Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2011

Võ Đình (1933 - 2009)
















Võ Đình

(1933 - 2009) Huế
Tên thật; Võ Đình Mai
Nhà văn. Họa sĩ
Qua đời tại nhà, West Palm Beach, Hoa Kỳ, lúc 6 giờ 20 ngày 31.05.2009
Hưởng thọ 76 tuổi












Hai Tay

"Hương thơm một nén bay nghi ngút
Chuông đồng ba tiếng gióng thênh thang"
Savigny Le Temple 4.XII.2000








Võ Đình sinh quán tại Huế, du học tại Lyon, Paris, Pháp quốc những năm 50 của thế kỷ trước. Sau định cư tại Hoa kỳ.
Năm 1961, Họa sĩ Võ Đình triển lãm lần đầu tiên tại New York City, từ đó ông đã có hơn 40 cuộc triển lãm cá nhân và tập thể ở nhiều nước trên thế giới. Năm 2000, Võ Đình triển lãm lần cuối cùng tại Pháp (Studio Péan) kỷ niệm 50 năm về trước ông đã đặt chân đến Paris.
Những công trình văn học nghệ thuật của Võ Đình được ghi nhận trong Who's Who in American Art, Contemporary Authors, The New York Art Review, Nhân Vật Việt Nam, Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-1995 ...
1975: Christopher Award, New York
1984: Literature program fellowship to National Endowment for the Arts, Washington D.C






Tiểu sử





Affiche triển lãm lần cuối cùng tại Paris với Phan Nguyên năm 2000 do Võ Đình thực hiện
(Nhà văn Trần Vũ hiện nay lưu giữ tại Hoa Kỳ ?)











Tác phẩm văn chương tiêu biểu





1
The Jade Song
1970



2
The Toad Is The Emperor Uncle's
1970



3
Xứ Sấm Sét
1987



4
Yoga Căn Bản
1989



5
Đóa Sen Và Nụ Cười
1990



6
Sao Có Tiếng Sóng
1991



7
Rừng Mắm Văn Nghệ
2000



8
Huyệt Tuyết
2002



9
Mây Chó
2004




10
Trời Đất
2008











Thơ






DẤU ĐEN

Dấu đen trên tuyết một mình
Ngõ xa lưng dặm, dáng hình bao la
Chim kêu một tiếng sa đoà
Tai còn âm vọng, nét nhoà mực đi







RA VƯỜN

Ra vườn bứt cải vô ăn

Ngó lên thấy cái sao băng trên trời
Ô hay! mới đó tối rồi
Cơm ngày ba bữa, ai mời ta đây








THỨC GIẤC

Nửa đêm thức giấc giọt mưa rơi
Trên mái tôn nghe ruột rã rời
Nước chảy trên trời vô tận họng
Tế bào mà cũng xót đầy vơi






XUÂN

Sáng dậy, ô kìa, hoa mẫu đơn
Tay em mười ngón đẹp ngời son
Nắng trào trời đất, ôi ngang ngửa
Ta gửi lòng em một chiếc hôn






HẠ

Tháng tám em ngồi ướt tóc mai
Mồ hôi em ướt giọt châu trai
Hé môi ta liếm mùi sông biển
Muối ngọt ngàn năm chẳng nhạt phai







THU

Uy nghi mái ngói dáng vàng thu
Tùng quan đà khép cánh mây ngàn
Bỗng dưng áo tím em đi tới
Má đỏ ta thờ nét nữ tu







ĐÔNG

Đạp tuyết tìm hoa theo cổ nhân
Mi đen e ấp nụ trong ngần
Dang tay đón lấy cành mai gãy
Băng rớt hồn ta cứ cháy bừng







NÀNG THU PHONG

Từ miền xa, ta đến chốn này
Rừng phong xơ xác, lá vàng bay
Ngồi coi mây trắng bay qua núi
Cười cuộc ba sinh, luống tháng ngày

Ngày đêm mây trắng ngủ trên ghềnh
Trời thở dài, đất cũng làm thinh
Lá rừng phong, lá không bay nữa
Lá rụng tơi bời, lối tử sinh



Võ Đình














Một Mình
Thơ Võ Đình
Nhạc Lam Phương









MỘT MÌNH


Thơ họa sĩ Võ Đình
Nhạc Lam Phương


Sớm mai thức giấc, nhìn quanh một mình
Ngoài hiên nắng lóe, đàn chim giật mình
Biết lời tỏ tình, đã có người nghe

Nắng xuyên qua lá, hạt sương lìa cành
Đời mong manh quá, kể chi chuyện mình
Nắng buồn cuộc tình, bỗng tắt bình minh

Đường xưa quen lối, tình dối người mang
Tình duyên trăm mối, một kiếp đa đoan
Cố tìm tình chồng chất ngổn ngang
Còn bao lâu nữa khi ta bạc đầu
Tình cờ gặp nhau, ngỡ ngàng nhìn nhau
Để rồi còn gì nữa cho nhau

Sáng trưa khuya tối, nhìn quanh một mình
Đường quen không tới, tìm nhau ngại ngùng
Chỉ vì đời mình, chưa có bình minh...










Truyện Ngắn

Huyệt Tuyết


Tin tức mười giờ tối báo trước rằng nửa -dêm sẽ có tuyết lớn. Khi tắt -dèn đi ngủ, đồng hồ chỉ quá mười hai giờ rưỡi, Thế nhìn ra trời vẫn chưa thấy tuyết. Tuyết chưa rơi nhưng chàng cảm thấy có sự khác thường: Không gian im lìm, cỏ cây bất động, sững sờ. Từ xa, phía trên rừng, một tiếng hét đột ngột vang lên rồi tắt ngay. Thế tự nhủ, lại cái giống chim -dêm kỳ quái, tiếng kêu ngắn, sắc, lanh lảnh như tiếng người.

Thế tỉnh giấc, nhìn đồng hồ dạ quang trên bàn nhỏ cạnh giường. Ba giờ sáng. Nghe có tiếng lao xao rì rào bên ngoài, đoán là tuyết đang rơi, rơi mạnh. Thế khẽ vén chăn, ngồi dậy, khuơ chân kiếm dép, rón rén lần ra phía cửa sổ. Vườn sau đã trắng xóa. Mái nhà, thấp hơn từ mặt hậu nên dễ thấy, cũng trắng xóa. Cứ xét bề dày biết tuyết đã rơi mạnh liên tục, khá lâu. Thế nghĩ nếu cứ thế này thì đến khi mặt trời lên, tuyết có thể dày ba bốn chục phân. Nghĩ vậy, chợt thấy lo lắng, nhưng Thế không nghĩ tiếp, quay trở lại gường chui vào chăn. Vợ chàng ú ớ mấy tiếng khẽ, rồi thở đều, coi bộ ngủ say.

Thế nằm một chân co một chân duỗi theo một tư thế thoải mái đã quen lâu năm. Tấm chăn độn lông ngỗng thật ấm, túm lại ở vai, ôm lấy chàng. Hai tay Thế lọt vào dưới thắt lưng luồn giây thun, úp lên bụng dưới. Chàng có cảm tưởng thân xác to lớn dị thường. Tay chàng chạm phải gân thịt mình, căng thẳng, cứng, mịn. Thế vuốt ve, vuốt ve, vừa đủ khoái cảm để từ từ êm ả chìm vào giấc ngủ. Tay Thế mân mê nhè nhẹ cái đầu tròn mướt trong khi tai chàng vẫn nghe tiếng tuyết rơi bên ngoài, lao xao muôn ngàn tiếng thì thào có thể nghe mà không thể hiểu. Khi giấc ngủ trôi về lại, xóa nhòa ý thức cuối cùng của Thế cũng là lúc chàng rút hai tay ra khỏi dưới lưng quần, duỗi chân co ra, gập chân thẳng lại, đổi thế nằm, và buông thả cho toàn thân bềnh bồng trôi theo tiếng tuyết đêm rơi rơi...

Thế phủ hai ống quần vải dày luồn giây thun ở mắt cá ra bên ngoài ủng vì chàng muốn tránh tuyết chui vào giày. Bảy giờ sáng, còn lất phất. Mấy tiếng tuyết đổ, cả vùng núi đồi ngập lụt. Thế mang ủng cao đến gối: Từ nhà lên kho chứa củi có nơi bước lụt cả ống quyển. Tuyết dày thế kia mà vác những khúc gỗ lớn, mỗi cái mươi mười lăm ký, đi lên đi xuống mấy lần khoảng cách trăm thước này, Thế ngần ngại. Chàng nghĩ đến việc đóng một chiếc xe trượt tuyết dã chiến: Hai tấm ván dày, loại 1x12x8, cột hai đầu lại với nhau. Coi phim truyện Viễn Tây, chàng vẫn thấy người ta chặt cây, buộc lại thành một thứ "băng ca" rồi dùng ngựa kéo. Chàng có thể đặt gỗ đốt – firelogs – lên, chằng lại cho chắc rồi đẩy xuống đồi... "Cái khó bó cái khôn", Thế tự nhủ, cười thầm.

Khí trời sáng sớm sắc nhọn len vào phế quản làm cho Thế vừa đau rát vừa sảng khoái. Mỗi bước chân thọc vào tuyết sâu làm thành một lỗ hủng đen ngòm. Thế cúi xuống lấy gậy khời khời: Tuyết mỏng dưới chân giày để lộ ra lớp lá chết ướt mèm, lá từ mùa thu trước. Chàng nhìn xuống chân đồi. Từ chỗ Thế đứng xuống đến cánh đồng bắp ngô đã được gặt trắng xóa một màu và xa hơn là con hương lộ. Tuyết trắng phủ lấp tất cả. Chàng biết được con đường làng nằm ở đâu chỉ nhờ vào địa điểm những cột điện xa xa. Một cành cây, một tảng đá là những mảng, những vệt đen đặc trong nền trắng trinh tuyền. Quanh quất chỉ có trắng đen tương phản cùng cực.

Vì thế, khi Thế quay người tiếp tục đi lên đồi, một điểm màu sáng làm chàng giật bắn người. Chàng lắc đầu, nhìn lại. Một mảng nhỏ, hồng tím. Một sắc hồng tươi pha tím, màu hồng tím của một loài bông giấy, có thể gọi là magentahay fuschia. Thế nghĩ thật nhanh: Ai đó đã đánh rơi cái khăn choàng. Một mảnh giấy gói quà – lễ Giáng sinh mới qua tuần trước – gió thổi tạt từ đâu tới. Một ý nghĩ khác cũng vút qua thật nhanh: Tuyết lớn như -dêm qua, khăn hay giấy gì thì cũng bị phủ ngập đi rồi. Trong một khung cảnh hoang dã như đây, mênh mông chỉ có trắng của tuyết và -den của cây cành, mảng màu tươi rói đằng xa có đấy như một sự bất thuần hợp, quá hơn thế, như một thách thức, vừa đột ngột, vừa phi lý. Sự có mặt bất ngờ đó làm cho Thế rợn cả người. Sáng ấy, Thế đã cẩn thận tròng thêm vào người bộ đồ lót thermal để giữ thân nhiệt lâu dài. Vậy mà cái rợn người làm chàng lạnh buốt sống lưng.

Cánh rừng sau nhà, mùa nào cũng hết sức rậm rạp. Thế thường chờ đến cuối thu khi cành lá bớt um tùm mới len lỏi xông vào cưa cây làm củi. Sau trận tuyết lớn, chỉ còn đám cành đen điu chằng chịt. Thế phải liên tục vén bên này, vạt bên kia mới tiến lên được. Mảng màu hồng tím lớn dần, rõ dần. Cách chừng mười thước, chàng thấy rõ: Đó là một cái khăn choàng, thứ khăn choàng lụa hẹp và dài. Góc khăn, đúng hơn, một đầu khăn nằm trên tuyết. Thế lại nghĩ rất nhanh: Khăn nằm trên tuyết vậy thì khăn mới bị đánh rơi đây thôi. Nhìn quanh, chàng rùng mình, không có dấu vết nào khác trên mặt tuyết trắng ngoài những hố nhỏ làm nên bởi chính đôi chân mang ủng của chàng.

Trước khi Thế nghĩ ngợi gì thêm nữa chàng đã đến đứng trước cái khăn màu hồng tím. Tuyết ở đó hủng xuống, làm thành một huyệt cạn. Thế thụt lùi một bước. Nhưng rồi chàng tiến tới gần hơn và nhìn vào lòng huyệt. Toàn thân chàng sững lại. Một người, một người đàn bà, nằm ngay ngắn trong khoảng trống đó. Mái tóc đen huyền như chiếc áo ngủ mỏng dài. Khăn lụa màu hồng tím quấn hờ quanh cổ, một đầu khăn duỗi theo thân người, đầu kia nằm vắt lên bờ tuyết. Cảnh tượng trước mắt làm cho Thế khựng lại một khắc. Nhưng rồi con người năng động trong Thế vùng dậy: Chàng vội quì xuống, vói tay sờ lên bờ vai trần người đàn bà. Chàng giật bắn. Làn da trắng phau, thật trắng, quaù trắng trông bình thường vậy mà lại cứng và lạnh như nước đá. Chàng ép hai ngón tay lên cổ người nằm, phía sau, bên dưới một tai. Tuyệt đối không có mạch tim đập. Thế kịp thấy một giây treo nhỏ rí của áo ngủ tụt một bên vai khiến cho mép áo trễ xuống để lộ một phần chiếc vú đầy. Chưa kịp xoay lưng Thế đã lại quì xuống, cầm lấy đầu khăn hồng tím vắt trên tuyết để lại trên thân người đàn bà cùng với đầu khăn kia vốn đã nằm duỗi theo thân người. Rồi theo dấu chân mình, Thế chạy vội xuống đồi. Chàng trượt chân, ngã ngửa mấy lần.

Xuống đến nhà, Thế xông vào bếp, tóm lấy cái điện thoại trên tường, gọi đồn cảnh sát/cấp cứu. Chàng cố giữ bình tĩnh để nói rõ lý do: "Vâng, một người nữ. Không, tôi không biết người đó đã chết bao lâu, và chết như thế nào. Tôi có thử dò mạch tim. Vâng, sau tai, dưới bên cổ. Tuyệt đối không có. Vâng, trong cánh rừng nhỏ. Ngay sau nhà chúng tôi. Quí vị lấy đường 464, quá Lovettsville độ ba dặm, thấy một dãy thùng thư bên đường thì rẽ phải. Lên đồi, đi tận cùng. Vâng, tuyết trên này dày lắm, phải xe 4 x 4 mới lên được. Các ông ráng đến gấp, chúng tôi chờ!"

Khi Thế xông vào bếp, vợ con đã có mặt đầy đủ. Đài vô tuyến địa phương đang phát thanh: "Để giữ an toàn cho mọi người, các công, tư sở và tất cả trường học trong hệ thống năm quận miền Tây đều đóng cửa. Chỉ các bệnh viện, các cơ quan an ninh mới phục vụ những trường hợp tối cần thiết. Tất cả mọi người, phía dân sự, nên tránh ra đường". Vợ Thế và các con còn mặc áo choàng ngủ và đi dép bông. Thế trấn an mọi người và ngồi xuống cùng ăn sáng. Nhưng mới nuốt được mấy hớp cà-phê sữa chàng đã vùng đứng dậy chạy ra khi có tiếng còi xe vang lên ngoài xa. Ba viên cảnh sát, hai nam một nữ đã ra khỏi chiếc Jeep lớn, Grand Wagoneer, gắn huy hiệu đồn cảnh sát địa phương. Người đàn ông cao to với bộ ria "Clark Gable" bắt tay Thế, tự giới thiệu là Trung úy Bill Baldwin rồi nói tên hai người kia. Cả ba đều trang bị cồng kềnh, đi ủng da cao đến gối, có chằng nịt mấu sắt ở đế. Thế đi trước dẫn đường, ba cảnh sát viên theo sau.

Đến khúc Thế nhớ là đã dừng lại nhìn thấy mảng màu hồng tím xa xa trong rừng thì chàng đứng ngẩn người: Không có dấu hiệu gì chứng tỏ đã có người quặt trái vào rừng. Những hố nhỏ, dấu chân của Thế, đến ngang đấy trở nên nhiều hơn, loạn xạ, rồi xoay ngược xuống đồi. Trung úy Baldwin hỏi Thế:

– Ông có chắc đây là nơi ông đã đổi hướng? Thay vì đi thẳng, ông đã rẽ trái vào rừng?

– Chắc chắn tuyệt đối.

Baldwin cúi xuống:
– Mặt tuyết bằng phẳng như thế này...

Thế nghiêm nghị:
– Tôi đã nói thật. Trăm phần trăm. Tin tôi đi.
– Tôi tin ông. Tin chứ. Ta cứ thử vào trong đó xem.

Cả bốn người vạt cành chắn đường, tiến vào sâu hơn trong rừng. Tám chân ủng đạp nát một vùng tuyết trắng.

Thế kêu lớn:
– Đây, chính nơi đây, tôi đã thấy xác người đàn bà. Một đầu khăn màu fuschia tại đây.

Mặt trời chiếu lên khoảng trống ngập tuyết, mặt phẳng long lanh muôn vàn tinh tú li ti. Trung úy Baldwin rút máy vô tuyến ở hông ra gọi:
– Tom đấy hả? Bill đây. Cậu làm ơn bảo Jerry Ellison đem con Shogun lên đây ngay. Tụi mình cần gấp. Cần lắm. Ừ, đường 464. Bảo Jerry đi ngay. Ừ, ngay bây giờ!

Viên trung úy quay sang Thế:
– Shogun là chó trinh thám. Có xác người đâu đây, nó tìm ra ngay.

Một tiếng đồng hồ sau, bốn viên cảnh sát và con chó ra về. Thế tiễn họ ra tận ngoài xe. Bên dưới bộ ria mép khá "điệu", cái mỉm cười của trung úy Baldwin trông khó hiểu. Ba người kia, lầm lì không nói. Đến khi xe đã quay bánh, thượng sĩ y tá Wright mới ngoái đầu ra cửa xe vừa nói vói vừa cười:
– Khi nào ông tìm ra người chết, gọi ngay cho chúng tôi nhé!

Thế không cười. Chàng nói:
– Nhất định rồi. Cái xác ấy chỉ chờ cho quí vị đi là hiện ra lại đấy.

Mấy lần Thế lội tuyết lên đồi, đứng nhìn về phía đã thấy người đàn bà áo đen nằm trong tuyết, về phía đã thấy mảng màu hồng tím sáng ngời trên mặt tuyết trắng. Chàng đứng nhìn thật lâu nhưng không thấy gì ngoài tuyết trắng và cành cây đen. Một hôm, Thế lại lên đồi, mò vào tận nơi chàng đã thấy xác người đàn bà. Với cái xuổng nhôm rộng vành, Thế hùng hục xúc tuyết. Xúc lên đổ xuống bên cạnh. Xúc cả tiếng đồng hồ, chàng làm sạch một vạt lớn. Nhưng chẳng có gì bên dưới ngoài lớp lá chết từ mùa thu trước. Thế chống xuổng, đứng thở. Mệt, nhưng minh mẫn. Chàng tuyệt đối tin rằng mình đã thấy xác người. Chàng nhớ lại làn da mịn màng khi vói tay tìm mạch tim đập nơi cổ người đàn bà. Chàng nhớ rõ là đã rút tay về ngay vì da thịt người đàn bà cứng và lạnh như nước đá. Thế nhớ rõ ràng như vậy, không thể nghi ngờ gì cả. Tuyệt đối.

Vậy mà khi con Shogun lên tới nơi, được anh cảnh sát Jerry Ellison tháo xích, nó chỉ đứng ngoắc đuôi nhìn mọi người. Ellison thúc dục: "Shogun! Shogun! Tìm đi! Tìm đi!" Vừa nói anh vừa dúi đầu con chó xuống. Nó hục hặc mấy cái rồi ngước lên, tuyết bám mõm trắng xóa, vẫy đuôi rối rít ra điều vui vẻ. Mọi người nhìn Thế. Có lẽ vì tôn trọng cách thức hành sự đúng phép, họ không nói gì. Nhưng Thế biết là họ đang nghĩ gì. Họ nghĩ rằng chủ nhà này là nạn nhân của một ảo giác. Họ nghĩ rằng Thế là một anh tâm trí bất thường, cần được trị liệu.

Hai tháng trôi qua từ sau trận tuyết lớn ấy. Đang giữa thời kỳ khốc liệt nhất của mùa lạnh, có bữa trời "ấm" lên, hàn độ loay hoay trên mức đông nước mấy chấm, tuyết tan rỉ rả khắp nơi. Thế lần mò lên đồi, tìm vào nơi chàng đã từng thấy xác người đàn bà. Tuyết còn lại những vạt lỗ chỗ, dày mỏng không đều, còn in dấu ủng của Thế, bốn cảnh sát viên, và dấu chân thật to của Shogun, con chó trinh thám. Nơi Thế tin là đã thấy xác chết hoàn toàn sạch tuyết vì, Thế nhớ, chàng đã xúc hết đổ thành đống một bên. Mặt đất tuyệt nhiên không có dấu vết gì ngoài lớp lá nát từng nằm bẹp dí dưới sức nặng của gần nửa thước tuyết ướt.

Sắp giã từ Đông, bước sang Xuân, trời đất không bình thản được lâu. Để đối phó với nỗi rộn rã manh nha bùng lên, nứt mặt đất mà bùng lên, trời đất loay hoay cựa mình. Sự chuẩn bị ấy, đúng như vốn kinh nghiệm của ông già bà cả trong vùng: "Sư tử dẫn đầu/Cừu non theo sau" ("March comes like a lion and goes like a lamb") ý rằng đầu tháng ba thời tiết rầm rộ dữ dằn nhưng cuối tháng ba lại hiền hòa êm ả.

Hai giờ chiều ngày cuối tháng hai dương lịch, trận bão tuyết "lớn nhất thế kỷ" đổ ập xuống vùng tam bang. Gió tàn bạo, hơn trăm cây số/giờ. Cỏ cây gục mình chịu trận. Chiều, rồi suốt đêm hăm chín tháng hai rồi suốt ngày đến nửa đêm mồng một rạng mồng hai tháng ba, tuyết hú băm bốn tiếng liên tục. Bông tuyết không rơi, bông tuyết bay ngang như tên bắn. Hàn thử biểu tụt nhanh: Tuyết trở thành băng. Bông tuyết là những mũi tên nước đá.

Đến nửa đêm, trận bão tuyết có vẻ bớt hung hãn. Không bay ngang nữa, những mũi tên băng bay chéo. Tuyết rơi chậm lại, chậm lại. Rồi lất phất, lơ thơ. Nửa đêm thì ngưng hẳn. Thế mặc áo ấm, mang găng dày, cầm cái xuổng cán ngắn dò dẫm một vòng chung quanh khu vườn nhà tuyết ngập đến bụng. Như thường lệ, sau trận tuyết lớn, tất cả không gian vạn vật im lìm dị thường. Cỏ cây nằm rạp xuống, nơi này chỗ kia vùi dưới tuyết. Thế biết, quẹt một que diêm rồi thổi tắt đi, sợi khói mỏng sẽ vươn lên thẳng tắp.

Thế nằm yên, không ngủ. Quá hai giờ sáng. Chàng tỉnh táo lạ lùng. Đi một vòng quanh nhà sau trận tuyết lớn có cực nhọc đó nhưng lại làm cho Thế sảng khoái và tinh nhạy một cách bất thường. Đến ngang chỗ quẹo về phía rừng nơi chàng đã thấy tử thi, Thế đột ngột dừng lại: Đó không phải là một người đàn bà xa lạ! Chàng đã từng biết người ấy khi còn sống. Bờ vai ấy, gò má ấy, mái tóc ấy... Chàng đã từng biết người ấy. Ở đâu, khi nào, làm sao? Thế khựng. Tựa người may mắn thoát chết sau một tai nạn kinh hoàng nhưng lại mất hẳn trí nhớ. Cầm một vật quen thuộc trong tay mà không nhớ tên gọi là gì, dùng làm gì, để vào đâu. Thế nhưng lẩn quẩn trong sâu thẳm tâm hồn vẫn mơ hồ biết rằng đó là một vật mình đã từng biết rõ, đã từng nưng niu...

Nỗi bồn chồn khiến Thế làm một việc thường ngày không làm: Tắm khuya. Tắm xong, chàng ngồi một lúc cạnh lò đốt củi hơi nóng bốc hừng hực cho tóc tạm khô, rồi tắt đèn đi ngủ. Nỗi bồn chồn tưởng đã theo giòng nước ấm và xà phòng trôi đi mất lại từ từ nhú lên trong lòng, rồi lớn dần, lớn dần. Quá ba giờ sáng Thế vẫn còn thức. Chàng chắc chắn mình đã từng biết người đàn bà ấy, đã từng gần gũi người đàn bà ấy. Chàng rà lại ký ức, nhớ lại những người đàn bà đi qua đời chàng. Thuở mười tám đôi mươi, thuở ba mươi, thuở bốn mươi, thuở năm mươi. Trời! Thuở năm mươi... Người đàn bà ấy Thế đã gặp, đã biết, Thế chắc chắn như vậy. Chàng tẩn mẩn hồi tưởng lại những mối tình cũ, những cuộc tình ngắn ngủi, những cuộc tình dài lâu, những tình cờ, những sắp đặt, những nông nỗi, những đam mê... Chàng cố nhớ, cố nhớ lại chuỗi thời gian người đàn bà trên rừng tuyết đã đến với chàng. Chàng cố nhớ nhưng chàng không thể nhớ. Tuy thế, khuôn mặt tử thi lạnh buốt hiện rõ trước mắt Thế, chàng có cảm tưởng chỉ cần mở miệng ra là có thể gọi tên người ấy.

Thế vốn có một cái "tật", cũng chẳng phải hiếm hoi: Mỗi khi cần nhớ lại một chữ, một con số, một tên người, một địa danh nào đó mà không nhớ ra, khổ tâm lắm. Người khác có thể bỏ qua, Thế không! Chàng cố nhớ, chàng truy lùng mọi ngõ ngách của trí nhớ. Nửa đêm về sáng chàng có thể vùng dậy, sục sạo thư từ giấy má, truy cứu sách vở, vật lộn với trí nhớ cho đến khi nào tìm ra được mới thôi. Đêm ấy, nhớ lại khuôn mặt tử thi nằm trên rừng tuyết, Thế thấy rõ là mình từng biết người ấy, từng gọi tên nàng, ăn cơm với nàng, đi dạo với nàng, ngủ với nàng, vuốt ve nàng. Nhưng Thế không thể nhớ ra nàng là ai, tên là gì, mình đã biết nàng ở đâu, vào thời điểm nào.

Thế nằm yên, tỉnh táo. Chàng biết, cứ tiếp tục thế này thì sẽ không ngủ cả đêm. Chàng cũng biết, và an tâm, mình đã để một trời đất ngập tuyết lại bên ngoài, im lìm trong đêm thâu. Thế nằm yên, một chân co, một chân duỗi, nằm yên, thở thật sâu, thở thật lâu. Chàng luồn cả hai tay vào dưới lưng quần, úp lên bụng dưới. Rồi tay Thế xuôi xuống xa hơn, rời rạc mân mê đám lông rậm. Sợi ngắn, sợi dài. Sợi mềm, sợi cứng. Sợi thẳng, sợi quăn. Cỏ rối. Sao lại cỏ rối? Câu thơ thuộc lòng mấy chục năm về trước bỗng đâu quay về: Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối; Đêm bâng khuâng đôi miếng lẩn trong cành. Chàng mơ màng thấy một màn đen rũ xuống và nổi bật giữa màn đen ấy là một làn da trắng ngần – một khuôn mặt trắng ngần giữa mớ tóc đen huyền, đen nhánh. Đột nhiên, Thế bừng tỉnh, tim đập dữ dội. Chàng nhớ ra rồi.

Không, Thế không nhớ tên người đàn bà, không nhớ hai người đã biết nhau ở đâu, khi nào, làm sao. Không nhớ hai người đã gần gũi nhau thế nào và bao lâu. Chàng vẫn không nhớ ra những chi tiết ấy. Chàng chỉ nhớ ra một điều. Một điều làm Thế bừng tỉnh, làm chàng hồi hộp, phập phồng, tê tái. Thây kệ mấy nhân viên công lực muốn nghĩ sao thì nghĩ, muốn cho rằng Thế là nạn nhân của một ảo giác cũng được, là một anh khùng cũng được. Thế chỉ trăm phần trăm tin chắc rằng sáng hôm đó mình đã thấy người đàn bà nằm trong huyệt tuyết. Chàng đã sờ bờ vai nàng, cứng và lạnh như nước đá. Chàng đã nắn mạch tim nơi cổ nàng, phía sau và bên dưới tai phải, tìm, tìm mà không thấy, chàng đã móc lại sợi giây treo vai nhỏ rí, kéo chéo áo lại che cho kín ngực nàng, chàng đã cầm một đầu chiếc khăn màu fuschia vắt trên bờ tuyết lạnh đặt lại lên ngực nàng, song song với đầu kia vốn đã nằm duỗi theo thân người. Sáng hôm đó, chàng thật đã có thấy người đàn bà nằm trong huyệt tuyết. Và giờ đây, khuôn mặt người đàn bà ấy lại hiện rõ ra trước mắt Thế, và chàng nhớ ra!

Chàng nhớ rằng có một chiều gió lớn người đàn bà ấy đã nằm bên chàng trong căn buồng vắng vẻ. Trong căn nhà vắng vẻ. Trong khu vườn vắng vẻ. Qua cửa sổ cao, thấy được những mũi tên tuyết bay ngang ngang. Người đàn bà ấy nằm bên chàng nhưng ngược chiều với chàng. Nàng nằm sấp, nghiêng nghiêng cheo chéo với thân thể chàng, và mái tóc nàng rũ xuống lòa xòa. Người đàn bà ấy nằm như vậy, một tay chống má, cánh tay và cùi chỏ ép sát vào hông chàng, tay kia, tay trái, giữa ngón trỏ và ngón giữa kẹp hờ một mớ tóc phe phẩy lên bụng dưới chàng. Những đuôi tóc mềm quét lên quét xuống, phất qua phất lại, vờn quanh, vờn quanh, những đuôi tóc đen huyền, đen nhánh. Thế nhớ ra rồi.

Tử thi trắng toát và lạnh buốt ấy, áo ngủ đen hở vai mỏng mướt dài đến tận mắt cá, người đàn bà ấy, một chiều gió lớn thổi tuyết bay ngang ngang, đã kẹp một mớ tóc đen nhánh giữa hai ngón tay trắng muốt phe phẩy lên bụng dưới của chàng. Thế nhớ, Thế nhớ ra như vậy, và lòng chợt se sắt vô biên...



