Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

Phạm Xuân Nguyên
















Phạm Xuân Nguyên
Bút danh khác: Ngân Xuyên
(1956 - ......) Hà Tĩnh
Nhà Phê bình Văn học. Dịch giả










Sách mở trang, người để ngỏ, hai bàn tay ngọn gió lên trời
Paris 7.8.2002





Phạm Xuân Nguyên là nhà phê bình văn học trên báo chí, thường xuyên viết các bài viết về những nhà văn, nhà thơ đương đại. Ông làm việc tại Viện Văn học Việt Nam, sau đó trở thành Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội từ năm 2010. Ông dịch nhiều sách với bút danh Ngân Xuyên.

Năm 2011, Phạm Xuân Nguyên được Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật giới thiệu tham gia ứng cử Quốc hội, nhưng thất bại, sau chuyển sang cơ cấu làm việc tại Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội. Trong cương lĩnh của mình, ông khẳng định: “Tôi sẽ đề đạt với hội đồng nhân dân và lãnh đạo thành phố quan tâm hơn nữa đến việc tạo các điều kiện vật chất và tinh thần cho giới văn học thủ đô sáng tạo những tác phẩm xứng đáng với bề dày truyền thống và tầm vóc của Thăng Long – Hà Nội trong quá khứ và hiện nay.”

Phạm Xuân Nguyên, ủng hộ quan điểm đa nguyên, đa đảng, ủng hộ Phong Lê và Nguyễn Huệ Chi, đòi tự do trong sáng tác văn học. Ông thường xuyên ký tên trong các văn bản như Phản đối dự án Bauxite Tây Nguyên, Vận động thành lập Diễn đàn Xã Hội Dân Sự, Vận động thành lập Văn đoàn độc lập. Phạm Xuân Nguyên còn tham gia các hoạt động biểu tình trên đường phố với danh nghĩa chống Trung Quốc xâm lược.

Trong quá trình làm Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội và Đại biểu HĐND thành phố Hà Nội, sự cố lớn nhất là sự việc trao giải thưởng thơ của Hội nhà văn Hà Nội cho tập thơ “Sẹo độc lập” của Phan Huyền Thư, bị tố cáo là đạo thơ.



*



Nhà Văn Như Thị Nở


“Nhà văn như Thị Nở” – Tập sách phê bình đầu tiên của Phạm Xuân Nguyên khắc họa 51 gương mặt văn chương của ngày hôm qua và ngày hôm nay, với những quan niệm, thái độ khác nhau, với những thành tựu và hạn chế nhất định, nhưng đều là những nhà văn dấn thân và để lại dấu ấn không thể quên trong văn học Việt Nam. Từ vị trí của một nhà phê bình, Phạm Xuân Nguyên đã làm “sáng giá và sang giá” cho những chân dung và tác phẩm ông viết về. Dù còn vắng mặt một số nhân vật quan trọng, cuốn sách vẫn phần nào bao quát được dòng chảy của đời sống văn chương trong một thời đoạn nhất định.

Những bài viết của Phạm Xuân Nguyên với phân tích sắc sảo, phát hiện độc đáo, giọng điệu đa dạng, góc nhìn biến đổi, văn liệu phong phú, có sức hấp dẫn như một tác phẩm văn học thực sự.

Và đằng sau 51 gương mặt văn chương ấy, Phạm Xuân Nguyên đã tự họa nên chân dung của chính mình:

Tinh tế, đầy suy tư, thẳng thắn và không khoan nhượng.











Tác phẩm đã xuất bản






Dịch

Văn học và cái ác
(Georges Bataille) – Bút danh Ngân Xuyên 
 
Sự bất tử
(Milan Kundera) – Bút danh Ngân Xuyên







Những bài viết gần đây:









Phê bình chỉ điểm


Phạm Xuân Nguyên
2013


Đây là sự định danh một kiểu gọi là “phê bình văn học” của Nguyễn Văn Lưu đã được tôi nói lên tại diễn đàn của hai cuộc họp quan trọng. Cả hai cuộc tôi đều được mời dự chính thức và được phát biểu chính thức.

Cuộc thứ nhất là hội thảo “Nâng cao chất lượng, hiệu quả phê bình văn học” do Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ngày 10/4/2012 tại hội trường Ban tuyên giáo trung ương.

Đến dự cuộc đó có các ông Trương Tấn Sang, Đinh Thế Huynh, và ngồi chủ trì là các ông Nguyễn Hồng Vinh, Đào Duy Quát, Hữu Thỉnh. Khi tôi phát biểu trong phiên thảo luận buổi chiều thì hai vị Chủ tịch nước và Trưởng ban Tuyên giáo trung ương đã không còn ngồi dự. Tôi đăng ký phát biểu và khi lên bục tôi đã mở đầu ý kiến của mình bằng cách nói ngay: bản tham luận “Kinh nghiệm phê bình qua một trường hợp văn học” của Nguyễn Văn Lưu đọc buổi sáng là lối phê bình chỉ điểm.

Ông ta có quyền lấy trường hợp Nguyễn Huy Thiệp để khảo sát phê bình, nhưng cái lối tập hợp tư liệu các bài viết phê bình xoay quanh tác phẩm của nhà văn này rồi tổng hợp lại thành ra như một hệ thống có tổ chức phân công người định hướng tư tưởng, người viết bài… là có ý đồ xấu, là bóp méo sự thực đời sống văn học, là vu cáo những người phê bình có bài viết ủng hộ hiện tượng văn chương Nguyễn Huy Thiệp hành động như một “tổ chức”.

Cuộc thứ hai là hội nghị lý luận phê bình văn học lần thứ ba do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Tam Đảo (Vĩnh Phúc) trong các ngày 3-5/6/2013. Nguyễn Văn Lưu đọc bài viết phê phán bản luận văn “Vị trí kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” của Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) với những lời quy kết nặng nề.

Khi thảo luận tôi cũng đã lên bục phát biểu to trước hội trường rằng kiểu phê bình như thế của Nguyễn Văn Lưu là phê bình chỉ điểm. Tôi cũng nhắc lại đây là lần thứ hai tôi dùng cụm từ này cho Nguyễn Văn Lưu và tôi nhấn mạnh không thể nào ở thời nay, ở nước ta hiện nay chấp nhận được một lối phê bình như thế. (Nói thêm một chi tiết là khi Nguyễn Văn Lưu đang đọc thì nhà văn HPP từ hội trường đi ra ngoài, ngang qua chỗ tôi ngồi anh nói nhỏ “sao bây giờ lại sinh ra những kẻ phê bình cảnh sát như vậy hả ông?”).

