Thứ Tư, 13 tháng 4, 2011

Cung Tích Biền

 













Cung Tích Biền
(1937 - ........) Quảng Nam
Tên thật: Trần Ngọc Thao

Nhà văn







Chung , Ảo




Sau 54, Đại Học Luật Sài Gòn. 1961, dạy học. 1963, vào trường Võ Bị Thủ Đức khóa 17. Giải ngũ 1973, cấp bậc Đại Úy. 
Cung Tích Biền là một nhà văn độc lập, có truyện và thơ đăng các báo từ năm 1958. 
Xuất hiện trên hầu hết các báo văn học trước và sau 75
với nhiều bút hiệu khác nhau lúc ban đầu như Chương Dương, Việt Điểu, Uyên Linh trước khi có bút hiệu Cung Tích Biền.
Hiện một số lớn tác phẩm viết sau 75 đang bị cấm sưu tập, in ấn và lưu hành tại Việt Nam.










Tác phẩm tiêu biểu đã xuất bản



Suốt hơn 65 năm cầm bút, ông khởi viết từ năm 1958 (có một thời gian khoảng 10 năm ông ngưng viết, khi còn ở VN, sau 1975), Cung Tích Biền đã xuất bản những tác phẩm như sau:




1
Ai Tỉnh Ai Điên
1968





2
Nỗi Buồn Thắp Sáng
1969





3
Hoà Binh Nàng Tình Rỗng
1970





4
Trên Ngọn Lửa
1971





5
Cõi Ngoài
1970






6
Chim Cánh Cụt
1990





7
Một Thời Lưu Lạc
1990





8
Tình Yêu Mùa Ảo Ảnh
1990





9
Thằng Bắt Quỷ
( tập truyện) 1993





10
Xứ Động Vật






11
Mùa Xuân Cô Mơ Bay






12
Bạch Hóa
(tập truyện) 2007






13
Nhạc Điệu Của Bầy Ong






14
Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử







15
Một Thời nên Vắng Mặt







16
Cung Tích Biền Toàn Tập I, II, III









Bạch Hóa


1. Chương 1


Chiều nào khi mặt trời sắp chôn dưới chân núi chú Sáu cũng mang hai con bò phân tán ra hai nơi góc vườn, chú kéo cho mỗi con một mớ rơm để nhai qua đêm, chú nói như thế này để cà nông bắn rủi chết thì chết từng con một, khổ ải quá, người còn có thể chui hầm rúc hố, đằng này bò nó không thể nằm mãi dưới hầm như người, mà dù bò nó chịu nằm hầm mình cũng chẳng có bao cát dụng cụ đâu mà làm cho xuể một cái hầm.
Chiến tranh tràn đến xóm chú Sáu – có thể gọi chú là lão già hay con bò già cũng được, vì đời chú không học hành, không biết phố thị, đời chú dính với luống cày, mọc lên từ ruộng nương đầy phân bón và bùn lầy – chiến tranh thực sự có ở xóm chú từ năm nay, kể từ đêm Sáu Vu về chặt đầu cha. Sáu Vu là con Hương Đằng, nó bỏ nhà ra đi từ mười hai năm nay. Đúng mười hai giờ đêm một đêm năm trước hắn về làng tập họp dân chúng – mấy anh dân vệ hôm đó đã về ngủ trên quận – việc đầu tiên hắn làm chánh án tòa án nhân dân xử cha, lão Hương Đằng nay là đại diện xã. Dưới ánh đuốc bập bùng, dân làng có người đứng ra xin cho Hương Đằng, rồi chính Hương Đằng cũng nói với Sáu Vu tao là cha của mày, con ạ tao là cha, mày không nỡ giết cha. Sáu Vu trả lời :
– Ông là cha riêng tôi chứ không phải cha của cả dân tộc này, ông chết một mình để cả dân tộc này sống, ông không đáng được gọi rằng chết nữa, ông, chính ông bị đền tội, ông bị loại trừ, cái chết là danh từ dành riêng cho các chiến sĩ, các con của nòi giống , ông ạ, tôi không còn cha, không có cha nào nữa ngoài một người cha là cuộc cách mạng vĩ đại trường cửu này. Lão Hương Đằng nhổ một bãi nước bọt vào mặt Sáu Vu nói mày là thằng phản quốc, thằng bán linh hồn, mày hãy giết tao đi. Thế là một lưỡi dao phập xuống. Mọi người lúc đó, dưới ánh lửa ma quái không ai thấy Hương Đằng bị chặt đầu, họ thấy chính lát dao đang đi ngang cổ họ, họ cúi xuống nhìn bãi đất lạnh run rẩy.
Máu nơi cổ lão Hương Đằng chưa kịp đông lại thì ngay lúc đó có hàng tràng cà nông bắn tới tấp vào đám du kích quân, lửa nhá trên đầu họ, mảnh đạn bay lanh canh trên các mái ngói, chó thôi sủa, người thôi tố cáo người. Sáng hôm sau khi chôn cất, xác Hương Đằng bị một nhát mã tấu gẫy gọn và nhiều mãnh đại bác nho nhỏ.
Chính đêm đó chú Sáu mất con bò thứ nhất, con bò đực hùng vĩ. Nay chỉ còn có hai con, con bò cái ốm o, và một con bò con nhác súng. Mỗi lần có súng bắn là con bò con nhảy cùng vườn. Chú Sáu phải cột nó vào một gốc cây lớn – gốc cây trơ trụi vì thuốc khai quang, nếu có một thứ gì làm tiêu tan được gốc cây khô héo này thì người ta đã tưới xuống rồi.
Chú Sáu cột giây thừng vào cái cổ trầy trụa và chân con bò nhỏ, con bò dậm dậm chân ra chiều bất mãn, chú Sáu vuốt ve nó, đẩy nó sát vào gốc cây, chú ngó quanh quất xem chừng nếu một quả đạn bay tới cái gốc cây có che mảnh cho con bò không. Chú buồn rầu đi về phía con bò mẹ, bầu trời đầy tro xám, một áng mây đen bay là đà về hướng biển, con bò mẹ gầy gò như một bà già suốt đời bị hành hạ vì sinh đẻ và chồng con. Chú nhìn con bò rồi cúi trộn mớ rơm, bỏ thêm một ít cỏ tươi :
khi kiệt sức rồi thì dù được nuôi bằng phó mát hay cam nho mày cũng trơ xương con ạ. Lão đi vào nhà.
Có tiếng con Miệng :
“Cậu Ban nói cái hầm nhà mình cà nông thổi trúng thì sập ngay. Cậu nói cái hầm nhà mình chật chội, mùa mưa nước lẹp xẹp đến chó nó cũng không muốn nằm nữa là người. Hèn gì mấy con bò nhà này nó không chịu ngủ dưới hầm”.
Chú Sáu :
“Ôi, cái thằng mắc dịch đó hắn ghẹo mày đó. Ai đời làm hầm để rồi người với bò chó cùng ngủ. Chưa có con chó nào chết vì cà nông hay pháo kích chứ người thì nhiều rồi đó. Mày bảo thằng Ban câm cái họng ôn dịch hắn lại. Bữa nào thằng Đích về rồi hắn biết tay…. “.
Chú Sáu nhớ đến người con trai chú. Thằng Đích. Đích năm nay hai mươi hai tuổi, đi quân dịch đóng lon binh nhì, có hai huy chương một sao bạc, một đồng, Đích nói lính Biệt động quân tệ chi đi nữa cũng có huy chương đeo đỏ ngực. Con Miệng, em kế thằng Đích.
Chú Sáu vào nhà nằm ngửa trên phản, hai tay dang, mắt nhìn lên trần nhà loang lổ miểng đạn, cái trần nhà hư nát nhưng không ai tính chuyện sửa sang lại trong thời buổi này , chú nhớ đến thằng Đích ngày trước cất tiếng khóc oe oe trong góc này, ngày sinh con Miệng trời mưa lớn, ngã trưa người vú đứng ở hè cửa nói chị sinh con gái, thế là mai sau anh vừa có dâu vừa có rể, “dâu hiền con gái, rể thảo con trai” anh lo gì , chú Sáu nhớ đến người vợ chú ngày trước hay ngồi bắt chí và chải tóc nơi cái đà cửa, gió nồm thổi mán mác, những đêm trăng trải ngàn ngàn vợ chú vẫn ngồi nơi đó sàng gạo hay làm việc vặt vạnh , ngày xưa ngày xưa, chuyện gì êm đềm cũng chuyện của ngày xưa. Giờ đây chú thấy quanh mình trơ trụi, vợ đã chết, thằng Đích đi xa, nó không chịu lấy vợ, con Miệng đã lớn, nó có thể bị xỏ mũi dắt đi nay mai thời buổi này con trai không muốn lấy vợ nhưng con gái ưa có chồng , con trai nói có vợ lấy gì ăn, lấy vợ để chết đói à , con gái nói lấy chồng cho xong để hưởng mùi đời , đời gì rắc rối. Chú Sáu nằm trong bóng đêm âm thầm nhớ tha thiết, nhớ dại dột con bò đực vĩ đại của chú. Người tu hành có đức Chúa, người đi giải phóng có lưỡi mã tấu, anh lính có cây súng, và chú có con bò đực. Chỉ với nó thôi, cả vũ trụ chú ở đó. Con bò chết lòng chú hiu quạnh, không ai đi trước chú nơi luống cày, không ai chịu vác dùm cái ách, kéo dùm cái bừa, ỉa dùm cho chú cục phân bón lúa, tất cả thua con bò. Nay nó đã chết.
Chú nhắm mắt thấy máu chảy ra từ thân từ con bò thân yêu. Chú như ngã xuống và trôi miên man trong đó, giòng máu thơm ngát :
máu không phản bội, máu ngoài các chính thể loài người.
Tiếng con Miệng :
“Đêm nay tui không ngủ trong hầm”.
Chú Sáu kinh ngạc :
“Mày điên à, muốn chết à”.
“Tui không thể ngủ hầm, khó chịu quá, thà chết ngoài trời cho thanh thản”.
“À, tao biết mày rồi. Mày mê cái thằng Ngọc hả. Đừng con ạ. Dù sao mình cũng con nhà gia thế đừng có cái thói trên bộc trong dâu”.
“Trên bộc trong dâu là gì ?”.
“Là gì thì tao không tài giảng nghĩa, nhưng tao biết người ta ám chỉ những đứa con trai con gái hư. Con ạ, nếu mày muốn thì tao gả ngay. Thời buổi này tùy mày lựa chọn. Nhưng tao nói với mày, con ạ, đừng có dại dột ngoài rơm ngoài ra. ban đêm mấy ổng bắn toi mạng. Mày không nhớ con Ngó với thằng Phả chết trần trụi nhơ nhớp ngoài vườn chuối ngày trước à”.
Con Miệng ngồi khóc. Nó nói cha không hiểu tui chi hết, cha làm tui nhục nhã. Sao trên trời một vài cái lấm tấm. Trời tối như mực. Chú Sáu nói thôi trải chiếu dưới hầm mà ngủ đi cho rồi…. đó, có tiếng súng đó.
Dưới căn hầm này chỉ có hai cha con, một cha trên năm mươi, một con dưới hai mươi, và một con chó đen. Con chó thường ngủ ở miệng hầm – loài vật hình như không con nào thích nghi với loại hầm tránh bom đạn này để đánh hơi, thỉnh thoảng nó chạy âm thầm ra ngoài vườn. Tuyệt nhiên nó không sủa. Từ lâu nay con chó mực trở nên thin thít ngay cả những đêm có trăng, nó thấy ngứa cổ lạ lùng khi nhìn những đọt lá lay lay với cái bóng, nó câm nín với những cái bóng đen di động như một thứ ma quái.
Ngủ hoài dưới hầm chỉ có hai cha con, mùa đông con mưa ngùi ngụt bên ngoài, nước chảy róc rách trong hầm, mùa hè oi ả với từng đợt gió khô khan. Những đêm như thế chú Sáu thường trở giấc với cái quạt mo trên tay. Dưới ánh đèn dầu mù mờ chú thấy con Miệng – con gái chú – ngủ có khi hở hang, nằm ngửa mình hai tay dang, hai đùi mươn mướt nóng hổi dưới lớp quần đen láng, con Miệng ngủ mê mẩn sau một ngày làm lụng. Hai giống người lạ hoắc ngủ với nhau trong căn hầm oan khiên này lẽ ra cái thân thể kia phải làm cho chú động tình, sẽ làm thui chột cái lương tri một người. Nhưng với chú, chú đúng là một người cha. Chú ngồi thẫn thờ dưới ánh đèn thương xót cho con gái mình, chú lấy tấm chăn đắp lên phần trống vắng cho con, chú muốn khóc, chú thương vợ. Chú nghĩ một mình :
“Loài người đến lúc ăn lông ở lỗ trở lại đây. Loài người đã bỏ áo quần luân lý vào núi vào hang mà ở rồi đây. Nhưng làm sao con người mới khỏi bị bóng tối đè nặng như súc vật”.
Chú lại nhìn con, nhưng chưa bao giờ chú dám nhìn thẳng vào cái phần thiêng liêng của người đàn bà, nơi Miệng.
Đêm nay, cũng vẫn với cái quạt mo chú vặn thật nhỏ ngọn đèn, vì sợ ánh sáng lộ lên bên ngoài, chú tựa lưng vào thành đất lạnh ngắt, súng một lúc nổ một nhiều. Chú nhắm mắt để khỏi liên tưởng đến Sáu Vu, đến những ánh lửa bập bùng xung đột, những tràng súng ào ạt bay ra từ thị trấn. Từ ngáy Sáu Vu về làng đến nay làng trở nên trơ trụi, những cuộc hành quân của quân đội thường xảy đến, chiều chiều máy bay lượn trên xóm chú thả trái khói. Từ ngày Sáu Vu về làng, dân làng cũng bỏ làng đi, những người ở lại phải ra ngoài bãi cát làm hầm mà trú, vì ở trong này phải đi đào đàng, mà đi đào đàng thì có khi không về, có khi sáng mai phải đi đắp lại.
Bây giờ súng nổ quá lớn, trời tối mịt mùng, con mực từ miệng hầm vụt chạy xuống, nó im lìm thu mình trong góc, bên cạnh con Miệng. Chú Sáu lê dần đến phía miệng hầm, lo lắng cho hai con bò ở hai góc vườn. Mấy đám lúa mới bị nát nhưng chú ít tiếc thương, chú chỉ thương xót hai con bò còn lại.
Hình như hoa màu ngoài kia không có hơi thở như hai con bò, không có máu và không có hai con mắt u uẩn tội nghiệp của mỗi con bò.
Súng nổ thật đều, thật gần, chú Sáu nhắm mắt vọng tưởng trong tuyệt vọng, cũng như máu chảy trên những đọt lúa non, như người ta tuyên dương trên những xác chết, uống rượu mừng giữa một quê hương cháy, chú tuyệt vọng và giấc mơ lại đầy trong bóng tối. Chú Sáu thấy con bò cái quằn quại sinh con, con bò con khỏe mạnh, làn da óng mướt, hai mắt hướng về đám cỏ non kêu tiếng kêu đầu đời. Chú thấy hai mẹ con con bò cười với nhau, đi về hướng mặt trời ấm áp, mỗi sáng sáng chúng nó dừng trên bờ sông, con sông thênh thang đầm đầm giữa thung lũng. Chú thấy căn vườn chú cây trái xanh tươi, những ngôi mộ đã cất cánh bay ra ngoài nghĩa địa, những linh hồn đã thực sự về trời, không oan hồn nào còn đi lang bang quanh quẩn…. một tiếng nổ ngay trên nóc hầm, chú sực tỉnh, ngọn đèn dầu vụt tắt, con chó mực sủa lên một tiếng nghẹn ngào rồi im bặt, như có ai đập lên đầu nó cái cán dao bất ngờ , trong bóng tối chú Sáu sờ mình mẩy mình xem có trơn ướt máu không đấy là cái thói quen rờ rẫm lên thân thể mình để tìm vết máu vết thương của đám dân quê từ mấy mươi năm này , khi mới bị thương không ai hay biết mình bị thương – con Miệng hoảng hồn chồm dậy, nó ôm cha nó, cái ngực nóng hổi đầy thịt cứng ngắt áp vào lưng chú Sáu, mấy sợi tóc Miệng tỏa xuống vai chú, nó thều thào :
chết rồi cha ơi, tôi bị thương rồi, máu đây. Con Miệng mò bàn tay cha nó đưa về vết thương của mình y như chúng ta hãnh diện chỉ cho người mù sờ một cái huy chương nơi ngực. Máu đây. Sau ót tôi đây. Chú Sáu sờ sau sống lưng con gái, bàn tay chú nhơm nhớp một thứ nước màu, nóng và thơm.
Buổi sáng trong khu vườn tẻ lạnh con bò cái chết nơi góc vườn, cái đầu nó bay qua phía bên kia hồ nước cạn, cái đầu với hai con mắt không bao giờ nhắm :
hai con mắt xanh lè nhìn về phía chú Sáu. Hai con mắt này hoàn toàn khác hai con mắt đứng dưới luống cày trưa nắng nhìn chú đến mở tháo cái ách trên vai. Hai con mắt này là con mắt tự do, hai con mắt đã ra ngoài sự sống, đã thôi làm nô lệ cho người.
Con Miệng chết dưới hầm. Và con chó thì không ai chú ý đến nó nữa. Nó phải chết. Miệng bị một miểng nhỏ ghim vào sau ót nhưng nó chết liền. Cái chết như đùa chơi. Một đi lộn đường. Thay vì cái chết đi thẳng đến chú Sáu nó lại quanh qua con Miệng.
Vết thương quá kín đáo. Miệng chết êm đềm như nằm đợi người tình trong giấc ngủ ngon. Chú Sáu cất tiếng khóc khô khan giản dị, tiếng khóc của một lão đàn ông tưởng vô duyên nhưng thực ra nó làm đau lòng người hơn bất cứ lời ai điếu nào.
Buổi trưa con bò được đưa đi khắp xóm, thịt nó được vào bụng người với la biere . Con Miệng được tẩm liệm sạch sẽ cho vào quan tài. Gái quê chết thật khiêm tốn. Ngoài áo quan thô sơ với mấy cây lạp lung linh không có vòng hoa tấu nhạc gì, không có người tình nào mê sảng bên quan tài. Chỉ có Ngọc.
Ngọc nó thương Miệng lắm nhưng anh ta âm thầm vác cuốc ra đào cái lỗ chôn con chó và đào cái huyệt thật đẹp dành cho Miệng.
Ngọc nói :
– Tao chưa làm gì được con Miệng, tội nghiệp nó đã chết rồi….


2. Chương 2

Bốn tháng sau khi con gái chết chú Sáu thực sự thấy không thể sống trong cái xóm quê quá quắt kỳ ảo này. Trời mùa hè nắng cao. Mỗi ngày chú Sáu dắt con bò con ra đồng, ngồi bờ ruộng nhìn cánh đồng khô vàng, con bò nhỏ như con dê con một mình nó phải ăn cho hết cỏ trên cánh đồng này. Không còn đàn bò lũ trâu nào tranh giành với nó. Chiều chiều chú Sáu đến ngồi trên mộ con, dấu xích xe tăng chạy tròn quanh mộ như những vòng hoa lớn hay như một thứ ranh giới đánh dấu giữa phía này điêu tàn và bên kia hư vô. Chú ngồi đấy với gió rào rạt, từng đám bụi hồng che kín mặt trời, xa là đền lũy, là thị trấn lố nhố những bờ tường trắng hoang vu.
Gần đây Sáu Vu lại hay về làng. Người ta thường ngủ mơ thấy Sáu Vu gõ cửa, nghe Sáu Vu ra lệnh, Sáu Vu râu dài tóc rậm như Ô Mã Nhi thuở nảo. Người ta thường thét lên, thức giấc giữa đêm khuya, ôm lấy linh hồn quằn quại đau đớn của mình khóc ngất. Ngay lúc đó thì từng tràng đạn từ thị trấn cũng đổ về đều đặn, như chùm trái chín rơi giữa đêm minh man.
Dân làng đã bỏ xóm đến ở nơi những gò cao, ngoài bãi đất trống để tránh Sáu Vu và tránh chùm trái chín rơi vu vơ trên nỗi chết. Cảnh vật khô khan tiêu điều. Chú Sáu dựng nhà trên bãi cỏ. Ban đêm vẫn ngủ dưới hầm. Chú van xin con bò con phải cùng ngủ với chú. Bây giờ con bò con đã biết điều, chịu khó ngủ chung với người.
Một ngày nọ, sau cuộc hành quân, chú dắt con bò con đi sau đoàn quân trở về thành phố. Hoàng hôn, đoàn xe thiết giáp chạy vội về căn cứ, chú Sáu và con bò đứng dưới ngã ba nhìn ánh đèn phố thị.
Đ.M., ở thành phố có khác. Chú Sáu nghĩ như thế rồi chú buồn ngay. Vì ở đây không có hầm cho con bò con ngủ.
“Không có hầm cho bò, không có cỏ non! “. Chú Sáu cột con bò dưới cây trụ điện. Chú đau lòng vì dưới ánh sáng này nhiều muỗi quá. Chú thức và đuổi muỗi cho con bò. Nửa đêm nghe có súng nổ thật gần. Chú Sáu giật mình, ủa, trong này cũng có Sáu Vu à.
Đám dân thành phố qua lại thấy cảnh gai mắt, chúng nó nói :
– Đ.M., coi thằng khùng. Một thằng khùng quên cả mệt nhọc quên cả thân thể đời sống nó. Nó chỉ lo cho bò.
– Con bò y như là Tổ Quốc hay lẽ sống của nó đấy. Sáng hôm sau, chú Sáu được đưa vào trại định cư. Chú có nhà ở, được lãnh thực phẩm, áo quần.
Nhưng hình như chú chưa cần những thứ đó. Việc đầu tiên chú tìm cỏ cho con bò, dắt nó ra kinh tắm rửa, kinh nước đục không bao giờ soi thấy bóng người dưới đó. Lần ông Quận trưởng đến thăm trại định cư, ông ta hỏi han chú Sáu. Chú đưa mắt về hướng con bò, cố ý cho ông Quận nhìn thấy con vật yêu thương. Nhưng ông Quận không hiểu điều đó. Chú Sáu buồn rầu, không cần ai hiểu chú nhưng người ta phải biết đến tình cảnh con bò, súc vật ở đây bị tận diệt rồi đó, mai này ai đi trước luống cày, mai này phải có chúng nó để phân biệt giữa một công dân và loài nô lệ. Nhưng ông Quận mang sữa bột, thuốc men, áo quần của Hoa Kỳ đến cho chú Sáu, không ai cho lại chú cái xóm thân yêu, mái nhà yên tĩnh, không ai mang trả lại chú cánh đồng tự do hiền hòa.
Con bò con mỗi ngày một gầy gò, nó thật vô duyên trơ trẽn giữa thành phố. Chú Sáu quanh quẩn với ngày tháng không công ăn việc làm. Mùa mưa tới, chú Sáu nằm trong đêm mơ màng, nhớ từng đám mạ non, từng chiếc gàu nụt lạc, nhớ từng sáng sáng năm xưa với lũ bò ra đồng khi sương còn trắng mờ trước mặt.
Nằm trong thành phố với người xa lạ, chú Sáu mới thấy cả cái cày, cái cuốc cũng có hơi thở, có linh hồn. Cày cuốc đã hơi thở dưới căn nhà cháy và linh hồn chúng nó về rộn ràng đâu đây, làm chú thao thức nửa đêm, ngây ngất từ lúc trăng về sáng, lòng dạ như sắt se khi chợt nhìn một chòm sao sáng rỡ trên trời lúc nửa khuya. Chú nhớ vợ và con, những người này đã quay cuồng với đất. Ôi, tất cả đã băng băng giã từ chú, tất cả đã một đường đi tới phía bên kia thời gian, chỉ còn mỗi chú, chú làm một loại cây không lá, một loại cây đầy gai nơi vùng bạch hóa.
Trong thành phố cũng có Sáu Vu à. Chú Sáu đêm mộng thấy Ô Mã Nhi vội vã chạy từ rừng ra đồng trống, vội vã ném những trái khô vào họng súng. Những trái khô bay về, nổ tan tác trong bệnh viện, nổ ngay giữa trường học, nổ trên đầu giấc ngủ, nổ biến giấc ngủ thành cái chết nghìn đời. Ô Mã Nhi, Ô Mã Nhi. Người đã mang ác mộng từ đồng quê vào thị trấn. Và chú Sáu khóc thét lên khi trái đạn nổ ngay trên đầu con bò con của chú. Nó chết khác cha mẹ nó. Nó chết thê thảm hơn. Chiến tranh càng lâu năm, vũ khí càng tiến bộ, cái chết càng ghê tởm tan tác hơn.
Con bò đực hùng vĩ ngày xưa chết yên lặng trong chuồng vì một miểng đạn gọn ghẽ. Con bò cái lam lũ khi chết cái đầu bay qua bên kia hồ cạn, nhưng phần còn lại người ta có thể ăn thịt được. Con bò con này không ai nhặt được thịt nó. Nó tan tành dưới sức tàn phá của một trái ly. Nó lộn với thịt người. Lộn với óc người. Nó dính trên cỏ cây. Nó thành nước. Một thứ nước trộn lẫn giữa máu và thuốc súng.
Chú Sáu ngồi bên miệng cái hố bề sâu hơn thước bề ngang vài thước. Nơi này con bò con chiều hôm qua còn nhai cỏ, còn dẫm chân trên lãnh thổ yêu kiều. Chú Sáu ngó quanh quất, ngửi trong không gian cái hơi con bò con, máu xương đã thành ánh sáng, đã thành gió động cỡn đâu đây. Chú chưởi thề :
– Đ.M. thế thì tao còn gì.
Chú nhất định trở về cái xóm quê của chú. Nơi tuổi trẻ chú mặc trên mình cái áo rách vai, cuốc đất trồng khoai. Ngày nay trên mình chú cũng cái áo rách vai. Nhưng áo này là cái áo viện trợ chú lãnh được trên quận. Những cái chú có người ta đã giết đi. Những cái chú có người ta đã cướp.
Ngày chú lên đường trở về xóm quê một người trong trại định cư hỏi chú :
– Anh định đi Sài-gòn làm ăn đấy à ?
Chú Sáu ngơ ngác. Chú quên mất trên quê hương chú còn có Sài-gòn, chú trả lời :
– Không…. tôi về quê.
Người ta kinh ngạc :
– Anh điên à, vùng của anh là một vùng tử địa, vùng oanh kích tự do. Cái đầu anh cứng lắm à.
– Oanh kích tự do là thế nào ?
Mọi người nhìn nhau cười. Họ cần thấy phải giải nghĩa cho tên Mohican :
– Là ai muốn ném vào đó, muốn bắn vào đó cái giống gì cũng được. Coi như chỗ không người.
Chú Sáu thấy tức tối vô cùng. Mộ vợ con chú ở đó. Ông bà tổ tiên chú nằm dưới đó. Mồ mả không phải là người. Nhưng người không được xúc phạm quá đỗi đến thế.
Rồi chú ra về.
Ra ngoài đồng trống chú đi nghêu ngao. Nhớ thuở trước chú dắt con bò chạy lon ton theo sau đoàn xe thiết giáp. Cả cuộc đời lao xao trên nỗi lo lắng. Bây giờ tất cả là tay không. Chú đưa tay sờ lên vai áo rách của mình. Chú tiến qua một gò mả, khu rừng hoang lạnh phía trước, quê nhà chú cách đó không xa, chú men theo những hố bom nằm cách khoảng nhau đều đặn…. bỗng chú thấy Ô Mã Nhi.
Trời đã ngả chiều, nắng quái đọng ngùi ngùi trong cánh rừng khô, vài áng mây đen bay vùn vụt, thay hình đổi dạng khôn lường. Ô Mã Nhi chận chú lại. Hỏi :
– A, Lão Sáu, tên tề điệp, mày hãy dừng lại nhận bản án tử hình.
Hai người đi theo Ô Mã Nhi đã lanh lẹ rút hai con dao đứng cạnh chú Sáu. Ô Mã Nhi rút lẹ trong túi ra một mẩu giấy, đọc ngay :
“Nguyễn văn Liên từ một năm nay đã tự ý vào thành làm gián điệp tay sai cho Mỹ ngụy. Nguyễn văn Liên, tên tề điệp bẩn thỉu đã phản bội dân tộc. Nhân dân và đảng đã lên án tử hình tên Nguyễn văn Liên. Ngoài ra tên Nguyễn văn Liên còn là cha đẻ của tên Nguyễn văn Đích. Nguyễn văn Đích nay cũng bị lên án tử hình”.
Hai con mắt chú Sáu trợn xanh lè như hai con mắt con bò cái với cái đầu hoang vu trên bờ ao.
Hai con mắt đó nhìn về Ô Mã Nhi không kịp nói lời nào. Chú chết tức tốc, quằn quại vì một bản án quái gở bất thành văn tự đó. Khi ném xác chú xuống đường mương đã khô nước, một du kích quân quay sang nói với Sáu Vu:
– Đồng chí giỏi quá, làm sao đồng chí có ngay được bản cáo trạng ?
Ô Mã Nhi trả lời :
– Đây này, tôi lấy tờ giấy thu lúa để đọc trước mặt hắn. Với tụi nó đứa nào cũng đáng chết. Anh có thể nhặt một mẫu giấy bẩn, đọc trước mặt nó rồi chém nó ngay đi cũng được, cần gì phải có bản cáo trạng.
Ô Mã Nhi nhét vội mảnh giấy vào túi áo rồi cùng hai đồ đệ tiến vào khu rừng khô trước mặt. Họ tan biến trong hoàng hôn đã đầy bóng tối.