2000








"Bé Bự"

truyện ngắn 2003


Ông Thanh nói:

Trong đời, tôi nghĩ rằng không có gì xấu xa cho bằng lợi dụng người khác. Chém giết là tàn bạo. Hãm hại là gian ác. Trong khi đó, lợi dụng người khác, dùng kẻ khác vì lợi cho mình, tuy không phải là một điều dễ thấy, dễ lên án, lại là cực kỳ xấu xa, tồi bại. Lợi dụng là phủ nhận người khác, coi người khác không là con người, chỉ là phương tiện. Đây không phải khía cạnh đạo đức của một nơi, một thời. Đây là một vấn đề nhân sinh muôn thuở.


Tôi là người đã làm cái điều xấu xa đó. Nói ra, không nhẹ tội đi. Sớm muộn gì tôi cũng phải nói ra.


Ông Thanh năm nay đã xém 90. Ở tuổi đó, ông có vẻ còn khỏe mạnh. “Có vẻ” thôi, vì ông cho biết bị chứng nan y, sắp chết. Một năm, tối đa.


Nhà ông Thanh ở ngoại ô thành phố New York. Căn duplex nối liền với nhà bên cạnh. Trước, bà Thanh có đi làm. Ông Thanh nói: “Thừa phương tiện đi nơi khác, ở nhà riêng. Nhưng đây lâu, quen rồi. Hàng xóm bên cạnh là một cặp vợ chồng đã về hưu, hiền hòa, yên tĩnh. Khu vực này, nói chung, khá an toàn. Cây cao bóng mát. Tội gì dọn đi!”


Ông bà Thanh gốc Bắc. Ở Mỹ mấy chục năm mà vẫn còn nói tiếng Mỹ với giọng Thái bình. Tôi quen ông đã mấy năm mà vẫn mù mờ về quá khứ của ông. Hình như trước ông có ở Pháp, vừa đi học vừa đi làm chi đó. Kín đáo, ông không bao giờ nhắc lại quãng đời ở Việt nam và ở Pháp. Tính tôi lại không tò mò về đời tư người khác. Cho đến ngày ông kể tôi nghe chuyện sau đây.


Hồi ấy, tôi mới hăm hai, hăm ba. Tuổi con trai như gà trống. Đạp mái là nhu cầu cấp bách, năng nổ, thường xuyên. Từ thời ấy, xã hội Pháp, nhất là trong giới có học, đã có phần dễ dãi. Chiều chiều, lòng vòng hai đại lộ chính ở Xóm La tinh, thế nào cũng bắt được “bò lạc”. Hoặc ngay hôm ấy, hoặc với vài “bố trí”, một hai hôm sau, thế nào cũng đạt được việc. Hoặc chỉ một lần, rồi ai đi đường nấy, hoặc kéo dài ra. Tùy. Không hứa hẹn, không nợ nần, không trách nhiệm. Nghĩa là tuyệt đối không rắc rối. Chỉ cần cẩn thận đừng để lại vết tích, đừng gieo giống. Chủ yếu là sòng phẳng.


Cộng đồng người Việt vắng hoe, nhưng không thiếu một vài “dị nhân”. Một trong những “dị nhân” đó là chị Tịnh. Chừng 30, 35, độc thân, cán sự xã hội. Một người đàn bà phóng khoáng, gan góc, quyền biến. Chị thường nấu cơm, nấu phở, rồi gọi mấy thằng nhóc thân quen đến cho ăn. Bọn con trai xa nhà, háu ăn, chị ới là đến, gọi chị là Chị Cả. Hôm ấy, sau khi lùa xong mấy bát phở, chúng tôi định rút về Xóm, Chị Cả hỏi: “Có ai đi Nhà Tiếp với chị không?” và chị giải thích: “Nhà Tiếp là nơi con gái lỡ có bầu, các Xơ Dòng đem về nuôi ăn ở cho đến ngày sinh nở, rồi sau đó đem đứa sơ sinh cho làm con nuôi nơi tử tế. Còn các bà mẹ mới thì cho về trú ở Nhà Tiếp một thời gian trước khi trở về với ... đời.”


Đi với chị Tịnh hôm ấy, tôi gặp Marie-Louise, Pháp gốc Áo, một bà mẹ mới, trùng tên với hoàng hậu của Napoléon Đệ nhất. Mới sanh xong, M-L còn tái xanh. Hai mắt có quầng đen, nhưng sáng long lanh. Điều làm tôi chú ý nhất ở M-L là mái tóc cực kỳ lớn, rậm, dài, đen nhánh, và ... bề ngang của nàng. M-L mập béo quá cỡ. Tôi không ngạc nhiên nếu đứng lên cân, thiếu phụ trẻ này nặng gấp đôi tôi, nghĩa là vào khoảng 130, 140 ký!!! Cái ghế bành, to, rộng thế mà nàng ngồi vào có bề cấn cái. Áo M-L che mất hai cánh tay, nhưng không giấu được bộ ngực đồ sộ và cặp đùi căng phồng như có độn gối! Chị Tịnh thăm hỏi ân cần, đưa tay vuốt lại mấy sợi tóc lòa xòa bên má M-L, nói: “Mọi sự như vậy là suông sẻ. Nghỉ ngơi nhiều vào nhé. Rồi tôi lại vào thăm...” M-L cười buồn: “Tuần sau nhé! Ở đây, chỉ chờ người đến thăm...” Rồi quay sang tôi, nói thêm: “Và anh nữa! Tuần sau nhé! Tôi đợi đấy. Anh hứa đi... Tuần sau!” Con người hào hiệp trong tôi lồm cồm thức dậy. Tôi đành phải hứa, mặc dù không hăng hái cho lắm. Một đứa con gái bơ vơ, vừa trải qua một trận long đong như thế, cần có người an ủi, khích lệ! Tôi hứa mà trong bụng nghĩ rằng nếu M-L xinh xắn, thon gọn hơn, có lẽ lòng thương người của tôi vùng lên mạnh mẽ hơn, tươi tắn hơn...


Tuần sau đó, tôi cùng Chị Cả đi thăm M-L. Và tuần sau nữa. Và tuần sau nữa, khi quá bận , chị Tịnh đi không được. Đến ngày M-L rời Nhà Tiếp thì hai đứa đã quen nhau quá rồi, đã tutoyer thân thiết ngọt ngào rồi. Ra ngoài, M-L mướn được chung cư nhỏ và tìm được việc làm với sự giúp đỡ của các Xơ Dòng. Tôi cùng chị Tịnh đến thăm M-L ở nhà mới. Và tiếp tục đến gặp M-L ở chung cư khi thời hạn viếng thăm chính thức của chị Tịnh chấm dứt. Lý do vì hai đứa đã thành tình nhân.


Với một thân hình quá cỡ như vậy, dù có loại trừ sự to béo phục phịch ra, M-L cũng không thể được coi là “đẹp” nhưng khuôn mặt nàng có nhiều nét “dễ thương”. Đầy đặn, phúc hậu. Cánh mũi thanh. Đôi môi đầy. Nét đáng quí nhất ở thiếu phụ hăm lăm tuổi này là đôi mắt. Mi dài và cong vút, đôi mắt lớn trong veo, xanh lá cây pha nâu, màu rong rêu, long lanh một thoáng buồn bã. Ưu tư, đúng hơn. Long lanh một thoáng ưu tư. Hăm hai tuổi, tôi không lưu tâm tìm hiểu nỗi ưu tư nào đó. Tôi chỉ biết là M-L cần có tôi. Và tôi tận hưởng. Bằng cách đến thăm M-L thường xuyên ở chung cư nàng, và ăn nằm với nàng.


Thật ra, liên hệ hai đứa có điều bất thường. Tôi không bao giờ đi ra ngoài với M-L. Tiệm ăn, rạp hát, thư viện, nơi công cọng không bao giờ có mặt chúng tôi cùng nhau. Tôi tránh né, không để ai thấy tôi cặp kè với nàng. Giản dị: Tôi xấu hổ về bề ngang của M-L. Cả thân hình tôi e cũng chỉ cùng cỡ với một bắp đùi của nàng.


Tôi hoang tưởng rằng có một đồng minh ở nhà thơ lớn Charles Baudelaire. Anh trước có học văn chương Pháp, chắc là biết bài La Géante chứ gì. Ông Thanh tợp một hớp rượu mạnh, rồi cất cao giọng, đọc không vấp váp:


Du temps que la Nature en sa verve puissante

Concevait chaque jour des enfants monstrueux,
J’eusse aimé vivre auprès d’une jeune géante,
Comme aux pieds d’une reine un chat voluptueux.
vân vân...

Đặc biệt nhất là hai đoạn cuối này:

Parcourir à loisir ses magnifiques formes;
Ramper sur le versant de ses genoux énormes,
Et parfois en été, quand les soleils malsains,

Lasse, la font s’étendre à travers la campagne,
Dormir nonchalamment à l’ombre de ses seins,
Comme un hameau paisible au pied d’une montagne.

Đó, anh thấy không, tôi còn thuộc lòng bài thơ ấy. Sự thật, M-L không phải là một người đàn bà khổng lồ, như trong trí tưởng tượng của Baudelaire. Bề cao, M-L chỉ suýt soát bằng tôi thôi, nhưng bề ngang thì... M-L mập quá. Nếu nàng sống vào thời La Mã, mặc áo toga lụng thụng, có lẽ trông còn được. Chứ ở Pháp, thời trang phụ nữ thuở đó là váy chật, bó mông nhưng dài đến quá gối. Tôi dám chắc những anh con trai tuổi hai mươi vào thời ấy đều còn nhớ đến những thân hình thon gọn và bước chân gót cao lách cách trên hè phố. Đẫy đà như Sophia Loren, Simone Signoret là đã hết mức rồi. M-L mập béo đến độ bất thường. Gối chăn với M-L, tôi có cảm tưởng đắm mình trong một biển thịt, biển mỡ. Những vú, bụng, mông, đùi, trong chốn kín đáo, đem lại những ôm ấp, những vuốt ve của một thời thằng người còn nằm trong bụng mẹ. Ngoài đời, M-L là một người đàn bà quá nặng cân. Trên giường, nàng là một “Mẹ Đất”, một Mother Earth. Người con trai không làm tình với nàng. Hắn chui rúc nơi nàng. Ăn nằm với M-L, tôi không ân ái với một phụ nữ. Tôi lăn lộn, vẫy vùng trong một thế giới ăm ắp, mềm mại, ấm áp, thơm tho. Một thế giới tuyệt đối gợi tình và yên ổn. Say mê lăn lóc với M-L như thế, tôi vẫn không quên một điều: Tránh đi ra ngoài với nàng. Lòng kiêu hãnh và tự ái của thằng con trai hăm hai tuổi! Tôi nghĩ rằng M-L cũng biết vậy, và nàng nhẫn nhục chịu đựng. Chịu đựng và tiếp tục làm cho tôi thỏa mãn những đòi hỏi thầm kín, tối tăm nhất.

Tuy nhiên, M-L to béo quá, chúng tôi không thể gần gũi một cách “bình thường” được. Nằm trên nàng, vào trong nàng rồi, tôi vẫn có cảm giác chưa đến nơi nào cả. Tôi loay hoay trên thân thể M-L như một con bọ gậy quờ quạng trên bụng một con ếch to tổ chảng! Đành phải tìm một cách khác.

Một hôm, vì tiện đường, tôi đến chung cư của M-L sớm hơn giờ đã hẹn. Không có nàng ở nhà, tôi dùng chìa khóa riêng, M-L đã làm thêm cho tôi, mở cửa vào. Lần đầu tiên, tôi ở trong chung cư mà M-L không có mặt. Sự vắng vẻ, những đồ vật sở hữu, mùi hương phụ nữ quen thuộc, kích thích tôi một cách lạ thường. Tôi nhìn quanh. Giường nằm. Tủ áo. Bàn phấn: M-L là một người đàn bà rất ngăn nắp. Mấy tấm ảnh treo trên tường làm tôi ngạc nhiên. Không tấm nào có hình của M-L trong thời hiện tại cả. Một tấm, đã cũ, rửa theo lối xưa, là hình một em bé gái, chừng 5, 6 tuổi đứng nép vào lòng một bà cụ. Bà cụ, tôi không biết là ai, chứ em bé, đích thị là M-L hồi còn nhỏ. Trông đã mập mạp, phúng phính quá cỡ! Bà cụ, có lẽ là một bà cố, nội hay ngoại. Một bà cố vì đã vào khoảng bảy tám chục khi con cháu, M-L, còn nhỏ xíu. Bà cụ chít khăn đen, mặc áo dress đen dài quá gối, chân mang vớ len màu sẫm. Một bà cụ có nét Do thái Đông Âu. Tấm ảnh làm tôi cảm động, miên man tưởng tượng đời sống trong những ghettos ở Ba lan, ở Áo, ở Hung...

Tôi đang mải ngắm mấy tấm ảnh thì có tiếng lách cách ở cửa ra vào: M-L đã về. Tôi đỡ lấy mấy bao thực phẩm từ tay M-L, đem vào bếp nhỏ. Nàng hôn nhẹ tôi, thở mạnh: “ Ối, cái thang máy sáng nay không chạy. Leo bốn tầng lầu, mệt quá, nóng quá. Anh ngồi chơi, em đi tắm cái đã. Có chai rượu ngon, anh mở, uống tí chơi trước nhé!” Vừa nói, M-L vừa cởi phăng áo ngoài. Rồi chỉ mặc đồ lót, nàng ngồi xuống mép giường, dang chân, tính tuột vớ ra.

Nhìn mái tóc lớn, rậm rì, đen nhánh, một cánh rừng đen, xõa xuống bờ vai to tướng, che che hở hở bộ ngực đồ sộ; nhìn vòng eo phốp pháp và cặp hông mỡ màng vĩ đại phớt hồng, tôi xúc động, thèm muốn. Tiến lại gần M-L, tôi sẵn sàng. Nàng đưa hai tay ôm, kéo tôi lại gần hơn, sát vào ngực nàng. M-L vói tay, gỡ móc nịt vú. Hai cái bầu bung ra, đầy ắp, trắng ngần với hai núm căng phồng như hai quả trứng. Cương cứng tối đa, tôi cứ đứng vậy, để nằm ngay giữa hai bầu vú lớn. M-L đưa hai tay ép hai vú lại với nhau, tạo thành một cái vòm ôm lấy tôi sít sao, mềm và mướt. Tôi lên xuống, lên xuống như thể đó là chỗ kín của nàng. M-L cúi đầu, nhìn tôi hăm hở, miệng hé mở. Tôi tiếp tục lên xuống, dăm lần như thế nữa, là tôi xuất. Chưa bao giờ tôi cực khoái mãnh liệt như vậy. Tôi ôm chầm lấy M-L vì suýt khuỵu xuống. Có cảm giác tất cả sinh lực tôi phóng lên ngùn ngụt, như phún thạch trào ra từ lòng đất. Tinh khí phọt lên, bắn vào mồm M-L, và nàng nuốt lấy nuốt để. Mặt , môi, ngực người thiếu phụ trẻ tràn trụa sinh lực thằng con trai hăm hai tuổi...

Từ lần ấy trở đi, đó là cách duy nhất tôi yêu chuộng khi gần gũi M-L. Nàng biết rằng tôi đặc biệt thích thú như vậy, và âm thầm thu xếp tạo cơ hội cho tôi được thỏa mãn. Khổ nỗi, đó cũng là cách duy nhất tôi tìm thấy cực khoái với M-L. Tôi tiếp tục gần nàng như vậy, nhưng trong thâm tâm tôi biết rằng mình lợi dụng nàng, biến nàng thành một phương tiện. M-L chỉ là con người thật nếu tôi xuất vào trong nàng, nếu tôi cùng nàng đi ra ngoài, nơi công cọng, để mọi người thấy được hai người là đôi lứa. Tôi giấu kín nàng trong chính chung cư của nàng, và dùng nàng để thỏa mãn chính mình. Lý do khiến tôi không muốn cho ai thấy tôi có một người tình như M-L cũng là lý do khiến cho tôi, khi chăn gối với M-L trong chung cư, say mê nàng. Nói đúng hơn, không phải say mê chính nàng, mà say mê những cảm giác nàng đem lại. Tôi ý thức mơ hồ sự bất thường của liên hệ giữa M-L và tôi, và tích cách bệnh hoạn của nó, nhưng tôi bỏ qua, mặc kệ. Tôi biết rằng M-L cần có tôi, mà tôi cũng biết là tôi cần nàng. Trong chốn riêng tư kín đáo, chỉ có hai đứa thôi, tôi cần nàng đem lại cho tôi những giây phút cực kỳ nóng bỏng mà tôi chưa từng được hưởng.

Chúng tôi tiếp tục gặp gỡ như vậy trong hơn nửa năm trời. Rồi tôi cảm thấy có sự nhàm chán. Bây giờ nghĩ lại, chẳng có gì lạ: Tôi chỉ ham thích cái khoái lạc M-L đem lại mà không ham thích con người của nàng. Sự khoái lạc thể xác của chính tôi tách rời khỏi thực tại toàn diện của chính nàng. Mệt mỏi là phải. Nhàm chán là điều không tránh được.

Tội nghiệp M-L! Thấy tôi không còn năng nổ như cũ, nàng càng tìm cách thỏa mãn tôi. Rồi một hôm, tôi bắt gặp một thoáng buồn bã, một thoáng ưu tư trong mắt M-L. Như hệt lần đầu tôi gặp nàng ở Nhà Tiếp. Tôi biết là M-L biết là chúng tôi đã sắp bước đến đoạn cuối đường. Rồi tình cờ tôi gặp được một người tôi cho là “hợp” với mình hơn. Tôi ít đến thăm M-L hơn trước. Những gặp gỡ ngắn lại dần, thưa thớt dần. Thưa thớt dần, rồi ngưng hẳn. Người ta thường nói: Youth is cruel. Đúng quá. “Tuổi trẻ ác nghiệt”! Ác nghiệt khơi khơi. Vì không ý thức nỗi khổ đau mình gây ra.

Ở tuổi hai mươi, gặp gỡ và ăn nằm với những người nữ xa lạ là điều thường tình trong đám con trai mới lớn, năng nổ, phóng túng, tự do. Nhưng M-L là người đầu tiên, sự liên hệ giữa đôi bên kéo dài đến nửa năm trời. Tôi tự nhủ rằng tôi không hứa hẹn, không cam kết gì với nàng cả. Mặc dù thế, sự kiện chung đụng với M-L bấy lâu vô hình trung gắn liền sự có mặt của tôi với cuộc đời của nàng...

Ông Thanh ngưng nói, thắp lại tẩu thuốc, phì phà một hồi lâu, mặt có nét buồn bã, già thêm hẳn:

Tôi thật tàn tệ đối với M-L. Gần nàng, tôi chỉ biết đến khoái cảm của mình, xem nàng như một phương tiện. Rồi tôi đã bỏ rơi nàng một cách tàn nhẫn. Mấy chục năm qua, tôi vẫn không quên M-L. Tự hỏi, người con gái ấy, rồi cuộc đời như thế nào. Bây giơ,ø lão già, M-L lớn hơn tôi ba tuổi, nặng cân như thế, xoay trở ra làm sao... Tôi không quên M-L...

Năm ấy, ông bà Thanh có dịp qua Paris. Một hôm trời đã chiều, trên chuyến métro đông nghẹt người, ông Thanh thoáng thấy, đằng xa, cuối toa xe, một dáng người quen quen. Ông nói nhỏ vào tai bà Thanh: “Cứ ngồi đây, chờ anh chút”. Rồi ông mon men, luồn lách đến gần cuối toa xe. Bỗng ông dừng chân. Người quen quen đó, khi đến gần hơn, nhìn nghiêng nghiêng, ông nhận ra, và khựng lại. Bà già mập ú, đầu đội cái mũ len, tay chống chiếc gậy sắt, mấy lọn tóc bạc xơ xác sau cổ áo. Là phụ nữ, lại già cả và nặng nề mà bà già cứ phải đứng; không ai trong toa xe nhường chỗ ngồi cho bà. Ông Thanh nhận ra người xưa. Ông quay mặt ngay qua phía khác, nghĩ thầm: “Thôi, quá khứ ấy, chỉ nên đem chôn đi!” Rồi ông vội vã trở về chỗ ngồi cũ với bà Thanh đang chờ. Tàu vừa dừng lại ở trạm sau, ông đã lật đật nắm tay bà, kéo ra khỏi toa xe. Bà Thanh cự nự: “Sao lại xuống đây? Em tưởng mình đổi xe ở trạm cuối kia chứ?” Ông Thanh ậm ừ.


***

Không đầy năm sau khi kể chuyện này cho tôi nghe, ông Thanh qua đời. Để lại không biết bao nhiêu thương tiếc. Ai cũng nhớ đến ông là một người suốt đời ăn hiền ở lành.

Võ Đình
31-XII-03

Xóm: Xóm La-tinh, gọi tắt. Quartier Latin, gồm đa phần hai quận, 5 và 6, ở Paris, nơi có nhiều cơ sở giáo dục và khoa học danh tiếng (các trường trung học Henri IV, Louis le Grand... đại học Y, Luật, Sorbonne, Bách khoa, Cao đẳng Mỹ thuật, các Viện Pasteur, Pháp quốc...)

tutoyer: khi thân, người nói tiếng Pháp “tutoyer” nhau, nghĩa đen là “mày tao”, nhưng trong trường hợp này, “anh em”

duplex: nhà đôi. Để tiết kiệm, người ta xây “nhà đôi”. Cùng một mái, một tường ở giữa, nhưng là hai nhà, với hai chủ. Người có phương tiện, thường ở nhà riêng, một mái, một nhà, tách rời những nhà khác.

métro: Réseau métropolitain, gọi tắt là métro, tàu chạy điện dưới lòng đất

Dịch nghĩa những đoạn thơ của Baudelaire ( Bài La Géante có tất cả bốn đoạn. Ông Thanh chỉ đọc lên đoạn 1, 3, và 4)

Thuở xa xưa, trong cơn bừng bừng hứng khởi,
Thiên nhiên sanh ra những đứa trẻ dị thường
Tôi ước sống cạnh một người nữ khổng lồ
Như con mèo trườn mình, vuốt ve chân hoàng hậu

Tôi lui tới thăm thú khắp thân hình tuyệt vời
Tôi bò lên, tụt xuống hai bắp đùi to tướng
Rồi, có lúc, vào hè, nắng nóng khiến nàng

Mệt, nhoài người trên cả cánh đồng quê
Tôi chui vào ngủ say trong bóng mát của đôi vú
Như ngôi nhà nhỏ nằm yên lành dưới chân núi. 








Da Thịt


Chiều đi dạy học về, Cường nhận được thư nhà, thư mẹ. Không được thư nhà thì chờ đợi lo âu, mà được thư, đọc xong, bất kể chuyện trong thư lớn hay nhỏ vui hay buồn, Cường cũng thấy bâng khuâng, rồi xót xa vô hạn. Chàng biết mình không phải là người duy nhất có cái tâm trạng ấy.

Cường mân mê phong thư, chần chờ. Thư rời Huế từ mãi ba tháng trước. Cái thư nhà! Như một di tích cổ sơ: giấy cũ vàng, những con tem vẽ khá đẹp nhưng in vụng về, những đường răng cưa xiêu vẹo, màu sắc thô thiển. Phong bì có nơi nhăn nheo, đường hồ dán tay sau lưng loang cả ra ngoài nắp bì. Nhưng thư nhà, ôi, sao mà tha thiết… Thư chưa mở ra xem, chỉ nhìn cái giấy con tem, đã thấy cả một thời gian đằng đẵng mấy chục năm, một không gian mênh mông bên này bên kia địa cầu. Thấy từng khoé mắt, thấy từng nét mặt. Thấy đoàn tụ, thấy biệt ly, thấy sống, thấy chết, thấy con cá giếc nấu canh thơm, thấy nước rau chan cơm sắn. Phong thư cầm trong tay, nhẹ tênh. Chưa mở bì, chàng đã biết: giấy mỏng, dễ rách, mực nhợt nhạt, chữ li ti. Phong thư nhẹ quá, Cường e không chừng khi mở ra bên trong lại chẳng có gì cả. Bên trong chỉ mơ hồ thoát ra một tiếng thở dài.


Bỗng Cường thấy lòng mình sôi sục. Chàng bực tức cái chần chờ vô lối, cái lễ mễ giả tạo, cái thấp thỏm yếu hèn của mình lúc đó. Chàng đưa ba ngón tay, ngón chỉ, ngón giữa, và ngón nhẫn, vuốt nhẹ bì thư như một sự tạ tội. Và chàng lấy kéo cắt bì, cắt cẩn thận để khỏi xén nhầm giấy nằm bên trong, lấy thư ra xem. Cường xem một mạch hết thư.


Rồi chàng vội vã xem lại từ đầu. Lần này chàng lẩm nhẩm thành tiếng như đứa trẻ đọc chưa thạo. Rồi chàng lật qua lật lại mảnh giấy như thể làm thế sẽ giúp chàng khám phá ra một cái gì đó nữa mà những giòng thư chưa nói hết, chưa đem lại hết. Rồi chàng ngồi yên, bức thư nằm trên gối.


Cường ngồi yên trong khi bên ngoài hoàng hôn xuống. Một hương hoa phảng phất đâu đó, man mác, huyền hoặc. Cường có cảm giác ngây ngư, như mới uống ngà say. Mắt Cường cay xè, nước mắt ứa lên nhưng ngừng lại, không trào ra được. Chàng vừa nhận được cái tin dữ nhất trong đời mình. Vậy mà lòng Cường bình thản, một nỗi bình thản quái gở, đen đặc, chưa bao giờ từng thấy. Chàng tự nhủ: những cái đau lớn, cũng như những trận bão lớn, những trận lụt lớn,khởi đầu chúng nhẩn nha, chúng lầm lũi chúng đi chứ không láu táu nhanh nhẩu như những cái đau nhỏ, những trận bão lụt nhỏ. Chúng đi chậm, nhưng khi chúng đến nơi, đuổi kịp nạn nhân thì chúng đến như trời sập, như đất tan. Lòng chàng bình thản chỉ vì được tin dữ ấy đối với chàng là một cái đau quá lớn. Nó lớn quá nên nó chậm chạp, nó lù lù nó đi, nó chưa bắt kịp chàng đó thôi.


Tay phải cầm thư, Cường xoè bàn tay trái ra, ngay ngắn trước mặt. Bàn tay chàng thon dài mảnh mai, trái ngược xa lạ với cổ tay và cánh tay lực lưỡng gân guốc. Ngón giữa thật dài, thẳng tắp. Bốn ngón kia nằm nghiêm chỉnh đều đặn hai bên. Đường chỉ tay, trong bóng chiều, vẫn rõ rệt, những đường chỉ tay cân bằng, sắc sảo. Chàng nắm tay lại, nhìn những đốt tay, những đường gân sau lưng tay. Rồi chàng mở tay ra, lòng bàn tay đầy đặn, ngón tay thẳng tắp.


Cái tin dữ trong thư mẹ, bềnh bồng ba tháng trời mới tới nơi. Quả là tin “sét đánh”. Nhưng Cường không xây xẩm, không choáng váng. Chàng chỉ cảm thấy một niềm u tịch bỗng chốc chan hoà ôm trùm lấy chàng, rồi toả rộng ra, biền biệt. Trong cái lặng lẽ vô biên ấy, Cường ngắm nghía bàn tay mình và tâm trí phất phơ quay về với một cái tin dữ khác đã đến với chàng bảy tám năm trước. Chàng phân vân: Mình thật kỳ cục, được thư mẹ, được tin dữ lớn, một cái tin sét đánh mà lại nghĩ đâu đâu về một cái tin dữ khác, một cái tin chẳng mắc mớ gì đến mình, chẳng ăn nhằm gì với những người thân yêu của mình cả . 


***

Cái tin đó, khi đọc thấy trên báo hàng ngày lần đầu tiên, không làm Cường chú ý lắm. Xe hoả trật đường rầy, tàu thủy đánh đắm, cầu gẫy, xe và người rơi, chiến tranh bên Đông, chiến tranh bên Tây… Cường không chú ý lắm chẳng phải chàng là người vô tâm. Không chú ý chỉ vì chàng mải đọc báo, đúng hơn, xem báo. Mà xem báo có cái cách xem của nó. Xem báo mà xúc động tưng bừng lên, không làm sao xem báo được.

Nhưng rồi Cường lại thấy cái tin đó trên vô tuyến truyền hình. Rồi thỉnh thoảng chàng lại thấy nó trên mặt báo hàng tuần, báo hàng tháng. Rồi chàng lại thấy nó được đem ra bình luận trên TV. Cũng cứ một cái tin ấy, nhưng tin đã trở thành chuyện, chuyện lại trở thành vấn đề. Vấn đề được đưa ra giải thích, phân tách, phê bình. Có người lên án, có người bênh vực. Và cái tin cách đây mấy năm đã trở thành một ám ảnh đối với Cường. Nó ám ảnh chàng hoài.


Mãi đến khi báo hết nhắc đến, TV cũng hết đưa chương trình ra, Cường vẫn còn nghĩ đến cái tin ấy. Có lẽ mọi người đã quên nó rồi, đã băn khoăn thấp thỏm về những tin khác mới mẻ hơn, kích thích hơn, nóng bỏng hơn. Mà Cường thì vẫn cứ băn khoăn thấp thỏm vì cái tin cũ.


Chung qui chỉ vì một tai nạn hàng không. Một chiếc Boeing 707 trên đường bay từ Equador xuống Peru, máy móc trục trặc thế nào không rõ, rơi xuống rặng núi Andes. Một số nhỏ trong hành-khách-đoàn thoát chết. Thoát chết trong một khung cảnh hãi hùng. Bốn bề núi cao vực thẳm, băng tuyết trùng trùng. Ban ngày có ánh nắng mà lạnh dưới độ nước đông thành đá. Thực phẩm mòn mót mãi chỉ được vài gói bánh khô dòn và dăm thẻ sô-cô-la. Phi cơ còn tan xác, huống hồ … Một chàng trai trẻ tìm được chiếc ra-đi-ô vùi trong tuyết, nhưng vô dụng vì không bắt được gì.


Con người muốn sống, tháo vát lắm. Những người may mắn còn nguyên vẹn săn sóc những người bị thương tích. Họ xé áo quần ra, băng bó cho nhau. Những người bị nặng quá, nằm lịm, thì có những người chỉ gẫy chân gẫy tay nằm cạnh. Những anh trai trẻ tìm được diêm, hộp quẹt, đốt lửa nấu tuyết, cho nhau nhấm nháp. Lại tìm ra được thuốc lá, chia nhau phì phà, thích thú, khoái trá trong cái cảnh đùa cợt với tử thần. Họ tháo ghế phi cơ lấy gỗ, lấy thắt lưng an toàn làm “giầy tuyết”. Họ bàn chuyện vượt muôn trùng băng giá đi tìm cứu trợ… Họ làm những cái băng ca tạm thời để, nếu có thể, khiêng những người không đi nổi. Ban đêm, họ chui vào xác phi cơ, ngồi nằm sát vào nhau, ôm lấy nhau mà ngủ để giữ hơi ấm, để khỏi chết cóng. Có hôm bão lớn, avalanche tuyết đổ xuống từ trên núi, lụt ngập đến mức có người bị chôn sống. Trong khung cảnh hãi hùng cả đêm lẫn ngày đó, họ đã sống cùng nhau.


