Thứ Tư, 13 tháng 4, 2011

Đinh Cường (1939 - 2016)


















Đinh Cường
Tên thật: Đinh Văn Cường
(1939 Thủ Dầu Một - 2016 Virginia Hoa Kỳ)
Hưởng thọ 77 tuổi

Họa sĩ, thi sĩ












Gặp lại Phan Nguyên. Saigon 28.7.10






Cựu học sinh trường Pétrus Ký Sài Gòn. 
1963, tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế.
1964, tốt nghiệp Giáo khoa Hội họa Cao đẳng Mỹ Thuật Gia Định Sài Gòn. 
Sau đó ra Huế giảng dạy tại trường nữ sinh Đồng Khánh và Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế cho đến mùa hè 1975.
Từ 1963 đến nay đã có trên 30 cuộc triển lãm trong và ngoài nước, khắp nơi trên thế giới.
Năm 1989 Họa sĩ Đinh Cường cùng vợ con đã sang định cư tại Hoa Kỳ, tiểu bang Virginia và ông đã qua đời tại đây ngày 7/1/2016.
Hưởng thọ 77 tuổi








"Nghệ thuật là đời sống riêng biệt, hiếm hoi. Tôi đã vẽ trong mọi hoàn cảnh, nơi chốn. Không biết để làm gì? Có lúc gần như tuyệt vọng, đôi khi thấy mình được cứu rỗi. Và tôi lại tiếp tục vẽ, tiếp tục suy nghiệm ...
Xin đừng bắt tôi giải nghĩa tranh. Nó hiện ra đó và tôi đã hụt hơi, mệt mỏi. Thế giới xa lạ được dựng lên từ một hồi ức hay một bắt gặp vụt đến, rồi loang dần trên mỗi khoảng không đen. 
Khoảng không mà tôi đã đối diện trong những ngày tháng sống chìm lỉm câm nín, mỏi mòn, xô dạt tôi về gần với hư vô, tiếng vọng bi thảm của một hồi chuông lạ. 
Xin ghi nhớ một góc hành lang, nơi tôi đã đặt giá vẽ, đêm nào mưa bão thổi qua hay cơn nóng của mùa hạ sắp tàn. Nơi đó tôi đã mài nhẵn ý thức, ném từng vô vọng, đổ từng hơi thở xuống những khung vải vốn hiền từ.
 Mỗi bức tranh là một hơi thở. Và nó thành hình tức là tôi đã chết. 
Tôi trở lại cùng người làm kẻ thưởng ngoạn. Nhìn sự mới lạ như lần đầu tiên mới đến. Xin hãy cảm, nhớ đừng bao giờ tìm hiểu."

DC
(Bày tỏ về hội họa của Đinh Cường)












Tác phẩm cuối cùng trong đời của họa sĩ Đinh Cường

“Lần cuối cùng Bố tôi được dìu ra garage. Kịp để nhúng cọ ký tên ở góc phải, 1/2016. Bước qua năm mới vài ngày.
Chưa kịp hỏi Bố tôi sẽ đặt tựa gì, nên xem như không có.”
(Đinh Trường Chinh)












 Tác phẩm mới

















Thư ấn quán xuất bản 2014












Tranh Đinh Cường





Biến khúc tháng 11














Tiếng kèn chiều














Đi đâu về đâu












Rừng câm











































Tình Bạn, Hồi Sinh Cơn Hôn Mê




Hội Họa Trịnh Công Sơn: Một Cuộc Chơi-Tự-Dâng-Hiến





Khúc Requiem Tôi Nghe Chiều Nay

Đinh Cường
Virginia , Feb.9.2011



Dưới gốc tùng, Đinh Cường, 01.02 


Như tiếng chuông ban chiều
Chuông gọi hồn ai Ernest Hemingway
Khúc requiem cho Nguyễn tôn Nhan
chiều mù mù ngoài trời
mù mù giọng hát Nguyễn trọng Khôi
như ném nhẹ từng viên sỏi
trên mặt hồ đóng băng
là nước mắt khô của mùa đông
chờ tiếng chim báo mùa
tan ra khi nụ hoa vàng vừa nở
mùa xuân sẽ đến …