3. Chương kết

– Đ.M. tao đi lính hai ba năm mới được đổi về đây. Tao chưa đi phép đã đi hành quân rồi. Đích vừa lau cây súng vừa nói chuyện với một người bạn. Người bạn hỏi :
– Quê mày ở đâu ?
– Cách đây hơn mười cây số, trong quê.
– Biết đâu ngày mai lại vào đó, mày tha hồ thăm.
Người bạn của Đích bỗng ngậm ngùi :
– Mà ở đó còn gì để thăm.
– Anh biết quê tôi à.
– Biết chứ. Quanh đây từ mười cây số trở lên đều là vùng oanh kích tự do, trừ mấy xóm nhà trên đường về Sài-gòn.
Như một cái màn vừa kéo ra, Đích chợt thấy phần hậu trường thăm thẳm bên trong :
– Đ.M. hèn chi tao gửi thơ năm sáu tháng trời không thấy ai trả lời. Không chừng….
Người bạn buông xuôi :
– Không chừng con mẹ gì. Nhà tao chết ráo hết rồi.
– Ở ngoài quê à ?
– Không, trong thành phố này. ly.
Buổi sáng hôm sau đoàn quân tiến về quê của Đích. Bước chân xuống điểm xuất phát, Đích ngó mông về phía làng :
một vùng trơ trụi, cây khô, đá khô, và vạn vật vàng khô. Một vài tiếng súng nổ lẻ tẻ.
Một vài nhà cháy nằm rải rác. Buổi trưa Đích cùng toán quân dừng trên một gò cao nấu cơm ăn. Anh dõi mắt về cái xóm phía trước :
nơi tuổi nhỏ anh chăn bầy bò ba con. Có lần Đích đã nằm trên mô đất đầy cỏ xanh, đắp cái nón lá trên mặt, anh ngủ vùi, bầy bò đi rong trên cánh đồng ăn cỏ suốt ngày. Có lần trên cánh đồng này Đích lắng nghe tiếng nước chảy róc rách, tiếng cá đớp lúa, tiếng rì rào xa vắng của ngàn bông lúa vừa đơm trên đồng. Đích nhớ ngày con bò mẹ sanh con, trời tối, cha Đích cầm cây đèn ánh sáng chập choạng, mẹ Đích ẵm con bò nghé đỏ hỏn như một đứa bé. Bà mẹ mừng, nói con bò đẻ ra tiền bạc cho tui đây. Bò con vừa được sinh buổi tối, sáng hôm sau ra đồng nó đã vượt mương và bơi ngay. Bò đã hơn người, nó không phải tập bơi lội. Đích nhớ những đêm trăng lên cao đầu ngõ, ánh sáng dịu dàng chảy trên đám đất vàng, cả gia đình anh ngồi quây quần ăn cơm ngoài sân tiếng gà lục đục phía sau, tiếng chim đêm ấm áp vô cùng trên những cành tối vu vơ. Mấy năm rồi Đích mới trở lại, súng trên tay, đạn lên nòng, anh đi về tuổi nhỏ, anh tiến vào vùng kỷ niệm, sẳn sàng bắn vào trí não mình….
Đích chặn hỏi một đứa bé vừa ở dưới hầm ngờ ngác chui lên :
– Mày biết lão Liên xóm này không ?
– Không.
– Mày biết còn ai trong xóm đó không ?
– Không.
– Cha mẹ mày ở đâu ?
– Chết hết rồi, dưới hầm.
– Nhà mày đâu ?
– Trong kia.
Đích nheo mắt nhìn theo ngón tay trỏ của đứa bé :
nơi cái xóm trống hoang đó mấy mảnh tường lổ đổ, mấy cây cau cháy và vài đám khói. Đích hỏi tiếp :
– Có tụi nó về đây không ?
– Không biết.
– Mày lấy gì để sinh sống ?
– Sống à, không có gì hết.
Đích ngậm ngùi, đi ra ngoài giàn bí hái một trái bí để luộc ăn với cơm buổi trưa. Đích móc trong túi năm chục bạc đưa cho đứa bé :
– Trả tiền trái bí cho em đây này.
– Không.
– Sao lại không, sao không lấy tiền.
– Lấy sợ các ông nói “tề điệp”, các ông giết.
– Không, đây là lính Quốc gia. Lấy tiền đi.
– Không.
– Sao lại không hoài.
Thằng bé ngước lên :
– Các ông có giết tôi không ?
– Không.
Lúc bấy giờ một người lính khám phá ra một cái xác chết đã hôi sình. Người lính trở về nói với Đích :
– Cha mày bao nhiêu tuổi ?
– Cỡ sáu mươi.
– Có phải cha mày dưới mương nước không ?
– Tao làm sao biết được. Ăn mặc đồ gì ?
– Chiếc áo viện trợ.
– Việt Cộng đó mày
– Việt Cộng gì mặc áo có mang nhãn hiệu Chicago.
– Mày thấy thực à.
– Tao dí cái mũi súng vào cổ, cổ bấy ra, tao thấy chữ in còn nguyên. Ghê quá, hôi thúi quá. Mày lại xem đi.
Đích cộc cằn :
– Mày cuốc đi, tao mệt quá rồi.
Buổi chiều khi đoàn quân trở về Đích còn thấy thằng bé đứng bên mái lá che tay lên mắt nhìn ngược hướng mặt trời. Đích nói với người bạn ngồi bên cạnh :
mày có dầu nhị thiên đường cho tao một ít. Người bạn đưa ve dầu cho Đích, anh ta xoa xoa trên mũi nói Đ.M. cái thằng già chết dưới mương hôi thúi quá, chắc cũng bảy tám ngày rồi, chết mà nằm úp để lòi cái óc trắng hếu lên trời. Người bạn nói hắn mặc áo viện trợ người Chicago, ai bên Chicago cho cái áo để mục rã trên xác người Việt Nam.
Đích hít một hơi dầu rồi nói như sực tỉnh :
– Ơ, hồi nãy có đứa nào chịu khó chôn lão già không bây.


1968

Hết










Đêm hoang tưởng

Cung Tích Biền




“Đạo là con đường. 
Con đường vẫn đi, có phải đường là Đạo.”



I



Phùng, tác người to lớn, da ngăm đen, tóc rễ tre, mắt một mí, bắp thịt cuồn cuộn, nom như một tượng đồng đen. Gia đình khá giả nhưng cha mất sớm, mẹ đi bước nữa. Phùng được người chú đem về nuôi, cho ăn học đàng hoàng. Năm Phùng mười lăm tuổi, người chú không may bị tai nạn chết, Phùng bắt đầu lêu lổng. Hai mươi tuổi đã bất mãn, khinh đời, lại muốn làm anh hùng cái thế. Cha Phùng thuở xưa là một võ sĩ, người cao to như vượn gấu, cuộc sống khá giang hồ; sau này Phùng lưu lạc nay đây mai đó với một sức khỏe hơn người, đô con như một lực sĩ. 



Thuở Phùng còn bé, một thầy bói thấy tướng lạ, bảo với mọi người: “Thằng bé này bị phá tướng vì hai con mắt ti hí, lại lé, một âm một dương. Khuôn mặt này, dáng người này, nếu có được một đôi mắt to tròn, quang minh, sau này có thể làm đến tướng.” Về sau Phùng cũng làm đến tướng, có hàng đàn em út để sai khiến, nhưng là tướng cướp. Tướng cướp lừng danh một thời, được em út tôn là Đại ca. 


Đứng trên mỏm đá cao chỗ lưng đèo, chiều sương núi. Đại ca nghe như buốt nơi bả vai; một vết thương khá sâu, bị đâm bằng một lưỡi dao lê, cách đây vài hôm từ một gã đầu gấu bảo vệ toán người đào đãi vàng trên đường chuyển vàng về xuôi. Đây là lần thất trận đầu tiên có vấy máu trong đời Đại ca. 

Thấy đàn anh bị thương nặng bọn đàn em lo lắng. Đại ca mắng: “Không có gì quan trọng. Tao đã từng trút khỏi cái người phàm phu này vài lít máu chẳng hề đi đong. Hãy bình tĩnh, tin vào thủ lĩnh là tao đây; chúng ta mần ăn cú này trót lọt, ngon xơi là về xuôi tha hồ ăn chơi. Phải có vàng, thật nhiều vàng.” 

Đại ca nâng ống nhòm quan sát vùng núi non. Chiều tà. 

Phía tây, rừng cây khô trọc, những mảng xanh đã chết tự bao giờ, sườn núi dựng trơ màu đất, chỉ đá tảng khe nguồn khô khốc bày lòng ruột sỏi đỏ như máu. Trước khi dân đào đãi vàng tới đây, bọn buôn gỗ đã cưa ngang rừng, tàn phá cây cối không nương tay. 

Đằng đông, con sông dài cắt ngang một thung lũng nhỏ, thảo nguyên hoang dã; ven sông những bờ lau trắng; một vài xóm nhà thưa thớt vườn tược, tường vôi, mái ngói. Tất cả chìm trong màn sương núi. Nhưng màn sương quá mỏng, quang cảnh đã bày ra một mặt đất bị đào ngang bới dọc, những đường hầm cong queo, những đường hình chữ chi, những hố tròn sâu như lòng giếng. Nó chằng chịt, khắp ruộng đồng, tận trong xóm làng. Dân đào vàng đã cày xới cả mả mồ. Đất mẹ, trở thành một khuôn mặt rỗ đậu mùa. Tất cả tím ngắt, rợn lòng. 

Nhưng cái thế giới hoang phế buồn bã ấy bỗng quyến rũ cái nhìn tham lam hoang mị của Đại ca. Hắn thấy đâu cũng là vàng, giữa nước non vàng. Hắn mê mẩn tê dại, quên cả vết thương trầm trọng đang rỉ máu nơi vai. “Vào hàng đá nghỉ tạm, chờ bọn người xuống Hòn Dừng. Bọn này chắc có tí chút đó.” Đại ca ra lệnh. 

Bọn họ trước đây gồm tám người, nay phân tán còn một bộ ba. Dưới quyền Đại ca có Nhị và Tam ca. Đại ca mang án tù mười hai năm. Bị giam cầm ba năm thì trốn trại tù. Nhị ca cũng là một tội phạm vừa mãn tù mấy tháng nay. Tam ca khả ái hơn, “con nhà” có học, cũng từng phạm tội; hôm ra tòa, tòa xét còn non trẻ, chưa thành tích mấy chỗ du côn giang hồ, chỉ dại dột theo đóm ăn tàn, tòa cho Tam ca hai năm tù treo. Về nhà Tam ca không chịu được tính khắc nghiệt của bố cùng sự nuông chiều chả để ý gì tâm lý của con trai của mẹ, Tam ca bỏ nhà theo Đại ca. Nhất định tự lập, nhất định thử lửa cái chí bình sinh của mình. 

Đại ca thường đùa với Tam ca: “Mẹ kiếp, đã tù còn treo, làm thằng trai trẻ tốn một sợi dây thừng. Này hảo bằng hữu, vậy đệ cột sợi dây vào đâu để treo cái án tù?” Tam ca cười trả lời: “Treo vô chỗ cần cổ bố em.” 


Nghề nghiệp bọn Tam ca là chặn dân đào đãi vàng trên đường về để cướp. Đây là một việc làm cực kỳ nguy hiểm, lại dễ vào nhà đá, nhưng bọn chúng cho rằng con đường ngắn nhất để vơ của, là tức tốc đổ máu tức tốc thu vàng tiền. 

Từ nhiều năm nay cả một vùng bao la từ rừng núi đến trung du miền Quảng nam, Trung bộ – đất của tháp Hời, tượng đá xưa kia – đã xảy ra một hiện tượng ma mị, đáng kinh dị, là đâu cũng có vàng. Có nơi vàng trồi lên cả mặt đất. Như cơ thể con người dị ứng với vật thể lạ; lòng đất nơi đây dường như không chịu được cái sự để vàng trong bụng mình. 

Dân bản địa bao đời lam lũ làm ăn trên nương rẫy khô cằn, nay trong đêm trăng lạnh lẽo bỗng thấy sáng rực hai bờ sông cát những giải vàng lấp lánh, rất nhiều vàng vụn lẫn trong bùn cát. Người ta bàng hoàng ngơ ngác. Khó tin vào mắt mình. Nhưng rõ là những bãi sông vàng. Vậy là bỏ ruộng nương cùng nhau hàng đoàn lớn bé trẻ già ra sông đãi lọc vàng từ cát. 

Lại đào vào lòng đất. Lúc đầu một vài lỗ như lỗ huyệt. Sau, thành hào lũy. Ban đầu dân quê mùa bản địa mang vàng vụn đi bán; sau, có dân chuyên nghiệp từ tứ phương tới lập lò biến chế, tinh lọc vàng từ các tạp chất. Con sông tinh khiết bao đời đã ô uế đủ loại chất thải của người. Dòng sông mùa cạn đục ngầu hóa chất, có cả chất cực độc cyanua. Trân bò uống phải, lăn ra chết. Trẻ em tắm phải, mù mắt. 

Nhiều nơi không phải công đào bới. Cúi lượm là có vàng. Một sớm mai ra vườn đào cái lỗ đất trồng cây bỗng nghe đầu lưỡi cuốc một tiếng cụp. Vàng. Cục vàng ròng to bằng cái triện son. Thỉnh thoảng trẻ chăn trâu cũng lượm được những cục vàng nho nhỏ ném nhau chơi trước khi bàng hoàng cất giấu. 

Vàng đã trở thành một điều thiêng, làm người người mơ hoang, nhìn đâu cũng tưởng: “Dưới ấy có vàng;” kể cả dưới bàn thờ, giường ngủ, trong lòng ngôi mộ ông cố nội, giữa miếu thành hoàng, nơi gốc cây xanh em đang hái trái. 

Từ đấy, trong mênh mông rừng núi vang vọng tiếng người, tiếng cuốc xẻng, cả tiếng máy xe đang đào ủi. Dân giang hồ tứ chiếng đổ về nhung nhúc. Xóm làng như trẩy hội. Lều trại mọc lên như nấm. Đầu làng chị nhà quê mở quán cà phê, cặp với anh thành phố mới mẻ nhập cái máy điện, thêm cái trò mục văn minh phim Hồng kông, hát karaoke, uống rượu tây; gà gáy sáng vẫn sáng choang ánh đèn cho những canh bài, những cuộc tình vội phía chái hè, dưới liếp lều căng tạm. Tiền bạc sáng lòa, vùi lấp trí óc người thôn dã; những chân tay chuyên cày sâu cuốc bẩm trở nên bất ngờ biếng nhác, đi rong rong ăn ké, chờ vàng nổi của rơi. 

Vườn tược, đồi gò, nghĩa địa, cả những khu đất thừa của cơ quan, sân vận động, cũng khó thể lọt khỏi đôi mắt bọn khai thác vàng. Với cái giá thầu cao chưa từng mơ thấy, người ta đành lòng cho phép bọn lạ lẫm không bảo chứng, được tự do thăm dò, đào bới. Đó đây mộ chí khói nhang, do thanh toán nhau, do cực nhọc mà chết, hay khi quá mừng vui gặp phải một hầm vàng mà đứt đoạn gân máu, mà hui nhị tì bất ngờ. 

Trong khói núi chiều xanh người ta mộng mị, nhà nhà hoang mơ; cõi thánh địa của huyền hóa, áp phe, tin đồn, dao búa, cúng lạy, chửa hoang; sáng nghèo trưa bỗng hóa giàu; sáng tươi vui ra đi, chiều đưa xác ma trở về. Niềm vui, âu lo, hạnh phúc, tai họa, thật khó phân ranh. Một cuộc địa chấn đảo lộn tận cùng thể xác tâm linh từ xó bếp tới bàn thờ. 

Về mặt tâm lý, dân bản địa rất sợ nhặt được vàng cục, vàng khối. Cho rằng của phù vân, vàng linh của đất đai Hời. Trúng cú lớn quá, phát tài nhanh vù thì chẳng sống yên với đời. Sẽ chết bất ngờ, mọi cách. Chuyện kể về sự vụ này khá nhiều. 

Một anh hãy còn trai trẻ, hôm đào đất đắp nền nhà vớ phải một cục vàng to như ổ bánh mì. Không tin điều dị đoan, anh ta tươi cười mang khối vàng nhặt được ra thành phố, bán được vô số tiền; mua cả xe tải vật dụng từ ti vi máy hát, cái tủ, bộ xa lông; lại mua thưởng mình một chiếc xe Dream cáu cạnh; ăn chơi mấy hôm rồi tự lái xe về. 

Trên đường về anh ta rất khôn ngoan, không hề uống một cốc bia rượu; vậy mà tới chỗ ngã tư giao nhau giữa con đường nhựa và đường xe lửa, cái chắn báo có tàu đang chạy qua, cái đèn báo ngọn đỏ chạch nằm tòng teng trên cây ba-ri-e, anh chẳng thấy, chiếc tàu to đùng giữa ban ngày ban mặt cũng bị ma che, anh phóng Dream tốc độ James Dean, tông gãy cây chắn, xấn ngay bon vào lòng con khủng long phom phom. Chết tốt. Tàu đường sắt kéo xác anh đi mấy chục mét, lúc thịt xương anh thành bột, hết khả năng kéo mới thôi. Chiều hôm, cả làng ngơ ngác gáy lạnh. 

Một chị đi tưng trong nắng chiều quàng xiêng bỗng nhặt được khối vàng khoảng mươi ký, tích tắc đứng ngây người như ma trồng, tích tắc chị la bớ làng bớ xóm ôi. Ôm cục vàng chạy về nhà, chị ngồi thất thần như quỷ đớp hồn, chờ đêm lên chị âm thầm mang cục vàng đặt lại chỗ cũ. Chị thắp một đám nhang khói van vái, rồi sụp lạy, cầu mong đất đai có hồn thiêng hãy bỏ qua sự vụ cho chị. Chị thề cùng trăng gíó cỏ cây thổ địa thành hoàng ếch nhái là chị không hề có lòng tham, chỉ tình cờ, nay của đất chị trả về cho đất. 

Lại một ông luống tuổi, khá sành đời, nổi tiếng chúa đểu khắp vùng, chiều hôm đi thơ thẩn sang thăm đứa cháu nội; đường quê khập khễnh trượt té úp mặt trên đường; hai mắt trổ đom đóm vàng tanh; lúc lom khom bò dậy sao ông lại thấy chỗ cục đá bật ra một cục vàng bự quá thể. Nghĩ rằng trả vàng này lại cho đất đai vô tri thì vô lý quá; giữ lại làm của anh chúa đểu lại sợ tai vạ; trời muốn anh chầu trời thì trốn lên sao Hỏa anh cũng phải ăn cơm trời; cho nên trong đêm âm hao bóng núi anh nảy ra sáng kiến là chặt đục khối vàng ra nhiều cục nho nhỏ, như gói xôi cái bánh; anh giữ một ít làm của dưỡng già, còn bao nhiêu mang tặng kẻ thân quen mỗi người một ít, gọi là xả xui; chia đều cái chết; mỗi người chết một chút – nếu quả thực cục vàng Hời là bản sao của thần chết.

II


Bọn tam ca làm ăn cũng khá trong nghề cướp cạn. Chúng thuộc hạng người thà đổ máu tức thì để có cái ăn chứ không chịu đổ mồ hôi dằn dai trong công việc lương thiện. Chúng đứng ngoài cái trường phái “lao động là vinh quang.” Kiểm điểm trên thế giới thấy rõ bọn này không là thiểu số.

Mà vàng chẳng để chúng yên thân. Lúc ra thành phố bán được vàng, là ăn nhậu, bài bạc, động đĩ, tự thiêu trong cái túi hoang lạc. Đâu lại vào đó. Chỉ bọn gái đĩ bia ôm hưởng được những phát tiền boa điên khùng, và bọn lái vàng đã ăn chặn đuôi đầu. Mấy bộ cốt khỉ lại trở về những quãng đường hiểm để tiếp tục nghề cướp cạn. 

Về mặt nghề nghiệp, bọn tam ca rất tài tình. Phục kích kín đáo chỗ hiểm, tấn công thần tốc, thu nhanh biến lẹ; luôn đoán trúng phóc trong đám đông đang di chuyển ai là người hộ tống, là chủ, là người giấu vàng, ngay chị đàn bà giấu vàng chỗ cửa mình. Lần nào phục kích chúng cũng thu ít nhiều. 

Chỉ một lần chúng tấn công nhầm vào hai ông cháu một thôn dân ăn vận đàng hoàng; đánh gục, chúng lục soát khắp người nạn nhân mà chẳng vơ được chút vàng nào ngoài màu vàng của cứt nạn nhân vãi ra khi bị đánh bất ngờ, đang mỏm cửa tử. 


Chúng liên miên thắng trận, chỉ hôm kia bị thua tan tác trước một đoàn đào vàng được hộ tống quá hùng cường, có cả lựu đạn, súng săn, dao mác nhọn, có thể đâm thủng da heo rừng. 

Bây giờ bọn tam ca đã vào trong một hang đá, cửa hang quay ra đường đi chính của đèo. Trong hang có đầy rác rưởi của bọn tới trước bỏ lại, những vỏ lon bia, đồ hộp, giày hư vớ thủng, xú cheng đồ lót, những áo mưa sau khi hành lạc, những bó nhang muỗi, cả những loại nhang thơm dành cho việc khấn vái dâng hiến niềm tin cho thần linh. Mùi ẩm tanh pha mùi rừng núi lan tỏa. 

Bọn chúng nằm ngang dọc, phạch trần ngực áo tu rượu đế, nghe nhạc qua máy cát xét. Tam ca vốn có suy tư cuộc chiến tí chút, mở máy, máy phun ra từ khi trăng là nguyệt, tôi nghe đời vỗ về tôi. Đại ca phẹt một bãi nước bọt, nổi cáu rủa đổng mẹ kiếp, đời nó toàn bộ ỉa đái lên cái thân phận rách nát của tao chớ vỗ về cái chi. Tam ca phân giải đây là nhạc sĩ nói ví mà Đại ca. Đại ca mắng: “Dẹp, tao bảo dẹp. Lấy dao cạo râu tới cạo lông ngực cho tao xem nào.” 

Đại ca nhìn lung ra xa, nghe nhức buốt chỗ bả vai thương tích, máu đỏ thấm cả ra lớp vải băng một màu xôi gấc. Bỗng hắn nghiêng người, lắng nghe, rồi lớn tiếng: 

“Chúng nó sắp tới rồi, kia kìa.” 


Xa xa một toán người đổ xuống lưng chừng con đèo thấp. Những âm thanh hỗn tạp đưa lại rì rầm như cơn mưa xa đầm đầm đổ tới. Đại ca nâng ống nhòm theo dõi. Một đám sinh vật màu chàm di chuyển mệt mỏi, áo quần lem luốc; mang, cõng, vác, khiêng đủ thứ vật dụng lỉnh kỉnh. Đây là một toán làm ăn lớn, thu hoạch khá, đang rời trại, về nghỉ. Trước và sau có bọn trai trẻ lực lưỡng hộ tống. Có cả xe honda chạy chậm, cẩn thận dò xét. 

Đại ca cố quan sát trong bọn tải vàng xuôi con dốc mòn, đứa nào mang súng hoặc lựu đạn. Nếu đoàn người này không trang bị súng đạn thì bọn đại ca thừa sức chơi gọn. 

Trận chiến đã thực sự xảy ra trên lưng đèo. Dân săn vàng không bất ngờ khi bị cướp đường; như rớt xuống nước phải gắng bơi, họ sẳn sàng cuộc đao búa; luôn coi vàng quý hơn máu châu thân, đứa này đi đong đứa kia tiếp tục tử chiến, miễn sao mang được của máu nước mắt về đến nhà. 

Vàng được cất giấu mọi nơi có thể; ngụy trang đủ kiểu, có khi nấu thành thỏi nhỏ, nuốt vô bụng, về nơi an toàn mà ỉa ra, chảy máu trôn mà vui. 

Bọn tam ca lúc này không cần hội họp phân công phối trí, chỉ tức khắc tự động vào cuộc, yểm trợ nhau tàn sát theo thói quen trận mạc; nhanh nhẹn hâm sôi bầu nhiệt huyết, vực ngay dậy nỗi thèm vàng đang rổn rảng reo vang trong não bộ; chai lỳ trước tiếng khóc than; nhứt mực xem máu người đổ ra như máu gà vịt lúc đánh tiết canh cho một trận mây mưa tao phùng. 

Phải diệt gọn, thu nhanh biến lẹ. Tức khắc đoán ngay chóc đứa nào đang giữ vàng trong bọn để dứt ngay đứa đó. Giới hạn tối thiểu sự phạng lầm hơn bỏ sót, vừa mất sức lại lắm khi vong mạng vì đối phương say máu lúc mạng sống tơ mành treo tòng teng chỗ cửa tử. 

Trận chiến trên lưng đèo diễn ra ác liệt. Thuở Tề Thiên đấu với Thiên thần, trận địa nhuốm màu lãng mạn, ít ngổn ngang máu thịt, vì cả hai dùng nhiều bùa phép, mỹ thuật hóa đựơc chỗ tang thương, mã hóa phần nào sự thắng thua. Tiểu thuyết mà. Giữa đỉnh đèo này bọn dân dã không có phép thuật, chúng sử dụng bất cứ gì có thể gây máu để tự vệ. 

Dao mác, gậy gộc, đòn gánh, đá cục, nồi niêu xoong chảo, kể cả răng trong mồm khi cần cắn vật nhau quay cuồng. Vũ khí thô sơ, không hiệu lực tàn sát hàng loạt nhưng tạo ra đủ loại vết thương man dã kỳ cục. Bị phạng vào gáy một cái cán cuốc mà về sau tê liệt tứ chi, hoặc man man mát mát thương nhớ nhà thương điên Biên Hòa suốt đời. Đã có đứa nhiều năm sau thân tàn ma dại, thầm trách số mệnh sao không cho đi đong ngay nơi chân trời cuối bến thuở giang hồ. 

Bọn tam ca đục thẳng vào giữa đám người nơi có hai gã thanh niên tạo thế yểm trợ nhau di chuyển chậm, có thể đó là hai gã giữ vàng, tránh đụng độ. Đánh một lúc Đại ca nhận thấy trong đám hộ tống có mặt Gấu Chúa, một cựu thù khi còn ở chung trại tù năm xưa. Trên khuôn mặt Gấu Chúa hãy còn loang lỗ đen trắng một mảng sẹo, hậu quả một ca nước sôi do Đại ca tạt thẳng vào. 

Chợt thấy Đại ca, Gấu Chúa mặt sẹo nhìn căm thù, nhưng hắn chơi sang, vừa đánh vừa tách Đại ca ra khỏi đám đông. Thanh toán tay đôi cho hả dạ. Những đứa con ngoan của luật giang hồ. Đại ca thuộc loại sức mạnh phi thường, nhưng đang thương tích. Hắn chọi mỗi lúc một yếu dần. Gấu Chúa bất ngờ quật ngã Đại ca, đè mũi dao nhọn vào cần cổ đối phương, nói rành mạch: 

- Mày bị hỏng một tay, vậy tao cũng chơi một tay, nửa thành công lực thôi. Nào gắng lên chớ. Hãy cắt tiết nhau cho sòng phẳng. 

Đoàn người thoát dần xuống chân đèo. Bọn Nhị và Tam ca quần theo để cướp cho được vàng. Trên lưng đèo, in nền trời chiều thẩm mây bay là hình hai gã giang hồ thanh toán nhau. 

Máu chảy xối xả từ vai cổ mặt xuống ngực. Đại ca quay cuồng. Một loáng hắn thấy thế gian rực sáng, một thứ ánh sáng mê hoặc của ma men say đắm, hoa lá cỏ cây nạm vàng, sườn non sông nước bờ lau thung lũng đầu lâu sọ khỉ dòi bọ, cả hơi thở âm thanh ánh sáng đã rực rỡ hóa vàng, vàng tênh mùa cúng cô hồn tháng bảy. Rồi tất cả tím thẩm. Đại ca sức tàn gượng dậy, cảm nhận cái sắt lạnh một lưỡi dao bén nhọn kè vào cổ mình. Văng vẳng giọng Gấu Chúa: 

- Tao tha cho mày.

- Hãy giết tao đi. Gấu Chúa, tao không van xin.

- Được. Vậy muốn cỡ nào?

- Tùy mày. Nhưng phải gọn. Tao không muốn thở dây dưa. 

Gấu Chúa thọc thẳng lưỡi dao vào cần cổ Đại ca, ngoáy mạnh một cái, kỹ thuật dứt khí quản cổ gà khi cắt tiết, là xong. Nghẻo. Hắn đặt cái dao nằm cạnh Đại ca. Cởi áo khoác đắp lên thi hài kẻ đã bị chính hắn thịt. 

Bọn Nhị, Tam ca lúc quay lại đã xông vào trực chiến. Gấu Chúa phán: 

- Lui ra. Chúng mày không phải là đối thủ của tao. Lại không nợ nần gì nhau. Hãy chôn cất đàn anh cho tử tế. Sau này phải lo lắng chu đáo con cái đàn anh chúng mày. 

Gấu Chúa lững thững xuống núi, cùng lúc nhận ra máu me đẫm người, năm sáu vết đâm khá sâu, không hứa hẹn sau này sức lực phục hồi bình thường. 


III


Bọn đàn em cùng khiêng xác đàn anh về ngôi làng trong thung lũng. Núi trời đêm. Sông lạnh. Sao Hôm lẻ loi một góc trời. 

Nhị ca nhìn mông lung nói: 

- Cõi trời đất này vô duyên bỏ mẹ. Muốn chửi cha cái đời.

Bọn chúng hạ thủ lĩnh trên một bãi cỏ đầu làng. Tam ca chỉnh tề tâm sự: 

- Nhị ca ạ. Đại ca anh hùng nay đã tiêu tán đường. Chúng ta nguyện sẽ có ngày rửa thù. Nhưng một ngày không thể không có vua. Em giờ đây nhứt trí nhiệt liệt tôn anh làm Tân Đại ca. 

Nhị ca nhổ tọet bãi nước bọt, thịnh nộ: 

- Chưa tống táng thủ lĩnh, cái xác còn chình ình trên mặt đất đã lo bề chia ngôi. Đù má mày. 

Trăng lên cao. Âm dương trở lạnh. 

Bọn chúng mong nghe một tiếng chào, mong thấy một bóng đèn một tiếng chó sủa. Nhưng tịnh không. Làng không có ai không còn ai. Như vừa bị tiêu diệt chiều xưa. Rải rác đó đây chuồng trại không súc vật. Xác mèo chó đã thành xương xẩu nơi xưa kia bếp hồng. 

Một ngôi đình làng còn trơ một mái xiêu, mái kia sụp xuống mặt hồ nước, chẳng vuông tròn của bọn khai thác vàng bỏ lại. Nhận ra mùi xác người, một vài con quạ đêm bay tới. Chúng kêu mừng hạnh phúc kiểu quạ. Nhị ca buồn bã nói: 

- Tưởng xóm người hóa ra đây là xóm ma. Có là ma quỷ cũng cho ta một lời chào. Sao tịch lặng đến rợn người thế này.