Họ đã sống như thế trong mấy tuần lễ (mấy tuần?, Cường không nhớ). Rồi vài anh trẻ, có sức nhất, gan dạ nhất, liều ra đi.


Trèo lên, trụt xuống … lăn lông lốc trên sườn núi băng, cuốc bộ hàng chục dặm trên mặt tuyết mênh mông. Một vài anh lạnh quá, mệt quá, đói quá, bỏ cuộc, chết. Các anh khác tiếp tục, và thành công. Đoàn cấp cứu có cả bác sĩ, y tá, thuốc men, thực phẩm, bay lên núi Andes bằng mấy chiếc trực thăng. Hầu hết những người thoát chết sau khi phi cơ rơi lại thoát chết lần nữa. Và cái điều làm cho báo chí, TV trong suốt năm ấy, và năm sau, và năm sau nữa, bận rộn không ít cũng là cái điều ám ảnh Cường mãi. Suốt thời gian, ngay sau khi phi cơ rơi, đến khi cả bọn được cứu ra khỏi địa ngục băng tuyết, họ đã ăn gì mà sống ?


Họ đã ăn thịt những người bạn đồng hành xấu số của họ. Vâng, họ đã ăn thịt những người chết tức khắc sau tai nạn mà da thịt, sau một vài giờ trong cái lạnh núi Andes, đã đông cứng.


Thật tình, mãi đến bây giờ, cái cảm tưởng đầu tiên của Cường, dầu chỉ thoáng vụt qua rồi tan loãng đi ngay, vẫn còn rõ mồn một. Có gì đâu, chàng nghĩ :không biết ăn cái thịt người đông cứng ấy, nó như thế nào. Xác chết ngổn ngang, cái nằm trên băng,cái vùi dưới tuyết, có cái còn nguyên vẹn, có cái đã nát tan. Phải ăn mà sống, thì ăn ai, đúng hơn, ăn xác ai bây giờ ? Đàn ông hay đàn bà, người lớn hay trẻ con, ăn xác nằm gần nhất hay xác rơi xa nhất, ăn xác đã tan nát hay xác còn toàn thân ? Aên tay hay ăn chân, ăn đầu hay ăn ngực, hay bụïng, hay đùi ? Cắt một miếng ở bắp chuối có lẽ dễ ăn hơn là cầm một bàn tay mà gặm như gặm chân vịt luộc ? Bỏ vào mồm miếng thịt cứng như đá, hay luộc nó lên (nếu có nồi), nướng nó lên (nếu có gỗ) cho nó thơm phức mà ăn, dầu không có tiêu hành nước mắm ? Bấy nhiêu ý tưởng đó vụt qua đầu chàng chỉ trong giây khắc. Chàng không ngờ chỉ trong một tích tắc mà chàng đặt ra từng ấy câu hỏi trong đầu.


Sau đó, chỉ sau đó thôi, thật vô lý, chàng mới tự hỏi một câu, và hỏi xong chàng không trả lời ngay. Cho mãi đến nay chàng vẫn chưa trả lời. Đó là, nếu số mệnh run rủi, Cường là một hành khách sống sót sau chuyến bay xấu số đó, liệu chàng có ăn thịt người, ăn thịt bạn đồng hành để số qua cơn hiểm nghèo không ?


Cường biết có những câu hỏi không bao giờ nên được đặt ra. Đây không phải chỉ là một chuyện ăn thịt người, vì ăn thịt người đâu phải là chuyện vô tiền khoáng hậu. Có nền văn minh thượng cổ nào mà chẳn có tục tế thần bằng thịt người, rồi sau đó, kẻ trên người dưới è ra ăn thịt đồng loại đã “được” đem hy sinh. Xa vời trong lịch sử thì có Trung hoa, Aán độ, Ai cập, Bắc Aâu, gần hơn thì có các bộ lạc da đỏ ở Mỹ châu, da đen ở Phi, Uùc châu. Mới đây nhất, người ta tế “Cách Mạng” bằng gan tim người ở Cao Miên.


Lắm khi ăn thịt người chỉ là một giải pháp kinh tế. Có những bộ lạc trình độ văn hoá khá cao lại xem đó là một hình thức tế lễ uy nghi. Có khi ăn thịt người lại là một cử chỉ nhằm giải toả hận thù. Lại có khi đó là một hoan lạc tập thể đầy nam tính, một thứ “macho” của khẩu dục và nhục dục. Vậy cái kỳ cục nhất định không phải là việc ăn thịt người.


Kỳ cục chăng là trường hợp, hoàn cảnh của những hành khách thoát nạn đó. Cường nghĩ tới những công dân Equador, Bolivia hay Peru, hay Argentina đó, thực họ cũng chẳng khác gì chàng lắm. Kỹ sư, giáo sư, sinh viên, một hai bà nội trợ, vài nha øthương mại, một hai chàng thể tháo gia, vài ông cụ bà cụ đã về hưu trí, một hai quân nhân … Một chuyến bay Đà nẵng-Sàigòn, đại khái thế.


Những người đó cũng chỉ vầy vậy như Cường bây giờ : một nhà giáo tầm thường, ưa đọc truyện báo, thích nhậu trưa chủ nhật với bạn bè, chiều đùa với con nhỏ, khuya ôm vợ ngủ. Thế thôi. Những người đó, những năm đầu thập niên 70 này, họ đọc báo, nghe ra-đi-ô, họ xem TV, họ nghe lời bác sĩ dặn bớt ăn mỡ, ăn nhiều rau xanh và trái cây hơn, sáng chải tóc thấy rụng hơi nhiều, họ lo lắng, trong sổ tay họ có ghi ngày phải đem xe đi thay nhớ hoặc xét lại cái thắng, v.v. … Những con người “bình thường”, giữa cái thanh thiên bạch nhật “bình thường” của cuối thế kỷ thứ hai mươi này. Công dân những nước, tuy không phải là cường quốc, nhưng cũng không phải nơi ăn lông ở lỗ. La Paz, Lima, Quito, Santiago, tuy không phải là Ba lê, Luân đôn, Nữu ước, cũng rộng lớn, đông đúc, “văn minh” chẳng thua gì Đài bắc, Sài gòn, Vọng các.


Thế mà những người đó đã phải ăn thịt người. Và Cường tự hỏi, nếu hoàn cảnh bắt buộc, liệu chàng có ăn không? Hay là chàng chịu nhịn đói như một hai người trong đám hành khách sống sót đã làm, nhịn đói cho đến chết, để cùng chết với đồng loại ?

***

Lần cuối cùng, Cường thấy lại cái tin đó là đêm có chương trình truyền hình, chiếu lại buổi nói chuyện của ba anh trai trẻ trong số những người thoát chết hai lấn. Nếu cháng không nhớ lầm thì buổi nói chuyện được xếp đặt và hướng dẫn bởi ông “chủ” (host) Richie Griffon.

Ba anh trai trẻ, mặt mày sáng sủa, quần áo giản dị nhưng có sự lựa chọn chu đáo, hợp thời trang. Là người Nam Mỹ, lẽ cố nhiên họ ăn nói có lúc ngập ngừng lúng túng vì Anh ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ của họ, nhưng Cường thấy họ cũng đủ sức diễn đạt đầy đủ những gì thật tình họ muốn nói. Ba anh trai trẻ, Nam Mỹ, da trắng, trông khôi ngô, thông minh rõ ràng. Dáng dấp họ tự nhiên, đĩnh đạc, chứ không láu táu, diêm dúa như phần đông thanh niên cùng lứa tuổi. Nhìn họ, Cường nghĩ, trong tóc, trong da thịt, trong móng tay họ, có thịt người. (Lạ chưa! Gặp người đồng hương cớ sao Cường lại không nghĩ : Ờ, trong tóc, trong da thịt, trong móng tay cô này có mắm Thái, trong bà này có tôm khô, trong ông kia có rượu vang, có lợn luộc?). Cường biết mình vô lý, và chàng thấy hơi ngượng ngùng với ba anh trai trẻ ngồi trên TV, vây quanh Richie Griffon: chàng có cảm tình ngay với họ vì cái lối ăn nói điềm đạm, cử chỉ ung dung hiếm có. Chàng thấy họ có một thứ tự tin nào đó khác thường. Có thật chăng hay là chàng tưởng tượng? Chàng nhìn thật kỹ ba khuôn mặt sáng sủa trên màn truyền hình đầy ánh sáng và màu sắc.

Giữa cái khung cảnh trang trí rực rỡ, có phần loè loẹt, nhiều-tiền-nhưng-rẻ-tiền của một phòng khách TV, ba khuôn mặt xa lạ, lung linh như hiện ra từ một bức chân dung thời Tiền Phục hưng. Giữa ba khuôn mặt đó và khuôn mặt ranh mãnh, quá khôn khéo, quá “hiện đại” của Griffon, chàng thấy có một khoảng cách thời gian xa vời. Cường ớn lạnh. Chàng nghĩ ba khuôn mặt kia như đã được đông lạnh nhiều thế kỷ, và tối đó được đem ra nơi ấm áp cho mềm đi, cho sống lại, và chiếu lên xem. Chỉ có một điều làm cho Cường yên chí là ba khuôn mặt ấy chính là người của ngày nay, là người có thật, là ba khuôn mặt của ba tấm thân có chứa đựng ba trái tim nóng hổi tràn đầy nhận cảm và xúc động. Đó là ánh mắt buồn bã xa xăm của họ. Không phải nỗi buồn bã chán chường hay ray rứt, tê điếng. Cường nhìn cặp mắt này rồi nhìn cặp mắt kia. Aùnh mắt buồn bã xa xăm đó, trong cả ba đôi mắt đó, chàng nghĩ, chỉ có thể là ánh mắt của một nỗi thương yêu vời vợi …

Một trong ba anh, có mẹ và em gái cùng đi trong chuyến bay định mệnh. Trên phi cơ, ngồi sau ghế anh là một người bạn thân. Máy bay rớt, hai người bạn sống sót cùng một số nhỏ. Mẹ và em anh chết cùng một số lớn hành khách. Cường còn mang máng nhớ được một đoạn của cuộc đối thoại.

CHỦ : Ồ, tôi xin lỗi ông. Tôi không biết ông có bà thân sinh và bào muội đi cùng và đã bất hạnh …

KHÁCH : … Cám ơn ông … Tôi mong rằng mẹ tôi và em tôi chết tức khắc, không đau đớn gì …

CHỦ : Như các ông đã nói, máy bay rớt tứ phía, làm sao mà các ông …

KHÁCH : Vâng, đúng thế ạ. Anh bạn này (khách nhìn sang bạn, cười thân ái), anh bạn này ngồi ghế ngay sau lưng tôi. Khi tôi mở mắt ra thì người tôi thấy trước nhất là bạn tôi. Chúng tôi lồm ngồm bò dậy. Nhìn quanh thấy có người đâm lút dưới tuyết, chỉ còn bàn tay bàn chân thò lên trên. Tôi nghĩ ngay đến mẹ và em. Nhưng cả hai chúng tôi tìm mãi không ra. Tôi trặc một vai đau quá, phải để bạn tôi kéo vào nằm trong xác phi cơ. Rồi anh ấy chạy ra giúp sức cứu trợ những người sống sót. Mãi ba bốn hôm sau chúng tôi mới tìm ra xác mẹ và em tôi … Rớt thật xa …

Cứ thế cả bốn người, một chủ, ba khách, nói lăng nhăng quanh co một hồi lâu. Hai người trong số ba khách, Anh ngữ khá, thay nhau kể lại cuộc đoạn trường : lạnh ngày đêm dưới độ đông nước, thiếu áo quần chăn mền, những người thương tích nặng nằm từng đống, kẻ mê man, người rên rỉ, có hôm bão tuyết suốt ngày đêm, lại có hôm tuyết đổ, chết thêm một hai người. Khách cứ kể, nhưng chủ không quên khán-thính-giả bên kia ống kính quay phim. Chủ biết người ta chờ đợi, sốt ruột. Và chủ hỏi, giọng ngập ngừng một cách khéo léo, như thể cực chẳng đã lắm mới hỏi, ngượng ngùng lắm mới nhắc đến chi tiết đó.

CHỦ : Thế, thế các ông và các bạn đồng hành cùng thoát chết của ông, đã sống sót cũng vì quý vị đã chấp nhận một thực tại không chối bỏ được, quý vị đã có một sự chọn lựa …

KHÁCH : (anh trẻ này tóc đen, râu quai nón, nãy giờ ít nói nhất, chỉ ngồi cười cười, ừ à, dậm theo câu chuyện) Vâng, chúng tôi chấp nhận. Một là chết đói cả lũ, hai là phải ăn mà sống. Mà trong hoàn cảnh ấy, không có gì ăn được cả, ngoại trừ thịt người !

CHỦ : (có vẻ ngượng vì thái độ thẳng thừng của anh râu đen, quay lại rất nhanh về phía hai anh kia, với điệu bộ thân thiện hơn, gần như khuyến khích) Đã đành ! Đã đành ! Of course ! There wasn’t anything else, was there ? Thế ông … ông làm sao, ông quyết định lấy một mình, hay có ai thúc dục ông ?

KHÁCH : (vẫn anh râu đen, nhanh nhẹn đỡ lời cho hai bạn, như thể để bênh vực họ) Không, tôi quyết định một mình. Qua ngày thứ ba sau hôm phi cơ rơi, chúng tôi đói lả. Chúng tôi ăn thử tuyết, nhưng lạnh quá. May còn hộp quẹt, chúng tôi kiếm mấy cái lon nấu tuyết ra cho mấy người bị thương nằm uống, nhấm nháp vài giọt cho đỡ khô người. Nhưng những người như chúng tôi đây, chúng tôi may mắn không những sống sót mà chẳng bị thương tích gì đáng kể, chúng tôi đói quá. Lạnh như vậy, cả ngày làm cái nọ cái kia, săn sóc đồng bọn, tiêu pha năng lực như vậy mà thỏi sô-cô-la và mấy cái bánh dòn thì đã hết từ lâu ! Chúng tôi không biết người nào đã đưa ra ý kiến trước nhất, chúng tôi bàn đến chuyện ăn xác những người đã chết. Chúng tôi lý luận dông dài. Xác nằm đó, ăn vào sẽ giúp chúng tôi có đủ chất đạm để chịu đựng nổi cơn đói rét này, sống được còn có cơ hội cứu thoát những người còn sống nằm trong xác phi cơ kia v v … Chúng tôi nói rất cứng. Chúng tôi đưa những lý luận có tính cách khoa học, tâm lý, tâm linh … Nhưng đến khi ra tay, không ai chịu đi trước. Tôi là người …

CHỦ : Ông là người đầu tiên thực hành ý kiến đó …

KHÁCH : Vâng. Tôi chui ra khỏi xác phi cơ, đi một mình ra ngoài xa. Tôi rút con dao bỏ túi, cứa một miếng nhỏ từ bắp chân của một cái xác, tôi bỏ vào mồm … Như thịt đông lạnh vậy thôi. Cứng lạnh, vô vị. Tôi thấy buồn nôn. Nhưng nuốt xong miếng đầu tiên tôi đỡ lợm giọng. Tôi tiếp tục cứa thêm, nhai thêm vài miếng nữa. Aên xong, tôi đứng yên lúc lâu, ngẩn ngơ. Rồi tôi quay lại xác phi cơ, chui vào. Không một người nhìn thẳng vào tôi. Tôi ngồi xuống và thấy khoẻ hẳn ra. Chỉ ăn một tí, thấy khoẻ ngay … Sau đó, mấy người kia lầm lũi chui ra ngoài … lần lượt chui ra từng người một. Không ai nói năng gì cả.

Sự hồi hộp nôn nóng đang căng thẳng, đứt đoạn một cách quá tầm thường. Cường thấy Griffon thật nhanh trí, không cho phép năm tích tắc im lặng. Ông quay qua người trai thứ nhất :

Bà cụ thân sinh và bào muội ông … ông có …

Anh trai trẻ người Bolivia nhìn Richie Griffon, rồi nhìn thẳng ra khán-thính-giả, im lặng một lúc. Đoạn anh cười nhẹ nhàng :

- À, tôi … Khi bạn tôi đây (anh chỉ anh trai tóc vàng đã ngồi ghế sau trong phi cơ, cùng rớt và cùng thoát chết với mình), khi bạn tôi đây chui ra phi cơ theo mấy người kia, tôi nắm áo anh ấy, tôi năn nỉ anh ấy, tôi bảo anh này, anh có ra thì hãy lại, hãy lại xác mẹ tôi và em tôi … Và anh ấy hưa sẽ làm như tôi muốn. Hôm nay, ngay bây giờ, ngồi đây, tôi lấy làm sung sướng cho mẹ tôi, cho em tôi … Thay vì chôn sâu dưới đất, để côn trùng rỉa rói, cho thời gian mục nát, bây giờ mẹ tôi và em tôi ở đây, có mặt ngay bây giờ, qua sự sống còn, qua thân hình của bạn tôi đây …

Cường nhìn người bạn. Mặt anh bình thản, nhưng ánh mắt vẫn thoáng nét buồn bã xa xăm. Cường biết mìng đã nghĩ đúng. Aùnh mắt đó, ánh mắt buồn bã xa xăm đó, chính là ánh mắt của một tình thương yêu vời vợi.

***

Trời nhá nhem. Cường cầm thư mẹ trong tay, ngồi bất động. Chàng nghĩ, mẹ đã không đánh điện tín, có lẽ vì không chạy kịp tiền. Cũng có lẽ, chàng giật mình, cũng có lẽ mẹ cố ý viết thư mặc dầu biết rằng thư đi hàng tháng mới tới. Có lẽ mẹ muốn rằng sau mươi tuần lễ nổi trôi trên những bầu trời xa lạ, sau khi bị bao nhiêu bàn tay không quen biết rờ mó, sắp xếp, cột buộc, tống vào bao, vất vào thùng, kéo từ bị, ném ra xe, sau một cuộc giang hồ như thế, lá thư mới được mẹ cho phép nằm vào trong tay con. Bì thư lùc này đã trầy xát, giấy thư chắc đã nhăn nheo, mực trên bì chắc đã hoen ố, nhưng lá thư mang tin dữ đến cho con lúc ấy thực sự đã rời tay mẹ ba tháng trước đó rồi. Và mắy con, và tim con, qua không gian, qua thời gian, sẽ đọc lá thư cũ với tâm trạng của mẹ ba tháng sau. Thế nào, mẹ cũng đã mong rằng cái đau đớn của con, ba tháng sau, dù có sâu đậm mấy cũng không đến nỗi mưa bão dữ dằn như thể, thay vì viết thư, mẹ đã đánh điện sang.

Cường cầm thư mẹ lên đọc lại. Ánh tà nhợt nhạt, không thấy gì cả. Chàng định bật đèn, nhưng lại thôi, kéo ghế lại gần cửa sổ hơn, đưa mảnh giấy mỏng manh lên đọc trong bóng hoàng hôn. Cường nghĩ chữ mẹ viết dạo sau này, càng run, càng gầy hơn trước.

"Con ơi – Cường lẩm nhẩm đọc thành tiếng – Con ơi, thầy mất rồi, thầy mất đúng ngày rằm … thầy ra đi không mệt mỏi đau đớn chi cả con đừng có buồn bã chi lắm con nghe con phải vui mà sống với vợ con con cho mạ cho đồng bào quê hương thầy đi rồi …” (Cường mếu máo cười, xưa nay mẹ viết lách vẫn bất cần cú pháp !) … “ thầy đi rồi thì thầy qua bên nớ thăm con thăm cháu có chi mô mà con buồn. Còn mạ thì ở nhà có bà con láng giềng túi lửa tắt đèn có nhau con đừng có lo mạ chỉ mong ước có một điều là con phải an dạ mà làm ăn mà nuôi mấy cháu cho thành người cho ra con người Việt Nam. Rồi đây đến lượt mạ về với ôn mệ con cũng đừng buồn …” Cường lướt qua vài dòng chuyện nhà cửa, họ hàng, rồi đọc tiếp, thành tiếng, “con là đứa giống thầy hơn tất cả mấy anh chị em con ai cũng nói con giống thầy như tạc rứa mà chỉ có một cái con giống mạ hết nước nói mà ít ai biết đến đó là hai bàn tay của con hai bàn tay ngón dài của con đó là hai bàn tay mạ. Trán con rộng cổ con to như trán với cổ của thầy nhưng tay con không vuông vắn chắc chắn như tay thầy tay con mạnh bóp tay thằng rể dì Tư hắn lính tráng nhà binh mà hắn kêu đau quá trời nhưng tay con nhỏ nhắn thanh tú là tay mạ tay cầm bút con ơi ! Sớm hôm rồi mạ cũng về với ôn mệ thì mạ để hai bàn tay mạ lại cho con đó với chuỗi tràng hạt mạ cho con mấy năm trước chừ đây mạ còn sống với con cháu nhưng thiệt là thiên sơn vạn hải rồi khi mạ có ra đi mà con có nhớ tới mạ thì con cứ việc ngó hai bàn tay con con sẽ …”

Cường không đọc tiếp, đặt thư trên gối. Rồi chàng lại xoè bàn tay trái ra, lòng bàn tay đầy đặn, ngón tay thon dài thẳng tắp. Chàng ngắm nghía bàn tay mẹ lung linh trong màu tím xám của trời đất. Bỗng Cường giật mình. Một vật gì bay xoẹt qua bên ngoài cửa sổ. Không biết đó là một con chim thấy trời tối vội vã bay về tổ, hay đó là một con giơi trên đường đi ăn đêm …

1978

Truyện này được viết mấy năm trước thời gian đồng bào Việt Nam ồ ạt vượt biển và một số lớn đã gặp phải những thống khổ vô biên.














THĂM NGƯỜI CHẾT

đoản văn
Võ Đình, 2003


Hoa đã kèn cựa với nhà quàng hết sức mà không lay chuyển được chương trình của họ: Viếng thăm người quá cố nhằm vào ngày ... Tết! Nếu tôi còn sống, tôi sẽ nói với vợ rằng thôi, thế cũng hay, nhập giang tùy khúc, người ở đây sá gì chuyện Tết tiếc của mình. Chương trình là chương trình, cả một bộ máy chạy ro ro của họ, từ nhà người chết đến lò thiêu, đến lúc trao hũ tro cho thân nhân. Mỗi nhà quàng lãnh phần “thanh toán” hàng trăm cái xác, người chết trước được lo trước, người chết sau được lo sau, không thể du di được. Cứ đúng ngày đúng tháng đúng giờ, là họ tiến hành công việc. Chịu thôi. Với lại, này, nhân vật một truyện nào đó nói rằng mơ thấy chết là may, thấy đẻ mới sợ*. Tết nhất, đi nhà quàng, nhìn mặt người thân, may lớn là cái chắc.

Thấy khách khứa còn tiếp tục đến, tôi sốt ruột. Thằng người nằm trong áo quan, thấy dị hợm vô cùng. Tôi ngượng: hắn, thằng người đó, chính là tôi. Tôi đã chết. 

“Chết là hết”, người ta thường nói. Không can thiệp. Không phản đối, ai làm gì, cứ làm. Người chết, trông như thằng đĩ đực. Môi thoa chút son, má đánh chút phấn, tóc chải mướt, kiểu Toni Rossi. Thiếu điều bôi chút eye shadow!

Người ta đến chào tôi lần cuối, trước khi nhân viên lò thiêu đem thằng người nằm trong áo quan đó đi. Anh A, chị B, toàn “chỗ thân tình”. Đàn ông ăn mặc chững chạc, còm-lê đậm màu, sơ-mi trắng, cà-vạt không đen thì cũng trang nghiêm. Đàn bà, người mặc tailleur, pantsuit, kẻ mặc áo dài. Tất cả đều sẩm tối, phải phép. Tôi

để ý có chút màu tươi ở dãy ghế cuối. Thằng bồ Mỹ của Lan, con gái anh chị Lân. 
Thằng nhỏ ẩu: đi nhà quàng mà mặc sơ-mi màu mè. Anh Lân khó chịu ra mặt.

Căn phòng đầy hoa. Nhiều nhất là lay-ơn, thứ hoa vô duyên, tôi không ưa. Những thứ hoa khác, cúc, hồng, huệ... tuy ít hơn, cũng vẫn nhiều, quá nhiều. Hương hoa nồng nặc. Nến cháy lung linh, lung linh. Trên một bàn nhỏ, cạnh áo quan, có cái ảnh phóng đại trong một khung thếp vàng, chân dung của tôi. Chẳng giống thằng người nằm trong áo quan chút nào cả. Cái ảnh cũ, hồi tôi mới tốt nghiệp, mới lấy vợ. Trẻ măng, chưa để râu. Ngay cả tôi, cũng có thể bảo rằng đó không phải là người nằm trong áo quan. Chẳng biết khi khách khứa đi qua, nhìn thằng người chết lần cuối, có nhận ra đó là tôi không. Có tới ba đứa: “tôi” xác chết trong áo quan, “tôi” trong chân dung, và “tôi”, người đã chết rồi nhưng còn loay hoay đây... Chẳng biết “tôi” nào là tôi thật.
Sáng thứ năm vừa qua, tôi không dậy sớm như thường lệ. Hoa sờ vai tôi, hỏi: 

“Anh ... OK?”. Tôi nói: “Anh OK”, rồi trở mình, ngủ tiếp. Lơ mơ nghe Hoa dậy, tiếng động nhỏ trong bếp, con chim mocking bird hót lảnh lót ngoài vườn, con chó nhà bên sủa vu vơ, tiếng bà hàng xóm gọi mèo... Rồi, sau đó, một khoảng trống, trống hốc, trống hoác, nay không còn nhớ gì cả. Sau này, mới biết là Hoa ăn sáng một mình xong, lái xe đi thăm đứa cháu ngoại bị sốt siếc chi đó, rồi về. Thấy nhà vắng vẻ, lặng tờ, nàng vội vào phòng ngủ, sờ nhẹ vai tôi: “Anh ơi, 11 giờ trưa rồi đó!” 

Nhưng tôi không trả lời, không dậy. Tôi đã chết. Và bây giờ, tôi thấy thằng người nằm trong áo quan đó, chờ được đem đi thiêu. Và tôi nghe người ta thì thầm với nhau.
Về cái chết của thằng người đó.
Một ông hỏi:
- Thế giảo nghiệm bảo sao?
- Autopsie xong rồi. Không có gì lạ.
- Kỳ cục. Không có gì lạ!? Sao lại không? Thế anh Vinh chết vì gì? Phổi? Gan? Tim? Thận?
- Người ta không cho biết. Chính chị Hoa đưa tôi xem tờ giấy từ văn phòng quận...
- Không có gì lạ cái con khỉ! Chết phải có lý do chứ. Súng bắn, dao đâm, ung thư, viêm gan, nghẽn mạch máu... Thiếu khối gì lý do. Người ta giấu mình cái gì đây.
- Đúng! Đúng vậy. Người ta giấu mình cái gì đây. Hừm!
Hai ông ngưng bàn cãi, ngồi lại ngay ngắn, hai tay để trên gối, mặt buồn hiu. 
Mấy anh nhân viên nhà quàng lăng xăng, thăm hỏi, xun xoe. Anh nào cũng “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”.
Ngồi yên được một lúc, ông mặc bộ xám lại quay qua thầm thì với ông mặc bộ nâu:
- Này, chẳng biết thằng Bush có đánh I-Rắc không nhỉ?
- Đánh chứ. Sao không? Tụi nó chuẩn bị đâu đó cả rồi. Thù chung.
Thù riêng. 
Đánh là cái chắc.
- À, nghe nói bên Cali, có ông tướng, ông tá nào đó rục rịch tuyển chí nguyện quân, qua I-Rắc đánh giúp Mỹ.
- Có thế kia à? Ông nghĩ sao?
- Vô liền, chứ sao! Có chí nguyện quân là tôi vô liền. Bộ đồ ngon vậy mà lâu quá không được mặc. Kẹt cái là sắp đi “vây-cây-sân”**. Hứa hẹn cả rồi. Kẹt quá!
Hai ông bạn lại im lặng, ngồi ngay ngắn, hai tay để trên gối, mặt buồn hiu.

***

Lâu lắm rồi, tôi có nói với Hoa rằng chết, đem hỏa thiêu là hay nhất. Rẻ, gọn, sạch.Có người nói không thích. Bảo nóng quá. Nóng thì nóng thật, nghe đâu tới mấy ngàn độ F. Nhưng chết rồi, nóng, lạnh, ăn nhằm gì. Tôi đi theo mấy chàng nhân viên lò thiêu, xem họ làm việc.
Áo quan cho người chết đem đốt là thứ gỗ xoàng. Họ đẩy linh cữu vào lò, điều chỉnh nhiệt độ, bấm nút. Chiều thứ bảy, đốt cái xác cuối cùng trong ngày, mấy anh lò thiêu có vẻ rảnh rang. Họ ngồi uống bia, đấu láo với nhau.
Tôi nhìn ra ngoài. Sân cỏ còn xanh mướt, lốm đốm vài vạt tuyết nhỏ tuần qua. Mấy cây đào kwansan nở rộ. Gió lay, cánh hoa rơi đầy thảm cỏ. Những chấm hồng xác pháo. Mắt thì nhìn những cây đào xinh đẹp, nhưng tai vẫn nghe mấy thằng lò thiêu nói chuyện. Mấy thằng quỉ! Mới dăm phút trước, nơi quàng người chết trang nghiêm như vậy mà ở đây, cũng người chết đó, chúng nó lại nói chuyện ngả ngớn, tục tĩu, chửi thề tùm lum... Sự tương phản làm tôi bật cười, thành tiếng.
Tôi nghe tôi. Nhưng không ai nghe tôi cả. Ai nấy mặt mũi buồn hiu. Tôi thử cười lớn.
Chẳng ai để ý. Người sống nói, tôi nghe. Nhưng họ không nghe tôi. Vì tôi đã đi ra ngoài thế giới của người sống? Hay là vì lòng tôi nguội lạnh? Hoa ngồi đó, thỉnh thoảng đưa mùi soa lên chặm mắt. Mấy đứa con ngồi bên. Tôi nhìn vợ, nhìn con... “Chết là hết”, có nghĩa vậy sao? Người chết dửng dưng với người sống. Người sống không nghe người chết, mặc dù người chết cười lớn ngay bên cạnh. Người chết quẩn quanh trong vùng câm nín của mình. Để mặc người sống đi cho hết đường đời. Một mình. Sự thật của “chết là hết”, vậy đấy à? Người sống không nghe người chết, nhưng tiếc thương khôn cùng. Không biết ba trăm năm sau, thiên hạ có ai khóc Tố Như không? 
Có, có vô số người khóc cụ. Hiện nay, cụ đang ở đâu? Chết rồi, cụ đi đâu, làm gì? 
Cụ chết như vậy là mới chỉ gần 200 năm. Chưa tới 300. Cụ lo xa quá!
Tôi nhớ, trước khi chết, có đọc một bài tùy bút của ông bạn già. Cực kỳ thắm thiết.
Nhớ mãi một hình ảnh thật linh động: “Một đợt gió xoáy qua nghĩa trang, thổi tung hai tà áo. (...) Thu vẫn đứng yên mà không đưa tay giữ áo. Cái dáng khổ đau của người đàn bà này, hình ảnh hai tà áo quằn quại trong đợt gió đã dừng lại rất lâu trong đầu tôi.”*** Đã dừng lại rất lâu trong đầu tôi! Câu này “Tây” quá. (Vì ông này trước có học và làm việc nhiều năm ở Tây Âu chăng?) Nhưng hai chữ quằn quại trước đó vô cùng đắc địa! Bà Thu, mang kính mát, đến nghĩa trang tiễn người chồng cũ. Không thấy nói ông chồng cũ nghe, thấy ra làm sao. Bởi vì ông đã chết? Bạn tôi, tác giả bài tùy bút, còn sống nhăn răng. Làm sao biết được!