Chiều mù mù khúc requiem buồn
những nét bút chì nhớ Nguyễn tôn Nhan
những nét bút chì như có nuớc mắt
những nét bút chì tài hoa của Khôi
như nét bút chì vẽ Trịnh công Sơn
tôi mong được đổi bạn
những chai rượu vang ngon nhất
hay chai rượu lễ lâu năm
Amen …

Khúc requiem buồn quá đỗi
ai nào biết ai nào hay
ai nào biết ai nào hay …
và chấm đỏ trên bản đồ đường thành phố
nơi người thi sĩ yêu mến của chúng ta ngã xuống
rồi thôi rồi thôi đi xa
ai nào biết ai nào hay
ai nào biết ai nào hay …

Tôi còn nhớ viên sỏi trắng trong sân nhà thờ
nói lời an ủi tôi thời trẻ dại :
đừng khóc nữa.


Virginia , Feb.9.2011
Đinh Cường














Từ vườn khuya bước về












Bỏ tôi đứng bên đời kia











Những Kỷ Niệm Rời Cùng Khánh Ly.










Và nhiều bài khác:




Gauguin: Người Tạo Nên Huyền Thoại





Để Đi Đến Xám Trắng Đen Nguyễn Trung Đã Là...











Bửu Chỉ, Ngưòi Đứng Trên Miệng Núi Lửa

Để Nhớ 8 Năm Ngày Mất 14.12.2002 – 14.12.2010. 
Đinh Cường

Tháng cuối năm, nỗi buồn mênh mang khó tả. Chênh vênh giữa ngày tháng cũ đã qua và ngày khởi đầu của một năm mới sẽ đến. Chính giữa cái tháng Chạp, với màu trời xám chì và gió, gió từ đâu tới, thổi ngược từ sông Hương lên đến cái góc quán cà phê mang tên Thiên Đường... Bắt đầu từ đó, sau đó, Bửu Chỉ đã ra đi vĩnh viễn, tám năm, rồi sẽ qua chín năm, mười năm... Không còn gặp nhau, ở Huế, ở Saigon hay Hà nội nữa, nhưng những kỷ niệm cùng bạn thì còn in dấu chưa phai.


Ngưòi Đứng Trên Miệng Núi Lửa, 
Bửu Chỉ, 2000

Huế, căn nhà xưa của thân sinh. Chỉ vẫn vậy. Bàn thờ gia đình ở căn phòng rộng phía trước, bàn thờ Chỉ ở bên trái, còn để cặp kính tròn gọng bạc, cặp kính mà Hoàng ngọc Biên đã mua ở tiệm bán đồ xưa cũ tặng tôi năm mới qua ở Utah, Chỉ rất thích, và tôi đã tặng lại. Mỗi lần về Huế đều ghé về thắp nhang, khi nào cũng có Vy và các cháu tiếp ở bộ salon bên góc mặt, trên tường còn treo nhiều tranh của Cụ Ưng Thuyên, thân phụ Bửu Chỉ, những bức tranh rất hiếm quý ấy theo màu thời gian đã hư hao nhiều. Tranh Chỉ thì còn để rất nhiều bức khổ lớn bên phòng phía trái. Vy chăm sóc kỹ vì sợ bị ẩm mốc. Vy đi về giữa hai nhà trong Thành Nội và Vỹ Dạ. Guitare , tên ở nhà của cháu nội nay đã lớn (Chỉ rất mê đàn guitare và hát rất hay, say sưa, những bản nhạc tiền chiến, nhạc Phạm Duy và nhạc của người bạn mà Chỉ luôn thương quý, vẽ nhiều tranh và dessins đẹp: Trịnh công Sơn.

Nhớ lại, những năm cuối thập niên 60, đầu 70, Bửu Chỉ còn rất trẻ, đang là sinh viên trường Luật - Huế, nhưng lại rất say mê hội hoạ, và trong các phong trào sinh viên tranh đấu ở Huế và Sài Gòn lúc đó, Bửu Chỉ được xem như là một nghệ sĩ chiến sĩ (artiste militant) bởi sự dấn thân trong cuộc sống lẫn nghệ thuật, dù chính giai đoạn sau này Bửu Chỉ mới đi vào con đường sáng tác thật sự. Theo dõi những chặng đường tìm tòi và sáng tác của Bửu Chỉ, có thể thấy từng giai đoạn khá rõ nét trong tranh của anh.