Tam ca nói: 

- Chọc ma quỷ cho quỷ ma thức dậy đi. Chứ không được chào hỏi, không chửi bới buồn bỏ mẹ. 

Bọn chúng nằm trên cỏ lạnh nhìn trăng khuya. Tiếng thác đổ từ xa đưa lại. Trong lòng núi bí ẩn trên kia có con sông Tiên. Khác với tất cả sông quê nhà miền Xứ Quảng, thường là phát đi từ núi tây để đổ ra biển đông . Sông Tiên chảy ngược về hướng tây, dọc trong lòng núi liền núi; thoạt nhìn ta có cảm tưởng sông Tiên có sức chảy ngược từ thấp lên cao. Một con sông dị thường. Một chạy trốn đồng bằng. Nhưng sông Tiên là cánh tay chuyển nước về miền thung lũng xa xôi trong núi thẳm. Là ân nhân mở đường, để sơn cước nhớ trung du. 

Nơi đây là Phương Đông mặt tiền trái đất, trong chiều tà thế kỷ. Xưa kia, nơi thi hài Đại ca đang chễm trệ bên cạnh Nhị Tam ca này, hẳn phải có một ngôi làng sầm uất thân thương, nay mới là tro tàn bếp lạnh; đó đây là di chỉ chìm, mồ mả nổi. Mặt đất bao quanh Đại ca là những xương mất thịt, những thịt không máu hồn, những hồn không chỗ đậu. Dưới trăng lạnh hay trong ánh dương chói lòa ngày qua, là kia kìa, cái cánh cửa vào nhà không em bé, hương án tổ tiên nhện giăng đầy, nơi mẹ xưa kia ngồi dệt vải là đây xác mèo chó xương đen. 

Một xóm làng chết trong tịch mịch mà lòng sâu của đất bị đào ngang bới dọc. Sông Tiên, con sông kinh lịch chảy bạt ngàn, không quay về Đông, nó đưa tiếng hát qua thung lũng này, nó thả hồn vào khóm lau bờ trúc, trải lòng thiên nhiên trong lòng người. Bản hùng ca đã bặt im. Tất cả trôi giạt, hóa đá trên một tinh thần thấp thỏm bình an. 

Một đất Mẹ rùng mình đẩy vàng trồi lên. Ma động. Hoang hóa. Mộng mị. Bọn loạn tâm cùn thức ra công đào bới khắp cùng. Một bọn Sĩ ngơ ngác, bất lực. Một bọn điên kinh hoàng cảnh ngộ, minh triết hí lộng, gọi hồn đất đá; những tưởng, đá mới vẹn linh hồn, đất là nhân danh vĩnh cửu. 

Có thể nào một cái sống đã không chốn nương thân, lại khi chết chẳng nơi chôn vùi. Không một lối đi nơi này. Chẳng đường về nơi đây. Mọi hiện thực như là vô định – sau một lưu đày đã định. Đạo là con đường, con đường anh đi, có phải là Đạo. 


Giữa đêm. Bọn Nhị ca tha thẩn đi quanh quẩn trong làng ma. Chợt thấy một khu vườn um tùm, một ngôi nhà lớn bên trong; nơi góc vườn một cây gòn rừng cao vút, cành nhánh ngang phè như gã khổng lồ đứng dang tay ngăn mây bay. Ngay cổng vào một tấm bảng lớn, với những dòng chữ cảnh báo: 

“Nơi đây trước kia là ngôi nhà thờ của một tộc họ lớn. Mấy năm trước con cháu nghĩ rằng dưới lòng đất nhà thờ có vàng, nên đồng tâm khai quật. Đào tất tả ngoài vườn, đào xuyên dưới nền nhà, có thu được ít vàng. Con cháu lại gây nhau, ly tán. 

Khách tham quan nên coi chừng, nhà tạm tạm còn đứng dưới trời mây nhưng sụp đổ gây thương tích bất cứ lúc nào.” 

Cách đó không xa, một căn nhà khác, đứng cheo leo dưới bóng trăng. Chung quanh là hào sâu nước đọng. Nó như một ngôi đền trên mặt hồ. Lại có một tấm bảng thông báo: 

“Đinh Phiên bán căn nhà này năm chục cây vàng, mang cả gia đình vào cao nguyên lập nghiệp. Bọn khai thác vàng đo la bàn, ngắm phong thủy, đã tính toán nếu phá căn nhà để khai quật sẽ thu hơn trăm ký vàng. Lãi chán. Chúng đào xới mấy tháng ròng. Lạ thay, đào ngoài vườn thì không sao, nhưng động một nhát cuốc vào nền nhà thờ Tộc, thì tức tốc có đứa lăn đùng ra chết. 

Ba lần xâm phạm ba đứa vong mạng. Chúng bèn lập đàn cúng tế, yểm bùa nhưng đâu vào đó, có đào là có chết. Chúng đành thua thiệt bỏ đi. Vườn nay thành hồ nước trăng soi, mà ngôi nhà còn nguyên. Có người cho rằng đây là nhà trên hồ, rất hiếm nơi mạn ngược; mai kia có thể là thắng cảnh thu hút khách du lịch.” 

Về khuya, trăng giải lụa trên xác người Đại ca. Đầu thôn cuối xóm vẫn một bãi tịch mịch, thênh thang những âm hưởng chịu tang, mênh mông bi tích. 



Bọn chúng khiêng đàn anh ra bìa làng. Đã thấy trăng chênh chếch phía núi. Gió xao xác như nghìn nghìn âm binh sắp về đây mở hội. “Vong hồn, hãy mời ta cốc rượu. Sỏi đá, hãy cựa mình đi. Sao thê thiết quá vầy.” Nhị ca than thở. 

Tam ca đặt thủ lĩnh lên một tảng đá bằng phẳng, lấy nước rửa mình mẩy máu me, lại vốc nước sông trăng uống ực. 

Rồi như huyền hoặc xảy ra. Núi màu chàm trong đêm sương về sáng. Gíó ngan ngát như mang hơi mưa từ xa mùa đông.Không gian bỗng đượm mùi hương lạ; mùi phấn son, bùn lầy, mùi hoa dại, lá khô; mùi thịt xương cũ. Quả thật đâu đây là một mùi thiên địa, tổng kết giữa chết thật sống hờ; ngây ngây. Nó như tri hô xa vắng của vong hồn, âm vang chết, là thách thức, cổ lục, của một bình minh đêm; lênh láng, tê dại. 

Nhị Tam ca bất giác lâm vào cơn hiu hiu, khi đôi tay vẫn sờ nắm một cách vô thức lên cái cần cổ thủ lĩnh máu cục đọng đen từ chiều. Bỗng như có động vang từ rừng núi. Một làn hương đưa một bước chân người. 

Một lão tiên ông tóc trắng râu bạc mấy chòm xuất hiện, là đà như có như không. Lão ông từ tốn bảo Nhị ca:

“Hãy tìm nơi chôn thủ lĩnh các người đi. Đừng để thân xác lâu ngày trên mặt đất, dù trong lăng tẩm, là không nên.”

Nhị ca trả lời: 

- Không thể chôn nơi đất chết này. 

Lão ông dạy: 

“Nơi đâu cũng là đất Mẹ. Một cái xác phải được trả về lòng Mẹ êm ấm mới thuận đạo người. Mẹ rộng lòng tha thứ, kể cả thủ lĩnh các ngươi. Không nên để cái xác phàm lâu dài trên mặt đất.” 

Tam ca sừng sộ: 

- Khế lão nói vậy là trật rồi. Đời có lỗi. Đại ca tôi không hề có tội. 

Lão ông cười hiền hòa: 

“Ta không tranh biện lỗi phải cùng các người. Có những thân phận lịch sử bây giờ chưa nhận định lỗi phải, huống gì nhân thân hạn hữu các người.”

Nhị ca ngơ ngác: 

- Chúng tôi là bọn du côn du đãng, khế lão nói chuyện trên trời dưới đất làm chi vậy. 

Lão ông bỗng phất tay áo. Một cây trượng như gậy vươn cao làm hiệu. Tức thì bùn lầy cát bụi quá khứ vị lai cỏ cây diều quạ xương gà lông chó đều biến thành những khối sáng lòa. Vàng đầy trên mặt đất. Vàng bay la đà, vũ múa như công như bướm. Lại tỏa mùi hương ngất ngây; phát ra tiếng đàn tiếng sáo. Rì rào. Tỉ tê. Ngọt. Bén. Làm gỏi tâm linh bọn Nhị ca. 

Lão ông nghiêm giọng bảo: 

“Các người hãy nhặt lấy vàng mà đi đi; cho thỏa.” 

Trong cơn mê động Nhị ca vuốt tay lên những khối vàng óng ánh, nghi ngút thì thầm: 

- Đại ca ôi em sẽ dệt cho Đại ca một cái hoàng bào tuyền bằng sợi vàng. Sẽ đúc một cái quan tài vàng ròng mà tống táng Đại ca. Sẽ làm một cái tượng đài cao ngất trời mây tưởng niệm Cái Đức du côn anh hùng đầu đảng của Đại ca. 

Lão ông mắng: 

“Chớ thánh dại thần điêu. Chớ nên chôn châu báu theo người như bọn vua chúa đã làm. Sẽ sinh ra điều ác, nảy lòng tham. Kẻ hậu thế phải tội quật mồ, vơ vét châu báu, còn hài cốt các Người sau đó vung vãi như xương cốt súc vật chim ngàn.”

Bọn cướp cạn nghe lời phán dạy bỗng kinh hoàng van nài: 

- Vì quen thói du côn chúng con trót dại, xin tiên sinh chỉ giáo. 

“Ta không phải là tiên sinh của các ngươi, theo nghĩa thông thường. Ta là Tiền nhân. Trong xác thân du côn du kề các người đã có một phần xác mỗi phần hồn của ta. Trong bình sinh gieo rắc, Ta là các người, các người cũng là Ta. Hãy nghe đây, mau rời bỏ mê cuồng, hãy nhặt lấy vàng rồi cút đi. Hãy trả lại quê hương này cuộc bình yên.” 

Bọn Nhị ca cuống quít nhặt vàng. Lại điên dại hỏi theo cái vi mạch tham lam hằng có: 

- Tiền nhân ôi kính thưa! Có tài biến hóa làm vầy sao Tiền nhân không biến quách cái giải cát đất cỗi cằn cháy nắng mưa dầm hình chữ S này thành một khối vàng ròng. Một cái chữ S vĩ đại từ Nam Quan chí mũi Cà Mau rừng vàng, biển cũng vàng mẹ nó luôn chớ biển bạc mần chi, cho con cháu nhờ. 

Bây giờ thì lão ông đã biến mất, nhưng giọng rao truyền ấm áp còn vọng lại từ đèo cao, nơi ban chiều thế gian đã vầy cuộc truy đuổi chém giết máu, vì vàng: 

“Một phần xác và hồn của Ta hãy nghe đây.

“ Chớ đắm mình trong điệp điệp mơ hoang rừng vàng biển bạc. Chớ lênh đênh theo khí chất mong đạt giàu sang qua ngõ tắt. Hãy rời khỏi nơi nương náu ngủ ru trùng trùng hứa hảo, hẹn bừa, những điều hiện thực không thể. Hãy bừng sáng một thể linh tiên niệm. Hiểu Núi sông và giữ lấy Tự nhiên.

“Sống như lũ chúng mày là phá nát giang sơn này rồi. Đã kim loại hóa từng phần những tương lai, hy vọng, niềm tin của bao nhiêu người. Giả thử từ Nam Quan tới mũi Cà Mau, từ biển Đông con dã tràng xe cát cho chí Trường Sơn mông muội bỗng một sớm nọ biến thành một khối vàng ròng hình chữ S – lấp lánh tận giải ngân hà, độ sâu cắm tận lòng đất – thì các người sẽ ra làm sao?

“Ngày ấy là chấm hết toàn bộ cốt căn bản địa tổ tiên giống nòi, kèm theo cái bất đắc kỳ tử của chú ong mật con bướm vàng. Sẽ là cuộc tiêu trừ sự sống triệt để. Có thể thế ư. Hình chữ S này là đời đời của Đất, chỉ là Đất. Khô xảm, ngập lũ, trăn trở, chờ trông hóa đá, vẫn hoài hoài rực rỡ Đất. 

“Đây là nơi của tanh thơm mùi bùn, mùi sỏi máu, của đậm đà khổ đau hạnh phúc; của ríu rít chia lìa hạnh ngộ; nơi cây trái mọc xanh con chim hót; chỗ róc rách con cá lội; con vi trùng đương nhiên tự do mình mẩy; cỏ dại núp bóng nhau; nơi người có thể giết người; nhưng beo cọp âu yếm liếm cọp beo. 

“Nếu nghìn triệu thước đất Mê Linh chí Gia Định này biến thành vàng ròng một giải, chúng mày sẽ đi về đâu? Phải hóa đá mới tồn tại. Sẽ là những hình nhân vàng vô tri, ăn uống nói năng hội nghị làm tình trên một địa đàng vàng được sao? 

“Khó thể toàn bộ giang sơn là một tổng thể kim loại. Còn nơi nào cái lỗ chôn nhau cắt rún. Tìm đâu cát bụi mơ mòng. Đâu nơi sở trụ một linh hồn cần nương náu quê hương. Mơ hảo. Khó thể một dân tộc, thể chế, đất đai, một sớm mai vui mừng đã kim loại hóa toàn phần.” 

Nhị ca trở mình hỏi Tam ca: 

- Mày vừa nghe thấy gì? Tao nghe gió nổi. 

Tam ca nói: 

- Hình như đêm qua làng này trẩy hội. Nửa khuya đèn đuốc lập lòe. Lúc về sáng thánh đường kéo chuông vang động. Mà sao là chuông báo tử? 

Trời sáng tỏ. Một trận gió lớn thổi tung những bụi mù trong nắng. Bọn cướp đường choàng dậy ngó quanh. Không Tiền nhân. Chẳng có xác Đại ca nào đây. Không có núi không có sông. Không nhìn ra mặt núi sông. Không một mảy may vàng. 

Chỉ quanh đây những luống cày, màu đất vàng khô. Một chị vải thô chân đất đem mong chờ đến cho một ai đó trên những luống cày. 

Một thằng bé truồng cười trong nắng. 

Cung Tích Biền - Bến Nghé, Sàigòn




*



Xứ Động Vật Vào Ngôi

 Cung Tích Biền



I. CHUỒNG TRẠI MÙA XUÂN 

01 

Ngoài ba mươi tuổi, kiến trúc sư Khúc thuộc loại tài năng. Tính tình hơi bất thường, nhưng giao thiệp rất chọn lọc. Biết vài ba ngoại ngữ, ngoài hiểu biết chuyên ngành, Khúc đọc khá nhiều, mọi lĩnh vực; có hệ thống thụ nhận tư tưởng, tinh tế trong thẩm định nghệ thuật. Khúc không hút thuốc, không rượu; nhưng nghiện cà phê rất nặng. 

Trên đây là những biểu hiện dễ thấy về Khúc. Một số tình tiết bí ẩn trong đời tư, ít người biết, xảy ra khi Khúc còn bé thơ. Đã là ám ảnh, chi phối khốc liệt lên toàn bộ cuộc đời Khúc sau này. 

Năm lên tám, một buổi sáng, Khúc tình cờ thấy một người đàn ông nhàn nhã giết vợ mình. Cách giết người khá kỳ lạ. Cách chết của nạn nhân còn kỳ cục hơn. Người bị giết chừng như sẵn sàng, âm thầm thụ hưởng, như được ban một chung nước thánh. 

Hơn vài thập niên sau vụ này, cuối thế kỷ Hai mươi, báo chí Sài gòn có rầm rộ đăng bản tin một vụ giết người khác, do một kiến trúc sư trẻ tuổi gây ra, khá man dã, ná ná vụ vụ án mà Khúc đã thấy thuở bé. Nhưng lần này kẻ gây án thứ hai đã giết người tình còn rất son trẻ. 

Như thế trong vòng tròn gần ba mươi năm, sau mỗi mùa xuân, đã có hai vụ giết người rất giống nhau. Phong cách cũ hay mới, xã hội Vàng hoặc Đỏ, chỗ lưỡng cực vẫn luôn tiềm ẩn một thứ tai nạn khó giải mã, rất phi nhân văn : “Để thoát khỏi Xứ-Toàn-Chuồng, con người có một phản ứng tuyệt vọng, như một hội chứng, rất mực phản kháng cái gọi rằng Khí-hậu-động-vật”. Người ta dùng chính sinh mạng thân ái để giải quyết, chung chi cho một rủi may lúc hỗn mang. 
Trở lại cuốn phim cũ, là cuộc dĩ vãng, ngộ vang trong tâm linh Khúc. Bờ tường thời gian đã cách âm, nhưng không ngăn được hình ảnh, tuy hóa màu, trong trí nhớ của Khúc… Bấy giờ, người chồng một khuôn mặt chữ điền gấy ốm chỉ còn cái khung; trên khung xương hai con mắt sáng rực, nó như nơi hội tụ sau cùng của đau đớn lẫn hờn căm; đôi mắt sáng đã nhìn khắp bốn phương không thấy một lối nhỏ trú ẩn; hai bàn tay to lớn nổi những đường gân xanh; Ông làm việc giết chóc một cách chậm rãi; giáp mặt cơn rùng rợn thật chậm rãi, như chúa sơn lâm no mồi, vừa thiu thiu ngủ, thỉnh thoảng choàng dậy gặm một miếng máu. 
Lại rất từ tốn như một anh thợ sửa xe rành nghề, tuần tự tháo từng bộ phận chiếc xe. Tháo cái ghi đông ra. Yên xe ra. Hai bánh xe rời bộ máy. Tháo xong, bỏ mỗi bộ phận vào một chỗ riêng biệt. Chỉ có khác, là sau đó người thợ làm lành lặn chiếc xe, màu sơn mới, mọi bộ phận trở nên hoàn hảo, rồi anh ráp chiếc xe, lại đâu vào đó. Người chồng này tháo người vợ ra. Rã từng phần. Bỏ mỗi phần thịt xương vào mỗi chiêc bao tải nhỏ. Rồi tức tốc phân tán những mảnh thân thể người vợ thân yêu khắp nơi trong thành phố – trước cửa nhà hát, trong bãi cỏ xanh công viên, dưới chân một tượng đài, chỗ bến đò đông người qua sông về bên kia vườn cỏ dại – theo cách riêng khá độc đáo. 
Một đặc điểm cần ghi nhớ, người đàn ông này giết người vì lòng xót xa, vì tam muội đen, hoặc do kinh nguyện mở nguồn. Có thể bảo ông ta điên. Dĩ nhiên có thể. Nhưng ông hành sự cùng lời chú trí huệ: 
“Có một cách tìm kiếm tự do mà không phải vượt biển, hay mong đợi một chuyến bay nhân đạo nào. Đâu thể hóa phép cỡi mây bay bổng như thần tiên, chúng ta dân đen trần tục mà. Chỉ bảo vệ nhau, gìn vàng giữ ngọc, tuy tuyệt vọng, nhưng giúp nhau chọc cho hết huyết trong người, vẫn là cách tự xử cần được tôn trọng.” 
Trời hôm nay nắng hay mưa đâu là quyền của nắng mưa. 


02
Bây giờ mùa xuân đã qua. Nền Cộng hòa đã bị xóa sổ. 
Bây giờ chừng như mùa mưa miền Nam. Chen trong nắng mềm là rắc hột hanh hao. Đường phố Sài gòn bỗng vắng vẻ lạ thường. Cây lá buồn. Gạch ngói buồn hơn. Từng dòng người gầy ốm gò lưng trên yên xe đạp dong ruổi. Chùa chiền, giáo đường vắng tín đồ, đúng nghĩa Gíáo-đường-im-bóng. 
Con đường Tự do, con đường cổ nhất và sang trọng nhất của Sài gòn, nối từ nhà thờ Đức Bà ra bờ sông được đổi tên thành Đồng khởi. Đường Công lý, con đường rộng nhất, dẫn ra phi trường Tân sơn nhất có tên gọi mới là Nam kỳ khởi nghĩa. 
Vì cái thói quý tộc, thời Cộng hòa con đường Tự do cấm không cho xe đạp và xe ba bánh thô sơ chạy qua; đường Công lý xe chỉ được chạy một chiều. Để mỉa mai chế độ Cộng hòa, công lý cũng như tự do chưa tới bến, dân gian từng truyền tụng: 
“Công lý một chiều, Tự do giới hạn” 
Hôm nay nhân gian lại ví von sự đổi đời qua câu ca cay mừng đắng: 
“Nam kỳ khởi nghĩa tiêu Công lý, 
Đồng khởi vùng lên mất Tự do”. 
Buổi sáng, có một người chị từ Tự do đến thăm người em gái Công lý. Ngồi một lúc với chén nước mưa không đun sôi, nhìn ngôi nhà tàn tạ của cô em Công lý, người chị Tự do thở dài, nói: 
“Đất nước đã hòa bình, nhưng thời thế đảo ngược rồi em ơi. Là công dân hạng hai chúng ta lâm vào hoàn cảnh đốn mạt. Cả nhà thất nghiệp. Tài khoản trong ngân hàng bị khóa lại, nhà nước tịch thu cả rồi. Vợ chồng em mất công ăn việc làm. Nhà cửa trống hoang trống lốc thế này; máy móc, xa lông, sách quý, thậm chí áo quần, tủ thờ ông bà ông vải cũng mang cả ra bán chợ trời kiếm chút tiền độ nhật. Chao ôi rồi ra vợ chồng con cái em sẽ sống làm sao đây. Chồng em dạo này tính khí bất thường. Dượng ấy điên rồi. Có khi giết cả lũ nhà này… 
Cô em lặng thinh khi nghe chị nói. Ý nghĩ trong tâm não sao bỗng bay tan đi. Cô chỉ khóc nhìn đưa con tám tuổi. Thằng Khúc nhỏ gầy ngồi chỗ hàng hiên cạo vỏ mấy củ khoai lang. 
Hơn tháng nay các kho lương thực trong thành phồ bất ngờ cạn sạch gạo. Cửa hàng hợp tác xã độc nhất phân phát thực phẩm chỉ có thế thay thế gạo cho dân chúng, bữa có bữa không, bằng hạt bo bo, khoai lang, bột mì Liên xô, những trái ngô ốm o chỗ nông trường… 
Đây là thời kỳ tem phiếu, việc phân phát lương thực thực phẩm hạn chế theo đầu người có trong tờ hộ khẩu. Không có hộ khẩu thì không được cư trú và đương nhiên không tìm đâu ra cái ăn, không thể tìm được việc làm. Không có thị trường tự do. Dân chúng không có điều kiện mua thừa thực phẩm để dự trữ, nhưng cửa hàng có quyền bán thiếu tiêu chuẩn thực phẩm theo đầu người. Mọi thứ khan hiếm. Mua nửa lít nước mắm cũng phải chờ có phiếu phân phối. Phải đợi năm bảy ngày may ra có tin mừng hơn mẹ tái sinh: “Hôm nay nước mắm về”. 
Lại phải sắp hàng trong nắng mưa hàng vài ba tiếng đồng hồ mới đến lúc mình được gọi tên, để mua một lít nước vàng-vàng-mặn-mặn pha chín phần mười là nước muối; hoặc một vài lạng thịt cá đã đầy ruồi nhặng. 
Năm bảy ngày bếp nhà toàn muối với rau, hôm nghe tin cửa hàng có thịt cá, người khu phố như nước từ suờn non đổ về dòng chung; con suối người lơ láo ấy chảy tới chỗ ruồi nhặng. Sắp hàng trật tự. Chờ. Chỗ khung cửa hẹp một cô phát thực phẩm gọi tên, nhận sổ, xem mặt người. Một cô cân đong. Có được nạc, mỡ, chỗ ngon dở, phần tươi thiu, là tùy vào chỗ ưu tiên, là anh Tám bác Ba, hay gia đình cái bọn hạng hai. 
Một nền kinh tế quốc doanh lúc này cao vững như thái sơn. Cả nước bị khoanh vùng, giới hạn mọi lưu thông kinh tế thương mại. Mỗi tỉnh, mỗi thành phố là một vương quốc. Đúng ra một cái Chuồng. Tự lo cái ăn cái sống trong vòng rào, nghiêm cấm hàng hóa ra khỏi tỉnh, thành. Ngồi trên xe đò, trong túi xách của anh có vài ký gạo, hay một cân thịt là anh bị kết tôi buôn lậu, gian thương. 
Sài Gòn đói gạo nhưng miền đồng bằng sông Cửu Long gạo thừa mứa nấu bớt cho heo ăn. Người miền núi thừa gỗ, chặt cả gỗ quý, danh mộc như cẩm lai kiền kiền làm củi đun, trong khi dân miền biển dùng tre nứa thay cho những công trình cần lâu bền. Ở thôn quê nông dân thừa sản vật nhưng thiếu tiền mặt, thiếu thuốc chữa bệnh; không có điện, khan hiếm xăng nhớt xi măng sắt thép, không tìm đâu giấy vở cho học trò đến trường. 
Xã hội buổi này có hai loại thành phần, giai cấp, tuyệt đối rạch ròi. Công dân hạng chiến thắng ngày ngày hát mừng, đi tiếp thu nhà cửa gom nhặt tài sản máy móc của kẻ chiến bại. Toàn bộ còn lại, là công dân hạng hai. 

03 
Thằng Khúc xanh xao đầu thai trong nhà công dân hạng hai. 
Khúc lên tám cạo cắt củ khoai làm sao cắt cả vào bàn tay máu chảy ròng ròng. Nó đưa ngón tay lên miệng nuốt máu. Máu nhiều, nó cởi áo, lấy vạt áo bụi bẩn quấn chặt bàn tay. Không có bông băng, không thuốc tím thuốc đỏ, nắng ngoài kia rát bỏng, chỉ có thể làm thế thôi. Quấn chặt một hồi rồi máu chỗ vết thương cũng ngưng chảy thôi. 
Xã hội trong hầm chuột hun khói. Nhân ảnh dị dạng. Mọi thứ bậc đổi ngôi. Cái gì lạ lùng quái gở nhất cũng có thể thường trực xảy ra. Một người hàng xóm đau ruột thừa, thông lệ là mổ dễ dàng như mổ ruột gà, nhưng bệnh viện được tiếp thu bởi các bác sĩ giàu tinh thần súng đạn hơn là chuyên môn y khoa– các bác sĩ chế độ Cộng hòa, các chuyên viên giỏi đã đi tù hoặc tự bỏ bệnh viện ra nước ngoài – đã để người hàng xóm chết queo. Bởi, thay vì mổ ruột thừa bác sĩ đời mới chẩn đoán bệnh nhân bị sạn thận nên chưa cho vội mổ. Một ngày sau ruột thừa vỡ, bệnh nhân trở thành nạn nhân của sự nhầm lẫn, chết vì nhiễm trùng thối rữa cả ổ bụng. 
Không có gì phải đau lòng, là đáng ngạc nhiên cả. Đó là chuyện thường ngày trên một xứ Rồng Tiên mọi sinh họat xã hội đang lật ngửa bỗng nhiên lật úp cái rụp. Bộ não đang dạng tươi, bỗng một chiều được sấy khô giống nhau, trong cái lò bát quái. Một người đau răng hàm dưới bị nha sĩ – từng có hơn ba cái bằng tuyên dương chống Mỹ số 1- nhổ một lúc sáu cái răng hàm trên, cả răng cấm. Bệnh nhân trợn ngược mắt trắng, giãy đành đạch bất tỉnh. 
Lại một bác sĩ mổ người làm sao khi khóa ổ bụng bệnh nhân mới nhớ là đã quên trong ấy một cái kềm. Một chị bị nhiễm trùng âm đạo, khám thế nào lại mổ cắt mất tiêu cái tử cung. Từ đây thôi đẻ. Một loạt học sinh mẫu giáo chủng ngừa siêu vi gan xong là lăn đùng ra chết tươi. Một người bị chó dại cắn, chích thuốc ngừa trị thế nào, một tháng sau cơ thể bệnh nhân bị phản ứng thuốc, nạn nhân bị lột da tươi, từng mảng da beo. Chết thối tha trước khi chết dại. Một sinh viên bị viêm màng nhĩ, bác sĩ khám xong mổ cắt mất tiêu cục a mi đan không cần thiết phải cắt. Thằng sinh viên hụt chết vì bệnh máu chậm đông. Buổi sáng, báo đăng tin đàng hoàng, một cụ già, có tên tuổi rõ ràng, đang nằm viện điều dưỡng bệnh trĩ, bị gọi lên cho bác sĩ gây mê để mổ tim. Cụ Bệnh Trỉ vừa ăn sáng xong thì bác sĩ vặt đầu gây mê, cụ bị sốc phản vệ chết toi… Cuộc sống nghìn lẻ một đêm là phối hợp tuyệt kỹ giữa thần tiên quái ảo tây du ký với hợp tan lương sơn bạc, là hòa ngẫu cực kỳ lãng mạn hồng lâu mộng với gian dâm có định hướng kim bình mai. 
Người chị Tự do nhìn thằng Khúc Công lý nhăn nhó vì mớ máu trong vạt áo bụi bẩn, căn nhà đối diện bọn buôn ve chai đang ngồi định giá cả mớ vỏ đồng hồ, quạt máy, radio những cái ống vố loại xịn, mấy bộ ly tách uống rượu tây quý giá; chúng ép giá rẻ mạt theo giá ve chai; chị chủ nhà thay vì bảo chúng thêm tiền lại ngó quanh, cảm thấy xấu hổ cảnh nhà sa sút, đành nói vội “ Bao nhiêu cũng được các anh hốt hết rồi chuồn lẹ cho”. Chị Tự do nói với cô em: 
“Em cho thằng Khúc chị đem về nuôi. Nó phải được học hành, nó còn tương lai mà em. Trong cái lò thiêu xác này rồi ra nó cũng hóa tro.” 
Người em Công lý không nói được gì. Lại khóc rấm rức. Cô còm cõi quá. Khóc rung chuyển e tan tành cái khung xương. 
Chỗ hàng hiên có tiếng gọi lớn của Bác Năm tổ trưởng: 
“Thằng Khúc nhà chị hát hay quá. Lý lịch thằng nhỏ đen lắm nhưng tôi tranh thủ, ưu tiên cho nó vào tốp ca nhi đồng. Rán phấn đấu nghe.” 


