà cao tầng nhiều quanh Hồ Gươm, ông cũng lại chửi om lên, bảo là biến cái hồ đẹp thế thành cái giếng mất… Vậy đó thôi. Chứ những chuyện đại sự quốc gia, đã bao giờ thấy ông dám có tiếng nói lớn, độc lập. Boulgakov có thể ngửa tay xin Stalin một chân kéo màn rạp hát để kiếm sống, nhưng nhà văn cổ điển của thời đại văn học xô-viết ấy, trong quan điểm và sáng tác của mình, đến chết không hề chịu lùi một li. Pasternak khi bị cả Hội nhà văn Liên Xô la ó đuổi ra khỏi Hội vì cái giải Nobel trao cho ông, đã viết mấy chữ gửi Hội nhà văn : “ Tôi hiểu hoàn cảnh buộc các bạn phải làm việc này, tôi tha thứ cho tất cả các bạn ”.

Còn ông già tài hoa và cương trực của chúng tôi, ông biết ông vừa bị chế độ nghi ngờ, khinh rẻ, lại vừa được chế độ vì nể, ông bèn “ làm nũng ” với chế độ, thỉnh thoảng lại làm mình làm mẩy đôi chút. Thế thôi. Ít lâu trước khi mất, ông tâm sự buồn rầu và chua chát : “ Mình còn sống được đến ngay nay là vì mình biết… sợ ”.

Trong mỗi vị “ sĩ phu ” ấy của chúng ta đều có một viên công chức nhỏ bé của Tchekhov…

Cái chất viên chức nhỏ bé Tchekhov bẩm sinh đó, từ sau Cách mạng lại bị một loạt cuộc vùi dập thô bạo liên tục : cải cách ruộng đất, chỉnh huấn, cải tạo này rồi đến cải tạo khác, tư tưởng văn nghệ Diên An, các vụ án văn nghệ liên tiếp… càng làm cho nhỏ bé thêm đi, co lại, gập xuống…

Chúng ta không có một lớp trí thức tiền chiến lớn – đó là điều cần nhìn thẳng và suy nghĩ.

Đến thế hệ chúng tôi, dầu muốn dầu không, chúng tôi cũng kế thừa họ. Cả chất ươn hèn lẫn sự khôn ngoan vặt của họ. Chúng tôi vừa coi thường họ vì chúng tôi biết nhân cách của họ cũng chỉ lằng nhằng thế thôi, lại vừa học bài học đau đời của họ: phải biết sợ để mà sống.

Sự kế thừa ấy còn kéo dài đến cả thế hệ sau chúng tôi, trong tình thế bây giờ lại còn pha thêm những tạp chất cơ hội và lưu manh; tất nhiên không phải ở tất cả, nhưng đại thể là như vậy.

Các anh thường hỏi : tại sao chúng ta chưa có tác phẩm lớn ? Tôi xin trả lời: vì chúng ta chưa có những nhân cách lớn.

Đổi mới trong xã hội và trong văn nghệ mấy năm qua đã đem lại những gì ? Có tác phẩm khá hơn, có đời sống văn học nghệ thuật phong phú sinh động hơn. Nhưng nói thật cũng chưa có gì ghê gớm đặc sắc lắm đâu. Và cũng không phải là cái quan trọng nhất.

Thành quả quan trọng nhất vừa qua, theo tôi, là sự bắt đầu nhận ra, bắt đầu ý thức và khôi phục cái vị thế, cái tư cách đàng hoàng, độc lập, tự do, trách nhiệm của người cầm bút, ở trong chính người cầm bút, trước đất nước, nhân dân và Đảng của mình.

Đó là sự giải phóng bên trong của người nghệ sĩ, tự do bên trong thật sự của người cầm bút. Theo tôi, cái ấy đã bắt đầu, đã bắt đầu có. Và sự thức tỉnh đó là quyết định, tức là không thể đảo ngược được, dầu còn rất nhiều đau đớn và trả giá.

Nếu phải nói một điều gì đó về Đại hội nhà văn sắp tới thì tôi xin nói: tôi tin Đại hội sẽ diễn ra theo hướng đó. Và như vậy là đáng mừng, cho Đảng, cho đất nước, cho văn học.

Nhưng hình như các anh lại lo lắng về chính cái điều tôi cho là đáng mừng đó, các anh vội tìm cách ngăn lại.

Có lẽ cũng ít chế độ nào nâng niu chăm sóc bao cấp cho văn nghệ sĩ bằng chế độ ta. Nhưng đó là kiểu nuôi nấng o bế một đám con hát, một đám cung văn. Chúng tôi không cần cái ấy, chúng tôi chiến đấu cho một tư thế độc lập, tự do đàng hoàng và đầy trách nhiệm của nhà văn trước đất nước…

Anh Tùng lắng nghe, không cắt lời tôi. Cuối cùng anh bảo :

– Vấn đề anh nêu ra là đáng suy nghĩ, có chỗ tôi đòng ý, cũng có chỗ chưa đồng ý. Lần khác ta sẽ trao đổi tiếp.

Trước khi ra về, tôi nói :

– Tôi không còn làm báo Văn nghệ nữa. Nếu còn làm thì dự định của tôi là sau mảng đề tài nông thôn, tôi sẽ triển khai tiếp vấn đề quan trọng hơn là vấn đề trí thức…

Không thấy anh nói gì.

Cũng không thấy anh mời tôi đến chơi nữa.



HỒI KÝ CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC 
(KỲ 6 - hết)


Những điều tôi nói với anh Đào Duy Tùng hôm đó thật sự là những điều tâm huyết của tôi suốt thời gian tôi “ nắm ” tờ báo Văn nghệ. Khi không ở báo nữa, đó vẫn là tâm huyết của tôi trong mọi việc tôi còn có thể làm chút gì đó cho văn học. Và cũng là, trước hết, tự làm cho chính tôi. Tự giải phóng mình.

Trong mỗi chúng ta, đều có một kẻ nô lệ. Lạ thay cái chế độ của chúng ta, cái chế độ khát khao hơn bất cứ thời đại nào trước giải phóng cho đất nước, cho con người… cuối cùng lại đi đến vùi dập, bóp nghẹt con người. Lại làm đậm thêm cái chất nô lệ trong con người.

Tôi biết, tôn tin rằng những người cầm bút, đặc biệt những cây bút trẻ, đã ý thức ngày càng rõ điều ấy, và quyết phá vỡ ra. Mỗi người một cách, ở những mức độ khác nhau.

Nguyễn Khải rụt rè nói về “ cái thời lãng mạn ấy ”. Tính anh vốn thế, chẳng quyết liệt bao giờ. Nhưng tôi nhận ra, đằng sau cái rụt rè còn mong manh ấy một cái cười chua chát tự chế riễu mình. Được chừng ấy cũng đã là quý lắm rồi.

Nguyễn Minh Châu lầm lì nhưng liều lĩnh, tuyên bố Ai điếu cho một thời văn nghệ minh hoạ. Bài đưa ra tòa soạn, nhiều anh em rất ngại, nhưng tôi cứ quyết định đăng. Bởi tôi biết Nguyễn Minh Châu cố một trận quyết rứt mình ra để đi tới, chuyển sang một trận khác. Tôi cảm phục anh và biết tiếng nói của anh sẽ giúp thêm nghị lực cho bao nhiêu người còn chần chừ.

Dương Thu Hương vừa đằm thắm – ít ai viết được về người mẹ quê Việt chúng ta đậm sâu như chị trong Những thiên đường mù – lại vừa đáo để, đến cả hỗn xược – cũng trong chính Những thiên đường mù.

Phạm Thị Hoài táo tợn muốn tháo bỏ tất cả mọi ràng buộc, cho đến cả những khu vực có tính bản năng của con người. Cây bút nữ ấy chẳng chút xấu hổ muốn lột trần trụi con người ra trước chính nó. Tôi biết nhiều lúc chị hơi quá thông minh và điệu đà. Nhưng tôi ủng hộ chị. Cũng là một cửa mở cho sự giải phóng.

Nguyễn Huy Thiệp thì đã hoàn toàn khác. Mọi giá trị từng được thờ cúng với anh đều trở thành trần tục hết. Anh không ngại đến cả thô lỗ và tục tĩu khi lạnh lùng phanh phui sự thật. Con dao mổ ấy quá sắc, quá lạnh, nhiều khi đến chối. Nhưng để bắt đầu lại, làm lại một thế giới người cho ra người khác, tránh sao được những cuộc phá vỡ có khi tàn bạo ?

Tôi đăng Thiệp không phân vân.

Những sáng tác trên báo Văn nghệ thời ấy không phải cái nào cũng là văn chương,– tôi biết. Nhiều người trách: tờ báo hạ thấp văn chương. Nguyễn Đình Thi làm tạp chí Tác phẩm mới chủ trương văn chương phải sang trọng.

Tôi thì lúc này tôi nghĩ khác: cuộc cày xới thì ngổn ngang. Tôi chấp nhận cái ngổn ngang ấy. Nó xới lên hơi đất hôi hổi của cuộc sống thực.

Rồi đến một lúc mới có thể Bước qua lời nguyền và Nỗi buồn chiến tranh.

Không ai sang trọng được khi đang cầy vỡ ruộng.

Lại cũng có người trách: tôi tâng bốc quá đáng lớp trẻ, làm mất lòng bao nhiêu người già.

Có lẽ quả có thế thật. Tâng bốc thì không đúng. Nhưng đặt nhiều lòng tin vào họ thì có. Tôi biết cuộc phá vỡ này quá quyết liệt, để lớp người đã nặng nợ nhiều với quá khứ khó có thể đủ sức làm nổi.

Về sau tờ báo bị kết tội gây bè phái chia rẽ làm rối tung nội bộ Hội nhà văn. Tôi thì tôi muốn nói chính xác hơn: nó làm phân hóa rõ rệt lực lượng trong cuộc đi tới quằn quại dữ dội này của văn học. Cái tội đó, nó xin chịu.


*

Tháng 12-1988, sự nứt vỡ đã không còn cứu vãn được nữa. Những thế lực chống lại sự đi tới đã căm tức đến cực độ. Sự phân hóa đã quá lớn.

Còn tôi thì quá nhiều sơ hở vụng về để cho trận địa của mình bị tiến đánh từ mọi phía. Một trong những vụng về nguy hiểm là tôi đã để cho tờ báo nhô lên quá nhọn. Trong đội hình đi tới chung của báo chí, và có thể của cả xã hội lúc này đang có phần bị đẩy chững lại. Trong chiến đấu, cái khối lồi lù lù như thế tất sẽ bị gạt đi cho kỳ được.

Tôi ra đi là phải.

Biện pháp đã được dùng để đẩy tôi đi có thể là vụng về, thô bạo. Nhưng chẳng quan trọng gì cái chuyện ấy. Có thể khéo hơn, lịch sự nhẹ nhàng hơn một chút. Nhưng rồi tất cũng thế thôi.

Nhiều anh chị em ấm ức bảo tôi cố kéo dài thêm. Trưa ngày hôm ấy, 2-12-1988, tôi nói:

– Thôi, đủ rồi !

Trước cuộc họp toàn thể tòa soạn, Chính Hữu đọc quyết định “ thuyên chuyển công tác ” tôi. Tôi bảo :

– Tôi chẳng chuyển đi đâu cả. Tôi chỉ thôi công việc ở đây.

Và hỏi :

– Tôi phải bàn giao công việc từ lúc nào ?

Chính Hữu trả lời :

– Ngay bây giờ. Không phải bàn giao.

Tôi có căng thẳng trong tâm trạng không ? Có.

Nhưng không phải vì công việc tờ báo đã qua. Việc ấy đã xong. Và đẹp. Tôi thanh thản.

Căng thẳng là việc sắp đến của tôi, còn quyết liệt khó khăn vất vả đau đớn hơn nhiều: Viết.

NGUYÊN NGỌC
Nguồn: diendan.org










Nguyên Ngọc: 

Nước Mội, rừng xanh và sự sống







Quê tôi ở vùng Nam Trung bộ, đúng cái đoạn mà một nhà thơ từng thống thiết gọi là “dằng dặc khúc ruột miền Trung”. Ở đấy, miên man mấy trăm cây số ven biển là những cồn cát lớn, nơi trắng phau một màu trắng tinh khiết đến khó tin, nơi vàng rộm ngon lành trong nắng cháy. Làng cũng là làng trên cát; con người sống trên cát, tử sinh cùng với cát.

Tôi có đọc một ít lịch sử và tôi biết, lạ vậy, toàn cát vậy, nhưng đấy vốn không phải là một vùng đất nghèo. Từng có cả một vương quốc thịnh vượng trên dải đất này. Một vương quốc nông nghiệp và hải dương. Có lẽ một trong những bí quyết thịnh vượng của vương quốc ấy là nước, mà thiên nhiên đã rất thông minh giữ và dành cho dải đất thoạt nhìn thật khô cằn này, và con người thì cũng thật thông minh hiểu được món quà quý của đất trời, biết tận dụng lấy cho mình.

Cho đến chỉ cách đây đâu khoảng chưa đến nửa thế kỷ, ở quê tôi vẫn còn một kỹ thuật nông nghiệp rất đặc biệt, tinh tế và thú vị, gọi là kỹ thuật “tưới nước mội”, người Việt học được của người Chăm khi đi vào Nam. Nước mội là nước rỉ ra từ các chân đồi cát, trong veo, mát lạnh, tinh sạch đến mức có thể bụm vào lòng bàn tay, ngửa cổ uống ngay ngon lành.

Ở đây người ta vỡ ruộng ngay trên cát, các đám ruộng được gọi là “thổ”, những đám thổ trồng đủ các loại hoa màu. Ở góc thổ bao giờ cũng có một chiếc ao nhỏ, cạn thôi, nhưng quanh năm lúc nào cũng đầy ắp nước, tát đi lại đầy ngay, cả trong những mùa nắng hạn gay gắt nhất. Nước mội từ trong lòng cát rỉ ra, nhẹ nhàng, chậm chạp, từ tốn, mà bất tận. Những chiếc ao nước mội, những con mắt ngọc xanh rờn, mát rợi của đất đai, làng mạc, đồng ruộng quê tôi. Nhỏ nhoi và thầm lặng, chính chúng nuôi sống nền nông nghiệp từng trù phú của vương quốc xưa, và của cả cha ông chúng tôi nữa khi họ đi về Nam…

Champa cũng là một vương quốc biển, từng dong thuyền đến những đại dương xa, và từng có những cảng quốc tế rộn rịp trên suốt dọc bờ biển của mình. Những người có đôi chút kiến thức về giao thương biển đều biết rằng một trong những điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất của một cảng biển quốc tế là nước ngọt, phải rất dồi dào nước ngọt. Những con tàu lang thang nhiều tháng trời trên các đại dương mặn chát, lắm khi chẳng vì mua bán gì cả, vẫn phải ghé lại các cảng ven bờ để “ăn” nước ngọt.

Và trên dải cồn cát miên man của mình, người Chăm là những người thiện nghệ nhất thế gian về nghề tìm mạch nước, đào và thiết kế giếng nước ngọt. Họ như có con mắt thần, có thể nhìn thấy đường đi của nước ngọt âm thầm trong lòng đất, những dòng nước mội. Chính hệ thống giếng nước ngọt thánh thiện và tuyệt vời – từ nước mội bất tận rỉ ra mà có – đã tạo nên vương quốc đại dương Champa, tôi nghĩ nói thế cũng chẳng hề quá đáng đâu…

Từ nhỏ, là dân vùng cát cháy miền Trung, tôi đã có hạnh phúc được biết nước mội, nếm nước mội, ăn nước mội, sống và lớn lên bằng cây cỏ được nuôi bằng nguồn nước mội ân huệ bất tận.Của Trời.Rồi về sau, cuộc đời lại đã cho tôi một may mắn khác: tôi hiểu hóa ra “Trời” đó không phải là một đấng trừu tượng thần bí nào, mà là một thực thể sống động, khổng lồ, cường tráng, hùng vĩ…, mà lạ thay, cũng lại rất mong manh, hết sức mong manh, ngày càng đang trở nên cực kỳ mong manh!Trường Sơn. Tây Nguyên.

Tôi đã được đi đến nơi đó và gắn bó hơn nửa cuộc đời của mình ở đó.Hóa ra có một “bí mật” to lớn: ngọn nguồn của nước mội tuyệt diệu tưới tắm cả vùng cát dằng dặc ven biển miền Trung chính là nơi đó, Tây Nguyên, rừng đại ngàn, rừng nguyên sinh, rừng nhiệt đới Tây Nguyên. Chính rừng Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hàng triệu triệu năm nay, như một người Mẹ vĩ đại, bao dung và tần tảo, hứng lấy tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, “để dành”, tằn tiện, tuyệt đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi, nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia. Cho các vương quốc, các triều đại, các nhà nước, các chế độ ra đời, phát triển, nối tiếp. Và sống còn… Nước mội chính là những dòng nước nhỏ, liên tục, không bao giờ dứt, đi âm thầm và vô hình trong lòng đất, từ những đỉnh Trường Sơn xa xôi kia, đến tận những cồn cát tưởng chẳng thể có chút sự sống này.