Phải chết, như tôi bây giờ, mới biết được. Thì ra chỉ người sống mới lắm chuyện: Lễ lạc, thủ tục, nghi thức, khóc lóc, tiếp đãi... để vuốt ve người còn sống. Người chết, nhẹ bâng. Như tôi bây giờ. Cái gì tôi cũng thấy tức cười. Hoa, vợ tôi, hết khóc rồi, mà cứ đều đều đưa tay chặm mắt. Mấy nhân viên nhà quàng lăng xăng, săn đón, xun xoe. Cái áo màu tươi của thằng bồ cô bé Lan. Nét mặt hầm hầm của anh Lân. Anh bực nhưng thỉnh thoảng không quên nắn nắn cục nơ cà-vạt. Mấy thằng đàn ông phét lác, tục tĩu ở lò thiêu.
Mồng một Tết . Tiết trời se se, hiu hắt. Tuy không có pháo, sân cỏ tuyết tan hoa đào rụng hồng. Mưa lâm thâm.

Võ Đình
2003







G.






Chiếc Vòng


Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, con người di chuyển liên tục và xa xôi như trong thời gian từ thế chiến thứ hai đến nay. Tự ý di chuyển cũng lắm, mà bị bắt buộc di chuyển, vì cớ này hay cớ khác, cũng nhiều. Ai là kẻ trong chúng ta sinh ra, lớn lên, suốt đời sống tại một nơi đến ngày tóc bạc, đến ngày về với cha ông?

Cách biệt thì nhớ thương, nhớ thương thì lý tưởng hoá cái mình nhớ thương; câu “chốn quê hương đẹp hơn cả”, chắc nhiều người chưa quên. Chúng ta nhớ về quê hương, nói về quê hương, viết về quê hương, mộng mị, ao ước về quê hương. Nhưng không phải ai cũng nghĩ về quê hương một cách như nhau. Thương nhớ có nhiều khuôn mặt, nhớ thương có độ nông sâu. Tuy vậy, tất cả cùng chia sẻ một cái đau chung: đó là ý thức, hoặc còn mịt mù, hoặc đã sáng tỏ, của một nỗi hoang vu khôn tả ẩn náu chui rúc trong hang cùng ngõ hẻm của tâm thần mọi người.


Không gian rạn nứt vụn vặt, thay vì đều đặn tròn đầy. Thời gian thiếu hụt vá víu thay vì uyển chuyển luân lưu. Chúng ta đau cái bệnh thời-không gian què quặt đó mà lắm lúc lại không ngờ, cứ tưởng rằng đó chỉ là cái đau tình tự, cái nợ máu mủ.


Nếu không gian là thực tại bên ngoài thì thời gian là thực tại bên trong. Nhưng “trong” và “ngoài” chỉ là một cách nói, vì ai đâu biết thật có trong, có ngoài. Cũng như làm gì có bên kia, bên này, hay trước kia, bây giờ. Chỉ lúc nào chúng ta nhìn thấy sự thật đó, và hoàn toàn chấp nhận nó, khi ấy chúng ta mới hòng hết bệnh. Lúc đó, đau thương vẫn còn, vì chúng ta vẫn còn tình yêu và trách nhiệm. Nhưng đôi nạng gỗ của một thời-không gian đui điếc, chúng ta có can đảm vất bỏ chúng đi để đứng lên nhìn rõ mặt thực tại hiển hiện sáng lòa. Tôi càng thấm thía điều đó mỗi khi nghĩ đến ông Th., một người bạn.


*

Bạn tôi năm nay suýt soát bốn lăm, sinh trưởng ở Thừa Thiên. Mới mười mấy tuổi đầu, vì hoàn cảnh chung cũng như riêng, anh phải xa xứ sang Âu châu. Một thời gian, vừa đi học vừa đi làm. Có dạo, anh theo học kiến trúc. Rồi loay hoay thế nào anh lại lấy vợ sinh con; bỏ chuyện vẽ hoạ đồ, xoay ra dịch thuật lăng nhăng vì anh khá ngoại ngữ, Hoa, Anh, Pháp. Ngày tôi gặp anh lần đầu tiên, anh giữ chân đọc duyệt bản in cho một nhà xuất bản nhỏ ở Michigan. Ở Mỹ, một vợ, bốn con, mà làm proofreader, anh không đến nỗi đói lạnh nhưng thường túng thiếu. “Vong bần lạc đạo, anh!”, anh nói một cách vui vẻ tự nhiên như thể ta nói “Ta vào ăn cơm đi, anh!” Tôi bắt đầu thật mến anh từ cái câu nửa đùa nửa thật mà có ý tự trào đó.

Ngót một phần tư thế kỷ từ ngày Th. rời quê hương, đã vợ con một đoàn, đã “lê bước chân lưu lạc” nhiều nơi khắp thế giới, anh mới có cơ hội và phương tiện về thăm nhà. Nhưng chỉ được về thăm một thời gian ngắn, rồi lại phải ra đi. Một năm sau ngày Th. xuất ngoại lần thứ hai, miền Nam thay ngôi đổi chủ. Và hiện nay, như tôi, cũng như số lớn Việt kiều, anh đành cam phận ăn gửi nằm nhờ đất khách. Chỉ có điều là trường hợp anh Th. rất khác với nhiều người hiện nay: anh đã đi xa, đi lâu, thật lâu, và anh đã quay về, rồi anh đã đi lại. Tuy vậy, những chuyến đi của anh trong không gian quả chẳng có gì đáng kể lắm. Chính những chuyến đi của anh trong thời gian mới thật là hãn hữu.

Ở xa nhau hàng ngàn cây số, chúng tôi thường có thư từ đi lại. Lá thư nào của Th. cũng có điểm một vài tình tiết, nhận xét khác thường. Chúng khêu gợi, đùa giỡn với óc tò mò của tôi. Tôi biết đó là một mánh lới hữu hiệu của anh cốt để rủ rê tôi lên chơi thăm bạn và gia đình bạn. Cuối năm 1977, có việc lên miền Bắc, tôi lặn lội về một vùng ngoại ô thành phố Detroit. Lá vàng mùa thu đã rụng hết mà tuyết băng mùa Đông chưa về, trời đất tiêu điều cằn cỗi, vô cùng lạnh lẽo.


Tay nâng niu chén trà bốc khói, Th. nói: ‘Nhớ những năm đầu thập niên sáu mươi, dừng chân ở San Francisco. Trong thời gian hơn hai năm trời lưu lại đó, tôi bị ám ảnh ngày đêm bởi một chiếc vòng! Như một chiếc vòng đàn bà đeo tay. Khổ nỗi, nó không tròn trịa, nó có một khe hở, một khoảng cách chưa được hàn lại, nối lại. Chiều chiều tôi ra đứng ở bờ biển, nhìn Thái bình dương, nhìn về quê nhà mịt mù bên kia khói sóng…


“Quê nhà xa lắc xa lơ đó,

Trông lại tha hồ mây trắng bay…”

“Anh còn nhớ mấy câu này của Nguyễn Bính không? Tôi nghĩ chỉ ngày nào tôi được về nước, về lại thành phố cũ, về lại vườn nhà cũ, chiếc vòng đó mới vẹn tròn, lành lặn. Một thực tại nào đó mới tròn đầy, no nê. Phải chăng vì tôi ra đi từ lối Ấn độ dương, qua Địa trung hải, sang Âu châu. Rồi từ đó nhẩn nha đi nhiều nơi khác, để rồi vượt Đại tây dương, sang Hoa kỳ, rồi lần mò từ Nữu ước sang miền cực tây, California. Chiếc vòng ám ảnh tôi là hình ảnh rộng lớn, trấn áp của vòng tròn trái đất chăng? Và Thái bình dương là cái khoảng cách còn lại, chưa đươc hàn gắn? Cái khoảng cách vĩ đại đó, trong tâm thần tôi, đã thu nhỏ lại thành một khoảng cách tí ti, còn chia lìa chiếc vòng tròn; ngày đêm nó áp bức tôi, nó kèn cựa tôi, làm cho tôi vất vả, nóng ruột, nóng gan. Khi mơ cũng như khi tỉnh, có lúc tôi tưỏng mình có thể dang tay kéo hai điểm cách nhau đó lại gần, gần hơn, để chúng dính lại với nhau… Bao nhiêu sinh lực của tôi như cứ ứ đọng vào cái khe hở của chiếc vòng mà rỉ rả thấm ra ngoài. Chẳng khác gì một vết thương xoàng, không hề hấn gì, mà máu trắng cứ đều đặn ứa ra, chẳng có cách cầm lại được.”

“Không trừ khử được chiếc vòng ma quái đó, tôi đã phải rời bỏ miền Tây – vốn là nơi khí hậu ấm áp dễ chịu – về lại miền Đông. Nhưng chiếc vòng nó đâu tha tôi một cách dễ dàng như vậy! Có phải cứ chạy trốn nó là nó quên mình đâu! Trong mười năm trời, nó tiếp tục theo đuổi, phá phách tôi, và tôi đã mệt mỏi vì nó không ít. Nhưng rồi cái việc phải xảy ra đã xảy ra: có cơ hội về nước, tôi thu xếp về ngay.”

“Tôi về! Tôi về từ giờ phút phi cơ sắp vào không phận Việt nam. Cúi đầu nhìn xuống dưới xa, tôi không khỏi lẩm bẩm cái câu trong Quốc văn Giáo khoa thư, “hình cong như chữ S… trên Bắc kỳ và dưới Nam kỳ thì phình rộng ra, ở giữa Trung kỳ thì thu hẹp lại…”. Tối 29 Tết, sau một phần tư thế kỷ, tôi lại ngủ tại Sài gon”, ở nhà anh bạn, một xóm lao động. Sau một thời gian đằng đẵng, tôi lại được nghe tiếng chó sủa giữa khuya – chó sủa ban đêm giữa một đô thị lớn nhất nước! – tiếng gà gáy mờ sáng, tiếng cụ già hàng xóm húng hắng ho… Trời chưa sáng, tôi đã dậy đứng ở cửa sổ. Anh bạn cũng dậy theo, và hai chúng tôi im lặng đứng nhìn mấy lá dừa lắt lay bên kia bức tường nát. Có tiếng xích-lô máy nổ xa xa… Bỗng nhiên tôi khẽ cười: chiếc vòng ma quỉ đó, đâu có cần phải liền! Vì đâu có chuyện vòng với nhẫn, chia với lìa. Tôi nhíu mày nghĩ đến chiếc vòng, cố tưởng tượng ra nó, xem thử cái khoảng cách đó có còn hay không. Nhưng tôi không thấy nó nữa, bức tường nát, ngọn dừa lắt lay, tiếng khạc đờm lúc mờ sáng của cụ già chưa bao giờ gặp mặt… Bấy nhiêu thứ đó quả thật là quê hương, và ở quê hương, chiếc vòng ma quái đã tan biến như sau một cơn ác mộng, ta tỉnh giấc, sờ chăn chiếu, thấy vẫn còn ấm áp trong tay. Tôi nghĩ rằng chiếc vòng sẽ không bao giờ trở lại phá phách tôi nữa. Tôi đã lầm to. Ngây thơ quá!”

Th. vừa nói vừa xoa chân, xoa xoa rồi vỗ vỗ, đầu gối rung rung. Trời khá lạnh, nhưng chẳng những không đi giày trong nhà, anh cũng không mang bí tất. Anh ngồi để hai chân lên ghế, xếp bằng lối bán-kiết già, xoa xoa vỗ vỗ lòng bàn chân trái để ngửa ngay ngắn trên đùi phải. Tôi không khỏi mỉm cưòi nhớ đến lối ngồi của ông bác tôi trên tấm ngựa lim, ở nhà thờ trên làng. Tôi hỏi: “Anh nói anh lầm. Lầm thế nào?”

Th. nhìn tôi một lúc lâu, mắt hơi xa xôi, như thể không trông thấy tôi. Rồi anh khẽ lắc đầu, cười như tự chế nhạo, tia mắt gần gũi hơn:

“Ấy, lầm to, anh! Để tôi nói tiếp anh nghe. Sáng hôm sau, tôi bay ra Huế, nơi tôi sinh trưởng”, nơi tôi nhớ thương suốt hai mươi mấy năm trường. Đoàn tụ với đại gia đình, với hàng xóm láng giềng… Với cây mai trước sân, với bụi chanh sau nhà… Trời, đến nay đã bốn năm qua mà tôi còn bàng hoàng, đê mê sung sướng về những buổi đoàn tụ ấy. Tôi đã đi xa Huế, và tôi đã về với Huế. Hai mươi bốn năm sau, gần một phần tư thế kỷ! Tôi đã quay lại trong không gian cũ, nhưng tôi không ngờ một việc hết sức kỳ quặc lại xảy ra cùng một lúc: Tôi cũng đã quay lại trong thời gian. Ấy, xin anh để tôi. Nghe có vẻ “cải lương” quá nhỉ!”

Th. khoác tay: “Không phải như anh tưởng đâu! Chúng ta thường nói “ngược dòng thời gian”. Đó chỉ là một cách nói. Chỉ có nghĩa là thả trí nhớvề quá khứ, mặc cho nó lang thang đi về đâu thì đi, hoặc chỉ thị cho nó phải về đúng một đoạn đường nào đó. Đến lúc không muốn nhớ lại nữa thì gọi trí nhớ về, bắt nó về hiện tại. Không, tôi không nói chuyện đi ngược, đi xuôi đó, Tôi cũng không nói chuyện đi ngược thời gian kiểu “khoa học giả tưởng”, kiểu science-fiction! Chính tôi, chúa mê truyện, tôi cũng chẳng thích đọc những tiểu thuyết loại này, mặc dù có những nhà văn rất tài ba chuyên viết trong địa hạt đó. Sự thật là từ ngày tôi quay về chốn cũ, những sợi râu, sợi tóc đã bạc của tôi vẫn cứ bạc, chứ không xanh lại, hay biến mất. Lưu Nguyễn nhập và xuất Thiên Thai, cũng là một thứ science-fiction, anh đồng ý chứ? Không có chuyện ấy với tôi, không.

Thế là tôi về nhà cũ đúng 30 Tết anh ạ. Một sự trùng hợp ngộ nghĩnh! Hai mươi bốn năm về trước, tôi cũng đã về nhà sau một thời gian khá dài vắng mặt, đúng vào tối 30 Tết. Xin anh cho phép tôi gác qua một bên những lý do làm sao, năm ấy, tôi, một thiếu niên dưới 20, lại vắng nhà cho đến tối 30 Tết mới về. Những lý do ấy là thứ yếu. Điều quan trọng là tôi đã về nhà hai lần, cùng vào tối 30 Tết, hăm bốn năm trước, rồi hăm bốn năm sau. “Thời gian, anh hiểu cho, thời gian đằng đẵng giữa hăm bốn năm đó, tôi đi xa, không những xa Huế, mà xa cả quê hương…”

Tối đó, tối 30 Tết khi tôi về nhà lần thứ hai, tôi ra cúng ngoài trời với thầy mẹ tôi. Anh quê ở Thừa Thiên, hẳn anh còn nhớ, những đêm thiết bàn trải khăn, bày lư đèn hoa quả, cúng ngoài trời. Hương trầm ngào ngạt, bay từ vườn nhà này sang vườn nhà kia! Trong khung cảnh trang nghiêm u huyền, trời gần đất, đất gần người đó, tôi mặc chiếc áo dài đen sờn tay của thầy tôi, chỉnh tề đứng lạy trước bàn thờ lộ thiên. Bỗng nhiên, tôi oà ra khóc. Trời! Ước ao năm mười năm tôi lại được khóc một trận như thế. Khóc như mưa! Thời buổi này, một gã đàn ông trên bốn mươi, lưu lạc đã lâu, về tới nhà cũ, tìm lại được cha mẹ già, tìm lại được cây chanh cây mít trong vườn, được một diễm phúc to lớn, hiếm hoi như vậy, mà hắn ta khóc um lên! Không có gì diễn tả nổi trận khóc của tôi đêm đó bằng cái câu tầm thường đã bị lạm dụng quá nhiều: nước mắt tôi tuôn ra như suối!Tôi khóc đến nỗi ngã khịu xuống chiếu thờ. Thầy mẹ tôi lật đật dìu tôi dậy. Thầy tôi đã ngoài bảy mươi, tóc bạc như cước nhưng còn rất quắc thước, ôm lấy tôi, vỗ về không nói. Tôi khóc ướt đẫm cả vai áo người. Mẹ tôi cầm tay tôi. Tôi nghe tiếng mẹ nói như gió thoảng: “Chắc con hắn mấy chục năm ni có khi mô mà khóc được rứa! Ông cứ để con hắn khóc cho thoả…Mấy khi…” Rốt cuộc, tôi hết khóc, cố mỉm cười mà nước mắt thì ràn rụa. Mẹ tôi nói tiếp: “Đó ông thấy chưa, con hắn khóc no rồi đó, cái thằng ni thiệt à…” Rồi người quay về phía nhà dưới, gọi đứa cháu: “Bưng cậu chén nước, lẹ con!”

“Cái trận mưa nước mắt của tôi thật bất ngờ, làm cho buổi lễ có phần ngỡ ngàng. Thầy tôi thắp thêm hương, lẩm nhẩm khấn, cúi lưng vái dài, rồi cùng mẹ con tôi quay vào nhà. Khuya đó, đêm ba mươi, sau khi mọi người đã đi ngủ, tôi nằm, thao thức. Cả con người tôi bồn chồn, như nôn nóng, như chờ đợi. Tôi biết có sự bất thường sắp xảy ra, và tôi nghe ngóng từng giây phút bước đi rõ rệt của nó. Như khi một trận bão lớn sắp đến, ta lắng tai nghe tiếng gió rầm rộ ào ào từ xa, mỗi lúc mỗi lại gần. Tiếng chuông treo tường điểm ba giờ sáng (cũng cái chuông ấy tôi đã từng nghe ngày nghe đêm hai mươi bốn năm về trước), sự bất thường ấy đã xảy ra: bỗng nhiên tôi thấy ớn lạnh. Và tôi nhận thức rõ ràng, trong một khoảnh khắc, tôi đang vượt qua ranh giới của một thực tại nào đó: về lại đúng vị trí cũ trong không gian, tôi đang đi ngược chiều thời gian. Tôi thấy rõ ràng hai cái thực tại cũ, mới của tôi xích lại gần nhau, như khi chụp ảnh ta vặn cái nút điều chỉnh khoảng cách giữa đối tượng và ta, với kết quả là hai hình ảnh so le, mập mờ trong mắt kính từ từ nhập lại với nhau thành một hình ảnh độc nhất, rõ ràng, sắc sảo. Nỗi kinh hoàng tràn ngập trong tôi. Tôi ý thức rõ rệt là trận khóc như mưa ban tối, trước bàn thờ trời đất, đã xối rửa quét sạch tâm thần tôi, và bây giờ toàn diện con ngươi” tôi trống huếch trống hoác, như căn nhà vô chủ, chờ đợi một giòng thác lũ khác kéo đến làm tràn đầy mọi cứ điểm nhận thức.”

“Việc đó xảy ra trong giây phút: tôi là tôi, mà tôi không còn là tôi nữa. Râu tóc tôi đã có nhiều sợi bạc. Nhưng con người toàn diện của tôi khi đó lại là của một thời gian đáng lẽ đã qua rồi và không bao giờ trở lại. Sự kiện cha mẹ tôi bây giờ đã già yếu, tóc hai người đã bạc phơ chứ không đen xanh như ngày tôi ra đi; sự kiện em gái tôi, một nữ sinh tóc xoã ngang vai, nay đã trở thành một người đàn bà đứng tuổi với nét mặt lo buồn; sự kiện ngày tôi ra đi, cành mai nhỏ mới gầy trước sân, nay đã sum suê hoa lá một gốc mai già… Những sự kiện đó, tôi công nhận, hoàn toàn có một thực tại trong thực tại lúc đó. Nhưng chúng chỉ là những thực tại tách lìa, từng mảnh, không gây một trở ngại gì cho tôi cả trong nhận thức toàn diện của tôi. Nói cách khác, cái tôi của hăm bốn năm trước đã thấy cha mẹ, chị em, cây mai vàng, v.v.. của hăm bốn năm sau. Và cái tôi của bây giờ lại đang thấy cha mẹ, chị em, cây mai vàng, v.v.. của hăm bốn năm trước. Xin anh hiểu cho: tôi không nói tôi có cảm tưởng mình lại trở thành đứa thiếu niên của ngày tháng xa xưa. Tôi muốn nói rằng tôi lại trở thànhđứa thiếu niên đó. Mặc dù râu tôi vẫn còn đó, với nhiều sợi đã bạc. Mặc dùtôi còn nhớ rõ rệt chuyến đi về, giờ phút tái ngộ, buổi lễ ngoài trời đầy hương trầm và nước mắt… Mặc dù tất cả, tôi đã lại trở thành đứa thiếu niên của hăm bốn năm trước. Như thể một phần tư thế kỷ đó không có, không bao giờ trôi qua.

Không phải là tôi mất hẳn quá khứ đó, như trường hợp đặc biệt của một số người, vì một xúc động quá lớn, hay sống sót sau một tai nạn quá kinh khủng, bỗng nhiên quên mất quá khứ, đến nỗi không còn nhớ mình là ai, tên gì, ở đâu, v.v.. Không, không phải vậy. Tôi còn nhớ kỹ tất cả những gì thay đổi trong thời gian. Điều tôi quên đi chính là thời gian của những thay đổi ấy. Tôi có cảm tưởng rõ rệt là cuộc đời của tôi có một khoảng trống lớn: đó là hai mươi bốn năm tôi đã sống ở hải ngoại. Hình ảnh một giòng sông đến ngay với tôi: phát xuất từ nguồn, giòng sông tuần tự chảy về đồng bằng, bỗng nhiên dừng lại! Hết sông! Thay vì cạn dần, rỉ rả trở thành suối, thành ao, thành hồ. Rồi hết. Đằng này, không, nước sông đột ngột dừng lại, dựng đứng như một bức thành, phẳng lì từ trên xuống đáy. Nước đã quay lui. Nước đã trở về nguồn…!”

“Để tôi quay lại chuyện tối 30 Tết. Giường tôi kê ở nhà trên, chênh chếch bên chái hữu, cách bàn thờ chừng năm, sáu bước. Ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn bỏng trên án đủ cho tôi thấy lờ mờ cột nhà, và những đốm xà cừ lấp lánh của cặp liễn khảm mấy câu thơ Trương Kế, “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên/ Giang phong ngư hoả đối sầu miên, v.v.. Một phần tư thế kỷ! Mà trong căn nhà cũ, không có gì thật đã xê dịch, đổi thay. Ngày tôi ra đi, mẹ tôi mới may, chính tay người kim chỉ may lấy, một cặp màn lớn màu vàng mơ, treo lên “rầm thượng”, rũ xuống tận nền nhà. Trên hai mươi năm trôi qua, hai chiếc màn ấy thế nào cũng đã cũ bạc, rách nát. Mới khi chiều, mẹ tôi nói mấy tháng trước mẹ dành dụm mua được hàng may hai chiếc màn mới để thay hai chiếc màn cũ đã tả tơi quá rồi. Nhưng thầy tôi bảo “thời buổi ni lùi xùi răng cũng được, bà thì cứ hay bày đặt!”, nên mẹ tôi treo màn cũ lên lại, nói để Tết nhất lễ lạc gì mới treo màn mới lên. Và khi nhận được điện tín của tôi báo sắp về đến nơi, màn mới lại được treo lên để đón con về. Màn mới, màn cũ đều cùng gần một thứ hàng, cùng một màu vàng mơ. Hăm bốn năm về trước, đêm cuối cùng ngủ ở nhà trước khi vào Sài gòn lên đường sang Âu châu, tôi cũng đã nằm chính ở chiếc giường đó, góc nhà đó, cạnh chiếc liễn “nguyệt lạc ô đề” đó. Trong những năm lưu lạc, tấm màn màu vàng mơ mới tinh khôi luôn luôn linh động, ám ảnh, tô phả cho cái nhìn của tôi. Và bây giờ, hăm bốn năm sau, tôi cũng lại nằm ở chiếc giường đó, nhìn thấy tấm màn màu vàng mới tinh đó. Trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn bỏng (đèn Hoa kỳ, đèn hột vịt) trên bàn thờ, những chấm xà cừ của mấy câu thơ hầu như ai cũng biết, cũng thuộc, lại lấp lánh như những vì sao xa…”

“Tim tôi đập mạnh như muốn phá vỡ lồng ngực. Vốn thích hoạt động chân tay, và thường tự hào là có tim phổi mạnh, tôi choáng váng ngạc nhiên tưởng mình sắp đứng tim. Trong giây khắc, thời gian tan biến hoàn toàn, tôi như không còn bấu víu vào đâu được, như rơi hun hút vào một cõi âm u. Tôi đưa tay lên sờ mặt, sờ tóc. Tôi véo má tôi, véo thật mạnh, thật đau, đau điếng. Tôi hoàn toàn tỉnh táo, không mơ mà cũng không điên! Lúc đó, tôi như người khách một xứ chậm tiến kỹ thuật, cả đời chưa bao giờ thấy cái thang máy, nay bước vào một tiệm lớn ở Âu Mỹ, lớ quớ thế nào lại bước nhầm thang. Muốn đi lên lầu, tất nhiên phải lấy thang lên, tôi lại bước vào thang xuống. Để giữ vững thăng bằng, tôi bước lên một bước thì thang lại kéo tôi xuống một bước. Rốt cuộc, thang máy cứ tuần tự chạy, mà tôi thì đứng yên ở một vị trí trong không gian!”

Nói ngang đây, Th. ngừng lại. Anh nhìn tôi thăm dò, lưỡng lự, có vẻ không quyết tiếp tục hay ngừng hẳn. Tôi vội vã kiếm cớ, nói liều: “Ờ, ờ, thế tại sao anh lại không nhảy ra, rồi bước sang cái thang kia, cái thang lên, chỉ vài bước thôi mà!” Th. chép miệng cười. Tôi nhận thấy trong cái cười của anh có một niềm chế diễu. Anh biết tôi nói đùa, nói ẩu. Nhưng anh vẫn trả lời: “Khổ nỗi, anh ơi, không có thang lên, chỉ có thang xuống! Nếu lúc đó tôi không cố bước lên đều đặn, bấu víu lấy thời gian, thì tôi sẽ đi thụt lùi mãi mãi trên chiếc thang vô tận đó, lùi dần, lùi dần vào quá khứ, quay lại những ngày còn thơ ấu, những ngày sơ sinh, những ngày chưa sinh, còn nằm trong bụng mẹ, những ngày của một tiền kiếp xa xôi mịt mù… Cơn kinh hoàng bỗng chốc đến rồi cũng bỗng chốc đi, như một trận gió dữ. Tim đập chậm lại, tứ chi ấm dần, tôi thiếp đi. Và tôi thức giấc trong mùi trầm hương ngào ngạt cùng tiếng tụng kinh thánh thót của mẹ tôi – người vẫn thường dậy sớm “công phu” sáng sáng. Tôi rửa mặt, thay áo, đến ngồi sau lưng mẹ cho đến khi một vài tia nắng tinh sương bắt đầu rụt rè len lỏi vào song cửa nhỏ.”

“Từ giờ phút đó trở đi, suốt cả thời gian tôi ở lại quê nhà, tôi sống trong cả hiện tại lẫn quá khứ, cùng một lúc. Như tôi đã nói, đây không phải là trường hợp của một người hiện hữu trong một bối cảnh hiện tại nhưng nặng màu sắc quá khứ, và một cách chủ quan, ngỡ rằng mình đang sống trong quá khứ. Không có chuyện “hương gây mùi nhớ”! Vì bốn năm đã trôi qua, tôi vẫn còn cứ nhận thức rõ rệt là con người tôi, cái “being” của tôi lúc đó, một mà là hai, hai mà là một; hiện tại không đứng đấy, nhìn lui về quá khứ, hiện tại là quá khứ, quá khứ là hiện tại, và cả hiện tại lẫn quá khứ cùng là một thực tại linh động, kỳ diệu, sáng loà…”

“Trong thời gian đó, thời gian ngay sau Tết năm đó, tôi tận hưởng cuộc đoàn tụ với đại gia đình, với hàng xóm, láng giềng. Tôi tìm lại được một số bạn bè của trên hai mươi năm về trước. Tôi lên núi thăm mộ những người đã khuất. Tôi về làng thắp hương trên bàn thờ tông gia. Nhưng tôi vẫn để ý nghe ngóng, dò xét, rắp tâm bắt cho được một dấu hiệu, một khe hở nào đó trong linh cảm, hầu giúp tôi thấy được cái lối đi nẻo về của tâm thức. Có hôm, đã khuya, tôi nằm không ngủ, mang mang nhớ lại quãng đời hăm bốn năm lưu lạc ở nước người. Cuộc sống đó mới chấm dứt, nói đúng hơn, mới đóng cái dấu ngoặc, chỉ mới tuần qua, nhưng trí nhớ đã rời bỏ tôi và hình ảnh mới thấy trong mắt rất gần đấy đã trở thành xa xưa, mịt mù, như trong một cơn mộng một nhớ mười quên. Tôi nghĩ đến vợ con còn ở nước ngoài, bồi hồi thương nhớ. Nhưng tôi không hình dung được ngôi nhà mà tiểu gia đình tôi đã nương náu gần mười năm qua và tôi mới xa rời chưa tới tuần lễ! Tôi tưởng tượng tôi thong thả đi bộ lên đồi, trên đường về ngôi nhà đó, nhưng chân bước vẫn nhịp nhàng mà mắt tôi thì mờ dần, loà dần, để rồi tất cả chỉ còn lại một vùng sương khói…”

“Một hôm tôi sang thăm trường đại học. Trò chuyện một lúc lâu với các bạn mới cũ hiện đang dạy ở đó. Bỗng có một người ngoại quốc, còn khá trẻ, bước đến. Nghe loáng thoáng, biết đó là một giáo sư Hoa kỳ. Anh em người Việt cười cười, nhìn tôi tỏ ý đây là lúc “Th. cho anh em nghe tiếng Mỹ đi!” Và tôi làm anh em vui lòng: tôi chào hỏi, “nói chuyện” với chàng đó. Trời! Tôi không thể nào ngờ một chuyện như vậy có thể xảy ra! Tôi không nói được tiếng Anh! Tôi, một người đã trú ngụ tại Mỹ trên mười năm trời, có vợ giòng giõi Anh cát lợi chính thống, một người đã viết báo, đã thuyết trình bằng tiếng Anh, đã dịch một số văn thơ Việt nam ra Anh văn…! Tôi cứng lưỡi, ú ớ, ngọng nghịu, nói không ra lời. Tôi quên mất những từ hết sức thông dụng. Tôi nói tiếng Anh như một học sinh trung học cực dốtAnh văn. Tôi nói tiếng Anh như tôi nói tiếng Anh hai mươi năm về trước. Chuyện xảy ra thật vô lý. Thật khôi hài. Và kinh hoàng. Tôi đứng đó, chịu trận. Không biết hôm ấy, vị giáo sư Mỹ trẻ tuổi đã nghĩ gì, nhưng tôi chắc một điều là các bạn bè Việt nam đều cho tôi là một gã hề, khôi hài kỳ cục! Trên đường về nhà, tôi giải thích qua loa cho Sơn và Cường., hai anh bạn cùng đi. Nhưng hai anh chỉ cười cười. Tôi nghĩ họ tin rằng tôi vẫn còn đùa, đùa dai.”