II. MÙA HUYẾT 


01 
Trời đổ cơn mưa lớn. Một người đàn ông to cao, ngày trước vạm vỡ như một tên giác đấu, nay gầy guộc, lưng còng, người ướt sũng, dựng vội chiếc xe đạp ở hàng hiên. 
Buổi sáng Ông ra đi túi rỗng. Ngó quanh căn nhà sa mạc. Còn một chiếc áo mưa loại poncho nhà binh Mỹ để che mưa, Ông mang ra chợ trời chỗ Lăng Cha Cả bán được sáu đồng bạc. Uống ly cà phê đen năm hào, mua bao thuốc rê năm hào. Vị chi mất một đồng. 
Đói bụng dữ dội, nhưng Ông nghĩ là trong dạ dày đã có cà phê, trong phổi có khói thuốc. Hạnh phúc chán. Hai món ăn chơi đã có đủ. Vả lại thời bao cấp khan hiếm, trong ly cà phê đã có chín phần mười là bắp rang đen trộn vào. Ngũ cốc chớ bộ. Rất đỡ đói. Ông rất thèm thuốc điếu nhưng phải hít thuốc rê tự vấn. Thuốc điếu, nhãn hiệu Sao Mai, Lá Đỏ, chỉ toàn lá đu đủ khô mà thôi. Hút vài ba điều thì cần cổ bỏ cơm, bao tử thôi bóp. 
Vào nhà. Ông ta nhìn thằng Khúc. Chào chị vợ. Trao cho vợ năm đồng bạc, rồi phán: 
“Ngày mai trời lại sáng rồi.” 
Vợ hỏi:




“Sáng làm sao?”

Người chồng nói nghiêm chỉnh: 

“Ngày mai tôi đi làm lao công cho lò sát sinh.” 

Người chị vợ hỏi:

“Lý lịch dượng đen thui ai cho vào làm, dù đi rửa nhà tiêu?” 

“Làm nghề giết mướn mà chị.” 

Người vợ e ngại than thở:

“Anh lại sát sinh hả?’

Người chồng giải thích:

“Anh có nhiệm vụ kẹp cổ con bò cho người ta thọc huyết.” 

Vợ lơ láo nói:
“Gầy nhom còm sức đâu?”
Người chồng an ủi vợ:
“Yên chí, hôm nay anh thử việc rồi. Bốn thằng trai tráng kẹp bốn chân trước sau con bò, mỗi mình anh cầm hai cái sừng ghì chặt con bò vào giửa hai cây cột dọc, bò không nhúc nhích nổi. Thọc một dao to, sâu.” 
Ông ta ngồi xuống vấn một điếu thuốc , ngó mông ra nắng phố, rồi tiếp: 
“Em đừng lo, thời buổi này người gầy ốm xuống cấp theo cách người thì bò chó cũng còm nhom theo kiểu chó bò chớ. Có riêng gì người. Thần thánh chó bò tiên nữ chúa phật cũng nhất trí trơ xương.” 
Ông ta đi làm ở lò sát sinh được ba bốn ngày bọn trai tráng đã khen đáo để nghệ thuật chặn cổ bò. Ông thấy làm việc này mỗi ngày kiếm được một đồng rưỡi, khi công nhân viên nhà nước một tháng lương năm chục đồng, cũng không đến nỗi bất công. Nhưng ngặt một nỗi, ở chỗ lò mổ bò Tư Diêu, nay được đổi tên là Cơ sở GIẾT MỔ THANH NIÊN phục vụ thịt bò và xương lòng bò tươi sống, chẳng là lò mổ này do Đoàn thanh niên phụ trách. Ông ta vừa tởm vừa thương tâm cái cảnh tại lò mổ bọn trâu bò trào máu cổ, còn bọn trẻ nít với đám bàn bà chen nhau hốt thứ huyết thừa đỏ hoét chảy tràn lan trên nền xi măng pha lẫn đủ loại nước. Có khi nước kinh nguyệt đũng quần, nước đái bò. 
Đàn bà trẻ nít tranh nhau cái đo đỏ huyết bẩn này đem về nhà nấu một nồi cháo huyết mang ra đầu hẻm bán cho dân lao động kiếm đồng nát. Loại huyết bò pha lẫn với nước dội trên nền lò sát sinh này khi luộc chín nó có màu nhạt nhạt, lại mềm nhũn chứ không săn đặc như huyết nguyên xi. Đôi khi mùi thum thủm. 
Chẳng sao. Là công dân hạng hai, một ông giáo sư hôm trước hôm nay chạy xe ôm; một ông trung úy thương binh không phải vào trại tù, đang cà niểng chân gỗ lượm ve chai; hai ba ông nhà văn họa sĩ trải vài tấm khăn ni lông trên lề đường bán đồ lạc xon, tháo ráp xe đạp cũ, bán mớ sách may mắn chưa bị văn hóa phường gom đốt; một vài nhà tư sản bị kiểm kê tịch biên tài sản, buồn bã mang những vật sản cuối cùng ra ngồi với bạn bè nhìn lề đường thời đại mới. Bọn họ, mỗi sáng lót dạ, có khi thay bữa cơm chiều, bằng một tô cháo huyết bò pha lẫn kinh nguyệt năm mươi xu, cũng an ủi chán. Bọn công dân hạng hai này rất cao ngạo, lại bình thản, không ân hận chi. Thế thôi, ở thiên đình thì bè bạn với Nam tào Bắc đẩu, không may địa ngục phải thích ứng với quỷ ma. Bình thường chuyện nắng mưa lịch sử. 
Bọn hốt huyết thừa đều là chỗ vợ con hoặc thân thuộc với bọn thọc huyết. Nên bọn nhân viên ở lò sát sinh thường tìm cách hứng huyết vào chậu cho hợp tác xã nhà nước là ít, mà tìm cách cho rót đổ ra sàn nhà là chính. Cái lai láng đỏ tanh tưởi trên sàn nhà mới là cái sống của lũ con cháu nuôi dưỡng tương lai. Hốt đi con. Hốt lẹ lẹ rồi chuồn mau. Hôm nay mẹ con chúng mày có bạc cắc. 
Bọn nhân viên cắt chia thịt thường lén lút ném những mớ thịt tươi ngon vào các thùng rác, thùng đồ dơ; sau đó vợ con nhanh nhẩu lượm về bán cho các bệnh viện, hoặc các nhà hàng quốc doanh chuyên mua thực thẩm chui. 
Hôm nay trời nắng hay trời mưa đây? Mặc mẹ trời. 


02 
Làm việc đến ngày thứ mười thì Ông ta suýt lâm nạn. Một con bò đực đã thoát khỏi dây trói, húc Ông suýt phèo ruột non ruột già. Vì lý do đó mà sau này bọn trai tráng vác búa đập chí mạng vào đầu con bò cho nó gục mới chọc cổ lấy huyết. 
Lúc con bò quậy phá,có một người đứng tuổi than phiền với ông chủ nhiệm hơp tác xã: 
“Sao không dùng cái ngòi điện như hồi chế độ cũ, châm một phát là điện giựt con bò lăn quay, ôm vật làm chi. Ta thắng đế quốc dễ dàng nhưng đâu dễ quật ngã một con bò điên. Bò- nguời biết ai thắng ai.” 
Chủ nhiệm tức tốc phê bình: 
“Sai quan điểm rồi. Lại bày đặt trò tư bản. Thành phố, nhà máy thiếu điện tràn lan, điện đâu ban ân huệ cho trâu bò. Chớ sức lao động vinh quang của con người để mần chi.” 
Nghĩ dưỡng thương vài tuần Ông xin vác xi măng ở bến cảng Sài gòn. Vác ngày hai đồng. Ngày có ngày không, tùy lượng tàu ghe cập bến. Ông đã từng thử sức mạnh vặn cổ một con bò – đương nhiên là bò dạng hưu trí, thôi kéo cày ở các nông trường – thì bao xi măng ăn nhằm gì. Nhưng ác nỗi, cái cầu nối từ thành ghe với cái bến sông không phải là cầu đúc, mà chỉ là hai tấm ván nối lại dài chừng ba bốn thước. Tấm ván nhịp xuống phùng lên, bề ngang chỉ ba bốn tấc, bên dưới là sông dài nước chảy, chỉ có chuyên viên bốc vác mới qua được – thì Ông không quen. 
Một chiều Ông trở về nhà người ướt sũng vì không giữ được thăng bằng nên cái xác phàm cùng bao xi măng vác vai rơi tõm xuống sông. Báo hại, bị đuổi việc, còn bị trừ lương đền bù vào bao xi măng chìm lỉm hư hao. 
Trong lúc thất nghiệp, một cái tin khá đột ngột làm Ông quẫn trí. Ba tháng trước một người em ruột đề nghị: 
“Anh cho thằng Phùng nó vượt biên với em. Phải có một đứa thoát làm vốn. Thằng Khúc còn nhỏ quá.” 
“Tiền của đâu? “
“Chỗ ruột rà em sẵn lòng giúp cho anh chị mà.” 
“Tiền tàu ghe, xăng nhớt, tiền hối lộ lo bến bãi đâu phải ít, chú lo sao nổi.” 
“Chu toàn cả rồi, anh chỉ cho tôi thằng Phùng là đủ.” 
Biển lặng. Nắng tươi. Tàu ra tới hải phận quốc tế mọi người ôm nhau vui mừng thì bất ngờ gặp hải tặc. Vàng bạc bị lột sạch. Đàn bà con gái bị hãm hiếp tàn nhẫn trước mặt người thân quen. Thằng Phùng giống cha, nó nổi máu hào hiệp đánh nhau với bọn cướp. Có chút võ nghệ Phùng đánh trả ra trò. Nhưng bọn cướp đã hành hình gã trai trẻ gan dạ ngay trên tàu. Chúng chặt Phùng máu me ra làm nhiều phần rồi ném cả xuống biển. 
Đêm đã trở nên dài dằng dặc. Hằng khuya Ông ra khỏi nhà sau mười hai giờ đêm khi vợ con đã yên ngủ. Ông đi quanh quất trong thành phố không bóng người, chỉ thỉnh thoảng một vài toán an ninh vác gậy gộc đi tuần tra. 
Sài Gòn tịnh vắng,
Sài gòn hòa bình,
Saigòn nhớ cha khóc mẹ.

Đã không còn tiếng súng pháo kích vọng từ ngoại ô vào. Không còn từng đoàn xe nhà binh tuần đêm trên đường phố. Không tiếng máy bay nào cất cánh trong đêm đi oanh tạc. Không có lịnh giới nghiêm nhưng không quán xá nào mở cửa giờ phút này. Giấc ngủ Sài gòn trở nên kỳ ảo, mộng mị. Như có nắng hoang đường giữa đêm dày. Như có tiếng gọi thầm từ những mảng tường rêu. Ê, ông già, Ông đen đen nhòa nhòa, xiêu xiêu vẹo vẹo thế này, Ông ma hay người? Đuờng phố rộng đầy bóng tối. Công viên bóng tối. Mười bóng đèn đường đã hỏng bốn, năm. Đập mẹ đèn công viên đi nào, tối trời tao kiếm chút cháo, đâu có khách sạn nào cho gái vào mà mần đĩ? Đói chết mẹ sức đâu chơi đĩ? Ủa, bọn công dân hạng hai rạt gáo thì bọn Hạng Một có ô tô nhà lầu, có tiền chơi, chúng cũng có con chim cu gáy vang, có bướm đa tình chớ bộ. Những hè phố rộng được đào lên trồng khoai lang khoai mì. Nhiệt liệt tăng gia sản xuất. Đêm sâu như huyền. Lòng Ông hoang phế. Ngồi chỗ ghế đá một lúc nghỉ chân đã bất ngờ nhận ra chung quanh đầy bóng tối và mùi phân người. 
Lại đứng dậy đi. Lại ngồi đầu ngõ một ngôi biệt thự thân quen nay chủ khác, là gia đình kẻ ở ngôi, đã vào ở. Ông đi dọc đại lộ Nguyễn Huệ, bước qua những viên gạch vỡ xưa kia bên trong Đêm Màu Hồng. Tiếng hát Thái Thanh trong màu trăng, xanh ngọc. Ly rượu nồng thơm đã hóa kiếp từ sau cửa khép. Ông ngồi bờ sông. Thủ thiêm bóng tối chìm. 
Trong đêm thâu Ông nhớ con bò gầy nhom bị thằng người gầy gò không kém, chặn hai cái sừng tội nghiệp cho người ta thọc dao vào cổ. Nó rung chuyển thảm thương rồi ngã uỵch. Đầu óc ông sau cuộc vật lộn với bò cũng đuối sức, tứ bề bỗng vàng tanh xây xẩm. Ông nhớ màu máu nhờn nhạt, pha lẫn đờm giãi, nước kinh nguyệt từ những cái háng ốm o, loang trên nền nhà, bọn trẻ nít dành nhau hốt vào cái thau nhôm méo mó. 
Một lúc bọn nhỏ cũng hình người đỏ lòm, lem luốc. Có thằng trượt ngã áo quần ướt đỏ trên cái nền Đỏ máu tưởng như mênh mông đến cuối trời. Ngã. Rồi cả lũ bò dậy. Bọn trẻ tiếc máu, vội vàng cởi áo vắt vội cái thứ máu bò lông cứt – như ta vắt cái áo ướt -vào chiếc thùng đựng máu. 
Ít ra, với máu này, mẹ nó cũng nấu được vài tô cháo huyết, kiếm đồng nát lúc cả thế gian quanh đây đói gầy. 
Hằng đêm đi mộng du quanh quẩn, Ông trở về nhà lúc rưng rưng chân trời màu hồng nhóm lửa. Ghé quán nước đầu hẻm uống năm hào cà phê. Năm hào thuốc rê. Mua cho thằng Khúc vài củ khoai lang. 
Thằng nhỏ luôn bụng rỗng. Nó thường thức dậy rất sớm. Ngồi nhìn mông lung phố buồn, đợi vu vơ ở bậc cửa. Đôi khi nó gặm bàn tay, nuốt thứ nước bẩn ngọt ngọt thay sữa. 
Người mẹ còm nhom nhóm một bếp lửa nấu gì đó tính sau. Đôi khi nước sôi, củi tàn mà Mẹ không biết mình có gì để nấu. 


03 
Đêm tới, lại rảo bước phố buồn. Ông nhớ vết thương xưa hãy còn lưu dấu một vệt dài khâu vá, thịt tím tím như con rết trên đùi vế. Ông vẽ ra một hình nhân anh hùng, nhưng cái huy chương vinh dự lại được gắn ở chỗ gần bộ hạ. Huy chương hình rắn rít. Nhớ đồi nương hoang tàn những mái tranh tro đen hóa thân trong chiều.Con suối mát đủ cho cơn khát và những bi đông nuớc đong đầy. Những cụm khói trắng từ chiếc L19 nhả ra lơ lửng không trung, báo hiệu những tràng pháo 105 ly sẽ bay tới mục tiêu. Đạn nổ chụp bung trăm mảnh từ cao, trên một xóm làng bên dưới, trong đất đã cài đầy mìn bẫy. Đã quen giữa mùa thù hận, những tín hiệu được báo, những tọa độ được xác định cần hủy diệt, những căn hầm, cả nhừng mái lều trẻ thơ. 
Một hôm đi quanh quất chỗ chợ trời Ông gặp một người bạn trước kia là một giáo sư, nay có gian hàng bán đồ lạc xon. Thời này khắp thành phố là chợ trời. Chỗ nào có thể tụ họp là có chợ trời hoặc hàng quán cà phê lề đường. Ông ngắm trong la liệt những món hàng cũ có một con dao găm trong một cái vỏ bằng bạc rất đẹp. Ông nhặt lên xem. Con dao găm sao mà dài, cỡ ba tấc bằng thép sáng loáng. Cán dao bằng bạc có hoa văn hình rồng giống như hoa văn trên vỏ bọc. Nó giống như một cây đoản kiếm. Ông hỏi người bạn: 
“Con dao như một báu vật vậy mà không có ai mua hà?” 
Nguời bạn cười trả lời:
“Ai mua cái ngữ này trong khi tiền không có để mua gạo mắm. Mà thà tớ biếu không cho người sành điệu, chớ bán thì phải bán giá theo giá đồ cổ thôi.” 
Người bạn cười nụ, nhìn con dao lại nói tiếp một cách đắc chí: 
“Có thể đây là cái đoản kiếm của một tướng lĩnh đi mở nước thưở nước non chúng ta còn bên Phiên ngung.” 
Ông cười, nói phiêu phiêu:
“Không chừng cái ngữ này đã từng đính trên thắt lưng của một tên Nhật lùn bên xác chết đói Bắc hà, hàng triệu xác xương la liệt Thăng long.” 
Sau cùng người bạn có đồng ra đồng vào chỗ chợ trời đãi Ông một tô cháo huyết năm mươi xu.Và biếu Ông con dao quý. 
Vừa húp cháo lõang, nhìn những miếng huyết nhạt màu trong tô cháo, ông nói: 
“Tớ biết trong cái tô cháo tanh loãng này có máu kinh nguyệt của đàn bà. Ta đang nhâm nhi kinh nguyệt.” 
“Nói kỳ?”
“Không kỳ quái chút nào. Tớ đã từng quần thảo trên cái nền máu cùng đám con trẻ thời thế và lũ đàn bà có máu, bất cứ ngày hay đêm. Con mụ đàn bà khi có kinh nguyệt, dù tắm rửa sạch sẽ cách nào, tớ cũng nhận ra. Đó là cái mùi thần thánh. Nó ngai ngái, lung lung.” 
“Thế Ông là Thánh trong nghề nhận ra Mùi.” 
“Phải đâu? Ta là sợi lông trong âm hao.” 
Lúc đó trong màu nắng tháng năm có dăm bảy anh nhà quê đắc thắng đi tham quan chợ trời. Ăn nói khoác lác bi bô. Bọn thiếu đói trong nhiều năm, rất lạ lẫm với máy móc, với xã hội vinh hoa, dừng lại trước cửa hàng lạc xon. Thấy cái máy xay tiêu nho nhỏ, vỏ ngoài có nạm bạc trắng xinh xắn, trên nắp có một cái tay quay i-nốc sáng loáng, rất lạ mắt, một gã cằm bạnh răng vẩu hỏi: 
“Cái máy này thu thanh à?”
Người lang thang chỗ chợ trời trả lời: 
“Đây là cái máy xay tiêu cho thành bột mà dùng.” 
“Ối giời tiêu với tỏi thì bỏ mẹ nó vào cối đá mà đâm chứ? Rõ tư bản bày đặt. Sao trong nam này nhiều cái máy tào lao thế nhỉ.” 
Húp hết tô cháo, lấy tay áo quệt ngang mồm chùi miệng, Ông được tặng đoản kiếm chào cảm ơn. Người bạn chợ trời, trước kia cũng đã từng đúng chỗ bục giảng trường đại học dặn dò: 
“Một cái đoản kiếm giết thế đéo nào cho hết bọn thú. Nếu hành sự phải làm một việc gì có ý nghĩa với con dao quý tộc này người anh em nhé.” 
“Trời đang mưa,
có bao giờ mưa kinh nguyệt.
Nhưng tiếng đàn bờ cỏ lối thơ 
đã rẩy màu
Kinh và Nguyệt” 


III. HÀNH TRÌNH MINH TRIẾT 

01
Bây giờ người đàn ông khởi đầu cuộc tháo rời một con người. Ông ta phập một ngọn dao thẳng, nhanh, vào ngực, nạn nhân gục ngay. Trước đó nạn nhân cười. Vì buồn quá, Chị chỉ cười nhẹ nhẹ thôi, khi người chồng cầm con dao bước đến. “Em nhìn thập phương chẳng nơi nào cho em trú ẩn.” 
Thằng nhỏ Khúc lên tám thấy rõ ngọn máu phụt ra từ người đàn bà, như một ngọn lửa mơ hồ cong vòng. Rồi lửa ươn ướt, đỏ một vùng trên nền nhà. Như hắn từng chơi trò đốt thuốc đạn. Bọn nhỏ thu gom thuốc đạn còn rải rác trong hầm hố, trộn với thuốc pháo, hò reo đốt chơi đêm tối trời. Ngọn lửa xanh lè chạy vòng, mùi khét của sự chết xa xưa nay lại rất thơm trong trò chơi thời bình. 
Người đàn ông bế xác người phụ nữ từng ôm nựng hôn hít làm tình đặt trên chiếc giường sạch sẽ. Ông ta hôn lên xác người. Lại niệm chú: 
“Ta tháo lồng tử sinh em đây. Xa xưa thời ảo vọng Ta có vào núi tìm trầm. Em là tiếng rừng mây trắng suối trong. Xin lỗi Em trái chín.” 
Ông ta lần nữa hôn lên xác người đỏ màu. 
Buổi ấy sáng sớm.
Sương mai còn đọng trên sông cỏ. 
Khúc ngồi chỗ bậc cửa. Em thấy rõ trên bờ tường nhà còn treo một khung hình khổ lớn có ảnh của cha mẹ trong ngày cưới. Ông áo vét thắt cà vạt, bà nghiêng vai tình tứ nép vào chồng. Tấm hình nay nhạt màu, xao xác trong tình huống trước mắt. Khúc không thể hiểu cái thảm trạng đang diễn ra. Nó mong manh hoang đường. Sau này khi lớn khôn, Khúc nghĩ mình đã lỡ coi một đoạn phim cấm trẻ em, hay đã trót thấy nó trong một cơn ác mộng. 
Có tiếng hát trong trẻo ngoài đường phố 
Một toán thiếu niên ăn mặc đồng phục áo sơ mi trắng quần xanh, chỉnh tề. Chúng hô vang khẩu hiệu mừng đất nước tiến lên, quê hương hòa bình. Bọn trẻ phất cờ, lại nhịp nhàng hát. Khúc tám tuổi giật thót tim khi người đàn ông vừa cười vừa cắt khoanh vòng cái cần cổ người phụ nữ ốm nhỏ, trắng màu da thiếu máu. Những ống thực quản khí quản chòi lòi. Em đã từng thấy trước kia trên cần cổ thân yêu ấy một sợi giây chuyền. Hồi ấy cần cổ còn mập mạp, trắng xinh nổi lên trên lớp áo màu tím than. Mẹ đi lễ chùa tháng giêng. 
Ông ta quấn mớ tóc đen dày của người phụ nữ lót dưới cái đầu vừa tháo ra. Ông làm rất chậm, bình thản như anh thợ sửa xe rã từng phần chiếc xe trước khi làm máy. 
Đoàn trẻ nhỏ hát lễ đi qua quãng phố. 
Tiếng hát và tiềng trống thùng thùng nhỏ dần, 
nhỏ dần…
tan trong nắng mai.
Ông ta đi ra ngoài rót một ly cối rượu trắng. “Một ly cối này là bằng nửa lít đấy thằng nhóc”, ông ta nói với Khúc.Và an nhiên nhấm nháp ly rượu nồng. Thằng Khúc đông cứng trong cái khối mê hoang. 


02
Đã bảo là chậm rãi mà.
Giải thoát một phận người đâu phải là tức khắc được. Ông nghe rượu nồng cay trôi qua thực quản. Một chút lửa cháy thịt chỗ cái bao tử rỗng. Không gian tối một cái lỗ đen, lẽ ra thuần nhất, lại cực kỳ hỗn mang. 
Một khuôn mặt hình Người sừng sững đó. 
Chỗ bờ tường,
nơi công viên.
Ngự khắp nơi có máu.
Vẫy tay chào.
Tóc râu trắng đạo sĩ.




Đối diện nhà Ông là một căn lầu ba tầng. Nhiều tháng trước những người thân thuộc trong nhà ấy đã bỏ đi. Không hiểu làm sao chúng đành bỏ lại một bà cụ già với căn nhà gần như chẳng còn tài sản gì. Để chống cái đói, đôi ba hôm bà già gọi bọn chợ trời đến bán một đôi món đồ sờn cũ lấy tiền sống qua ngày. Sau cùng hết thứ bán bà bán cả những cánh lớn cửa sổ. Bọn chợ trời đem máy hàn xi đến cắt sắt tháo cửa, bỏ lại những cái lỗ trống hoác trên tường nhà như những con mắt rỗng của chiếc đầu lâu. 

Trong đường phố từng phần hoang vu không chỉ mỗi cái đầu lâu này. Nhiếu nhà đã tháo cửa bán. Nhiều nhà đã bán hết hai phần ba mái tôn. Cuộc sống ấm êm thu lại cha mẹ con cái trên một chiếc chiếu đêm. Trăng, và, có thể mưa, ngay trên nền bếp tro than. 

Bây giờ người đàn ông ngây rượu nằm dài bên cạnh nguời vợ thân thể chỉ còn từ cái cần cổ trở xuống.Ông hận đau nhìn gã Đạo sĩ tóc râu trắng mây, lại lặng ngắm cái biểu tượng thiếu vắng phần đầu. 

Lim dim mắt, Ông chìm xuống đáy kích hoạt. Trong đại dương xanh đen màu khói, con dao bén có hoa văn hình rồng nằm yên thấm máu. Ông thấy mình cũng qua đời, chết theo người. 

Trong u mê màu khói Ta nghe Ta đi rồi. Ông phân thân. Ông mỗi mình lo việc tẩm liệm mình. Đây là cái vô thức, cái bản năng đứng ra tẩm liệm con người ý thức, cho vào áo quan. Từ đây còn lại con người rừng rú, cái phần bản năng động vật đối xử mưu sinh với cuộc đời…Rồi tôi đưa tang tôi. Tôi nhà Phật. Một vị hòa thượng đi trước quan tài niệm kinh. Bọn tống tiền rắc rải giấy vàng mã dọc đường hối lộ bọn âm binh thôi quấy phá cái phần lương trí đã bị khâm liệm trong áo quan hôm nay. 

Trên đường phố quan tài tôi đi qua có người lịch sự nghiêng mình tống tiễn, có đứa thản nhiên đứng vừa nhìn vừa đái lên gốc cây vỉa hè. Thằng Đạo sĩ ma mãnh đứng chỗ công viên bãi cỏ xanh vẫy tay chào. Miệng toe cười, râu trắng bay. “Đừng giỡn mặt thằng hóa hình.” 

Xe tang tới chỗ ngã sáu Sàigòn bỗng nhiên từ đầu mỗi ngã đường xuất hiện một vị đại diện tôn giáo đứng mời đón linh hồn. Sao mà đa nguyên ác chiến thế này.Tôi nhìn đức Cha quyến rũ đứng xa xa, rồi thưa với vị Hòa thượng đi đầu đám tang tôi: “Thầy ơi hãy cho quan tài của con vào nhà thờ, con muốn được rửa tội”. “A di đà Phật Thầy sẽ chiều theo ý con. Đạo nào cũng đưa con đến Bực thềm Cửa mở. Từ đó con tự cứu lấy mình.” 

Lại xa xa đầu những con đường ngã sáu ngã bảy khác, giữa thành phố văn minh anh hùng, tôi thấy Bác Stalin, Bác Mao Trạch Đông, Con ngựa Hốt Tất Liệt. Anh hùng Hitler, Đức Mafia Năm Cam…Muốn đi đường nào tự do chọn lựa. Trong cõi u minh đường đi không qui định lối tới chiều lui. Không có bảng hiệu Tự do hay Đồng Khởi. Chao ơi muộn tàn canh muộn màng. Khi thẳng cẳng trong áo quan, mới được thấy một quan lộ đa nguyên. 

Lão nhấm nháp rượu. Tiếp tục công việc tháo lồng 

Nắng lên cao. Bọn trẻ thôi hát. Nhưng thời sự hãy còn diễn trò. Cái loa to bự sét rỉ treo tòn teng trên cành cây cao bắt đầu giờ phát thanh bản tin buổi trưa. Sản xuất vượt chỉ tiêu. Nhà máy phát triển nhanh chóng. Cai đẻ toàn quốc thành công vang dội. Phấn khởi triển khai ba không bốn gắng. Phòng cháy hơn chữa cháy. Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Cái cục loa to đùng sét rỉ tuyên truyền vang vang mấy bài nghiên cứu của một số nhà khoa học từng tốt nghệp ở Đông Âu rằng trong một bó rau muống có lượng bồi bổ bằng bốn cái hột gà, hoặc tương đương một lạng sâm cao ly. Báo chí Sài gòn có đăng lại nguyên xi bài bình luận cao cả này. Rằng trong một cân khoai-mì-yêu-nước (cân cả vỏ) có đủ các loại vitamine A, B, C, D, E, K. Rằng có phương pháp mới rất hữu hiệu để cai thuốc lá bằng cách nên uống một ít rượu mỗi chiều. Muốn cai rượu thì tốt nhất hít một vài điếu thuốc khi thèm rượu. 

Hết chương trình. Phần âm nhạc chỗ cái loa rỉ sắt là cực kỳ lênh đênh nhạc đổi gió …em nông trường anh ra biên giới. 