Cả hai cuộc lần tôi phát biểu thẳng thắn, công khai tại hai hội thảo lớn báo chí khi tường thuật đều có lược trích ý kiến của tôi, nhưng không báo nào dẫn lại lời tôi nói “phê bình chỉ điểm” đối với Nguyễn Văn Lưu. Mới hay để đưa tin, tường thuật một sự kiện cho thật trung thực, khách quan trên báo chí chính thống cũng là khó. Tổng kết hội nghị Tam Đảo, ông Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam có nhắc tới bốn tiếng này của tôi nhưng là ở phần nói cái chưa được của hội nghị.

Phê bình chỉ điểm là gì?
Nó không phải bây giờ mới có, mà đã có trong suốt đời sống văn học, khi âm thầm, khi rộ lên, và thường là rộ lên thành đợt. Đó là kiểu phê bình cốt điểm mặt chỉ tên những người bị coi là sai trái, sai lầm, lệch lạc, phản động theo một cách đọc văn bản sáng tác và văn bản phê bình thiên về chính trị, quy về chính trị. Các văn bản sáng tác được viết theo cấu trúc nghệ thuật. Các văn bản phê bình được viết theo cấu trúc khoa học. Đọc chúng đúng nghĩa để nhận xét, đánh giá, phản biện là phải đọc theo quy tắc nội tại của văn bản, đọc có lý thuyết và phương pháp, đọc trong hệ thống liên kết văn bản, không thể hồ đồ suy diễn, diễn dịch theo lối áp đặt từ một động cơ, ý muốn ngoài văn học, ngoài khoa học. Phê bình chỉ điểm thường không đọc “vỡ chữ” (để mượn hai chữ này của nhà phê bình văn học và nghệ thuật Nguyễn Thị Minh Thái) các văn bản đó, hoặc có “vỡ chữ” được thì lại “bóp chữ”, và đọc theo lối áp ý (áp buộc ý riêng của mình) và ác ý. Theo dấu chỉ điểm này, người ta sẽ xử lý.

Từ đó, phê bình chỉ điểm là kiểu phê bình dựng chuyện, lập hồ sơ giả, dựng hiện trường giả. Tác phẩm văn học bị lấy làm cái cớ để vu cho người viết những điều không có, ép cho họ những ý nghĩ, tư tưởng không thật, và thế là biến một cuốn sách, một tác giả thành ra một vụ việc mang tính hình sự, nặng hơn nữa thì coi đó là vụ án mà kẻ kết án chính là kẻ viết phê bình như thế. Những tác giả của kiểu phê bình này tự cho mình và coi mình có quyền nắm chân lý, ở vai quan tòa, và lớn tiếng dùng giọng văn buộc tội để nói về người và việc văn học. Theo dấu chỉ điểm này, người ta sẽ xử lý.

Phê bình chỉ điểm do vậy là mang tính vụ việc nhất thời, là báo động giả, lấy sự gây ồn ào rối loạn làm mục đích chính, nhưng hậu quả nó gây ra thì nặng nề cho tâm lý xã hội, cho tinh thần văn giới, và thậm chí gây tác hại về nhân sinh. Theo dấu chỉ điểm, người ta sẽ xử lý. Bởi vì nó luôn được xuất hiện chính thức trên các phương tiện thông tin đại chúng chính thống và xuất hiện một cách ưu tiên, dành chỗ. Nó dễ khiến đám đông tin theo vì sự xuất hiện đó và vì cách viết kích động yếu tố chính trị trong hiện tượng văn học, cũng cả vì đám đông không được thông tin hai chiều, chỉ có chiều đi không có chiều lại.

Tuy nhiên, phê bình chỉ điểm lại thường có hiệu ứng ngược: nó chết nhanh, còn cái bị nó phê thì sống dài. Cứ nhìn lại hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh thì rõ. Khi mới xuất hiện, tác phẩm của hai nhà văn này đã bị phê bình chỉ điểm kêu la ầm ĩ nào là phủ nhận chiến tranh cách mạng, nào là hạ bệ thần tượng, nào xuyên tạc lịch sử dân tộc, vân vân và vân vân, cứ như đọc sách của họ thì hỏng cả mọi sự. Cho đến bây giờ nhìn lại thì chính Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh là hai thành quả xuất sắc nhất của văn học Việt Nam đổi mới, là hai tác giả văn học Việt Nam được dịch nhiều nhất và đánh giá cao nhất ở nước ngoài, là hai gương mặt không thể thiếu khi giới thiệu văn học Việt Nam hiện đại.

Điều này tôi nói là sự thực, còn hơn cả sự thực, đó là sự thật, dù ai khen chê thế nào mặc lòng, nhưng ai còn có lương năng văn học thì cũng đều thừa nhận thực tế đó. Còn lại bên họ là những người phê bình có mắt xanh tâm sáng biết “anh hùng đoán giữa trần ai mới già” nhận chân ra giá trị đích thực của hai người viết mới với những giá trị mới cần thiết cho văn học nước nhà thời kỳ đổi mới ngay từ khi họ vừa xuất hiện trên văn đàn. Trong khi đó, những bài viết kiểu phê bình chỉ điểm một thời vấy bẩn họ giờ còn ai đọc, mà có đọc cũng chỉ thấy chúng bất lực.

Kinh nghiệm của tôi đối với kiểu phê bình chỉ điểm: hễ thấy có bài, mà nhất lại là nhiều bài đánh liên tục, dồn dập, tàn độc nhắm vào một tác giả, tác phẩm, công trình nào đó, thì hãy tìm ngay những cái bị đánh ấy đọc trực tiếp bằng con mắt, trí tuệ mình, đọc dưới góc độ văn hóa, văn học nghệ thuật và quên ngay những trò đánh đấm hội đồng chỉ điểm, phi văn học, phản nhân văn. Như ở trường hợp bản luận văn của Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) về nhóm Mở Miệng: hãy tìm đọc thơ của nhóm đó, hãy tìm đọc luận văn đó, thích hay không thích, đồng ý hay không đồng ý, mỗi người có quyền lựa chọn và phát biểu, nhưng hãy cứ đứng ở địa hạt văn học của thơ và khoa học của luận văn, đừng đẩy sang phía chính trị, tư tưởng, càng không được quy kết, quy chụp về tư tưởng và chính trị. Làm như thế là hại người.