“Chúng tôi vượt cầu Trường tiền, qua đường Trần Hưng Đạo (nay không còn hai hàng phượng vĩ nữa), về cửa Thượng tứ. Cửa thành đã mất thượng lầu trong vụ Mậu Thân, và người ta đã xây thế vào một thứ lô-cốt tròn, ngắn, một cái pháo đài thấp lè tè. Cửa thành cổ kính, rêu phong loang lổ, sừng sững trong nắng trưa như một người khổng lồ phong hủi đầy mình: đầu đã bị chặt cụt, chỉ còn cái cổ ngắn trên hai vai ngang. Xúc động, tôi vội cúi xuống. Và tôi đứng lặng người. Dưới cạnh chân tôi là một vũng nước nhỏ (sáng ấy có mưa), đường kính không quá hai ba gang tay. Mặt nước phản chiếu một tí trời, một tí mây. Nhưng vũng nước ấy cũng là vũng nước tôi đã nhìn xuống bao nhiêu lần trên hai mươi năm về trước mỗi khi đi học ngang qua đấy. Góc đường quen thuộc ấy, lề đường lở lói, gốc cây cằn cỗi ấy… Tôi đi xa một phần tư thế kỷ mới về, mà vũng nước nhỏ bé ấy vẫn còn nằm nguyên đó, không bốc hơi biến mất, không xê dịch, không lớn hơn hay nhỏ hơn. Lý trí đối với tôi lúc ấy hoàn toàn vô giá trị: vũng nước ấy chính là vũng nước của ngày tháng xa xưa, và tôi lại nhìn thấy nó! Nó không thay đổi mà tôi cũng không đổi thay. Tôi nhìn vũng nước nhỏ bên lề đường, rưng rưng nước mắt. Bao nhiêu vật đổi sao dời, mà hôm đó vũng nước vẩn bùn và tôi nhìn nhau như thể chưa bao giờ xa nhau, như trìu mến, như thân thương.”

“Từ hôm đó trở đi cho đến ngày tôi rời Huế, tôi bàng hoàng với một nỗi niềm dào dạt. Không những tâm linh tôi bao la hun hút, mà cả thân xác tôi cũng giao động khác thường. Trong chuyện cổ tích thường có những nhân vật nghe tiếng chim, tiếng súc mà hiểu được. Bấy giờ tôi mới biết rằng đó không phải là chuyện bịa đặt.

Một hôm, thầy tôi nắm vai tôi kéo ra vườn, khoe mấy cây cỏ mà người đã trồng những năm tháng con trai ở xa. Khi chúng tôi đứng lại ngắm bụi tre càng cua – một thứ trúc nhỏ, đặc biệt của xứ Huế, thân cây giống hệt chân cua -, tôi giật mình “nghe” được âm thanh trò chuyện của từng cánh từng nhành. Cái tôi của em bé, của đứa thiếu niên, ắt đã từng nghe những âm thanh đó rồi, nhưng không ngờ, không biết, nghe mà cũng như không nghe, phải đợi đến ngày cái tôi của “hiện tại”, với hai màu tóc râu trở về hoà hợp, chung sức với nhau mà lắng tai nghe, lúc ấy mới “nghe” thấy, và biết là mình có nghe. Không dằn lòng được, tôi khẽ hỏi: “Thầy ơi, thầy có nghe chi không?” Thầy tôi giật mình, trợn mắt: ” Nghe cái chi? Cái chi rứa? À, tụi con nít hắn dỡn đó mà!” Quả thật, xa xa trong xóm, có tiếng trẻ đùa chơi la ó. Tôi mừng là cha già tai còn thính, mắt còn sáng. Tuy thầy tôi đã không nghe tiếng nói của bụi tre càng cua mà người yêu thương, vun tưới hết lòng.”

Nói ra thật khó tin, nhưng anh biết không, thậm chí những đau nhức lặt vặt của thân xác, những đau nhức thường ai ai ngoài bốn mươi đều bắt đầu có ít nhiều, cũng bỗng nhiên tan biến đâu mất. Cả thân xác tôi như trở lại thành thân xác của một thiếu niên! Ăn không biết no, thiếu ngủ không biết mệt, đi bộ hàng giờ dưới nắng chang chang mà vẫn tươi tỉnh tự nhiên. Có hồi, ở ngoại quốc, tập võ Nhật, bị “rách” gân háng. Bác sĩ bảo chưa rách đến độ cần mổ, nhưng phải rất cẩn thận khi khuân vác gì quá nặng. Và phải kiên nhẫn chịu đựng cái đau ấy. Trong thời gian về nước, một hôm đang tắm, tôi đưa tay sờ gân háng, nhạc nhiên không biết cái đau đã đi về đâu. Tôi cúi xuống, tôi đứng lên, tôi ngờ vực cái đau còn đó nhưng tôi quên nó đi, tôi cố tình nhớ lại cái đau quen thuộc, tôi tưởng tượng như đang còn đau, nhưng thật tình nó đã biến mất: nơi đó da thịt gân cốt” phẳng lì, cứng mạnh, mát mẻ, không đau, không một chút khó chịu…”

Trước ngày tôi lên đường rời Huế, anh bạn hoạ sĩ, Đ.C., đến rủ tôi đi dạo chơi một vòng sau bữa cơm tối. Từ nhà, trong Thành nội, chúng tôi men theo đường kiệt sát chân tường hồ Tịnh Tâm, lên ngã Tàng Thơ cũ, rồi quay về hồ Mưng. Ban đêm ở Huế, đèn đuốc ít ỏi, những khu vắng vẻ trong Thành đường sá hoàn toàn tối om. Chúng tôi đứng lặng lúc lâu trên bờ hồ Mưng đặc sệt rau muống, nhìn cái miếu nhỏ với ánh đèn thờ leo lét chiếu xuống mặt nước đen ngòm. Và tôi nói cho Đ.C. biết: chỉ mươi phút trước, lúc ven theo hồ Tịnh Tâm, tôi đã “chạm” phải vô số người đi đêm. Đã đành, từ khi bước chân ra khỏi nhà, cả hai chúng tôi không gặp một người nào trên đường cả, làm sao lại có chuyện va với chạm phải ai. Nhưng thật tình là tôi đã len lỏi rảo bộ giữa đám đông trong đêm tối mịt mùng. Những kẻ “vô hình”, những sự “có mặt” mà chỉ khi nào linh cảm tràn đầy, bén nhạy, đúng một mức nào đó, như một sợi giây đàn căng đúng độ, ta mới nhận ra, mới thấy được, và “chạm” phải. Hiện tại và quá khứ chập chùng lung linh trong tôi đã cho tôi cái đặc ân ấy chăng? Tôi không biết! Mà làm sao tôi biết được?!…”

Th. ngồi yên một lúc lâu, ống điếu cầm trong tay tắt ngấm. Tôi cũng yên lặng, chờ đợi. Một hồi sau, anh nói tiếp: “Đêm đó, khi mọi người đã đi ngủ, tôi dậy, mặc áo, thắp hương trên bàn thờ, thấm thía biết ơn những người đã khuất, và cúi lạy giã từ các người. Sáng hôm sau, tôi lên đường. Không nói anh cũng biết, lần ra đi thứ hai đó đau đớn biết bao nhiêu. Như xé da, rứt thịt mà đi! Tôi không muốn dông dài. Điều tôi muốn nói với anh là cùng cái đau ấy, tôi ngạc nhiên nhận thấy trong mình có một sự bình tĩnh vô biên, một sức mạnh phi thường. Tôi đã về, tôi đã trở lại; qua chuyến viễn du trong thời gian, tôi đã tìm lại được xác thân và tâm thần của tôi hiển hiện toàn vẹn. Và tôi đã “thấy”. Và tôi tin, một khi ta đã “thấy” thì ta có đủ sức chịu đựng, chấp nhận tất cả, phong ba bão tố gì cũng không thể làm cho ta nao núng. Tôi tưởng tôi là một thanh kiếm đã từng ngang dọc vẫy vùng, ngày nay lại được đem về núi cũ, rửa sạch máu me, luyện lại trong lò rèn của chốn cao sơn…”

Th. nói ngang đây thì đứa con gái lớn ra thưa ba, mẹ nói ba mời bác vào xơi cơm. Cơm xong, cả nhà ngồi xỉa răng uống nước, nói chuyện trên trời dưới đất một lúc lâu đến khi chị Th. và các con xin lỗi lên gác đi nghỉ. Còn lại Th. và tôi bên cạnh chiếc lò sưởi, củi cháy tí tách. Thấy anh trầm ngâm quá lâu, tôi gợi chuyện: “Thế là thanh kiếm được đem về núi luyện lại nhỉ? Anh thật là người tốt số, mấy ai được cái diễm phúc ấy. Hạ sơn chuyến này chắc tráng sĩ còn coi ai trong thiên hạ này là tay đối thủ nữa!” Nhưng Th. vẫn yên lặng, và câu nói bỡn của tôi có một âm vang thật vô duyên. Càng vô duyên hơn khi tôi thấy ánh sáng lửa lò vàng rực chiếu lên, phất phơ trên gương mặt thoáng buồn của anh.

Th. với tay lấy bao thuốc, chậm rãi cho thuốc vào ống điếu, rồi quẹt lửa, châm hút. Anh mới phì phà mấy cái, căn phòng khách đã trắng xoá với khói thuốc thơm ngát. Th. nói: “Ha! Thanh kiếm hạ sơn! Vâng, tôi tưởng rằng tôi đã “thấy”, tôi sẵn sàng đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả. “Thấy” rồi mà! Sợ chi nữa! Lầm ghê gớm, lầm kinh khủng anh ạ. Chung qui cũng chỉ vì mình không bao giờ đoán trước được cái đường đi ngoắt ngoéo quanh co của tiềm thức, cái kiến trúc li ti hiểm trở của tâm thần. Vâng, tôi rời Huế sáng hôm sau, ở lại Sài gòn một thời gian ngắn, rồi đáp phi cơ bay về Hoa kỳ, qua ngã Thái bình dương. Tôi nôn nao về đến ngôi nhà cũ, nơi tiểu gia đình tôi đang chờ đợi, trong thương nhớ và lo âu. Thật lạ! Tôi xa Huế ngót một phần tư thế kỷ, vậy mà khi trở lại, tôi tưởng như đã không hề bước chân ra đi. Đêm ba mươi Tết cúng ngoài trời, cơn khóc như mưa đổ, đêm nằm nhìn những đốm xà cừ lấp lánh trên cặp liễn “nguyệt lạc ô đề”… đã làm tiêu tan thời gian đằng đẵng đó, và đưa tôi vào một cõi kỳ diệu không có trước mà cũng chẳng có sau. Thế mà xa ngôi ngôi nhà ở Mỹ ba tháng, khi trở về lại tưởng như đã chết đi, và nay, ở kiếp này, đang đưa chân vào một thế giới lạ lùng cách biệt. Tôi ôm vợ con, nghẹn ngào. Tôi biết đó là vợ, là con, nhưng tôi tưởng như tôi thấy vợ và các con là những người tôi mới gặp lần đầu tiên trong đời. Anh biết không? Bây giờ, bốn năm đã trôi qua, nhớ lại tôi vẫn lạnh xương sống. Tôi đã đánh mất thời gian giữa ngày rời Huế lần thứ nhất cho đến ngày rời Huế lần thứ hai.

Nhận thức thế giới bên ngoài của tôi không phải của một người bình thường hiện hữu trong một khối không gian cố định, một chiều thời gian đều đặn, ngăn nắp. Tôi quay về với vợ con, công việc, với giấy bút, cỏ cây. Cuộc sống lại tiếp tục. Nhưng tôi biết là có chuyện không ổn.

Thì ra bấy giờ tôi nhận thức thế giới bên ngoài một cách hoàn toàn khác biệt với cách tôi nhận thức chỉ mới ba tháng trước khi hồi hương. Dòng nhận thức trong tôi hiện vẫn còn xuôi đúng mức như ngày tôi rời Huế lần thứ hai. Như thể, ngày tôi về Huế, một thứ nhiên liệu nào đó đã bốc cháy, thắp sáng trong tôi, và đến nay vẫn còn hừng hực. Có vài dấu hiệu bất thường khiến cho tôi linh cảm là sớm hay muộn sẽ có chuyện không ổn. Nhiên liệu đang sáng phần phật đó bỗng nhiên tàn lụi dần, chỉ còn âm ỉ cháy. Tôi vô cùng lo âu, vì biết chẳng bao lâu nữa nó sẽ phụt tắt ngấm, như một cây đèn hoàn toàn cạn dầu. Chưa đầy một tuần lễ sau ngày tôi trở về ngôi nhà cũ ở đất khách, thực tại bỗng bỏ rơi tôi một đêm nọ khi ra đứng ngoài vườn.. Từ nhiều năm, tôi vẫn có thói quen, những đêm trăng sáng, nửa khuya, một giờ sáng, lững thững ra vườn nhìn cây cỏ một lúc. Cái cây mới vài ngày trước còn linh động như vậy, bỗng nhiên nó đi thụt lùi, nó xa tôi dần. Tôi nhìn quanh, thế giới thực tại, tất cả ra xa tôi dần, thụt lùi dần, mờ mịt lại, thu nhỏ lại, âm u, xa lắc, xa lơ. Một cơn kinh hoàng tê tái ôm trùm lấy tôi .

Tôi vụt chạy vào nhà, thắp một nén hương, ngồi yên cho đến khi bình tĩnh lại, cho đến khi từ từ, từ từ, thế giới bên ngoài quay trở lại. Chẳng khác gì cảnh trời đất cây cỏ hiển hiện dần dần, đường nét hình khối trở nên sắc sảo đậm đà hơn, khi mặt trời lên làm cho sương mù tan đi. Bắt đầu từ đêm ấy, tôi sống với nỗi kinh dị đó. Tuy cố gắng để cho cuộc sống hàng ngày được phần nào bình thường yên ổn, tôi phải liên tục đương đầu với sự ra đi quái gở của thực tại.

Anh thừa biết: một người mới đến đất khách, lẽ cố nhiên phải thấy thiếu thốn, lạnh lẽo, bỡ ngỡ, bàng hoàng. Đó là một hiện tượng tự nhiên. Và cũng một cách tự nhiên, thời gian trôi qua, không gian chỉnh đốn lại, tất cả trở thành đều đặn, mạch lạc hơn, và người mới đến, sớm hay chầy, sẽ hoà mình vào khung cảnh mới đó, vào lối sống mới đó. Không, tôi không muốn nói đến cái gọi là “hội nhập” thông thường đó. Học một ngoại ngữ, tìm kế sinh nhai, chấp nhận một lối xã giao mới, v. v… Cần thiết, dĩ nhiên. Tôi muốn nói về tư thức con người, dựa vào một môi trường khác biệt, một không gian khác biệt, dù muốn dù không phải từ từ thay hình đổi dạng vì bản năng tự tồn, không những cho miếng ăn nhà ở, mà cho cả tâm thần, cho cả một phương thức hiện hữu vẹn tròn. Tôi biết rất rõ điều đó vì chính bản thân tôi đã sống qua giai đoạn đó. Sau hăm bốn năm, về lại quê nhà, đêm đầu tiên ấy, những đêm” xà cừ lấp lánh trên cặp liễn, màu vàng mơ của chiếc màn treo cạnh bàn thờ, đã giúp tôi trút bỏ cái tướng mạo mà tôi tưởng là chính tôi trong suốt một phần tư thế kỷ. Và lúc quay lại đất khách, tiềm thức tôi đã chối từ thực tại, và thực tại đã chối từ tôi. Có lúc ngồi ở bàn viết, tôi nhìn lên vách trắng. Bỗng nhiên, bức tường mờ dần, thụt lùi dần, lùi ra xa, chuếch choáng như mặt biển nhìn từ boong tàu. Có lúc đang bước trong nhà, thình lình sàn nhà hạ xuống, rút xuống, làm tôi hỏng chân, ngã chúi về phía trước. Nhìn lại thì sàn nhà vẫn còn đó, và chân tôi đặt vững vàng trên thảm len, nhưng cả người tôi nghiêng xuống như sắp rơi vào vực thẳm. Và tôi biết, nếu tôi rơi vào hố sâu đó, tôi sẽ không bao giờ trèo lên mà thoát ra được. Cái hố sâu sẽ nuốt chửng tôi như con cá đớp một hạt cơm.”

“Tôi vẫn cố gắng sống một cách bình thường, nhưng tôi cũng biết là tôi không thể để cho tình trạng này kéo dài lâu hơn nữa. Một lúc nào đó, con đường ngoằn ngoèo tranh tối tranh sáng mà tôi đang đi sẽ đưa tôi đến một nơi không có lối về. Một năm gần qua kể từ ngày tôi trở lại với tiểu gia đình nơi đất khách mà tâm thần tôi vẫn run rẩy, lệch lạc. Tôi cố hết sức bắt cho được hiện tại để nối liền với quá khứ, cái quá khứ còn rất gần gũi của ba tháng về quê, nhưng vô hiệu quả. Tôi trơ vơ chới với trong chốn âm u giữa một thực tại đã qua và một thực tại chưa đến. Tôi cố vặn cái nút điều chỉnh khoảng cách trong chiếc máy ảnh tưởng tượng tôi dùng quan sát hai cái thực tại, nhưng hai hình ảnh vẫn so le, lờ mờ, không hoà nhập với nhau, không đồng nhất. Người mới đến đất khách lần đầu tiên, còn rất bỡ ngỡ, nhìn thực tại với đôi mắt ngỡ ngàng, nhưng thực tại vẫn là thực tại, và thời gian là một chuỗi liên tục, có trước, có sau, có quá khứ dù là một quá khứ xa vời, có hiện tại dù là một hiện tại khác lạ. Còn tôi, trở về quê nhà, tôi vô tình cắt đứt sợi giây liên tục thời gian đó. Và khi quay lại đất khách, tôi không bỡ ngỡ bàng hoàng như những người mới đến, nhưng chuyến viễn du trong vô thức đã khiến tôi, nói nôm na, đi trượt đường rầy! Thay vì tuần tự chạy theo đường sắt đã có sẵn, toa xe lửa của tôi trệch sang một bên, đi thẳng vào một nơi chưa bao giờ có vết chân người. Tôi âm thầm với nỗi trơ vơ cô quạnh trong gần một năm trời. Rồi khi gần như tuyệt vọng, tôi tìm được lối thoát! Một giấc mơ anh ạ! Nhờ một giấc mơ!”

“Tôi mơ tôi thẩn thơ trên một bãi cát dài, không một bóng người. Đang một mình thích thú, tôi bỗng dừng lại: cản đường tôi là một con vật kỳ dị, cá không ra cá, súc không phải súc. Con vật khá lớn, cỡ bằng con trâu. Nó nằm nghiêng một bên trên cát, vi vảy óng ánh. Tôi vô cùng kinh sợ khi nhận ra phía dưới bụng nó có những gì như thể chân tay, và lông mao màu hung hung, ướt mèm. Con vật há hốc mồm, thoi thóp thở. Đúng là mồm cá, nhưng hai hàm răng lại vuông vắn, ngắn củn. Tôi rón rén lại gần, nhìn kỹ hơn, thì con vật cựa quậy, mắt nhìn sững lên tôi. Và trong con ngươi sâu thẳm của nó, tôi thấy phản chiếu hình ảnh của chính tôi…

Tôi bừng thức giấc, trống ngực đánh liên hồi! Tôi nằm nghe ngóng một lúc: bên cạnh, vợ tôi vẫn ngủ yên; ánh trăng thượng tuần lạnh lẽo chiếu qua cửa sổ. Tôi khẽ ra khỏi giường, mặc thêm áo, xuống nhà dưới. Tôi loay hoay làm vài công việc, cố tình tự trấn an: nhóm lại lò sưởi củi, pha một ấm trà, thắp một nén hương. Trong khung cảnh tịch mịch đó, tôi ngồi yên lặng cho đến khi bên ngoài trời mờ sáng. Mùi trầm hương như vỗ về, như xoa dịu nỗi bồn chồn kinh dị trong tôi. Có tiếng gà gáy xa xa, trên đồi. Tôi bỗng sực tỉnh. Thì ra con quái vật đó, nó có phải xa lạ gì. Nó có phải là ai đâu! Tôi quen biết với nó đã từ lâu!”

“Anh nghĩ xem, thật là một cuộc tiến hoá ngang ngược, tréo cẳng ngỗng! Con quái vật đó, vốn giòng thuỷ tộc, nhưng vì một nhu cầu nào đó không cưỡng được, nó đã lần mò lên bộ. Hàng triệu năm đằng đẵng, nó đã từ từ biến thành một giống có chân, có lông mao, có phổi, có máu nóng. Nó đi, nó chạy trên núi cao, thở khí trời, ăn hoa lá, uống nước mưa. Nhưng trong vô thức sâu thẳm của nó, giọt nước thiêng liêng vẫn lập loè kêu gọi nó trở về với sông hồ, biển cả. Một ngày nọ, nó đã trở về! Nhưng lạ lùng thay, nếu nó cần trải qua hàng triệu năm để trở thành một con vật của núi non thì nay nó chỉ nhảy ào xuống nước để lại đổi dạng lần nữa, trở nguyên hình con thuỷ vật của một tiền kiếp mịt mù. Nó không chết đuối! Trái lại, trong khoảnh khắc, máu nóng lại biến thành máu lạnh, bốn chân lại trở thành vi, thành đuôi, buồng phổi lại trở thành đôi mang, và lông mao nó biến thành vảy cá óng ánh ngũ sắc. Nó tung tăng bơi lội, lên xuống dọc ngang trong lòng nước; nó quên hết những đoạn thời gian và những chiều không gian của những tháng năm, những thế kỷ trên đất liền. Nhưng rồi một sự trục trặc quái gở nào đó của cuộc tiến hoá lại đem con thuỷ vật của tôi vất bỏ lên bộ! Có nhà thông thái, nhà khoa học nào biết tại làm sao? Tôi thì tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng thay vì cần đến hàng triệu năm để cuộc tiến hoá thành công, con thuỷ vật đã lên bộ lần thứ hai một cách vô cùng đột ngột, liều lĩnh. Và tôi đã gặp nó nằm chênh vênh trên bãi cát như một chiếc ghe mắc cạn. Để thở khí trời, nó vẫn còn đôi mang chưa kịp trở thành cặp phổi. Để di chuyển trên cạn, nó chỉ có vi, có vảy, vì tứ chi chưa đủ hình thù. Để giữ ấm, nó chưa có da, có lông, và những vảy ngũ sắc của nó đang khô nứt dần trong gió biển.”

“Không hiểu tại sao, tôi liên tưởng đến vũng nước mưa vẩn bùn ở chân thành cửa Thượng tứ. Vũng nước đã thuỷ chung không biến dạng, đã chờ đợi tôi suốt một phần tư thế kỷ, để hôm ấy, rất tình cờ, tôi dừng chân cúi xuống, và vũng nước nhỏ ngước lên chào đón một kẻ quy cố hương. Trời! Một sự thực đã kiểm chứng sáng rực trong tôi: nếu có thể vượt qua hàng triệu năm như trong giây khắc, thì một giây khắc cũng có thể cấu tạo và thành tựu như hàng triệu năm!”

Sáng tinh mơ đó, trong căn nhà nhỏ quyện mùi trầm hương, tôi biết tôi có thể là con thuỷ vật đi trên bộ, lấy vi làm chân, lấy vảy làm lông, lấy mang mà thở khí trời, lấy máu lạnh mà ướp mùi nước biển. Thủy bộ như âm dương, cách biệt đôi đường. Nhưng anh nhớ không, cái đêm cùng Đ.C. đi theo ven hồ Tịnh Tâm, tôi vô tình bước sang được cõi âm, thì ngày nay há tôi lại ngại ngùng chuyện nước, chuyện cát sao?!…”

*

Th. ở miền Bắc Hoa kỳ, tôi ở miền Nam, xa nhau lắm, thăm được nhau thật là hiếm hoi. Từ ngày nghe chuyện anh kể, lắm lúc tôi băn khoăn, không biết thật tình hiện nay có chắc anh đã trở thành con vật kỳ quái đó không. Một hôm, tôi được thư anh:

“Này anh Võ! Hôm thăm nhau, thật chán, quên nói với anh cái này. Anh có nhớ tôi đã kể anh nghe về chiếc vòng đã ám ảnh, phá phách tôi trong những năm chưa được về nước đó không? Rồi khi tôi được về nước, chiếc vòng ấy bỗng nhiên tan biến mất, và tôi biết nó chỉ là một ảo ảnh, một con ma. Tôi yên tâm là nếu có ra nước người lại, tôi sẽ không bị nó theo đuổi nữa, vì tôi đã cao tay ấn trừ khử được nó rồi mà! Nhưng tôi có nói là tôi đã lầm to, lầm ghê gớm, tôi ngây thơ quá, anh nhớ không? Chẳng là sau cái sáng tinh sương ấy, tôi đã tìm lại được “đất liền”. Thực tại lại quay về với tôi. Không ngay cùng một lúc, nhưng từ từ, khi ít khi nhiều, khi nhanh khi chậm. Có cảm tưởng như đứng trên bờ biển, nhìn ra chân trời xa hút một buổi hoàng hôn, và thực tại quay về như nước thủy triều. Chiều càng nhá nhem thì mức nước càng dâng cao, ban đầu còn nhẩn nha chậm rãi, nhưng mỗi lúc mỗi đầy đặn rạt rào, huyên náo quanh mình.”

“Tôi mừng thoát nạn! Nhưng nếu tôi tìm lại được thực tại, thì tôi cũng vớ phải cái con ma vòng! Thì ra nó vẫn lẩn quất đâu đó, chờ dịp tốt, rồi nương theo thực tại mà đến với tôi như con rắn biển độc địa nương theo tôm cá mà trà trộn vào thuyền người dân chài. Đuổi mấy cũng không đi. Đành lì với nó, mặc kệ nó, làm bộ không chấp…”

“À, còn chuyện này nữa. Hôm nọ tình cờ thấy lại bài Hồi Hương Ngẫu Thưcủa Hạ Tri Chương, thích quá. Sợ anh không nhớ, tôi chép anh xem:

Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi
Hương âm vô cải, mấn mao thôi
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn: “Khách tòng hà xứ lai?”

Tôi vốn dốt Hán văn nhưng cứ dịch chơi. Có gì không ổn, anh chỉ tôi nhé.

Tình cờ viết chơi khi về làng cũ

Tuổi nhỏ xa nhà, già trở lại
Giọng quê còn đó, tóc mai phai
Trẻ em gặp mặt, nhưng không biết
Cười hỏi: “Ông từ mô tới đây?”

“Ông Hạ là một thi bá thời Sơ Đường, sống trước chúng ta hơn mười hai thế kỷ. Chỉ loay hoay xuôi ngược trong mấy tỉnh nước Tàu, quá lắm là bị biếm ra nơi nào xa xa thành đô một chút. Thế mà khi về quê, đã có chuyện “ông từ mô tới đây”. Trước kia, tôi vẫn nghĩ cái tình tự của Hạ Tri Chương là thế, và chỉ có thế. Nhưng bây giờ tôi mới thấm thía, mới cảm nhận sâu sắc cái điều ông Hạ đã để lại cho đám hậu sinh. Bài thơ thật tài tình: câu hợp, câu cuối đó, là một câu hỏi, nhưng cũng không thật là một câu hỏi, vì nó đâu cần có một câu trả lời. Hạ Tri Chương đã đi, đã về, đã thấy, và gặp đứa bé cười hỏi ông một câu chơi, ông không nói gì vì đang còn ngơ ngác thấy giọng nói quê hương vẫn còn đó, không thay đổi, mà tóc mình thì đã pha sương. Ông Hạ là người sâu sắc, kín đáo. Còn một kẻ hồ đồ như tôi, thì nếu có thằng bé nào dám “tiếu vấn” như vậy, tôi sẽ trả lời ngay: “Hừ! Ông từ mô tới đây?! Em hỏi cái chi lạ rứa? Tui là em đây mà. Từ mô với từ tê chi em!”…/.

1978

Trích tập truyện Xứ Sấm Sét, Văn Nghệ xuất bản tại California năm 1987. 














Tùy Bút




CHÀM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
tản mạn

Tiếc thay tay đã nhúng chàm
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây?

Mấy câu Kiều ám ảnh tôi không nguôi.

Tôi đã dại dột tin tưởng vào hệ thống họa viện galleries tư nhân và công cộng.  Sinh sống trong những xã hội chế ngự bởi khoa học, kỹ thuật, và thương mãi, hồi đó, tôi đã dại dột đọc ARTNEWS như là Phúc Âm, từ bìa trước đến bìa sau.

Tôi lại tin vào sự thành công của Norman Rockwell, LeRoy Neiman và Edna Hibel.  Cả ba đều chiều chuộng vuốt ve thị hiếu dân Mỹ. 