Giai đoạn đầu (70-74) là giai đoạn “đen”, hay dùng chữ như Huỳnh hữu Uỷ - hội hoạ trước nghịch cảnh – giai đoạn anh sáng tác những bản vẽ bằng bút sắt mực nho, mạnh mẽ, đau nhói. Chất liệu này thích hợp cho phong trào đấu tranh mà anh là chứng nhân, là người chiến đấu. Tranh ở giai đoạn này, theo Bửu Chỉ : "...Nếu cần dùng một danh từ để tạm định nghĩa khuynh hướng sáng tác của tôi, tôi xin dùng chữ Biểu tượng xã hội (Expressionisme socialiste)".


Hải Đường, Sơn Dầu Trên Bố 80X100CM,
Bửu Chỉ, 1981

Giai đoạn tiếp theo từ năm 1975 là giai đoạn “trầm tĩnh”. Huế sau 75 cũng như nhiều thành phố khác đang trong những ngày đầu nhiễu nhương …Bửu Chỉ với tâm hồn nhạy cảm của một nghệ sĩ và một trái tim nhiều ưu tư của người trí thức, vẫn đương đầu, vẫn dấn thân trước một khung cảnh đổi mới không mấy tốt đẹp. Và ta bắt gặp ở anh sự trầm tĩnh - thái độ cần thiết để nhìn lại và nhìn suốt vấn đề con người bằng tất cả lương tâm của một con người, một công dân …Vì vậy dễ dàng bắt gặp ở anh cái thế giới bàng bạc những nỗi niềm, những tình cảm và suy nghĩ khát khao đươc bày tỏ. Chính từ đó, Bửu Chỉ đã hình thành một quan niệm riêng về nghệ thuật. Nhà thơ Trần hoàng Phố (Bửu Nam, người gần gũi bên giòng họ Bửu Chỉ) đã nhận xét rất chí lý : “Không gian vô cùng tận của vũ trụ, nơi nhật nguyệt mang mang soi tỏ, ở trong đó con người vừa nhỏ bé, vừa kỳ vĩ, nhỏ bé trong thân phận và kỳ vĩ trong khát vọng và suy tưởng muốn ôm choàng tất cả sự sống và nỗi đau - nỗi sầu muộn và niềm hy vọng kiếp nhân sinh, hoá thân thành sự đam mê sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật như là sự chống trả với bước đi tàn bạo của thời gian.” (Thế giới tranh và phong cách Bửu Chỉ - Diễn Đàn, Paris số 125 / 1.2003).

Ám ảnh về thời gian thấy rõ trên những con số La Mã và hai chiếc kim đồng hồ, con người hay hóa thân của người nghệ sĩ treo lơ lửng trên sợi giây đen trong rất nhiều tranh sơn dầu của anh. Bửu Chỉ không chọn trước cho mình một trường phái nào. Chính khát vọng muốn bộc bạch mọi điều với cuộc đời quyết định cho anh một ngôn ngữ tạo hình mang đầy cá tính và bản sắc Huế - đó cũng là phong cách của anh - và tất nhiên, anh cũng đã tìm cách vươn tới một ngôn ngữ hội họa có tính quốc tế . Tên tuổi anh đã được ghi nhận trong rất nhiều sách ,báo của những nhà phê bình nghệ thuật uy tín.


Đinh Cường - Bửu Chỉ,
Café Liễu Quán Huế, 1981

Giai đoạn sau cùng có thể nói là giai đoạn “tâm linh", suy nghiệm nhiều về triết lý của đạo Phật, anh phát biểu : “Sáng tạo nghệ thuật là nổ lực tạo lập thế cân bằng tâm linh cho con người khi cuộc sống vốn ngắn ngủi và chông chênh" (Catalogue triển lãm tranh Trịnh công Sơn - Bửu Chỉ - Đinh Cường tại Tự Do Gallery, Saigon từ 20.8 đến 7.9.2010).

