Thứ Tư, 20 tháng 10, 2021

Trịnh Cung














Trịnh Cung
(1938 - ......) Nha Trang
Tên Thật: Nguyễn Văn Liễu
Họa Sĩ. Nhà Thơ









Trước đây tôi cứ tưởng những gì mình tạo ra là do chính mình làm ra, nhưng giờ thấy không phải vậy. Sự thật là số phận đã làm ra tất cả.
 Sg 8.4.2010






*



1962- Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế
1970-1973- Dạy tại Cao Đẳng Huế & Gia Định
1994- Triển lãm cá nhân tại Paris
1996- Thỉnh giảng Mỹ Thuật tại Đại Học San Francisco State University
1997- Triển lãm cá nhân tại Orange County & Washington DC
1998- Triển lãm cá nhân tại Los Angeles
1999- Thỉnh giảng Mỹ Thuật tại ĐH Indiana
2007- Đọc tham luận "Hội Họa VN từ chiến tranh đến hòa bình" tại ĐH Mass Hoa Kỳ
2008- Đọc tham luận "Mỹ Thuật VN thời chiến tranh và hậu quả" tại Singapore Art Museum



*


Sáng tác mới nhất



Mang dần tôi về nơi tôi vẫn thường mơ











Sách đã in:

Echo of the land
(vựng tập) Hoa kỳ 1997

Nội Tình Cái Hẻm (thơ) 
nxb Cửa 2008







bài thơ cho con đầu lòng đã mất
TRỊNH CUNG


Buổi sáng trở về đơn vị
Ba đem con theo
Trên chiếc xe Vespa già
(Chiếc xe mua bằng tiền của bà nội)
Ba đi lính không có tiền dư
Chỉ dư những ngày phạt
Chiếc xe thì rung và ba thì bàng hoàng
Mà con thì ngủ
Ôi giấc ngủ con
Không bao giờ thức dậy
Khi mặt trời mới nở môi hồng
Là khi trái tim ba sụp tối
Buổi sáng trở về đơn vị
Con đường qua nhiều dòng sông
Ba chọn một dòng sông nhỏ
Nhỏ như giấc mơ
Của mẹ của ba
Cho con yên nghỉ bên bờ
Có cỏ xanh và những bông lau trắng
Dòng sông sẽ cất tiếng hát khi con buồn
Và vỗ về khi con khóc
Những sáng về đơn vị
Những chiều từ đơn vị về
Ba sẽ kể với mẹ
Dòng sông đang nâng niu con
Bằng đôi tay mầu ngọc
Dòng sông đã trở thành bạn hiền
Như những nhánh cỏ xanh
Và những bông lau trắng
Những sáng về đơn vị
Những chiều từ đơn vị về
Chiếc xe Vespa già
Sẽ cùng Ba dừng lại
Gởi cho con cùng dòng sông
Những nhánh cỏ xanh
Và những bông lau trắng
Nhiều nụ hôn lặng yên

(Khởi Hành số 15 ngày 7-8-1969)







một bông hồng đầu năm cho em

em chợt đến từ một dòng sông nhỏ
dáng đơn sơ và mộng rất bình thường
anh chờ đợi hồn đã nguôi gió bão
mười ngón tay gầy thắp một bông hồng
em ngồi đó cho thuyền im đôi chút
đêm dịu dàng đêm mở cửa đêm minh châu
em ngồi đó anh dâng ngôi sầu mới
và một bông hồng hái tận cõi tình sâu
giờ tuyệt đỉnh trăng sao xin mời lại
hãy quây quần chứng giám cuộc hôn mê
chờ gì nữa những chim ngoài nam hải
nhạc mùa cao xin nhẹ cánh bay về
em đã đến một miền xuân lạ
với thiên nhiên xanh ngất cuộc đời sau
đã lâu rồi hồn anh chìm dưới bão
bỗng sáng lên mầu ngọc quí minh châu.

(Văn số 77, ngày 1 tháng 3 năm 1967)















CUỘC PHỎNG VẤN VỀ QUAN NIỆM HỘI HỌA
do NGUYỄN NGU-Í phụ trách
* TRỊNH-CUNG


Tên thật: Nguyễn Văn-Liễu
Sinh ngày: 31-12-1939 tại Trường Tây, tỉnh Khánh-Hòa (Trung-Việt).
Tốt nghiệp trường Cao-đẳng Mỹ-thuật Huế.
Một trong 16 họa sĩ và điêu khắc gia Việt được tuyển chọn tham dự Đệ Nhất Triển lãm Mỹ thuật quốc tế kì thứ nhất tại Sài-Gòn (tháng X-1962).

Anh Ngu Í,
Nền Hội họa chúng ta hiện nay đang giữ một địa vị quá khiêm nhường. Sự thất bại của những tấm tranh Việt tham dự cuộc triển lãm quốc tế Nghệ thuật lưỡng niên tại Bảo tàng viện NGHỆ- THUẬT HIỆN ĐẠI BA-LÊ vừa rồi là một bằng chứng rõ rệt. Các tạp chí chuyên về Nghệ thuật ở Pháp đã nói gì về hội họa Việt ta? Số tranh được gửi qua, ban tổ chức cuộc triển lãm nói trên đã phải loại đi hơn một nửa. Theo tôi, sự thất bại đó là một lẽ tất nhiên. Nhận đó là một thất bại tất nhiên, không phải vì chúng ta mang nặng mặc cảm, sự thất bại này được ghi nhận bởi nhiều lí do buộc chúng ta phải nhìn thẳng vào nó bằng đôi mắt can đảm và một tinh thần phục thiện, thì mới mong đưa Hội họa nước nhà tiến lên địa vị ưu tú được.
Điều trước tiên tôi lưu ý là họa sĩ Việt ta phần lớn không được học hỏi đầy đủ. Làm Hội họa ngày nay không phải chỉ cần có sự khéo tay, mà nó còn đòi hỏi một kiến thức càng rộng càng tốt. Nhiều cuộc triển lãm yếu kém được mở ra luôn; tuy vậy tình trạng này không thể tránh được vì số họa sĩ có khả năng và ý thức lại ít oi, hơn nữa phần nhiều họ không có đủ phương tiện để tạo được một phòng tranh giá trị. Chúng ta phải biết rằng trong khi đó tại riêng thành phố Đông-Kinh, đã có đến 10000 họa sĩ thực thụ. Ngoài hai trường Cao đẳng Mỹ-thuật Huế và Gia Định hiện nay, chúng ta cần phải có thêm nhiều xưởng họa tự do và nhiều họa sư có kiến thức rộng đứng ra hướng dẫn những người chân thành quyết tâm bước vào thế giới nét, màu.
Ngoài ra sự nghèo khổ, sự thành kiến bảo thủ quá đáng cản trở rất lớn trong việc phát triển Nghệ thuật nước nhà. Hiện có nhiều họa sĩ ưu tú vẫn không kiếm đủ tiền để mua sơn. Tranh vẽ theo lối mới (MỚI, có ý thức) không bán được. Các nhà sưu tập tranh hầu hết là người ngoại quốc!
Thêm vào tình trạng đó, một ít người có đặc trách về công cuộc phát triển Mỹ- thuật lại không cảm thông được những xao xuyến, những ưu tư của lớp họa sĩ trẻ tuổi đang mang trên vai thế kỉ của mình. Phải chăng vì tuổi già nên khó tánh? Dù sao thì cũng đã tạo ra giữa hai thế hệ một bầu không khí buồn tẻ đáng tiếc.
Bởi hai lớp người có hai cuộc sống khác nhau. Chế độ chính trị, chiến tranh, các trào lưu triết học hiện tại, đời sống xã hội, đời sống tình cảm mỗi thế hệ mỗi khác nhau thì làm sao không xảy ra được những khoảng cách giữa nhau. Sự kiện này đã đưa đến một vài hậu quả như: nhiều sinh viên Mĩ-thuật có tài (nhiều giải thưởng Hội họa quan trọng đã lọt vào tay những người này) đã phải bỏ trường, sự chia rẽ giữa khuynh hướng mới và cũ, những phản ứng quá trớn của một vài họa sĩ trẻ tuổi với những người đáng cho chúng ta phải kính trọng họ vì tuổi tác, vì thành tích. Tất cả những điều này đã tạo nên cái không khí u ám, nặng nề đáng tiếc cho cuộc sống nghệ thuật nước nhà. Lớp người cũ không thể nào sống như lớp trẻ, nhưng không thể không chấp nhận nó bởi nó là một thực tại, và chấp nhận nó thì phải chấp nhận Nghệ thuật do nó tạo nên – tiếng nói Nghệ thuật chính thức của thời đại nó.
*
Anh Ngu-Í,
Tôi đã chọn câu hỏi chót trong số những câu hỏi anh gửi cho tôi để mở đầu bài trả lời này, bây giờ tôi xin lần lượt trả lời những câu hỏi còn lại.
Câu hỏi I — Không có xu hướng nào nổi bật cả. Riêng tôi còn đang học hỏi nên chưa thể trả lời được.
Câu hỏi II.- Tôi không nghĩ đến việc tìm dân tộc tính hay quốc tế tính trong khi tôi vẽ. Vấn đề nên đặt ra là họa phẩm của tôi hay không mà thôi. Tranh của Braque để bên tranh Picasso, hoặc tranh của Klu đặt bên tranh của Miro, thì có ai nhìn được quốc tịch của từng họa sĩ trên tranh họ không? Tâm trạng là tâm trạng chung, họa sĩ nước này hay nước khác chỉ khác nhau ở việc khoác lên tâm trạng mình bằng chiếc áo địa phương của họ mà thôi. Không phải vẽ mấy ông mặc áo rộng, đi hia, đội mũ cánh chuồn rồi bảo đó là dân tộc tính; như của một họa sĩ xứ nhà nào đó thì thật là một ngộ nhận to lớn.
Câu hỏi III– Tôi chưa có tấm tranh nào ưng ý nhất. Bây giờ tôi chỉ còn có hai tấm tranh mà thôi, đó là bức “MÙA THU TUỔI NHỎ” (1), sơn dầu khổ 1m10X70cm, và bức Nhện cũng sơn dầu khổ 90cmX60cm.
Câu hỏi IV- Nền Hội họa hiện nay của chúng ta còn nghèo nàn, nhưng có triển vọng nếu Hội họa Mới và cuộc sống của họa sĩ được đặc biệt lưu ý.
Câu hỏi V- Tôi không có nguyện vọng gì hết, ngoài một điều: là có đầy đủ phương tiện: càng nhiều tiền càng tốt. Nguyện vọng chung thì chính quyền giúp đỡ họa sĩ tích cực hơn chẳng hạn như mở nhiều xưởng họa quốc gia cho những họa sĩ có khả năng vào đó sáng tác hằng tháng có lương bổng đều đặn. Kết quả sẽ được hai điểm:
1) sẽ có nhiều họa phẩm giá trị làm hãnh diện nền Hội họa Việt.
2) Đời sống họa sĩ được sáng sủa hơn.
Câu hỏi VI. Muốn cho Hội họa nước nhà phát triển? và công chúng yêu thích Hội họa? Cần nhiều thời gian mới mong thực hiện được hai điều này.
Nên đặc biệt liên ý vấn đề giáo dục Hội họa ở trường học.
Hội họa đối với một người văn minh thật quan trọng vì nó nằm ngay trong đời sống hằng ngày của con người. André Gide đã nói:
“Khí cụ lớn nhất của Văn hóa không phải là Âm nhạc, mà là Hội họa”.
Anh Ngu-Í,
Tôi viết dài quá, chỉ làm mất thì giờ và mệt mắt người đọc mà thôi, tôi có lời xin lỗi chung.
Sài-Gòn, 12-10-62.
TRỊNH-CUNG