Rockwell chuyên về lễ lạc, Thanksgiving, Christmas và New Year, với gà tây quay vàng ngậy khói lên nghi ngút, bát đĩa muỗng nĩa sáng loáng, bày biện cửa nhà tươm tất đúng truyền thống.  Trong nửa đầu thế kỷ XX, Rockwell là họa sĩ hái ra tiền nhiều nhất, mỗi năm thu nhập không bao giờ dưới bốn mươi ngàn Mỹ kim, ngay cả dưới thới khủng khoảng tiền tệ Depression.  Neiman chuyên trị những sailboats và tennis.  Còn bà Hibel thì khi nào cũng Mẹ và Con.

 tranh Edna Hibel

Họ “thành công,” hái ra tiền, nhờ bắt trúng mạch thị hiếu.  Tôi chỉ đích danh.  Tôi không ngại “vạch áo cho người xem lưng.”  Nhưng, quên đi rằng có những nhà thơ, nhà văn tài hoa không kiếm ra tiền.  Như Bác sĩ Anton Tchékow của Nga, như Bác sĩ Somerset Maugham và William Somerset Maugham của Anh, như Lỗ Tấn của Trung Quốc, như Trại Trân Châu Pearl Buck người được giải Nobel văn chương năm 1938, thầy dạy của Lâm Ngữ Đường…

Vì hoàn cảnh chung cũng như riêng, tuyệt đại đa số văn nghệ sĩ làm nghề khác để sinh sống, để có cơm ăn áo mặc nhà ở, thay vì dựa vào lợi tức của nghề mình đam mê.  Phải thoát khỏi những ràng buộc tài chánh, người ta mới phụng sự văn học nghệ thuật tuyệt hảo.

Trong số này, văn nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại có mấy khuôn mặt nổi bật như Nguyễn thị Thảo An chuyên về vi tính computers, Lê thị Huệ hướng dẫn sinh viên Đại học Evergreen San José, Nguyễn Hưng Quốc dạy Việt ngữ Đại học Úc, Võ Phiến suốt đời làm công chức và nay đã về hưu.  Kể tên ra, có người sẽ cho rằng mặc áo thụng vái nhau.  Ừ, thì xem như mặc áo thụng vái nhau.  Có sao đâu!  Có phục mới vái chứ!

Mới đây không lâu, Trung Quốc và Việt nam cho xe tăng nghiến nát hàng ngàn hàng vạn đĩa nhạc mới mà họ cho là đồi trụy, làm khổ tâm các trung tâm sản xuất như Microsoft chẳng hạn.  Trung Quốc và Việt Nam không hề biết đến tác quyền, không hề coi trọng tác quyền, và không ký vào văn bản copyright convention.

Đó chỉ là chuyện về âm nhạc, tôi không biết.  Không biết thì không bàn! 
Tôi chỉ bàn về văn thơ, và hội họa. Và ảnh hưởng của khoa học, kỹ thuật, thương mãi với văn học nghệ thuật.

Xưa, Giả Đảo, Thôi Hiệu, Vương Duy, Vương Xương Linh, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du …  thong dong phóng dật không nghĩ đến chuyện lợi lộc và chẳng hề biết đến tác quyền copyright conventionlà cái chi chi.  Họ sáng tác, đề vịnh thơ phú tranh treo nơi công cộng, khơi khơi vách tường, công bố cho thiên hạ đọc và sao chép, truyền tụng.  Và nhờ đó, văn học nghệ thuật  phát triển mạnh.

Xưa, cũng nhiều người nổi danh về chính trị lại còn làm văn học nghệ thuật.  Cố Thủ tướng Anh Winston Churchill được giải Nobel văn chương năm 1953 về những sách sử và hồi ký nêu cao nhân phẩm con người, và còn vẽ tĩnh vật cùng phong cảnh với chó đua  ngựa đua, trong thời khủng khoảng kinh tế Depression mà ông gọi là “Black Dog.”  Cố Tổng thống Dwight Eisenhower thì chuyên vẽ những sailboats rập rềnh trên sóng nước.  Tranh quý vị chính trị gia lỗi lạc này tuy kỹ thuật vững vàng nhưng lại rất ước lệ, tầm thường, chẳng có gì độc đáo.

Nhưng, thử tìm có ai gọi là tương đương với Picasso, Modigliani, Matisse trong văn thơ?  May ra kể được Anton Tchékow và William Somerset Maugham!

Về thơ, Saint-John Perse từng làm Đại sứ Pháp tại Bắc Kinh và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Bộ Ngoại giao Pháp, lại chuyển hóa từ một nhà ngoại giao sang nhà thơ với tên khác và được giải Nobel văn học năm 1960.  Nhưng chính trị không đi đôi với thi ca, ông bị cách chức, tước quyền công dân, phải di tản sang sống bên Mỹ,  và có thời làm cố vấn tại Thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ.

Nay, có hai quan điểm khi làm văn học nghệ thuật: thú vị, và hối tiếc.  Theo tôi, cái thú vị không tương xứng với nỗi hối tiếc.  Cái tiếc lớn hơn cái thú vị.  Có người thú vị khi làm văn học nghệ thuật, như Henry Miller từng nói: “Người nghệ sĩ sáng tạo là đã thú vị rồi.  Đòi hỏi tiền bạc lợi lộc làm gì nữa!” 

Nhưng, chỉ thực sự thú vị là khi hoàn toàn tự do phục vụ nghệ thuật mà không hề lệ thuộc lợi lộc. Nếu không, lại rơi vào nỗi hối tiếc vì đã nhúng tay vào làm văn học nghệ thuật mà không trọn vẹn.

Người nghệ sĩ sống không ràng buộc mới có cơ may phụng sự hết mình, và văn học nghệ thuật mới phát triển mạnh.

Võ Đình
Hoa Bang. Tháng 3 2008







Chữ


Ngày xuân, chúng ta thường nói chuyện hoa mai, hoa -dào. Hoa -dào lại thường gợi nhớ đến một người: Ông đồ của thi sĩ Vũ Đình Liên. "Bao nhiêu người thuê viết" tấm tắc ngợi khen chữ ông đồ đẹp như "phượng múa rồng bay".
Xin nói ngay: Chữ đây không phải là thứ chữ ông đồ viết. Chỉ có những a, b, c,... dấu sắc, dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã mà thôi. Thứ chữ các cụ ngày xưa chê là ngoằn ngoèo như con trùn (thưa bạn đọc Bắc Nam: con giun, con trùng đấy ạ). Cũng xin nói rõ: Chữ đây là chữ viết, không phải "chữ nghĩa". Không có chuyện văn chương ở đây.
Chưa đầy sáu mươi năm về trước cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân ra đời. Thuở đó nhà văn Việt Nam chỉ sử dụng toàn thứ chữ "con trùn" này. Viết thì viết thứ chữ "con trùn" đó nhưng trong "Chữ Người Tử Tù" ông Nguyễn lại có cái giọng bi tráng tiếc thương nét chữ đẹp đã mai một. Nguyễn Tuân không nói ra nhưng người đọc thừa biết cái chữ đẹp đó không phải là chữ quốc ngữ như ta biết ngày nay mà là chữ Hán, chữ Nôm với những nét sổ, nét mác, nét câu, nét nại, v.v. Chẳng những người tử tù Huấn Cao cho chữ, ông còn có lời dặn dò viên quan coi ngục: "Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn, rõ ràng như thế. Thoi mực, kiếm được ở đâu tốt và thơm lắm. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?"
Đọc mê lắm. Tuy nhiên, cái mê thời nhỏ tuổi khác với cái mê lúc về già. Đọc lại Nguyễn Tuân, tôi hụt hẫng: Làm sao ở bực thầy về một cách viết văn, sự hiểu biết về cái đẹp của chữ Hán lại có thể lơ mơ như thế! Nét chữ "vuông vắn, rõ ràng" thì đẹp nỗi gì mà viên ngục quan phải cung phụng "người tử tù" đến mức ấy? "Vuông vắn, rõ ràng" đâu có làm nên thư pháp đẹp. Rồi lại thoi mực và chậu mực. Phải mấy thoi mới mài cho đầy một "chậu"?
Nhưng thôi, Nguyễn Tuân là Nguyễn Tuân, nhăn nhó với ông về ba cái lẻ tẻ này mà làm chi! Thời các ông Nguyễn Tuân, Huấn Cao đã qua rồi. Thời chúng ta, bây giờ đây này, thời những "con trùn" đã thực thụ trở thành con chữ, duy nhất, độc tôn, thứ chữ chúng ta dùng để làm thơ cũng như để thảo văn kiện, để viết thư tình cũng như để gắn "mét xa" lên tủ lạnh, thời nay chúng ta có ông Võ Phiến. Người tạo nên những nhân vật Bốn Thôi, Bốn Tản, Ba Thê Đồng Thời sanh ra thì chữ quốc ngữ đã bám rễ thật sâu, thật chắc rồi. Cho nên ông gần gũi với chữ "con trùn" hết sức. Ông viết về người nọ ngồi một mình xem sách: "Ở góc bên trái phía dưới trang sách, một chữ O nhoẻn cười, vui ra phết. [...] Cái chữ O này láu lỉnh lắm nhá". Thấy được một chữ O cười, đã là tinh. Thấy được "Giữa trang, một chữ N ngúc nga, ngúc ngắc[...]", đấy mới tài tình, chẳng phải ai cũng thấy được.
Trước ông Võ Phiến, trước cả ông Nguyễn Tuân, ở cái xứ từng đem quân qua xâm lược nước ta, cái xứ cũng dùng thứ chữ "con trùn" nói trên, có ông Arthur Rimbaud ["Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/ Hai chàng thi sĩ choáng hơi men"... –Xuân Diệu] lại thấy cả màu sắc nơi các con chữ nữa kia: "A noir, E blanc, I rouge"... (A đen, E trắng, I đỏ...).
Các nhà văn, nhà thơ, họ mẫn cảm lắm. Ông Nguyễn Tuân tiếc thương thứ chữ sổ dọc đá ngang của tiền nhân. Ông Võ Phiến thấy những con chữ đứa thì "cười" đứa thì "ngúc nga ngúc ngắc". Ông Rimbaud bên trời Tây xa xôi lại thấy những nguyên âm (bài thơ có tên là Voyelles)...có màu có sắc! Cả ba ông, ông Tây của thế kỷ 19, hai ông Việt của thế kỷ 20, cả ba ông đều cầm bút sắt viết chữ "con trùn" cả, thứ chữ các cụ ta ngày xưa vừa ghét vừa khinh (và, có lẽ, vừa sợ).
Tôi không chia sẻ cái nhìn đầy thành kiến của các cụ.
Tôi lớn lên, chữ Hán, chữ Nôm đã mất hết địa vị ở nước ta từ lâu. Thuở nhỏ, tôi cũng có được học mót dăm ba chữ của "thánh hiền". Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám, thuộc như cháo đôi ba đoạn. Rồi đến tuổi mươi, mười lăm, tuổi ngấp nghé dòm ngó các nàng "văn học nghệ thuật", thú thật cũng đã có lúc trang trọng... ngoái ngược kiểu "vang bóng", ra cái điều cốt cách: nghí ngoáy viết chữ quốc ngữ theo lối viết chữ Hán, có đá, có móc, đủ ngón. Không viết ngang, từ trái sang phải mà viết dọc từ trên xuống dưới. Cổ kính lắm! Những năm chưa được một ông bạn người Hoa khắc cho cái triện son, cũng có khi ký tên xong còn lẩn thẩn vẽ thêm cái hình vuông vuông rồi ngọ ngoạy chêm vào dăm ba đường nét kỳ khu: Khi thì cái tên, khi thì cái năm. Ông Huấn Cao mà thấy được cái lối đóng triện son này e rằng ông cũng phải khóc thét lên!
Sao lại có chuyện rắc rối như vậy?
Chung qui chỉ vì cái nọc độc hại của một mớ thành kiến: Cái ghét, cái khinh của các cụ đối với chữ "con trùn" đã ăn sâu vào mình hồi nào không hay. Chữ "con trùn" là chữ của quân xâm lược, của ngoại nhân, của những giống "bạch quỉ". Chữ "con trùn" không được viết bằng bút lông mực Tàu cho nên những tiêu chuẩn truyền thống vốn để đánh giá cái nét đẹp, cái nét xấu, chỉ còn là một lũ ngơ ngáo không dùng vào đâu được. Chữ "con trùn" mà dùng để ghi chép lời hay ý đẹp của "thánh hiền", của "tao nhân mặc khách" à? Không được, không được! Vang Bóng Một Thời ra đời năm 1943: Tôi lên 10. Đâu ngờ hàng trăm năm sau ngày chữ "con trùn" xâm nhập vào đất nước của ông cha ta mà cái nọc độc của thành kiến vẫn còn sức công phá như thế.
*
Ông đồ già của thi sĩ Vũ Đình Liên, người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân, họ phải chịu phần nào trách nhiệm về cái sức công phá ấy. Trong mấy chục năm, thanh thiếu niên Việt nam gồng mình cõng trên lưng khi thì ông đồ này khi thì người tù kia. Ông Vũ và ông Nguyễn không thể nào ngờ được rằng một ngày, đâu có xa xôi gì, thứ chữ "con trùn" ấy, khi đã hoàn toàn trở nên "quốc ngữ", tuyệt đối được chấp nhận và phổ biến, lại có nguy cơ bị hủy diệt. Xin thêm hai cái dấu kép: "hủy diệt". Bởi chăng cái tiếng (Việt) thì vẫn còn, cái lời (văn) thì vẫn sống nhưng cái chữ (viết) lại đang trên đà tiêu tùng.
Cuối thế kỷ 20, sáu thập niên sau "Chữ Người Tử Tù", kẻ phá hoại không phải là thái độ bảo thủ của các cụ ngày trước mà là khoa học kỹ thuật Tây phương. Cũng chính một phương Tây ấy, khi thì đem qua cho ta chữ "con trùn", khi thì, với áp lực hay cưỡng bách kinh tế, "vô tình" loại bỏ cái chữ viết của ta nay đã đến giai đoạn thay thế được những nét bút lông mê hoặc thuở nào.
A! đồ "bạch quỉ"! Đầu têu là cái máy đánh chữ (machine à écrire; typewriter).
Thuở nhỏ, tôi coi cái máy đánh chữ là một phát minh tuyệt vời. Được người lớn cho phép gõ lóc cóc vài chữ, sướng vô kể. Trong mấy thập niên nó được sử dụng để những gì viết (tay) ra nom gọn gàng, tươm tất, dễ đọc hơn, chính xác và "chính thức" hơn. Cho đến mươi năm trước đây cái máy đánh chữ còn được dùng đều đặn. Đồng thời người ta cũng vẫn còn cầm bút mà viết. Nếu cần, viết xong "cho đánh máy" lại. Viết thư, viết bài (học), viết báo, viết văn... Ngoại trừ một số trường hợp ở Âu Mỹ (viết thẳng với máy đánh chữ) cái máy vẫn chưa thay thế cây bút. Chẳng những thế, trong giới thượng lưu có học Âu Mỹ, người ta còn coi một lá thư viết tay như một dấu hiệu lịch sự của cung cách người viết. Ngày nay vẫn còn có những nữ chủ nhân cặm cụi viết tay những tấm thiệp mời đến dự một họp mặt tao nhã... Nhưng rồi cái còm-piu-tơ cá nhân được sản xuất hàng loạt, tung ra thị trường, ngày càng tân tiến, càng hoàn bị. Lúc đó, trong giới tiêu thụ nói chung, trong giới viết lách nói riêng, cây bút mới biết thân, biết phận, vội vàng rút lui.
Người ta không cầm cây bút mà viết nữa. Người ta gõ lóc cóc lên mặt chữ. Những con chữ chui ra từ máy điện não, gọn ghẽ, sắc sảo, và... trần trụi. Chữ không còn là "trùn" nữa.
Gõ lên mặt chữ cho cái máy nó in ra, nhanh hơn, khỏe hơn, hợp thời hơn. Dĩ nhiên. Dĩ nhiên, xe hơi nhanh hơn xe đạp. Xe đạp nhanh hơn đi bộ. Cái hay, cái tiện rành rành. Kỹ thuật tuyệt vời. Cho nên viết không được hiểu như trước. Viết được định nghĩa lại. Viết không nhất thiết phải là cầm cây bút mà viết những chữ "con trùn" ngoằn ngoèo lên giấy. Hoặc người ta không cầm cây bút mà viết nữa, hoặc bất đắc dĩ lắm phải cầm thì... Lẽ tự nhiên, cái gì mà không làm thường xuyên, để ngày càng nhuần nhuyễn, càng thuần thục, đến khi cần phải làm, tránh sao khỏi lọng cọng, vấp váp. Trong một bài viết cũ, tôi có kể lại kinh nghiệm bản thân: Thật lâu về trước, trong mấy năm trời, tôi không có dịp nói tiếng Việt. Một hôm, đột nhiên, có cơ hội nói mới kinh hoàng thấy rằng mình nói tiếng Việt... ngọng! Phải chăng những ngón tay ngày ngày gõ lóc cóc lên mặt chữ của một cái máy, đến lúc cần phải cầm cây bút, chúng nó tránh sao khỏi có lúc ngượng ngập, cứng cỏi. Hậu quả: Chữ viết bằng bút "xuống cấp" thê thảm.


Võ Đình

Sáu thập niên về trước, nhà văn Nguyễn Tuân tiếc thương cái chữ đẹp mặc dù đó là thứ chữ của những kẻ đã bao lần đày đọa ông cha ta. Ngày nay, chẳng biết sẽ có một ông Nguyễn Tuân nào khác "dư nước mắt" khóc cho cái chữ "con trùn" trên đà mất dạng. Bởi vì những "con trùn" hạ tiện ấy cũng có cái đẹp của chúng.
*
Chữ "con trùn" mà đẹp à?!
Đẹp chứ. Xin lạy các cụ ngày xưa mấy lạy. Chúng con chỉ biết có thứ chữ "con trùn" này mà thôi. Tuy phần đông chúng con không đủ khả năng thưởng thức thứ chữ của "thánh hiền" đến từ phương Bắc, chúng con vẫn trân trọng lòng kính yêu quí Cụ đã dành cho nó. Sự trân trọng đó, xin quí Cụ thông cảm cho, vẫn cho phép một số chúng con để mắt đến... cái đẹp của thứ chữ ngày trước quí Cụ đã vừa ghét vừa khinh. Bởi vì chữ "con trùn" không đẹp bằng chữ Hán viết với bút lông mực Tàu nhưng nó cũng đẹp. Cái đẹp riêng của chính nó.
Ngày trước, khi ở Âu Mỹ người ta còn dùng ngòi bút lông ngỗng (tiếng Pháp, plume là lông vũ mà cũng có nghĩa là ngòi bút) viết chữ "con trùn" thật đẹp được đưa lên hàng một nghệ thuật: Calligraphy, một từ ngày nay còn được dùng để gọi cả thư pháp Trung Hoa, Chinese Calligraphy. Bạn đọc ở Mỹ cứ vào thư viện mà xem hình chụp bản Tuyên ngôn Độc lập. Hơn hai trăm năm về trước, người ta viết chữ "con trùn" bay bướm thế đấy, phóng túng thế đấy.
Hiềm nỗi, các "cha già dân tộc" Hiệp chủng quốc còn dựa dẫm quá nhiều vào cái đẹp ước lệ, dễ dãi: những đường cong lả lướt, vi vút, những râu ria xoắn tít xoắn mù, những "đuôi", những "vòi" chờn vờn, loanh quanh, điểm điểm tô tô, thừa thãi và vô bổ. Công bằng mà xét, cái đẹp của chữ viết như thế chưa bước đến gót chân của nét bút Vương Hi Chi, Tống Huy Tông, Tô Đông Pha và những đại thư pháp gia khác của Trung Hoa xưa. Tuy nhiên, cũng vì lẽ công bằng mà không thể đem so những "con trùn" với chữ viết của "thánh hiền". Cần phải có một cách nhìn khác.
Cách nhìn đó phải gạt bỏ ra ngoài vòng chơi những thứ trang sức hoa hòe hay điểm tô thừa thãi. Vì chữ "con trùn" được viết với bút sắt nên không thể bàn chuyện đẹp xấu của "thịt", "xương", "gân" như khi thưởng ngoạn thư pháp Trung Hoa. Vì chữ "con trùn" được viết ngay hàng thẳng lối, theo một thứ tự đều đặn và liên tục của những mẫu tự nối chân nhau nên cũng không thể có chuyện con chữ "vuông vắn, rõ ràng" như "chữ người tử tù" của ông Nguyễn Tuân. Ấy thế mà nếu được một bàn tay viết đẹp thì chữ "con trùn" cũng có thể đẹp lạ lùng.
Nhìn từ một góc độ khác, ở một thời điểm khác, trong một hoàn cảnh khác, đối tượng của cái nhìn đem lại cho ta một cái thấy mới mẻ đầy thú vị, những khám phá không ngờ. Bạn đọc hãy làm một thí nghiệm đơn giản sau đây.
Trên một mảnh giấy nhỏ bằng bàn tay, bạn lấy bút mực đậm (hay magic marker đen) viết tên bạn. Dưới tên, ghi năm sinh, nơi sinh... Chỉ cần để ý một điều: Hãy viết thật nhanh, tự nhiên, đừng nắn nót, gò bó. Đoạn bạn lật ngược giấy lại, soi lên ánh đèn. Những chữ (ngược), những con số (ngược) đó ngộ nghĩnh hẳn ra. Thoạt đầu, bạn có thể bỡ ngỡ không đọc được tên mình vốn là những chữ quen thuộc nhất. Nhìn kỹ hơn, những nét bút lạ sẽ đem lại cho bạn một niềm thích thú mới. Bây giờ bạn hãy xoay mảnh giấy dựng đứng lên. Tên bạn, v.v... bây giờ nằm dọc chứ không nằm ngang nữa. Cái thứ chữ "con trùn" này, đâu ngờ nó cũng có móc, có câu, có sổ, có đá đấy chứ không đâu! Bây giờ bạn thấy rằng, hiển nhiên, cái đẹp cũng có thể tìm ra được ở cái chữ "con trùn". Bây giờ, bạn hãy xoay mảnh giấy lại mặt phải của nó, và nhìn những chữ bạn đã viết với một đôi mắt mới tinh.
*
Nhất Linh là một nhà văn mà tôi hết lòng kính yêu từ thuở chưa được phép... mặc quần tây dài! Yêu cả khuôn mặt dạn dày và bộ ria dáng dấp phóng đãng của ông. Ấy vậy mà khi có dịp được thấy thủ bút của ông (được in lại), tôi tiu nghỉu. Chữ nhỏ li ti, đều đặn, liền lạc với nhau như những hạt mè đen nằm nối đuôi. Làm sao một người như Nhất Linh, nghệ sĩ, chính khách, một người có cuộc sống xuôi ngược, hào hùng như thế mà lại có chữ viết dè xẻn, cần cù như vậy? Tôi cũng từng được thấy chữ ký của Khái Hưng. Vì ông ký một cách như viết nên thấy được "nét" chữ của ông: Dõng dạc, phóng khoáng, đẹp.
Vốn thường lưu tâm đến chữ viết tay, tôi có cái thú... "bới lông tìm vết"! Phân tích chữ viết như một phương pháp khoa học tâm lý, tôi không màng. Tôi chỉ tò mò lấy làm lạ là có người viết (văn) hay mà viết (chữ) tồi. Có người bụng dạ thật tốt mà chữ viết... thật xấu. Có người tính khí mạnh mẽ mà chữ viết tầm tầm. Có người dè dặt, hiền lành mà chữ viết ngang nhiên, gân guốc. Vì thế tôi không dại gì đặt nhiều lòng tin vào nghệ thuật xem chữ đoán người. Sái một ly đi một dặm, là cái chắc.
Nhân nói chuyện về CHỮ không thể không nghĩ đến một vài người quen biết gần xa, những người tôi vẫn coi là viết chữ tốt. Dĩ nhiên, cái nhìn của tôi đâu có thể không chủ quan!
Ở Việt nam, Trịnh Công Sơn viết chữ thật tốt mặc dù có khi đều đặn quá, hay có khi lại bay bướm quá. Chữ Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể không "tốt" bằng chữ Trịnh Công Sơn, nhưng cứng cỏi hơn, rạch ròi hơn. Trương Thìn có chữ viết phóng khoáng, mạnh mẽ, nhiều tính nghệ sĩ. Hơn nửa thế kỷ, chữ viết cụ Vân Trì không thay đổi: Nét nào ra nét ấy, không thiếu, không thừa một ly. Chữ như vậy là tốt, nhưng đẹp?
Ở Pháp, thầy Nhất Hạnh cũng có lối chữ tương tự. Viết như thở: "Hít vào thì biết rằng hít vào"; "Thở ra thì biết rằng thở ra". Cho nên chữ viết dung dị, nghiêm túc, đều đặn. Và vắng bóng những nét bung phá ngoạn mục. Chữ Đặng Tiến có cá tính mạnh: Trúc trắc, gập ghềnh một cách nghênh ngang. Thi Vũ: Chữ viết chăm chút, nhưng rộng rãi, vững vàng.
Miền Đông Gia-Nã-Đại có một số chữ thật tốt: Nguyễn Quý Bổng ở Ottawa, Trân Sa ở Toronto, Hoàng Xuân Sơn và Hồ Đình Nghiêm ở Montréal.
Miền Tây Gia-Nã-Đại, ngươi Hạnh Cơ viết chữ quốc ngữ thật tốt mà viết chữ Hán với bút lông cũng nhuyễn lắm.
California, ha!
Ở Nam Cali, Bùi Vĩnh Phúc viết văn khúc chiết, sáng sủa, nhưng chữ viết của họ Bùi, thật tốt, lại có lúc bay bướm quá. Hoàng Quốc Bảo cũng vậy: Chữ thật tốt nhưng đôi khi quá hoa hòe. (Nguyễn) Khánh Trường không tránh né cái bay bướm, cái hoa hòe ấy được bao nhiêu cho nên lắm lúc bị chúng tóm được! Phóng bút là một cái "sướng" mà cũng là một cái "tật". "Tật" ấy, tìm thấy tận bên trời Úc châu xa xôi: Nguyễn Hưng Quốc, văn đã hay mà chữ lại tốt. Chỉ tiếc đôi khi chữ người trượt chân xuống chỗ hoa hòe – như ba ông, Bùi, Hoàng, và Nguyễn ở Nam Cali. Cũng ở tận bên trời Úc châu xa xôi có Hoàng Ngọc-Tuấn viết chữ thật tốt. Tốt và đẹp. Gần miền Đông Hoa kỳ hơn, bên Đức quốc, có Đỗ Quang Nghĩa – chồng của Lê Minh Hà – chữ viết cũng vào hạng cừ khôi.
Cũng ở Nam Cali, nhưng không như ông Bùi (Vĩnh Phúc) viết chữ bay bướm, có bà Bùi (Bích Hà) viết chữ thẳng thớm, đều đặn, rất tốt, tuy không có cái nét bóng bẩy lắm khi tìm thấy trong văn. Chữ viết của nhà thơ Viên Linh, thuộc vào bực thượng thừa. Cẩn trọng, đài các như người, là chữ viết của nhà thơ Thanh Nhung (Công huyền Tôn nữ Nha Trang).
Bắc Cali có Nguyễn Bá Trạc: Bây giờ không biết thế nào chứ nhiều năm về trước, gặp nhau, thấy người thì năng nổ, "bất cần đời" mà chữ viết lại ung dung, cẩn túc. Lạ. Đó cũng là trường hợp Nguyễn thị Hoàng Bắc ở Virginia: Chữ viết tốt, nghiêm trang, thon thả, không sắc nhọn, nghịch ngợm như người. Virginia lại có nhà thơ Vi Khuê, chữ viết trang trọng, nghiêm chỉnh. Có điều, chữ bà tốt nhưng vì chăm chút quá, nắn nót quá, thành ra gò bó. Cũng ở Virginia, có ngươi Đinh Cường viết chữ tốt. Tốt nhưng, không như danh tính, hơi nhu.
Trở về California, thủ đô tị nạn: Nhiều người, lắm tài. Có một anh, hay bệnh, gầy nhom, nhưng chữ viết lại ngang tàng, gân guốc. Nhịp chữ phóng khoáng, tự do mà trang trọng, chu đáo. Nét chữ sắc sảo mà vẫn có dáng uyển chuyển, hào hoa. Đó là người viết Hà Thúc Sinh.
*
Có một số chữ tốt khác, trong nước cũng như ở hải ngoại. Nhưng "tốt" chưa đủ; chữ tốt lại cần phải có "nét" nữa kia.
"Nét" là gì? "Nét" quyến rũ cái nhìn của ta. Một khuôn mặt đầy đặn và đều đặn, mắt, mũi, miệng, cân đối có thể được coi là một khuôn mặt tốt. Nhưng phải có một hay đôi ba "nét" nào đó thêm vào mới làm nên một khuôn mặt đẹp. "Nét" đó không nhất thiết phải là một cái gì hoàn chỉnh, hoàn hão. Chiếc răng cời, cái má lúm, con mắt mại có thể làm cho một khuôn mặt tốt trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng thôi, chuyện đẹp xấu, nói không cùng. Người Mỹ có câu nói, đại khái chuyện xấu đẹp tùy nơi con mắt người nhìn. Thế này đã là chủ quan lắm lắm.
Tôi ước mong bạn đọc, bạn viết xa gần, gõ còm-piu-tơ thì cứ nhưng mỗi ngày hãy cầm lấy cây bút, tí toáy với nó một lúc đến khi nào ấm tay thì thôi, đừng để nó nằm vất vưởng một mình, tội nghiệp. Nhất là những vị may mắn được "trời cho" cái chữ tốt. Đừng để tác giả "Chữ Người Tử Tù", nơi minh mông, ông ấy tủi thân. Hỡi những ông (bà) đồ của thời nay!
2000











Hội Kín



tản mạn

Tôi bắt đầu viết bài này với nhiều đắn đo.  Không, đắn đo có nghĩa tính tóan hơn thiệt.  Ngần ngại.  Đúng.  Tôi khởi viết bài này với nhiều ngần ngại.  Vì có nhiều độc giả sẽ không ưa.  Có kẻ lại còn rủa: Đồ phản trắc !  Vạch áo cho người xem lưng !    Ngần ngại là phải.  Bởi tôi cũng thích được hoan hô, hưởng ứng !

Có nhiều nét văn hóa Mỹ tôi không thích.  Nhưng tôi rất yêu cái thói quen nói thẳng, nói thật của người Mỹ.  Người ta gọi đó là whistleblower – thổi còi tu-húyt.

Điều tôi muốn nói là làm văn nghệ chẳng khác gì tham dự vào một hội kín.  Một secret society.  Một hiện tượng tương tự như Mason Society.