03 
Rất tỉnh táo, kẻ tháo lồng người lấy một ly rượu trắng rửa bàn tay vợ đã được cắt rời khỏi khuỷu tay. Bàn tay trắng trẻo. Ông ta làm việc này thận trọng, như để nhớ lại những kỷ niệm về bàn tay. 
Hồi ấy có lần nàng thọc bàn tay cười vui vào bụng Ông, bàn tay lần xuống bên dưới, rồi nàng tê dại bật ngửa người ra. Bây giờ Ông ta rửa bàn tay nàng sạch sẽ. Vuốt từng ngón không sơn màu móng tay như thuở xưa. Ông nắn nót mấy chỗ sần sùi, tội nghiệp quá, nàng mới chìm xuống đáy vực khốn nạn, mới lam lũ vài năm mà da dẻ thế này đây. 
Trong lúc rửa, máu người pha với rượu trắng đổ xuống hồng hồng một vạt trên ra giường. Khuôn mặt ông như một bức tượng bằng gốm nung dang dở. Sự thù hằn, hạnh phúc giải thoát, hay xúc động gì gì đó đông cứng nền gốm vô tri. 
“Không thể sống sót ư? Không một tiêu chuẩn nào cho sự sống còn lảng vảng ư? Thôi Em Về.” Ông ta lẩm nhẩm. 
Mỗi phần người được đặt mỗi nơi trong phòng. Ông gói một vài vật thịt nhỏ như các ngón tay, hai đầu núm vú, hai con mắt, đặt trong cái tủ gỗ trước đó bọn chợ trời chê không mua, vì tủ đã hư mục.Cái tủ sống sót này thay nhiệm vụ cái tủ lạnh trước đó, tuy mọi thứ có mùi ôi ôi. 
Công việc tháo cũi sổ lồng, tuy chậm, rồi cũng xong xuôi. 
Bây giờ đến phân bố. Gửi đi thông điệp. Trên nền nhà là chừng vài chục cái bao nhỏ, loại vải bố. Người đàn ông bỏ mỗi phần người vào mỗi bao. Bao có hai cánh tay. Bao đựng cái đầu. Bao vú ngực – hai núm vú đã ủ trong tủ. Bao lườn bụng phèo ruột. Hai bắp vế được cắt rời khỏi cẳng chân. Cẳng chân trái và bắp vế phải nằm chung một bao, và ngược lại. 
Lúc đầu Ông định bỏ mỗi phân mảnh người vào một cái bao ni lông trước khi cho vào bao vải bố, ý muốn kín đáo. Nghĩ lại, Ông không dùng lớp bao ni lông. Ông muốn máu phải thấm trực tiếp vào chính bao vải bố. 
Nhản hiệu chính là Máu. Nỗi đau, cái Nhục phải được nhân gian nhận diện, không lập lờ. Ông định lấy viết ghi tên trên mỗi chiếc bao: 

“Phải có tiếng nói.
Không hề vô danh.
Không thể không tháng ngày. 
Cuộc tự xử này không mang tính huyền thoại. 
Nó là có thật trên một quê hương có thật, 
đựợc tác dựng bởi một hành sự mang tính gội rửa, tháo gỡ.” 
“Sống nơi này Sống cách nào cũng là một cách Chết.” 
Nhưng Ông tìm mãi không có một cây viết loại lớn có thể viết lên bao bố. Vả lại, ngay lúc này hình như có một vài người ngang qua nhà ông muốn nhòm ngó. Rình mò nhà hàng xóm là nghĩa vụ công dân. 
Xong mọi việc, Ông tắm rửa tạm sạch sẽ. Ngồi yên một lát. Hít thuốc lá liên hồi. Bất giác ông thấy cần rời ngay khỏi nhà, khi con dao hãy còn nằm đó, bàng hoàng thấy thằng Khúc như cũng muốn chết theo mẹ. “Không. Nó phải Sống và phải Đợi chờ.” 
Ông bắt đầu tải từng bao thân ái đi phân tán nhiều nơi trong thành phố. Phải trưng bày những nơi thật đông người qua lại, nơi tập trung Cái Nhìn. “Đây không là cuộc chạy trốn. Không là một giấu giếm.” Ông sẽ thấy một bờ cỏ xanh, con sông rộng trải. Ông đặt nơi đó một dấu ấn thời đại. Trong gió xanh là hương thơm của một minh tuệ tự hủy. 
Lần cuối trước khi rời khỏi nhà, ông ta nhìn thằng Khúc, bảo: “Đừng đợi cha. Ai gõ cửa không mở. Hỏi cha đâu nói không biết. Cha tính phần cha. Dì con sẽ đón con ra ngoài nuôi dưỡng. Nếu có may mắn tới trường hãy ráng mà học hành. Hãy quên cha đi.” 


IV. GIÁ TREO NGƯỜI 

01 
Có sợi dây vô hình dẫn dắt con người đeo đẳng mãi cùng nhau. 
Rất nhiều năm sau Khúc vẫn đi thăm người đàn ông sống sót ấy. Khi thăm trong trại giam, ông ta là một tên tù chung thân. Mừng. Vì nếu y án tử hình Ông đã bị treo cổ hay bị chém bắn chết queo từ khuya. Sau, Khúc thăm lão trong bệnh viện. Lại mừng. Vì nếu không được giảm án chung thân, lão đã bỏ xác già giữa bốn bờ tường nhà tù. Một cái mừng rất đau cho Khúc, cho kiếp người, là lão hai lần tự tử mà đều được cứu sống. 
Sau cùng, Khúc – thằng bé lên tám suýt xào chín nêm thêm mắm muối những bộ phận mẹ trong tủ để ăn cơm – nuôi một ông già tâm thần trong nhà thương điên. Thường, vào mỗi chiều thứ Bảy, lúc rỗi việc, Khúc đánh xe theo xa lộ trực chỉ nhà thương điên Biên hòa. Dưới bóng vàng hoang phế, chỗ tàn địa, bên gốc cây già, lão ngơ ngác không còn nhận ra con trai của mình. 
Với hàm răng rụng sạch, chỉ còn hai cái lợi hôi hám, màu thịt tim tím, lão già ra sức gặm một cục đá to bằng nắm tay. Lão thè lưỡi liếm đá. Nụ cười trắng, lão nói nước chảy đá mòn mà con. Lại dạy rằng ngày xưa một Nho sĩ chống Pháp bị đày đi đập đá Côn Lôn, đã làm thơ để đời: bây giờ cha liếm đá cho mòn, cho nhỏ nhỏ nỗi đau. Lại nhe răng nhễu nước mồm như trâu cày trưa nắng. 
Khúc ngồi cạnh, nhận ra một mùi rất khó ngửi nơi cha mình. Đây là mùi minh triết? Mùi của một con người bị Người tước đoạt? Hay mùi của một động vật ngoài bảy mươi hãy còn là một bào thai mong tái sinh một trời khác. 
Một lần Khúc nghe lão già điên nói tỉnh queo: 
“ Sống nơi này Sống cách nào cũng là một cách Chết.” 
Con khỉ gãi người bằng cái bàn tay khô tháp, đầy gân lộ, làn da mất máu. Lại than van: “Lạy Chúa Cha con không là thần tiên. Lạy em, tôi giết em – một-cái-đã-chết-khi-còn-đang-thở. Sự hủy diệt đã lên ngôi.” 
Trong nắng chiều héo, chỗ lòng trời xám xịt Khúc thấy một cái sao Hôm lơ lửng và nháy liên hồi. Chỗ cổng nhà thương điên phất phới một lá cờ sao năm cánh. Cái sao Hôm thứ hai. Những mang tin Thần Đêm. 
Khúc lấy một cái bánh đưa cho cha. Ông già nhả cục đá.Cầm bánh ăn. Nước miếng nhểu xuống cằm. Khúc liên tưởng hình ảnh xưa. Một loáng là con dao bạc cắm phập vào ngực người. Những hành động nhanh nhẹn ấy tương phản với hình ảnh chậm chạp, tàn lực này. 
Khúc mạnh dạn hỏi cha:
“Thưa cha, làm sao cha đành giết mẹ?” 
“Ta đã nói rồi, ta chỉ thanh lý cái Đã Bị Giết. Ta không chịu được quanh ta đầy hơi thở một nhung nhúc thây người. Lạy Cha, con không là thần tiên.” 
“Thưa cha , cha không hối hận gì?” 
“Về măt tình cảm cha cực kỳ đau xót. Về giải pháp cha làm đúng.” 
“Nghĩa là sao thưa cha?”
Lão già chậm rãi:
“Con ơi tao là cha mày. Tao từng ngồi nhẵn ghế nhà trường, đã ung vữa đôi mắt vì chữ nghĩa thánh hiền.Tao hiểu cái đời hạ ngươn này từ khi các hiện tượng càn khôn thoạt nảy sinh từ phôi.” 
-“Con không thể nào hiểu cha giảng giải điều gì.” 
“Cũng như mày không thể nào hiểu vì sao một kẻ sát nhân, sát từng bộ phận, giết từng con vi khuẩn trong xác người thân yêu như tao, hãy còn vừa đang thở lại vừa đã chết trên cái Xứ-Toàn-Chuồng này.” 
“Theo cha là vì sao?”
“Vì bọn khát máu giết triệu người chỉ xem như một rủi may lịch sử. Nó giết chục triệu người không hề bị quy tội sát nhân. Tao giết một người, dù không thể còn một giải pháp nào khác, cũng đã đủ sức nặng rơi tõm xuống địa ngục. Nhưng số mệnh đểu cáng không cho tao vé tàu. Chúng bỏ tao lại trên một cõi đất vừa trơ trụi vừa rợn người này. Chúng hiểu rõ là tao sẽ bị băm vằm dưới nhiều hình thái vi diệu khác, lâu dài và hờ hững dưới bóng trời nghi hoặc này. Cái ngày Hôm qua, Hôm nay, và mãi ngày Hôm kia sẽ đến, chúng đốt lửa người.” 
“Cha đang bị treo lơ lửng, cái chết chưa tới, cái sống không hề quay lại.” 
“Con sẽ cầu phục sinh cho cha.” 
“Chớ làm chuyện tầm phào. Kiếp sau không bao giờ lẻ loi mình nó. Nó không thể độc lập với tiền kiếp. Lạy Cha con là côn trùng bé nhỏ. Con có thể lệ thuộc vào một giọt sương.” 


V. HIỆU ỨNG

01 
Có lần kiến trúc sư Khúc đã kể cho tôi nghe một câu chuyện thế này: 
“Ở sở thú Sàigòn có một người chăm sóc thú một hôm tắm cho sư tử con bằng một loại xà phòng khác loại đã tắm cho nó thường ngày. Tắm xong, sư tử con được trả về chuồng cùng mẹ. Sư tử mẹ quay quắt khi nhận ra một mùi lạ. Nó ngửi con, cố liếm lông cho sạch mùi. Nó nhìn quanh quất tcòn mãi. Sư tử mẹ giận dữ cắn chết ngay con sư tử con.” 
Nghe xong chuyện, tôi im lặng. Khúc lại kể tiếp chuyện thứ hai về mùi: 
“Hồi bé, nhà mẹ em có nuôi một con mèo cái. Con mèo này đi hoang dữ lắm. Nó mang trộm đủ thứ thức ăn từ hàng xóm về khuya khoắc ngồi xơi một mình. Trong đêm nó như con ma già. Một hôm mẹ em thấy bụng nó bự. Mẹ nói đùa con mèo này nó chửa hoang rồi. Rồi nó đẻ một đám mèo con. Một hôm có người bà con đến thăm. Thấy mèo con xinh xắn dì em bồng bế ve vuốt. Mèo mẹ thấy nguy hiểm, vì mùi dì không là mùi quen thuộc trong nhà, liền tha con đi lót ổ chỗ khác kín đáo hơn. Dì em ở chơi, ngày thứ hai lại ôm lũ mèo con ra thả trên nền nhà đùa vui. Con mèo mẹ lần này không dời ổ nữa. Tao phải dời đi đâu nữa trong một nơi chốn chúng mày chiếm ngự cả rồi, sờ gáy lũ nhóc con rồi. Nó sợ mùi lạ. Mèo mẹ tức tốc cắn lũ con nó chết toi. Và ăn thịt từng con mèo con máu me. “ 
Tôi vẫn im lặng. Khúc lại hỏi: 
“Có phải vì mùi mà có những cái chết kia không? Có phải vì thương yêu mà kẻ thân yêu bị tàn sát? Và muốn trọn vẹn nên phải nhai nuốt cái đau thương mang hình hài kia không?” 
Tôi hiểu ra một chút ánh sáng le lói nào đó trong câu chuyện Khúc kể. Nhưng không hiểu được mục đích kể. Tôi nhẹ nhàng phản bác: 
“Đó là cách cư xử của muôn lòai. Con người không thể.” 
Khúc minh biện:
“Con người cũng không hơn thế đâu khi ở đường cùng. Cha em xưa kia đã giết mẹ em. Ông ta xem Tự do là trung tâm, Con người là giải pháp. Suy theo lẽ thường cha em đã thọ ác. Nhưng ông không hèn. Ông không đành dùng cái chữ “Đành lòng” để mua lấy cái Sống qua ngày.” 
Tôi nhìn ra áng mây mờ trong bầu trời xa khuất của Khúc. Tôi cũng từng trong áng mây bão. Cũng từng nghe tiếng gió rít xoáy khá lạnh lùng. Rất khô và đanh ác. Nhưng khác với nguời cha của Khúc. Tôi đứng yên trong thời thế, đông cứng thủy tinh. Chịu đựng thân thủy tinh tan vỡ riêng mình. Tôi thủy tinh đau nghe tiếng vỡ. Tôi nào thể xử sự như mèo hay sư tử. 
Sau cùng tôi trả lời Khúc:
“Như thế, “không đành lòng” thì phải giết người sao? Tôi đồng ý rằng khác mùi thì khó thể hòa đồng, mùi vô sản hay tư bản? Tôi hiểu, tôi chia xẻ cái tang chế bất khả tư nghị của người cha giết vợ. Nhưng luân lý đã đóng đinh lên thuờng hằng, rắng anh có quyền tự hủy nhưng không có quyền hủy một con người. Cái quan điểm xem con người là phương tiện, hay giải pháp e rằng không nhân văn tí nào. Cứ lùa người vào chỗ chết hàng loạt, cứ cứu cánh biện minh cho phương tiện, cái đó chúng ta hình dung ra sức mạnh của một bọn dã thú.” 
Trên xa xa kia có một hàng cờ phất phới bay. Một rừng cờ trong nắng. Trời đỏ như run. Khúc bỗng nói lớn. Giọng nói rất sạch: 
“Nhưng trong lịch sử nhân loại bọn dã thú man rợ, nếu khởi chiến, luôn là thắng cái xã hội có nhân quyền, có văn hóa, có nhân nghĩa hơn chúng.” 
“Đúng. Nhưng cái văn hóa, văn minh, cái nhân nghĩa cũng từng nhiều khả năng nhân hóa bọn dã thú. Thậm chí bọn chiến thắng còn hóa thân chui vào nền văn hóa, nhân văn, bị toàn diện đồng hóa ngược. Mông cổ, Mãn Thanh sờ sờ đó…” 
Trong không gian lạnh của quãng phố sớm mai này có tiếng trống nhịp xa xa. Khúc bất ngờ lặng đi. Anh chìm trong biển hát âm u của quá khứ. Tôi hiểu niềm bí ẩn trong mắt, khí hậu mỏi mê quanh đây, một trời nghi hoặc. 
Đây là “ Mùi Tự do bị thiêu cháy”. 


02 
Ở gần Khúc nhiều năm, tôi hiểu thêm nhiều điều bí ẩn. Nỗi đau đã biến thành Mùi. Phúc có khả năng nhận ra đủ loại mùi, hoặc cái không thể có mùi với nghĩa đen, như mùi tư tưởng. Đứng trước một cái tượng đài, nhìn đầu tượng xi măng cốt thép cao ngất, ta hiểu: “Trong cái đầu đá sắt kia còn hôi thối, thời gian không gội sạch.” Ở Sàigòn Khúcnghe được mùi Hà nội. Hai mùi hai đầu này bao năm khó thể hòa lẫn nhau được. 
Khúc mang bệnh ngộ mùi. Ám ảnh mùi. Ung thư mùi. 
Khúc không những cảm nhận mùi từ mũi. Mà nghe. Không những nghe từ tai. Mà nhận ra cái không hình tượng đó từ đầu sợi lông măng, từ cái lạnh tủy sống, chỗ man mác nỗi trôi, đau đau từ cái rùng mình. 
Một hôm nắng tốt, khí hậu trong lành, chúng tôi đang ung dung trên bãi bỉển, Khúc bỗng ngửi ra trong bầu trời xanh ngắt an lành kia mùi cuồng nộ của khí thiêng. Ngộ ra mùi điên trong những áng mây thơ mộng. 
“Trời sắp ban phát tử khí.” Khúc nói. 
Quả nhiên bốn hôm sau một cơn bão dữ cấp 12 ập tới. Những lều bạt trên bãi tắm được bão dọn sạch. Những đồi cát gió bào mòn, thấp hẳn xuống, Không một cây trụ điện nào còn đứng thẳng. Gió bê bưng những chiếc xe trên đường chạy ném xuống vực. Bão tan, nhà cửa tan nát, hàng trăm người bị thương, hai mươi chiếc quan tài chờ tống táng. Mãi nhiều hôm sau thị trấn ven biển chưa thoát khỏi mùi. Mùi của hoang lạnh, điêu tàn. Những cơn gió điên tức thì bỏ lại đây một trật tự nhân gian không theo cấu trúc bình thường nào. 


03
Khúc có một người tình, cô Diệu. Phúc luôn gọi cô là Bọ Ngựa. Họ khá hợp gu, sống chung không cần hôn lễ. 
Một lần gọi điện thoại cho Diệu, cách non hai nghìn cây số giữa Sàigòn – Hà nội, Khúc bỗng nhận ra, qua ống nghe, người yêu của mình có mùi ngựa. Làm sao một cô gái chân dài xinh thơm lại trở mùi ngựa? Mà ngựa đực. Khúc rùng mình. Dương vật toát ròng khí đặc. Mùi mang ấn tượng, sắc màu, hình thể cái dương vật ngựa láng ướt của giao mùa, qua cái ống nghe. Trải dọc tấm lưng quê hương, mùi dâm ô đĩ điếm tỏa đi, phủ rải Trường Sơn ra biển Đông, từ dốc mòn cửa Bắc đến Nhà Bè nước chảy chia hai – có thể chia ba, chia năm, nếu về sau, thì tùy. Mùi thời đại động vật hung hãn, chinh phục. Mùi của sinh khí tinh lọc từ dâm khí. Cao cấp, cô đặc. 
Khúc giải thích nội dung Mùi khá minh triết, tuy có lúc dài dòng. 
Trong mơ hoặc, Khúc tái dựng hình ảnh con Bọ ngựa của cha mình. Buổi sớm nhiều bóng tối mặt trời ấy, tiếng hát hoang đường tháng năm ấy, khúc phim cắt đầu phanh thây người hiển rõ. Nhưng giờ đây nó chuyển màu, như người họa sĩ đổi gam từ vàng lạnh sang màu nóng của đỏ máu. Cuộc giết người man dã xa vắng của cha anh nay vỗ bước trong anh, ồn ào thê thiết. Thức giấc trong anh một thế giới tàn tật. Một hiện tình khó bề thống kê trên dưới trong ngoài. 
Hình như có mùi trong gió. Mùi Mậu thân tre trúc che chắn. Nhưng chiếc mành thời gian không lọc được mùi. Tàn tật có thể hàn gắn. Chết chóc có thể giải thích. Mùi, nó nghìn thu. Tôi vẫn đi từ trời tháng năm cùng cha Khúc. Tôi cũng cầm dao. 
Tôi nhớ người cha của Khúc, người trốn mùi mà giết vợ. 
Tôi đưa người con Kẻ Trốn Mùi đi qua nhiều bệnh viện để tìm chữa một căn bệnh chưa có thống kê loại bệnh, chưa nhà khoa học nào nghiên cứu tới. Có lần tôi năn nỉ được xạ trị hay hóa trị cho Khúc. Nhưng y học chưa thể siêu âm, chụp ảnh cắt lớp một căn bệnh vô hình là Ung thư Mùi. 
Lại một lần nữa hoang mang: “Tự do bị thiêu cháy. Nó là ánh-sáng-mùi tệ hại nhất trong vạn mùi. Nó ở mãi với bao la.” 
“Anh biết hiện nay em còn giữ một kỷ vật gì không?” 
“Gì nào ?”
“Một cái đoản kiếm sáng loáng, có cán và vỏ bọc đều khắc những hoa văn hình rồng.” 
“Để tặng cho người yêu?”
“Tại sao không.”
Khúc xanh xao. Vì sao tới nay chưa có một nơi nào chữa trị được căn bệnh ung thư quái ác của chúng tôi. Không thể hóa trị hay xạ trị một người Bị-Cháy-Tự-do sao đây. 
Mưa nơi này mưa ác xít. Đâu dễ chữa cháy. 


04
Đêm đã dài hơn, như xưa kia cha anh đau cái đau bóng tối. 
Một lần Khúc cùng Bọ ngựa và tôi, ngồi trong quán chiều, ngày thơm màu nắng. Sài gòn đỏ ối cờ huyết. Tôi thấy da mặt Khúc tim tím. Hình như ung thư Mùi trong tim não đã di căn ra da. 
Khúc nghe có âm vang hăm dọa từ vó ngựa. Hơn một lần anh nghe mùi ngựa lẫn vó ngựa rung chuyển đường phố. Cuộc rung chuyển từ dưới lòng đất dấy lên. Ê, em hỏi anh xưa kia Huyền Trang đi thỉnh kinh gặp nghìn nghìn thần quái ảo ma chốn cùng địa, Huyền Trang có hóa trang, có đồng lõa, mà chui qua không? Đâu có, Huyền Trang là chân nhân, khuất phục yêu tinh ngay giữa ánh mặt trời, đâu cần giấu mặt chui đất trá hình. 
Không hiểu làm sao thế hệ son trẻ hôm nay vẫn còn ám ảnh bởi cuộc chinh phục không đáng có và đau lòng.Trong ký ức nhân gian những cuộc tàn sát tập thể, những giam hãm con người trong cái rọ sắt tối tăm, vẫn được loan truyền như truyện kể, như câu hát đồng dao răn người. Rõ ràng ám ảnh của tử khí, của Mẹ phân mảnh, đã hiển linh ngay trong cái Đẹp Bọ ngựa, cái tình yêu lý tưởng của Khúc hôm nay. Rõ ràng là trong thực tại đã báo động nỗi bất an. Đã hạnh phúc chênh vênh. 
Ngồi đây là nhà hàng Givral. Cái dáng dấp sơ khai của thế kỷ hăm một đã tới. Bên kia lơ lửng những tầng lầu khách sạn Caravell. Thời Cộng hòa chỗ công viên này có một tượng đài Thủyquân lục chiến; ba người lính hùng dũng của tượng đài trong thế xung phong, lại hướng mũi súng ngay vào tòa nhà Hạ viện làm như muốn tiêu diệt tòa nhà lập pháp của Quốc gia. Người thời bấy giờ cho rằng đám điêu khắc gia dựng tượng này vô ý thức, hoặc có hàm ý sâu xa đâm sau lưng chiến sĩ, muốn xóa sổ nền Cộng hòa. 
Tượng đài ấy nay không còn. Máu ấy thời gian đã rửa. Hôm nay đàn em bé chạy chơi lang thang công viên thả bay bay bong bóng chiều. Đằng tây là chợ Bến thành. Nhà hát thành phố xưa kia là tòa nhà quốc hội nay được trùng tu, trả về cho tiếng hát. Cổ lộ Catinat sang trọng, phố chiều xe cộ đông đúc, nhưng Khúc toát mồ hôi lạnh. Anh nhận ra mùi nhân sinh nơi đây. Khí hậu động vật. Bao nhiêu Toyota, Lexus, Mercedes hiện đại hào nhoáng đang phom phom trên đường Đồng Khởi, đại lộ Nam kỳ Khởi nghĩa kia, trong ấy chở bao nhiêu bao tải người phân mảnh? Bao nhiêu máu? Một nghìn xe chở mảnh băm vằm Mẹ. Bao tải nào làn tóc xanh xuân? Bao nào bàn tay ngọc? Lỗ cổng thối hoắc nào được nhét xuống đấy cái phần đầu óc não trạng; tinh anh còn tươi hơi thở muốn được thở? Trong xương thịt bốc mùi, thông điệp nào gởi gắm? 
Khúc đang mất máu. Bọ ngựa lau mặt cho kẻ thân yêu ung thư mùi. Làm sao biết mình là con bọ ngựa dưới mắt nhìn? Làm sao cô có mùi ngựa đực? Cô cũng rất mệt mỏi. Hàng cây không cho cô bóng mát. Tiếng hát không là bình yên. Cô dẫm lên một mặt đất khá quen thuộc nhưng tương lai đang giấu mặt. Bọ Ngựa muốn khóc. Cô đã từng mỏi lưỡi giải thích với Khúc rằng mỗi con người có một mùi đặc trưng, người ta có thể khám phá ra tội phạm bằng cách khảo sát mỗi mùi riêng biệt này. Chung thân mùi ấy không thay đổi. Nàng là người nhất thiết nàng không thể mùi ngựa. Tôi mùi Người. 
Khúc vần vũ mâu thuẫn. Thường trực mất ngủ. Lại dùng quá nhiều cà phê đen đặc trong ngày. Mở toang hai mắt mà ngủ. Cứ như sẽ giết người. Giết một cách nhàn nhã. Một cách nụ cười. Giết cái người đã một phần hóa thân trong số phận chính mình. Mà giết một cách lạ lùng. Sơ khai. Khác mùi là phản trắc. 
“Giết cái Mùi đâu phải giết cái Người.” 
“Con người là hóa thân cái mùi.” 
“Thanh trừng một triệu người chỉ là một khử mùi.” 
Bọ ngựa đau trong tàu ngựa. Quả thực có một Khúc rối rắm, rời rã. Nhưng nàng đang yêu say đắm cái phi trật tự này. Nàng lắp đặt đời mình những mảnh vỡ. Nàng trôi những mảnh trôi cuồng điên. Nàng chờ vô bao. 


05
Cơn lũ bất an này rất hợp với khí chất cả hai. Một lần Khúc và Bọ Ngựa đi du lịch Trung quốc. Đêm Bắc kinh, trong phòng ngủ sang trọng, nửa khuya anh ôm nàng thì bàng hoàng nhận ra nàng thiếu một phần người từ cần cổ trở xuống. Khúc hỏi: 
“ Sao em chỉ mỗi cái đầu?” 
Đầu cười trả lời:
“Em bỏ phần thân mình ở khách sạn Hillton Hà nội.” 
Lại hỏi:
“Có đủ máu không?” 
Đầu không thân mình
nhúc nhích,
hai mắt mở đều,
tròn đen hai mắt cười
trả lời: 
“Em tinh lọc đủ máu thơm. Máu đen bỏ lại thủ đô rồi.” 
Lại phân vân: 
“Hà nội là thủ đô nhỏ. Nơi đây mới chính là thủ đô lớn. Em tinh lọc máu thơm từ đâu Bọ Ngựa? Chẳng lẽ có từ đất Tần thủy Hoàng này ư?” 
Trong đêm Hoa Hạ, từng tràng âm thanh thủy tinh rao truyền. 
Khúc cùng cái đầu Bọ ngựa khoác tay nhau dạo chơi. Thoảng nghe tiếng hát Tự do Thiên an môn. Tiếng ca bồng bồng nổi lửa. Lại nghe tiếng xe tăng rú gầm. Tiếng roi sắt vung máu sinh viên. Và tiếng máu Tự do chảy cuồn cuồn dưới vành xe bánh sắt, bay hun hút vào tiếng đạn, sau cùng là Tiếng Máu nổi bồng bềnh trong ký ức nhân gian. 
Thăm thú Bắc kinh xong, hai người đến Vạn lý Trường thành. Lúc cùng Bọ ngựa buớc lên bực cấp, rõ ràng là nàng không còn bóng hình, chỉ mỗi bàn tay rất ấm trong tay Phúc. 
Vạn lý truờng thành vời vời. Bên kia Hung nô bên này bạo chúa. Bên kia Sử lịch bên này Hôm nay. Khúc hôn bàn tay, cố tìm mà chẳng thấy mặt người. Bọ Ngựa bất ngờ hóa mãnh. 
Khúc nhận ra mùi gió Trường thành không khác mùi gió Hà nội. Và mùi thời đại Hà nội là bản cóp bi rõ nét mùi này. Khúc hỏi hờ trong gió: 
“Bọ Ngựa hà, anh chưa dùng dao Rồng Tiên. Em sao phân mãnh sớm vậy? Cần cổ em, cánh tay em,ở trong cái bao tải nào? Anh nhặt anh ráp lại cho em. Có thể còn một triệu bao tải thịt người hóa đá trên vạn lý này.” 
Không ai trả lời. Chỉ mây xám từng mảng xa trôi. 
Chỉ nghe trong trời nhà Tần mờ mịt âm vang vó ngựa. 
Trong đá có mùi vạn niên. 