Mà đó chính là cách làm của phê bình chỉ điểm. Nó thế này: “Vì vậy chúng tôi cấp thời đề nghị phải lập tức đình chỉ việc giảng dạy của cô giáo Nhã Thuyên – dù là giảng dạy hợp đồng. Đồng thời hủy bỏ Luận văn, hủy bỏ học vị Thạc sĩ của tác giả Luận văn, xem xét lại tư cách của người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Nguyễn Thị Bình và trách nhiệm của Hội đồng chấm Luận văn này.” (Nguyễn Văn Lưu). Đây chính là một cáo trạng khoác áo “phê bình văn học” truy bức tội danh “kích động sự phản kháng và chống đối” cho một bản luận văn cao học. Theo dấu chỉ điểm này, người ta sẽ xử lý.

Hà Nội 7.2013








Buồn vui văn học năm cuối thế kỷ



Một người ấy đã ra đi



Một kiếp bên trời



Chân lý của buổi rạng đông



Người lính chưa ra khỏi rừng









"Hội chứng Babylone"

Phạm Xuân Nguyên


Connais-toi toi-même
(câu tương truyền của Socrate)

Trước khi ngồi vào bàn hãy thống nhất khái niệm
(câu hình như của Voltaire)


1. Từ Trần Vũ đến Thụy Khuê
Bài viết của Thụy Khuê "Vấn đề đoạn tuyệt với quá khứ để lên đường" được gợi hứng, và để hưởng ứng, bài viết của Trần Vũ. Trong bài "Hợp Lưu 12 năm -trang tôn kinh huyền hoặc hậu hiện đại", Trần Vũ đi sâu phân tích, đánh giá mục tiêu Khai Phá mà tờ tạp chí này đặt ra cho mình đã thành tựu thế nào trong sáng tác của các cây bút xuất hiện trên đó. Anh viết: "Khai phá - phải hiểu là một cách nói đoạn tuyệt lịch sự. Giống Mai Thảo đã đoạn tuyệt với Tự Lực, chấm dứt một thời đại văn học, khởi sinh một thời kỳ Sáng Tạo nguy nga mới ngay khi ông vào Nam. Đoạn tuyệt với Đoạn Tuyệt của Khái Hưng, Nhất Linh. Đoạn tuyệt với cái Tôi xã hội, Tôi chung của mùa thu tiền chiến. Lên đường, chất nổ đã ném vào, cờ đã phất lên, dù chưa biết đi về đâu. Đoạn tuyệt luôn với hai thập niên hải ngoại thừa kế vừa qua. Lớn lao, khổng lồ, đầy tham vọng..., nhưng đằng sau tư tưởng đó, là cả một vực thẳm sương mù trùng điệp mênh mông dài sâu hun hút, không đáy, không tiếng động, không hình dáng, không có gì rõ rệt. Vùng Tuyệt Mù, như Thụy Khuê sẽ thật nhanh nắm bắt". Và sau khi điểm mặt chỉ tên một cách cặn kẽ chi tiết các tác giả tác phẩm có mặt trên Hợp Lưu suốt mười hai năm của hai bộ môn văn và thơ, Trần Vũ kết luận nỗ lực cách tân của họ "thất bại". Thất bại của văn học trên tờ tạp chí này, cũng như trên các tờ báo khác, theo anh là thất bại của cả một giai đoạn văn học mà anh định danh là Làng nhàng. Tại sao? Trần Vũ nêu câu hỏi và tìm thấy câu trả lời trong "chốn vắng tư duy, mà nguồn gốc khởi sinh từ sự thất lạc ở trong từng người Việt, đặc biệt, trong từng người vie
Thụy Khuê là người đầu tiên tiếp tục đi vào những vấn đề Trần Vũ đã xới lên. Đi vào trên nẻo phê bình, theo cách của nhà phê bình, và bài viết của chị cũng rất tâm huyết, công phu, và nghiêm túc. Là nhà phê bình, khởi từ những luận điểm của Trần Vũ, Thụy Khuê đã đi lại lịch sử văn học và triển khai thành những phân tích cụ thể với những đánh giá bình luận riêng của mình. Chị nhìn lại "Vấn đề đoạn tuyệt quá khứ của Tự Lực và Sáng Tạo" để rút ra hai nhận xét: 1) "Họ hô hào đánh đổ cái cũ vì biết là họ có thể dựa vào một điểm tựa mới"; 2) "Sáng Tạo nói vậy mà không phải vậy", nghĩa là tuy tuyên bố dứt bỏ tiền chiến nhưng trong nhóm vẫn có người viết theo lối tiền chiến. Như vậy, qua thực tế của hai văn nhóm lớn trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, Thụy Khuê thấy: "Vấn đề "đoạn tuyệt với quá khứ" ở những người đi trước, chỉ là một cách "nói quá" để "làm vừa". Sự thực, họ đã không những không thể đoạn tuyệt với quá khứ mà còn là một cầu nối, đem thực lực của mình dựa trên quá khứ để tạo dựng tương lai". Điều này được chị chứng minh ở phần hai bài viết "Những thành tựu của quá khứ" khi điểm qua một vài tên tuổi. Mỗi tác giả nói đến, chị nêu luận điểm, rồi chứng minh, và kết luận. Lấy trường hợp Mai Thảo. Luận điểm: "Văn chương Mai Thảo bắc cầu trên hai ngả: tuy chịu ảnh hưởng hiện sinh, rất Camus, rất Sartre, nhìn thấy những hư vô, phi lý trong cuộc sống, nhìn thấy "cái không biết" của chính mình và của tha nhân, nhưng trong cách dựng văn, Mai Thảo chưa bao giờ rời khỏi quan niệm lãng mạn: ông nhìn sự vật bằng cảm xúc, mô tả qua cảm xúc". Chứng minh:
Như đã nói, bài Thụy Khuê bắt vào mạch vấn đề khởi lên từ bài Trần Vũ. Từ góc độ người sáng tác, Trần Vũ đã nhìn mình và đồng nghiệp thấy ra "hội chứng Babylon" khiến văn học Việt Nam chỉ loay hoay sa lầy vào hình thức và kỹ thuật: "Rất hiếm tác phẩm Việt Nam nào chở mang tư tưởng rõ rệt làm xương sống chủ đạo cho toàn truyện, và các nhân vật mọc ra từ xương sống đó như những xương sườn của xương sống đó". Từ cái nhìn của người phê bình, Thụy Khuê chứng minh "hội chứng Babylone" là có thật, và đúng, và đề nghị một phương cách để thoát khỏi hội chứng đó: "Nhà văn viết gì thì viết, trước hết hãy gắng là mình. Không thành kiến. Không mặc cảm. Cũ, mới đều có chỗ đứng, nếu đó là văn chương đích thực". Cuối bài viết, Trần Vũ dẫn nhân vật của Gabriel Garcia Marquez để nói sự thất lạc của nhà văn, Thụy Khuê kể đoản văn của Philippe Sollers để minh chứng nhà văn dám là mình. Từ Trần Vũ đến Thụy Khuê, vậy là, vấn đề đã được đặt ra và triển khai: "Hội chứng Babylone".