(1) Triển lãm Mỹ thuật Quốc tế lần I ở Sài Gòn 1962
(Bách Khoa số 141 ngày 15-11-1962)




Tranh "Mùa thu tuổi nhỏ", Trịnh Cung 1961












Bi Kịch Trịnh Công Sơn


Tôi gặp Trịnh Công Sơn vào năm 1956 tại Huế, lúc đó Sơn khoảng 17 tuổi và tôi 18 tuổi. Chúng tôi chơi với nhau vì cùng tâm hồn thi ca, và bởi vì lúc đó tôi chưa hề là họa sĩ.

Sơn thích thơ của tôi và đã phổ bài “Cuối cùng cho một tình yêu” năm đó. Trước đó, Trịnh Công Sơn đã viết “Ướt Mi”, “Thương một người” và “Nhìn những mùa Thu đi”. Ngôn ngữ của “Ướt Mi”, “Thương một người” và “Nhìn những mùa Thu đi” còn nhẹ nhàng, và còn có gì đó ảnh hưởng của Đặng Thế Phong trong “Giọt Mưa Thu” hoặc “Buồn Tàn Thu” của Văn Cao, nhưng đến khi Sơn phổ nhạc bài thơ của tôi, nhạc của Sơn bắt đầu một chương khác, do ngôn ngữ của bài thơ lúc đó rất là mới. Tôi đã dùng những chữ “đói”, “mỏi” trong thơ, mà lúc này Sơn lại thích bài thơ đó. Tuy nhiên theo tôi, bài Diễm Xưa của Sơn mới là mở đầu của một Trịnh Công Sơn hoàn toàn mới lạ và cực kỳ hấp dẫn trong nhạc trẻ, giới trẻ hồi đó.

Cuộc đời của Sơn là một bi kịch. Ba của Sơn mất lúc anh đang học ở Chasseloup Laubat – một trường dạy chương trình Pháp – và đang chuẩn bị thi Bac thì Sơn phải bỏ học để về chịu tang ba.

Sơn rất giỏi thể thao. Anh tập 10 môn phối hợp rất được chú ý ở trường học. Sơn cũng giỏi về Nhu Đạo và Boxing. Trong một buổi dợt với người em là Trịnh Quang Hà, anh đã bị một cú choàng vai, và bị tổn thương phổi rất nặng, nên phải bỏ cuộc, và nằm dưỡng bệnh hai năm. Nếu Sơn không bị những sự kiện đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi học ở Paris và sẽ trở thành một tiến sĩ, một bác sĩ, một kỹ sư… chứ không phải là một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Tôi cho biến cố đó đã đặt Trịnh Công Sơn vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng. Sơn tập chơi guitare, tự học guitare với một người bạn, rồi sau đó viết ca khúc “Ướt Mi”, “Nhìn Những Mùa Thu Đi”. Khi tôi gặp Sơn, thì anh đã bình phục. Sơn không có điều kiện trở lại Sài Gòn để học tiếp ở Chasseloup Laubat vì gia đình anh bị phá sản. Sau đó, để tránh cho Sơn khỏi phải đi quân dịch, một số bạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha đã giúp Sơn thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn. Ca khúc Biển Nhớ đã ra đời tại trường sư phạm Quy Nhơn trong thời gian này. Nhân vật để Sơn viết bài Biển Nhớ là một người bạn gái có tên là Khê, nên có cái câu “Trời cao nối bước Sơn Khê.”

Sau đó Sơn lên B’Lao nhận chức trưởng giáo của một trường Thượng có hai lớp, cách nhà trọ khoảng năm bảy cây số. Sơn phải đạp xe vào làng để dạy. Tôi lên thăm Sơn, và đưa Sơn ra Đà Lạt để chơi cuối tuần. Một căn phòng trọ với bốn bức vách đầy chim và bao thuốc lá Bastos, ở đó Sơn đã bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của anh với những bài như Du Mục, như Xin Mặt Trời Ngủ Yên, như Tiếng Hát Dạ Lan. Và đó cũng là thời gian anh viết những ca khúc về thân phận, và những tình khúc. Đó chính là thời điểm tôi và Sơn gặp Khánh Ly tại một phòng trà ca nhạc nhỏ ở Đà Lạt.

Thật ra, người hát đầu tiên nhạc Trịnh Công Sơn và làm cho công chúng yêu nhạc Sài Gòn biết đến Sơn không phải là Khánh Ly mà là Thanh Thúy. Sau đó Trịnh Công Sơn viết bài Thương Một Người để tặng cho chị với câu: “thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi vai…”

Tuy nhiên, theo tôi, người giữ lái con đò âm nhạc của Trịnh Công Sơn trên dòng sông của đất nước chính là Khánh Ly kể từ khi Diễm Xưa ra đời. Cuộc gặp gỡ một cô ca sĩ bé nhỏ trông rất là nhút nhác ở Đà Lạt lại là một định mệnh. Sơn đi tìm một người ca sĩ trẻ, hoàn toàn vô danh và Sơn bắt đầu từ giọng hát của Khánh Ly với sự tập luyện của chính anh, bởi vì lúc đó Sơn không quen biết những ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn. Và anh nghĩ dễ hơn là đi tìm một ca sĩ vô danh như Khánh Ly lúc đó. Ánh sáng của định mệnh đã chỉ cho Sơn đến với Khánh Ly, từ đó Khánh Ly đã tìm được nơi nương tựa và nơi phát triển tiếng hát của mình lên đỉnh cao.

Chúng tôi khuyến khích Sơn về Sài Gòn, bỏ dạy học, một cái nghề không thích hợp với Sơn. Tôi có căn phòng rất nhỏ ở đường Trương Minh Giảng. Sơn từ Đà Lạt về và đã ở lại với tôi trong nhiều năm. Căn phòng đó ở gần chợ Trương Minh Giảng, bên kia đường là nhà của Bùi Giáng, cũng trong một cái xóm nghèo. Nhà tôi là nơi tạm trú đầu tiên của Trịnh Công Sơn khi anh về Sài Gòn. Chính họa sĩ Đinh Cường một trong những người bạn rất thân với Sơn cũng thường ghé đến đó. Đôi khi ba chúng tôi ngủ chung trong một chiếc chiếu, và đã sống với nhau bằng đồng tiền dạy học của tôi.