Vậy đó, Tây Nguyên, ý nghĩa của Tây Nguyên và rừng Tây Nguyên, dù chỉ mới là qua một khía cạnh rất nhỏ của nó, nước.Có lẽ cũng cần nói thêm một chút nữa về điều này: không chỉ cho dải đất cát cháy miền Trung đâu. Trường Sơn có một đặc điểm quan trọng về địa hình: đường phân thủy ở đây không chạy đúng giữa mà sát ngay về phía đông của rặng núi dằng dặc này, nghĩa là sườn phía tây của Trường Sơn rộng hơn sườn phía đông rất nhiều, có thể đến bốn năm lần. Tức nước từ Tây Nguyên đổ về phía tây cũng nhiều hơn về phía đông có thể đến bốn hay năm lần. Mà đổ về phía tây tức là về Mékông, về Nam Bộ, về toàn miền Nam.

Trong một chừng mực nào đó, Tây Nguyên, rừng Tây Nguyên có ý nghĩa quyết định đối với toàn miền Nam về tất cả các mặt. Nếu chỉ nói một mặt nước thôi, thì có lẽ cũng nên nhớ: nước ở miền Tây Nam bộ, ở Cà Mau kia, cũng có thể là nước mội từ Mẹ Rừng Tây Nguyên chắt chiu đưa về đấy, cho mênh mang vùng đất lúa của cả nước ấy không bị nhiễm mặn…

Hàng nghìn đời nay có những con người đã sống ở đây, gắn bó ruột thịt với rừng và đã tạo nên cả một nền văn hóa đầy minh triết bắt nguồn chính từ sự gắn bó ấy. Để bày tỏ đôi lời thật giản lược về nền văn hóa ấy và những con người ấy, chắc có thể nói vắn tắt như thế này: người Tây Nguyên không bao giờ coi rừng là tài nguyên. Không bao giờ có khái niệm khai phá, chinh phục, chiếm lĩnh tự nhiên, rừng. Đơn giản, Rừng đối với họ là Tất cả, là Mẹ, là cội nguồn của sự sống. Mà họ kính trọng và tôn thờ.

Chúng ta, những người tự coi là rất văn minh, rất khoa học, chúng ta biết nước là nguồn gốc của sự sống, nhưng chúng ta không biết, biết bằng hành vi cụ thể chứ không phải bằng lý lẽ to tát, rằng không có rừng thì cũng chẳng có, chẳng còn nước, nghĩa là cũng chẳng còn có sự sống, chúng ta không biết cái chân lý sơ đẳng và đơn giản ấy. Nhìn thấy rừng là con mắt ta hau háu nhìn thấy gỗ, gỗ, gỗ… Và hết gỗ rồi, bây giờ, thấy tài nguyên khác. Hau háu, hung hăng, hỗn hào chặt phá,và hết chặt phá, chẳng còn gì để chặt phá nữa thì đào bới…

Ở quê tôi, nay đã kiệt nước mội rồi. Chi tiết rất nhỏ ấy thôi, vậy đó, lại đang là tai họa tày trời! Chắc chưa ai quên vụ lũ kinh hoàng ở Phú Yên vừa rồi. Cả thành phố Tuy Hòa, thị xã Sông Cầu chìm trong nước sâu. Gần trăm người chết. Ruộng đồng tan hoang… Một vị có trách nhiệm rất cao và trực tiếp giải thích: Ấy là vì biến đổi khí hậu toàn cầu, và lại nữa, vì nhân dân mất cảnh giác. Tại Trời và tại dân, Trời thì ngày càng tai ác, còn dân thì mãi ngu dốt! Có một chi tiết hẳn ở cương vị của ông ấy, ông ấy ắt phải biết nhưng lại không thấy ông nói: năm 2009, ở Phú Yên áp thấp nhiệt đới gây mưa 330 li; năm 1991, cũng tại chính Phú Yên này, mưa 1300 li, gấp hơn ba lần.

Năm 1991 không có gì đáng kể, năm 2009 lại tai họa khủng khiếp, vì sao? Ở miền Trung – mà ở cả nước đều vậy – ngày xưa chỉ có lụt và lụt là mùa rất vui, thậm chí thân thiết, mỗi năm lại trở lại một lần, người ta chờ nước lụt, nước lên từ tốn, ruộng đồng được tưới tắm phù sa, cũng là lúc làm ăn rộn rã, có lẽ cũng tương tự như mùa nước nổi ở Nam Bộ thuở nào.

Ngày nay không còn lụt, chỉ có lũ. Lũ rất khác lụt, lũ là nước đột ngột đổ ập xuống, như thác, hung bạo, nhanh và dữ cho đến nỗi, như vừa rồi, có người đã leo lên trần nhà rồi còn chết ngạt trong ấy vì không kịp dở mái để leo lên nữa! Lũ không mang phù sa đến, lũ quét sạch tất cả những gì nó gặp trên đường đi, và kéo đất đá từ trên rừng xuống lấp hết ruộng đồng. Tất nhiên ngày xưa cũng có lũ, nhưng chỉ trong những năm mưa đặc biệt lớn, cả đời một con người chỉ chứng kiến vài lần.

Ngày nay hễ đài vừa báo áp thấp nhiệt đới, thậm chí chỉ áp thấp, là cả nước đã rùng rùng lo chống lũ, sập núi, trôi rừng…Con số 1300 li năm 1991 và 330 li năm 2009 là con số hùng hồn, nó nói rằng vụ Phú Yên vừa rồi không phải chủ yếu do biến đổi khí hậu toàn cầu, không phải do Trời, như lời giải thích uyên bác của vị quan chức nọ.

Do người. Do cơ chế nước mội tinh tế, tinh vi, thông minh, nhân hậu tuyệt vời của thiên nhiên đã không còn, đã bị phá vỡ, đã bị con người triệt diệt bằng cách triệt diệt rừng. Rừng Tây Nguyên. Trong một cuộc trao đổi ở Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Trung ương vừa rồi, nhiều chuyên gia đã cảnh báo: không chỉ có nguy cơ lũ quét đâu, sau lũ quét sẽ tiếp đến nguy cơ hạn hán sẽ còn khốc liệt, tai hại hơn. Bởi vì nước mội và lụt hằng năm hiền lành là cùng một cơ chế, cùng một tác giả: Rừng. Rừng Tây Nguyên.

Trong hơn 30 năm qua, từ sau 1975 chúng ta đã làm xong một công việc to lớn: cơ bản phá hết, cạo sạch đến tận cùng rừng tự nhiên trên cái mái nhà sinh tử của toàn Đông Dương này. Đã quét sạch xong hết trên mặt đất, bây giờ đang bắt đầu moi sạch nốt dưới lòng đất. Cao su tuyệt đối không phải là rừng, không sinh ra cơ chế nước mội. Các khu công nghiệp của công nhiệp hóa và hiện đại hóa càng tuyệt đối không phải là rừng. Một quy luật vận hành ổn định, điều hòa, thông minh của tự nhiên đã bị triệt diệt, nhanh và cơ bản hơn tất cả mọi giai đoạn từng có trong lịch sử. Một quy luật khác đã được thiết lập, quy luật của hỗn loạn.


Hãy nhìn lên cái mái nhà chung kia mà bao nhiêu thế hệ nhiều nghìn năm qua đã giao lại cho chúng ta, trên ấy đã mất hết màu xanh của sự sống.Có còn cứu được không?Còn, với một điều kiện: biết giật mình, dừng lại, bắt đầu lại.Cũng cần nói: hầu hết các nước mà ngày nay ta gọi là những nước phát triển đều đã đi qua “con đường đau khổ”, đúng hơn là con đường ngu dại này, cũng từng tàn phá hết rừng trên mặt đất và đào bới tàn bạo lòng đất, ở nước họ, rồi ở các nước khác.

Chỉ có điều, gần một thế kỷ trước họ đã giật mình dừng lại, và từ đó bắt đầu làm lại, khôi phục lại màu xanh cho đất đai, núi non của họ.Đi sau, chúng ta có thể khôn ngoan hơn như lẽ ra phải thế. Sự vội vã, kiêu căng, và lòng tham không đáy, đã che mắt chúng ta. Đang còn tiếp tục che mắt chúng ta. Chúng ta vẫn còn hăng lắm trong việc chặt phá nốt đôi chút còn lại và đang bắt đầu một công cuộc đào bới hung dữ.Cần ngay bây giờ chấm dứt mọi khai phá ở Tây Nguyên.

Cần nghĩ đến một con đường sống khác, một kiểu sống khác, một kiểu phát triển khác. Trên cả nước. Trước hết trên mái nhà sinh tử Tây Nguyên. Bắt đầu lại một công cuộc cứu lấy Tây Nguyên. Bắt đầu một sự nghiệp to lớn trồng lại rừng Tây Nguyên, trong một trăm năm, quyết liệt, kiên định, thông minh, với những kế hoạch cụ thể, cho 50 năm, 20 năm, 10 năm, 5 năm, toàn Tây Nguyên, từng tỉnh, từng huyện, từng xã, từng làng.Khôi phục lại màu xanh cho Tây Nguyên.

Bắt đầu ngay từ hôm nay, mùa xuân, mùa của màu xanh, của sự tỉnh táo, khôn ngoan.Cho đến một ngày, có thể một trăm năm nữa, con cháu chúng ta sẽ có thể bụm vào lòng bàn tay một ngụm nước mội trong veo mát lạnh rỉ ra từ đất cát và ngữa cổ uống ngon lành. Và biết rằng cha ông chúng từng rất dại dột, nhưng rồi cũng đã từng biết khôn ngoan, để cho sự sống từng sắp bị triệt diệt, lại được cứu, lại sinh sôi, phát triển, trường tồn.

Nguyên Ngọc.










NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC: “CHÚNG TÔI KHÔNG COI VĂN HỌC VÀ NHÀ VĂN LÀ CÔNG CỤ CỦA AI HẾT”



Liêu Thái thực hiện
26-05-2015



Thưa nhà văn, là một người thuộc vào hàng “công thần khai quốc” của Hội Nhà Văn Việt Nam, đồng thời cũng là chủ khảo của nhiều giải văn học của Hội Nhà Văn Việt Nam (HNVVN), có thể nói là bề dày cống hiến của ông với HNVVN rất dày. Nhưng ông vừa có quyết định từ bỏ HNVVN, ông vui lòng cho biết nguyên nhân và lý do dẫn đến quyết định này? Và HNVVN đã có phản ứng gì với quyết định cùa ông?

Tôi có dự đại hội thành lập HNVVN năm 1957. Tất cả những người dự đại hội đó đều được coi đương nhiên là “hội viên sáng lập”. Tôi là một kiểu “công thần khai quốc” như thế đấy thôi! Hồi đó tôi còn rất trẻ, từ tỉnh lẻ xa xôi mới ngơ ngác về Hà Nội và vừa có tác phẩm đầu tay. Được vào Hội là thích lắm rồi. Về sau mới dần dần hiểu ra và nghĩ khác.

Năm 1979, tôi có lần nói với ông Lê Đức Thọ, bấy giờ là người có vị trí rất cao trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Theo tôi quy luật tự nhiên của đời sống văn học là những người cầm bút chơi với nhau, tập họp nhau thành từng nhóm, hoặc vì cùng khuynh hướng nghệ thuật, hoặc vì nhu cầu giúp đỡ nhau thế nào đó, hoặc cũng có thể đơn giản vì thích tính nhau, gần gũi nhau sao đó… Trong từng nhóm như vậy, họ trao đổi với nhau về nghề nghiệp, về xã hội, về mọi thứ…, nhắc nhở, động viên, an ủi nhau trong công việc khó khăn nhất, tuyệt đối độc đảm, chẳng ai thay thế hay làm giùm ai được, là viết, đối mặt với trang giấy trắng; rồi ra sách, đưa sáng tác của mình đến công chúng; giúp nhau trong đời sống, bảo vệ nhau về nghề nghiệp và về xã hội. Một nền văn học phát triển một cách tự nhiên và lành mạnh là từ những nhóm như vậy. Ở ta trước đây và ở hầu khắp thế giới xưa nay đều như thế, tạo nên một đời sống văn học nhẹ nhõm mà đa dạng, giàu có. Từ sau 1945 ta lùa tất cả vào một hội, lại là hội của nhà nước, là phi tự nhiên, chỉ chật chội và làm nghèo văn học. Trong chiến tranh, còn chừng nào chấp nhận được; trong hòa bình rất không nên… Tôi nói với ông Lê Đức Thọ rằng trước sau đời sống văn học cũng sẽ đi theo con đường đó, nếu Đảng muốn lãnh đạo thì Đảng nên chuẩn bị để thích ứng với tình hình đó. Vả chăng, theo tôi, cũng chẳng nên lãnh đạo. Nếu xã hội cần văn học, ấy là cần tiếng nói riêng, khác biệt, độc đáo của từng nhà văn, góc nhìn, cách nhìn riêng của họ, từng người, từng nhân cách và từng tài năng, bằng cách chỉ có văn học làm được, không ai giống ai. Dồn hết họ vào một hội, để chỉ đạo thống nhất, buộc họ nghĩ giống nhau, tức triệt tiêu mất cái riêng họ có, riêng nhà văn mới có để đóng góp, khiến họ chỉ có thể là công cụ tầm thường, vô dụng, còn tai hại nữa, vì khi đó họ chỉ có thể nói theo, nói dối… Rất lạ là ông Lê Đức Thọ bảo: “Nghe cũng phải, để xem…”. Nhưng rồi về sau không thấy ông nói gì, làm gì nữa. Chắc ông còn những lo toan khác, nghiêm trọng hơn, ở chốn cung đình. Mà về phần tôi, tôi cũng không chờ đợi gì ở ông. Nếu đến một lúc nào đó chúng ta có một đời sống văn học thực sự, bình thường, tự nhiên, thì đó cũng do chính những người cầm bút làm ra. Chứ không phải chờ ai cho. Như vậy cái lúc đó nay đã đến. Việc từ bỏ HNVVN hôm nay của chúng tôi là một bước tất yếu theo con đường đó.

Nhắc lại như vậy để nói rằng, ít ra từ 30 năm trước, tôi đã thấy không nên có một hội nhà văn như HNVVN bây giờ, và tôi nên ra khỏi hội đó. Chưa ra ngay vì còn đôi cân nhắc. Năm 1989 tôi được đại hội HNVVN lần thứ tư bầu vào Ban Chấp hành gồm 9 người. Tôi đã nói với các anh chị đã bầu tôi rằng tôi đang đứng trước một lựa chọn: hoặc ở lại làm, hoặc từ chức ngay. Vì tôi biết, với cơ cấu đó, thể chế đó, sẽ có những việc tôi muốn làm, thấy cần làm, cần bảo vệ nhưng tôi sẽ không thể làm được, không bảo vệ được; có những việc tôi biết là xấu, có hại, nhưng tôi sẽ không ngăn được. Cuối cùng tôi đã quyết định ở lại, vì nghĩ bằng cố gắng hết sức may ra có thể làm được đôi việc có ích, và ngăn được đôi điều có hại. Kết quả cũng có lần thành công: Như năm 1991 tổ chức được giải thưởng HNVVN hay nhất trước nay, trao cho ba tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma và Bến không chồng. Nhưng đến năm tiếp sau thì người ta đã rút kinh nghiệm để không cho một giải thưởng “sai lầm nghiêm trọng” kiểu đó lặp lại. Còn thì nhiều thất bại: chẳng hạn đã không ngăn chặn được HNVVN vùi dập tập thơ Chân dung nhà văn của Xuân Sách…

Trong các đại hội tiếp sau đó, cho đến đại hội lần thứ 9 đang được chuẩn bị hiện nay, HNVVN ngày càng tự khẳng định trước hết là “đoàn thể chính trị” (đương nhiên là của Đảng Cộng sản Việt Nam), rồi sau đó mới đến “xã hội”, cuối cùng mới là “nghề nghiệp”. Tôi nghĩ, đơn giản: Vậy thì hãy cứ lập một HNV của Đảng Cộng sản Việt Nam đi. Còn thì để cho những người cầm bút nghĩ khác lập những hội, nhóm khác. Sẽ phong phú, đa dạng hơn, vui hơn.