2. Từ Thụy Khuê đến người khác
Bài của Thụy Khuê đã gây tranh luận. Nhưng đáng buồn, lẽ ra tập trung tranh luận về "Hội chứng Babylone" sáng tác như đã nêu, thì ngay từ đầu những người tranh luận đã lại bị mắc vào "hội chứng Babylone" phê bình theo đúng nghĩa thánh kinh: mỗi người nói một thứ tiếng, không ai hiểu ai. Chúa trời ở đây là ai vậy? Hãy để mỗi người tham gia tranh luận vừa qua tự nghĩ, và tự tìm. Phần trên, tôi lược lại hai bài viết của TV và TK để thấy hai tác giả viết có hệ thống và vấn đề, dù một người văn phong sáng tác, và một người văn phong phê bình. Nhiều bài gọi là tranh luận đã viết trong tâm thức và tâm thế nói lại Thụy Khuê, chứ không phải nói lại bài viết của Thụy Khuê, nghĩa là không đi vào vấn đề và hệ thống bài viết, mà gây cảm tưởng là chỉ nhân bài viết để nói cá nhân. Nói theo ngôn ngữ bóng đá thì đây là kiểu "bỏ bóng đá người".
Kiểu bắt lỗi Thụy Khuê cẩu thả tiếng Pháp "Ponty thay vì Merleau-Ponty, Lévy Strauss thay vì Lévi- Strauss, Clézio thay vì Le-Clézio" là việc của một editor, khí dễ dàng và nhẹ nhàng (vậy mà người bắt lỗi lại mắc lỗi, viết Descartes thay vì René Descartes), nhưng từ đó mà hạ một câu "không biết có phải chị chép lại ở đâu đó chứ không phải đọc chính nguyên bản của họ..." (Đỗ Nguyên) thì đã sang chuyện nhân cách, ngoài đời và trong văn, nặng lắm rồi. (Tôi nhớ hồi trong nước tranh cãi cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà Cơ hội của Chúa, có lắm người đã nhắm mắt trước giá trị có thật, cả tư tưởng và nghệ thuật, của tác phẩm đó, mà chỉ nhăm nhăm chê tác giả kém tiếng Anh vì mấy câu ngoại ngữ nhân vật nói đều viết sai chính tả, cứ như vì cái lỗi ấy mà cả cuốn tiểu thuyết là vô giá trị, là vứt đi). Bực mình trước cách dịch của Thụy Khuê về tính từ "neutre" là"lạnh lùng" để nói về lối văn của Camus (Đỗ Nguyên, Đoàn Cầm Thi) thì do, hoặc cảm nhận văn Camus khác, hoặc hiểu tiếng Việt khác. Mở từ điển ra tra "neutre"= "trung lập" thì dịch được "pays neutre", nhưng còn dịch thế nào "milieu neutre" trong hóa học, "pronom neutre" trong ngôn ngữ học, "abeille neutre" trong sinh vật học, "couleur neutre" trong hội họa, "ton neutre" trong cuộc sống, v.v., đây là tôi cũng lấy trong từ điển ra thôi. Huống nữa, khi Thụy Khuê chua thêm tiếng Pháp vào cách dịch của mình tất là phải có ý. Cũng như khi giới thiệu cuốn tiểu thuyết mới của A-R. Grillet "Reprise", chị đã đề xuất một tên dịch mới cho cuốn cũ của nhà văn này "La Jalousie" là "Bức mành mành" thay vì "Ghen" như từ trước đến nay vẫn thường, và chị đã phân tích lý do vì sao. Cho là dịch neutre=trung lập đi, thì "lối văn trung lập" nghĩa là sao? Thật ra, nghĩa từ không bao giơ
Đấy, vậy là tôi cũng bị sa đàvào mấy cái chữ vớ vẩn mà lẽ ra chúng không nên xuất hiện nếu như người viết biết nghiêm túc tranh luận học thuật chứ không phải là đi bắt lỗi chính tả nhưng cứ lớn giọng là "Cần phải có căn bản triết để nói chuyện triết học". Tác giả của cái đầu đề to tát này (nhưng nội dung thì như một bài "dọn vườn") lại vận dụng "căn bản triết" (chẳng hiểu triết ta hay triết tây, duy tâm hay duy vật, biện chứng hay siêu hình, hay là triết triệt) để suy một câu của Thụy Khuê thành là 'chửi xéo" nhóm tạp chí Việt ở Australia. Kiểu này là kiểu "xúi nhau đánh hôi" đây. Tôi sẽ không nhắc lại ở đây một cái "lỗi editor" cố ý mắc của nhóm này đã làm bùng lên một trận chiến giả từ hai năm trước, chuyện đó tôi đã có bài viết đăng trên Hợp Lưu. Tôi chỉ muốn nói, những số tạp chí chuyên đề của họ, cũng như cuốn sách vừa ra của Hoàng Ngọc Tuấn, là có ích ở chỗ tổng hợp giới thiệu một số lý thuyết văn học mới cho số đông, nhất là cho những ai không đọc được ngoại ngữ, và khi làm thế họ có vẻ như không khác Mai Thảo và nhóm Sáng Tạo mấy chục năm về trước ở chỗ cũng muốn đoạn tuyệt, đập vỡ và làm mới trong một nước "cộng hòa văn chương thế kỷ hai mốt". Tiếc thay, họ chỉ mới là, để nói một thành ngữ Pháp, "'savant avec livre". Với tư cách người đọc, tôi rất tiếc, và buồn, khi Việt đã không ra tiếp được. Với tư cách người phê bình, tôi muốn được hiểu vì sao Việt bị dừng lại, ngoài lý do tài chính (hình như không phải), hay lý do người đọc (hình như phải và không phải), có lẽ là lý do văn chương chăng. Nhưng đấy là chủ đề