VI. NÀNG VÔ BAO 


01
Đã mấy năm trôi qua, Khúc biến đâu mất. Nghe đâu đã ra nước ngoài. Khúc là cơn mưa của đêm qua. Lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau là hôm sinh nhật Bọ Ngựa. Đêm ấy đầy hoa và rượu, mọi người ngất ngưởng thâu đêm, chúc lành và mong một ngày quanh đây được khử mùi… Khúc đùa đêm nay cả ánh đèn màu cũng chếnh choáng men. Nhưng tôi biết Khúc đang cùng cực buồn bã. Càng ngày tuổi trẻ càng lún sâu vào tuyệt vọng. Trí tuệ, sáng tạo, những đam mê nghệ thuật không giúp được gì cho người trai trẻ. Nhiều công trình của Khúc không chen được vào những cuộc đấu thầu đã có bất chính cửa sau. 
Đêm ấy, lúc hàn huyên Khúc thường mơ màng nhắc đến cha mình. Anh đắm đuối mối tình Bọ Ngựa theo cách muốn đẩy niềm hạnh phúc này đến chốn thần tiên. Dường như chỗ vi diệu của âm dương có một trò láu cá, gọi là “định mệnh truyền kiếp”. Có một chiếc thang trượt dài trong “tai nạn nối đời” dành cho Khúc. 
Bây giờ nắng mưa Sàigòn vẫn vậy. Con đường Đồng Khởi đẩy Tự do vào quá khứ. Con đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa được nới rộng thành đại lộ, Công lý là cái từ xưa xa giữa Sàigòn, rất xa lạ với tuổi trẻ hôm nay. Tôi vẫn sống, chịu đựng một bầu trời mùi mới, ba mươi năm chưa hề giáp mặt niềm thân quen trong lưu dấu. 
Một sáng cuối năm, lúc này tôi về Làng hoa lập một căn nhà vuờn, tình cờ nhận được thư của Khúc. Quanh đây hãy còn những mảnh đất chưa xây nên nhà, dân bản địa tiếp tục sống nghề trồng hoa. Những cúc vàng, mãn đình hồng man man trong chiều, dưới chân tường những nhà nhà cao tầng. Đêm đêm những chòi canh hoa loang thoáng ánh đèn. 
Hãy còn sớm, vườn chưa đầy nắng. Tôi ung dung trên ghế bố đọc thư. Con chó Paul hiền lành nằm cạnh. Cây khế xanh trái vàng chín rụng. Hàng cau trổ những buồng cau không xanh cau mà có màu đỏ rượu chát. Đây là loại cau kiểng đặc biệt. Vuờn nhiều bướm vì hoa trái. 
Thư của Khúc:
Anh Cung quý mến.
Sao mà biệt tăm đến thế này nhỉ. Đã hơn ba năm, hơn nghìn lần mặt trời qua đỉnh đầu trọc – em trọc đầu, tu không cần chùa chiền từ ba năm nay – mà chúng ta không một lời thăm hỏi. 
Em rất nhớ anh, nhớ những lời dạy bảo của anh. Anh bảo rằng chân lý khó đủ lý và chân giữa cõi đời bánh tráng nướng này. Một Cõi đời ửng Đỏ lô nhô. Thấy ngon cơm vậy chớ nhúng nước là nó mềm oặt, tan tành. Sao vậy nhỉ. Anh bảo, Cái gì đã-qua-Lửa, thì-sợ-Nước. 
Em đang sống với Bọ ngựa và đang ngao du miền Trung. 
Bọ Ngựa rực rỡ hơn bao giờ. Rực mùi thiên đường. Nàng vẫn còn ở ngoài bao. Hơn tuần nay em cùng Bọ thăm Phố cổ Hội an. Sông Hoài vỗ sóng chiều nước mai ngay bên hè phố. Đẹp quá. Em có qua sông, đến vùng cồn vàng bãi rộng thăm quê Nhất Linh Hoàng Đạo Thạch Lam. Có thắp hương nhà thờ họ Nguyễn Tường, gần Lai viễn kiều. 
Đêm, đứng ở hành lang khách sạn nhìn biển thẳm, xa xa là Cù lao Chàm mà anh từng kể em nghe chuyện chim én mùa xuân khạc máu trên vách đá cheo leo làm nên yến sào. Những hàng đèn lưới chài nhấp nhô trên sóng đêm. Bọ ngựa mê hoảng cái Đẹp của Phố Cổ Hội an ngay bên cửa biển gọi là cửa Đại khá hoang đường. 
Tới đây em mới biết người quê anh không gọi cửa Đại, mà là cửa Đợi. Sông Hoài và cửa Đợi? Hay nhỉ, sông Nhớ cửa Chờ. Người xứ Quảng các anh được tiếng là sòng phẳng, cãi chí mạng cho ra lẽ, nhưng sao mà tình vậy. Cửa Chờ… sông Nhớ… Sao vừa dân dã vừa minh triết vậy. Nhớ ai? Ai Chờ? 
Anh thường mơ màng lúc nhấp một chung rượu, và nói: “Bây giờ chúng ta sống nơi đây chỉ Đợi và Chờ”. Anh bảo em vậy. Anh Cung ôi, chiều nay bơi thuyền trên sông Hoài, đêm nay sóng cửa Đại dội về cái âm vang xa xác, em mới hiểu thế nào là Nhớ và Chờ…trong câu thơ của anh: 
“Phố Cổ nhớ ai, Nước chảy Hoài…” 
Tháng rồi em có du ngoạn qua vùng quê anh, qua những tháp Chàm hoang phế, đồi và sông, và rừng sao mà đẹp quá, duy con người sao mà xao xác, dửng dưng. 
Anh Cung ơi, xưa kia anh dị mộng, anh ngủ nơi đâu trên những núi đồi? Xưa kia Bùi Giáng chăn dê ở đâu trên cõi Quảng nam hoang mộng này. Phan Khôi, Tạ Ký phải chăng gởi sầu trên tóc núi trắng phau nắng gội. 
À, em báo anh hay một tin quan trọng này, không biết nên buồn hay nên vui đây. 
Anh có nhớ một vài lần em đưa anh đến Biên hòa không? Anh còn nhớ một con người được nặn ra từ đất sét, hồn thai khỉ, được gọi là Cha. Cha già trong nhà thương điên đó. Ông tháo lồng người, một lần thay vì tử hình được hạ xuống chung thân, lại được ân xá sớm, chẳng ai chung thân cái điên. Anh à, ông ta đã biến khỏi thế gian này rồi. 
Em có về tham dự buổi đốt người. 
Tốn hai lít dầu hôi,
một chiếc quan tài,
và một thời gian chờ cháy.
Em có bái biệt. Đã gửi nắm tro tàn ấy vào chùa. Đây là lần từ biệt có thủ tục rành rọt của Cha già. Không có thêm bớt cò kè một xu cắc nào kiểu giảm án xưa kia. 
Một điều này khá thú vị nữa. Không biết cha em có ý định tự tử hay là do tuổi già không làm chủ được răng lợi mồm lưỡi của mình. Cha em tắt thở vì một cục đá tròn trĩnh chẹn ngay ở cổ họng. Thay vì nghẹn cơm ông ta nghẹn đá. 
Anh thấy đó, hồi xưa khi thấy ông già em cặm cụi gặm một cục đá to bằng nắm tay anh quay lơ. Anh hài hước bảo rằng không nên để ông ta gặm đá. Hãy dành dụm gom góp – như góp tiền tiết kiệm – để bà Nữ Oa đủ đá vá trời.Cũng may mụ Nữ Oa thiếu đá vá trời bao nghìn năm nên vẫn thủng bể ô dôn. Nếu trời mà lành lặn chắc chắn kẻ giết người khó thể đến. 
Thật khó hiểu, làm sao với cái mồm không còn một cái răng, hai cái lợi thịt khốn khổ, cha em đã ra công gặm một cục đá. Và cái lưỡi đã tuyệt công bào mòn nó từ khi cục đá to bằng nắm tay trở thành mòn nhẵn – theo ý cha em là cho nhỏ lại, nho nhỏ nỗi đau con trai à – đến một ngày ông cố nuốt được vào cổ họng. 
Em nói “cố”, là vì viên bi đá không thể đi xuống nữa, nó dừng lại, chặn khí quản, làm cha em tắt thở. 
Một cách treo cổ tiết kiệm được một sợi dây thừng. 
Cả đời em chưa làm được một kỳ công nào vĩ đại thế này. 
Anh Cung ơi, chừng mươi hôm nữa em và Bọ ngựa sẽ trở lại Sài gòn. Anh sẽ biết tin chúng em. Em nói rõ anh biết là tình yêu của chúng em nồng nàn rực rỡ lắm. Em muốn giảo nghiệm Cái Đẹp. Em muốn giải phẫu Mùi. Để xem trung tâm Mùi. 
Em kính chúc anh mãi ung dung ngồi trên thuyền câu như Lã Vọng xưa để Nhớ và Chờ. Kính chúc quý gia đình an lành. Mong cây khế Vuờn Cây Cau nhà anh nhiều trái ngọt. Mong mấy con chó nhỏ mãi xinh đẹp. 

Kính thư
Hàn Chính Khúc 


02
Mười ngày đã trôi qua. Và hơn. Tôi không gặp Khúc tại Sài gòn như tin báo trước trong thư. Buổi sáng thứ 13, hình như thứ Sáu, đang ngồi uống cà phê tán gẫu tôi nhận tin qua điện thoại: 
“Ông Cung ơi, ông tới ngay đây, xem cái này hấp dẫn lắm.” 
“Có quái gì hấp dẫn trong cái lồng cu ngột ngạt này,” tôi trả lời. 
“Tới thì biết. Tôi tin cả đời ông chưa hề thấy ông Cung ạ.” 
Chỗ công viên, buổi sáng nơi đây có trăm cái đầu bạc tập dưỡng sinh để tiếp tục sống thêm đôi ngày chẳng mấy vui. Bên cạnh bô rác có người bỗng khám ra một cái bao tải ngai ngái mùi. Trong ấy mở ra là cái đầu một phụ nữ. Tóc quấn quanh khuôn mặt lem luốc máu. Đám đông bu quanh. Coi mòi xôm tụ. Hóa ra chiến tranh khuất nẻo đã nhiều năm mà con người nơi đây vẫn còn dạn dĩ với máu. 
Họ vạch cái bao xem qua xem lại. Một người đàn bà ngồi hẳn xuống, nhìn rất kỹ cái đầu lìa cổ, mụ nói trơn lu: 
“Con mẹ đĩ này chắc là cuỗm chồng người bị phanh thây.” 
Một chị khác mắng:
“Nói ác, bộ ai cũng có chồng đi ngủ bậy như chồng chị, bộ ai ghen tuông cũng phanh thây người. Không thương xót thì thôi. Lại chụp mũ.” 
Công viên nhiều cây nhiều bãi cỏ. Những vùng chia cắt có lát gạch màu lối đi, chung quanh bồn hoa. Màu đỏ sớm mai này là màu tàn ác nhất trong muôn màu rực rỡ. 
Ngay lúc đó, ở một nơi khác trong công viên có người thấy thêm một bộ phận người trong một bao đỏ máu khác. Những máu. 
Phút chốc, tiếng vui đùa của lũ trẻ em đá cầu, của đám người đánh cầu lông bỗng lặng phắc. Lão già hít thở dưỡng sinh ngưng lại. Mụ lắm mồm tức tốc câm. Anh chàng sớm mai ưa đọc vanh vách báo chí phát hành trong ngày, đọc xong mỗi tin anh bình luận tình hình Iran Irắc, con mẹ Rice thằng cha Bush, đánh rơi xấp báo. 
Cái đầu người câm nín trong bao máu có hấp lực cực kỳ. Cái bàn tay trong bao máu bỏ phiếu tín nhiệm sự bất an. Cái lưỡi máu đứt lìa có tiếng nói kỳ diệu báo mộng dữ. Có khả năng giam cầm đức tin trong từng phần kinh hãi. Trong bình minh mọi người bất giác thấy mình đang chết từng phần. Chờ đợi từng phần chết đó đây sẽ tới. Trong gió mùa. Giữa nắng mai Sàigòn… 
Nhà chức trách lái mô tô hú còi chạy tới. 
Có tin báo người ta khám phá một bao người chỗ Hàng Xanh. Lại một cái chân ở Chợ lớn. Một cánh tay ở cầu Văn thánh.Một đùm ruột trong bao tải nhỏ trước dinh Độc lập, nay là Hội trường Thống nhất. Lá phổi ở tuốt Thủ thiêm khu đô thị tân kỳ hiện đại tương lai. Rất có thể chỗ sóng sông nhấp nhô kia một bao tải theo dòng. 
Cuộc gom góp thi thể về phòng giám nghiệm phải mất hai ngày. Phần nào tìm được cứ cho vào hộc lạnh, chờ tìm kiếm thêm. Sau cùng là sự toàn vẹn của phân mảnh. 
Có thể có nghìn phụ bản, bản sao, nhưng không có dị bản của cơn đau này. Không tín hiệu nào khác hơn. 
Nói chung cuộc trở về của Nàng khá ly kỳ. Cái đầu về trước. Hai cánh tay thiếu bàn tay về sau một chút. Một ngày rưỡi sau Nàng về tạm đủ nhưng còn thiếu quả tim. Hai bàn chân về sau cùng. Nàng chậm chạp và khiếm khuyết như Lịch sử. Nàng được ráp lại như một tượng đài lập thể do nhiều họa sĩ, điêu khắc gia tài ba thực hiện từ nhiều nơi, nhiều mặc tưởng. 
Không nụ cười. Không tiếng khóc. Không màu. Nàng dị hình. Nhưng Nàng đang có mặt giữa Sài gòn hôm nay. Nàng Vô Bao. 


CUNG TÍCH BIỀN
Viết trong vườn Cây Cau
Sàigòn Mùa Phật đản đến Noel 2006 






Nhạc Điệu Của Bầy Ong
(tập truyện) 2009




Phía Trước Của Sương Sớm 
(tân truyện)










Truyện dài chưa in




Trường Giang



Bên Dòng Nước Biếc



Những Bọ Và Rắn



Luống Cải Vàng







Và rất nhiều truyện vừa, truyện ngắn chưa thể sưu tập đầy đủ



Tiêu biểu vài truyện ngắn





mùa xuân cô mơ bay
Cung Tích Biền

1
Mỗi mùa xuân sắp về, trong cái nắng tàn đông hanh hao đến ứa nước mắt, con người thường hay có những ước mơ đẹp về tương lai.

Mơ mộng là phù phiếm, có đó mất đó. Còn tệ hơn một làn khói thấy. Nhưng mơ mộng cũng là phúc trời cho. Là thần khí, duyên cơ nơi mỗi con người. Có khi sướng rơn người vì mơ ra cái chưa hề tới, không/khó thể xảy ra trong đời thực.

Trong khó khăn của ngày ngày, chỗ hiểm nghèo định mệnh, người ta hay mơ thoát. Một nơi, mặt đất luôn rung rinh, bởi động đất bão tố, sóng thần lở núi; hoặc bầu sinh linh xã hội mịt mù những tối tăm, vắng nụ cười; lúc con người bị tẩy xóa phần nào những riêng tư trước đám đông thường hằng – đã bao phận người đêm đêm luôn giật mình, nỗi hoang mang là rõ thật – ấy là lúc không phải tuyệt cùng thất vọng, nghĩ về cái chết, mà là lúc rất giàu giấc mơ.

Những triệu con người luôn mơ/ước/mộng về một mùa xuân đúng là Xuân sẽ tới. Bao thân phận nhỏ nhoi sẽ thoát khỏi âm u xanh xao, những bế tắt lưu niên đã trở nên ám ảnh siêu hình.

Hồn linh một nắm cỏ bồng, xao xác trong gió nắng, trong âm vang của đêm ngày là mông lung gãy đổ. Mơ thoát? Là một cách từ biệt cái tình trạng bao la xám màu của suy đồi, lạc nẻo.

Có những miền đất mà mỗi con người phải bằng lòng sống qua ngày trong thân phận “Cũng đành.” Nên, ngó biển xanh để tìm một lối ra. Ngó lên trời cao nghĩ lung mình đang ngồi trên chuyến bay hạnh phúc. Như Tản Đà rỗng túi xưa kia, đứng chỗ sân ga nhìn con tàu chuyển bánh, mơ tưởng rằng mình đang ngồi trong chuyến tàu ấy, bon bon chạy về nơi xanh thoáng chân trời. Chao ôi, bao mơ ước nơi mỗi con người đã từ lâu hiền lành, bừng cháy bất ngờ, rồi, đã thu nhỏ lại, cằn cỗi. Như giọt máu sót. Khô đen trên cái xác dĩ vãng. Như bầy ong bị tàn phá tổ, hàng hàng xác đen cháy cánh, nằm bò rải rác, rỉ rả chờ cái chết.

Rất nhiều mơ/thoát, nhưng ít ai dám mơ tưởng một sớm mai bỗng dưng một đôi cánh mọc ra từ hai bờ vai. Để chính mình bay đi. Đi đâu cũng được, miễn đạt đỉnh ước mơ. Đến đâu cũng được, miễn là miền hạnh phúc. Hãy cứ Mơ Thoát/ Bay Đi.

**

Cô Mơ Bay, cô ấy sắp bay.

Bằng đôi tay làm cánh.

Mơ Bay có sở năng chịu đựng sự đơn độc, từ khước những giao tiếp. Ngồi quán cà phê một mình. Từ lâu không hề dự một lễ tiệc, dù đó là đám giỗ ông nội, đám tang của bà dì. Nhưng sau đó cô thường ngồi một mình trên những ngôi mộ thân yêu này, với nỗi nhớ. Ngày Tết nhứt cô không ở nhà cùng cha mẹ đón Xuân. Sẽ thoát đi, thoát ra, biến vào một đâu đó, đến một đâu đó, cao nguyên chẳng hạn, bờ biển chẳng hạn.

Cô ít khi sử dụng cái gì có máy nổ. Từ nhà đi bộ ra phố thị, ung dung bên cái bị rết đan bằng thổ cẩm; chạng vạng tối Mơ Bay về nhà thường không bật đèn, cô ngồi trong bóng mờ một mình; lúc này cô bảo: “Nghe không gian rộng thêm ra, những u uẩn có dịp hòa tan trong mơ hồ.”

Không phải Mơ Bay xa lánh mọi người trong cõi ta bà này vì cô xấu xí, tàn tật. Chẳng méo mồm thâm môi lé mắt đi cà thọt. Chẳng phải mập thùng phuy, chẳng khô đét kiểu gái chậm chồng. Mơ Bay rất đẹp, học giỏi, trưởng thành trong một gia đình nền nếp, giàu gia hạnh.

Mơ Bay còn trẻ. Mộng ước của cô lớn lao, ngoài giới hạn. Thông thường, những ý tưởng lớn lao của tuổi trẻ luôn lồng trong đó cái hoang mơ, hư tưởng.

Cô hiểu rằng, với đôi tay có ngày cô sẽ bay như chim. Hoặc mái tóc cô, sẽ là đôi cánh. Tư tưởng sẽ biến cô nhẹ tênh. Ý chí là nhiên liệu.

Mơ Bay sẽ bay ngọt ngào. “Anh ạ, vì em có một đôi cánh vô hình. Siêu nhiên là lực đẩy em lên cao.”

**

Mơ Bay giải thích nguồn gốc loài người một cách hài hước, đầy chất u-mặc. Nhất định rằng loài người không là hậu duệ của tinh tinh, khỉ, vượn. Muôn triệu năm trước loài người chính là loài chim.

Vì ham rong chơi trên mặt đất, ham suối trong, rừng xanh và thích tắm biển nên chim sa đà vào kiếp đi bộ. Đôi chân chim dần dà bự ra như chân người, và đôi cánh teo lại thành đôi tay. Cô mơ một Cuộc-Bay chính là phục hồi một kiếp chim.

Mơ Bay chìa bàn tay ra, bảo rằng mười ngón tay thon dài, chìa hỉa kia của cô, chính là những sợi cánh của lông chim biến thể theo quy luật thích ứng.

**

Có thể cô Mơ Bay điên. Nhưng điên thì đã sao. Bấy nay điên cả trái đất. Điên từ ngón tay bóp cò tới đường đi điên của hòn bom trái đạn. Núi rừng điên, suối nguồn điên, thì đã sao. Điên thập loại chúng sinh. Nghệ sĩ hà, cũng điên lung. Trong mênh mông một cõi người sống đó, thở đó; sớm tối đi về cánh cửa mở khép, chẳng ai hiểu/thấy thiên đàng ra sao. Chỉ lúc ngoẻo củ tỏi trong hòm gỗ, ta mới nghe loang thoáng bên ngoài, chỗ nhang khói lời cầu chúc “Được đến thiên đàng” của bọn người thương tiếc.

Người ta đã có thể đưa Mơ Bay vào nhà thương điên, như xưa kia Mai-a đã từng vào. Có những nhà thương điên dành cho những con người cực tài năng, tuyệt minh mẫn.

Có những cánh cửa sắt thay vì nhốt những con vật, lại mở toang ra nhốt con người.

II

Mơ Bay, một ngày, nhất định hiện thực hóa giấc mơ của mình.

Cô ngồi trong quán nước, sông trôi ngoài kia, bên kia bờ xa hãy còn hàng cây xanh, những mái nhà lấp lánh nắng. Những ghe đò, thuyền máy từ nhánh sông này ra cửa biển bồng bềnh vì cơn gió lớn lúc thủy triều đang lên.

Có một con nước lên trong hồn Mơ Bay.

Có một dòng thác trắng cô thấy khi nhìn dòng người bâng khuâng trên con đường cuối năm, tàn mùa.

Giọng nói cô ấm áp. Đôi mắt cô biết cười. Nhưng màu tóc đen u ẩn của cô chừng như lạnh lạnh. Trong tôi, cô như lưu tồn cơn ma đêm của hư hoang. Sao hôm nay Mơ Bay có cái cách của một bà Bóng. Sẽ tan hồn trong tiếng nhạc cà giựt một khí hậu nhang khói, chỗ lên đồng. Khí hậu của giao hợp âm dương. Nửa khơi dục của thân hình nữ uốn éo, chìa mông lắc ngực, một nửa kia âm u thần bí từ ngôn ngữ kinh tụng.

Thủy triều lên, một Bà Bóng trong tôi.

Mơ Bay nói. Mơ Bay tâm sự. Tiếng cô nói hình như không đi từ miệng cô tới lỗ tai người nghe trước mặt. Nó lang thang, vòng vo. Như ai nói ở xa kia trong trà trộn đủ thứ tạp âm đời, quanh đây.

Tâm sự của cô, như âm vang đi tới từ cái ghế đá, hốc cây, từ viên gạch lót đường. Như đất đai đau, đành cất tiếng. Đôi mắt Mơ Bay là khá hoang mị. Chừng như cả tinh lực kia đang chìm trong cái ý tưởng rất hư hoang mà cô diễn bày:

“ Em là thiên thần sờ nắm được giấc mơ. Phải dựng mộng dậy. Gắn xương cốt cho mộng. Mỗi cơn mộng phải là một Có Thực. Như cây trên đồi. Như vật thể hiện ra quanh đây. Mộng phải thấm được nước. Bốc cháy khi gặp lửa. Ta nói thì mộng phải biết nghe. Ta thổ lộ niềm mong ước, mộng phải OK. Anh ạ, ‘Nó,’ cái vô hình hiện ra đó. Giấc mơ, ‘Nó’ đang bước tới. ‘Nó’ chào và bắt tay em.”

Tôi nói:

“Bắt tay được với một Cái-Trống-Rỗng, thì phải đáng rùng mình.”

Mơ cười:

“ Chính giấc mơ nó sử dụng em. Cũng như anh, anh nhà văn ạ, anh bị huyền hư sử dụng. Rồi anh sẽ vẽ lại giấc mơ của em qua những giọt màu có thật.”

Một ngày cận Tết, những mầm hoa đang ủ hương trong búp. Chờ vỡ òa trong nắng đầu xuân. Mơ Bay nói: “Khi những nụ mai tàn, em bay.”

Sao là tàn một mùa nở rộ, em mới bay?

**

Có một người đàn ông bước chậm rãi lên thang lầu. Bước vào phòng ngủ. Đã quen cái cách của Mơ Bay, ông không bật đèn. Qua ánh sáng đèn đường rọi vào ông thấy một sự bày biện khá lạ lùng. Mền gối chăn mùng giày dép, áo quần đồ trang điểm của Mơ Bay được thu gom vào cái bao tải bự. Ngoài, có hàng chữ: “Đồ ve chai.”

Có một là thư dằn trên mặt bàn:

“Anh ạ, em Ra-Khỏi rồi. Hồn ra khỏi. Xác em là ve chai trong bao tải.

“ Hồi đầu em trèo lên ngọn cây sọ khỉ, nhưng cành lá nhiều quá không cất cánh được. Em lên nóc một cao ốc, nhìn thành phố bên dưới như một bãi tha ma trắng, những nhà cao tầng là những ngôi mộ lớn, em lại thôi, cất cách nơi này chẳng thơ mộng chút nào.

“Em lên cao nguyên. Bên vực thẳm giữa hai hẻm núi, em bay. Anh yên chí, em không hề rơi xuống vực sâu. Chính đôi mắt ta nhìn hẻm núi thăm thẳm bên dưới. Sợ hãi kia, thay vì đầu hàng rơi xuống, sẽ giúp em mạnh mẽ bay lên cao.

“Anh sẽ thấy trong trời mùa Xuân này một con chim lạ. Em đấy. Khi một con chim biến ra một con người là số phận không may. Con người biến được thành con chim mới là hạnh phúc, là ân sủng của Tự do.

Hôn anh.

Em của anh

Mơ Bay”

III

Giấc mơ bị bể sọ não.

Một cái vô hình bị thương tích.

Một cái vô hình đang được chỉnh sửa.

Rất mong manh hồi sinh.

Có tiếng máy lạnh ro ro chỗ phòng hậu phẫu. Toàn thân Mơ phủ chăn trắng. Một cái đầu, qua hai vai, được băng bó kỹ lưỡng, chừa ra hai con mắt nhắm. Hai lỗ mũi được chụp một cái gì đấy gọi là cho thở ô-xy. Vùng miệng được chặn một cái gì đấy gọi là để thương-tật-nhân khi động kinh không tự cắn đứt lưỡi. Một cái bình nước gì trong vắt treo tòn teng gọi rằng truyền nước biển.

Hình như có gãy cần cổ.

Bà mẹ ngồi cạnh giường. Buồn bã than thở khi có một người, mà bà biết có liên hệ tới những điều không tưởng của con gái mình, tới thăm. Bà nói:

“Nhà văn ơi, mong ông tha cho con nhỏ nhà tôi. Nó mơ hoang, mà gặp ông, nhà sáng tác, thì gia đình này rặt màu bị gậy. Hãy cho chúng tôi xa cách với văn chương. Hãy trả Mơ Bay về với cái thực tế dù thô bạo, đắng cay và buồn phiền này.”

Nhà văn ngồi im lặng. Ông bâng khuâng nhìn vào cái có tứ chi màu trắng, tuồng như là cái thi hài.

Thi hài miệng ngậm một cơn mơ không thành.

Một cơn Mơ trắng.

Trong khí hậu ông đang ngồi hít thở đủ kiểu cho bớt ngột ngạt, trong xã hội nhạt màu ông đang sống, mới hôm qua, cái thi hài trắng này tràn đầy hy vọng thoát ly. Mơ rằng được cất tiếng hát nơi xa kia, được viễn mộng bắt tay, OK ôm vào lòng. Mơ kia, là hiện thân của thiên thần, là cô đọng của khí thiêng, giờ đây đang hấp hối.

Hồn Mơ hòa trong hơi ê-te. Xác Mơ dưới lưỡi dao mổ phạch cái não cái tủy để soi ngắm dưới ánh đèn cấp cứu.

“Anh có thấy đường bay của con hạc vàng kia không? Anh ạ, em sẽ bay thanh thoát. Em nhẹ lướt như mây. Em sẽ tường thuật anh hay khi em nhìn về trái đất dưới kia nhỏ nhoi như một hòn bi xanh [xao]. Khi anh không còn bắt được đường truyền tín hiệu của em thì anh nên mừng là em đã thoát ra được ngoài vùng ‘phủ sóng’ của cái xã-hội-mang-nhãn-hiệu-người.”

**

Cha cô Mơ ngồi xa hơn. Mái đầu bạc. Đôi mắt sâu, u uẩn. Có thể cô Mơ là cái thừa kế của một cuộc đời ẩn mật này.

Người cha nhìn nhà văn. Nhìn con người đang trôi hoang giữa hai bờ, bên này Mơ, bên kia là Mơ Bay, người cha nói:

“ Anh là nhà văn. Anh có thể vẽ ra thần linh, điều động ma quỷ. Một tay viết tài tình, đa mộng tưởng của anh, như anh, mà ra. Lần này, mong anh chỉnh lại nhân vật của anh đi, trong đó có con gái tôi. Anh có thể dùng những giọt mực huyền ảo, vẽ lại được những giấc mơ của mình một cách khác kia mà. Đâu cần có Mơ Bay nhà chúng tôi anh mới thực hiện được cuộc đào thoát của anh ra khỏi cái vực thẳm siêu hình này. Tôi không phê phán rằng anh đúng sai, tốt xấu, chỉ mong cái phúc huệ của nhà tôi.”

Nhà văn từ tốn:

“Đa tạ. Tôi sẽ sửa lại bản thảo. Nhưng nhặt Mơ ra khỏi trang chữ thì tôi còn gì để viết. Bóng tối chính là nền. Âm bản là phản chiếu kỳ ẩn. Đôi khi mồ-hôi-nước-mắt-luống-cày-tiếng-chim-núi-non-suối-nguồn, chúng từ trang viết biến ảo đi ra. Cõi đời, cuộc sống có thật đã biến hình thay dạng qua ngọn bút. Tôi chỉ là phần hồn của Mơ. Đúng ra Mơ là ngọn đèn, tôi ánh sáng. Đèn tắt, chẳng còn tôi.”

Cha cô Mơ tâm sự:

“Nhà văn có thể nhặt ánh sáng từ vô cùng chỗ tối tăm kia mà. Văn chương nghệ thuật hóa biến thực hư cả rồi. Con gái tôi bây giờ không là con của chúng tôi nữa. Anh ạ, nó là nhân vật của anh. Nó là ảo khi chúng tôi đã từng nuôi nó bằng sữa tươi, tình thương và hy vọng.

“Xưa kia, trước khi Mơ ra đời, tôi trói thân trong thân phận một người tù trong sâu núi rừng. Ngày trở về, cũng như anh, thay vì ra đi, chúng ta một lòng ở lại xứ sở này. Chúng ta hiểu ra thử thách, yêu quê hương nên không đi tìm thiên đường bất cứ nơi đâu.

“Chúng ta chấp nhận một cuộc sống trong thân phận đã định, vì yêu cánh đồng, mái tranh, nội cỏ này. Yêu cả cái linh hồn đã không bỏ ta đi, chúng hãy còn sớm tối trong nhau.

“Vợ tôi mang thai những ngày hoang mang. Mơ ra đời, được ông bà ngoại nuôi dưỡng. Một đứa trẻ ngày ngày chạm mặt với những Nỗi-Già, tóc trắng của ngoại. Ngày ngày, với Mơ, xã hội càng lạ lẫm. Cái bất hạnh của Mơ Bay là quá thông minh, giàu mộng tưởng, và dị ứng với sự trì độn chính mình. Sự đáng kính của tuổi trẻ hôm nay là chống lại sự đồng lõa, đồng hóa.”

**

Bà mẹ khui một chai nước suối đặt trước mặt nhà văn. Ông ta đã từng bao phen chết hụt vì những tai nạn đỏ màu. Như con mèo bị tưới nước sôi, sợ cả nước lạnh. Bây giờ ông ớn cả màu trắng, ngay cả màu nước suối.

Màu trắng là nơi chứa chấp, ẩn mình của vạn màu sắc. Là nơi để sắc màu trá hình. Cũng là nơi chốn lưu đày, để sắc màu tự hủy.

Nhà văn tự nhủ.

“Giả dụ dùng một phương tiện chiết lọc tốc độ ánh sáng để chúng, những sắc màu ẩn mình trong màu trắng trở về sơ nguyên, thì giấc Mơ trắng của Mơ Bay sẽ là màu gì? Mơ Bay không thể trả lời. Nhưng thể thái ấy chắc sẽ hiện ra bảy màu cầu vồng.