Từ đó Sơn gặp anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn. Anh bắt đầu xuất hiện tại sân trường Đại Học Văn Khoa ở đường Lê Thánh Tôn nơi có trụ sở của Hội Họa Sĩ Trẻ và sau lưng đó là trụ sở của CPS, nơi mà Đỗ Ngọc Yến, Trần Đại Lộc, Hà Tường Cát… đã hoạt động chương trình mùa hè ở đó.

Tại sân cỏ này, Sơn đã giới thiệu Khánh Ly, và chị đã đi chân trần và hát cho Sinh Viên nghe. Rất nhanh họ trở thành thần tượng của tuổi trẻ Sàigòn, do tính chất mới mẻ và trẻ trung của nó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng âm nhạc ngay lúc đó. Phong trào du ca, của anh Nguyễn Đức Quang,… đã ra đời cùng thời điểm đó. Tôi cho đó là một thời điểm lịch sử, thật sự bùng nổ về văn nghệ của giới trẻ trong đó có chúng tôi – hội họa sĩ trẻ Việt Nam.

Chính thời đại đã sản sinh ra những hiện tượng như vậy, và Trịnh Công Sơn – Khánh Ly đã là những khuôn mặt nổi bật trong giới trẻ bấy giờ.
Trịnh Công Sơn – nối tiếp cao trào đó, đơn thân thêm nhiều bước trong lãnh vực âm nhạc của mình gần gũi với xã hội và thời cuộc đất nước hơn. Những Ca Khúc Da Vàng, rồi đến Kinh Việt Nam ra đời trong giai đoạn này.

Người ta gọi nhạc Trịnh Công Sơn – ở một số ca khúc – là nhạc phản chiến. Tôi đồng ý với anh Phạm Duy, chữ “phản chiến” không đầy đủ ý nghĩa của nó, bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án, có vẻ phải gánh chịu cái hậu quả của sự thất bại của Miền Nam. Tôi cho là chữ “thân phận” của người Việt thì khái quát hơn.

Một thanh niên Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào, vẫn đầy sự hồn nhiên, và vẫn đầy lòng lương thiện để có một lý tưởng cho dân tộc, cho sự công bằng, cho sự không đổ máu , cho sự đoàn kết, cho sự thương yêu… và cái chất đó có hầu hết ở chúng ta, và có hầu hết ở các lứa tuổi đang bước vào Đại Học. Nhưng tuổi trẻ không bao giờ lường trước được những âm mưu của chính trị, cho nên sự hồn nhiên đó phải trả giá.

Tôi và Sơn là hai người bạn, khác nhau hai hoàn cảnh. Tôi là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Tôi chấp nhận đi Thủ Đức bởi vì tôi không muốn sự bất hợp pháp. Tôi là một công dân tôi phải làm việc của người công dân, cho dù là chính quyền đó có thối nát, có gì đi nữa, tôi không chấp nhận sự bất hợp pháp cho nên tôi đi lính. Tôi thi hành nghĩa vụ của mình. Còn Sơn thì khác, anh không chấp nhận chuyện đó, Sơn chỉ đi vì lý tưởng của mình.

Bởi vì chúng ta là những con người chọn dân chủ, chọn tự do thì phải tôn trọng tự do của kẻ khác; vì vậy cho nên chúng tôi vẫn chơi với nhau trong tình người, còn việc làm của ai thì người đó đeo đuổi riêng của họ.

Đến ngày 30 tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó, Đỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ đề nghị Sơn đi, có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ. Tôi rất muốn đi Hoa Kỳ nhưng mà Đỗ Ngọc Yến lại không hỏi tôi. Sơn ở lại thì tôi cũng đành ở lại. Tôi thì đành thôi và sau đó thì tôi đi học tập ba năm.

Còn Sơn cũng không hơn tôi đâu. Khi các bạn đã rời khỏi đất nước ngày 30 tháng Tư, có lẽ các bạn không biết chuyện gì đã xảy ra cho Sơn. Sơn phải trốn ra Huế sau khi được đánh tiếng là sẽ bị thủ tiêu bởi vì tính chất hai mặt của Sơn trong âm nhạc và cuộc đời. Bởi vì Sơn là bạn của những nhân vật cao cấp của chính quyền Sài Gòn. Sơn đã từng viết Cho Một Người Nằm Xuống về cái chết của Lưu Kim Cương và đồng thời với Hai Mươi Năm Nội Chiến từng ngày, thì điều đó họ không chấp nhận. Tôi nghe kể lại cuộc họp ở trong khu người ta lên án Trịnh Công Sơn.

Chúng ta không biết bi kịch đó cho nên chúng ta có những ngộ nhận đáng tiếc. Sau đó Sơn phải về Huế để tìm một nơi nương tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em. Anh hy vọng là họ sẽ giúp đỡ mình; nhưng, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, ở đây Sơn còn bị nặng hơn nữa là bị tố cáo tại các trường học, các biểu ngữ giăng lên. Sơn phải lên đài truyền hình Huế nhận lỗi của mình, mà người ta gọi là bài thu hoạch. Sơn rất khéo léo trong bài nhận lỗi đó. Chính Sơn kể cho tôi nghe, Hoàng Phủ Ngọc Tường không đồng ý bài đó, nói phải viết lại vì chưa thành thật. Bạn thấy chưa?

Người ta quyết liệt ghê gớm lắm trong sự kiểm soát. Sơn đã đóng cửa nhà mình, không tiếp Hoàng Phủ Ngọc Tường trong nhiều năm. Sau đó, Sơn phải đi thực tế, tức là đi để biết người nông dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn đi trên những cánh đồng còn rải rác những chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần; một con trâu đã cứu Sơn khi nó đạp quả mìn mà đáng lẽ Sơn sẽ đạp.

Bởi vì tài năng âm nhạc của Sơn quá lớn, cho nên trong số những người lãnh đạo đất nước đó, cũng có người khôn ngoan hơn, biết cách thức hơn để giữ Sơn lại bằng cách bao bọc cho Sơn khỏi những tình huống hiểm nghèo như vậy. Họ đã tìm cách đưa Sơn về Sài Gòn, trả lại hộ khẩu cho Sơn, tạo điều kiện để cho Sơn yên tâm sống ở Sài Gòn.

Rất nhiều người nghe nhạc Sơn thầm lén nhất là từ miền Bắc, trong đó có nhiều đảng viên, nhưng không ai dám công khai thừa nhận nhạc của Sơn là tài sản của đất nước và Sơn không được phổ biến âm nhạc lúc đó – hiển nhiên âm nhạc hải ngoại là phản động. Ngay cả Sơn còn không được phổ biến, mà phải đợi một thời gian đổi mới và cải tổ. Vì vậy cho nên, Sơn là một bi kịch thu nhỏ của bi kịch đất nước. Và Sơn đã nghe được những luận điệu chống mình ở tại hải ngoại, nên Sơn rất sợ mặc dù có nhiều lời mời ở các đại học. Sơn đều không dám đi. Sơn từ chối, vì Sơn sợ cộng đồng ở đây sẽ đả đảo sẽ gây ra những nguy hiểm cho Sơn. Cho đến ngày Sơn mất. Có người đã đề nghị đưa Sơn sang đây để thay gan cho Sơn miễn phí nhưng Sơn cũng từ chối.

Trong thời gian 25 năm sau ngày mất Sài Gòn, tôi cũng kẹt ở lại. Tôi đã chơi với Sơn, và tôi đã không làm gì được cho Sơn, để Sơn bị một căn bịnh đã dẫn tới hậu quả tàn khốc, tức là nghiện rượu. Bởi vì buồn, bởi vì cô đơn, bởi vì không biết sử dụng thời gian để làm gì, vì những ca khúc viết ra đều bị phê bình nặng nề. Như bài “Em ra đi nơi này vẫn thế…” Ở bên này cũng kết án bài đó, ở bên kia lại kết án là “Tại sao đất nước đã thay da đổi thịt mà anh lại viết là em ra đi nơi này vẫn thế? Sài Gòn vẫn còn nguyên à?” Người nghệ sĩ luôn đi giữa hai lằn đạn! Có ai hiểu được là Sơn cô đơn như thế nào!

Và trong nhiều sáng tác của anh, nếu chúng ta tinh ý, thì chúng ta sẽ thấy tư tưởng của Trịnh Công Sơn sau ngày mất nước. Sơn đã viết “Đường chúng ta đi, đi không bao giờ tới…” Những ca khúc nói lên sự quạnh quẽ, sự tuyệt vọng, sự bất an của mình. Đó là một dòng nhạc đặc biệt mà có người không hiểu chê là thua những ca khúc anh viết trước 75 để chỉ chấp nhận tình khúc của anh mà thôi. Chúng ta không biết đến một dòng nhạc triết lý và đầy đau thương đã ra đời một cách lặng lẽ âm thầm.