của một cuộc nói chuyệ Một kiểu bắt bẻ nữa khi người ta nghĩ là tranh luận, đó là cho rằng Thụy Khuê đã không giải trình, chứng minh đầy đủ các khái niệm, quan niệm đưa ra. Những người viết thế đã vô tình quên mất đầu đề bài viết của Thụy Khuê: chị bàn về vấn đề "đoạn tuyệt với quá khứ để lên đường" chứ không phải trình bày, giới thiệu các lý thuyết. Các lý thuyết được tác giả điểm qua, nhắc đến như những luận cứ, dẫn chứng, do đó cách trình bày chúng khác với cách trình bày luận thuyết. Đây là một thí dụ trách cứ: "Chỉ gọn trong một trang, tác giả đề cập tới hàng loạt những tên tuổi lớn mà ngay những học giả phương Tây cũng phải tốn cả ngàn trang, nào là Nietzsche, Heidegger, Marcel, Jasper, Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Michel Foucault, Lévi- Strauss, Derrida… Những tên tuổi ấy, người đọc phương Tây cũng chưa chắc hiểu nổi, nói gì tới người đọc Việt. Nhưng tác giả chỉ đưa ra những phán đoán mà không hề chứng minh hay giải thích rõ ràng, nên người đọc có cảm tưởng đang đi giữa đường bị trúng một cơn mưa chữ, tối tăm mặt mũi" (Khế Iêm). Vậy thì, hỡi ai, từ nay tốt nhất là đừng viết lách gì nữa, nhất là viết phê bình, vì viết là phải dẫn tác giả tác phẩm, khái niệm thuật ngữ, mà đụng cái nào cũng lôi cả ngàn trang ra thì sức mấy viết được. Viết, không bao giờ là viết ở chỗ trống không và hư vô cả. Viết, luôn luôn là trên sự ngầm định, ngầm hiểu, quy ước, về văn hóa nói chung, và kiến thức chuyên môn nói riêng. Viết một cách thông minh là giả định người đọc cũng thông minh, câu này không phải của tôi mà của một ai đó nói. Ngay như từ "văn hóa" tôi vừa buông ra, chẳng lẽ bây giờ ngừng bài viết ngang xư
Modernism: "The art that devotes its "trivial technique", as Diderot called it, to presenting the exitence of something unpresentable. Showing that there is something we can conceive of which we can neither see nor show - this is the stake of modern paiting" (tr. 46).
Postmodern Aesthetics: "The postmodern woul be that which in the modern invokes the unpresentable in presentation itself, that which refuses the consolation of correct forms, refuses the consensus of taste permitting a common experience of nostalgia for the impossible, and inquires into new presentations - not to take pleasure in them, but to better produce the feeling that there is something unpresentable" (tr. 49).
(Tôi xin lỗi bạn đọc ở đây, cũng như những đoạn trích dẫn ở sau, tôi để nguyên ngoại ngữ, vì khi còn có sự tranh cãi dịch thuật trên những "căn bản triết" khác nhau thì hãy để những người cãi nhau đọc thẳng vào tiếng khác chứ không phải tiếng Việt. Mà để thế tôi còn tránh được tiếng "dân tộc hẹp hòi" nữa, kiểu sao "trung lập" lại thành ra "lạnh lùng" ấy mà. Nhưng tôi sẵn sàng cung cấp bản dịch của mình cho bạn đọc nào muốn đọc Việt ngữ, xin cám ơn).
Theo cách xác định này, Lyotard phân tích À la recherche du temps perdu (1913 - 27) của Marchel Proust (1871 - 1922) là chủ nghĩa hiện đại, còn Ulyss (1922) và Finnegans Wake (1939) của James Joyce (1882 - 1941) là hậu hiện đại.
Để cho thấy người ta không nên độc quyền học thuật, do đó độc quyền một cách hiểu, tôi xin mách các tác giả trên vào Website nhân van.com, mục "tin văn", đọc một bài rất bổ ích của Damon Linker đăng trên tạp chí Firts Things (tháng 8&9/2002) nhan đề "Nietzsche's Truth". Đoạn tôi dẫn ra đây có liên quan trực tiếp đến điều đang nói: "But how ought we to approach the task of evaluating Nietzsche's work? The answer is far from clear. For Nietzsche is a deeply contradictory thinker, and glancing at the dozens of books devoted to his thought in the philosophy section of any good bookshop, it can seem that there are, in fact, many Nietzsches. Most scholars have assumed that his work amounts to a defense of radical right-wing politics, but many today think him more compatible with the far left. His books contain numerous misogynistic passages, but that hasn't discouraged feminists from claiming to find support for their program in his ideas. Some think his teaching is meant to inspire public actions, but many others have seen in his writing an aesthetic call to private cultivation and creativity. Competent scholars have declared that his work is