Thử lấy vài câu thơ nhiều người biết :

          Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu
          Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
          Hư vô bóng khói trên đầu hạnh
          Cành biếc run run chân ý nhi  (1)

Hay !  Hay thế nào ?  Những câu thơ lắt léo, cầu kỳ !  Chữ nghĩa điệu nghệ !  Người cho là đẹp, kẻ cho là dở.  Kẻ đứng ngòai, chịu ! 

Hay là mấy câu thơ của Thâm Tâm:

          Đưa người ta không đưa qua sông
          Sao có tiếng sóng ở trong lòng
          Bóng chiều không thắm không vàng vọt
          Sao đầy hòang hôn trong mắt trong  (2)

“Điệu thơ gấp.  Lời thơ gắt.  Câu thơ rắn rỏi ‘gân guốc’ ” (Hòai Thanh/Hòai Chân, Thi nhân Việt Nam).  Hay chỗ nào ?

Lại thử mấy câu thơ mộc mạc hơn:

          Tới ngả ba sông nước bốn bề
          Nửa chiều, gà lạ gáy bên đê
          Làng xa lặng lẽ sau tre trúc
          Bến cũ thuyền em sắp ghé về (3)

Lời thơ giản dị, nhưng cảm xúc chứa chan !  Hay, đẹp, chỗ nào ?

Lấy thí dụ: Cézanne, Monet, và Modigliani.

Xem Selt-Portrait của Cézanne.  Đẹp làm sao ?

Monet hay thật: những waterlilies được nhiều người ngưỡng mộ.  Nhưng thử hỏi: đẹp ở chỗ nào ?  Ở đụn rơm (The Haystack) chăng ?  Cái cầu đỏ như cầu Thê Húc đó, đẹp làm sao ?  Monet, từ ông cố ông sơ người văn nghệ sĩ, di truyền niềm xúc cảm riêng tư ?  Ngọn bút lùi xùi, khô khô đó, đẹp ở chỗ nào ?  Người ta thích vì bông súng ?  Cézanne, từng lớp, từng lớp, như vỏ củ hành, những mảng màu thô lậu, khép kín, chồng chất lên nhau.  Thưởng thức Cézanne, không phải dễ!  Núi Ste Victoire, cha đẻ của hội họa hiện đại ?    

Tôi có thể dông dài về âm nhạc, từ Beethoven qua Mozart đến Hayden, từ Mendelssohn qua Debussy đến Litz,  nhưng thôi, …   Tôi cũng có thể dông dài về điêu khắc từ Michel Angelo qua Rodin đến Manzu, v.v. … (4)

Trong bài Les Phares, sau khi nói một cách chung chung về thành tựu của Leonard de Vinci, Rembrandt, Delacroix, và Goya, Baudelaire có viết về dignité de l’homme (thế giá của con người).  Tôi nghĩ rằng vanité (khoe khoang hợm hĩnh) thì đúng hơn.  Tôi là ai mà dám sửa thơ Baudelaire ?  (5)

Làm văn nghệ, con người mô tả cảm xúc của mình, nhưng thiếu gì người dùng văn học nghệ thuật để đề cao cái tôi, để tự thỏa mãn tự ái của mình !

Tôi có anh bạn tên Mặc.  Hán ngữ Mặc là Mực.  Anh là người thông minh, sành ăn, sành mặc, sành đời.  Tuy có tên Mặc, anh không sử dụng mực, chẳng viết lách gì cả.  Anh chỉ đọc báo.  Báo xe hơi.  Thứ nào, hiệu nào, mã lực bao nhiêu, v.v. …  Anh là người làm cho dân bán xe ngỡ ngàng: anh là người chuyên môn.  Tuy nhiên, về văn học nghệ thuật, anh mù tịt.  Anh không biết Thôi Hiệu là ai, Tản Đà nghèo đói làm sao.  Thử hỏi tại sao vậy ?

Tôi kết bạn với anh Mặc.  Anh là người chuyên môn, tôi cũng là người chuyên môn.  Hai thứ chuyên môn khác nhau.  Vậy thôi.

Nói tóm lại, làm văn học nghệ thuật là tham dự vào một hội kín, một secret society.  Vào cửa, phải có sổ thông hành, có mật số.  Biết bao người thờ ơ đứng ngòai nhìn,  lại có nhiều người hăm hở muốn vào, nhưng không vào được.

Từ đâu, huyền thoại làm văn học nghệ thuật khiến cho con người cao thượng hơn, bớt ham danh lợi hơn, đạo đức hơn ?  Tôi là người suốt đời làm văn học nghệ thuật – vẽ và viết – tôi thấy văn nghệ sĩ cũng ham danh vọng, cũng nhỏ nhen, ganh tị, tàn ác như người khác !  Nhị Thập Bát Tú !  Ví người làm thơ như tinh tú trên trời !  Ôi văn học nghệ thuậ t!

Đến Tết năm tới, tôi được 75 tuổi !  Ở tuồi này “chuyện gì rồi cũng bỏ qua thôi!”   (6)   Ai rủa, mặc!  Cứ …



Võ Đình
Tháng VIII, 2007


(1)Thu – Xuân Diệu
(2)Tống Biệt Hành – Thâm Tâm
(3)Em Về Nhà – Huy Cận
(4)Manzu : điêu khắc gia Ý, tác giả The Gate of Hell ở Vatican
(5) Bản dịch nghĩa của Võ Đình:
Bởi vì, thật ra, Ô Thượng Đế
Dấu vết rõ nhất
của thế giá chúng con có thể đem lại Ngài 
là tiếng nức nở than khóc
từ thời đại này qua thời đại khác
Rồi đến chết lụi bên cạnh niềm vĩnh cửu của Ngài!
Từ đọan cuối  bài Les Phares  của Baudelaire:
Car c’est vraiment, Seigneur, le meilleur témoignage
Que nous puissions donner de notre dignité
Que cet ardent sanglot qui roule d’âge en âge
Et vient de mourir au bord de votre éternité!
(6)  Thơ Võ Phiến









TẮM  ĐÊM

tản mạn


Cô gái mười lăm tắm nửa đêm
ồ ồ nước chảy dưới và trên
có người thầy pháp gìa trăm tuổi
đã chết sau ngày trông thấy tiên

Tứ tuyệt của Hà Thúc Sinh, trong tập Thơ Viết Giữa Đàng, xuất bản năm 1985.  Hai chữ ồ ồ không đắc địa.  Có thể thay vào rì rào, ào ào hay rào rào.  Xè xè thì  khêu gợi quá.

Có người thầy pháp gìa trăm tuổi  gợi nhớ cả hàng chục tranh khác nhau nhưng cùng đề tài  Suzanne et les Vieillards của nhiều danh họa Ý suốt thế kỷ XV, XVI, XVII, XVIII,  trưng bày tại nhiều Viện Bảo tàng thế giới, vẽ hai ông già dòm ngó thiếu phụ Suzanne tắm trong vườn nhà, và bức tượng nàng Suzanne tắm khỏa thân trưng bày tại Louvre.


Tintoret “Suzanne et les Veillards”
Lưu ý góc trái đầu già trọc nấp nhìn trộm

Suzanne au Bain, Théodore Chassériau


Suzanne au Bain,
Pierre Nicolas Beauvallet, Louvre


Đề tài này ghi trong Cựu Ước, có ý nghĩa như một cuộc thánh tẩy với lòng tin tuyệt đối vào Đấng Toàn Năng. Les vieillards bị xử tử vì tội dòm lén, toan tính cưỡng bách, tố cáo gian, làm chứng gian, vu oan giá họa Suzanne.

Ông thầy pháp già trăm tuổi trong thơ Hà Thúc Sinh sau khi thấy cô gái mới mười lăm tắm đêm, thì chết sau ngày được thấy tiên, như Xuân Diệu tình cờ bình trắc trong bài Nguyệt Cầm, tập Gửi Hương Cho Gió:  đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Hơi thơ chuyển đột ngột, từ cô gái mười lăm vụt sang ông già trăm tuổi, rồi đang thú vị nước dội ào ào thì lăn đùng ra chết.

Tại sao không tắm sáng, tắm trưa – như nàng Suzanne -, hoặc tắm chiều, mà lại tắm đêm?  Tại sao cô gái mới mười lăm mà không là mười tám đôi mươi dầy dầy sẵn đúc?  Tại sao cô gái lại là tiên? 

Những câu hỏi không có trả lời.  Đó là cái hay của bài tứ tuyệt.


Võ Đình
Vào Xuân Con Chuột 2008








tranh Võ Đình






TRẮNG ĐEN
đoản văn



Tân và tôi là bạn "cố tri". Biết nhau, chơi với nhau từ hơn nửa thế kỷ. Nói cho đúng, sáu mươi năm. Từ ngày chúng tôi còn ở tiểu học.

Hoàn cảnh đẩy đưa, Tân cư ngụ bên Pháp, tôi ở Mỹ, lâu lắm mới có cơ hội thăm nhau một lần. Thời gian trôi qua, cả hai nay đã trở thành hai ông già. Lần cuối gặp nhau ở Pháp, Tân về Paris đón tôi và bà xã, đem về nhà ở ngoại ô, đãi một bữa cơm hoàn toàn Việt nam, tự tay nấu lấy - bà Tân là một người Pháp. Tân khoe: "Cá thu nướng qua rồi mới kho đó!" Chúng tôi khen ngon, Tân đắc ý lắm.

Tân có mái tóc bạc phơ; tóc tôi không bạc bằng nhưng râu tôi trắng xóa. Tóc bạc, má phính, dáng Tân có vẻ "đẫy". Tôi chế nhạo bạn: "Cứ ca-măm-be, ba-ghét, pi-na* vào cho lắm!" Tân cười, xoa xoa bụng.

Vài năm sau, Tân qua Mỹ chơi. Có mấy cô em ruột, người chồng Việt ở Maryland, kẻ chồng Mỹ ở Florida. Các em lái xe đưa Tân đến thăm tôi. Chúng tôi đều là dân gốc Huế: Nhà tôi làm "cơm hến". Trước khi ăn cơm hến, mọi người được nhâm nhi món " mít trộn ": Mít non, luộc, xé nhỏ, trộn tôm thịt, đậu phụng, mè rang nguyên hột, rắc rau răm hoặc húng quế, rưới nước mắm pha chanh, đường, ớt, tỏi. Bẻ bánh tráng dòn, xúc mít mà ăn. Ngon chết bỏ!

Gặp lại Tân, tôi giật mình. Mái tóc bạc phơ đã biến mất, tóc Tân đen nhánh như mấy chục năm về trước. Những nét nhăn cũng biến mất. Một anh Tân thanh niên, mới ngoài 30! Tôi nghĩ bụng: Không ngờ thằng này lại là tín đồ của thuyết "trẻ mãi không già" qua ngả nhuộm tóc và giải phẫu thẩm mỹ! Nhưng mải ăn uống trò chuyện, tôi không đả động đến chuyện này. Mọi người cư xử bình thường. Chẳng ai mảy may tỏ vẻ ngạc nhiên thấy ông già Tân nay lại trẻ ra quá nửa tuổi.

Cơm nước xong, lâu sau đó, hai ông bạn mới có cơ hội ngồi thủ thỉ với nhau trong bóng mát của tàng cây bàng lớn.

Lúc ấy, tôi mới hỏi Tân:

- Này, ông làm chi mà ngó trẻ rứa? Tóc đen thui, mặt không một nét nhăn. Chừng 30!

Tân cười:

- Làm chi mô. Tự nhiên thôi. Không làm chi hết.

- Thật à?

- Thật. Cam đoan. Trước, mình cũng thấy lạ. Sau, quen đi.

- Lạ thật chớ. Mình nhớ mới lần trước gặp nhau, tóc ông bạc phơ. Nay đen nhánh. Như chàng Tân mấy chục năm về trước. Lạ! Khó tin.

- Ông tin mình đi. Mình thề! Mặt, không giải phẫu, giải phiếc chi cả. Tóc, không nhuộm nhiếc chi cả. Tuyệt đối.

- Ông nói thì mình tin. Khỏi phải thề thốt! Ông không thấy kỳ cục à?

- Có, kỳ cục chớ. Tóc bạc cứ dần dần sẫm lại, đen dần, rồi đen hẳn, khi mô không biết. Mặt mũi cũng rứa. Mấy đường nhăn từ từ mất dạng, rồi một ngày gương mặt trẻ hẳn.

- Đúng là "cải lão hoàn đồng" rồi đó.

- Đúng rứa. Kỳ cục thấy cha!

- Rứa trong người thấy sao? Có thấy trẻ lại không?

- Không, trong người vẫn vậy. Không có chi thay đổi. Vẫn là ông già Tân. Vẫn loay hoay một lát đã chóng mặt. Vẫn đi đâu cũng ngó tới ngó lui tìm chỗ đi tiểu. Vẫn đau xương mỏi chắc khi trái gió trở trời.

- Mấy đứa em không thấy sự thay đổi nơi ông à?

- Chắc là có. Nhưng chúng không nói chi cả. Lịch sự Tây phương mà. Chỉ có ông là "cố tri", lại là "Mít", mới tọc mạch!

Tân và các em ăn xong, uống trà nói chuyện thêm một hai tiếng, rồi lên đường. Hôm sau, tối hôm sau, Tân đã phải bay về Pháp. Đêm đó, tôi nằm mơ thấy Tân. Mái tóc hắn, trắng đen, đen trắng, thay đổi liên miên như giây đèn nô-en đỏ tắt, đỏ tắt, kỳ cục hết sức.

***

Nói chuyện với Tân, tôi thấy người bạn thuở thiếu thời là một người chơn chất. Trước, còn thanh niên, hắn đỏm dáng. Tóc vén lên, chải phồng thành một cái vòm trên đầu, kiểu mấy anh tài tử xi-nê những năm đầu thập niên năm mươi. Bây giờ, hắn xuề xòa, giản dị. Tóc bạc, cắt ngắn. Áo gió nâu đậm, sơ-mi vải thô, quần khaki cũ kỹ. Trông Tân có dáng dấp một anh thợ về hưu. Một người ăn chắc mặc bền. Một người không hơi đâu bỏ công bỏ của vào việc sửa mặt, sửa mũi, xóa vết nhăn, nhuộm tóc, v.v...
Tân có một chung cư ở ngoại ô Paris, nhưng thích về ở ngôi nhà xưa cũ nơi thôn dã xa cách phố thị. Ưa cuốc đất, trồng rau. Dựng được mấy giàn nho. Tính một ngày sẽ sản xuất lấy rượu vang mà uống. Một "ông Tây" gốc "Mít". Tôi tin lời Tân là hắn đã không nhuộm tóc, không giải phẫu nâng cằm, căng cổ, kéo má, v. v... Tôi tin là hắn đã nói thật. Và tôi càng bàng hoàng về sự "cải lão hoàn đồng" kỳ dị nơi hắn.
Mới đây, chỉ hai năm sau ngày ăn "mít trộn" với nhau, một tối, chuông điện thoại reng. Tôi miễn cưỡng bốc ống nghe:
- Anh Võ đấy há? Em đây. Giao Chi đây.
- Chi đó há? Mọi người khỏe há?
Chi ngập ngừng vài giây, rồi nói tiếp, giọng run run:
- Em tin anh biết là anh Tân mất rồi. Được tin, gấp quá, vợ chồng em bay ngay qua Pháp tiễn anh ấy. Có một chuyện lạ...
Tôi biết chuyện lạ của Chi rồi. Từ lâu, tôi đã ngờ rằng thế nào chuyện đó cũng xảy ra. Tôi im lặng thấm thía sự ra đi của một "cố tri".
- Tụi em được tin thì anh Tân đã đi rồi nên chỉ nghĩ đến việc qua Pháp ngay để đưa đám anh ấy, không còn đầu óc đâu để tin cho bạn bè anh Tân biết.
Anh có nhớ hồi anh Tân qua Mỹ, tụi em đưa đến thăm anh chị không? Anh Nam và em cũng vô cùng ngạc nhiên và sợ hãi thấy sự đổi thay của anh ấy. Tóc anh Tân trước trắng phau đã hoàn toàn đen lại, và cả khuôn mặt anh, nước da anh, là của một thanh niên bằng nửa số tuổi thật của anh ấy. Kỳ dị hết sức, nhưng phận em út, tụi em không dám nói chi cả. Anh Tân ngồi bên anh, thấy như con ngồi với cha, không phải hai ông bạn đồng tuế! Rứa mà anh biết không, khi tụi em đến nơi thì được đưa ngay vào nhà quàn thăm anh ấy. Tụi em được thấy mặt anh Tân lần nữa, thật kỹ. Kinh hoàng quá, anh ơi! Anh Tân lại thay đổi hoàn toàn. Mái tóc đen đã biến mất. Thế vào là đầu tóc bạc phơ. Những đường nhăn nơi trán, nơi má, nơi cằm, nơi cổ... rõ nét vô cùng. Hồi qua Mỹ, tụi em đưa đi thăm anh, anh Tân trông chừng mới ngoài 30. Răng lại có chuyện kỳ cục rứa? Nay chết rồi, anh ấy lại trở về đúng tuổi của anh ấy. Một ông già trên 70. Như anh rứa...

***

"Như anh rứa"! Đến nay, mấy năm đã trôi qua, tôi vẫn không hiểu chuyện đã xảy ra. Tại sao mái tóc bạc phơ của Tân lại tự nhiên trở nên đen nhánh? Tại sao bao nhiêu đường nhăn trên mặt một ông già lại biến đi mất tiêu? Tại sao Tân chết, những sợi tóc bạc và những đường nhăn lại trở về? Không hiểu được. Không thể hiểu được.
Tôi chỉ biết một điều. Tôi biết rằng mọi sự có thể là thế này mà cũng có thể là thế khác. Hiện hữu trùng trùng điệp điệp, không biết đâu mà lường. Trắng trở thành đen, đen rồi lại trắng, có không, không có, liên miên chập chùng, dễ như lật bàn tay.

Võ Đình
XII- 2003


Chú thích
*phó mát camembert, bánh mì baguette, rượu vang (pinard là tiếng lóng) Pháp











Phỏng vấn:




Gió O 
phỏng vấn 

nhà văn hoạ sĩ Võ Đình

Lê thị Huệ thực hiện



Lê thị Huệ : thưa ông, có nhận xét nói rằng vẽ là một trạng thái thư giãn và viết là một trạng thái căng thẳng. Thế khoái lạc đến từ sinh hoạt sáng tạo của hai bộ môn này, theo ông, nằm ở đâu ? Điểm nào là điểm gặp gỡ và điểm nào là sự chia lìa ?

Võ Đình : Ai bảo “ vẽ là một trạng thái thư giãn, còn viết là một trạng thái căng thẳng” ? Tôi nghĩ rằng vẽ hay viết đều là một thứ "xuất não." Cả hai đòi hỏi người làm nghệ thuật phải đi sâu vào tâm thức. Cả hai gặp nhau ở điểm thống khoái sáng tạo. Viết, giao tiếp với tha nhân nhiều hơn. Cả đời, tôi vẽ nhiều hơn viết. Bây giờ, trên 70 rồi, có lẽ tôi viết nhiều hơn vẽ.


Lê thị Huệ : Quan niệm của người Việt ngày trước vẫn xếp hội hoạ vào một trong bốn món giải trí tinh thần, “cầm, kỳ, thi, hoạ.” Hội hoạ theo tinh thần giải trí này có nghĩa là “mua vui” , như ngâm thơ, chơi đàn. Nếu nói như ông, thì ngày nay người ta đã thay đổi cách nhìn chăng ?

Võ Đình : Đúng thế. Ngày nay người ta đã thay đổi cách nhìn. Làm văn nghệ không phải để giải trí. Làm văn nghệ rất “khổ” vì chỉ muốn làm cho hay hơn, đẹp hơn. Đi tận cùng ý niệm về phẩm chất. Nói như Sir Herbert Read, nhà thơ, nhà phê bình Anh quốc : “ Ý niệm về phẩm chất đó là ý niệm về cái đẹp, và rốt cuộc, ý niệm về cái đẹp là ý nghĩa cốt tử của đời sống; không có nó, chúng ta tiêu tùng.”


Lê thị Huệ : Theo tôi, truyện “Chiếc Vòng” của ông là một truyện ngắn hay. Ông có thể nói về truyện này một chút được không ?

Võ Đình : Tôi viết "Chiếc Vòng" sau chuyến về Việt Nam lần đầu tiên năm 1974. Nhiều người thích nhưng ông Võ Phiến, người tôi cho là bậc thầy, lại "chê", bảo rằng 'tha thiết, nhưng không hay bằng vài truyện khác."

Lê thị Huệ : "Chiếc Vòng", "Huyệt Tuyết" cùng một số truyện ngắn khác của ông đã rất thành công trong diễn tả những giao tiếp với thế giới "hư", như sự giao tiếp với thời gian, kinh nghiệm với cái vô hình, cái hư rượt đuổi cái thực. Theo tôi, có những truyện ngắn của Võ Đình là những tác phẩm lớn của văn chương Việt Nam. Người đọc như tôi hơi tiếc là tại sao Võ Đình đã không khai thác những ám ảnh ấy theo thể truyện dài

Võ Đình : Cảm ơn cô đã tiếc. Tôi không tiếc. Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là hình thức văn chương thích hợp nhất cho không, thời gian những truyện ấy. Với lại, cuộc sống và sự đời, phải chăng đó là những "truyện ngắn" nối kết cùng nhau ? Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là hình thức thực tại của sự đời. Truyện dài là một chuỗi dài lóng lánh, nối kết do sự giả tạo của con người, trong khi truyện ngắn là những hạt trân châu làm nên chuỗi dài đó. Bá nhân bá bao tử !!!

Lê thị Huệ : Nghệ thuật viết truyện và chuyện là chuyển tải đời sống lên văn. Những tác phẩm hay phải là những tác phẩm đơn giản hoá những vấn đề phức tạp nhất của đời sống, bằng ngôn ngữ. Quy luật sáng sủa phải là quy luật quan trọng nhất của viết. Vì đời sống quá phức tạp, kẻ tài hoa phải là kẻ sáng tạo lại đời sống trong một hình thái dễ hiểu nhất về những điều phức tạp rối rắm của tâm hồn và đời sống. Ông là một trong vài nhà văn Việt Nam hiếm hoi mà tôi ngưỡng mộ vì ông là có lối viết đơn giản và trong sáng mà lại chuyển tải được những thâm trầm sâu sắc về những câu chuyện chọn viết. Nhưng trong dịp cuối năm vừa qua, tôi đọc được hai bài “Nhìn lại 30 Năm Văn học Hải ngoại” của hai người “đòi” phê bình văn học này nọ, họ không nhắc đến tên ông (họ có nhắc đến tên tôi, không biết có phải vì tôi là gái có viết vài chuyện hơi sexy gì đó chăng). Biết là đã thất vọng từ lâu, nhưng thú thật khi đọc phải hai bài viết này và không thấy có những tên của Võ Đình, Nhất Hạnh, Nghiêm Xuân Hồng, tôi nản không thể tả. Ông nghĩ thế nào ?

Võ Đình : Cám ơn cô đã có những lời ưu ái về những cố gắng của tôi. Có người không nhắc đến tên tôi cũng là chuyện thường tình thôi.

Lê thị Huệ : Trong truyện ngắn Huyệt Tuyết và trong phần lớn các truyện của ông, ngôn ngữ của “tâm” không nhiều bằng ngôn ngữ của “thân”, nhưng lại là mối ám ảnh và lôi cuốn mạnh mẽ hơn cả ngôn ngữ của “thân." Ông đã có một bài viết về ngôn ngữ của “thân tâm.” Đây có phải là một thứ triết lý trong các truyện của Võ Đình mà một độc giả nghiêm chỉnh (và các nhà phê bình văn học Việt Nam) cần phải lưu ý trong truyện và cả trong tranh của ông ?

Võ Đình : Wilhem De Kooning, một hoạ sĩ xuất sắc trường phái Trừu-Biểu-Tượng (Abstract-Expressionism) của New York, từng gọi sự giằng xé, và sau đó, quân bình trong thâm tâm, là một “inner necessity”. Một nhu cầu nội tại. Trong cái viết, “nhu cầu nội tại” đó, có mặt đó, nhưng không mãnh liệt bằng trong cái vẽ.

Lê thị Huệ : Từ "giằng xé" đến "quân bình" trong thâm tâm là một đoạn đường dài. Có cần thiết phải có "quân bình" không ? Tôi nghiệm ra một điều là giới sáng tác vận dụng đến các hoá chất như rượu, ma tuý, cà phê, thuốc lá … hơi nhiều. Nhiều người nhờ ma tuý và rượu mà sản sinh được những tác phẩm để đời. Những tác phẩm của các tác giả này hoàn toàn ngược lại với điều ông gọi là sự quân bình. Ông nghĩ sao ?

Võ Đình : Có cần thiết phải quân bình không ? Rất cần. Tôi biết “nghệ sĩ”, nhiều người dùng rượu, ma tuý, cà phê, thuốc lá … để tìm cảm hứng. Nhưng đó là nhất thời. Về lâu về dài, phải có quân bình trong tâm hồn mới bảo đảm sự sáng tạo dài hơi. Có những trường hợp ngoại lệ. Dĩ nhiên.

Lê thị Huệ : Ông có nhận xét gì về nghệ thuật gọi là “phản nghệ thuật,” và thơ gọi là “phản thơ” ?

Võ Đình : Thời gian có khả năng gạn lọc thần tình và tàn nhẫn. Có những nghệ thuật gọi là “phản nghệ thuật” để rồi được thời gian chứng minh là nghệ thuật chân chính. Có những thơ gọi là “phản thơ” để rồi được thời gian chứng minh là thơ có giá trị. Nếu không may mắn như vậy thì “nghệ thuật” và “thơ” sẽ tiêu tan vào quên lãng. Tôi tin cậy ở sự gạn lọc của thời gian.

Lê thị Huệ : Tôi muốn hỏi nhà văn: các sáng tác tiếng Việt có cần kỹ thuật nhiều lắm không ? Ông nắm bắt được kỹ thuật viết truyện ngắn của Âu Mỹ rất “tới”; sử dụng tiếng Việt ở cấp độ trí thức, kỹ, sâu sắc, và tinh xảo. Nói tóm lại, người độc giả trí thức Việt Nam sẽ rất hài lòng khi đọc những truyện ngắn của Võ Đình. Ông có theo học các lớp viết truyện ở các đại học Âu Mỹ nào không ?

Võ Đình : Kỹ thuật viết rất cần. Cần nhiều. Về các lớp viết truyện : không, tôi không theo một lớp nào cả. Tôi chỉ đọc nhiều. Đọc sách là một thú lớn. Rất lớn. Nhưng khi viết, tôi viết theo bản năng. Nghĩa là tôi viết theo sự thôi thúc trong tâm tư. Viết cũng là một thú lớn. Rất lớn.

Lê thị Huệ : Ông nghĩ những truyện của Thạch Lam có nhờ đến kỹ thuật viết không, hay chỉ nhờ vào lời văn nhẹ nhàng trong sáng là được độc giả Việt Nam yêu thích ? Hoặc như một tác giả đang đắt hàng ở Việt Nam hiện nay là Nguyễn Ngọc Tư có cần học tập kỹ thuật viết nào không, khi độc giả bình dân Việt Nam đã đón nhận cô tác giả (hơi có màu đo đỏ vì chuyên trị chuyện đấu tranh của giai cấp vô sản) này hết sức là nồng nhiệt ?

Võ Đình : Viết sao cho nhẹ nhàng, trong sáng là một kỹ thuật. Viết câu văn nặng nề, tối tăm, là một kỹ thuật khác. Ngày trước, Thạch Lam được yêu chuộng vì sự trong sáng, nhẹ nhàng, cũng dễ hiểu thôi. Tôi nghĩ rằng Nguyễn Ngọc Tư cần “luyện” câu văn hơn nữa. Cô ấy còn trẻ lắm. Đường còn dài.

Lê thị Huệ : Ông có khả năng viết bằng tiếng Pháp, Anh và Việt. Ông nhận xét gì về tiếng Việt trong văn viết. Viết văn tiếng Việt khác với viết văn bằng các thứ tiếng kia như thế nào ?

Võ Đình : Tôi là người Việt Nam. Tôi yêu tiếng Việt. Có những điều diễn tả bằng tiếng Việt mới đầy đủ. Tôi có thể viết bằng tiếng Pháp hay Anh, nhưng đã chọn viết bằng tiếng Việt. Nói thế, không có nghĩa rằng tôi không yêu tiếng Pháp tiếng Anh. Nhưng tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của tôi.

Lê thị Huệ : Chúng ta là những người đầu tiên mở cánh cửa cho những tác phẩm tiếng Việt chào đời ở ngoài Việt Nam. Hiển nhiên là ông sống ngoài Việt Nam nhiều hơn ở trong nước. Có khi nào ông suy nghĩ về hiện trạng này, và về đời sống của tiếng Việt ở ngoài địa lý Việt Nam ?

Võ Đình : Tôi nghĩ rằng trân quý cái gì thì nên tìm hiểu và nâng niu cái mình trân quý. Tôi thấy phần đông đồng bào ta – trong nước cũng như hải ngoại - không làm như thế với tiếng Việt.

Lê thị Huệ : Từ cấu trúc cho đến đời sống của ngôn ngữ, tôi nghĩ mỗi ngôn ngữ có một số mệnh riêng. Một người có thể sống trong hai, ba ngôn ngữ. Với cơ chế toàn cầu hoá hiện nay, có vẻ như con người đang tiến dần đến việc có thể cần đến hai ngôn ngữ : tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ. Ông có nhu cầu bảo vệ hay phát triển một ngôn ngữ này hơn một ngôn ngữ khác không ?

Võ Đình : Có. Tôi vẫn sáng tác bằng tiếng Việt như một hình thức bảo vệ, và đồng thời cũng phát triển nó bằng cách dịch tiếng Việt ra ngoại ngữ. Mới đây, tôi có dịch một số truyện ngắn viết bằng tiếng Việt ra Anh ngữ. Tôi đưa con gái coi lại. Con gái út tôi sinh ở Mỹ năm 1967, là một nhạc sĩ, có khiếu văn chương. Đọc những “nhuận sắc” của nó, tôi bàng hoàng : phải là một người sinh trưởng ở đất nước này, phải là một người có khiếu văn chương, mới viết được như vậy.

Lê thị Huệ : Ông rời Việt Nam nay đã trên 50 năm. Ông lại có khuynh hướng tách lìa cộng đồng Việt Nam. Bao nhiêu năm nay ông thường chọn sống ở những nơi “sơn cùng thuỷ tận”, những nơi có ít người, nhất là ít người Việt. Nhưng đọc truyện của ông vẫn thấy tiếng Việt nhuyễn nhừ, thân cận, không bị cảm giác tiếng Việt "cũ" áp đảo tiếng Việt "mới." Ông giao tiếp với tiếng Việt bằng cách nào? Ông nghĩ sao khi trong nước nói những người sống lâu ngoài nước có số vốn từ ngữ hạn chế nên không thể viết “chuẩn” được ? 