Ngay cả bài Nhớ mùa thu Hà Nội cũng đã bị cấm hai năm, chỉ vì câu… chỉ vì câu gì các bạn biết không? Mùa Thu – chữ Mùa Thu Hà Nội đã trở thành thuật ngữ Cách Mạng Mùa Thu, thì Trịnh Công Sơn đã viết “Từng con đường nhỏ sẽ trả lời cho ta… đi giữa mùa Thu Hà Nội để nhớ một người và nhớ mọi người…”

Người ta đặt câu hỏi: Nhớ một người là nhớ ai? Và từng con đường nhỏ tại sao lại phải trả lời? Hà Nội, những con đường của Hà Nội tại sao lại phải trả lời? Trả lời cho ai? Trả lời cái gì? Đó là nhớ Khánh Ly và Khánh Ly sẽ đem phục quốc về… Với sự suy diễn như vậy, méo mó như vậy, bài hát đó đã bị cấm hai năm. Các bạn có biết cái nỗi đau của người sinh ra đứa con tinh thần như thế nào?

Và chúng ta sai hay đúng, hãy tự soi lấy mình, khoan kết án người khác sai hay đúng, bởi vì trong chúng ta cũng đều bị lừa dối! Chúng ta đã trưởng thành chưa sau nhiều lần bị lừa dối về chính trị, thì chúng ta đừng trách Trịnh Công Sơn và đừng trách những người nghệ sĩ nhạy cảm và chân thật với cuộc đời với con người.

Tôi xin kết thúc ở đây, để dành thời gian cho các bạn khác. Tôi là một người bạn, là một nhân chứng sống trong nhiêu năm với Trịnh Công Sơn. Những ngày tháng cuối cùng của anh, tôi đã ở bên anh mỗi lần tôi có mặt ở Việt Nam. Buổi sáng, tôi ngồi với anh dưới bóng cây để uống trà, để nhìn nhau cho đỡ nhớ, để nói với nhau một vài thông tin về bạn bè, rồi đi về. Sơn ngồi ở cái vườn trên góc nhà anh, có một cây hoa sứ già 28 năm, một giàn hoa giấy… nó đã trở thành một cánh rừng nhỏ của Sơn và tôi đà nhìn Sơn tàn phai theo nắng chiều qua những tia nắng hoặc cuối mùa, cuối ngày qua những chiếc lá của cánh rừng bông giấy. Và thỉnh thoảng có vài tiếng chim hót như chia sẻ cái nỗi cô đơn của Sơn. Buổi chiều, tôi và Sơn đi ra ngoài một cái nhà hàng mà các bạn chắc còn nhớ, đó là Givral, để nhìn qua bên kia khách sạn Continental, để nhìn cuộc đời đi qua, để nhìn những nguời Việt Nam đang hấp tấp vội vã trên đường phố, để nhìn một chút trời xám, để nhìn vài cánh én… rồi đi về.

Sơn thèm đi ra phố, Sơn thèm hơi của thành phố. Bởi vì chúng tôi là những con người đã gắn bó với Sài Gòn từ lúc trẻ cho nên “Chiều một mình qua phố…” hay “Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu …” Đó là đời sống của chúng tôi, và nó theo chúng tôi mãi mãi. Và Trịnh Công Sơn – hôm nay tôi được dịp để nói về anh, về cái sự tuyệt vời chịu đựng một bi kịch kéo dài cho tới ngày mà căn bịnh quái ác đã đục khoét tinh thần sức khỏe của anh cho đến hơi thở cuối cùng. Bởi vì sự cô đơn thật không có điểm tựa để làm việc. Và anh đà chết vì cơn bịnh này.

Trịnh Cung
4.4.2001







TRỊNH CÔNG SƠN VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ (1)

Trịnh Cung


Trịnh Công Sơn không quan tâm đến chính trị?

Đã 8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đã có rất nhiều bài và sách viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng này. Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: tình yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị. Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ “phản chiến” huyền thoại này đã minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Dòng Sông của mình nói về âm nhạc và tình người của ông anh rể Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà còn là một “đồng chí” (trong ý nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh VN) của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đã mất) đã viết: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, TCS đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn ấn hành năm 2005)?

Sự thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà chính cuốn sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đã có nhiều tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có Nghe Ra Điều Gì” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đã lỡ nhận chịu những cảm tình nồng hậu từ đám đông, thì những tình cảm kia phải được đền bồi…”. Và trong thư TCS gửi cho Ngô Kha - người bạn cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lãnh tụ của Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức này đã bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ nhận ra ý thức làm chính trị chống chế độ Sài Gòn của Trịnh Công Sơn. Nhất là trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa TCS và tổ chức cơ sở thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, thì không thể nói là TCS không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư TCS gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).




Thủ bút Trịnh Công Sơn trong bài “Có Nghe Ra Điều Gì gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973


Trước khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thái độ chính trị của TCS thời chiến tranh VN, và cũng nhằm cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô Kha và vì sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của mình là Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức.

Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bô từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uý Quân lực VNCH có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết gì về hoạt động ly khai của anh cho tới lúc này. Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp lều cỏ” Tuyệt Tình Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của anh có tên “Cuộc Hành Trình Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đã tự bạch anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức, tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc như thế. Đơn giản vì tôi rời Huế vào sống ở Sài Gòn sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một tình bạn văn nghệ thuần tuý. Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.

Về Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của mình?

Theo Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực VNCH ly khai đã bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát tình hình Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đã bị lính Mỹ bắn hạ. Hành động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đã đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của Những Gã LangThang: “…Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những năm gần đây, tôi mới biết mình đã từng bị Ngô Kha dùng tình bạn để đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ tôi đi vào cứ như đã nói ở trên. May mà tôi đã từ chối.

Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam”

Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!

Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm Quyền?

Vỡ mộng chính trị cầm quyền

Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng.

Thế nhưng, TCS và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn chính trị không lộ diện của TCS từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, một cố vấn chính trị, một công trình sư cho sự nghiệp chính trị của TCS, đã vận động cho TCS vào chính phủ này như là đại diện của phe Phật giáo. Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống đã phải rời khỏi nhà TCS ngay sau đó, sau khi đã ăn ở trong nhà TCS nhiều tháng trước như một người em rể.

Sau này, trong thời Lý Quí Chung còn sống, tôi có hỏi về sự việc này. Với tư cách là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lý Quí Chung đã xác nhận: không hề có một đề cử nào cho TCS và Nguyễn Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. TCS và gia đình đã bị Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó TCS đã coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ ghê tởm.

Một chút về Nguyễn Hữu Đống

Nguyễn Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài Gòn khoảng năm 1964 nhưng không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn vào khoảng 1970. Tôi không được biết gì nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà TCS những tháng trước 4/1975 với tư cách em rể TCS, giữa lúc Sài Gòn liên tiếp nhận những thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ TCS vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đã vượt biên và định cư ở Pháp.

Thế nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài Gòn và tìm thăm tôi. Tôi tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưa. Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ thân để anh tìm thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những gì TCS và gia đình không tiếp khi anh tìm đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ ngày ấy. Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ý: Một là: Ý tưởng và mô hình kiến trúc Ngôi Đền Tình Yêu có hình quả trứng (lấy từ truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để TCS chủ trì như một giáo đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền Tình Yêu này mang đậm sắc thái TCS, Nguyễn Hữu Đống lập ý cho TCS viết Kinh Việt Nam. Dự án này tôi đã được TCS cho biết trước năm 1975 và sẽ xây dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa trang quân đội Sài Gòn cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị giữa anh và TCS thì thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và TCS được ông Võ Văn Kiệt ủng hộ?

(Để biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa TCS và Nguyễn Hữu Đống, xin độc giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về TCS).

Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát Trong Xã Hội Cộng Sản Việt Nam

Những Gáo Nước Lạnh Ngày “anh em ta về”

Tuy nhiên, sau sự thất bại ấy, TCS lại đứng lên vui mừng vì Sài Gòn của anh trong ngày 30-4-75 đã xuất hiện: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay” và“anh em ta về mừng như bão cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: "Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…

Bị bất ngờ với cú ra đòn khá tàn nhẫn này của người “anh em”, TCS thật sự choáng váng và sợ hãi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà bình cho đất nước của mình nay đã thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khói. Niềm vui tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh em ta về / Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…” (Nối Vòng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về TCS, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.

Thật ra, tai nạn chính trị này đã có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt trong âm nhạc và con người TCS của Ban Văn Hoá Tư Tưởng-Trung Ương Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong Cứ trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần Bạch Đằng.

Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài Gòn

Sự sợ hãi càng tăng cao khi TCS nhận được tin mình sẽ bị thanh toán. Chỉ vài ngày sau, TCS đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe đò, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những "người anh em” thân thiết cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San,… hy vọng chắc được yên thân.

Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là TCS đã tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đã kỳ vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài Gòn?

Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh bình/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải chịu cải tạo.

Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2

Tuy nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà, nơi mình từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ-Thiệu trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ng K, Nguyễn Đắc Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài Gòn thì càng nguy hiểm thì một vị cứu tinh kịp xuất hiện, ông Võ Văn Kiệt - nhà lãnh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài Gòn lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa TCS vào lại Sài Gòn sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh Bình Trị Thiên được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc TCS, cái hạn bị hăm doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lãng mạn cách mạng này đã kết thúc.
Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đã mắc những sai lầm với người CS như sau:

- Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội.
- Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó.
- Không dám thoát ly đi theo MTGPMN.