Thực ra từ hơn 10 năm nay tôi đã không còn dính dáng gì đến HNVVN, không dự sinh hoạt nào, không nhận gì của hội đó. Tôi kính trọng nhiều anh chị đang ở trong hội và tôn trọng sự lựa chọn của từng người. Riêng tôi, ngày tôi càng thấy HNVVN với cơ chế và một ban lãnh đạo như hiện nay không còn có ích gì cho nền văn học Việt Nam, cho người cầm bút, trái lại đang là công cụ đắc lực và không thể khác của một guồng máy phản dân chủ gây hại ngày càng nghiêm trọng cho mọi sáng tạo chân chính, cho cả nền văn học. Một HNVVN như hiện nay thực chất chỉ là cách để Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước kiểm soát văn học.

Trước đây tôi chưa ra vì không muốn gây ồn ào. Việc lãnh đạo HNVVN chủ trương gạch tên những người có ý kiến khác mình trong bầu cử đại biểu cho đại hội của HNVVN vừa rồi chỉ là giọt nước cuối cùng tràn ly của một việc, theo tôi, trước sau cũng sẽ đến. Cũng là dịp để chúng tôi cùng quyết định một lần.

Cho đến nay tôi chưa thấy HNVVN có phản ứng gì đối với quyết định của tôi. Chỉ có việc buồn cười: Nghe nói trong đại hội của chi hội HNVVN quanh cơ quan hội ở Hà Nội vừa rồi lại có quyết định cử tôi làm đại biểu chính thức đi dự đại hội HNVVN sắp tới. Cứ như trò hề! Cũng nghe tin ông Đỗ Hàn nào đó ở cơ quan hội nói rằng lãnh đạo hội chưa nhận được đơn xin ra hội của chúng tôi, đến khi nhận được sẽ xử lý theo điều lệ. Xin nói rõ: Chúng tôi tuyên bố từ bỏ một hội đã suy thoái không phương cứu chữa, không xin phép ai đâu!

Có thể nói rằng với tư cách một nhà văn, ông là một nghệ sĩ rất nặng lòng với dân tộc, với công cuộc giáo dục Việt Nam, và đứng trên phương diện một trí thức, ông có phản ứng rất mạnh mẽ với những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Liệu tâm thế này có mối liên hệ nào với quyết định rời bỏ HNVVN của ông?

Để trả lời câu hỏi này của anh, tôi muốn dẫn lại ở đây một câu của Bernard Frank viết về cuốn sách De Gaulle của François Mauriac mà Frank rất chê, đăng trên báo Le Nouvel Observateur cách đây vừa đúng 50 năm: “Không có bất cứ một nhà chính trị nào trên thế giới đáng cho một nhà văn bẻ gãy ngòi bút của mình vì ông ta. Vai trò của chúng ta (nhà văn) – có cần nhắc lại không nhỉ? – đối với chính quyền nào cũng vậy, là không mệt mỏi đặt lại vấn đề, là thể hiện cái tinh thần phủ nhận, mà ông tướng ấy [tức De Gaulle] đã có lần phàn nàn…”. Vậy đó, tôi cũng hiểu về văn học và nhà văn đúng như vậy. Cũng có thể diễn đạt: Sở dĩ xã hội cần nhà văn, là vì anh ta nói tiếng nói khác, nhiệm vụ của anh ta là gây sự hoài nghi, anh ta khiến những điều đã tưởng là như thế chưa chắc đã là như thế. Văn học đề nghị với con người một cách nhìn khác về mọi sự vật. Tôi hiểu như vậy, sống như vậy, nên không có khác biệt cơ bản nào giữa những việc tôi can dự theo trách nhiệm công dân của mình, về xã hội, về chính trị, về văn hóa, về giáo dục… mấy mươi năm nay, với việc tôi cầm bút và thái độ của tôi đối với HNVVN hôm nay.

Là người chủ xướng xây dựng Văn đoàn Độc lập, ông vui lòng cho độc giả biết đôi nét về Văn đoàn Độc lập?

Trước hết chúng tôi muốn chấm dứt tình trạng dồn nhau hết vào trong một HNV của nhà nước, nằm chung trong cái gọi là “hệ thống chính trị” của Đảng và nhà nước, đương nhiên là công cụ của họ. Chúng tôi không coi văn học và nhà văn là công cụ của ai hết.

Chúng tôi muốn gặp nhau trong một hội đoàn gồm những người cầm bút độc lập, sống, viết một cách độc lập và chịu trách nhiệm về cái viết của mình trước cuộc sống, trước đất nước và công chúng của mình.

Chúng tôi là nhóm họp của những người cầm bút độc lập đầu tiên. Mong sẽ là mở đầu cho những nhóm họp đa dạng, phong phú nữa về sau.

Sau năm 1975, tôi nghĩ nhiều đến một cuộc phục hưng dân tộc sau một giai đoạn lịch sử kéo dài, một thế kỷ nô lệ, tiếp liền một thế kỷ chiến tranh không chỉ vô cùng ác liệt mà còn vô cùng phức tạp (đến mức tới hôm nay còn tranh cãi chưa xong chiến tranh ấy thực sự là chiến tranh gì!). Trong công cuộc to lớn đó, nền tảng là phục hưng văn hóa. Theo tôi, một công cuộc cần thiết và căn bản như vậy đã không được nhận thức đúng mức, thậm chí hầu như không hề được nhận thức. Ngược lại phổ biến tâm lý, từ trên tầng cao nhất, coi mọi sự là đã xong rồi. Trong khi công cuộc xây dựng, xây dựng lại dân tộc đáng ra cần bắt đầu, chỉ có thể bắt đầu, chứ không phải đã kết thúc. Chính vì thế mà cuộc đi tới của dất nước và xã hội 40 năm nay rất loạng choạng. Văn hóa xuống cấp như chưa từng thấy, xã hội mất ổn định nặng nề… Văn học không thể làm ngơ trước tình hình và nhiệm vụ này. Chúng tôi mong muốn góp phần xây dựng một nền văn học có thể giữ được vai trò xứng đáng của mình trong cuộc phục hưng căn bản và sống còn đó.

Theo ông, khi mà các dòng chảy văn hóa/văn chương cũng như các trào lưu tiến bộ trên thế giới đang từng ngày thâm nhập vào Việt Nam, liệu với cơ chế hoạt động hiện tại, HNVVN sẽ đi đến đâu?

Theo tôi, ở phía Bắc, do những điều kiện khách quan và chủ quan – mà chủ quan là chính – đã bị cắt đứt với dòng chảy văn hóa/văn chương thế giới trong hơn nửa thế kỷ. (Đúng ra chỉ có thông thương với thế giới xô viết và các nước gọi là xã hội chủ nghĩa, một thế giới cũng khá khép kín). Trong khi đó, ở miền Nam dòng chảy này thông thoáng, mạnh mẽ, tương đối cập nhật và liên tục hơn nhiều. Cho nên nối kết trở lại được với di sản của văn học miền Nam trong suốt thời 1954-75, cũng là một trong những cửa mở thông thương với các trào lưu thế giới phong phú và đa dạng. Và là góp phần khôi phục lại dòng chảy bình thường, lành mạnh cho đời sống văn học nước nhà. Chính trên nhận thức như vậy mà chúng tôi đã cố gắng mở mục “Văn học miền Nam 1954-1975” trên trang mạng Văn Việt của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập. Thừa kế tốt di sản gần của văn học miền Nam 1954-1975 cũng là một trong những điều kiện quan trọng để văn học làm được vai trò cần có của nó hôm nay.

Một cơ chế đầy kiêng kỵ ý thức hệ như của HNVVN hiện nay đương nhiên ngăn cản việc mở cửa ở hướng này. Chỉ mới nói riêng về mặt này thôi, ở một việc này thôi, đã cho thấy cơ chế của HNVVN, dù muốn dù không, về cơ bản là một cơ chế đóng kín. Cơ chế đó tất cũng sẽ đóng kín với mọi trào lưu tiến bộ trên thế giới, sẽ khiến sự phát triển văn học chật hẹp lại rất nhiều, bất chấp những cái gọi là hoạt động quốc tế ồn ào, hình thức, tốn kém của hội.

Cũng là một cái cớ nữa để mà khó chấp nhận một hội như thế.

Liệu việc từ bỏ HNVVN cũng như dám đứng ra bày tỏ thái độ yêu nước, kêu gọi chống họa ngoại xâm có làm khó cho ông trong công việc hằng ngày cũng như trong hoạt động sáng tác?

Vừa có vừa không, anh ạ.

Tôi đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, đã bị đài truyền hình Hà Nội đưa hình lên khi nói về “bọn phản động bị các thế lực thù địch ngoài nước xúi giục” rồi. Sau khi lập Ban Vận động Văn đoàn Độc lập thì có chỉ thị cho các báo và các phương tiện truyền thông khác trong nước không được đăng bài vở của tôi, cũng như của tất cả những người tham gia Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, cũng không được nhắc đến tên tuổi chúng tôi nữa. Hội thảo về Nguyễn Đổng Chi vừa rồi cũng bị cấm không được mời tôi, tham luận của tôi gửi đến từ trước bị loại ra khỏi kỷ yếu hội thảo… Về những chuyện này có hai điều cần nói: một số báo vẫn xé rào đăng bài của tôi, đưa tin về tôi. Nghĩa là họ thấy cái chỉ thị kia thật lố bịch. Và theo tôi biết tất cả cấm đoán đó đều chỉ được truyền từ trên xuống bằng miệng, qua điện thoại hay tin nhắn. Một đảng, một nhà nước kỳ lạ. Đánh người toàn bằng đánh trộm, thụi ngầm và phi tang. Nghĩa là người ra lệnh cũng tự biết việc làm của mình ám muội thế nào.

Tuy nhiên tất cả những chuyện đó về cơ bản không gây sứt mẻ gì đối với tôi. Bị quấy nhiễu, tôi đã quen. Còn khi cầm bút, tôi vẫn thanh thản. Sợ nhất là tâm không yên để mà viết, và viết cho hay. Mà cái đó thì là tự trong lòng mình, tự mối liên hệ riêng của bên trong mình với cuộc sống; quấy nhiễu chỉ là ở ngoài, chẳng làm rối được tâm mình.

Là một người có tác phẩm trong chương trình giảng văn, theo ông, vấn đề dạy và học văn hiện tại có phù hợp với nhu cầu cũng như môi trường văn chương đương đại?

Phải nói dạy và học văn trong nhà trường hiện nay đang ở tình trạng tai họa. Nói chi đến chuyện “phù hợp với nhu cầu cũng như môi trường văn chương đương đại”, sẽ là quá sang. Theo tôi, ở môn này hiện nay, người dạy chân chính đang rất gặp khó, người học thì chán ghét. Cũng phải thôi, vì văn – có lẽ cùng với môn sử – là môn bị chính trị hóa nặng nề và thô thiển nhất. Tôi nghĩ không thể nói sự suy thoái của môn văn trong nhà trường không liên quan gì đến sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức xã hội. Nhân đây cũng xin nói một điều: Trong chuyện văn chương, cũng như chuyện dạy và học văn, ở ta vẫn quen coi trọng đúng sai, hơn là hay dở. Trong khi, trong văn chương, “đúng” sẽ chẳng là gì cả, chẳng để làm gì cả, nếu dở. Và văn chương dở thì cực kỳ tai hại. Nó phổ cập, truyền nhiễm cái tầm thường, khiến người ta quen với sự tầm thường, đẩy người ta vào môi trường thường trực của sự tầm thường, cũng như quen ở dơ vậy, lại là cái dơ về tinh thần. Mà tầm thường, dơ bẩn về tinh thần là môi trường của cái xấu, cái ác.

Sự suy thoái của môn văn trong nhà trường hiện nay là đáng báo động, không chỉ về văn học, cho văn học, mà là báo động xã hội.

Cơ chế hoạt động hằng năm của HNVVN dựa vào nguồn kinh phí nào và theo ông cơ chế này có phù hợp với sinh quyển sáng tác, phù hợp với nhu cầu sáng tạo của người nghệ sĩ trong hiện tại?

Dĩ nhiên, kinh phí của nhà nước. Cho nên, tất yếu, “sinh quyển”, như anh gọi, cũng là sinh quyển văn chương nhà nước! Cũng là công bằng thôi: Anh nhận tiền của người ta thì anh phải viết cho người ta chứ, gian lận sao được! Hình như chị Ngô Thị Kim Cúc có nói với anh rồi: ở Ban Vận động Văn đoàn Độc lập chúng tôi đều nghèo, nhưng chúng tôi chắt chiu góp tiền túi với nhau để làm mọi việc, cũng còn ít oi. Ngó vậy thôi, mà đây cũng là chuyện nhân phẩm và nguyên tắc của người cầm bút.

Ông có dự tính gì mới trong các hoạt động sắp tới của Văn đoàn Độc lập? Tiêu chuẩn để trở thành thành viên Văn đoàn Độc lập?

Hiện nay chúng tôi đang tập trung vào trang Văn Việt.

Tôi xin tâm sự với anh điều này, khi làm mục “Văn học miền Nam 1954-1975”, đọc lại một phần văn chương miền Nam thời ấy, tôi nhận ra một chỗ khác biệt với văn chương miền Bắc cùng thời: văn chương miền Nam thời ấy có triết học, văn chương miền Bắc thì không. Tất nhiên văn chương không phải là triết học, nhưng một nền văn chương không có triết học thì nguy. Có lẽ một trong những điều chúng tôi sẽ cố gắng sắp tới là giúp nhau đọc nhiều hơn, đông tây kim cổ, nhất là những tìm tòi mới về tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật…, để cho văn chương nghĩ về nhân tình thế thái đỡ cạn cợt, nói về con người và xã hội thấu đáo hơn. Chắc phải bằng nhiều cách, trên trang Văn Việt cũng cần tìm cách đi thêm về hướng này.

Có lần tôi nói với anh Trần Độ về mong muốn đến lúc nào đó trong văn chương ta xuất hiện được một hay vài đỉnh cao mới. Anh ấy bảo: “Mình cũng mong thế, nhưng mình nghĩ trong nghệ thuật muốn có đỉnh cao mới thì phải có trường phái mới…”. Đời sống văn hóa của chúng ta, giáo dục chúng ta, sinh hoạt văn chương của chúng ta không khuyến khích trường phái, nhất là không tạo nền tảng cho những trường phái mới xuất hiện. Có lẽ đã đến lúc nghĩ đến điều này một cách nghiêm túc. Tổ chức của chúng tôi còn nhỏ, nhiều khó khăn, nhưng chúng tôi có tham vọng. Đây cũng là một hướng chúng tôi đang nghĩ tới.

Về cụ thể, chúng tôi cũng đang tính đến một số hình thức hoạt động, như các cuộc thảo luận, đa dạng và cởi mở, một kiểu giải thưởng sao đó… Trong nghệ thuật hình như có hiện tượng: cái hay, và chỉ có cái hay mới gọi được cái hay, cái mới lại kích thích cái mới. Những giải thưởng của Tự lực Văn đoàn ngày trước là vậy, chính qua đó mà văn đoàn này có thể nói đã có công gầy dựng được cả một lớp nhà văn kế tiếp đặc sắc …

Về thành viên Văn đoàn, chắc chỉ có hai “tiêu chuẩn”: Chúng tôi mong muốn được đón tiếp những cây bút tài năng. Và là người tự nguyện phấn đấu cho tôn chỉ “Vì một nền văn học đích thực, tự do, nhân bản”.

Dự đoán của ông về tương lai văn học trong những thập niên tới?

Tôi không dám làm thầy bói. Chỉ xin nói hai hiện tượng theo tôi là đáng chú ý:

Tôi thấy đang xuất hiện một lớp người viết trẻ, chưa nhiều nhưng cũng không quá ít, có tài, và đặc biệt rất khác chúng tôi, về cảm nhận thế giới, và cả về tư duy và ngôn ngữ nghệ thuật. Tôi thường nghĩ thế này: Trong đám người chen chúc, hỗn loạn, trùng điệp đến vô diện mạo trên các đường phố Sài Gòn ta có thể thấy bất cứ giờ nào hôm nay, giá như ta có thể tách ra được từng người, có thể lắng nghe được tận sâu kín bên trong của họ, từng người, làm sao trong họ, ít ra ở một số người và từng lúc, lại không có, không nuôi những khát khao và hy vọng về một thế giới tinh khiết, trong trẻo, an lành, thật tốt đẹp… Có thể mong manh lắm, nhưng có… Hình như những người cầm bút trẻ tôi vừa nói trên, đến lượt họ, sẽ nói về cái phần lắng đọng đó, về thế giới mong ước xa xôi đó… Có thể tin.

Cạnh đó, cũng đã thấy một số bạn trẻ rất tài năng, đang đi vào con đường nghiên cứu văn hóa uyên thâm, cập nhật với những vấn đề và suy tưởng mới nhất, và từ đó đang trở lại suy gẫm về văn hóa, văn chương của chúng ta. Có thể chăng họ đang tạo một cái nền cần thiết cho chuyển động văn học mới. Họ làm việc thường lặng lẽ mà ráo riết. Tiếng nói của họ không ồn ào. Chúng tôi đang chăm chú lắng nghe. Và thiết tha chờ đợi.