Tiềm năng và tiềm tính trong tranh sơn dầu Bửu Chỉ càng thăng hoa, anh đã đi bước đi ngàn dặm. Tranh anh mang tính triết lý và thơ mộng, thường dùng bố cục có suy tính (composition raisonnée), chú trọng cách xếp đặt, về những đường lực thế nào cho nhịp nhàng, mạnh mẽ và tạo dáng bằng những đường viền chắc chắn, không gian tranh được đắp dày rất kỹ. Anh cũng sử dụng ánh sáng như một phương tiện diễn đạt tư tưởng, cảm xúc, có thể quan niệm như lối chói sáng trên sân khấu, và thường chú tâm đến khối thể (volumes), cũng vì thế tranh của Bửu Chỉ rất gần với điêu khắc.

Bửu Chỉ, bằng nghệ thuật suy ngẫm, khám phá cho ta thấy rằng, từ những nụ hoa hải đường hồng tiá đến những cây đèn dầu thô sơ, những bình vôi, ly cà phê đổ, que diêm tắt, từ chim bồ câu cho đến chân dung Chuá, Phật …đều hiện xuống tác phẩm cuả anh đầy quyến rũ. Riêng tôi , còn thấy Bửu Chỉ như một hoá thân của “Người đứng trên miệng núi lửa” (1),một sức sáng tạo mãnh liệt đã bị tro than cuốn đi. Bửu Chỉ mất lúc 2 giờ 34 phút chiều 14.12.2002 tại Huế, 54 tuổi ./.

Đinh Cường
Virginia 14.12.2010













Chim chốn rét












Phòng trưng bày họa phẩm Đinh Cường
98260 Natick Road, Burke,VA 22015










Tranh Thiếu Nữ







Collection PN










































































Chân Dung







Quách Thoại





































































































































Trịnh Công Sơn







































Phan Nguyên













Đinh Cường tự họa

















Tranh Đình Cường với bút tích Trịnh Công Sơn
"Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa"
1989. với chữ ký có hình con cá

(Collection Phan Nguyên)
















Tham khảo thêm về họa sĩ Đinh Cường:




Đặng Tiến: Đinh Cường, tấm lòng vô hạn





Thơ văn Đinh Cường





Đinh Cường / Sáng Tạo





*





Huỳnh hữu Ủy: Nghệ Thuật Tọa Hình Việt Nam Hiện Đại













Thủ bút Đinh Cường
Nhìn cái màu vàng trong espace của Phan Nguyên, đã lắm.
Vọc nữa, vọc mãi phải không.
Tôi cũng cứ trì chí ngồi một góc mà vẽ dù còn nhiều nỗi lo cho cuộc sống đều đặn mọi thứ bills.
Thăm bạn bè Paris






















 










Đinh Cường đã "tịch thu" cái tẩu này của PN
và chàng rất thích 
Ảnh: PN











Đinh Cường & Phan Nguyên  1989









Phạm Công Thiện, Thế Phong, Đinh Cường. 1963



















Trịnh Công Sơn & Đinh Cường


















Phan Nguyên, Đinh Cường, Trịnh Cung










Đinh Cường & Phan Nguyên
Paris 1991








Studio PN 2010


























Trịnh Cung Phan Nguyên – Đinh Cường
buôn Thượng, Đà Lạt, 1985 


Tôi vào buôn Thượng hồi ở Đàlạt
đổi cái áo kaki lấy chiếc gùi mây
chiếc gùi mây lâu năm trên giàn bếp
lên nước đen ánh rất đẹp

ngày đi tôi mang theo qua đây
mang theo cả vuông đá xanh
lượm trên Ghềnh Ráng
kỷ niệm thăm mộ Hàn Mặc Tử

không biết để làm gì
bây giờ bám đầy bụi
nhưng cũng có khi vui
thấy từng kỷ niệm nhỏ

ở buôn Thượng còn rất hoang vu
ngồi trước nhà sàn nhớ không Trịnh Cung
nhớ không Phan Nguyên
thời bạn từ Paris về…

chiều nay đi ăn cơm Thái
Phạm Cao Hoàng đãi, có thêm Thiên Kim
cô con gái đầu và cháu gái đã học lớp hai
giống mẹ như đúc, ngồi chơi game suốt

tôi mời cà phê Starbucks nơi chốn quen
như quen giờ còi tàu hụ ngang qua Burke

và như vậy có câu chuyện kể hai
khi nhìn lại mấy tấm ảnh xưa
khi cùng đi ăn cơm chiều với bạn
buôn Thượng bây giờ ít còn ai nhắc tới …