Võ Đình : Giản dị. Tôi giao tiếp với tiếng Việt bằng cách sống nó. Tôi nói tiếng Việt. Tôi đọc tiếng Việt. Tôi suy nghĩ bằng tiếng Việt. Có ai tò mò muốn biết thêm về chuyện này, xin đọc Sống ở Mỹ, Viết Tiếng Việt ( Rừng Mắm Văn Nghệ, Văn Nghệ, 2,000, trang 221). Những người trong nước nói rằng những người sống lâu ngoài nước có số vốn từ ngữ hạn chế nên không thể viết “chuẩn” được : nói như thế là hàm hồ. They don’t know what they’re talking about !!!

Lê thị Huệ : Có phải đấy là lý do mà ông chưa bao giờ ngỏ ý muốn in sách ở trong nước ? Nghe nói lâu nay ông vẽ nhưng nhất định không triển lãm nữa, và cũng không cho ai xem tranh mình ?

Võ Đình : Không. Đó không phải là lý do tôi không muốn in sách ở trong nước, mặc dầu có nhiều cơ hội. Tôi nghĩ rằng in một cuốn sách mà phải vòng vo mấy cửa ải, phiền quá ! Còn chuyện vẽ mà không trưng bày, chỉ giản dị là tôi chán chuyện trưng bày lắm rồi. Tôi đã có đến trên 40 triển lãm khắp nơi. Phiền toái lắm. Vất vả lắm. Từ ngày đến tuổi lãnh tiền An sinh Xã hội, tức là từ 65 tuổi – tôi không có tiền hưu (pension) vì cả đời ở Mỹ đâu có đi làm ! - tôi không muốn mệt mỏi vì chuyện trưng bày tranh nữa. Nếu có ai biết ngắm tranh, và không nghĩ rằng tôi cho xem tranh vì muốn bán tranh, tôi sẵn sàng mời xem.

Lê thị Huệ : Ông hình dung một độc giả của ông như thế nào ? Ông nghĩ sao về độc giả Việt Nam ?

Võ Đình : Tôi tưởng tượng một độc giả lý tưởng của tôi : yêu sách vở, trầm ngâm, đọc và suy nghĩ kỹ. 
Nhưng, người Việt Nam không đọc sách nhiều như tôi tưởng.

Lê thị Huệ : Ông đọc những cuốn sách nào trong thời gian gần đây ?

Võ Đình : Tôi đọc Life of Pi của Yann Martel. Lai rai các truyện ngắn của Phan Triều Hải, Trần Thuỳ Mai, Quế Hương, Nguyễn Ngọc Tư …

Lê thị Huệ : Ông có vẻ thích lối văn của nhà văn Võ Phiến ? Ông Võ Phiến có vẻ chịu ảnh hưởng lối viết của Tự lực Văn Đoàn ? Ông nghĩ sao về vấn đề này ?

Võ Đình : Ông Võ Phiến "có vẻ" chịu ảnh hưởng lối viết của Tự lực Văn Đoàn. "Có vẻ" thôi. Võ Phiến rất yêu Nhất Linh, Thạch Lam … Nhưng Võ Phiến có cách viết riêng của ông ấy. Và tôi rất thích.

Lê thị Huệ : Ông có chữ ký đẹp. Là một hoạ sĩ, ông có nghĩ những điều này chuyển tải lên trên nội dung bài viết ? Nếu viết tay, tác phẩm sẽ khác với một tác phẩm đánh máy ? Ông có nghĩ là thế giới sáng tác trên máy chữ khác với thế giới sáng tạo bằng ngòi bút ? Sẽ có ngày người ta không biết viết chữ đẹp nữa, và một định nghĩa về cái đẹp có thể khác đi chăng ?

Võ Đình : Một tác phẩm trên máy đánh chữ và một tác phẩm viết tay khác nhau lắm chứ. Nhưng cô có lý khi nói rằng “sẽ có ngày người ta không biết viết chữ đẹp nữa, một định nghĩa về “nét” bút, “ nét” vẽ có thể khác đi.” Chắc cô còn nhớ bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên ? 

Lê thị Huệ : Nhưng còn phần linh hồn của nét chữ thì sao ? Tôi muốn hỏi là cái đẹp phát biểu bằng ngòi bút sẽ thay đổi theo chiều hướng nào khi được thay thế bằng máy computer và keyboard ? Ông có nghĩ rằng cái đẹp sẽ đổi thay theo một chiều hướng nào đó ?

Võ Đình : Tôi nghĩ rằng cái đẹp của nét bút sẽ thay đổi với thời thế. Chẳng hạn, cái xem là Tuyên ngôn Độc lập cũa Mỹ quốc trong bảo tàng viện. Một thời người ta cho rằng viết như vậy là đẹp. Sau đó, những kiểu chữ “rông” (ronde) của Pháp được coi là đẹp. Bây giờ, người ta viết nhiều kiểu lắm. Nhưng có một nguyên tắc luôn luôn tồn tại : Đó là nét bút đẹp là nét bút phóng khoáng, không gò bó. Nét bút vững chãi, gọn ghẽ, tự do. Tôi không biết là cái đẹp sẽ đổi thay theo chiều hướng nào. Tôi chỉ nghĩ rằng máy điện não (chữ của ông giáo sư Nguyễn Đình Hoà) sẽ ảnh hưởng nhiều trên chiều hướng đó. 

Lê thị Huệ : Đời sống của ông có vẻ bí ẩn. Ông tránh xa đám đông đến mấy chục năm, chỉ thỉnh thỏang mới xuống núi, lìa rừng hay xa vườn. Ông có thể cho độc giả Gió-O biết sơ sơ một chút về sự quy ẩn quá lâu của ông như thế nào không ?

Võ Đình : Tôi không “tránh xa đám đông.” Tôi chỉ muốn ăn ở, làm việc tại một nơi yên tĩnh thôi. Tôi thích mấy câu của Nguyễn Bỉnh Khiêm :

….. Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao …. 

Lê thị Huệ : Nếu phải trả lời một câu hỏi "Ông là một người đàn ông như thế nào ?" thì ông sẽ trả lời như thế nào ?

Võ Đình : Đây là chuyện ngoài lãnh vực văn chương nghệ thuật, nhưng đã hỏi thì trả lời. “Ông là một người đàn ông như thế nào ? ” Bình thường thôi. Yêu đàn bà và yêu nghệ thuật nhiều hơn đa số. Có lẽ vậy. Gần đây, người ta viết về “sex” nhiều. Tôi cho rằng “eros” đáng lưu tâm hơn, Và với tôi, đàn bà là hiện thân của “eros.”

Lê thị Huệ : “Sex” và “eros” ! Ông làm ơn nói thêm dùm.

Võ Đình : Có người dùng chữ Việt tình dục cho “sex.” Tôi không đồng ý. Như tôi hiểu, “sex” là nhục dục, không phải tình dục. “Sex” khác với “eros.” “Eros” có thể hiểu là gợi tình. Nói rõ hơn, những liên hệ xác thịt của Marilyn Monroe với những người đàn ông trong đời nàng là “sex.” Tấm ảnh nàng đứng trên một manhole (ở New York hay Los Angeles ?), gió thổi tung váy trắng và Marilyn Monroe đưa tay chận lại là một hình ảnh “erotic” tuyệt vời. Xin phép được nhắc vài đoạn trong bài “Mặn và Chay” ( Rừng Mắm Văn Nghệ, Văn Nghệ, 2,000) : 

“ Chúng ta hãy cùng nhau xin phép được vấn an cụ Tiên Điền một chốc : ‘Sóng tình dường đã xiêu xiêu/ Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.’ Cái tình này coi mòi đã có hơi hướm xác thịt rồi đó, không còn mơ hồ như khi còn ‘ Tình trong như đã, mặt ngoài còn e’ nữa. Đã đến lúc Kim thèm Kiều lắm rồi. Tuy vậy, Kim còn tự chủ. Đến Mã Giám Sinh thì Nguyễn Du không còn nương tay nữa : ‘Tiếc thay một đoá trà mi/ con ong đã tỏ đường đi lối về/ Một cơn mưa gió nặng nề/ thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương !’ Thương thay nàng Kiều. Giận thay cái gã họ Mã. Ta mến Kim, ta ghét Mã, và ta quên rằng tất cả những hình ảnh như sóng tình, đoá trà mi, con ong v v … đều là những ẩn dụ có khả năng khêu gợi.

Khêu gợi cái gì ? Cái tính ư ? Không nhất thiết. Cái dâm ư ? Không hẳn đâu. Cái tình à ? Có thể lắm. Như ai cũng biết, có nhiều thứ tình. Tình có thể đến nhưng chưa đến giai đoạn trao đổi xác thịt như cậu Thăng yêu cô Loan trong Nước Đục Bụi Trong của Mai Kim Ngọc. Tình vừa âu yếm vợ chồng vừa nồng cháy nam nữ như anh chàng Ngữ yêu vợ trong Mùa Biển Động 5 của Nguyễn Mộng Giác. Kim yêu Kiều là tình. Mà họ Mã dày vò Kiều cũng là tình. Khi rụt rè, khi sôi nổi, khi kín đáo, khi sỗ sàng, khi dịu dàng, khi tàn bạo … Tất cả những thứ tình gặp nhau ở một điểm chung : xác thịt. Xác thịt thường khêu gợi. Khả năng khêu gợi đó, tiếng Anh người ta gọi là erotic. Chúng ta, người đọc, có thể coi là “gợi” hay không “gợi.” Tuỳ mạng mỡ. Tôi đề nghị tạm dùng gợi tình như một tương đương của erotic cho đến khi có vị thông thái nào đó tìm được cho ta một từ có ý nghĩa đầy đủ và đúng đắn hơn.”

Lê thị Huệ : Cám ơn nhà văn Võ Đình đã dành thì giờ cho cuộc phỏng vấn này. 

Võ Đình : Tôi cảm ơn Gió-O và Lê Thị Huệ đã tạo cơ hội cho tôi nói đôi điều cùng độc giả trên mạng.

Tháng 5, 2006
© 2006 gio-o







Tranh Võ Đình




















































































































































Võ Đình tự họa
tranh khắc gỗ








Tham khảo thêm về nhà văn họa sĩ Võ Đình



Thụy Khuê: Võ Đình, Thân xác như một chất liệu nghệ thuật



Phan Nhiên Họa: Võ Đình , người chưa gặp




Không Hư Hoàng Quốc Bảo: Võ Đình và nét màu sắc không







Thế Uyên: Võ Đình, người bạn chưa gặp mặt




Tôi được biết đến Võ Đình từ trước 1975 là do Doãn Quốc Sĩ giới thiệu và ca tụng. Nhìn tập sách mỏng do nhà văn này vừa ở Âu châu về trang trí, nét vẽ nghệch ngoạc không có màu, diễn tả “Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng” (ca dao), tôi chẳng thấy đẹp, dù Doãn Quốc Sĩ ca tụng không cạn lời. Nhiều năm sau, đến Hoa kỳ, được coi tranh có màu của Võ Đình, tôi mới thấy các tranh của hoạ sĩ này là đẹp, với lối dùng màu tung toé ra mặt giấy và vải vẽ. Dĩ nhiên vào thời kỳ còn ở Việt Nam, tôi đã quên phăng nhà văn có tên dễ nhớ là Võ Đình ấy, cho tới nhiều năm về sau, khi tôi đã đến được Seattle. Vào một kỳ nghỉ, mấy bố con thay nhau lái chiếc xe cũ xuôi miền Cali, đến tạm trú vài hôm nơi nhà Nguyễn Mộng Gíac thuê chung với “thầy” Từ Mẫn — tu sĩ này đã hoàn tục, mặc thường phục và vẫn làm nhà xuát bản như hồi nội địa. Từ Mẫn tặng tôi ít sách mới in, trong đó có Xứ Sấm Sét của Võ Đình. Cả hai vợ chồng tôi thay phiên nhau đọc và phục tài viết của nhà văn này, ngang hàng với những nhà văn hàng đầu hiện đại. Và cũng trong dịp này tôi được đọc cuốn sách đầu tiên Nụ cười tre trúc của nhà văn Nam Kỳ ở Pháp/Canada lâu năm là Kiệt Tấn.
Cả hai nhà văn này, một già một trẻ, đều viết về sex táo bạo, thẳng tay thẳng chân hơn tôi nhiều. Chẳng hiểu sao ở hải ngoại cũng như nội địa năm xưa, cứ bàn tới truyện sex trong văn chương, là người ta lôi cổ Thế Uyên ra, trong khi người đầu tiên đưa sex vào văn xuôi thế kỷ 20 là nhà văn Lê Hoằng Mưu (thập niên 10, thế kỷ 20, Oán hồng quần, Người buôn ngọc) ở Nam kỳ,Vũ Trọng Phụng (thập niên 40, thế kỷ 20, Số đỏ, Làm đĩ...) ở Bắc kỳ. Thậm chí tới tự điển bách khoa về văn học Việt Nam của Mỹ (Wikipedia) hiện nay cũng nhấn mạnh về khía cạnh đó trong phần chót của tiểu sử Thế Uyên. Tôi bày tỏ sự ngạc nhiên này trong một thư viết cho Võ Đình, người đã dịch “Căn nhà người mẹ” của tôi sang tiếng Anh và đăng trên một tạp chí đại học ở miền Đông. Nhân tiện dịp này tôi cũng liệt kê vài chi tiết Võ Đình viêt trực tiếp tới các cơ phận nam và nữ (thí dụ: tinh trùng của chú tiểu vọt ra, một đầu rùa nhô ra...). Tại sao dư luận văn học không ai để ý tới? Khi trả lời thư này, Võ Đình kèm theo một bài thơ tả “blow job” đàng hoàng — đăng lọt một số Văn Học nào đó của “ông đồ” nghiêm chỉnh Nguyễn Mộng Giác (gọi là ông đồ vì viết nhiều bậc nhất hải ngoại nhưng không có sex) — và cắt nghĩa không ai để ý bởi vì Võ Đình miêu tả, nhắc tới sex một cách erotic, còn Thế Uyên viết về sex là sex, không lôi thôi gì cả, không thả hoả mù, không cài hoa lá cành.
Tôi còn không đồng ý với anh về vấn đề thế nào là nhiều sex hay ít sex trong một tác phẩm văn học, vì vấn đề này thay đổi tuỳ hoàn cảnh (không gian và thời gian), và tuỳ sự trưởng thành của người đọc, người nhìn. Hơn nữa biên giới giữa erotic và porno nhiều khi rất khó phân biệt trong văn chương và nghệ thuật trình diễn. Một lần, có một phái đoàn văn nghệ một nước Phi châu đến NewYork trình diễn trong một chương trình trao đổi văn hoá. Khi biết các nữ vũ công Phi sẽ nhảy ngực trần, ông đại diện phía Mỹ tá hoả tam tinh, phản đối, kêu không hợp với thuần phong mỹ tục (của Mỹ). Và yêu cầu các nữ vũ công Phi châu phải mặc áo vào. Ông đại diện đoàn Phi châu thản nhiên: Đồng ý, với điều kiện: tháng tới khi sang Phi đáp lễ, các nữ vũ công Mỹ phải cởi áo ra để ngực trần...
Tranh luận hoài cho đến khi tôi đưa ra nguyên tắc chung là: thế nào là nhiều/ít sex, có hay không khiêu dâm là tuỳ resume của từng cá nhân. Đến đó thì Võ Đình thôi không tranh luận về vấn đề này nữa. Giữa hai chúng tôi, thiếu gì vấn đề để trao đổi. Võ Đình hay cằn nhằn tôi về lối viết cẩu thả, và vấn đề này Võ Đình có ngay một đồng minh là vợ tôi: bà ấy cũng hay than như thế. Chỉ mình tôi biết là oan một phần, lý do tôi ít khi được ở gần nhà in để sửa bài cho chinh xác, đa số trông cậy vào người khác. Và người khác thì lắm khi quá bận, để quên bản đã sửa của tôi đâu đó, đến hạn in nhà in cứ in bản trên computer, kết quả là ông nhà văn lãnh đủ, như tập truyện “Nhà văn già và cô bé gù”. Một phần khác tại bút pháp của tôi thường bồng bềnh phóng khoáng. Văn chương như mây trên trời, mang vào giấy không nên gò bó. Về từ sử dụng, tôi tránh dùng từ phức tạp, cầu kỳ, gọt dũa, kiểuBản chúc thư trên ngọn đỉnh trời (Mai Thảo), Hố thẳm của tư tưởng (Phạm Công Thiện)...
Hai vợ chồng tôi cùng thich đọc Võ Đình, nhiều cuốn đọc đi ít lâu sau đọc lại không biết chán. Võ Đình là nhà văn người Huế, khúc giữa của Việt Nam, nên đôi khi anh nhận xét đúng và ngộ nghĩnh: gái Bắc hà mặc váy và đái đứng, gái Nam hà mặc quần và đái ngồi, nhưng nước tiểu đàn bà ba miền đều “độc” như nhau: Võ Đình tả một cậu bé đưa một cô gái đi cắt cỏ. Buồn đái, ra bãi trống phía sau nhà, cậu bé thấy cô vén váy đái một vũng lớn nổi bọt phập phồng. Khi cô đi rối, cậu bé vén chim đái, cố nhằm trúng những bong bóng chưa tan hết. Sau đó cậu bé đau một trận lớn cả tháng mới khỏi.
Một cựu huynh trưởng hướng đạo bạn tôi hiện định cư ở Paris kể: Có lần họp bạn ở một vùng quê nuôi nhiều cá tra, anh chọn một nơi có hai ao gần nhau, cắm biển một bên đề nam một bên đề nữ. Ông chủ ao lên tiếng: “Cậu làm thế chết cá trong ao tôi cho mà coi!” Anh huynh trưởng không tin, tuyên bố nếu chết cá, anh bồi thường. Và anh phải bồi thường thật vi chỉ hai hôm sau cá trong ao “nữ” chết nổi lên...!
Không phải lúc nào Võ Đình cũng quan tâm đến những “hình như hạ” như thế, mà lãng đãng ám ảnh khôn nguôi bởi hình ảnh một người nữ chỉ nhìn, gặp thoáng qua vì nàng lái xe. Đó là một thiếu phụ trẻ, đôi môi thoa son hồng nổi trên nền trắng của đôi bao tay. Từ đó thuê nhà nào anh cũng thu xếp để một phòng để trống, tuyệt đối không đồ đạc, để mỗi khi muốn, anh vào ngồi một xó, yên tĩnh và im lặng. Anh cứ như thế ngồi thoải mái, cho tới khi vợ con gọi xuống ăn cơm chiều. Có lần hình ảnh nàng hiện ra từ từ êm ái trong phòng, có khi nàng hiện ra, khoả thân từ từ chậm rãi qua sự biến đổi của đám mây trên trời về chiều.
Mỗi người đàn ông (và nhiều khi cả đàn bà) thường có hình ảnh một người nữ lý tưởng, và khi gặp một người nữ có đôi nét hao hao, là dễ yêu ngay người đó. Tôi không may mắn có tâm hồn nhạy cảm tưởng tượng phong phú, để ngồi một mình phòng vắng, chạy bộ ngoài trời, đều thấy được nàng. Dưới hai mươi tuổi, tôi cảm tình nặng, gọi là yêu cũng được, một cô tên Mặt Trăng một cô tên Mặt Trời, rồi đều phải xa cách cả hai. Vài năm sau, trong phòng thi Tú tài, tôi gặp một nữ thí sinh đang ngồi khóc vì vấn đáp vật lý không cao điểm. Tôi rút khăn tay ra đưa nàng lau nước mắt, nàng ngửng lên nhìn thẳng vào mắt tôi. Thế là xong. Không phải là sét đánh đến rầm một cái choáng váng mặt mày đâu, mà là một cảm giác nhẹ nhàng của sự tìm thây một cái gì đi tìm từ nhiều kiếp trước. Và tìm thấy rồi là yêu nhau thôi, không kinh qua chặng tán tỉnh. Nói cách khác tôi lấy vợ khá nhanh không kịp tán theo lệ thường, thành vợ chồng với nhau rồi tôi mới... tán vợ đều đều, đến hiện nay...
Võ Đình tưởng tìm thấy “nàng tóc vàng sợi nhỏ” qua nàng Helene, nhưng không phải, bèn lấy cô em Alice, cũng không phải nốt (tôi phục ông hoạ sĩ này đang ở bên Tây mà hoa thơm bứng cả cụm được)... Khi tôi chủ động làm quen, kết bạn thư từ và trao đổi hình ảnh gia đình với anh, thì vợ anh là một phụ nữ Á châu khá xinh không rõ quốc tịch. Trong một chuyến sang thăm gia đình ỏ Virginia, nhân dịp có một hai ngày trống, tôi điện thoại, đề nghị sẽ đến thăm anh và coi tranh đã vẽ. Anh từ chối, viện lẽ nơi anh ở hoang vắng, khó tới lắm. Lúc đó tôi tưởng anh bận vẽ dở cái gì hào hứng lắm nên tạ khách. Sau này, tôi có coi phim kinh dị “The Blair Witch project” do một nhóm sinh viên thực hiện, và được biết phim lấy khung cảnh nơi anh ở. Khi đó tôi biết anh đã nói thật, nơi anh ở hoang vu, hoang vắng thật sự, và đọc văn thấy anh có vẻ khó tính và giác quan bén nhạy. Có người bạn cho anh một cây chanh nhỏ, mùa đông đến anh mang vào phòng khách nhưng cây vẫn từ từ rụng lá. Một đêm đang ngủ bỗng bừng thức giấc, anh đi ra phòng khách xem có chuyện gì: hoá ra cây chanh vừa rụng chiếc lá cuối cùng... Một người nhạy cảm và thính tai như thế hẳn dễ giận, mà tôi thì lại hay chọc, mỉa mai đùa chơi bạn bè... Từ đó bỏ ý định đến thăm Võ Đình. Nhất là khi đọc truyện “Huyệt tuyết” tả anh đã tìm thấy người yêu lý tưởng nằm dưới một huyệt tuyết trong vườn nhà, lúc đó là mùa đông cảnh vật trắng xoá, anh đưa tay sờ một bên vú nàng. Nàng tan biến thành tuyết lạnh ngắt.
Sau đó một khoảng thời gian, không nhớ rõ là bao lâu, tôi được tin anh đã rời bỏ vùng băng giá hoang vu, dọn nhà xuống miền nắng ấm Florida, định cư tại Orlando. Chưa kịp tìm địa chỉ để hỏi thăm thì đã nhận từ anh một ảnh khổ bưu ảnh, đằng sau có hàng chữ: “Hãy nhin kỹ người đàn bà ngồi đầu bàn, Trần Thị Lai Hồng bạn anh phải không, hai đứa tôi là vợ chồng rồi...” Hai vợ chồng tôi cùng ngạc nhiên vì sự kết hợp này: ông chồng là cây phiêu bạt, hết Pháp (Âu châu...) rồi đến Mỹ ẩn dật một nơi hoang vắng; người vợ là người định cư cùng miền với tôi, làm một tờ báo và có tài vẽ trên lụa. Chính chị là người đầu tiên phỏng vấn tôi ở Mỹ, và Tết năm đó tuyết băng phủ đầy trời, đè nặng trên lều lớn ở sân chùa Cổ Lâm, Seattle, chị cùng chị Tuý Hồng ngồi sau bàn báo xuân, cạnh một lò sưởi nhỏ vặn tối đa để chống lạnh. Sau màn chào hỏi và chúc tết, khi thấy hai vợ chồng tôi sắp rút lui vì lạnh, chị Lai Hồng lấy trên bàn một hũ dưa món nhà làm tặng vợ tôi. Dưa món thật ngon ăn với bánh chưng mua ở sân chùa, vợ tôi tấm tắc khen tài nữ công của chị.
Kẻ bên đông người bên tây cách nhau cả một lục địa, tại sao lại có thể gặp nhau, lấy nhau gọn đẹp ngon lành như thế. Có lẽ điểm cắt nghĩa được là cả hai đều là người Huế chăng? Lữ thứ gặp nhau, kết duyên Tần Tấn chăng? (Tôi dùng điển tích mà không cắt nghĩa vì cảm thấy thế mới hợp với đôi hơi... già mới kết hôn thêm một lần nữa). Kể từ khi có vợ mới, về miền nắng ấm ở, anh cùng vợ thi nhau trồng cây, đủ thứ đủ loại. Thỉnh thoảng vẫn trao đổi thư từ với tôi, anh viết thôi, còn chị thường chỉ ký tên vô một góc nào đó, cho thế là đủ rồi. Có một lần chị nhiều lời nhất là gửi tặng vợ chồng tôi một tấm lịch chụp các cô gái Việt mặc áo dài do chị vẽ. Rực rỡ, mơ màng, đẹp. Tôi chỉ biết diễn tả như thế thôi.
Rồi một ngày nào đó, anh email cho tôi bằng cỡ chữ to bự, chắc anh dùng size 18, giao hẹn kể từ nay phải dùng chữ cỡ lớn như thế anh mới đọc được. Tôi không nghe, hay chưa nghe, chỉ vì trận đau lớn cách đây 10 năm đã xoá trung tâm bộ nhớ của tôi về cách sử dụng computer mà tôi đã học được, khiến tôi loay hoay không biết làm thế nào viết chữ lớn như anh. Rồi đang yêu đời, đang nằm trên giường lơ mơ, bỗng nhiên tôi nói không được nữa; vợ con đưa vào bệnh viện, bác sĩ điều trị lắc đầu vì không biết tại sao tôi bị nhiễm trùng máu hơi nặng. Không còn thì giờ thử xem tôi hợp với loại trụ sinh nào, bác sĩ điều trị cho uống cả ba loại trụ sinh hiện hành. Cứu được tôi, nhưng làm rối loạn hệ thống tiêu hoá, một sự rối loạn làm khổ các y tá và vợ tôi không phải ít. Sau ít hôm, lại thêm cơ phận mật rối loạn, phải giải phẫu. Tôi cứ thế đau lắc lư con tàu đi vào nơi sắc bất dị không không bất dị sắc gần nửa năm, lúc tỉnh ra thì mắt mũi kèm nhèm, bà vợ phải đưa tôi vô bệnh viện về mắt, cắt cườm mắt phải, mua kính thử kính mới. Lụi cụi lỉnh kỉnh như thế cho đến khi có thể nhìn rõ, học dùng computer trở lại cũng hơi lâu một chút. Tôi lại ngồi trước bàn phím, tình cờ vô website “Gió O” của Lê Thị Huệ, được theo dõi buổi ra mắt cuốn Đất và Trời của Võ Đình ở miền Đông Hoa Kỳ. Nhìn hình anh mũ áo chỉnh tề, đeo kính đen như các vị Lốc cốc tử, toạ thiền tham dự buổi ra mắt sách của chinh mình, tôi không cần đoán cũng biết anh sắp đi vào khoảng vô thuỷ vô chung, sắc sắc không không lẫn lộn.
Tôi là một Phật tử không thuần thành, nhưng anh thì thuần thành khỏi chê. Anh có tin ở luân hồi chứ, vậy kiếp sau anh sẽ chọn làm gì? Làm một con bướm thẫm màu, vỗ cánh rất êm ái? Còn tôi, kiếp sau sẽ chọn làm một con bò Ấn-độ, đủng đỉnh dạo chơi giữa thành phố đông người...

Seattle, tháng 6, 09.









Huỳnh Hữu Ủy: Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại












Bút tích Võ Đình









Võ Đình & Đinh Cường 
Huế 1974







Võ Đình & Alice 








Đinh Cường, Hồ Đình Nghiêm, Châu Bích Ngọc, Võ Đình







Võ Đình, con gái Linh Giang, Thích Nhất Hạnh








Trương Bình, Doãn Quốc Sỹ, Võ Đình







Hồ Đình Nghiêm & Võ Đình







Võ Đình & Phan Nguyên 





(Võ Đình xem tranh Phan Nguyên)

Có một bức họa của Phan Nguyên, in lại trong một tạp chí nào đó, tôi được thấy từ lâu và nhớ mãi.

Toàn bức vẽ, màu vàng là chính, một màu vàng lát gừng, đùng đục, nằng nặng. Một hình tượng ở giữa, xoáy lên, ngược chiều kim đồng hồ - nghĩa là cùng chiều với một cơn bão dữ. Sơn vàng có pha trắng và vàng đất sét (ochre) làm thành một chất liệu dày, đặc, câm nín. Nét tung tóe của hình tượng lại chứng tỏ trong đó có một năng lực ngầm, một thứ lửa ngún. Những vết nâu, đỏ, nương theo mảng sơn vàng bị rách nát - bởi cán cọ hay bởi dao vẽ - tạo nên thế quay cuồng của hình tượng trên và trong một nền, một không gian, trống vắng yên tĩnh.
Mãi đến năm 1995, tôi mới thấy lại bức tranh ấy. In trong Tập II của bộ Văn học Việt Nam Hải Ngoại, 1975 - 1995 (Đại Nam, California, 1995).
Và mãi đến bốn năm sau, 1999, tôi mới gặp họa sĩ Phan Nguyên lần đầu tiên ở Paris, Pháp quốc.
Con người dáng dấp điệu nghệ, cung cách đàng hoàng, ăn nói điền đạm ấy đã đem cả dông tố lòng mình dàn trải trên mặt tranh.

Họa phẩm trên được vẽ mười năm trước, 1992, có tên là Xung Động III. Từ đó, Phan Nguyên đi qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn nào cũng mang vết tích vật vã, trăn trở, truy lùng. "Xung Động" (Impulsion), Không Gian Huyền Hoặc" (Espace Inconnu), "Mảnh Vụn" (Fractus), chỉ những nhan đề tranh không thôi đã nói lên hành trình tìm kiếm cái "không nắm bắt được".

Trực diện với hiện hữu nhiệm màu, biến hóa khôn lường, người nghệ sĩ không thể không băn khoăn, đau khổ. Tranh Phan Nguyên là tiếng kêu trầm thống của con người trong "không gian huyền hoặc" ấy.

Saint-Exupéry viết trong "Hoàng tử Bé" (Le Petit Prince): "nhà cửa, trăng sao, sa mạc, cái đẹp của chúng là cái vô hình"

Cái vô hình, chính là cái "không nắm bắt được". Đi tìm, và biểu hiện cái vô hình là hạnh phúc vô tận - mà cũng là con đường gian nan vô cùng - của Phan Nguyên. Tôi chỉ còn biết, trong cõi mịt mùng, chúc cho thuyền buồm anh no gió ngoài khơi...


Võ Đình
bãi Kè Ngự
năm 2000





Võ Đình & Phan Nguyên
Studio Péan, năm 2000 (Pháp)






Võ Đình, Đặng Tiến, Phan Nguyên, Thụy Khuê, Lai Hồng, Lê Tất Luyện.
Triễn Lãm tranh Võ Đình & Phan Nguyên năm 2000, Paris









Võ Đình & Trần Thị Lai Hồng













Trở về 






MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.