Xin cám ơn ông, kính chúc ông mạnh khỏe, an lạc!

Nguồn: Bản do nhà văn Nguyên Ngọc cung cấp. Đã đăng trên Người Việt










NGƯỜI ANH HÙNG ĐÃ RA ĐI

Nguyên Ngọc



Tôi quen anh Bùi Ngọc Tấn nhiều là từ khi đọc bản thảo Mộng du, tên ban đầu của Chuyện kể năm 2000, anh Tấn từ Hải Phòng gửi lên dự cuộc thi tiểu thuyết do nhà xuất bản Hà Nội tổ chức. Chị Hoàng Ngọc Hà giám đốc nhà xuất bản nhờ tôi đọc, đọc xong tôi nói với chị : nếu được làm trưởng ban giám khảo tôi sẽ xin trao ngay giải nhất cuốn này không chút đắn đo … Chuyện kể năm 2000 có số phận của những tác phẩm lớn, nó thuộc những cuốn sách như một danh ngôn đã nói : Các bản thảo là thứ không cháy (Les manuscrits ne se brûlent pas). Long đong, mà không, không thể chết. Nó không được giải thưởng, sách cũng không được in, dù chị Hà biết rõ giá trị lớn của nó. Phải đợi đến mấy năm sau mới có một người làm biên tập dám đánh đổi cả sự nghiệp và điều ở ta thường được gọi là “ sinh mệnh chính trị ” của mình để trang trọng đưa nó ra đời, cho nhân dân, cho đất nước, cho con người : anh Bùi Văn Ngợi ở nhà xuất bản Thanh Niên. Anh Ngợi bị kỷ luật, phải về hưu sớm. Và một vị bộ trưởng, khốn thay, từng là nhà thơ có tiếng, đã cho xử tử ngay Chuyện kể năm 2000. Cuốn sách vừa ra lò bị đem xay thành bột. Nhưng, danh ngôn kia là chân lý, mà hết lứa này đến lứa khác những người cầm quyền tư tưởng không chịu, không thể hiểu : bản thảo là thứ đốt không cháy, nghiền không nát. Như trong một truyện thần kỳ, bằng nhiều cách nó đến tay và được hàng triệu người Việt Nam đọc. Rồi nó đi vòng ra thế giới, trong bản dịch tiếng Pháp nó có tên làConte pour les siècles à venir, Chuyện kể cho các thế kỷ mai sau. Vậy đó, không thể băm vụn nó trong không gian, cũng không thể hỏa thiêu nó trong thời gian. Rất đơn giản : vì nó chứa tư tưởng, là thứ không thể diệt, là thứ mà các các triều đại liên tục không sao thoát khỏi được căn bệnh u mê tin có thể hạ sát bằng bạo lực. Càng không thể đánh bại được vì đây là sức mạnh của tư tưởng về lòng nhân từ. Cuốn sách của anh Tấn nói về một sự kỳ lạ đến tưởng khó tin : sức mạnh bất tử của lòng nhân từ. Chiến thắng của lòng nhân từ trước mọi bạo lực và nham hiểm. Tôi nói điều này mà không sợ quá sai : Bùi Ngọc Tấn có lẽ là nhà văn nhân từ nhất từng có ở ta. Hiền hậu, khiêm nhường, trữ tình, đến ngây thơ. Yêu đời, yêu người, yêu thiên nhiên, đất trời, cây cỏ… đến ngây dại. Hóm hỉnh, nhẹ nhàng, thong dong, từ tốn đến hơi vụng về và chậm chạp… Nhưng cũng là người dũng cảm nhất trong những người cầm bút chúng tôi. Một dũng khí phi thường trước cái ác cùng mọi sáng tạo nham hiểm nhất của nó.

Bùi Ngọc Tấn kể chuyện một người bị bắt và bị tù oan, vì những chuyện ở đâu đâu, hẳn là chuyện người ta đấu đá tranh dành nhau ở tận đâu đó trên cung đình xa tít kia chẳng dính dáng gì đến anh, anh là một con tốt vô danh trên một bàn cờ xấu xa bẩn thỉu, bị tù mà chẳng hề có án gì hết, cũng tức là có thể vô tận, như đột nhiên bị rơi vào khoảng không mịt mù về cả không gian lẫn thời gian. Cái nhà tù kiểu Kafka đó lại có chỗ khác Kafka, nó có một mục tiêu rất rõ ràng : đánh bại con người, hạ nhục con người đến tận cùng, quá cả sự tận cùng nữa, cho đến chỗ không thể, không còn là con người, cho đến chỗ cái con từng là con người kia mất đi cho kỳ hết chất người, chỉ còn hoàn toàn là con vật. Sạch sành sanh nhân tính, sạch sành sanh nhân cách, nhầy nhụa như con vật. Tôi cho rằng một trong những kỳ tích văn học, văn hóa lớn lao của Chuyện kể năm 2000 là nó đã chỉ ra, một cách hết sức cụ thể, vô cùng sống động và đáng sợ, cái mục tiêu sâu thăm thẳm và đen ngòm của những thế lực chủ trương kiểu nhà tù của một ý thức hệ đồi bại và tàn phá đó. Bùi Ngọc Tấn nói rằng cái đó đang có, ở đây. Một phát hiện cảnh báo và dũng cảm.

Có một câu hỏi : vì sao bọn họ lại làm như thế ? Hình như Jean Paul Sartre, trong tác phẩm lý luận đặc sắc Văn học là gì ? đã có lần trả lời khi nói về tra tấn của bọn đầu hàng trong thời phát xít Đức chiếm đóng nước Pháp. Ông bảo đấy là bọn đã sa xuống hàng thú vật, nên chúng vô cùng căm ghét những ai còn là người. Chúng căm thù nhân cách của con người. Tao đã thành thú vật sao mày còn là người ?

Câu chuyện Bùi Ngọc Tấn kể cho các thế kỷ mai sau là một câu chuyện như thế đó. Từ tốn, nhỏ nhẹ, không chút hằn học, hận thù, anh kể chuyện một con người, chuyện những con người, bị đày đọa đến tận cùng, đã uống đến cặn đáy của khổ đau, vẫn từng ngày, từng phút, từng giây giữ chắc phẩm giá của con người. Sự bình tĩnh, nhân hậu của ngòi bút anh cho thấy đức dũng cảm ở con người của anh cao cả biết dường nào. Để cho ta, cho mỗi chúng ta, cho con người mãi mãi mai sau hiểu và tin rằng không gì đánh bại được con người. Vậy đó, lạ thay, tác phẩm để đời của Bùi Ngọc Tấn, cuốn sách của khổ đau cùng cực, lại là cuốn sách của niềm tin. Niềm tin vĩ đại ở con người. Là bản tráng ca về con người bất tử. Bản anh hùng ca về phẩm giá không thể nghiền nát của con người.

Chỉ con người có lòng nhân hậu mênh mông mới có được lòng dũng cảm phi thường đó.

Vâng, Bùi Ngọc Tấn, một người anh hùng như vậy vừa ra đi.

*

Cách đây hơn hai tháng, ngay 4 tháng 10, tôi nhận được bức thư này của anh Tấn, hóa ra là bức thư cuối cùng :

“ Tôi đã về Hải Phòng được 1 tháng rồi. Ít ngủ lắm anh ạ.

Ngày mai, thành đoàn Thanh Niên Hà Nội mời tôi lên họp mặt kỷ niệm 60 năm tiếp quản Thủ Đô, đã định đi, một bạn đọc, anh Cư ( người đã gặp anh, đã in CKN2000 thật đẹp để tôi tặng) cho một chuyến xe về Hà Nội mà rồi không đi được vì sức khỏe.

……

Quyển Các bạn tôi trên ấy của anh còn đang phiêu bạt, không biết bao giờ mới trở về với tôi. Trông anh trong bức ảnh yêu quá đấy. Cuộc đời qua thật nhanh, nghĩ cũng tiếc là mình chưa sống cho mình được bao nhiêu. Tôi sẽ cố cầm cự với khối u này một ít thời gian vì còn mấy việc lặt vặt nữa phải làm.

Tết này, mong lại được đón các anh…”

Anh Tấn ạ, lỡ hẹn mất rồi, Tết này không còn được gặp lại nhau.

Bùi Ngọc Tấn là một tài năng văn học lớn. Một trong những đặc điểm của tài năng nghệ thuật là nó luôn đơn nhất, không có hai, không lặp lại. “ Mấy việc lặt vặt nữa ” anh Tấn bảo anh phải cố cầm cự với khối u để làm là những gì, không còn ai có thể biết.

Không đâu, dẫu cố an ủi nhau trước nỗi đau hôm nay, ta cũng không thể biết ta đã mất gì khi Bùi Ngọc Tấn ra đi, mãi mãi, mãi mãi …

Nguyên Ngọc


(*) Bài đăng trên báo Người Đô Thị Tết Ất Mùi 2015, đây là bản chính của tác giả.








Tác phẩm mới nhất










Các Bạn Tôi Ở Trên Ấy
Bút ký 2013
Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội















Tác phẩm đã xuất bản:






1
Đất nước đứng lên
1955






2
Rẻo Cao
(1959)




3
Mạch Nước Ngầm
(1960)




4
Rừng Xà Nu
(1965)





5
Đất Quảng
(1969)





6
Tháng Ninh Nông
(1979)









7
Có Một Con Đường Mòn Trên Biển Đông
(1995)







8
Cát Cháy
(1997)







9
Tản Mạn Nhớ Và Quên
(2001)







10
Lắng Nghe Cuộc Sống
(2003)








11
Nghĩ Dọc Đường
 2005








12
Bằng Đôi Chân Trần
(2008)






13
Các bạn tôi ở trên ấy
Nhà xuất bản Trẻ, 2013.



















Dịch Phẩm:





14
Roland Barthes: 
Le Degré Zéro De L'écriture




15
Jean Paul Sartre: 
Qu'est-Ce Que La Littérature




16
Milan Kundéra: 
La Théorie Du Roman. Les Testaments Trahis




17
C.Levi-Strauss: 
Tristes Tropiques




18
Jacques Dournes: 
Populations Montagnardes Du Sud Indochinois





19
Foret, Femme, Folie




20
P'tao, Une Théorie Du Pouvoir






21
Henri Maitres: 
Les Jungles Moi






22
Anne De Hautecloque Howe: 
Une Société De Droit Maternel.












Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà Nu

Thơ Xuân Sách











Phỏng vấn




Văn học, nội lực, trong-ngoài, và ….
vài tra vấn với nhà văn Nguyên Ngọc



Nhà văn Nguyên Ngọc tên thật là Nguyễn văn Báu, sinh năm 1932 tại Đà Nẵng, sống tại Hội An, còn có bút hiệu là Nguyễn Trung Thành. Ông tham dự hai cuộc chiến tranh, nguyên Đại Tá QĐND Việt Nam, lăn lộn trên chiến trường miền Nam, Tây Nguyên và chiến khu V cho đến ngày hòa bình. Không hỏi, ông chỉ nói mình đã từng là Bí Thư xã, một chức vụ có lẽ ít người mang ra khoe. Hỏi, ông mỉm cười ( ngượng ngịu ? ) nhận đã từng là Đại biểu Quốc Hội khóa VI, Phó tổng thư ký Hội Nhà Văn Việt Nam (79-86). Những chức vụ đó thường thuộc loại hữu danh nhưng ít khi (thiết) «thực». Ông dí dỏm kể, suốt thời gian làm Đại Biểu Quốc Hội, ông phát biểu có đúng một lần, về vấn đề tự do báo chí…



- Thưa anh, anh đã làm Tổng biên tập tuần báo Văn Nghệ từ 1987 cho đến 1989. Anh có thể kể sơ qua cho độc giả Hợp Lưu cái nhân duyên nào đã khiến anh nhận cái trách nhiệm ‘’cởi trói’’ cho văn nghệ thời đó không ?

- Cái thời đó báo Văn Nghệ ế lắm, ra đâu được hai mươi hay hai mươi lăm ngàn số gì đó, đọc thì chán nên bán không ai mua, ngân sách thâm thủng, lại đèo bồng một ban biên tập ăn không ngồi rồi đông lắm…Tìm Tổng biên, chẳng ai «xung phong». Thế rồi có một ai đó gióng lên tên tôi …Anh em họ bảo, cũng được đấy, cũng tốt thôi. Anh Trần Độ lúc đó là Trưởng ban Văn Hóa Văn Nghệ nghe, rất đồng ý. Anh Nguyễn Đình Thi lúc đó là Tổng thư ký Hội Nhà Văn ban đầu cũng vun vào, nhưng sau nghĩ lại lại ngại ngùng thế nào đó nên dùng dằng. Thế nhưng bên văn phòng ông Độ, người ta cứ điện thoại giục mãi cho nên cuối cùng thì rồi… cũng tốt thôi. Cái thuở ban đầu lăng nhăng ấy ( chứ không phải là lưu luyến gì nhé ), việc cần làm ngay (nói kiểu khẩu hiệu lúc bấy giờ) là mời đâu đến gần nửa số anh em trong Ban Biên Tập là cứ lãnh lương nhưng không phải đến cơ quan, để yên cho người khác làm việc…


- Có những nghề là nghề không làm gì cả. Có những nghề chuyên thọc gậy bánh xe (thơ Nguyễn Duy) !

- Ờ (cười)…Sau những cái linh tinh, đến đoạn phải chọn, phải tìm bài. Tôi lục đống bản thảo báoVăn Nghệ đã từ chối, thấy có Tướng Về Hưu của Nguyễn Huy Thiệp, quả là chuyện nhân duyên! Sau một thời gian ngắn, người đọc rất tinh lập tức nhận ra báo Văn Nghệ đã có sự chuyển hướng rõ rệt, quyết nhìn thẳng vào các vấn đề xã hội nóng bỏng, liền quay lại với tờ báo, thật sự coi đó là tiếng nói tâm huyết và trung thực của họ, báo phát hành đến trăm năm mươi ngàn số mà vẫn thiếu. Anh Nguyễn Khắc Viện ở SàiGòn về, bảo anh ấy từng sống bên Tây mấy mươi năm, nhưng chưa bao giờ anh ấy thấy cái cảnh người ta đứng chờ ở sạp báo rồi thuê để đọc, đọc xong trả lại, có người khác thuê ngay…Đó là thời có Cái Đêm hôm ấy Đêm gì của Phùng Gia Lộc, Tiếng đất của Hoàng Hữu Cát, Người đàn bà quỳ của Xuân Ba, Lời khai của bị can của Trần Huy quang, người ít lâu sau đó sẽ viết Linh Nghiệm là những sáng tác thật sự gây chấn động.


- Thời Văn Nghệ bị phê là ‘’làm’’ văn nghệ ẩn dụ và ám chỉ ?

- Ờ …người ta mang ra họp và hỏi những nhà văn nhà thơ, Linh Nghiệm thế này có đúng là ám chỉ Bác Hồ không ? Nguyễn Duy nó bảo không, chẳng thấy Bác đâu, chắc cái anh mang tố Linh Nghiệm có tính ám chỉ mới là cái anh xấu, cứ để nói mãi thì rồi đọc mãi cũng thấy có ám chỉ thật …

- Thế còn chuyện cởi trói?

- A, cái từ sau này thường được nhắc đi nhắc lại, là ‘’cởi trói’’, và ‘’cởi trói cho văn nghệ’’! Tôi thì tôi cho rằng cách nói thế là không hoàn toàn đúng. Nói như vậy là cho rằng bấy giờ đã có một ai đó, do có lòng tốt (thiện chí), do thấy thương hại, động lòng mà cởi trói và văn nghệ được hàm ơn nên rồi đã đổi mới. Sự thực, không phải như vậy. Chẳng ai có lòng tốt cả. Và trong những việc này, lòng tốt chẳng có ích dụng gì. Cuộc sống không phát triển do lòng tốt may rủi của một ai đó. Sự thật diễn ra thời ấy không phải như vậy. Ngược lại.

- Ngược lại ? Xin anh khai triển thêm…

- Sự thật bấy giờ là sự sống bị dồn nén lâu dài , do sức mạnh nội sinh tích luỹ, cuối cùng đã phá vỡ làm bật tung những ràng buộc vô lý, phi tự nhiên. Cuộc sống tự nó phá trói, mở đường đi tới. Những trói buộc đã bị bật tung vì chúng không đủ sức kìm hãm nữa. Nói cách khác, sự đi tới của cái tự nhiên, qua dồn nén lâu ngày, đã mạnh hơn cái phi tự nhiên. Đấy mới chính là bản chất của ‘’Đổi Mới’’. Như chúng ta biết, đổi mới đã được bắt đầu trong kinh tế, trước hết là trong nông nghiệp (với sự kiện khoán chui ở Vĩnh Phú cuối thập niên 60). Rõ ràng là nông dân đã tự phá trói chứ không phải lãnh đạo, do có lòng tốt mà chủ động cởi trói cho nông dân. Tất nhiên tôi hiểu và công nhận vai trò của những cá nhân cụ thể. Sự xuất hiện đúng lúc của họ tạo kích tố cho sự sống bung ra và phát triển nhanh hơn, thuận lợi hơn. Nhưng nghĩ cho cùng thì chính sức mạnh bị dồn nén đến lúc bứt phá đã ‘’đẻ’’ ra họ vào đúng thời điểm đó. Tôi cho rằng cần nhìn như vậy để hiểu rằng thời kỳ văn học 1986-1991 là có tính qui luật.