Virginia, Nov. 8, 2013
Đinh Cường

Nguồn: Tác giả gửi thơ và ảnh cho 
Sáng Tạo
Thư viện Văn Học Nghệ Thuật










Đinh Cường & Đỗ Long Vân







Những chuyện ít người biết về họa sĩ Đinh Cường
HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN



Ở nghĩa trang Gò Dưa, quận Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh có ngôi mộ của ông Đinh Văn Dõng, bia mộ đề nguyên quán: Nam Trung - Thừa Thiên-Huế. Ông Đinh văn Dõng là thân phụ của họa sĩ Đinh Cường. Té ra Đinh Cường là người Sài Gòn, gốc Huế.
Anh sinh ở Bình Dương, lớn lên ở Sài Gòn, học trường Petrus Ký nhưng một phần đời sống -mà có lẽ là phần đời quan trọng nhất trong tình yêu và nghệ thuật của anh lại gắn bó với Huế. Anh Cường tính trầm lặng, hòa nhã, không bao giờ to tiếng gây gổ với ai. Anh kết hôn với một trang yểu điệu thục nữ là chị Hồ Thị Tuyết Nhung, nữ sinh Đồng Khánh cũng là một mẫu người Huế trầm lặng. Có thể nói hơn một nửa Đinh Cường là Huế.
Một trong những tác phầm đầu tiên của Đinh Cường mà tôi được biết là bức tranh sơn dầu vẽ theo trường phái trừu tượng có tên là “Cầu say”. Anh Cường đã tặng bức tranh này cho anh Tường tôi treo ở phòng khách. Tôi vốn mù hội họa, không hiểu được những cảnh giới cao thâm của nghệ thuật tạo hình. Nghe nói tranh trừu tượng là những tác phẩm hội họa mà người xem khó có thể hiểu nếu không được chính tác giả giải thích. Tôi nghe anh Cường giải thích với bạn bè rằng đó là hình ảnh cầu Trường Tiền - đúng hơn là cái bóng của cây cầu qua cái nhìn của người say vỡ ra thành những mảng màu lung linh trên dòng sông. Nhưng tôi chưa hề thấy anh Cường say rượu. Đúng là anh có uống rượu nhưng càng uống càng lầm lì ít nói chứ không phải kiểu say sưa vất vưởng, rượu vào lời ra. Có lẽ anh chỉ uống vừa đủ say để hội nhập vào những cõi riêng của nghệ thuật mà người tỉnh táo quá thì không đến được. Người xưa gọi cái say này là “đức uống rượu”. Hồi ấy ở Huế có thầy Lê Hữu Mục dạy Quốc Văn ở trường Quốc Học ngõ ý nhờ Đinh Cường vẽ cho ông một bức tranh “thật trừu tượng”. Anh Cường chỉ ậm ừ cho qua chứ không nhận lời. Anh cho rằng ông Mục không phải là dân biết chơi tranh. Đã là dân chơi tranh nghệ thuật thì không chơi kiểu đặt hàng làm gia công. Đã thế mà lại yêu cầu là tranh phải “thật trừu tượng”- thì biết thế nào mà vẽ! Thật ra ông Lê Hữu Mục cũng là người thầy rất tài hoa. Ông là tác giả ca khúc “Hẹn một ngày về”, một trong những tác phẩm mượt mà nhất để tỏ tình cùng xứ Huế. Thế mà bước sang lĩnh vực hội họa, lơ mơ là bị chê ngay. Bởi vậy, rút kinh ngiệm tôi cũng không dám lạm bàn thêm về nghệ thuật mà xin nói qua chuyện khác.