“Trong những chiều mưa xưa, nắng quái đã lọc màn mưa, hóa ra cái mống cầu vồng nơi chân trời. Thưở nhỏ, tôi hay chạy về phía ấy, phía cái hào quang sắc màu trong màn mưa thưa. Thấy bảy sắc cầu vồng rất gần, thật gần, mà chạy mãi chẳng bao giờ bắt gặp. Càng chạy tìm, cái mống, nhịp cầu huyền ảo kia càng lùi xa mãi…

“Đó chính là cái khoảng cách cố định để ánh sáng đủ thời-không lọc màu đưa vào đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta không đủ thần thông thu ngắn khoảng cách để bắt được cầu vồng. Với lịch sử, đó cũng là cái khoảng cách mang tính hố thẳm để xương máu người biết rõ sự thử thách, sự tồn vong. Trong cái khoảng cách định mệnh đó bao nhiêu đứa trẻ trốn tìm, bao nhiêu tuổi trẻ hóa thân.”

**

Nhà văn ngồi hơi cúi xuống. Ông hiểu đôi chân mình đang trên mặt đất. Nhưng não thùy đã lìa xa cái nơi cần cắm rễ sinh tồn.

Người cha nhìn Mơ, cái chừng-như-một-thi-hài-trắng, nói với nhà văn:

“Mộng tưởng của nhà văn đó. Bây giờ nó là cái hiện thực thương tích kia. Nghệ thuật vẽ ra những định mệnh, tạo ra bao ước vọng. Nhưng nghệ thuật cũng đánh lừa chúng ta.

“Giờ đây tôi đã rất phân vân. Chúng tôi nên thương Mơ xương thịt gia đình tôi hay nên yêu cô Mơ sáng tạo của nhà văn, một cô Mơ đẹp hơn cả những giấc mộng bình thường. Chúng tôi nên yêu quý Mơ tầm thường trong đời thực, hay nên trân trọng cô Mơ Bay giàu lý tưởng, yêu tự do, muốn ra khỏi Cõi tầm thường, như Mơ trong trang viết của anh.”

Nhà văn nói:

“Thưa ông, là mong manh bọt nước cả.”

Người cha thân mật hơn:

“Nhưng không có cái bao la sóng vỗ trong tâm linh anh làm sao có chút bọt bèo này. Nhà văn ạ, anh đã rất tài tình. Nhưng trong tài tình nó có cái hững hờ, cái ác.”

**

Có mây mù giăng ngoài xa khung cửa kính bệnh viện. Người cha lại hỏi:

“Anh viết văn bằng gì?”

Nhà văn cẩn trọng và trầm tĩnh. Vì câu hỏi, trong suy nghĩ của nhà văn, nó không gợi ra hình tượng của viết và mực, của máy đánh chữ, hay cái laptop. Không phải là viết, mà là tra vấn cái Viết Văn. Không là cái phương tiện hành động mà truy tìm cái uyên nguyên, cái ngẫu nghĩ tương phùng giữa Mộng và Thực. Nghĩ vậy, nên câu trả lời của ông sẽ có khi treo móc vào khoảng trống. Nhà văn nói:

“Bằng thế giới ảo.”

Người cha lại hỏi nhà văn:

“Vậy hôm nay là ngày mồng tám Tết, có bọn trẻ nhỏ áo mới đùa vui, có cơn mưa Xuân đổ ở xa xa kia ngoài khung cửa kia, có là ảo?”

Nhà văn có vẻ sầu mộng trả lời:

“Do nơi mỗi tâm thức. Con người ngoài nhục nhãn hãy còn tâm nhãn, tuệ nhãn. Có thể đó là cái có thực trong một Mặt Đất luôn Mùa Đông. Mặt Đất ấy không muốn chuyển mình.”

Người cha cười nhẹ, giọng ấm áp:

“Chúng tôi là những con người tầm thường giữa tục lụy, có một lằn mức nhất định khó thể vượt qua. Đó là độ hiểu biết, thẩm thấu tâm hồn cao vượt của những nghệ sĩ. Nhưng nhà văn ạ, băng bó, cứu chữa xong, tôi sẽ mang Mơ của tôi về bằng một chuyến xe có thật. Nó có thể bay bằng Đôi Cánh Ảo của nhà văn, nhưng nó sẽ trở về trong sự âu yếm chúng tôi bằng một đôi chân có thật.”

Nhà văn buồn bã đứng dậy đi về phía khung cửa kính soi nắng. Quả là có thật xa kia một cơn mưa bụi giữa lòng mùa Xuân.

Ông nhắm mắt và thấy Mơ Bay đang bay lơ lửng trong không. Trời vừa nắng vừa mưa trong mưa bụi. Mây liêu trai, và gió cỏ lau. Nàng bay, thơ mộng lãng đãng như giấc mơ nghệ thuật trong thế giới Chagall. Mái tóc nàng tung về sau như một làn khói đẩy nàng lên cao. Tự dưng ông cảm thấy một nỗi nhớ mơ hồ. Một đám khói của tâm linh nhắc nhở.

“Anh ạ, em có một đôi cánh vô hình, một lực siêu nhiên sẽ đưa em Ra Ngoài…” Ông hiểu: “Mơ của tôi vẫn còn Bay.”

Đồng Ông Cộ – 2009









Ngoại ô, Dĩ An và linh hồn tôi




Mùi của gió mùa




Rừng Đom Đóm




Dị Mộng









Tham khảo thêm về tác giả Cung Tích Biền




Cung Tích Biền



Vương Trùng Dương: Cung Tích Biền, giữa hai lằn đạn













Chuyện ở trong Xứ Động Vật




... “Ma túy có thể từ bỏ. Ung thư là kết thúc. Hiện tại đã ung từ não tư tưởng. Ung trong máu lưu thông. Bạch cầu nhiều hơn Hồng cầu. Chính Máu giết Máu. Cái phải thực sự Đỏ bây giờ nó trắng nỏn. Lợn cợn màu Bạch vệ. Cả hệ thống, tim gan phèo phổi ruột non ruột già nát nẩm. Cái này làm thối, chơi bẩn cái kia. Hết thuốc chữa cái tiền đồ này rồi”.

(trích truyện “Một phần khí hậu” - Cung Tích Biền)


Giới hạn bài viết:
Trong điểm nhìn của một người đọc, tôi đọc “bộ tứ” truyện ngắn “Xứ động vật – phần một” của Cung Tích Biền.


Ngoài việc làm chung với nhau một bài phỏng vấn trong hơn 3 năm, tôi còn có nhiều dịp tiếp xúc trực tiếp, đọc các tác phẩm, các bản thảo, rồi cả các bài viết, xem các hình ảnh... nhưng Cung Tích Biền với tôi vẫn là một trường hợp bí ẩn, và đặc biệt. Đặc biệt bởi nhiều lý do, khách quan nhiều hơn chủ quan, nhưng chính yếu trong những biểu hiện chủ quan (dù rất ít) vẫn là những câu chuyện còn “tiềm ẩn” bên trong những cách kể chuyện, những thông tin dường như chưa được “bạch hoá” hoàn toàn...

Với tôi, bí mật ấy – bí mật của một nhà văn thành danh trước 1975 tại Sài Gòn và một độc giả trưởng thành sau 1975 tại Việt Nam – như tôi, đôi khi là một định mệnh khá ngông cuồng, khá ngờ nghệch, và khá nực cười. Một cái cười đến chua cay, thô bỉ. Cái định mệnh ấy bắt đầu từ sự vô lý có tính cách lịch sử, khi chân lý thuộc về kẻ có khả năng tàn bạo hơn, nhiều máu, nhiều nước mắt và nhiều cơ bắp hơn. Khi mà bên này xưng tụng nền văn học “ưu tú” của mình với các tác giả “chống” Pháp chống Mỹ, kiểu sử thi tự hoạ và một sự tự ban phát phần thưởng cho mình với giá trị lớn lao, thái quá khi bi kịch đã đi vào khúc mãn hồi. Thì cũng chính hành động ấy được áp dụng cho bên kia, ấy là cảnh phần thư khanh nho; ấy là bắt bớ, tù đầy; ấy là thủ tiêu; ấy là xoá vết tích, xuyên tạc lịch sử; ấy là viễn cảnh vượt biên, hoặc tự thu mình lại.... Cho nên, khi một nhà văn chung đụng trong bối cảnh như vậy, chỉ có 3 cách ứng xử: đầu hàng, chạy trốn, hoặc nằm chờ. Cung Tích Biền thuộc diện thứ ba. Một kiểu nằm như “ngồi thiền” giữa 2 lằn đạn, một kiểu viết tiểu sử gây khá nhiều tranh cãi. Và cái tiểu sử ấy thế nào cũng bị hiểu lầm, bị xuyên tạc. Và đương nhiên, nó sẽ trở thành bí mật, thành những câu chuyện bị đặt điều, kiểu địa đạo muôn lối, mỗi người chui xuống một cửa, do lạc lối, rồi mỗi người đi đến mỗi nơi, nhìn sự thật khác nhau.

Với tôi, nếu có ai hỏi: đã đọc hết, tác phẩm, tư liệu và văn liệu của Cung Tích Biền chưa mà viết? Tôi sẽ trả lời ngay: chưa. Chưa, bởi tác giả này viết nhanh, viết nhiều, viết rộng và viết khá liên tục – lên đến hàng ngàn trang. Chưa, vì khả năng kiến văn của tôi còn hạn hẹp; vì kinh nghiệm văn chương và khả năng thẩm thấu, phân tích còn hạn chế. Chưa, vì thông tin và các nhận định về nhà văn này chưa nhiều, và có những quan điểm “khó chung sống” với nhau. Về sáng tác, chỉ tính trong khoảng thời gian từ 1965 đến 2005, dường như Cung Tích Biền chỉ “tạm ngưng nghỉ” trong khoảng 1975-1985, vì lúc ấy, sau sự kiện 30-4, cái cảm giác rã rời, chán chường và bị động đến “hơi lép vế” của “người cũ” với cơ chế “đánh phủ đầu” khá quỷ quyệt, khá tàn nhẫn của “chính quyền mới”. Nói như Milan Kundera (Tiệp Khắc): “... Cuộc sống con người bị rút cạn lại trong mỗi một chức năng xã hội của nó; lịch sử một dân tộc được rút cạn lại trong vài biến cố, những biến cố này đến lượt chúng lại bị rút cạn lại trong một lối giải thích thiên kiến...”[1] Trong sự “rút cạn” đó, Cung Tích Biền đành nằm chờ, đành co mình lại, đành im lặng một thời gian để khỏi phải ra đi; và đương nhiên, chấp nhận mọi sự hiểu lầm; chấp nhận sự chung đụng, “cộng tác”, “hoà hợp” và “hoà giải” như một quy luật tất yếu với chính quyền mới.[2] Cung Tích Biền là một sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, gia cảnh lại khá đặc biệt, cho nên, những ám ảnh, những hiểu lầm khi ông ở lại Việt Nam là chuyện khó tránh khỏi, dù có thể đấy là quyết định táo bạo, hay đơn giản chỉ là một chọn lựa khá riêng tư. Trong sự giằng xé đến dã man ấy, một thời gian dài, ở độ tuổi trung niên, tuổi “chín” của một nhà văn có tác phong “đường trường”, ông cũng như nhiều tên tuổi cùng thời (dù có thể sống ở những nơi chốn khác nhau) đã không còn được sống với phong độ nhà văn của chính mình. Và nhiều người đã quỵ ngã, đã an phận, đã tha hoá thật sự. Tuy nhiên, trong bài viết này, thiết nghĩ chúng ta đang nói về con người nhà văn, chứ không phải là một con người nào khác [ví dụ con người chính trị], vì thế, việc tác giả này viết thế nào mới là quan trọng, còn các bí mật nào đó thì cần giải quyết trong một điểm nhìn và một cách đặt vấn đề khác. Về chuyện viết lách, ngay sau giai đoạn rất khó khăn đó, Cung Tích Biền đã có mặt và đã xuất hiện trở lại, tính riêng truyện ngắn, ông đã công bố Qua sông (1991), Thằng bắt quỷ (1993), và giờ đây là “tân truyện” – gồm những bản tin liên truyện có tính chất trần thuật: Xứ động vật (2007-2008). Cũng trong thời gian này, ông cũng viết một vài tiểu thuyết, rồi truyện dài, tuỳ bút, và cả tạp văn...

Những bản tin liên truyện có tính chất trần thuật – theo cách gọi của riêng tôi – mà tinh thần và truyền thống của nó có thể được nhìn thấy qua các bậc thầy như F. M. Dostoyevsky với Bút kí dưới hầm; George Orwell với Trại súc vật; Aleksandr I. Solzhenitsyn với Tầng đầu địa ngục, Quần đảo ngục tù, hay Một ngày trong đời của Ivan Denisovich... Chính I. P. Ilin cho rằng:

... các nhà trần thuật học không vứt bỏ bản thân khái niệm ‘cấu trúc bề sâu’, mà theo họ, vốn là cơ sở của mọi tác phẩm nghệ thuật, nhưng họ chủ yếu nhấn mạnh vào quá trình thực hiện cấu trúc ấy trong ‘tương tác đối thoại’ tích cực của nhà văn và độc giả. Trên thực tế, ở giai đoạn hiện tại, trần thuật học có thể được xem như dạng hiện tại (và đã chuyển biến khá mạnh) của chủ nghĩa cấu trúc, bởi vì đại đa số các nhà nghiên cứu hướng theo chủ nghĩa cấu trúc luận những năm 70-80 đã biểu lộ rõ rệt xu thế chuyển sang lập trường trần thuật học.

Các luận điểm cơ bản của trần thuật học: 1) quan niệm văn học có bản chất giao tiếp; 2) quan niệm hành vi giao tiếp nghệ thuật như một quá trình diễn ra đồng thời trên một số cấp độ trần thuật; 3) ưu tiên chú ý đến vấn đề diễn ngôn; 4) luận chứng lý thuyết cho rất nhiều bậc trần thuật vốn có tại các cực khác nhau của quá trình giao tiếp nghệ thuật; những bậc trần thuật ấy hiện diện trong vai trò là các thành tố của chuỗi giao tiếp mà theo đó việc ‘truyền đạt’ thông tin nghệ thuật từ nhà văn đến độc giả thực hiện được.[3]

Trong Xứ động vật, có thể gọi Cung Tích Biền là một nhà trần thuật, với một quá trình thương thoả (discourse)[4] và diễn ngôn một cách lạnh lùng. Bởi ở đây, người đọc sẽ không khỏi băn khoăn khi chạy theo các phạm trù cơ bản của truyện ngắn xưa nay như người kể chuyện là ai, nhân vật có điển hình hay không, cốt truyện ấy ra sao, kết thúc thế nào... Sự băn khoăn này cũng sẽ đến với những ai đã từng “mê” cách viết của Cung Tích Biền trước đây, qua các truyện ngắn khá thành công và có tính cách chuẩn mực như “Bạch hoá”, “Dị mộng”, “Qua sông”, “Thằng bắt quỷ”, “Thừa dư”... Trong Xứ động vật, đặc biệt là bộ tứ truyện ở phần một, nơi tôi chọn làm đối tượng để đọc, người kể chuyện chỉ như một người làm phóng sự, thấy gì viết nấy và chỉ thêm những lời bình luận khúc chiết, nhân vật có thể là bất kì ai, miễn sao nó là một “người chứng” của bản tin; và hơn nữa, cốt truyện và kết thúc, mở-thắt nút, dường như không có. Nó như những bản tin nằm (chứ không phải là tin đứng, tin nóng) mà buổi sáng người ta có thể bắt gặp nhan nhản trên các nhật báo, nó đi qua tâm trí của người đọc một cách lặng lờ, nhưng thiết yếu. Bởi ở đây tính chất sốt dẻo không còn, nhưng tính chung quyết, tính hướng dẫn, tính “bạch hoá”... được chú trọng nhiều hơn. Nó như một trật tự biểu trưng, để qua đó, tác giả trần thuật, giới thuyết, cung cấp thông tin và nói về những dữ kiện mà bản thân quan tâm, đã tìm hiểu, muốn đưa ra, và muốn chia sẻ. Nó có tính chất chốt lại vấn đề, như là một kết luận.

Nếu nhìn trong một trật tự biểu trưng (symbolic order) như thế, thì những truyện ngắn này có thể được xem là một cuộc phô diễn trong một hệ thống, một cuộc chơi gần như hiển nhiên được sắp đặt trong một cấu trúc gần như được bày sẵn bởi các thiết chế xã hội, chuẩn mực ngôn ngữ - đạo đức, và cả quy cách tư duy về hình tượng đã tồn tại trước khi tác giả ra đời[5]... Và hơn nữa,
trong lịch sử truyền thống, sự tìm kiếm cho ra những nguồn gốc trong những chân lý lớn lao về đạo đức là hoàn toàn bị lạc lối; mọi thứ đều phục tùng cái nhìn soi rọi đang làm phân rã của lịch sử. Không có những cái tuyệt đối. [...]. Chúng ta tin rằng những cảm xúc là không thể biến đổi, nhưng mọi tình cảm, đặc biệt là tình cảm cao thượng nhất và vô tư nhất, đều có một lịch sử. Chúng ta tin rằng, trong bất kỳ sự kiện nào, cơ thể cũng tuân thủ theo những luật riêng biệt của sinh lý học, và chúng ta tin rằng nó thoát khỏi ảnh hưởng của lịch sử, nhưng điều này cũng sai nốt.[6]

Cung cách diễn ngôn của Xứ động vật là một cuộc va chạm [gần như] với tất cả những thiết chế được bày sẵn, với những trật tự biểu trưng đã được/bị áp đặt từ bên ngoài vào, thông thường là biến chuyển được nhận thức, và dẫn đến, tác động lên những hành động của nhận thức thông qua các biểu hiện của thân thể. Trong trường hợp này là cả quy tắc tư duy và đồ thị ngôn ngữ.
... Quan nhị phẩm triều đình biết mình đang tháo một ngòi nổ. Từ lâu chỗ công đường ông chưa nói đã có một bọn nô tì chuẩn bị tán dương anh Hai vô cùng sáng suốt. Nhưng trong căn nhà này ông thường trực chạm phải những chống đối của vợ con. Một đối kháng mang tính ác ôn, theo ông, của một bọn vô luân. Bọn vô luân chơi bài lật ngửa với bọn vô thần. Bây giờ trước mặt Liu, ông cần làm chậm ngòi nổ, để cuộc đối thoại khỏi bị hỏng bét như thường lệ. Thường lệ cuộc trò chuyện lẽ ra thân tình lại chỉ năm bảy phút là tiêu tan, bố nóng nảy mắng con nặng lời, hoặc con ngổ nghịch mắng lại rồi tự động bỏ đi. Ông bố dịu giọng:
- Ngồi đây Bố nói chuyện cái đã.
- Tôi muốn biết mẹ tôi đâu.
- Từ lâu bố không trách nhiệm sự có mặt vắng mặt của mẹ con.
Ông bố đằng hắng, cố tỏ ra không vì hối hận, ông nói tiếp:
- Nên gác chuyện đó lại. Bố muốn nói với con một việc này, đơn giản, không cần bàn luận nhiều. Hãy bình tĩnh. Bố đã lo cho con hồ sơ đi qua Úc du học.
Liu yên lặng một lúc, giọng trở nên buồn bã:
- Tôi còn não trạng nào mà học với hành.
- Không nên lặp lại những câu bố từng mắng chửi con như thế. Cay đắng lắm.”
(trích truyện “Hoá vàng cho Hồng Chuyên”)


Theo Michel Foucault (1926-1984), hệ nhận thức là một hệ thống diễn ngôn khả hữu mà “bằng cách nào đó” đã thống trị qua mỗi thời kỳ lịch sử. Ông tập trung chú ý vào cái “cách nào đó” này, để qua đó lý giải: làm thế nào mà mỗi hệ nhận thức định đoạt cái gì được coi là tri thức và chân lý, cái nào thì không.[7] Mà diễn ngôn (discourse), trong ý nghĩa rộng nhất, nó có nghĩa là bất cứ điều gì được viết hay được nói hay được trao đổi bằng cách dùng những ký hiệu, và đánh dấu một sự liên hệ khác đối với Chủ nghĩa Cấu trúc. Trọng tâm chủ đạo của nó là ngôn ngữ.[8]

Xứ động vật cố tránh sự liên hệ, và thoát ra tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa Cấu trúc, một chủ nghĩa dù với nhiều nơi là “lỗi thời”, nhưng với nhiều tác giả, nhiều quan điểm, nhiều trường phái đương đại, vẫn là rất thời thượng. Xứ động vật cũng cố tránh cuộc va chạm có không khí “kinh điển” trong văn học phản kháng, đó là sự mâu thuẫn giữa cá nhân với thể chế chuyên quyền, độc tài. Ở đây, nó hướng độc giả vào những rạn nứt [vốn quen thuộc, nhưng luôn thời sự tính] giữa người với người, gia đình với gia đình, xã hội với xã hội... Ở đây, là một vũng lầy chung, mà tất cả các nhân vật, tất cả các sự kiện được đặt chung với “tâm sự của người đọc”, và cả tác giả.
Khác với Bakhtin, các nhà lý thuyết Tây phương về căn bản chủ trương quan điểm cho rằng người nghe chuyện hoàn toàn bị ước định bởi người kể chuyện, bởi cách thức dẫn dắt sự kể của y, bởi kiến tạo từ chương của trần thuật, và không thể nào có được nó ở bên ngoài quan hệ ‘người kể - người nghe’, bởi vậy mức độ cá nhân hoá của người nghe chuyện bị tiên quyết bởi lực cá nhân hoá của người trần thuật.[9]

Tuy nhiên, có vẻ như Cung Tích Biền không đi theo hướng này, có khi ông là một người quan sát, có khi ông là một nhân vật ngu ngơ, có khi ông là tác giả biết tất cả, có khi ông biết có giới hạn.[10] Ông vừa tỏ ra là người “vô can”, lại vừa như là một người “bị nạn”. Không có một phong cách nhất thống, và không có một sự đặt để rõ ràng về bút pháp ở Xứ động vật. Nhiều khi nó chỉ là một vài khơi gợi, một chút giới thuyết nhằm manh nha ý đồ “chỉ điểm” người đọc, nhiều khi lại bất thành với ý đồ này, nhiều khi lại bỏ ngỏ. Nó là một sự “thả lỏng” hoàn toàn, nó để cho tác giả - tác phẩm và người đọc tương tác với nhau, và người đọc đặt để ở vị trí khá cao, họ có diễn ngôn của riêng mình. Cách thức này rất khác với phong cách viết truyện ngắn trước đây của ông, và nó gần hơn với tinh thần của chủ nghĩa Hậu hiện đại trong văn học đương thời, ngay cả ở văn học tiếng Việt.

Xứ động vật [tôi nhắc lại] là bản tin liên truyện, cốt mô tả diện mạo đời sống hiện tại, với tất cả những suy đồi, bầy hầy, rạn vỡ và vô chủ đích. Nó không hướng đến cái đẹp kinh viện, tính nhân văn, hay sự cao cả. Bởi “giới thuyết về cái đẹp như là ý tưởng hiện thân bằng từ thứ nhất [ý tưởng] loại trừ quan niệm cho rằng cái đẹp có thể thể hiện bất cứ nội dung gì và bằng từ thứ hai [hiện thân] sửa đổi cả quan niệm khác (còn phổ biến hơn); quan niệm này mặc dù đòi hỏi cho cái đẹp một nội dung lý tưởng, nhưng nhìn thấy ở nó không phải hiện thân thật sự, mà chỉ bóng dáng hay bóng ma của ý tưởng. Trong cách nhìn thứ hai này, cái đẹp với tư cách hiện thực tâm lý chủ quan, tức là cảm giác về cái đẹp, đã che khuất bản thân cái đẹp như một hình thức khách quan của sự vật trong giới tự nhiên.”[11]

J. F. Lyotard khi nói về các truyện kể dân gian thì cho rằng:

Chúng tôi [ta] sẽ xem xét hơi dài một chút đặc điểm thứ ba [sau khi đã thông qua hai đặc điểm lớn không liên quan trực tiếp đến vấn đề ở đây – LĐ] về việc truyền đạt các truyện kể. Lối tự sự của chúng thường hay tuân thủ các quy tắc về quy định ‘dụng học’ (la pragmatique) của chúng. Điều này không có nghĩa rằng về mặt thiết chế, một xã hội nào đó ấn định vai kể chuyện theo phạm trù tuổi tác, phái tính, nhóm gia đình hay nghề nghiệp. [...]. Điều quan trọng quyết định trong việc ghi nhận về mặt dụng học của phương cách kể chuyện này là ở chỗ chúng chỉ ra sự đồng nhất về nguyên tắc của tất cả các hoàn cảnh của truyện kể. Nó có thể hoàn toàn không phải như thế trong nhiều trường hợp...[12]

Hay nói khác hơn:

... Không một hình thức nào cung cấp được cho tác giả ở thế kỷ 20 câu trả lời cho các vấn đề về cấu trúc. Từ vai trò là một thành phần cấu trúc chủ yếu, những hành động ngoạn mục và ly kỳ đã bị đồng loạt từ bỏ vào giữa thế kỷ khi phim ảnh và truyền hình có thể trình bày những chuyện đó sinh động hơn nhiều. Khi các tạp chí chuyên cung cấp những bài báo giải trí cho độc giả đại chúng dần dần bị suy tàn, truyện ngắn trở nên hình thức được ưu ái của một khối độc giả nhỏ hơn nhưng đòi hỏi cao hơn về mặt trí tuệ. Borges ở Argentina chẳng hạn, thu hút được nhiều nhà văn trên thế giới đi theo mình với tập Ficciones (“Những truyện hư cấu”), gồm những truyện đưa độc giả vào những công trình rối rắm của học thuật và tưởng tượng, không hề giống bất cứ thứ gì họ đã gặp ở thể loại này. Tương tự, tác phẩm của nhà văn Mỹ Donald Barthelme gồm những mẩu rời rạc đủ loại của các thứ như quảng cáo trên truyền hình, diễn văn chính trị, ẩn dụ văn học, những mẩu đối thoại nghe lỏm, những biểu tượng đồ họa, lời thoại từ phim ảnh Hollywood – tất cả được trộn lẫn vào với văn xuôi riêng của ông theo một cách không dễ gì hiểu ra mà vẫn buộc độc giả phải tập trung chú ý. Bản thân truyện ngắn vẫn gắn với ngôn ngữ cường điệu của phong trào sinh viên phản kháng trong thập niên 1960 và cũng có mặt trong nhiều loại hình truyền thông phức hợp trong nền báo chí ‘ngầm’ đã truyền bá lối sống này đi khắp thế giới. Nhà văn trong thế kỷ 20, với sự quan tâm sâu sắc đối với một vấn đề cốt tủy như thế về hình thức, đã vô tình khẳng định sự trưởng thành và tính phổ biến của thể loại này; chỉ có một thể loại vững chãi, được đánh giá cao (chưa kể tính uyển chuyển) mới có thể đứng vững, và hơn nữa, khuyến khích một sự thử nghiệm như thế.[13]

Một đoạn khác trong Xứ động vật – phần 1:

... Cụ Gàn nói chung, đẹp; uyên bác một học giả; phong thái ung dung một đạo gia. Nhưng thỉnh thoảng cụ cũng va vào đời thường trong những chuyện vặt vãnh. Cụ tận tụy kiểu con tằm. Cụ dập mỏ vì cái nghịch lý chết người này. [...]. Cụ đạt tới chỗ vi diệu của Đạo nhưng rất ngây thơ với những trò ma giáo sơ đẳng. Từ nhiều năm trước cụ bị lừa mất cả một căn nhà. Cụ thông rõ lẽ thiên địa vô tướng hình của Dịch, đọc cả ruột gan âm dương, nhưng cụ chẳng hiểu gì văn hóa của hôm nay, trong cái nhà tiêu chẳng hạn.
Một hôm ở một quán nhậu, tình cờ đứng trong toa lét cụ thấy y như rằng một chục thằng trai trẻ chẳng có đứa nào vạch cu ra đái xong mà chịu rửa tay, khi la-va-bô sẵn một bên. Ấy thế, bàn tay bẩn, chúng cứ xé một miếng khô mực hay bốc một lát chả lụa, nồng nàn cùng mình, dí vào mồm con bồ cao cẳng. Ngứa cái não, cụ nhẹ nhàng bảo một thằng trai trẻ:
- Này, xin lỗi, tiểu xong thì nên rửa tay đi cháu.
Cụ bị phản đòn ngay:
- Con cặc là chỗ ngon cơm nhất sao lại phải rửa? Đáng lẽ phải rửa tay rồi mới kính cẩn cầm thằng nhỏ mà tè chớ.
(trích truyện “Mùi của gió mùa”)


Xứ động vật không hẳn có đầy đủ những đặc điểm như Arlen J. Hansen đã nói ở trên, nhưng nó cũng là một kiểu trần thuật khá riêng biệt, nếu so với các tác giả viết truyện ngắn ở Việt Nam hiện nay. Như cách phân tích của William Stafford:
Một người viết không hẳn là người có điều gì đó để nói, mà đúng ra là người đã tìm thấy một tiến trình sẽ mang lại những cái mới chắc hẳn hắn sẽ không nghĩ tới nếu hắn không bắt đầu nói ra. [...]. Quan điểm tiến-trình-thay-vì-thực-thể này về việc viết dẫn tới một suy tưởng đôi cuối cùng: 1) Người viết có thể không đặc biệt hay có tài theo bất kỳ ý nghĩa thông thường nào. Họ chỉ tham dự vào việc sử dụng liên tục một kỹ năng ngôn ngữ mà chúng ta đều có. Những ‘tác phẩm’ của họ xảy ra qua sự trông cậy đầy tự tin vào những cảm hứng mà, với lòng tin, sẽ tìm thấy những mô thức bất ngờ làm thoả mãn. 2) Nhưng viết tự nó là một trong những hoạt động tự do, lớn lao của con người. Có chiều kích cho cá tính, cho niềm vui tràn ngập, và cho sự khám phá, trong việc viết. Ðối với người nào, với lòng tin và sự tha thứ, theo đuổi những gì hiện ra cho hắn, thì thế giới vẫn luôn sẵn sàng và sâu thẳm, một môi trường vô tận, với tính sống động của một thực tại và tính linh hoạt của một giấc mơ gộp lại. Làm việc tới lui giữa kinh nghiệm và tư duy, người viết có nhiều hơn những gì không gian và thời gian có thể cung cấp. Họ có nguyên một vương quốc chưa thăm dò của tầm nhìn con người.[14]