- Điểm qua thời đó, có những Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập, Dương Thu Hương, Nhật Tuấn, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Ngô Ngọc Bội…gây sự kiện đổi mới trong văn học. Sự bùng nổ này, anh cho là có qui luật. Thế thì vì sao nó ngưng lại từ 1992?

- Nói đến tính qui luật cũng để thấy nếu sau đó nó lại bị khựng lại, thì nói cho cùng, cũng là khó tránh khỏi, là tất yếu, là qui luật. Và cũng để tin rằng, đến một lúc nào đó, cũng sẽ tất yếu diễn ra một cuộc phá trói mới. Nói tóm lại, mọi diễn biến củ văn học, bứt ra, tiến lên, hay dừng lại, đều chủ yếu là do nội lực của nó. Không thể khác được .


- Nội lực của văn học? Thuật ngữ này nhắc tôi chuyện một văn hữu nhắn hỏi anh tại sao mà những nhà văn nước ta cứ như Trình Giảo Kim, chém đúng ba búa là rồi bỏ chạy dài dài… Cái «mệnh văn» của nhà văn An Nam, cụ Nguyễn Tuân than thở, nó yểu thế nào ấy. Trong văn học ta từ 92, rõ la øthiếu sự kiện và hiện tượng. Không có thành tựu trong tác phẩm. Xin hỏi anh, tại sao có hiện tượng chợ chiều này trong khi những vấn nạn và vấn đề mới mẻ trong xã hội thì đầy rẫy, nào là định hướng thị trường của cái XHCN oặt oẹo, sự bơ vơ ý thức hệ, xã hội trên đà mất (hay đang tìm…?) đạo đức (mới…?) ? Cái gì đã cản trở ? Có phải là vấn đề tự do sáng tác không ?

- Muốn hiểu vì sao có tình trạng chợ chiều hôm nay cũng không có cách gì khác hơn là nhìn lại thực chất nội lực của văn học. Văn học thời Đổi Mới đã bứt phá ra được vì nội lực của nó qua dồn nén lâu dài đã đến lúc trở nên mạnh hơn những lực lượng kìm hãm. Nhưng trong cuộc bứt phá đó nó đã «tiêu xài» hết nội lực có được, như chiếx xe cạn xăng, sức đuối dần đi, đến khi dừng lại hẳn như hiện nay.
Trong sự dừng lại hiện nay, có nguyên nhân của sự cản trở không ? Có chứ. Nhưng thử nghĩ xem bao giờ mà không có sự cản trở. Các lực lượng kìm hãm thì thời nào chỗ nào cũng không thiếu. Vấn đề là anh có đủ sức phá nó ra không ? Vấn đề hiện nay là tự anh đã yếu đi, do đã tiêu hết nội lực có thật của mình. Tôi cho rằng những hiện tượng như Nguyễn Huy Thiệp đã dừng lại, Bảo Ninh thì hầu như không còn viết gì đáng chú ý nữa …đều có thể nói là tất yếu. Họ đã «xài» hết cái «trời cho», tức tài năng bẩm sinh của họ cộng với «vốn sống», tức sự trải nghiệm của họ. Họ đã trở nên hụt hẫng.


- Có thể đây là một vấn đề quan trọng nhất của sự phát triển văn học Việt Nam nên xin anh đi sâu hơn nữa vào vấn đề này.

- Vâng…một nhà văn viết bằng cái gì ? Theo tôi, có ba cái chính : tài năng «trời cho», sự trải nghiệm, hay «vốn sống» và cái thứ ba là nền tảng văn hoá dân tộc và nhân loại mà anh ta có được , anh ta «đứng» trên đó để tiếp tục đi tới.
Lớp người trẻ cầm bút ở Việt Nam hiện nay thiếu hụt hơn cả chính là cái thứ ba này. Thử nhìn lại cha ông chúng ta, những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Đoàn thị Điểm, Hồ xuân Hương…mà xem. Khi họ cầm bút thì đằng sau lưng họ là cả một cái vốn văn hóa khổng lồ của phương Đông. Nền giáo dục thời đó đã cho phép họ chiếm lĩnh gần như toàn bộ những đỉnh cao nhất của văn hóa nhân loại ( hiểu ở nghĩa đối với chúng ta thời ấy chỉ bao gồm Trung Hoa và Aán Độ, với Nho Giáo và Phật Giáo). Chính trên cái nền tảng vĩ đại đó mà họ đã phát huy tài năng trời cho và vốn trải nghiệm sâu sắc của họ, tạo nên những tác phẩm có tầm mức kinh điển của thời đại họ. Qua đến thế hệ nhà văn thời Pháp thuộc thì nền tảng của họ là truyền thống văn hóa cũ cộng với tri thức mới do nền Tây học mang lại. Họ cũng có những đóng góp tầm cỡ, như Thơ Mới, Tiểu Thuyết…Sự hụt hẫng của lớp người cầm bút hiện nay ở Việt Nam chính bởi toàn bộ cái vốn văn hóa dân tộc và nhân loại mà các thế hệ trước có thì đến nay họ không còn có được nữa. Ở đây đương nhiên có vấn đề của nền giáo dục trong nước suốt nhiều chục năm qua. Đó là thời gian có thể nói là chúng ta gần như không có Đại Học thực sự. Anh Hoàng Ngọc Hiến gọi rất đúng Đại Học trong nước là trường «phổ thông cấp bốn». Chỉ xin lấy một ví dụ : trong nền giáo dục ở mọi cấp, gần như hoàn toàn không dậy triết học. Tất nhiên có môn gọi là «triết học Mác-Lênin», nhưng môn này không được giảng như triết học mà chỉ là những khóa huấn luyện chính trị rất sơ đẳng. Thế cho nên những người cầm bút thuộc thế hệ trẻ trong nước hiện nay có thể nói là hoàn toàn không hề được tiếp cận với di sản triết học nhân loại, cả phương Đông lẫn phương Tây. Thật khó mà tưởng tượng được một nhà văn mà không có chút vốn triết học nào !


- Còn vấn đề tự do sáng tác ? Cái mà ta gọi là một nền văn nghệ «minh họa» phải chăng đã cản trở không để cho những tài năng phát triển một cách bình thường ?

- Đương nhiên có vấn đề tự do sáng tác. Nhưng thử nghĩ giá như bây giờ không còn sự gò bó hạn chế tự do nào nữa thì có ngay được sáng tác lớn không ? Tôi không tin rằng sẽ có cái gì đáng kể ngay đâu. Cởi trói, hay đúng hơn phá trói những năm 86-91 đã tạo ra được một thời kỳ phát triển khá tốt đẹp với Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, vv… Nhưng ta đã thấy những tài năng đó không «hậu» được. Và hàng chục năm qua rồi, không có hiện tượng nối tiếp đáng kể. Tức là, tôi muốn nói, phải nhìn lại và đặt vấn đề phát triển nền văn học của chúng ta một cách cơ bản, rất cơ bản, để mong có thể đi xa, đến một tương lai văn học mà chúng ta đều mong đợi.


- Vấn đề đặt rộng như thế đòi hỏi rà soát lại toàn bộ cơ cấu văn hóa của Việt Nam, từ thời Cựu học với chữ Hán- Nôm, rồi qua Tây học với chữ Quốc ngữ đã loại bỏ hình tượng mà chỉ giữ âm thanh trong ngôn ngữ. Với một thời gian quá ngắn, Tây học chưa đủ căn cơ thì cả nước đã lao vào chiến tranh, và từ đấy văn học miền Bắc phát triển theo hướng tuyên truyền huấn dụ. Văn học «tuyên huấn» là công cụ chính trị nên ít khi phát huy được tính văn học như một nghệ thuật. Dĩ nhiên không cứ có tự do nghĩa là có nghệ thuật. Anh đã dịch Kundera, và anh có nhắc đến 3 khả năng của một nhà văn theo Kundera, là kể, tả và suy nghĩ một câu chuyện. Phải chăng nhà văn ta chỉ kể, rồi tả, nhưng không đến được, như Kundera phân loại, mức « nghĩ» một câu chuyện? Tại sao lại thiếu « nghĩ» trong trường hợp văn học nước ta?

- Nhà văn ta kể thì họ có nhiều chuyện để kể, tả (nghĩa lả có văn phong riêng) đã ít hẳn đi, và đến «nghĩ» thì trở nên thật hiếm hoi. Thực ra, họ biết rằng phải «nghĩ» chứ không thể dừng ở mức «kể» và «tả». Chỉ có điều khó có thể có một sức nghĩ sâu trên một nền tảng văn hóa triết học cạn như đã nói. Hình như trong văn học ta thường có hiện tượng ba búa Trình Giảo Kim, như anh nói : các tài năng xuất hiện rất sớm như Chế Lan Viên, Nguyên Hồng ở tuổi 16, 17…như những ánh chớp, nhiều khi thật sáng loé, nhưng sau đó không đi được xa, sớm lụi, hoặc kéo dài mãi tình trạng le lói làng nhàng. (Giọng nhỏ đi, thở dài) Nguyễn Tuân than như anh kể thế là đáng than lắm, anh à! Đấy, lại vấn đề nội lực…


- Làm cách nào tăng nội lực ?

- Mở ra, tiếp cận trước rồi hội nhập với nền văn hóa của thế giới. Nhưng làm thế nào. Những anh em trẻ cầm bút trong nước rất ít khả năng sinh ngữ để đọc và thẩm thấu văn chương nước ngoài. Trong đám anh em tôi biết ở Hà Nội, số có trình độ đọc được trực tiếp văn học thế giới bằng ngoại ngữ có thể đếm, và không hết năm ngón trên 1 bàn tay! Vậy trước mắt, phải dịch. Việc này là việc rất nghiêm túc, đòi hỏi tay nghề, là dịch thuật văn học chứ không phải dịch chỉ để ‘’lái sách’’ tung ra bán kiếm lời trên thị trường. Trong nước cũng đã có người thấy tình trạng này, mong muốn có một chương trình dịch sách văn học có nguyên tắc và tiêu chuẩn, sách dịch dễ đến 50 năm cũng chưa hết, nhưng không tìm ra tiền. Mà nước mình, dẫu là nước nghèo thì nghèo thật, nhưng không phải không có khả năng bỏ tiền vào một đề án như vậy nếu Nhà Nước biết bớt đi những thứ chi tiêu ba lăng nhăng ( thở dài, chép miệng)…Tôi cố gắng góp thử một tiếng nói bằng cách dịch một vài tác phẩm lý luận văn học của Kundera, hiện có thể đọc một phần trên Talawas. Và một tác phẩm của Roland Barthes (mỉm cười). Hiện có nhà xuất bản Đông Tây ở Hà Nội làm công việc dịch thuật là nơi rất đáng cộng tác và khuyến khích. Vấn đề của họ vẫn là có tiền để làm những việc văn hóa vô vụ lợi. Nhưng đây là vấn đề cho tất cả những người đứng đắn và lương thiện…


- Có lẽ trước mắt chỉ có con đường dịch tác phẩm nước ngoài để người viết trong nước tiếp cận với văn học thế giới. Nhưng dịch, như một phương cách tiếp cận để cách tân hay bắt chước ? Nếu chỉ bắt chước, sẽ đi đến đâu ? Tiếp tục sùng bái hàng ngoại,và làm giả loại thứ phẩm hàng nội, để bán rẻ ? Để đánh lừa nhau ?

- Gần đây, một số cây bút trẻ dường như đang cố phá vỡ những nếp viết cũ, háo hức đi tìm cách viết mới, khác, ra ngoài truyền thống và cũ mòn. Về cơ bản, đó là những cố gắng lành mạnh, đáng trân trọng. Tuy nhiên, quả thật có hiện tượng : tôi có cảm giác những tìm tòi phá vỡ này còn thiếu một cái gì đó để có thể thành công. Có lẽ phải chăng vì nó thiếu một nền tảng cơ bản, và như vậy thì rất dễ rơi vào tình trạng «học đòi», bắt chước, lúng túng, chắp vá…Đây là một vấn đề rất nghiêm túc, đòi hỏi một sự nhìn lại toàn diện cho những triển vọng lâu dài và bền vững của văn học ta.


- Hiện nay có vẻ có những giọng điệu mới trong văn học, và hình như người ta, trong cũng như ngoài nước, cho rằng cái chuyện để kể không quan trọng bằng hình thức nhà văn dùng để kể những chuyện ấy. Nội dung là hình thức? Hình thức không chỉ chuyên chở mà bao gom nội dung trong nó? Số Hợp Lưu 73 này mang chủ đề Tiểu Thuyết Việt Nam. Nhân đây, xin anh cho biết ý anh về cái cặp biện chứng nội dung-hình thức ám ảnh ngàn đời những nhà văn, nhất trong là nền tiểu thuyết Việt Nam đang có đòi hỏi hồi sinh sau những quày hàng ế buổi chợ tàn nắng vãn ! 

- Tôi quan niệm Tiểu thuyết không chỉ là một thể loại văn học. Hơn thế rất nhiều, đó là một bước phát triển quan trọng và cơ bản trong tư duy của con người về thế giới, là một thời đại mới trong tư duy của con người. Có thể kể những đặc điểm của tư duy ấy là tính không tất định của cuộc sống, phi tuyến tính, thoát ra khỏi tư duy cơ giới vốn coi những điều hợp lý như một cỗ máy, biết nguyên nhân thì rõ hậu quả, cái trước cái sau…


- Nói thế thì tiểu thuyết đang hóa thân thành cái kiếp sau của Vật Lý học nửa đầu thế kỷ 20 ư ? Thật ra, có thể văn chương đã đi trước, anh ạ…Chỗ đứng của văn chương cạnh khoa học và triết học còn là việc phải bàn cãi sau. Nhưng ta hãy tạm gác bàn cãi này lại…

- Nói cho đúng hơn thì văn học (và nghệ thuật) với vật lý (và khoa học tự nhiên nói chung) là những bổ sung thiết yếu để con người có thể làm chủ được tự nhiên đồng thời vẫn luôn giữ được chất người cuảa mình…Thế giới vật chất đã phức tạp như thế, thì ở cõi nhân sinh làm gì có một chân lý độc tôn, mà luôn có nhiều chân lý trái ngược cùng tồn tại, đan chéo vào nhau, chồng chất lên nhau. Tiểu thuyết là nền nghệ thuật có khả năng thể hiện điều đó. Khi không làm được, thì văn học chỉ có truyện kể, chưa thực sự có tiểu thuyết. Chúng ta chờ đợi tiểu thuyết Việt Nam chuyển sang một kiểu tư duy mới, tức một «nội dung » mới, chứ không phải chỉ kể chuyện mới. Trong nghệ thuật, muốn có nội dung mới thì phải có hình thức mới. Thật ra, phân biệt nội dung và hình thức chỉ là một cách nói. Trong nghệ thuật, nội dung và hình thức là một. Chúng ta chờ một sự phá vỡ đưa đến những tiểu thuyết mới.