Và những sai lầm của TCS với phía VNCH:

- Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH.
- Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế.
- Chống lại phía đã tạo cho mình điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự do tư tưởng dù có bị chế độ SG hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết liệt tiêu diệt như đã được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhã cấp để đi đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan VNCH che dấu,…) để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75. Dù ý thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ VNCH đúng như Đặng Tiến đã nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không còn nhớ tên.

Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”

Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh

Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không còn được TCS và gia đình coi là người thân như ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đã khiến tôi bị TCS và gia đình tẩy chay ngầm.

Thực ra, tôi đã bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia. Rất tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đã từng học cùng trường mỹ thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với TCS, do tôi kết nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng TCS rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn phòng anh Thọ đã thuê cho tôi tại biệt thự số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một dòng suối róc rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về Sài Gòn năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19. Và cả những tháng ngày nhàn nhã làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay 67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước.

Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch thôi!”…

Với TCS, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.

Điều Đáng Tiếc

Trong thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài Gòn đã bị đổi tên và những người bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đã cúi mình, ngoan ngoãn làm những con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đã làm nên những ca khúc tranh đấu cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho mình con đường sa lầy vào rượu, thuốc và phụ nữ, tôi thấy mình thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói với bạn mình: “Tại sao cậu lại sa đà vào những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận VN 2 đang bị một thứ xiềng xích vô hình nhưng vĩnh cửu, vì nó được khoá bởi chính người VN chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra thì cậu nên sống yên lặng như một cái bóng, một hòn đá tảng vì cái giấc mơ hoà bình, thống nhất quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn nền Cộng Hoà trẻ tuổi MNVN, nhưng về mặt tâm lý cũng đã ít nhiều làm lợi cho phía bên kia, vô tình đồng loã với kẻ đã gây ra cái bi kịch thảm khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may mắn đến được bờ tự do thì bạn cũng đáng được cảm thông… Vì tôi biết chắc chắn một điều là tất cả những trí thức thiên tả VN như cậu cũng đều không chờ đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ trực giác của tôi đã mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của TCS, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đã tiêu vong rồi một TCS mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà bình đất nước, cho dân tộc ấm no, bình đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nào. Thời cuộc làm ra TCS đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đã nghẹn họng.

Ảo Tưởng Cuối Cùng

Dần dà rồi TCS cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc TP HCM như Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và TCS được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu hút sự chú ý của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm. TCS cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi hàng đầu của nhạc cách mạng VN như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ VH&TT Trần Hoàn (đã nghĩ hưu), người từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nhìn TCS như một kẻ xấu.

Dù gì thì thế đứng chính trị của TCS cũng đã được tốt hơn trước rất nhiều, có phải vì thế mà anh đã chủ quan nghĩ mình là người đến lúc nên đứng vào hàng ngũ của đảng?

Sơn đem ý định này nói với tôi, tôi liền can:“Không nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng vì ảnh hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành đảng viên mới tò te còn ai coi trọng nữa. Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may cho cậu lắm đó!”. Tôi đã nói với TCS như thế và TCS im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà TCS không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc TP HCM và cũng là cán bộ có trách nhiệm quản lý TCS. Trong một lần bất bình vời Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, TCS đã chửi thẳng vào mặt Hoàng Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc TP HCM:”Mày là thằng mặt lồn!”.

Đã không những không được vào đảng, TCS còn được cho về hưu để vĩnh viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.

Cái Chết - Vinh Quang Đích Thực

Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm thì cái chết là một kết thúc hoàn hảo. Hay nói một cách khác, nó đã giải cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca khúc TCS.

Không chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mời. Một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về tình cảm của mình với TCS ở chỗ đông người tại Mỹ.

Lời Kết

Sau 8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong mỗi chúng ta cũng đã phần nào chìm lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.

Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.

Đó là về phần cá nhân tôi, còn đối với TCS, bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi hình ảnh một TCS được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong lòng ai đó, nhưng sẽ trả lại một TCS thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để mọi người nếu đến với nhạc Sơn thì sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng lên vì một mục đích riêng. Đã đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những người Việt đã, đang và sẽ mãi còn coi nhạc Trịnh là lẽ sống của mình, mang nó theo mình như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến nào.

Tất nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những gì tôi đã trải qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của TCS mà họ đã công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và vì thế chắc chắn còn thiếu sót tất yếu, vì tôi biết còn nhiều sự thật đang được cất dấu bởi những người có quan hệ cận kề với TCS trong từng giai đoạn của lịch sử VN từ 1954 đến hôm trước khi TCS qua đời mà họ vì những lý do nào đó chưa tiện nói ra. Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.

Sau cùng, mỗi con người Việt Nam đã trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua đều giữ trong mình những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng, xin quí vị hãy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế thì tấm gương lịch sử VN mới trong sáng được. Cũng vì điều này, cho tôi xin lỗi những gì mà bài viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là vì không còn sự lựa chọn nào khác.


Sài Gòn, 29-3-2009
TRỊNH CUNG


———————————————————————————–
Tư liệu tham khảo:


1. Như Những Dòng Sông, Hoàng Tá Thích, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2007.


2. Trịnh Công Sơn, Cuộc đời, Âm nhạc, Thơ , Hội hoạ & Suy tưởng, Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn, 2005.

3. Thư TCS gửi Ngô Kha, nguồn: http://www.gio-o.com


4. Sự thực Thư Gửi Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, phần phỏng vấn Lê Khắc Cầm, nguồn: http://www.gio-o.com


5. Có nghe ra điều gì, Thủ bút của TCS nói về trách nhiệm của mình với đám đông (Tư liệu của Bác sĩ, nhà văn Thân Trọng Minh - Lữ Kiều).

(1) bài viết được phổ biến đầu tiên trên tạp chí điện toán DA MÀU
http://damau.org/archives/5055

xem trang Trịnh Cung:
http://trinhcungartist.multiply.com/photo/album/85/about_Trinh_cong_son





Và dư luận về bài viết của Trịnh Cung



*



Lữ Phương: Trong hai ông họ Trịnh ....




Minh bạch lịch sử 


Bài viết của Trịnh Cung (TC) về “tham vọng chính trị” của Trịnh Công Sơn (TCS) đã dấy lên cả một cơn nổi nóng tập thể của dư luận trong và ngoài nước. Câu hỏi “tại sao viết” và “viết để làm gì” dồn dập chĩa vào Trịnh họa sĩ từ phía những người yêu Trịnh nhạc sĩ để rồi tha hồ phóng lời, phóng tâm mà phỏng đoán, suy luận và quy chụp, chứ không (hoặc ít) xét đoán và chứng minh. Trong cơn phẫn nộ của lý trí, rất ít người biết tách bạch đối tượng mình yêu và chủ thể của đối tượng đó. Đối tượng yêu là nhạc TCS. Chủ thể của đối tượng là con người TCS. Nói cách khác, có một TCS con người tiểu sử và một TCS con người nghệ thuật. Đối với các nghệ sĩ, nhất là những nghệ sĩ lớn, hai con người này gắn bó với nhau, nhưng không trùng khít nhau. Ở đây rất cần có “lý trí của sự phẫn nộ” để nhìn nhận vấn đề sáng rõ và thấu đáo.

Âm nhạc của TCS đã thành một sự nghiệp lớn, một bộ phận hữu cơ của đời sống tinh thần văn hóa dân tộc. Điều đó đã là một giá trị, không cần phải bàn cãi, và không thể nào phủ nhận. Con người nghệ thuật của TCS ở đây đã được đề cao và tôn vinh xứng đáng, trước hết và chỉ bởi âm nhạc của ông. Một số người lên tiếng vừa qua đã chỉ ra được điều này. Nhưng từ đó không thể và chưa chắc bảo đảm rằng con người tiểu sử của TCS là nguyên khối, trong suốt, và đơn giản. Đặc biệt khi ông là một nghệ sĩ lớn sống trong một thời đại bi kịch đặc thù của đất nước thì những sự lựa chọn tư tưởng và chính trị luôn đặt ra trong thế giằng co, lưỡng phân. Tôi muốn nghĩ TC viết bài đó dù với bất cứ động cơ nào thì vẫn có một ý muốn là minh bạch lịch sử. Nếu những điều nói ra là hoàn toàn vu khống, sai sự thật thì tác giả phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nhưng nếu những điều đó là sự thật, hay có những phần sự thật, thì sao?