hopelessly incoherent, while at least one leading philosopher has claimed that Nietzsche was the last great metaphysician in the West. And then there are those who think that Nietzsche's texts can and should mean anything their readers want them to. This abundance of interpretations makes any attempt to render an informed and comprehensive judgment of his work exceedingly difficult". Và Damon Linker thở phào một cái khi thấy cuốn Nietzsche: A Philosophical Biography của Rudiger Safranski đã giúp cho việc này dễ đi nhiều. Như vậy là một cuốn dạng tiểu sử đã có thể cho phép người đọc nắm hiểu được tư tưởng của một đại gia.
Nhân đây cũng xin nói về loại sách phổ biến, hướng dẫn đọc lý thuyết này, vì tôi thấy khá nhiều người phản bác bài của TK tiện thể dè bỉu, khinh khi luôn cả chúng, làm như họ tất cả đều trực tiếp đọc thẳng vào nguyên tác của các "máy phát tư tưởng". Cho phép tôi hồ nghi điều đó. Ngay cả như vừa rồi phê bình bản dịch Mỹ học của Hegel, nhưng tôi dám chắc rất, rất ít người đọc được (nghĩa là đọc và hiểu) và can đảm đọc nguyên tác bộ Aesthetics đó của ông. Chỉ để chuyển dịch nó từ Đức ngữ sang Việt ngữ không thôi đã là thiên nan vạn nan rồi. Ngay cả khi đọc nó trong bản Anh ngữ, Pháp ngữ, cái hiểu của người đọc cũng đã bị khúc xạ theo bản dịch. Mà dù có được bản Việt ngữ tương đối chính xác thì để đọc hiểu triết học nghệ thuật của Hegel cũng không là việc đơn giản. Tôi thấy những phát ngôn của các tác giả trưng ra thuyết này thuyết kia chỉ là phát ngôn lại những diễn dịch các thuyết đó qua một người khác. Vậy nên, cuốn Triết học hiện sinh của Trần Thái Đỉnh là cũ (về thời gian) nhưng không cũ (về giá trị), vì những điều nói trong đó đã được tác giả - một người có uy tín học thuật, tập hợp từ những nguồn tài liệu nước ngoài khả tín, nếu nó chưa phải là tri thức tối đa, thì nó là tri thức tối thiểu đúng đắn về chủ nghĩa hiện sinh. Triết thuyết này đã qua thời của nó, nhưng để tìm hiểu nó cho những người đến sau, loại sách nhập môn (introduction) như thế vẫn hữu ích. Đỗ Nguyên chê Trần Thái Đỉnh "không có một quan điểm sáng tạo" khi biên soạn, tổng hợp các tài liệu nước ngoài để viết cuốn "Triết học hiện sinh". Tôi sợ cái "quan điểm sáng tạo" này của người Việt Một kiểu bắt bẻ khác là suy diễn, gán ghép, nó do cách đọc cắt khúc từng đoạn, từng câu bài người khác, và vì vậy nó đầy mâu thuẫn. Khi khảo về nhóm Sáng Tạo, TK cho rằng đọc vào các lời lẽ của họ trong các cuộc thảo luận để "chôn tiền chiến" (mượn chữ của Trần Dần) thì thấy những tuyên bố rất nổ, và sau khi dẫn ra một số ý kiến, chị viết: "Ngày nay, đọc lại những dòng này, chúng ta có thể mỉm cười, cho sự đả kích tiền chiến và Tự Lực Văn Đoàn của Sáng Tạo cũng "hời hợt", "ấu trĩ" như Tự Lực Văn Đoàn đã từng đả kích hời hợt và ấu trĩ thế hệ Tản Đà". Nhưng chị ghi nhận Sáng Tạo, cũng như Tự Lực Văn Đoàn đã thành công trong việc "chặt đứt" quá khứ của họ. Và chị thấy ra hai nguyên nhân là họ bỏ cái cũ vì có cái mới, nhưng không vì cái mới mà họ tất cả cái cũ, nghĩa là sự thực hành văn chương của họ đã cân bằng, điều chỉnh lại những lời tuyên bố to tát họ đưa ra khi thảo luận. Mới đọc qua tưởng điều này mâu thuẫn, nhưng kỳ thực đó đã gần như là một quy luật của mọi sự đổi mới văn chương. Chỉ cần giở lại lịch sử phong trào Thơ Mới nước ta sẽ thấy. Nam Dao trong bài viết "Xiếc chữ" đã bị mắc vào cái mâu thuẫn bề ngoài này, và tuy "hạch" lại Thụy Khuê nhưng tác giả cũng phòng xa cho mình: "Hay là vì tôi, người đọc, chậm hiểu. Ừ, để yên lòng cứ cho là thế vậy!". Đặc biệt, đang từ hỏi hiện sinh là hiện sinh nào, Nam Dao bỗng thở dài xót thương thân phận cho cả giống nòi dân tộc: "Vậy, nhưng có điều buồn hơn vậy : nhà văn Việt Nam cứ phải dựa vào văn học và tư tưởng mấy vị ở trời Tây mới có chỗ dựa để đánh đổ thế hệ Nam Dao phản bác Thụy Khuê về Sáng Tạo theo cách thế này: "Tôi nhớ có đọc một cuộc phỏng vấn Mai Thảo, trong đó ông nói, Sáng Tạo chẳng có tổ chức, giáo điều, quan niệm, lý thuyết gì cả, hợp thì đi lại, chơi bời, nhẩy đầm, rượu chè với nhau. Thế mới hay : hiện sinh ở ngay trong đời sống, dám là mình ( chữ Thụy Khuê lập lại nhiều lần ) ở cái nghĩa đó, và từ xuất phát điểm sống mà viết, giản dị thế thôi!". Cứ cung cách này thì, thứ nhất, nếu vậy thì đem Truyện Kiều bỏ đi, vì Nguyễn Du không phải nói trong phỏng vấn, mà viết hẳn vào tác phẩm là ông đặt ra hơn ba nghìn câu lục bát chỉ để "mua vui một vài trống canh" mà thôi; thứ hai, vứt văn bản tác phẩm đi, khỏi cần nghiên cứu phê bình gì nữa cho mất công, chỉ cần nghe tác giả nói, phỏng vấn là đủ kết luận; thứ ba, chôn lịch sử đi, vì giấy trắng mực đen còn đó, Sáng Tạo vì đâu mà ra đời, nhận tiền ai, số đầu tiên tạp chí Mai Thảo viết bài "Sài Gòn thủ đô văn hóa" để làm gì. Có thể chơi trò "xiếc chữ" với con khỉ và hệ nhị phân (0,1) và cái computer, nhưng đã còn là người thì không thể chơi trò xiếc đó với người được.
Đoàn Cầm Thi phản đối "mình dám là mình" của Thụy Khuê bằng cách lôi nó cặp với "ta lại là ta" của Tố Hữu, rồi quàng thêm vào đó cái câu nhại "chui ra chui vào", để hạ một phán quyết: "Cả Thụy Khuê và Tố Hữu đều đinh ninh: "ta" hay "mình" là một giá trị bất biến, phi thời gian, phi lịch sử, có thể tồn tại hoàn toàn độc lập với thế giới bên ngoài. Ca bài "ta về ta tắm ao ta", phủ nhận quy luật vận động, phủ nhận cái mới, cái khác, họ là những kẻ phản tiến bộ. Với tư cách một người làm phê bình, lời nhận định của Thụy Khuê lại càng nguy hiểm, một lần nữa thể hiện tính xuề xòa trong một công việc đáng ra phải khoa học". Ơ hay, Đoàn Cầm Thi, sao lại có thể suy diễn như vậy được nhỉ? Thứ nhất, hai mệnh đề của Thụy Khuê và của Tố Hữu hoàn toàn khác nhau. Câu thơ Tố Hữu nói một thực tế chính trị: nước Việt Nam thoát ách nô lệ ngoại bang, Việt Nam lại là Việt Nam với tư cách một quốc gia, một dân tộc, một đất nước trên bản đồ thế giới, không còn có chữ "thuộc..." nào đi kèm nữa cả. Đây là một cảm hứng chủ đạo của thơ Tố Hữu, có thể dẫn ra nhiều câu khác của ông, ví như câu này "Việt Nam ta lại gọi tên mình, Hạnh phúc nào hơn được tái sinh". Tôi không tin có người Việt nào lại không muốn "ta lại là ta" trên phương diện này, còn như có người muốn "ta lại là tây" thì đó là quyền của họ. Câu của Thụy Khuê lấy lại ý của F. Nietzsche và Thạch Lam đã được tác giả dẫn giải, do đó đặt trong văn cảnh phải hiểu làngười viết tiếp thu, học hỏi gì đi nữa, tất cả đều phải biến thành của mình, dám đi đến tận cùng cái mình thích, và tin, và sống. Hiểu suy diễn như trên là một cách hiểu xuyên tạc ác ý. F Trở lên tôi đã điểm qua mấy biểu hiện của "Hội chứng Babylone" phê bình qua những bài gọi là tranh luận với bài viết của Thụy Khuê. Như vậy cái "Hội chứng Babylone" sáng tác mà Trần Vũ nêu lên cơ hồ bị bỏ rơi, bị quên mất, và cứ theo kiểu này của mấy người viết vừa qua thì con bệnh văn học Việt Nam đã chết ngắc từ lâu trong khi chờ chữa trị.
Đúng ra, trong các bài viết cho đến nay tôi thấy có một bài thực sự tranh luận đúng nghĩa, đó là bài "Có một thế hệ văn học mới cũng đang "đoạn tuyệt để lên đường"? của Đoàn Xuân Kiên. Ngay vào đầu tác giả đã đọc được và hiểu đúng vấn đề đặt ra trong bài viết của Thụy Khuê, một điều mà những người viết nêu trên đây đã không đọc được hoặc không biết đọc: "Bài viết "Vấn đề đoạn tuyệt với quá khứ để lên đường" của Thụy Khuê (Hợp Lưu số 68, và Talawas 18/12/2002) có lẽ là một trong số hiếm hoi những bài viết có tính cách lượng giá một thời kỳ văn học phong phú đã bị bỏ quên hay bỏ qua như thể nó không có mặt. Một thời kỳ văn học như thế gọi là ngắn cũng được, nhưng là một thời ngắn cô đọng những thành tựu đáng kể của nền văn nghệ sau thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn. Thật ra bài viết vừa kể muốn đặt vấn đề khác: chị muốn nhìn lại kinh nghiệm của hai thế hệ Phong Hóa và Sáng Tạo để rút ra một số bài học kinh nghiệm cho thế hệ văn học hôm nay về sự kế thừa và cách tân văn học". Tranh luận mà biết vấn đề cần tranh luận là gì thì khỏi sa vào chuyện bắt bẻ, suy diễn câu chữ, rồi bỏ văn để nói người là chuyện gần như đương nhiên vậy. ĐXK đánh giá cao sự phân tích Dương Nghiễm Mậu dưới góc nhìn hiện sinh của Thụy Khuê: "Phân tích chiều sâu nội dung của truyện Dương Nghiễm Mậu từ góc nhìn triết học hiện sinh là một quan điểm phê bình rất thuyết phục. Trước Thụy Khuê, Nguyễn Văn Trung cũng đã đọc truyện "Niềm đau nhức của khoảng trống" theo quan điểm như thế". Ông đã thấy được bề sâu ở chỗ Nam Dao chỉ thấy bề nổi nên vội chụp người là mẫu