- Bây giờ, trong văn học ta đầy Thơ và Truyện Ngắn, rất ít tiểu thuyết, khác với thời Tự Lực Văn Đoàn, thời Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng. Tại sao ? Có phải vì tiêủ thuyết không có độc giả vì nay cuộc sống tất bật, không ai có thì giờ đọc hàng trăm trang…

- Không , tôi không nghĩ vậy. Không có tiểu thuyết hay thì đúng hơn. Tài hoa như Nguyễn đình Thi nhưng Vỡ Bờ của anh ấy không thành công…
- Nhớ cách đây hai mươi năm, tôi được nghe anh Nguyên Hồng kể trong một đêm giáng sinh ở Hà Nội, có cả Nguyễn Tuân , Văn Cao ở nhà anh chị Lân. Anh Thi đưa anh ấy đọc Vỡ Bờ rồi hỏi, so với Chiến Tranh và Hoà Bình của Lev Tolstoi thì thế nào? Nguyên Hồng đáp, cái lép- tôn- ông không so được cái lép- tôn- tôi !(cười)… Thoắt một cái mà các anh ấy đã đều thành những người muôn năm cũ…

- Sóng Gầm của Nguyên Hồng đậm chất sử thi nhưng chưa phải là tiểu thuyết. Sau, có Nỗi Buồn Chiến Tranh cuả Bảo Ninh là một thành công. Hiện nay, Nguyễn Bình Phương đang thử nghiệm một số đột phá nhưng phải chờ thêm thời gian. Vâng, đúng như anh nói, ta kém về mặt tiểu thuyết…Có lẽ ta ít truyền thống tiểu thuyết. Ở ta, truyền kỳ thì có, nhưng cũng chỉ loáng thoáng, đếm ra chưa quá số ngón hai bàn tay. Trung Quốc khác, họ có truyền thống. Và nay, với những Trương Hiền Lương, Vương Sóc, Mạc Ngôn…tiểu thuyết của họ đang rộ nở. ..
- Vào thế kỷ thứ 1, Trung Quốc đã có 1380 truyện dân gian, góp thành 15 quyển. Đến thời Ngụy Tấn, hai thể tiểu thuyết chí quái và dật sư đã rất thịnh hành, ghi chuyện lạ và chuyện quỉ thần. Đời Đường, truyện truyền kỳ phổ biến rộng và sang đời Tống/Nguyên, truyện bình dân hóa đến độ có nghề đi kể truyện với các thể loại như sử, tôn giáo, kiếm hiệp, tình yêu, liêu trai…Ở ta, Truyện Thầy Lazaro Phiền cuả Nguyễn Trọng Quản là cuốn tiểu thuyết văn xuôi đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ in năm 1887. Phải đợi đến thời 1930-45 tiểu thuyết mới được mùa. Nhưng từ đó cho đến nay, tiểu thuyết Việt Nam vẫn ngừng ở chủ nghĩa lãng mạn và hiện thực, chậm mất gần 100 năm so với tiểu thuyết phương Tây. Sở dĩ so được như thế là vì tiểu thuyết Ta có vẻ như một thứ sản phẩm bậc hai, một thứ phó phẩm, của tiểu thuyết Tây . Ở Trung Quốc, Nhật Bản…tiểu thuyết hiện đại của họ có phong cách đặc thù, vì thế nhanh hay chậm không so được và không thành vấn đề. Như vậy, đúng là ta ít truyền thống. Ở bình diện văn học, chúng ta rất lệ thuộc vào cấu trúc tiểu thuyết Tây phương. Các nhà lý luận văn học dùng phần lớn những điển mẫu thẩm mỹ Aâu Châu trong tiểu thuyết để kêu gọi những nhà văn Việt Nam «cách tân», vinh danh những á thánh mới như Derrida, Foucault, và vân vân, với những trào lưu nào là Tân Tiểu Thuyết, Hậu Hiện Đại …Những tương quan giữa ngôn ngữ, văn hóa (nói rộng) và thẩm mỹ ít được quan tâm, cho nên có lẽ vì thế sản phẩm văn học của chúng ta đến nay chưa đạt được một phong cách thẩm mỹ riêng tư, một phong cách mà nói đến ai cũng có thể bảo là phong cách Việt Nam …
- Đã đành… Đói thiếu thì chỗ nào vay được là vay thôi, nhất là chả thấy ai bắt trả tiền lời ngay! Nhưng mặt khác, anh cứ để ý mà xem, nhìn đình chùa thành quách nước mình thì so ra hình như ta thích cái gì tinh sảo nho nhỏ. Tinh sảo đấy, nhưng chỉ nho nhỏ thôi. Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên trong vòng ảnh hưởng Nho giáo nhưng khác ta : họ có những công trình cả vật chất lẫn tinh thần to tát hơn, lâu dài hơn của ta…Thơ và Truyện Ngắên là những cái tinh sảo, trong khi Tiểu Thuyết thì ắt công phu hơn ( nhưng không phải là khó hơn. Cái gì hay cũng khó như nhau cả!), dài hơi hơn, rộng trải hơn…Nhưng cũng phải nói, nhà văn những nước vừa kể này có điều kiện sáng tác thoải mái hơn những nhà văn nước ta …( giọng buồn đi) Nhưng thôi, nói mãi, biết rồi, khổ lắm…


- Thưa anh, đúng là khổ lắm…Chúng ta qua một vấn đề khác nhé. Có nên và có cần phân chia ra một nền văn học hải ngoại và một nền văn học quốc nội không? Hay là cứ viết tiếng Việt thì là văn học Việt Nam mà thôi, không hàng nội hàng ngoại gì nữa?

- Vấn đề này không mới. Cách đây hơn mười năm, vào khoảng năm 1990. trả lời tạp chí Cửa Việt tôi có nói rằngtheo tôi, một tác phẩm viết bằng tiếng Việt dù của bất cứ ai, viết bất cứ ở đâu, vào bất cứ thời gian nào, miễn là nó hay, thì đều là tài sản chung của dân tộc Việt Nam , không ai có quyền tước đi của nhân dân Việt Nam tài sản tinh thần đó. Tất nhiên hồi bấy giờ, và ngay cả hiện nay, có nhiều người không tán thành ý kiến của tôi, thậm chí phản đối nó quyết liệt. Đó là quyền của họ. Còn tôi, tôi vẫn giữ ý kiến của tôi. Hơn mười năm qua rồi, tôi nghĩ rằng ý kiến đó càng đúng.

Chưa bao giờ trong lịch sử chúng ta lại có hơn hai triệu người ở nước ngoài như hiện nay. Tôi không thảo luận về nguyên nhân của thực tế này, chỉ nhấn mạnh rằng đó là một thực tế lịch sử sống động và to lớn. Những người Việt Nam ở nước ngoài trong mấy chục năm qua đã hoàn thành một khối lượng văn học không thể phủ nhận được . Đó là một bộ phận của văn học Việt Nam hiện đại, chẳng có gì phải bàn cãi. Cùng với văn học trong nước, văn học hải ngoại làm nên diện mạo của văn học Việt Nam ngày nay. Sẽ cực kỳ thiếu xót nếu biết văn học Việt Nam ngày nay mà không biết văn học Việt Nam hải ngoại. Vấn đề có lẽ chủ yếu là ở những chỗ này : ssự đóng góp đáng kể nhất của bộ phận văn học này đối với nền văn học Việt Nam hiện đại là ở chỗ nào ? Và triển vọng của nó ra sao ?
Về điểm thứ nhất, theo tôi, bộ phận văn học này phản ánh số phận của một thành phần quan trọng trong dân tộc mà những người viết trong nước khó có khả năng tiếp cận, hiểu và viết được. Thiếu nó, thì văn học chúng ta sẽ khuyết đi một mảng rất lớn và rất quan trọng của khuôn mặt con người Việt trong thời sóng gió hung bạo của lịch sử dân tộc như chúng ta đã, và đang, trải qua. Văn học Việt Nam do vậy sẽ què quặt.
Bộ phận văn học này có thể còn có một đóng góp quan trọng khác : nó đem đến cho văn học ta những kinh nghiệm của văn học hiện đại thế giới mà văn học trong nước, do những hạn chế khách quan và chủ quan, khó có được.
Vấn đề là làm thế nào cho hai bộ phận văn học trong và ngoài nước «thông thương» được với nhau, phá đi mọi cản trở vô lý giữa hai bộ phận của một cơ thể văn học thật ra là thống nhất.


- Đồng ý 100%. Đã có Hợp Lưu bên ngoài, bây giờ phải có ‘’Thông Thương’’ trong nước, đối với văn hóa thì thôi đừng ngăn sông cách chợ như quyền lực đã từng ứng xử với khâu kinh tế. Nhưng anh ơi, có một nhà văn về nước chỉ dám khai mình là thợ tiện- cái nghề kiếm sống- mà lờ đi nhà văn, là chức năng của anh ấy, vì có thế mới thuộc giai cấp công nhân tiên tiến, và nhất là không mang cái hơi hướng ‘’diễn biến hòa bình’’ trên người. Và nói chơi mà thật nhé, tôi đi khắp nơi, từ Á sang Aâu, Mỹ, Phi, qua đến hàng dăm ba chục cái phi cảng nhưng mỗi lần về đến Tân Sơn Nhất hay Nội Bài là lần nào lần ấy tôi cứ len lét, như đồng bào tôi, mà chẳng hề ăn cắp ăn trộm hay ăn cướp gì cả…

- (Cười, ngắt)…Dạo này cũng có khá hơn trước. Nhưng cứ phải về thôi…


- … nếu không còn phân biệt trong-ngoài như anh nói, ‘’thông thương’’, hay gọi khác đi là hiệp thông, đòi hỏi hai chiều trên cơ sở bình đẳng. Nay hải ngoại đã in và phát hành những tác phẩm trong nước, nhưng ngược lại thì vẫn chưa thấy gì. Vậy in ấn và phổ biến những tác phẩm của bộ phận văn học hải ngoại cần phát huy như thế nào?

- Trong nước đã in Nguyễn Văn Thọ, Lê Minh Hà, Phạm Hải Anh…


- Dạ…nhưng như thế vẫn là ‘’cây nhà lá vườn’’, thương nhà nhớ nước, sản phẩm bộ đội Trường Sơn và Trường «cấp bốn» khoa Văn Hà Nội!

- Tôi được biết đang in Hợp Âm Vùng Sân Khuất của Mai Ninh nữa đấy. Mai Ninh thì chất Âu Châu chứ, có cái mới, lạ…
- …và không có vấn đề ‘’nổi’’ dễ xếp vào thể loại diễn biến hòa bình (cười).
- Ờ…ở ta thì cái gì cũng dần dần, anh biết rồi…(vừa cười, vừa thở ra) Mới lạ cũng là vấn đề, nhưng may mà ít ai bắt bẻ…


- Đã chỉ có một nền văn hoá thì còn một hệ luận : đối với những nhà văn, nhà thơ có đóng góp trong thời Việt Nam Cộng Hoà như Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Cung tích Biền….đang ở trong nước, những Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến, Tô Thuỳ Yên…ở ngoài, làm sao để «phục hồi» chỗ đứng nhà văn của họ ?

- Chúng tôi mong mỏi các anh chị trong nước quay lại sinh hoạt với chúng tôi một cách bình thường, như mọi người …Còn «phục hồi» thì nói cho cùng, thời gian sẽ gạn lọc và phục hồi tất cả những gì có giá trị văn học. Sự phục hồi đó mới đích thực.


- Quay sang vấn đề triển vọng. Văn học hải ngoại là một bộ phận hiện có một số giới hạn : từ dăm năm nay, số người viết và số người đọc rơi rụng dần. Lý do thứ nhất là, như anh Trần Dần hay nói, chẳng có ai chống được cái kim đồng hồ, từng bước cái thế hệ thứ nhất đi về thiên cổ . Lý do thứ nhì, nói thì buồn nhưng phải nói, cái thế hệ thứ hai, nghĩa là con cái bọn chúng tôi, không còn khả năng đọc chứ chưa nói đến viết… Hiện một đầu sách có in trung bình cũng chỉ từ 3 đế 5 trăm quyển, bày bán có khi 3,4 năm mới ...chưa hết thì đem biếu bạn bè để khỏi mất chi phí tồn kho. Các tạp chí văn học cũng vầy vậy. Vừa rồi tạp chí Chủ Đề, vốn rất nghiêm túc tìm đường làm mới văn học, phải «sập tiệm», không có người viết, và có viết thì cũng chỉ đọc với nhau. Cứ thế này, chỉ độ năm ba năm nữa chắc văn học hải ngoại sẽ xơ xác như con ve sầu cuối hạ thôi…

- Đương nhiên có vấn đề về triển vọng của bộ phận văn học này. Tôi không muốn và cũng không dám làm thầy bói. Nhưng theo tôi, có lẽ một việc quan trọng có thể cố gắng làm hiện nay là tạo điều kiện cho các nhà văn đang sống và viết ở nước ngoài có được độc giả trong nước trong số nay có tới 80 triệu người. Điều đó là hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của bộ phận văn học hải ngoại. Như vừa nói, đã có một số tác phẩm hải ngoại được in trong nước. Việc này diễn ra rất chậm, quá chậm. Nhưng dẫu sao cũng đã bắt đầu…


- Xin anh chia xẻ điều vừa nói với nhà văn (chứ không phải là trình lên ông quan) Nguyễn Khoa Điềm, chắc sẽ có một sự cảm thông nhất định. Anh nhắn hộ rằng cứ đợi «về hưu» rồi mới nói thì «hơi bị» muộn, vì thế thì chỉ nói chứ chẳng làm được gì …

- (Cười khà)…văn học gần như là cái duy nhất có khả năng vượt lên trên những định kiến chính trị, đến với mọi con người Việt Nam, dù ở đâu. Tôi quan niệm : văn học đương nhiên không thể không phản ánh chính trị của một thời đại trong đó nó tồn tại, nhưng mục tiêu của nó cao hơn chính trị. Nó vì con người.


- Anh đã từng đề cập đến sự bức thiết của một nền văn học tự vấn. Tự vấn trong một nền văn hóa (nói chung) và văn học (nói riêng) : Nhưng tự vấn gì? Có phải đặt vấn đề Mình (thân phận con người, xã hội, lịch sử ) là gì ? là ai? thực sự có gì, mất gì, được gì trong cơn dâu bể của cuộc tồn sinh? Tóm gọn, đây có phải là văn hóa trong chiều dài lịch sử của dân tộc?

- Tự vấn là một nhu cầu hướng nội – không chỉ là hướng nội cá nhân mà là hướng nội dân tộc của toàn xã hội. Nhìn lại mình, lịch sử của mình, từ gần đến xa. Từ lịch sử văn hóa, đứng kẹp giữa hai nền văn hóa Trung Hoa và Aán Độ thì ta tiếp thu gì, của ai, tiếp thu thế nào, vận động ra sao để Việt hóa… Rồi đến lịch sử chiến tranh- chính trị, thời đánh giặc thì quá nhiều, thời xây dựng quá ít…


- Qua trao đổi của anh với François Julien Vìện Trưởng Viện Tư Tưởng Hiện Đại ở Đại Học Paris 7 về vấn đề «Tiêu cực là gì» và «Làm gì đây với nó», anh cho rằng ở Việt Nam tiêu cực quả là vấn đề thời sự và chống lại tiêu cực hiện nay trong hòa bình còn ác liệt và phức tạp hơn cả trong thời chiến tranh. Nếu nhà văn viết, và chỉ viết vềø những tiêu cực xã hội như Phùng gia Lộc đã đánh động một thời, có đủ không? Và nếu không, anh có thể đào sâu thêm cái hướng «văn học tự vấn» này là thế nào ? Trong phạm trù nào? Trên những vấn đề cấp thiết nào ? Có hay không luồng gió Tự Vấn từ người Việt sinh sống ở Đông Âu thổi về Việt Nam ?

- Năm ngoái ở Paris tôi có nói đến chuyện xu hướng «văn học tự vấn». Trước hết, theo tôi, văn học bất cứ thời nào, và nói theo một cách nào đó, cũng là một sự tự vấn của xã hội, của con người. Thử nghĩ xem : xã hội sinh ra nhà văn là để làm gì? Tại sao xã hội lại ‘’lãng phí’’ một bộ phận khá lớn tài năng và trí tuệ cùa mình cho một công việc trông chừng ‘’vô bổ’’ không làm ra của cải vật chất gì cả như vậy? Aáy chính là vì trong khi đi tới, xã hội và con người luôn luôn có yêu cầu tự nhìn lại mình. Văn học là sự nhìn lại đó. Song nếu bây giờ ta nói đến văn học tự vấn thì không chỉ theo cái chức năng thường trực đó mà còn là một sự bức thiết trong tình trạng hiện tại. Quả thực hiện nay cần có một sự tự vấn của toàn xã hội, toàn dân tộc hơn bao giờ hết.
Tôi thường hay nghĩ về ‘’số phận’’ của dân tộc ta. Do những điều kiện đặc thù nào đó mà dân tộc ta có những trầm luân rất đặc biệt. Trong suốt mấy nghìn năm, thử xem có một trăm năm nào chúng ta có được hoàn toàn yên tĩnh để xây dựng đâu. Chiến tranh triền miên. Mỗi lần vừa giành được độc lập và mới định bắt tay vào xây dựng một cái gì đó cho lâu dài thì đã phải lao vào một cuộc chiến tranh mới. Chúng ta có quá ít kinh nghiệm xây dựng, nhưng có thừa thãi kinh nghiệm chiến tranh! Sau 1975, muốn xây dựng đất nước, dân tộc thì đúng như anh nói, cần một cuộc rà soát lại toàn bộ lịch sử văn hoá, bản lĩnh, chỗ mạnh, chỗ yếu của mình. Lịch sử văn hoá đó trước đây đã được diễn đạt, theo tôi, có lẽ không hoàn toàn khách quan do những nhu cầu bức thiết của chiến tranh.
Chẳng hạn thử nghĩ chúng ta là một nước có mấy nghìn cây số bờ biển. Vậy mà chúng ta chỉ quanh quẩn ven bờ, trong khi, như ta biết, chính những khám phá hàng hải vĩ đại của các quốc gia Aâu Châu từ thế kỷ 15,16 đã thúc đẩy sự phát triển củ họ như thế nào. Người Việt Nam sợ biển. Đây là một điều thật lạ, và có lẽ là một trong những hạn chế rất lớn đến lịch sử phát triển của dân tộc. Chúng ta đã cố thủ mãi với mảnh đất bé nhỏ, có một lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt, nhưng cũng vì như thế, đâm có một lịch sử thậât bất hạnh. Cứ nhìn xem, qua hàng nghìn năm nhưng chúng ta có để lại công trình xây dựng vật chất nào đáng kể đâu. Và không chỉ công trình vật chất. Cả những công trình tinh thần kể ra cũng khá nghèo nàn.
Nằm kẹp giữa hai nền văn hóa Hoa và Aán thật vĩ đại, một trong những kinh nghiệm văn hóa của ông cha ta là để tồn tại trong điều kiện đó và giữ được bản sắc của mình thì phải chủ trương một chính sách văn hóa mở chứ không đóng. Đóng, sẽ bị tiêu diệt. Mở ra với mọi phía, để tiếp nhận và tiêu hóa : chính khả năng đó đã làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngôn ngữ của ta, 60 đếùn 70% tiếp nhận từ chữ Hán, Việt hóa và đồng thời giữ phần Việt mường. Đến khi gập phương Tây, chúng ta chấp nhận Quốc ngữ, và cũng hành xử tương tự. Tiếp nhận là phương thức tồn tại chủ yếu, là chỗ mạnh đậc sắc của văn hóa Việt Nam .


Nhưng chính trong chỗ mạnh này lại chứa đựng những cái yếu : đối với những nền văn hóa lớn, chúng ta hầu như chỉ tiếp nhận những gì có thể vận dụng ngay cho yêu cầu tồn tại, ‘’hớt lấy’’, học ngay, học cho nhanh những gì cần nhất, chưa bao giờ đi đến tận cùng những nền văn hóa đó. Với cách tiếp nhận tức thì, thực dụng và vụ lợi, chúng chưa bao giờ tạo điều kiện đủ để xây dựng được một nề nếp triết học tư tưởng riêng tư và cá thù. Nói cách khác, sự tiếp nhận của chúng ta thiếu triệt để. Phải chăng đó là một chỗ yếu quan trọng của văn hóa Việt Nam, của con người Việt Nam ?


Chưa bao giờ việc tự vấn, xét lại những vấn đề như trên lại cấp thiết bằng lúc này. Để xây dựng. Vận dụng cấp thời như cha ông ta đã làm chỉ đủ để đánh giặc ngoại xâm, nhưng thật là thiếu khi giặc là giặc nội, là một phần trong ta, ý thức được hay không ý thức được. Tôi nghĩ rằng văn học chúng ta hiện nay cần và phải tham gia vào sự tự vấn toàn bộ như đã trình bày. Đương nhiên, nó cũng phải tự vấn chính nó và lịch sử của nó. Rất có thể nó có khả năng xây dựng được chính nó thông qua sự tự vấn này.


- Trong những điều anh vừa trình bày, rõ là có những giả thiết thật lý thú. Sự tự vấn, hay nói chính xác hơn, một cuộc tra vấn toàn bộ, sẽ rất đòi hỏi, cần tính khoa học và đồng thời một công trình tổng hợp những tri thức nhân văn sâu và rộng. Nhân đây, Talawas có nghĩa Ta là Ai? Đây là một diễn đàn đã lên đường làm cuộc tra vấn này ở mức báo chí thông tin. Lạy vua Từ Hải lạy vãi Giác Duyên lạy tiên Thúy Kiều, bói mãi cứ vẫn một câu ‘’ đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh’’, nên cầu chúc anh và những người chia xẻ cách anh nghĩ, công việc anh làm, cứ chân cứng đá mềm. 

- ( Mắt sáng lên, hóm hỉnh) Cám ơn anh. Cũng chúc anh như vậy!


- Trước khi chia tay với độc giả, tí nữa tôi quên nhắc, nhà văn Nguyên Ngọc là tác giả của Đất nước đứng lên (1956), Rẻo cao (1960), Mạch nước ngầm (1961),Rừng xà nu (1965), Đất Quảng (1971), Có một con đường trên biển Đông (2000) và Cát Cháy (2002). Nhưng hiểu con người và đánh giá văn nghiệp không ai bằng Xuân Sách. Ông tai đã nhại nhà thơ Tố Hữu bằng câu «Máu ở chiến trường, hoa ở đây» để nhắc tác phẩm ‘’Việt Nam: Máu và Hoa’’, và nhà thơ Chế Lan Viên bằng câu « Ôi ! điêu tàn mà chẳng phải điêu tàn. Ta đã tính vàng sao từ thuở ấy » để nhớ tác phẩm Điêu Tàn. Tôi biết Xuân Sách có làm hai câu về nhà văn Nguyên Ngọc. Anh có thể cho độc giả Hợp Lưu và anh em cầm bút chia xẻ với anh không ?

- Xuân Sách cho tôi những bốn câu cơ chứ không phải hai, đối với tôi anh ấy quả có ưu ái và đầy thông cảm, pha đôi chút mỉa mai. Nguyên văn như thế này :

Mấy lần Đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một Mạch nước ngầm
Cuốn phăng Đất Quảng lẫn Rừng Xà nu!

- Cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc!


Ghi 3-07, Chép 31-07-2003
Nguyên Ngọc nhuận chỉnh 7-08-2003








Tham khảo thêm về tác giả Nguyên Ngọc








VỀ CHUYỆN BẢN SẮC, BẢN SẮC DÂN TỘC

NGUYÊN NGỌC
Thứ sáu, 15 Tháng 4 2011 



Hôm nay chúng ta thảo luận một vấn đề trông chừng rất quen thuộc, song hóa ra lại có thể không dễ dàng, khá phức tạp, gay cấn và nóng bỏng: vấn đề bản sắc, hay như ta thấy trên flyers treo trước trung tâm kia, vấn đề bản sắc dân tộc (ở đây có chỗ hơi rắc rối về ngôn ngữ: nation trong tiếng Việt có thể dịch là dân tộc mà cũng có thể dịch là quốc gia, hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất).

Theo chỗ tôi được biết nhà xuất bản Tri Thức sắp cho ra mắt bản dịch cuốn sách nổi tiếng của Amartya Sen Bản sắc và bạo lực. Trong một lời bình, Christiane Amanpour ở CNN cho rằng với tác phẩm này Amartya Sen đã khảo sát “một thách đố trung tâm của thời đại chúng ta”, tức chính vấn đề chúng ta bàn hôm nay ở đây, vấn đề bản sắc. Tôi cũng vừa đọc trên Le Monde một bài viết về cuốn sách của Gérard Noiriel có tên là “Bản sắc dân tộc để mà làm gì?” (À quoi sert l’identité nationale?”), trong đó dựa trên nhiều nghiên cứu lịch sử trong 30 năm, Noiriel chứng minh rằng không hề có bất cứ một định nghĩa khách quan nào về “bản sắc dân tộc”…; ông đặt lại một cách mạnh mẽ ý tưởng rằng nước Pháp có một “bản sắc dân tộc”. Theo ông “bản sắc dân tộc” là một vấn đề được đặt sai (un faux problème). Ông viết: “(Bản sắc dân tộc) không phải là một khái niệm khoa học, đấy là một từ ngữ thuộc ngôn ngữ chính trị”. Chúng ta biết nhà sử học G. Noiriel là chủ tịch CVUH (Comité de vigilance face aux usages publics de l’histoire) , Ủy ban cảnh giác với việc đưa lịch sử vào sử dụng trong công chúng, và ông ở trong số 8 trên 12 thành viên của Ủy ban này đã từ chức khi chính phủ Pháp lập “Bộ Nhập cư và Bản sắc dân tộc” ngày 18 tháng Năm 2007. Chi tiết này cho thấy rõ, chính trong những bối cảnh như giáo sư Alain J. Lemaitre vừa nói, của toàn cầu hóa, của sự hình thành Liên Minh châu Âu, của sự phát triển một nền kinh tế toàn cầu không dễ kiểm soát, của sự bùng nổ công nghệ tin học và kỹ thuật số…, đặc biệt của những chuyển động cư dân chưa từng có suốt lịch sử trước đây, khuấy đảo những chuẩn mốc truyền thống…, mà vấn đề bản sắc bỗng trội lên hàng đầu trong đời sống xã hội, tạo nên những lo âu cá nhân và sợ hãi tập thể, cho đến mức nước Pháp đã cho ra đời cái Bộ chỉ nghe tên đã thấy thật kỳ lạ, Bộ Nhập cư và Bản sắc dân tộc. Nhập cư gắn với Bản sắc dân tộc, Nhập cư đe dọa Bản sắc dân tộc. Như vậy, ở Pháp, vấn đề bản sắc, bản sắc dân tộc, như cách nhìn của Artamya Sen, cũng đã trở thành “một thách đố trung tâm”. Thách đố bởi sợ hãi ấy có thể dẫn đến rối loạn ửng xử ở cấp độ cá nhân, và ở cấp độ dân tộc bùng phát chủ nghĩa quốc gia, phân biệt chủng tộc, bài ngoại, chối bỏ kẻ lạ, tự khép kín mình lại…

Có lẽ ở Việt Nam, như rất dễ nhìn thấy, vấn đề này càng lâu dài, sâu sắc, và gay gắt hơn nhiều. Lịch sử chống ngoại xâm triền miên, và trong đó cốt lõi sâu xa nhất là chống đồng hóa, đã khiến người Việt Nam hết sức nhạy cảm với vấn đề bản sắc dân tộc. Gắn liền với vấn đề bản sắc dân tộc, là tư duy về cộng đồng, và mối bận tâm ráo riết về văn hóa dân tộc. Chúng tôi cũng rất mong muốn phân tích, nhận rõ diện mạo của những vấn đề này ở con người và xã hội Việt Nam, bởi ứng xử như thế nào trong những vấn đề này rõ ràng có liên quan mật thiết đến phát triển của Việt Nam trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay.

Tôi đồng ý với giáo sư Alain Lemaitre, để có thể thảo luận, cần làm rõ một số từ ngữ. Tôi cũng đồng ý với giáo sư trên những nét chung về định nghĩa bản sắc. Bản sắc là cái đồng nhất (với bên trong) và đồng thời khác biệt (với bên ngoài). Bản sắc không đứng yên, một lần là xong, một lần cho mãi mãi, mà biến đổi, cập nhật (s’actualiser). Một nhà nghiên cứu Việt Nam, giáo sư Phan Ngọc nói: bản sắc không phải là một “cái”, mà là một “kiểu”, cái cách một con người hay một dân tộc ứng xử kiểu này hay kiểu khác trước một tình huống, một thách thức, đến từ bên ngoài, từ cái khác, cái lạ.

Hiểu như vậy thì có thể nói suốt lịch sử lâu dài, cái được gọi là bản sắc ở Việt Nam vừa có sự tiếp nối liên tục vừa có thăng trầm.

Việt Nam là nước nằm đúng ở trung tâm của Đông Nam Á cổ, được coi là trải dài từ nam sông Dương Tử xuống đến Indonésia, và từ Assam (Ấn Độ) sang đến Phillipines. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam đã thống nhất rằng Việt Nam tiếp nhận văn hóa Hán, tức tiếp nhận Nho giáo, không phải trong thời gian dằng dặc một nghìn năm chịu đô hộ của Trung Hoa, trong một nghìn năm đó người Việt đã kháng cự lại đồng hóa của văn hóa Hán (người Trung Quốc gọi là “nấu chín”-chử lý) bằng văn hóa bản địa kết hợp với văn hóa Phật giáo tiếp nhận rất sớm từ Ấn Độ theo con đường phía nam. Nhưng đến khi giành được độc lập vào cuối thiên niên kỷ I, đầu thiên niên kỷ II, tức là khi đã thoát khỏi đô hộ của Trung Hoa, thì Việt Nam lại chủ động tiếp nhận Nho giáo của Trung Hoa. Vì sao? Và tiếp nhận như thế nào? Việt Nam đã tiếp nhận Nho giáo như một học thuyết cai trị có hiệu quả cao, cụ thể là học ở Trung Hoa mô hình tổ chức nhà nước theo lối trung ương tập quyền mạnh; và như thế tự nguyện từ bỏ lối tổ chức nhà nước theo kiểu liên hiệp các tiểu quốc của Đông Nam Á truyền thống, “dân chủ” hơn, nhưng rất lỏng lẻo, hoàn toàn có thể bị đánh tan ngay bởi uy hiếp xâm lược thường trực từ phương bắc. Giáo sư Phan Ngọc nói Việt Nam học Trung Hoa là để chống xâm lược của Trung Hoa, bảo vệ nền độc lập của mình. Đây quả là một ứng xử văn hóa lạ, từ bỏ văn hóa truyền thống của chính mình, chủ động tiếp nhận văn hóa của chính đối thủ.

Còn một khía cạnh đáng chú ý nữa trong ứng xử văn hóa này: tiếp nhận lối tổ chức nhà nước trung ương tập quyền mạnh ở cấp triều đình, nhưng vẫn giữ lối sống tự trị lỏng lẻo, “dân chủ” kiểu Đông Nam Á cổ truyền ở làng xã. Một lối “pha chế”rất Việt Nam.

Quả đây là một lối giải quyết vấn đề bản sắc độc đáo và khôn ngoan, như nhà nghiên cứu Lê Thị Hiền Minh ở đại học Québec, Canada nói, đã giúp cho Việt Nam suốt lịch sử lâu dài và rất khắc nghiệt “giữ được thành công khoảng cách đối với uy hiếp” nặng nề, dai dẳng của một láng giềng rất mạnh và dữ.

Đây là mặt mạnh trong ứng xử văn hóa độc đáo. Tuy nhiên, “kiểu” ứng xử đó có mặt yếu và có để lại dấu vết nhược điểm trong văn hóa Việt không? Theo tôi là có.

Rõ ràng trong ứng xử này bộc lộ một ý thức thực dụng sẽ có thể kéo dài và ăn sâu trong tâm thức người Việt. Học lấy cái lạ đến từ bên ngoài cho yêu cầu sống còn tức thì của mình, nên rất thường chỉ “hớt” lấy cái cần, cái trên bề mặt mà học, và rồi chỉ dừng lại ở đó. Ngay đối với Phật giáo trước đấy cũng vậy, ở cấp triều đình chủ yếu cũng chỉ được khai thác cho mục đích cai trị, ở cấp nhân dân thì hòa trong đạo lý nhân ái dân gian của người bình dân, chẳng mấy khi tìm đến Phật giáo như một nền triết học uyên thâm bậc nhất của nhân loại, có lẽ chỉ trừ thời Lý Trần, dẫu đã cố gắng nhiều nhưng quả cũng chưa có mấy thành tựu lớn và sâu. Đối với Nho học cũng vậy, suốt một nghìn năm học Nho, nhưng Việt Nam không hề có được một nhà Kinh học như Hàn quốc hay Nhật Bản. Nếu thông minh và khôn khéo trong tiếp nhận văn hóa là đặc điểm quý của người Việt, thì không triệt để, không đi đến cùng, hời hợt, cũng là đặc điểm khác không hề kém quan trọng. Một mặt khác của tâm thức này là luôn lo sợ “mất bản sắc”. Hình như ít ở đâu vấn đề bản sắc lại được nói đến nhiều như ở Việt Nam, và cũng hình như nhiều nhất lại là ngày nay. Khi vừa nói đến tiếp biến, tiếp nhận, thậm chí cả trước đó nữa, là đã nói ngay đến bản sắc, bản sắc dân tộc, như một cảnh giác, đề phòng, ngăn ngừa. Chưa nhận đã sợ…

Chính điều này đã khiến Việt Nam thất bại ở lần thử thách lớn thứ hai trong lịch sử, khi giáp mặt với phương Tây.