Minh bạch lịch sử – theo tôi, đó là một đòi hỏi cấp thiết của tư duy nhận thức của chúng ta hiện nay. Minh bạch lịch sử cũng là giải hoặc lịch sử, không để những sự mù mờ, hoài nghi bao phủ quanh những nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử có ảnh hưởng và tác động lớn đến cả cộng đồng có liên quan. Nếu những “tham vọng chính trị” của TCS là có thực (như TC viết: “Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua ”) thì việc phơi bày chúng ra là cần thiết. Thứ nhất, nó xóa đi ảo tưởng của nhiều người vì quá yêu nhạc của ông mà cho rằng con đường đời ông đi là thẳng băng, đơn giản và rõ ràng. (Cách nghĩ này vô tình có thể sẽ làm hại cho chính người được nghĩ vì sự thật bị che giấu sẽ phơi bày chân tướng của người che giấu sự thật). Thứ hai, nó làm sáng tỏ và sâu sắc hơn hành trình sáng tạo của TCS từ con người tiểu sử đến con người nghệ thuật để lại cho đời một gia tài âm nhạc lớn lao. Thứ ba, nó giúp cho việc tìm hiểu các khuynh hướng chính trị, tư tưởng của tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn thời chiến tranh. Thứ tư, nó góp phần vẽ lại đầy đủ, chi tiết bức chân dung tinh thần của người nghệ sĩ trong cơn biến động lịch sử của đất nước. Những điều nói ra của TC, nếu đúng, không hề làm xấu đi hình ảnh TCS, không hề giảm bớt lòng yêu TCS, không hề hạ thấp giá trị TCS. Không. TCS đã sống như thế. TCS đã viết như thế. Và Việt Nam đã có một TCS sống và viết như thế thành nhạc cho đời, để đời. Trường hợp TCS, nếu như điều TC nói được chứng minh, thì trong những liên tưởng xa gần, có thể khiến ta nghĩ đến trường hợp của nhà thơ Mỹ Ezra Pound (1885 – 1972) và nhà văn Pháp Louis-Ferdinand Céline (1894 – 1961). Cả hai người này đều đứng về phe phát xít trong Thế chiến II, đều bị kết án khi chiến tranh kết thúc. Nhưng những sáng tác có giá trị của họ không vì thế mà bị hạ thấp, bị bỏ ra ngoài lịch sử văn học của dân tộc họ. Họ vẫn được đề cao và tôn trọng ở tư cách nhà văn. Nói đâu xa, Nguyễn Du, Phạm Thái không theo Tây Sơn, triều đại được bây giờ đề cao, nhưng đâu có vì thế mà “Đoạn trường tân thanh”, “Sơ kính tân trang” bị gạt ra khỏi văn học Việt Nam. Minh bạch lịch sử khắc phục lối nhìn lịch sử phiến diện, một chiều, chỉ thấy sáng mà không thấy tối, và ngược lại. Cuộc hội thảo về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn (Thanh Hóa, 10/2008), các cuộc tranh luận về Phan Thanh Giản, Ỷ Lan phu nhân gần đây là những thí dụ tiêu biểu.

Có một căn bệnh của tâm thức Việt mà nhờ minh bạch lịch sử có thể chữa được. Đó là bệnh thiêng hóa, thánh hóa. (Thực ra, đây là một thuộc tính của tâm thức con người nói chung, nhất là ở những thời kỳ tư duy lý tính chưa được đề cao). Tôi kể một câu chuyện. Cách đây gần hai chục năm, nhà văn Ngọc Giao, người cùng thời với các nhà văn nhà thơ tiền chiến, có viết một đoạn hồi ức kể lại một lần Nam Cao mời các bạn văn từ Hà Nội về quê Lý Nhân (Nam Hà) chơi. Đoàn nhà văn kéo về quê được Nam Cao mời cơm thịt gà tại gia, đang ăn thì nghe nhà hàng xóm chửi mất gà. Bài viết này sau được in vào tập chân dung kỷ niệm của Ngọc Giao “Đốt lò hương cũ” (Nxb Phú Khánh). Lập tức, nhà văn Ngọc Giao bị phê phán kịch liệt. Tạp chí “Tác phẩm mới” của Hội Nhà văn Việt Nam hồi đó trong một số đã đăng liền mấy bài tập trung lên án tác giả bài viết. Lập luận phê phán chỉ là thế này: một nhà văn như Nam Cao thì không thể làm cái việc “gà qué” thế được. Và Ngọc Giao, cũng như Trịnh Cung vừa rồi, bị cho là người hay bịa chuyện, hay nói xấu bạn bè. Không ai trong những người viết bài lên án Ngọc Giao là người cùng thời Nam Cao, hay có biết ông lúc còn sống. Tất cả chỉ là đọc văn rồi suy ra người. Nhà văn Ngọc Giao đã phải rất đau khổ viết lại một bài “kêu oan”. Ngẫm thế mới thấy Tú Xương tài, cứ nói toẹt ra thói hư tật xấu của mình: “Vị Hoàng có Tú Xương / Dở dở lại ương ương / Cao lâu thường ăn quịt / Thổ đĩ lại chơi lường”. Chẳng biết có phải ông tự trào hay không, nhưng nếu mấy câu đó do ai kể lại thì chắc sẽ lại bị quy kết là bôi nhọ ông tú thành Nam.

Lại xin kể chuyện nước ngoài để liên hệ với ta. Khi viết chân dung đại văn hào Nga Lev Tolstoy (1828 – 1910), M. Gorki có kể chuyện một lần gặp, ông lão nhà văn hỏi ngay chàng trai mới cầm bút là khoản “chơi gái” có mạnh không. Và trước sự rụt rè của Gorky, Tolstoy rất khoái chí khoe cái sự mạnh mẽ đó của mình.

Nhà văn Brazil J. Amado (1912 – 2001) ghi lại hồi ức về trường hợp văn hào Trung Quốc Quách Mạt Nhược “bóp ngực” vợ nhà thơ Nga K. Simonov tại Moskova. Cần dẫn ra đây toàn bộ đoạn viết này:

Moskva, 1953

Tại đây đang diễn ra kỳ họp – hay hội nghị toàn thể – nói chung là ban thường vụ Uỷ ban bảo vệ hoà bình họp và Ehrenburg nhân dịp này tổ chức tại nhà mình một bữa tiệc – hay bữa ăn tối – chiêu đãi Quách Mạt Nhược. Ðến dự có khoảng chục người – các nhà văn Xô-viết và nước ngoài.

Quách Mạt Nhược là một người có danh tiếng trên thế giới, một nhà thông thái và học giả, còn ở châu Á nói chung đó là một nhân vật truyền thuyết, một Khổng tử thứ hai: ông biết năm mươi nghìn chữ tượng hình (xin nói rằng để đọc được báo cần phải biết ba nghìn chữ; giáo viên đại học biết bảy nghìn, trí thức – mười nghìn), hai lần làm bộ trưởng khi đại diện cho đảng cộng sản trong chính phủ liên minh Tưởng Giới Thạch, còn bây giờ là uỷ viên Bộ chính trị ÐCS Trung Quốc, đảng này năm 1949 đã lên nắm quyền và tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa mà ông là phó chủ tịch. Ngoài ra Quách Mạt Nhược còn là phó chủ tịch Hội đồng hoà bình thế giới và Uỷ ban giải thưởng quốc tế Stalin. Ðó là ba trong rất nhiều danh hiệu và tước vị mà ông có thể khoe ra… – có thể thôi, nhưng ông không khoe khoang, bởi vì ông là con người giản dị hiếm thấy, không hề cao ngạo, rất cần mẫn chăm chỉ, đặc biệt rất thích chuyện trò tiếp xúc. Tóm lại, đó là một nhân vật nổi bật trong phe xã hội chủ nghĩa, hay như người ta thường nói, một nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, v.v. Ông đã ngoài bảy mươi tuổi, nhưng nhìn mặt thì không đoán được – tôi cảm thấy người Trung Quốc như không có tuổi.

Vậy là trong căn hộ của Ilya quây quần quanh cái bàn dài thấp chất đầy các đồ ăn thức uống – thịt cá hồi, thịt cá chiên, các món trứng cá, vây cá nướng, vodka đủ loại, cognac, hoa quả, rượu vang Gruzia và Moldavi – có Konstantin Fedin, Konstantin Simonov, Vsevolod Pudovkin, nhà văn Pháp Vercos, nhà văn Rumani Mikhail Sadovyanu, nhà văn Italia Pietro Nenni và cặp vợ chồng Brazil chúng tôi. Simonov đến cùng với vợ, một phụ nữ rất gây ấn tượng, diễn viên sân khấu và điện ảnh nổi tiếng mà vẻ đẹp Slave điển hình của nàng đã được ông ca ngợi trong văn thơ: chiếc cổ áo hở vai hào phóng cho ngắm nhìn bộ ngực trắng lộng lẫy. Ngôi sao điện ảnh ấy tên là Valentina. Simonov đã viết tặng nàng cả một tập thơ trữ tình đầy dục cảm, nếu không nói là đầy nhục cảm, bị đích thân đồng chí Stalin quở trách: “Các nhà xuất bản tốn tiền in loại sách đó để làm gì, chỉ cần in hai bản cho ông ta và cô ta là đủ!” Valentina lộng lẫy, kiêu sa! Khi nàng mất, Simonov tuy đã chia tay nàng từ lâu vẫn có mặt tại đám tang và đặt lên mộ một nghìn bông hoa cẩm chướng đỏ thắm – một nghìn bông, không kém.

Quách Mạt Nhược ngồi đối diện với người đẹp và không tham gia vào cuộc trò chuyện vì nàng nói tiếng Pháp, còn ông nói được mười tám thứ tiếng châu Á nhưng lại không biết một thứ tiếng châu Âu nào, trong khi anh phiên dịch tên Lý thì ở ngoài hành lang. Ông chỉ ngồi im nhìn vào cổ áo của Valentina. Ngoài bộ ngực đồ sộ nhô lên như quả đồi kia ông không nhìn thấy gì hết nữa, và vốn là người có học thức ông uống cạn ly rượu vodka đặt trước mặt – uống liền một hơi để trấn an mình. Liuba, bà chủ nhà hiếu khách, lập tức rót cho ông một ly khác. Ông cũng lại uống cạn luôn.