Vào khoảng những năm 1964 - 1966, có thời gian anh Cường sống chung với gia đình chúng tôi ở Huế. Ngoài căn nhà công chức mà ông Tường được cấp ở đường Mai Thúc Loan gần cửa Đông Ba, chúng tôi còn một cõi đi về khác là một căn nhà vườn ở trong kiệt 5 đường Âm Hồn mà bạn bè thường gọi đùa là Tuyệt Tình Cốc. Anh Cường tạm dùng nơi này làm xưởng vẽ. Do đó, các anh Ngô Kha, Trịnh Công Sơn… cũng thường lui tới. Tôi gọi họ là “nhóm văn nghệ". Chúng tôi cũng dùng nơi này để tụ tập bạn bè trong phong trào sinh viên tranh đấu như: Tôn Thất Kỳ, Trần Quang Long, Lê Thanh Xuân, Nguyễn Hữu Ngô, Phan Duy Nhân… Anh Cường thân mật gọi đùa đám đàn em chúng tôi là “nhóm Việt Cộng”. Hai nhóm chúng tôi tôn trọng nhau trên nguyên tắc “nước sông không phạm nước giếng”. Nhưng rồi tình hình đất nước biến động dữ dội. Giặc Mỹ leo thang chiến tranh, ném bom miền Bắc. Cả thành phố Huế sôi sục xuống đường đấu tranh. Đến lượt nhóm văn nghệ của các ông anh cũng dấn thân, nhập cuộc. Theo sáng kiến của anh Tường, một cuộc hội thảo bỏ túi đã được tổ chức tại Tuyệt Tình Cốc để tuổi trẻ Huế xác định quan điểm lập trường đối với cuộc chiến. Hầu hết mọi thành viên của nhóm văn nghệ và nhóm Việt Cộng đều có mặt. Chủ trì hội thảo là Trần Xuân Kiêm, Chủ tịch Tổng hội sinh viên Huế. Khách mời thuộc dạng thân hữu có, giáo sư Erich Wulff của trường Y khoa, giáo sư Đỗ Long Vân của trường Văn khoa Huế. Ngoài ra còn có một số khách mời khác chính kiến như Thế Uyên, Phan Kim Thịnh… của tòa soạn báo Văn Học từ Sài gòn ra. Trong hội thảo mọi ý kiến Thiện, Ác, Tà đều được phát biểu thẳng thắn và bảo lưu chứ không nhất thiết phải phân thắng bại như trên chiến trường. Sau hội thảo, cả hai nhóm (Văn nghệ và Việt Cộng) đều nhất trí phải ra một tờ đặc san bày tỏ thái độ chống lại âm mưu và tội ác chiến tranh của người Mỹ. Đặc san lấy tên Việt Nam Việt Nam do anh Tường chủ biên và giáo sư Lê Văn Hảo đồng ý đứng tên chủ nhiệm, đã được phát hành vào đầu năm 1966 và được xem là tài liệu bán công khai có ngôn ngữ chống Mỹ mạnh mẽ nhất ở các thành thị miền Nam lúc bấy giờ. Chính Đinh Cường là người vẽ bìa và trình bày tờ đặc san này. Bốn chữ Việt Nam Việt Nam màu đỏ thắm trên bìa giấy trắng được Đinh Cường kẻ bằng một kiểu chữ đặc biệt, đầu nối đầu, chân nối chân san sát, gợi lên khí thế của một đoàn người kề vai sát cánh tiến lên phía trước. Anh Cường còn tích cực tham gia nội dung đặc san với 2 bài thơ do anh sáng tác dưới bút danh Cát Hồng nhan đề là Tiếng hót loài chim chiến tranh, và Chuyến đi. Ngoài ra còn bài thơ Vọng nhân hành của Thâm Tâm do anh sưu tầm. Đinh Cường rất tâm đắc đoạn:

…“ Thằng thí cho nhàm sức võ sinh
Thằng bỏ văn chương ôm gối hận
Thằng thư trói buộc thằng giả quê
Thằng ở non cao chữa thấy về
Sông Hồng nào phải xưa sông Dịch
Ta ghét hoài câu nhất khứ hề
Ngoài phố mưa bay sông bốc rượu
Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê…”