Nói đến đây không thể không nhắc đến Nhật Bản. Những ngày vừa qua nếu cả thế giới bàng hoàng vì tai họa khủng khiếp đã xảy đến cho Nhật Bản, thì cả thế giới cũng thật sự kinh ngạc vì phẩm chất tuyệt vời của người Nhật bộc lộ trước thảm họa, thậm chí có thể nói toàn nhân loại tự hào vì giữa một thời đang biết bao nhiêu ngổn ngang hiện nay, trong gia đình rộng lớn của mình có một thành viên xứng đáng như Nhật Bản, tiêu biểu cho phẩm giá của con người, của loài người. Xin cho phép tôi lợi dụng chút ít thời giờ của các bạn để thuật lại một chi tiết nhỏ do giáo sư Vĩnh Sính vừa kể trong một bài viết gần đây: “Ngày 26-3, trên đài truyền hình NHK của Nhật chiếu buổi tốt nghiệp tại một trường trung học ở tỉnh Miyagi, một vùng bị địa chấn và sóng thần. Một em học sinh 15 tuổi đứng lên đọc diễn từ; em nói: “Chúng tôi không oán Trời. Chúng tôi tự nguyện cùng chung sức với bè bạn để vượt qua những khó khăn. Đó là cách chúng ta mang lại ý nghĩa cho những người đã bỏ mình trong trận địa chấn và sóng thần này”…” Đằng sau một câu nói giản dị, bình tĩnh đến kinh ngạc của một em bé 15 tuổi, là cả một chiều sâu thăm thẳm về văn hóa. Người Nhật “không oán Trời”, người Nhật lẳng lặng cúi đầu “cùng chung sức” làm lại tất cả trên đất nước vô cùng khắc nghiệt của mình…

Chúng tôi đặc biệt muốn nói đến Nhật Bản vì Nhật Bản là nước duy nhất đã thành công vượt qua được thử thách lớn, tiến lên thành một cường quốc hiện đại, trong khi tất cả các nước châu Á khác, trong đó có Việt Nam, đã thất bại ê chề khi giáp mặt với phương Tây, cũng tức là giáp mặt với toàn cầu hóa lần thứ nhất, cách đây vài thế kỷ. Vì sao? Tôi cho rẳng câu hỏi đó còn nỏng hổi lâu dài đối với người Việt Nam, và nó có liên quan chặt chẽ đến vấn đề chúng ta thảo luận hôm nay, vấn đề bản sắc.

Trong bài viết vừa kể trên, Vĩnh Sính có nói đến một số điều ông cho là đặc trưng của văn hóa Nhật Bản, ông nói người Nhật rất chú trọng đến sự hòa hợp (harmony). Chữ “hòa” đối với người Nhật quan trọng đến mức “hòa” đã thành đồng nghĩa với Nhật Bản. Ví dụ, khi người ta nói “Ei-Wa Jiten”, tức “Anh-Hòa từ điển” thì có nghĩa là “Anh-Nhật từ điển”. Ở Nhật cái mới đến không bằng cách triệt tiêu cái cũ, tiếp nhận cái lạ không bằng cách từ bỏ cái quen. Tôi cũng từng được nghe nói rằng người Nhật không thể nào quan niệm được vì sao lại có thể có chiến tranh tôn giáo, chiến tranh ý thức hệ. Họ có thể tiếp nhận tất cả, tiêu hóa tất cả. Người Nhật có bản sắc rất đa nguyên…

Một đặc trưng khác của nhật Bản là tính hiếu kỳ, hết sức nhạy cảm đối với văn hóa nước ngoài. Họ không ngừng theo dõi những diễn tiến trên thế giới bên ngoài, cân nhắc và đánh giá ảnh hưởng của các trào lưu và xu hướng chính đối với Nhật Bản, khi biết trào lưu nào đang thắng thế thì họ có khuynh hướng chấp nhận, nghiên cứu, học hỏi, không để mất thời cơ.

Mặt khác, nếu một đặc điểm trong lịch sử Trung Quốc (và Việt Nam) là khi triều đại này thay thế triều đại khác thường có hai quá trình “phá” và “lập”, tức là trước khi thiết lập hay xây dựng một chế độ mới, phải phá hủy chế độ cũ trước đã, thì ở Nhật hoàn toàn khác. Vào cuối thế kỷ 12, khi giai cấp vũ sĩ nắm được quyền bính, họ không triệt bỏ chế độ thiên hoàng. Trong gần 700 năm giai cấp vũ sĩ nắm quyền, triều đình thiên hoàng vẫn không bị phế bỏ. Đồng thời, khi quyền bính được phục hồi cho chính phủ thiên hoàng, những người trong dòng họ tướng quân Tokugawa (vũ sĩ) cũng không bị giết chóc, trừng phạt, hay đày ải; ngược lại được cấp bổng lộc và có thể đóng góp phần mình trong công cuộc xây dựng thời Minh Trị…

Tôi xin được nói thêm một ví dụ về văn hóa Nhật Bản có thể rất lạ lùng đối với chúng ta. Có một cuốn sách tên là “Mười hai người sáng lập nên nước Nhật” do Sakaiya Taichi, chuyên gia kinh tế hàng đầu, bộ trưởng Bộ Kinh tế Kế hoạch của Nhật dưới thời Thủ tướng Obuchi viết, đã được dịch ra tiếng Việt và in ở nhà xuất bản Sự Thật, trong đó tác giả không hề nhắc đến một vị vua khai quốc hay một tướng lĩnh Nhật Bản lừng danh nào, chỉ nói đến những người theo ông có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến tính cách của người Nhật và số phận nước Nhật ngày nay. Và trong số 12 người được ông kể ra, coi là có công lớn “sáng lập nên nước Nhật”, thật kỳ lạ, có Mac Arthur, Tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai và Tổng tư lệnh quân đội Mỹ chiếm đóng nước Nhật sau chiến tranh. Khi ở cương vị này trong sáu năm Mac Arthur đã có ý tưởng và kế hoạch xây dựng Nhật Bản “thành một nước như Mỹ, không phải là nước Mỹ hiện thực bây giờ, mà là nước Mỹ ông coi là lý tưởng”, một “nước Mỹ (theo ông) phải nên như thế”. Chắc chắn chỉ có một tác giả người Nhật mới có thể viết như vậy về một vị tướng là “kẻ thù” đã đánh bại và chiếm đóng nước mình. Có lẽ chỉ riêng điều này thôi cũng đã đủ để nói về bản sắc Nhật Bản, nếu ta muốn gọi là bản sắc, bởi hình như theo chỗ tôi được biết người Nhật rất ít nói về cái gọi là bản sắc, đề tài cuộc thảo luận của chúng ta hôm nay. Cũng bởi vì, như giáo sư Alain Lemaitre vừa nói, nói bản sắc không phải nói ta là gì mà là ta là gì trong tương quan với người khác, khái niệm bản sắc gắn liền với khái niệm cái khác, ta ứng xử như thế nào với cái khác lạ, cái không phải là ta. Theo nghĩa đó, có thể nói “bản sắc” của người Nhật là không chằm chằm quan tâm hàng đầu đến bản sắc, không nơm nớp lo sợ mất bản sắc khi gặp và tiếp nhận cái lạ. Đấy chính là bản sắc Nhật, đã làm nên sức mạnh và phẩm chất tuyệt vời của họ.

Nhân đây cho phép tôi được nói một chút suy nghĩ di tích Hoàng Thành của chúng ta đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới và ta rất tự hào một cách chính đáng. Đương nhiên tôi cũng chia sẻ niềm tự hào về dấu vết nghìn năm của cha ông ấy, song được đi xem Hoàng Thành tôi cũng nghĩ: hóa ra ở đấy không phải là di tich kiến trúc của các triều đại nối tiếp nghìn năm, mà là di tích những cái nền của các kiến trúc ấy, bởi ở ta rất khác ở Nhật, một triều đại mới lên thì lập tức san phẳng hết tất cả những gì thời đại trước đã dựng nên, cứ vậy liên tiếp trong nghìn năm. Nói đến bản sắc rất nhiều, lo lắng rất nhiều, quá nhiều về bản sắc, nhưng lại kỳ thị, không chỉ với cái lạ đến từ bên ngoài, mà ngay cả cái khác của chính triều đại trước mình vừa mới sụp đổ. Theo tôi, đi xem Hoàng Thành, nên ngẫm cả về điều đó.

Một tâm thức về bản sắc, bản sắc dân tộc như vậy thì rất dễ trở thành một ám ảnh nặng nề và vô ích, nếu không nói là có hại, nó rất dễ dẩn đến nghịch lý vừa tự co mình lại trước mọi văn hóa khác lạ, lại vừa rối loạn trong tiếp nhận.

Như vậy có thể nói cả hai nước chúng ta, Pháp và Việt Nam, đều có vấn đề với bản sắc. Việt Nam thì vì những nguyên nhân để lại từ lịch sử, và ý thức hệ, Pháp thì vì tình trạng nhập cư, hay như cách nói của giáo sư Alain Lemaitre, tình trạng “chuyển động cư dân chưa từng thấy xưa nay”. Chúng ta đang phải đối phó với tâm lý thu mình lại trong bản sắc đơn nguyên, cường điệu cộng đồng đến thành chủ nghĩa cộng đồng hay cộng đồng luận, hoặc tự đóng mình lại trong những hộp nhỏ và kín của những “nền văn hóa”, những “nền văn minh” - theo cách gọi của Huntington, tự định nghĩa mình một cách chật hẹp theo những tiêu chí không thật. Trong khi đó con người là một thực thể đa dạng, đa nguyên, như Armatya Sen đã nói rất đúng: “Cùng lúc tôi có thể là một người châu Á, một công dân Ấn, một người Bengal có tổ tiên ở Bangladesh và là một người cư trú tại Mỹ hay Anh, một nhà kinh tế và là một người làm triết học không chuyên, một tác gia và là một nhà nghiên cứu tiếng Phạn, một người tin tưởng mạnh mẽ vào chủ nghĩa thế tục và dân chủ, một người đàn ông và là người ủng hộ nữ quyền luận, một người dị tính luyến ái và là người bảo vệ cho các quyền của người đồng tính luyến ái, một người có lối sống phi tôn giáo trên nền của Ấn giáo, người không theo đạo Bà-la-môn và là người không tin vào cõi âm v.v…” Và tôi có quyền lựa chọn trong tất cả những cái đó đâu cái quan trọng nhất đối với mình. Tôi đồng ý với ông khi ông nói: “Lý trí đi trước bản sắc”. Đừng để cho những tác động không lành mạnh khiến mình tự làm cho mình thành “đơn sắc”. Tôi nhớ lời J.P. Sartre: “Người Do Thái là người mà người khác xem như một người Do Thái;… đó là người mà người bài Do Tháikhiến cho thành người Do Thái”. Đừng để cho các áp lực, bất kỳ đến từ đâu, dữ dằn và dai dẳng đến mấy, buộc mình chỉ vào một bản sắc đơn nhất, dù bản sắc đó nghe có vẻ rất cao sang, đẹp đẽ. Hoặc khi đã bị như vậy, thì nên cố mà giải thoát mình ra.

Đầu thế kỷ XX, có một trí thức của Việt Nam, là Phan Châu Trinh, đã thống thiết nhận ra điều này và dũng cảm chỉ rõ, theo ông dân tộc Việt Nam có hai nhược điểm chí tử khiến cho nó thất bại trong giáp mặt với phương Tây, đó là chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi, và rất nghịch lý, cùng lúc với ý thức vọng ngoại mù quáng. Rất lạ khi thấy những tư tưởng của Phan Châu Trinh thật gần gũi với Armatya Sen, người ráo riết chủ trương bản sắc đa nguyên, và thống thiết cảnh báo, ở tầm toàn nhân loại và ngay trong thời hiện đại, rằng cách khư khư bản sắc đơn nguyên tất yếu dẫn đến bạo lực bi thảm như ta đang chứng kiến khắp nơi ngày nay.

Vậy nên, cho phép tôi nói thật, tôi không quá mặn mà với chuyện bản sắc, bản sắc dân tộc, không quá lo lắng về nó. Không nên quá chú tâm vào nó, không nên đến mức lập một Bộ Bản sắc dân tộc, hay ngày nào cũng ra rả nói chuyện bản sắc, bản sắc dân tộc, nên thoải mái, rộng rãi và nhẹ nhàng hơn với nó, như người Nhật đã rất hiện đại và rất “bản sắc” như toàn thế giới đều thấy, chính vì họ đã rất hiền minh để rộng rãi, nhẹ nhàng, thoải mái do đầy tự tin trong vấn đề này.

٭٭٭

Cho phép tôi nói thêm đôi điều về vấn đề cộng đồng Pháp ngữ đối với Việt Nam, hưởng ứng những suy nghĩ của giáo sư Alain Lemaitre. Đúng như giáo sư Alain Lemaitre vừa nói, “cần nhớ quả cộng đồng Pháp ngữ thoạt tiên là đứa con gái của công cuộc chinh phục thuộc địa, trong thế kỷ XIX và cho đến những năm 1950-1960 khi các dân tộc bị đô hộ giành lại được tự do của mình”.Tôi xin nói thêm, ở Việt Nam, ngay cả trong thời gian đó, tiếng Pháp có cả hai mặt, một mặt đó đương nhiên là một trong những công cụ của công cuộc thực dân hóa, nó đã được dùng để đào tạo hệ thống viên chức bản xứ cho công cuộc thực dân quả đã từng có mặt rất tàn bạo; mặt khác nó cũng lại là công cụ giải phóng. Và trong hai mặt ấy chưa hẳn mặt nào là quan trọng hơn. Là công cụ giải phóng bởi vì nó là phương tiện chuyển tải của một trong những nền văn hóa lớn nhất, đẹp nhất của nhân loại. Nền văn hóa đó lớn đến mức, vượt qua và bất chấp ý đồ của những người đi truyền đạt nó, nó đã trở thành một công cụ vô cùng quan trọng của những người vùng dậy đấu tranh cho độc lập và tự do của mình. Riêng tôi, tôi đã có dịp nói với một chị bạn nhà báo Pháp khi được hỏi về ảnh hưởng của văn hóa Pháp với Việt Nam, rằng: Nên nhớ chính nền văn hóa Pháp đã góp phần thậm chí có mặt quyết định tạo nên cả một thế hệ các nhà cách mạng Việt Nam, nếu cần nói cụ thể là từ Hồ Chí Minh cho đến Võ Nguyên Giáp… Song không chỉ có thế. Còn có điều quan trọng không kém: tiếng Pháp có vai trò hết sức to lớn trong sự hiện đại hóa của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX và gần nửa đầu thế kỷ XX. Chẳng hạn trong việc ra đời và phát triển có thể coi là kỳ lạ của văn học hiện đại Việt Nam. Chúng tôi không có một nền văn học créole như ở Martinique và Tahïti với những Aimé Césaire, Jacques Stéphen Alexis, René Depestre… Nhưng dấu ấn của văn học, văn hóa Pháp lên sự hình thành của văn học hiện đại Việt Nam là hết sức to lớn, sâu đậm. Khoảng 45 năm đầu thế kỷ XX, như đã được xác nhận trong nhiều nghiên cứu gần đây, do chính tác động đó, đã thực sự có một thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của văn học Việt Nam. Và đây rõ ràng là một tiếp nhận thành công, Chúng tôi không viết bằng tiếng Pháp như các nhà văn Algérie, bằng tiếng créole như các bạn Martinique và Tahïti. Chúng tôi viết bằng một tiếng Việt lâu đời đã được hiện đại hóa đẹp đẽ trong tiếp cận với tiếng Pháp, văn học và văn hóa Pháp.

Và đương nhiên không chỉ có văn học. Trong chừng mực nào đó có thể nói hiện đại hóa của văn học là phản ánh của hiện đại hóa xã hội Việt Nam trong một giai đoạn quan trọng của lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại.

Rõ ràng văn học, văn hóa, và xã hội Việt Nam không hề mất gì trong hội nhập với tiếng Pháp, trái lại được rất nhiều, giàu có, hiện đại lên, và nếu ta muốn nói đến chuyện “bản sắc” thì chính trong quá trình này lại rõ nét bản sắc của mình hơn. Nhân đây tôi muốn được nói một suy nghĩ: tôi không thích lắm cách nói thường gặp hiện nay ở Việt Nam: “một văn hóa hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc”, cứ như hể hiện đại thì phải coi chừng mất bản sắc dân tộc. Theo tôi vấn đề là một nền văn hóa dân tộc Việt Nam hiện đại, điều văn học và văn hóa Việt Nam đã làm được khi tiếp xúc với văn học và văn hóa Pháp vào đầu thế kỷ XX như vừa nói.

Có lẽ vấn đề hiện nay của Việt Nam đối với cộng đồng Pháp ngữ là cố gắng khôi phục lại quan hệ tốt đẹp đã có và đã bị mất đi phần nào, phần khá quan trọng, trong một thời gian không ngắn, tạo lại quan hệ không phải chỉ hình thức mà là thực chất. Và trong việc này, cần khắc phục thói quen tiếp nhận có tính thực dụng như đã nói trên kia.

Trong ý nghĩa đó, những cuộc trao đổi như hôm nay thật sự là có ich, mong sẽ thường xuyên và phong phú, sâu sắc hơn./.

Nguồn:nguyenxuandien blog





















Nguyễn Huệ Chi & Nguyên Ngọc









































Nguyên Ngọc & Anh hùng Núp










Nv Vũ Thư Hiên & Nv Nguyên Ngọc
2023
















Hiện sống và làm việc tại Hội An - Việt Nam







Trở về 




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.