Cần phải nói rằng ở Trung Quốc bộ ngực phụ nữ, vùng kích thích tình dục chủ yếu, là một cái gì khép kín, bí ẩn và thiêng liêng, nếu không nói là “bất khả xâm phạm” – người ta luôn luôn cố giấu nó đi, thắt buộc nó lại không cho phát triển, tóm lại, đó là một chỗ tuyệt đối kiêng kị. Cho nên không lấy làm lạ là hai nửa quả cầu để hở gần như đến chỏm nằm trong khuôn ngực của chiếc áo nhung đen, do đó mà càng trở nên trắng ngời lộng lẫy, đã hút chặt cái nhìn của nhà thông thái và nhà hoạt động nổi tiếng người Trung Quốc.

Các vị khách khác không ngờ một tai hoạ sắp xảy ra, vẫn tiếp tục trò chuyện bình thản sôi nổi về văn học nghệ thuật và sực nhớ ra khi đã muộn – cái điều phải đến đã đến. Quách Mạt Nhược, vẫn điềm tĩnh thản nhiên như mọi lúc, dù đã uống nhiều, vẫn không rời mắt khỏi “báu vật Nga” này, đứng lên đi vòng quanh bàn rồi dừng lại sau ghế của Valentina, giơ hai tay ra ôm chặt lấy bộ ngực phơi trần như trình diễn của nàng, chặt đến mức như không bao giờ rời chúng ra nữa.

Tất cả sững người. Quách Mạt Nhược, vị phó chủ tịch của rất nhiều tổ chức, một nhân vật lịch sử, một người nổi tiếng, đứng đó với hai bàn tay lùa vào khoảng hở trên chiếc áo dài của Valentina bóp chặt đôi vú của nàng – tay trái vú trái, tay phải vú phải – và trên khuôn mặt bất động của ông chậm rãi hiện lên vẻ khoái lạc thần tiên. Những người có mặt lúc đó hầu như hoàn toàn bị tê liệt: chúng tôi chết lặng, mất cả khả năng ăn nói – sự câm lặng như thế kể từ thời khai thiên lập địa chưa bao giờ có và sẽ không bao giờ có lại nữa.

Nhưng vào khoảnh khắc đầy cao trào kịch tính đó anh phiên dịch tên Lý, suốt nãy giờ không rời mắt khỏi ông chủ, đã từ hành lang chạy vào nắm lấy khuỷu tay ông, kéo ra xa Valentina một cách nhẹ nhàng nhưng cương quyết – nói thế được chăng? – rồi đưa ông ra khỏi phòng và căn hộ. Ilya và Liuba khi đó mới sực tỉnh, vội theo sau để tiễn khách. Cuộc bàn luận văn học nghệ thuật lại tiếp tục từ cái chỗ bị ngắt quãng trước đó một phút, dường như không ai thấy có chuyện gì xảy ra.

Từ cái buổi tối chấn động đó niềm kính trọng của tôi đối với Quách Mạt Nhược càng lớn hơn, tăng lên vô hạn.

(Ngân Xuyên dịch từ tiếng Pháp. Jorge Amado. Navigation de cabotage, Gallimard, Paris, 1996).

Những trang viết này của Gorky, Amado đã bay khắp thế giới, cả ở Việt Nam, nhưng không thấy có phản ứng gì, cáo buộc gì từ Nga, Trung Quốc.

Tôi không gặp TCS lần nào, ngay thấy mặt ngoài đời, dù là đứng từ xa ngó lại, cũng không. Như vậy, tôi biết TCS là bằng vào âm nhạc của ông. Các bài hát của ông, tôi không thích hết cả, chỉ thích một số bài. Và tôi thấy TCS là người “hát thơ”, như Văn Cao nói. Đối với ông, tôi giữ lòng quý trọng, dù ông có hay là không có “tham vọng chính trị”. Với TC, tôi chỉ gặp vài lần mới gần đây, chưa thể nói là quen biết. Trong bài này tôi không nói chuyện bài viết của TC về TCS đúng sai, thật giả thế nào (cái đó tôi chờ sự chứng minh, đối chiếu khách quan, công tâm từ TC đến những người liên quan). Tôi cũng không bàn ở đây chuyện cái tâm, cái tình của người viết (nhưng thú thực nghe sự mắng chửi TC “ngậm máu phun người” tôi thấy gai người). “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Đọc nó, tôi nghĩ đến một vấn đề khác, ở cấp độ nhận thức, như đã nói trên. Đó là: việc tìm về sự thật để minh bạch lịch sử là một việc cần làm ngay trong đời sống chính trị văn hóa xã hội của nước ta hiện nay.

Hà Nội 18.4.2009








Trịnh Cung nói về...“Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu”
Việt Weekly: Họa sĩ Trịnh Cung cho biết về bài thơ Cuối cùng cho một tình yêu đã được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phổ nhạc.


Trịnh Cung: Về hai bài thơ của tôi đã được Trịnh Công Sơn phổ nhạc. Trước hết tôi nói về bài Cuối cùng cho một tình yêu. Từ năm bài thơ đã được phổ nhạc cho đến nay, chỉ thiếu 3 năm là được nửa thế kỷ. Năm 1958, tôi viết bài thơ Cuối cùng cho một tình yêu, và cũng ngay năm đó, Trịnh Công Sơn phổ nhạc. Cho đến nay, nó đã sống gần nửa thế kỷ. Câu chuyện về bài thơ này cũng đã có một số người hỏi tôi về nguồn gốc tại sao nó ra đời, câu chuyện tình trong đó nói về ai. Riêng ca sĩ Khánh Ly trong một lần nói chuyện với hãng băng đĩa Asia có kể về câu chuyện tình này. Khánh Ly kể rằng là trong một đêm thức dậy, tôi đốt tập thơ tôi, tôi khóc hu hu. Lúc đó Trịnh Công Sơn thường từ B’lao về ở với tôi trong một căn phòng rất nhỏ, chỉ vừa cho 3 người ngủ trên 1 chiếc chiếu. Trịnh Công Sơn nghe tôi khóc mới bật dậy, thấy tôi đốt tập thơ mới chụp lại và giữ được 1 bài thơ, đó là bài Cuối cùng cho một tình yêu, Trịnh Công Sơn đã phổ nhạc bài thơ đó. Ðó là câu chuyện mà Khánh Ly đã kể. Có lẽ Khánh Ly đã nghe Trịnh Công Sơn kể và sau đó do thời gian thế nào, đã có một câu chuyện hấp dẫn về bài thơ này. Nhưng đây là những tháng ngày, cũng gần như là cuối đời của tôi, tôi rất cám ơn Khánh Ly đã kể câu chuyện ấy với quí vị, nhưng hôm nay tôi muốn nói thật về bài thơ này.
Sự việc tôi đốt tập thơ là có thật bởi vì đó là một thái độ mà tôi cần có để tôi tập trung cho hội họa, tôi không muốn dịnh líu đến thơ ca vì tôi có một quan niệm là làm cái gì làm cho tới nơi, hai ba thứ nó lôi thôi lắm, cho nên tôi quyết định hủy bỏ làm thơ để tập trung cho hội họa. Nói về vấn đề bài thơ do Trịnh Công Sơn phổ nhạc. Năm tôi đốt thơ là năm 1963, nhưng Trịnh Công Sơn đã phổ nhạc bài thơ này vào năm 1958, không có nghĩa như câu chuyện Khánh Ly đã kể. Bài thơ này tôi làm khi tôi ra Huế, “học trò trong Quảng ra thi, thấy cô gái Huế chân đi không đành”. Tất cả hình ảnh của cô gái Huế thời đó vẫn còn cực kỳ thơ mộng và không thay đổi được. Vào thời đó, những nữ sinh trường Ðồng Khánh, tầm tan trường, họ như là những cánh bướm trắng bay trong những công viên ở trước bờ sông Hương và tôi lạc lõng giữa những đàn bướm ấy. Lẽ dĩ nhiên là không bao giờ tiếp cận được họ đâu vì họ có một cung cách rất Huế, rất thiêng, rất kín đáo và mình chỉ có biết đi theo, nhìn ngắm họ rồi mơ mộng về họ và bài thơ này tôi viết về họ. Hình ảnh một cô gái Huế chung chung thôi và tôi hư cấu thành một chuyện tình. Tôi ngông cuồng để cho thấy rằng mình không phải là “học trò trong Quảng ra thi” mà mình cũng là một cái gì, cũng có thể từ khước họ, cho oai. Một lối hờn dỗi của một người không chạm được đến tình yêu, nên bày ra cái trò là… Ừ thôi em về, cứ về đi, tại vì có được đâu mà bảo ở lại, cho nên thôi để cho oai hơn là cứ… Ừ thôi em về. Nhưng em về rồi, thì sao? Em về rồi thì… bàn tay đói… Em ra khỏi tay rồi, em đâu có trong vòng tay, mà em đâu có bao giờ trong vòng tay tôi đâu… thành ra hai vòng tay tôi, hai bàn tay tôi luôn luôn đói, đói khát vì một hình ảnh và tôi cứ mãi đi theo những cuộc tan trường vào những buổi chiều, buổi trưa như vậy, nên… chân phải mỏi thôi.
Nhưng Có anh bạn làm thơ ở Sàigòn lại có một suy nghĩ khác về “hai bàn chân mỏi” rất là vui, chưa bao giờ có một hình ảnh sex đến như vậy. Tại sao lại có hai bàn chân mỏi, chỉ có yêu quá đáng mới mỏi thôi! Nhưng thật ra vào thời của chúng tôi, vào thập niên 50-60, tình yêu rất là thánh thiện, toàn là mơ mộng, toàn là tưởng tượng, không dám chạm đến bàn tay của người con gái mình yêu thích thì làm gì có chuyện sex với xiếc. Thế thì câu chuyện của bài thơ đó là bài thơ hoàn toàn hư cấu nhưng dựa trên cung cách của những cô gái Huế thời đó. Lẽ dĩ nhiên nó thuộc về những cô gái đẹp của thời đó, cũng là chuyện bình thường thôi. Cái gì mà con người ta dâng hiến thì thường dâng hiến cho những gì tốt nhất, đẹp nhất. Lẽ dĩ nhiên là đẹp nhất đối với mình. Ở đây không có nghĩa là những cô gái xấu kia không đẹp, tại vì là chưa chắc tôi đã nhìn ra những cái đẹp của họ, họ có thể đẹp dưới cái nhìn của những người đàn ông khác. Thành ra, nếu có phạm vào điều gì cũng cho tôi xin lỗi. Dẫu sao những cô gái đó ngày nay đã thành bà, bà nội, bà ngoại rồi, phải không? Cho tôi gởi lời thăm hỏi những cô gái Huế, vẫn đẹp trong lòng tôi cho đến ngày hôm nay.