Anh tâm sự: “Hồi ở Sài Gòn, mình có hai thằng bạn thân là Thủy Thủ làm thơ và Cổ Tấn Long Châu, họa sĩ. Năm 1961, chúng nó bỗng thoát ly ra vùng giải phóng nên mình rất hụt hẩng. Bài Vọng nhân hành của Thâm Tâm làm mình nhớ chúng nó quá.” Thì ra vì nhớ hai người bạn ấy mà anh đưa bài thơ thời chống Pháp vào đặc san thời chống Mỹ. Có lần, anh đã đề nghị “nhóm Việt Cộng” chúng tôi bí mật tổ chức cho anh một chuyến tham quan vùng giải phóng với hy vọng liên lạc được với Thủy Thủ và Cổ Tấn Long Châu. Chuyến tham quan đã được tổ chức nhưng khi chúng tôi đưa Đinh Cường đến gần chân núi Truồi (Quận Phú Lộc - Thừa Thiên) thì gặp trận càn dữ dội trong vùng giải phóng nên phải trở về. Dầu vậy, chuyến đi này cũng đem lại cho anh nhiều cảm xúc mới lạ và mạnh mẽ. Hai bài thơ Chuyến đi và Tiếng hót loài chim chiến tranh là sáng tác của Đinh Cường sau chuyến tham quan không thành ấy.

Mùa hè năm 1966, đến lượt anh Tường và tôi thoát ly ra vùng giải phóng. Anh Cường ở lại nội thành bị động viên ra trường làm trung úy Công binh hay Tâm lý chiến gì đó. Năm 1969, tôi có dịp trở về bám trụ thành phố, hoạt động trong tổ chức bí mật của Thành Đoàn Sài Gòn. Tháng 9 năm ấy có sự kiện chấn động thế giới là Bác Hồ từ trần. Trong dịp lễ tang Bác Hồ, Thành Đoàn Sài Gòn giao cho tôi cùng một số cơ sở nội thành bí mật làm tờ báo Thanh Niên, số đặc biệt để tưởng niệm ngày Bác mất. Bài vở thì chúng tôi lo được. Nhưng muốn có một tấm ảnh đẹp của Bác để in lên số báo này thì…Tôi nghĩ đến Đinh Cường lúc này đang ở tại nhà số 31A đường Nguyễn Đình Chiểu, gần chợ Tân Định. Tôi ra sạp báo mua hai tờ tạp chí tiếng Anh là Time và Newsweek, số đặc biệt về Bác Hồ có đăng nhiều tấm ảnh của Bác rất đẹp. Tôi đem tới kiếm anh Cường nhờ vẽ lại giùm vài tấm. Gặp lại tôi giữa Sài Gòn, anh Cường rất bất ngờ, vừa mừng vừa sợ. Nhưng anh cũng nhận lời vẽ ảnh Bác một cách nhiệt tình và hẹn sáng hôm sau gặp nhau ở quán cà phê đầu đường Huỳnh Tịnh Của để giao ảnh. Mọi việc suôn sẻ. Tờ báo được phát hành phần lớn theo đường bưu điện đến tòa soạn các báo, trong đó có một số báo gửi “nàng Nhã Ca” ở tòa soạn báo Hòa Bình. Đinh Cường biết chuyện ấy mỉm cười có vẻ thú vị nhưng anh có chút băn khoăn, hỏi tôi:“Mấy ông có tính xử Nhã Ca không?” Tôi trả lời: “Tôi chỉ gửi tờ báo để bả đọc cho vui thôi. Còn xử hay không là chuyện của bộ phận khác. Nhưng theo tôi biết, ngay cả các bộ phận võ trang cũng không hề có chủ trương tấn công một nhà văn nữ, dầu đó là tác giả Dải khăn sô cho Huế.” Anh gật đầu: “Vậy mới phải. Làm cách mạng, cũng phải biết galant chứ!”

Sau năm 1975, anh được báo Tuổi Trẻ quý trọng, mời làm cộng tác viên mỹ thuật và kỹ thuật cho tòa soạn trong một thời gian dài cho đến ngày anh xuất cảnh sang Mỹ.
Nay anh đã ra đi. Đúng ra lúc này người có thể nói nhiều hơn về Đinh Cường là anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng anh Tường thì đang bệnh nặng. Phần tôi chỉ xin ghi lại đôi điều này và thắp một nén hương lòng để tưởng nhớ người nghệ sĩ ít nhiều cũng đã có thái độ trăn trở và dấn thân của giới trí thức, rất cần và rất quí khi đất nước lâm nguy.

(Tạp chí Sông Hương 1/2017)


























Trở về 



MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.