3. Từ Trần Vũ, Thụy Khuê đến tôi
Tôi thích thú và tâm đắc bài viết của Trần Vũ. Khi Vũ viết bài đó là khi tôi đang có mặt ở Paris, hai chúng tôi đã có những buổi nói chuyện về "Hội chứng Babylone" và tôi phục Vũ đã tìm ra được hình tượng đích đáng để chỉ ra nguyên nhân của một thực trạng văn học sau 12 năm Hợp Lưu. Chính Vũ đã nhắc lại mấy chữ "Vùng Tuyệt Mù" của Thụy Khuê (lấy ý từ Vũ Khắc Khoan) để nói về cái đích chưa thấy đâu của tinh thần khai phá hăm hở hào hứng của những người viết muốn chặt đứt quá khứ để lên đường. Những vấn đề Thụy Khuê đặt ra trong bài viết công phu tâm huyết của anh thiết nghĩ phải được cả giới quan tâm suy nghĩ đặng tìm một giải pháp đưa văn học Việt Nam thoát khỏi tình trạng "làng nhàng". Đến nay mới chỉ có bài của Thụy Khuê và Đoàn Xuân Kiên.
Tôi đồng tình với mệnh lệnh sáng tạo Thụy Khuê rút ra: mình dám là mình, nhưng mong muốn được đọc ở chị những bài tiếp tục phân tích kỹ hơn, sâu hơn nữa những vấn đề đã được chị đặt ra ở bài viết này. Thụy Khuê đã viết những bài nghiên cứu kỹ lưỡng về nhiều nhà văn Việt Nam, bất luận trong ngoài, mà chị thấy đáng đọc và có cái để đọc (xem hai tập Sóng từ trường của chị). Trong những bài viết đó, chị đã mạnh dạn áp dụng các lý thuyết và phương pháp phê bình hiện đại vào "đọc" các tác giả, tác phẩm. Nói thế để thấy Thụy Khuê không chối bỏ cái mới, cái hiện đại (những ai không đọc vào văn bản của nhà phê bình thì mới dám nói liều như vậy), nhưng với chị chúng không phải là mục đích. Cổ vũ người sáng tác "mình dám là mình", chị cũng đòi hỏi như vậy đối với bản thân: "Đối với tôi, phê bình là "một sản phẩm cá nhân phi trường phái". Như những sản phẩm cá nhân khác, nó có thể chiọu ảnh hưởng của môi trường, của thời đại, của các trường phái này hay trường phái khác... nhưng lệ thuộc đó không thể là chủ yếu mà chủ yếu là người phê bình - cũng như người sáng tác - phải vượt trên, vượt qua mức chủ quan của thời đại, của trường phái, của chủ nghĩa để tìm đến một cái gì đó vững bền hơn có thể trụ lại khi mọi thời đại, mọi trường phái đã qua đi. Sự vững bền đó nằm ở sức cảm thông và mức thẩm thấu giữa tác phẩm văn học và người đọc" (Sóng từ trường 2). Điều này cũng có người nhìn bề ngoài cho là mâu thuẫn, trái ngược, khi đem nó đối chiếu với việc chị đọc lại cuốn sách của Trần Thái Ð Tôi ủng hộ mọi sự tìm tòi, đổi khác, cách tân, làm mới của người viết. Trên quá trình này, đoạn tuyệt là sự khởi đầu. Những thế hệ đi trước bao giờ cũng chất thêm trọng lượng vào gánh nặng quá khứ, truyền thống cho mỗi thế hệ đến sau. Không đoạn tuyệt nghĩa là không biết mình thừa hưởng cái gì và từ bỏ cái gì, mình bắt đầu từ đâu và sẽ đi đến đâu. Nhưng đoạn tuyệt là một việc dễ nói mà khó làm. Phái Vị Lai Nga hồi đầu thế kỷ hai mươi, khi cách mạng tháng Mười nổ ra, đã đòi vứt Puskin, Dostoevsky ra khỏi con tàu văn học, rốt cuộc ai bị vứt xuống thì lịch sử đã cho thấy. Những tuyên bố đoạn tuyệt luôn có hấp lực kiểu "à la mode" đối với những người viết non tài non tay non kiến văn bản lĩnh. Thường thì những người đó rồi sẽ lại bị cầm tù bởi những cái họ định phá bỏ. Vì họ không biết mình là ai, họ chạy theo người. G. G. Marquez có câu nói nổi tiếng: "Trong nghề văn khiêm tốn là một đức tính thừa". Ý ông muốn nói khi đọc sách ta đọc các bậc thầy, nhưng khi viết ta đừng nghĩ mình là học trò. Tôi hay dẫn câu nói này cùng với câu thơ tình Xuân Diệu ứng vào việc sáng tạo: "Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất, Không có chi bè bạn nổi cùng ta". Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magic realism) là do chính Marquez cùng với các nhà văn khác của các nước Mỹ Latin sáng tạo ra trên lịch sử thực tại và con người vùng đất đó. Lịch sử Việt rồi có cung cấp cho nhà văn Việt một cách viết nào riêng biệt, độc đáo không? Cái đó còn phải chờ. Trần Dần hồi 1946 ra tuyên ngôn "Dạ Đài" chủ trương thơ tự do, mười năm sau làm thơ bậc thang theo kiểu Maia, và để chuẩn bị cho những chân trời có người bay Hồi tháng 8/2002 trên tờ National Post có bài viết về các nhà tư tưởng Pháp ảnh hưởng châu Âu mở đầu rất hay thế này: "Ba món hàng xuất khẩu nổi tiếng của Pháp là phómát, rượu vang và tư tưởng. Phó mát thì rất tuyệt, rượu vang có năm ngon năm dở, còn tư tưởng thì luôn luôn xấu". Các nhà văn ta nghe câu này chắc hoang mang. Nhưng hoang mang để thấy rằng cần có tinh thần phê phán đối với những cái học hỏi, tiếp thu, ảnh hưởng, dù đến từ nguồn nào, đến từ đâu. "Hội chứng Babylone" chỉ có chữa khỏi khi người viết ta biết mình là ai, mình làm văn chương nào. Hai tiểu thuyết gia được xếp hạng nhất nhì trong bảng tổng sắp mười nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ hai mươi qua một cuộc trưng cầu ở Anh quốc hồi gần đây là Gabriel Garcia Marquez và Milan Kundera. G. G. Marquez không đi khỏi đất nước Columbia của ông, viết văn bằng tiếng Espagna. M. Kundera gốc Szech định cư ở Pháp, viết văn bằng cả hai thứ tiếng. Nhưng cái đưa tác phẩm của hai ông vượt biên giới quốc gia và hàng rào ngôn ngữ là nội dung các ông viết, một nội dung chứa đầy nỗi đau đớn, tủi nhục, xót xa, thương yêu cho thân phận dân tộc mình. Nhà văn lên đường tìm những phương cách thể hiện mới là cần thiết, nhưng các phương cách mới chỉ biện minh được cho mình khi chúng tựu thành ở những tác phẩm gây chấn động cho người đọc về thân phận con người, thân phận cộng đồng. Một thực tế chứng minh là các nhà văn ngoài nước có điều kiện tiếp xúc vận dụng đủ các lý thuyết trường phái, nhưng những tác phẩm thành công nhất, gây được ảnh hưởng ra ngoài nhiều nhất, của văn học Việt Nam hai chục năm qua là của các nhà văn trong nước. Tôi xin lỗi ở đây không có ý phân bie
"Hội chứng Babylone" Trần Vũ đặt ra, và Thụy Khuê tiếp cận, đã vẫn là vấn đề nhức nhối. Tôi mong sẽ có một dịp khác trở lại.


Tokyo những ngày đầu năm 2003








Văn học Việt Nam: nỗi buồn tiểu thuyết









Dịch phẩm

Jean-Francois Lyotard


*





Blog Nguyên Đầu Bạc .
   









"Viện Văn có một Phạm Xuân
Nguyên là cán bộ - cử nhân phê bình"







Tham khảo thêm về tác giả Phạm Xuân Nguyên




Thụy Khuê : Phạm Xuân Nguyên

Chương trình phát thanh trên đài RFI:







Phạm Xuân Nguyên: Gã đầu bạc chung thân MC sách





Minh bạch lịch sử





Phạm Xuân Nguyên: Dịch thuật là văn hóa





Hồ Cúc Phương: Phạm Xuân Nguyên:
"Chuyện khó tin nhưng có thật"




































Hs Phan Nguyên, Dịch giả Nguyễn Đôn Phước, Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên  
Sài Gòn 2013









Hiện sống và làm việc tại Hà Nội (Việt Nam)










Trở về 






MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.