VW: Vậy chỉ có một phần câu chuyện của Khánh Ly kể là đúng thôi, còn 9 phần còn lại là sai hết?
TC: Những phần khác có lẽ do câu chuyện Khánh Ly thương tôi muốn cho câu chuyện nó hấp dẫn hơn hoặc là do anh bạn tôi Trịnh Công Sơn kể lại một cách biến tấu. Nhưng mà chuyện có thật là tôi có đốt tập thơ. Bìa tôi định in cho tập thơ của tôi, sau đó trở thành bìa của tập thơ rất hay của nhà thơ Hoàng Trúc Ly “Trong cơn yêu dấu”. Ðó là bìa tôi vẽ cho tập thơ của tôi và sau đó tôi tặng lại cho nhà thơ Hoàng Trúc Ly để làm bìa.

VW: Còn về bài Thiên sứ bâng khuâng.
TC: Bài Thiên sứ bâng khuâng tôi mới làm vào năm tôi sang Mỹ lần thứ 2. Tôi gặp lại một người yêu cũ của Trịnh Công Sơn. Hôm ấy, cô ấy mời tôi đi ăn ở South Coast Plaza, ở Macy, ở đó có một cửa hàng open air, ăn ở ngoài trời, dưới những cây dù. Lần đầu tiên tôi thấy chim bay, những con chim sẻ đậu quanh cô ấy, và cô ấy thả cho nó những ruột bánh mì và từng con một nhảy gắp những mẩu bánh mì… Tôi thấy thú vị quá! Bởi vì thời đó chúng tôi ở thành phố Sàigòn không còn chim, người ta bắn chim. Cho nên, sang Mỹ tôi thấy chim ở khắp mọi nơi, con người ở đâu, chim ở đó. Tôi đã xúc cảm và viết bài Thiên sứ bâng khuâng… có câu là
Con chim về đậu bên người,
là thiên sứ đó là tôi cũng chừng,
vô tình em thả bâng khuâng,
tôi làm chim nhặt để phần mai sau.
Tôi đã làm bài thơ ấy, với một ngẫu hứng như vậy, tôi trở về Sàigòn lại. Năm sau tôi lại sang Mỹ, tôi có thân với một ca sĩ ở Orange County, cô ấy với tôi có một thời gian là bạn. Chúng tôi chia sẻ với nhau về văn nghệ và về đời sống bên ngoài. Cô ấy là một niềm an ủi của tôi trong thời gian tôi ở Mỹ, tôi lại viết thêm 2 câu thơ nữa để tặng cho cô ấy. Có nghĩa là bài thơ này làm nhân một bữa ăn với một người bạn cũ, người yêu cũ của Trịnh Công Sơn, nhưng sau đó nó lại kết vào một người tôi mới kết bạn. Tôi thêm 2 câu sau là
Mai sau thiên sứ về trời,
còn tôi ở lại bên người tôi yêu.
Nhưng mà số phận của bài thơ này không dừng ở đó, khi tôi về Việt Nam ở luôn sau cơn bạo bệnh, để mà chết, tôi gặp một người con gái khác. Trịnh Công Sơn đã viết một bài về vấn đề và số phận của bài thơ này đăng trên tờ tạp chí Heritage của hãng Hàng không Việt Nam, có tựa là Số phận của một bài thơ. Mỗi tác phẩm có một số phận riêng, nó làm cho người này, nhưng nó lại kết vào người khác. Và đây là bài thơ mà Trịnh Công Sơn phổ trước khi anh qua đời vào năm 2000, năm anh đón nhận thiên niên kỷ mới. Tôi phá vỡ thông lệ, định chỉ để một bài Cuối cùng cho một tình yêu được phổ nhạc. Nhưng khi Sơn đọc bài thơ này, Sơn rất là thú vị, anh coi như là một kỷ niệm để chia tay với thế kỷ cũ và anh đã phổ nhạc. Bài này rất ít phổ biến, chỉ có Trần Thu Hà hát ở Sàigòn, Tuấn Ngọc hát ở Mỹ, chưa có thâu băng đĩa. Tôi cũng muốn coi đó như một kỷ niệm của đời tôi với một người bạn thân đã qua đời và nếu nó còn ở lại với mọi người thì cũng như tôi vừa mới trình bày, mỗi bài đều có số phận riêng, nó hoàn toàn phụ thuộc vào định mệnh của nó.

VW: Như vậy bài Thiên sứ bâng khuâng có 3 đoạn, thuộc về 3 giai nhân?
TC: Có thể nói là như vậy. Bài Thiên sứ bâng khuâng bắt đầu là một cảm hứng vào năm 1998 chỉ có 4 câu. Sau đó nó trở thành một bài lục bát 6 câu, để nói về ước mơ của tôi, muốn phá bỏ cái hạn kéo dài đời tôi là Cuối cùng cho một tình yêu, tôi lỡ phát ngôn là “Ừ thôi em về”. Tôi dại dột đã nói với người đẹp là “Ừ thôi em về”. Cho nên từ đó tôi rất là cô đơn, bây giờ tôi không muốn còn sự cô đơn nữa, tôi mới nói “Mai sau thiên sứ về trời, còn tôi ở lại bên người tôi yêu”, đó là vào năm 1999. Ðoạn cuối làm vào năm 2000. Nhưng cuối cùng, họ cũng bỏ tôi đi, cái hạn vẫn còn ở lại với tôi.

VW: Cuộc sống tình yêu hiện tại của họa sĩ Trịnh Cung như thế nào?
TC: Cũng chưa biết nó sẽ như thế nào. Nhưng tôi đón nhận nó như một ân huệ để bù lại những năm cô đơn của tôi. Ðây là một cái duyên lạ, không chờ đợi, tôi không hề biết trước và tự họ bay đến. Tôi không có cách nào khác là đón nhận. Tôi không thể từ khước được vì nó cho tôi rất nhiều sức sống. Nó là nguồn sống, nguồn sáng tác của tôi bây giờ. Còn chuyện ngày mai, tôi không thể biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi không quan tâm tới ngày mai vì đối với tôi còn được sống như thế này là đã có quá nhiều ân huệ rồi. Tôi không dám mơ tưởng ngày mai nó sẽ như thế nào.

Mimi Thủy Tiên ghi,
Việt Weekly, tháng 2/2005





Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu
 Thơ: Trịnh Cung  Nhạc: Trịnh Công Sơn
Ca sĩ : Khánh Ly







Tranh Trịnh Cung


























































TC tự họa
Collection PN



































































Phan Nguyên








Trịnh Cung tự họa
















































Lê Uyên Phương hát Ở Đây Thôi Ở Đây
Đành (thơ Trịnh Cung) (1980) | Khi Xa Saigon








Cuối cùng cho một tình yêu
Thơ:Trinh Cung  Nhạc:Trịnh Công Sơn
Tiếng hát:Khánh Hà

























































*



Tham khảo thêm về họa sĩ Trịnh Cung




Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại

































Đà lạt 1989






Trịnh Cung, Saigon 2010
ảnh: Phan Nguyên





Phan Nguyen & Trinh Cung
SaiGon 2019






































































































































Trở về







MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.