Trong “Một phần khí hậu” của Cung Tích Biền:
... Sau khi quậy discothèque ở Blue Star bọn Nó đến Golden Eye đã một giờ sáng. Nơi đây cuộc vui thâu đêm. Là con các đại gia - mà người đời quen miệng gọi là đại gia súc - bọn Nó quen biết nhau cả. Biết cả tin tức bố thằng này mới bị còng, bố đứa kia báo chí vừa rao tên. Nhưng đó là việc của bọn Họ. Cuộc chơi là tiến trình nhân văn không thể đảo ngược. Trước đấy vài chục năm có một em nữ sinh 17 tuổi uống độc dược từ tử vì bố mình mang tội tham nhũng, bao che cho tội đồ. Em giữ trong sạch, không chịu được mối nhục trong gia đình. Bây giờ có khác. Bọn trẻ quá quen với phiêu lưu của cha mẹ. Có đứa hãnh diện vì báo chí rao tên bố mình tham nhũng tiền tỉ, cho gái đĩ một căn nhà hằng trăm cây vàng, xài trên chiếu bạc mỗi đêm hằng trăm nghìn đô-la. ‘Bố tao có ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ mới tham nhũng được cỡ đó, chớ khố rách áo ôm phó thường dân như bố chúng mày thì lấy cái đéo gì mà tham nhũng’.
[...]
Đến Vũng Tàu, chín đứa thuê phòng, bốn cặp nam nữ ở chung, làm tình thay đổi, không đứa nào bồ bịch riêng đứa nào. Xã hội hoá cu - dái - hĩm toàn triệt. Riêng Xíu Mại, ngồi đơn lẻ mỗi mình. Không thằng nào động tới nó. Xíu Mại xanh mướt như tàu lá, hít thuốc, uống whisky tối ngày, nó khóc rấm rứt. Nó hoang tưởng kiếp trước là một nữ tướng anh hùng, kiếp này không ai biết đến tên. Nó rất sợ vô danh, lạnh lẽo và muốn bạn bè luôn gọi tên. Có nhiều lần bất tĩnh, gọi tên, nó mở mắt thoi thóp.
Xíu Mại rất thông minh, nhạy cảm, nhưng nó lăn xuống đồi đoạ lạc khá mau chóng. Xíu Mại con nhà Hồng Chuyên. Mười tám tuổi, phá thai bốn lần, bây giờ nó oải, rất sợ làm tình. Nó bảo nó sợ - đực. Đến nỗi nghe trong gió ngàn cái mùi một thằng tắm truồng bãi biển, nó cũng sợ thụ thai. Hồi mười bốn tuổi Xíu Mại bỏ nhà đi bụi, ngủ hoang nghĩa địa tám ngày. Ám ảnh vô danh, nó nghe ngóng dư luận trong đám người chết queo dưới mộ, khùng mơ hỏi xương khô có từng biết tiếng tăm nó không.
(trích truyện “Một phần khí hậu”)


Nói về Cung Tích Biền, “có người cho rằng anh đã cực đoan trong cách viết và bi kịch hóa quá mức những vấn đề xã hội. Có người nghĩ rằng anh đã tự tra vấn chính mình bằng những bi kịch quốc gia đậm tính thời sự, tính chính trị và đẩy tác phẩm lên tầm vóc thế giới bằng cách vận dụng ngôn ngữ điêu luyện.”[15] Nói như tác giả Trần Đạo [bút danh của nhà văn, dịch giả Phan Huy Đường] khi viết về một tập truyện ngắn khác:
Điều nổi bật trong văn Cung Tích Biền là tiết kiệm ngôn ngữ. Ít có nhà văn Việt Nam nào bần tiện như ông. Đọc cả một quyển sách, không thấy có mấy câu thừa chữ. Cung Tích Biền biết giá trị của ngôn ngữ. Vì ông có điều đáng nói với đời, ít nhất đời người Việt. Điều đáng nói ấy là ngọn lửa soi sáng, nung đúc văn ông trong suốt ba mươi năm. Chính vì nó đáng nói, chính vì ông lấy đời mình nung đúc nó suốt ba mươi năm qua mà lời nói ấy biến thành văn, mà tình cảm đó biến thành nghệ thuật.[16]

Theo cách đọc của riêng tôi, tác giả trong Xứ động vật không phải là một cây bút muốn và tìm cách “vận dụng ngôn ngữ điêu luyện”, nhưng đúng là kiệm lời. Ở đây là những mảng đời thô ráp, được kể với ngôn ngữ khá trần tụi, và được nhìn với con mắt cực kì lạnh lùng. Với những độc giả quen với truyện ngắn trữ tình kiểu “truyền thống” thì có thể cho rằng tác giả là kiểu người vô trách nhiệm, đẩy hết nguyên nhân và hướng giải quyết ra bên ngoài, để mình vô can. Tuy nhiên, đó là một luận điểm phi lý, vì văn học không phải là một hợp đồng nguyên tắc – trách nhiệm rõ ràng, mà nó chỉ là một cách giả định, một cách đặt vấn đề và tìm cách giải quyết vấn đề. Điều vô trách nhiệm gần như duy nhất của một nhà văn là khi nhà văn đó không viết bất kì một điều gì. Còn khi đã có tác phẩm, đã có con chữ thì ở đó chính là trách nhiệm, là vấn đề của nhà văn. Còn giải quyết trách nhiệm hay vấn đề nó như thế nào thì là một chuyện khác. Y như trong đoạn cuối của “Mùi của gió mùa”, ông giải quyết vấn đề rất có “vấn đề”, nhưng ý vị.
... Cái lạ, trên bàn thờ thay vì thờ tấm chân dung cụ Gàn, con cháu lại thờ một cục gạch thấm máu. Nó như một bức tượng. Thần tượng này bị bể một miếng, chỗ ấy cục gạch từng tử chiến với cái sọ não của cụ .Tôi định hỏi cách tôn kính lạ lùng này nhưng lại chợt hiểu: ‘Con cháu nhà cụ Gàn thật tuyệt cú mèo. Trên mặt đất này, hôm nay, nếu thờ cái nạn nhân thì có mà hàng triệu triệu. Thờ quách cái tội lỗi, cái nguồn cội bao la gây ra tội. Đơn giản là thờ cái hệ thống’.
(trích truyện “Mùi của gió mùa”)


Một hệ thống thấm máu, và gần như không còn máu sạch để đổ. Cách giải quyết này ắt hẳn làm độc giả ngơ ngác, và bất ngờ.
Có hai loại độc giả: Loại thứ nhất gồm những người cả đời chỉ thích loại truyện giải trí, có thể họ đã tìm đọc loại truyện lý giải nhưng rồi đã từ bỏ nó. Loại thứ nhì là độc giả có kinh nghiệm hơn, họ không chê bỏ loại truyện giải trí, nhưng họ luôn muốn tìm đọc loại truyện lý giải vì chúng đem lại hiểu biết và kiến quan mới mẻ hơn. [...]. Loại truyện lý giải thường không thể đọc nhanh được. Nó đòi ta đọc đi đọc lại. Thậm chí một tiêu chuẩn cho truyện ngắn hay là ở chỗ nó buộc ta đọc nhiều lần mới thưởng thức được. Đọc xong một truyện ngắn lần đầu thì mới chỉ là bước khởi sự. Bạn cần suy nghĩ và đọc lại cho đến khi nhìn ra nhiều điều hơn là ‘diễn biến cốt truyện’, hiểu ra những ý nghĩa tế vi mà tác giả muốn trình bày, vì ở mỗi truyện ngắn, tác giả luôn muốn nói điều gì đó, nhận xét cái gì đó, và họ chọn thể loại truyện ngắn vì họ thấy nó thích hợp nhất cho việc diễn đạt những điều họ có trong đầu.[17]

Đọc đoạn này:
... Bảy mươi tuổi, hãy còn khoẻ mạnh, minh mẫn; từ bao năm, Cụ Gàn tiêu biểu cho niềm vui, lòng tận tụy với xã hội. Ngồi gần cụ, bên cốc cà phê, năm ba bè bạn, thì thật thú vị, vì sự dẫn dắt câu chuyện, lý giải các sự kiện lịch sử, văn chương triết học. Kiến thức sâu rộng, biết nhiều ngoại ngữ nên nguồn đọc của cụ không lệ thuộc vào sách nhập nội thông qua dịch thuật. Cách nói ngắn gọn, hàm súc, nhiều ẩn dụ, đậm chất hài hước. Giọng hiền hòa, hấp dẫn; không dạy đời, không cường điệu, tôn trọng sự thật. Cụ là nguồn tư liệu cho các ký giả trẻ muốn tìm hiểu sinh hoạt của Sài Gòn cũ, từ chuyện chính trường đến chỗ ăn chơi, nhà hàng vũ trường. Cụ là cố vấn đặc trị thiếu hụt kiến thức nhiều mặt, cho quý vị thạc sĩ tiến sĩ có ngọn mà thiếu cái gốc, đang giảng dạy ở một số Đại học nội địa.
(trích truyện “Mùi của gió mùa”)


Hẳn nhiên độc giả có quyền liên tưởng đến chính con người tác giả. Và khi đã có nhiều thông tin hơn, tự nhiên thấy nó có nhiều điểm tương khớp với con người thật của tác giả. Cho nên, một lần nữa có thể khẳng định: tác giả rất khó là người vô can, hay vô trách nhiệm với tác phẩm của chính mình.

Còn nếu phê bình Xứ động vật quá chính trị, dẫn đến quá khô khan, và khó đọc, thì cũng có lý. Orhan Pamuk (người Thổ Nhĩ Kỳ, Nobel Văn chương 2006) trong cuộc trò chuyện với Carol Becker, Khoa trưởng Khoa Nghệ thuật của Đại học Columbia (22-9-2007), khi được hỏi về tiểu thuyết, về văn chương chính trị, ông cho biết:
Tôi không nghĩ tiểu thuyết chính trị là thể loại lớn có thể đẻ ra những kiệt tác. Nó là thể loại hơi bị giới hạn tuy nhiều tác giả lớn, như Dostoyevsky hay Pasternak, đã viết được những tác phẩm xuất sắc cho thể loại này. Khi một nhà văn có những chương trình chính trị thành tâm tại một đất nước có tình hình chính trị bất ổn và căng thẳng, họ thường có xu hướng đưa những vấn đề đó vào nội tâm và muốn diễn đạt chúng ở một tầm mức chính trị. Nhưng một khi gắn bó với những vấn đề đó, họ không còn là nhà văn giỏi nữa, vì họ đã chọn đi theo một phe. Họ không thể hoá thân vào mọi nhân vật. Họ thường phân biệt rạch ròi kẻ tốt người xấu, kẻ trắng người đen, vân vân. Khi ta gắn bó về mặt đạo lý với một quan điểm chính trị, thì ta khó mà, hay hầu như không thể, viết được thứ tiểu thuyết hay, đầy sức thuyết phục về mỹ học. Tuy rằng vẫn có một vài nhà văn vẫn làm được điều đó.[18]

Tuy nói vậy, Orhan Pamuk cũng khá băn khoăn, khá giằng co trong vấn đề tách bạch xem mình có đứng ngoài chính trị được hay không, khi rất nhiều những phát biểu và tác phẩm (ví dụ như tiểu thuyết Kar [Tuyết], 2002; bản tiếng Việt của dịch giả Lê Quang, Nhã Nam và Nxb Văn Học, 2008) của ông liên tục đặt ông vào “tầm truy nã”, thậm chí ám sát [như đầu tháng 2 vừa rồi] của những nhóm người Thổ Nhĩ Kỳ theo Hồi giáo cực đoan. Ông là nhà văn lưu vong trên chính quê hương của mình.

Cung Tích Biền sống tại Việt Nam, một Việt Nam như nhà thơ Wislawa Szymborska (Ba Lan, Nobel 1996) viết trong bài thơ cùng tên vào năm 1967 [theo bản tiếng Anh]:
VIETNAM
(1967)

"Woman, what's your name?" "I don't know."
"How old are you? Where are you from?" "I don't know."
"Why did you dig that burrow?" "I don't know."
"How long have you been hiding?" "I don't know."
"Why did you bite my finger?" "I don't know."
"Don't you know that we won't hurt you?" "I don't know."
"Whose side are you on?" "I don't know."
"This is war, you've got to choose." "I don't know."
"Does your village still exist?" "I don't know."
"Are those your children?" "Yes."
(trích từ Wisława Szymborska, Poems, News and Collected: 1957-1997 [Orlando, FL: Harcourt Brace & Company, 1998], trang 90.)

Tôi tạm dịch:
Việt Nam
[1967]

"Mụ kia, tên gì?" "Không biết."
"Nhiêu tuổi? Ở đâu?" "Không Biết."
"Sao đào cái hầm kia?" "Không biết."
"Núp lâu chưa?" "Không biết."
"Sao lại cắn ngón tay tao?" "Không biết."
"Không biết bọn tao đâu muốn làm mày đau?" "Không biết."
"Mày theo phe nào?" "Không biết."
"Đang chiến tranh, mày phải chọn đi." "Không biết."
"Làng mày có còn không?" "Không biết."
"Mấy nhóc này là con mày hả?" "Phải".

Hay như chính trong “Bạch hóa” (1968), ở đoạn 3, gần cuối truyện, Cung Tích Biền cũng đã viết:
...
- Quê mày ở đâu ?
- Cách đây hơn mười cây số, trong quê.
- Biết đâu ngày mai vào đó, mày tha hồ thăm.
Người bạn của Đích bỗng ngậm ngùi:
- Mà ở đó còn gì để thăm.
- Mày biết quê tao à.
- Biết chứ. Quanh đây từ mười cây số trở lên đều là vùng oanh kích tự do, trừ mấy xóm nhà trên đường về Sài Gòn.
Như một cài màn vừa kéo ra, Đích chợt thấy phần hậu trường thăm thẳm bên trong:
- Đ.M. hèn chi tao gửi thơ năm sáu tháng trời không thấy ai trả lời. Không chừng...
Người bạn buông xuôi:
- Không chừng con mẹ gì. Nhà tao chết ráo hết rồi.
- Ở ngoài quê à ?
- Không, trong thành phố này. 122 ly.

Hay một đoạn đối thoại khác, cũng trong “Bạch hóa”, giữa một người lính Quốc gia và một em bé quê trong vùng lửa đạn như thế này:
...
Đích chận hỏi một đứa bé vừa ở dưới hầm ngơ ngác chui lên:
- Mày biết lão Liên ở xóm này không ?
- Không.
- Mày biết còn ai trong xóm đó không ?
- Không.
- Cha mẹ mày ở đâu ?
- Chết hết rồi, dưới hầm.
- Nhà mày đâu ?
- Trong kia.
Đích nheo mắt nhìn theo ngón tay trỏ của đứa bé: nơi cái xóm trống hoang đó mấy mảnh tường lổ đổ, mấy cây cau cháy và vài đám khói. Đích hỏi tiếp:
- Có tụi nó về đây không ?
- Không biết.
- Mày lấy gì để sinh sống ?
- Sống à, không có gì hết.
Đích ngậm ngùi, đi ra ngoài giàn bí hái một trái bí lẻ loi để luộc ăn với cơm buổi trưa. Đích móc trong túi năm chục bạc đưa cho đứa bé:
- Trả tiền trái bí cho em đây này.
- Không.
- Sao lại không, sao không lấy tiền.
- Lấy sợ các ông nói "tề điệp", các ông giết.
- Không, đây là lính Quốc gia, lấy tiền đi.
Thằng bé ngước lên:
- Các ông có giết tôi không ?
- Không.

Một sự tương thông đến kì lạ. Một người “trời” Đông, một người “trời” Tây – nhưng tiếng nói về nhau, và về chính mình sao nghe gần gũi, quạnh hiu và lạnh đến thế. Một không khí chung của thời đại, mà nơi ấy, sinh mệnh con người được đem ra “bày đặt” như là một cuộc chơi của máu và nước mắt – một cuộc chơi của lầm than.

Việt Nam sau cái năm ấy là Mậu Thân, khi Cung Tích Biền còn là một sĩ quan ngoài chiến trường. Và Việt Nam sau đó 40 năm (2008), khi Cung Tích Biền [cũng như nhiều công dân khác đang sống ở Việt Nam, trong những ngành nghề khác nhau] còn ở lại Sài Gòn cùng phần lớn tác phẩm vẫn bị cấm phổ biến; một lệnh cấm rất mù mờ, nhưng khá hữu hiệu. Việt Nam của những khẩu hiệu hô to như “hoà hợp”, “hoà giải”... Trong bối cảnh ấy, làm sao nhà văn chỉ có thể chăm chú vào chuyện tạo tác những mỹ từ của văn chương, chỉ lo tu bổ chuyện mỹ học – dù đó là một sứ mệnh gần như không thể tránh khỏi. Xứ động vật là hệ quả của một cuộc nằm chờ [đáng lý phải nhanh hơn, nhưng lại kéo dài] quá mòn mỏi, nên nó đậm mùi chính trị, bên cạnh ngôn ngữ văn chương đặc thù, cũng là chuyện [gần như] bình thường. Bởi theo tôi, văn học Việt Nam hiện nay chưa tới lúc (hoặc chưa phải lúc) để bàn chuyện Mới – Cũ, Hay – Dở, Tốt – Xấu, Đúng – Sai..., mà nên bàn tới chuyện Thật – Giả. Dù thật và giả chưa thể đủ làm nên một tác phẩm văn chương thực thụ, nhưng giai đoạn này là rất cần thiết, bởi đó là cơ sở gần như duy nhất để làm thước đo đi vào một xã hội, một nền văn học mà giả thật bất minh; và quan trọng hơn, theo sự cảm nhận chung, cái giả đang độc quyền về sức mạnh. Im lặng trước điều này cũng đồng nghĩa với đánh mất quyền công dân, cũng có nghĩa là vô trách nhiệm với nhân quần, thì còn nói đến văn chương để làm gì.

Xứ động vật [nhắc lại như một lời kết] là một bản tin liên truyện – và bản tin ấy liên quan đến câu chuyện của nhiều cuộc đời, với một không khí khá ngột ngạt – trong đó có cuộc đời của chính tác giả, dù trực ngôn, nhưng ẩn chứa nhiều suy tư, triết lý. Nó như một bản tự vấn gởi đến những ai đang “thụ hưởng” chung cái không khí “rất động vật” này. Còn những ai tự thấy mình vô can, thấy mình vô tâm, hay vô tính... thì xin tránh xa ra.

La Hán Phòng tháng 3-2008

--------------
In lần đầu trên tạp chí Da Màu [www.damau.org] ngày 27-3-2008, đây là bản có sửa chữa, và bổ sung khoảng 30KB nội dung.

_______________________

[1]Milan Kundera, Nghệ thuật tiểu thuyết, (nguyên tác tiếng Pháp), Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà Nẵng 1998, tr. 230.
[2]Xem thêm bài phỏng vấn Cung Tích Biền, “Đành lòng sống trong phòng Đợi của lịch sử”, do Lý Đợi thực hiện, in lần đầu tại tạp chí Talawas (www.talawas.org).
[3]I. P. Ilin và E. A. Tzurganova chủ biên, Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, (nguyên tác tiếng Nga), mục từ Trần thuật học do I. P. Ilin phụ trách, Lại Nguyên Ân dịch, Nxb ĐH Quốc gia, Hà Nội 2003, tr. 205-212.
[4]Về việc dịch discourse là “thương thoả. Đây có lẽ là cách dịch của những người đi theo lý thuyết của Michel Foucault. Foucault quan niệm discourse/ diễn ngôn là một dung môi cho quyền lực tạo ra chủ thể lập ngôn; ông này lý luận quyền lực và kiến thức có những gắn bó hỗ tương, và do đó mà quan hệ con người là một cuộc tranh đấu, thương lượng của quyền lực. Quyền lực lúc nào cũng xen vào, nó vừa tạo ra vừa giới hạn sự thực. Nghĩ tới chữ của Lessa, một postmodernist theorist, chuyên giải Foucault, "discursive struggles". Chúng ta có thể để "thương thoả" (discourse - theo hướng Michel Foucault) [chú thích của Da Màu]
[5]Xem thêm tại Chủ nghĩa Hậu hiện đại, Richard Appignanesi – Chris Garratt – Ziauddin Sardar – Patrick Curry, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb Trẻ 2006, tr. 92-93.
[6]Xem thêm tại Foucault, Lydia Alix Fillingham – Moshe Süsser, Nguyễn Tuệ Đan và Tôn Thất Huy dịch, Nxb Trẻ 2006, tr. 103-104.
[7]Xem thêm tại Chủ nghĩa Hậu hiện đại, Richard Appignanesi – Chris Garratt – Ziauddin Sardar – Patrick Curry, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb Trẻ 2006, tr. 82.
[8]Xem thêm tại Foucault, Lydia Alix Fillingham – Moshe Süsser, Nguyễn Tuệ Đan và Tôn Thất Huy dịch, Nxb Trẻ 2006, tr.100.
[9]I. P. Ilin và E. A. Tzurganova chủ biên, Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, (nguyên tác tiếng Nga), mục từ Người nghe chuyện do I. P. Ilin phụ trách, Lại Nguyên Ân dịch, Nxb ĐH Quốc gia, Hà Nội 2003, tr. 250-255.
[10]Truyện ngắn phân tích, Phạm Viêm Phương dịch và chú giải, Nxb Văn Nghệ, 2004. Tr. 7-8.
[11]Vladimir S. Soloviev, Siêu lý tình yêu, (nguyên tác tiếng Nga), Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch, giới thiệu và chú giải, Nxb VHTT và TT Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây 2005, tr. 694-695.
[12]Jean-François Lyotard, Hoàn cảnh Hậu hiện đại [La Condition postmoderne], Ngân Xuyên dịch, Nxb Tri Thức 2007, tr. 109 & 114.
[13]Nguyên tác Anh văn: mục từ “Short Story” do Arlen J. Hansen phụ trách, thuộc chương The Art of Literature, trong Encyclopaedia Britannica (ấn bản 1998, tập 23, tr. 138-143). Bản dịch của Phạm Viêm Phương với tiêu đề “Lược sử truyện ngắn”. Arlen J. Hansen (1936-1993) là nhà nghiên cứu văn học. Ông là tác giả của vô số tiểu luận trên các tạp chí văn học và được mời viết cho các từ điển bách khoa, trong đó có bộEncyclopaedia Britannica. Hansen là giáo sư văn chương Anh tại đại học Pacific (Stockton, California) cho đến khi qua đời. Hai tác phẩm cuối cùng của ông là Expatriate Paris: A Cultural and Literary Guide to Paris of the 1920s (NY: Arcade, 1990), và Gentlemen Volunteers: The Story of the American Ambulance Drivers in the Great War: August 1914-September 1918 (NY: Arcade, 1996 [sau khi ông mất]). Xem thêm tại tạp chí Talawas (www.talawas.org).
[14]Nguồn: “A Way of Writing” trong sách của William Stafford, Writing the Australian Crawl: Views on the Writer’s Vocation (Ann Arbor: The University of Michigan Press, 2005), trang 17. Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang với tên gọi “Một cách viết”. Xem thêm tại tạp chí Tiền Vệ (www.tienve.org)
[15]Xem thêm bài phỏng vấn Cung Tích Biền của Đặng Thơ Thơ, tại tạp chí Da Màu (www.damau.org).
[16]Đọc thêm tại bài viết của Trần Đạo: “Thằng bắt quỷ - Ba mươi năm nung một ngọn lửa”, tôi tham khảo qua tư liệu lưu trữ của Cung Tích Biền.
[17]Truyện ngắn phân tích, Phạm Viêm Phương dịch và chú giải, Nxb Văn Nghệ, 2004. Tr. 5-6. Xem thêm tại: 1) Glazier, Teresa Ferster (ed.), Short Stories for Insight, Harcourt, Brace & World, Inc., Newyork, 1967.; 2) Perrine, Laurence, Story and Structure, Harcourt, Brace & World, Inc., Newyork, 1970.; 3) Gerber, John C., Reading Modern Short Stories, Scott, Foresman & Company, New Jersey, 1955. 4) Spack, Ruth, The International Story, St. Martins, Newyork, 1992. 
[18]Dẫn theo Phạm Viêm Phương trong tham luận: “Pamuk: Nhà văn và công dân”, Tài liệu hội thảo “Orhan Pamuk, giữa Đông và Tây”, Sài Gòn ngày 11-3-2008.









Ông Dương, ông đã về trời
Cung Tích Biền


Cung Tích Biền và Dương Nghiễm Mậu trong dịp tưởng niệm nhà thơ Hoàng Trúc Ly ngày 23 tháng 12 năm 2013 
(ảnh Huỳnh Lê Nhật Tấn)







“Bác Dương thôi đã thôi rồi, 
Nước mây man mác bùi ngùi lòng ta”

(Nguyễn Khuyến tiễn Dương Khuê)

1.

Nhà văn Dương Nghiễm Mậu, một tài năng đáng quý, một nhân cách đáng trọng, đã Ra Đi.

Dù cẩn thận thế nào, dè xẻn chữ nghĩa ra sao, tôi hiểu, mình vẫn cứ phải nói, Ngoài trách nhiệm một nhà văn, Dương Nghiễm Mậu còn là một con người khôn khéo trong thuật “Xuất – Xử” giữa cuộc thế đầy những nghịch lý. Hành trình ấy là cuộc dài dặc đầy nan nguy mà thời cuộc đã luôn bày ra nhiều thử thách, chúng thật lòng khước từ sự chân thiện, chúng hết mình biến hóa Tà thành ra Chính; một sử lịch thiếu phân minh khi luôn mong muốn những ước mơ, hy vọng, nhân phẩm của mỗi con người phải bị toàn triệt bôi đen, tẩy xóa. Đến châu ngọc, cũng đành, dưới cái nhìn lem luốc, một thế cuộc đã vãng tuồng.

Sự nghiệp văn chương của Dương Nghiễm Mậu đã được minh định, và tồn tại tới hôm nay qua bao nhiêu thế hệ người đọc, tôi viết, muốn viết vể Chữ nghĩa của ông, lại khó thể viết ra trong một bài ngổn ngang những ngậm ngùi này. Đành viết những kỷ niệm chỗ lai rai tương phùng, giữa tôi và ông.

Những gặp gỡ, kỷ niệm, những sớm chiều bên chén trà cốc rượu cùng nhau, gẫm ra chỉ là những vụn vặt thường tình chỗ riêng tư, chẳng đáng kể ra, nhưng đêm qua, đêm Sàigòn, một cuộc mưa dư hưởng của cơn bão bùng từ phương Bắc dội về, ông đã từ biệt quá bất ngờ. Nhanh. Đau. Một cái đột quỵ. Một gục xuống. Và, mãi mãi…Nỗi bàng hoàng đã tức tốc hóa ánh chớp, bỗng sáng lòa trong tôi. Bao là kỷ niệm về nhau bừng dậy, như sinh thể đồng loại bước đi, như ai đó bất ngờ bật điện cho hàng đèn đường, một không gian từ lâu tối tăm. Phút ánh sáng mờ ảo, trải rộng những ướt át, rõ mặt từng lá rụng, vắng quá một đường mưa. Tôi đi ngược con đường ân sủng của kỷ niệm, cho một ít trí nhớ, viết từ trí nhớ. Chỉ là mơ màng những ngày cũ kín trùm, mờ trắng của màn sương, ngậm ngùi là con thằn lằn khuya nhìn nghiêng trên góc tường.

2.

Một chiều đầu tháng Bảy âm lịch của năm 2016, ra đầu con đường, đến thắp một nén nhang cho người vừa khất một tầm nhìn, đầu con đường Sàigòn, tôi ngó mông tìm một chiếc xích lô. Chẳng thấy đâu. Hình ảnh chiếc xích lô đã vắng bóng hơn vài thập niên qua, nhưng nhớ ông Mậu, tôi đi tìm, tôi chẳng thể quên hình bóng ấy. Xích lô đạp, luôn là vậy, trên con đường đầy những bóng mát, tà áo dài bay, lá me rụng của một Sàigòn xưa. Và, ông Mậu.

Sinh thời, trước 1975, Mậu chẳng bao giờ tự lái xe hai bánh, đó đây. Người ta bảo ông không biết đi honda. Tôi nghĩ, ông chống cái sự nổ, từ cơ khí. Mà chống cái “nổ” sao chẳng đi xe đạp. Chỉ biết ông luôn ngồi xích lô.

Một dáng người thanh nhã, lúc nào cũng ăn bận chỉnh tề, áo trắng bỏ vào quần tây đen dài, nếu thiếu, Mậu thiếu một cái áo màu chim cò trong bộ sưu tập y phục chính mình.

Ông luôn ngồi ngay thẳng, đôi mắt sáng nhìn thẳng, trán rộng sống mũi cao, miệng luôn một nụ cười thân thiện những thừa bí hiểm. Cây dù đen dựng dọc theo thân người, chiếc xích lô thong dong. Cái nhân dạng này, cốt cách này, tôi nghĩ, nếu thay là đôi giày hạ, vành khăn đóng, chiếc áo dài đen, Dương Nghiễm Mậu chẳng khác nào chân dung các Nhà nho.

Một cái phẩm hạnh cổ điển, đóng khung trong sự chân thành, thuần khiết, nhưng rất lạ, cái tri đạo, “Lạc thiên an mệnh – Vui với Trời, an với phận”, đã đến quá sớm với Dương Nghiễm Mậu, từ lớp tuổi ông chưa là “Tứ thập nhi bất hoặc”. Ông bước trước tuổi, gìn vàng giữ ngọc khi tuổi đời lẽ ra phải điên đảo vì những lẽ vô thường của phá phách, lưu linh, bạt gió, mổ bụng mặt trời để nhặt ra một mặt trăng. Coi chơi.

3.

Tôi gặp Mậu lần đầu tiên, khoảng đầu năm 1967. Trớ trêu, không phải Sàigòn, mà là ở tận Bạc Liêu. Ông đi trong đoàn Văn nghệ, gồm nhiều ca sĩ, nghệ sĩ, anh Tô Kiều Ngân làm trưởng đoàn. Tô Kiều Ngân, người nổi tiếng qua tiếng sáo một thời, từng có biệt danh “Tiếng sáo Tô Lang”, lúc này Chàng Tô mang lon Thiếu tá.

Chúng tôi có ngồi cùng nhau, quán Xừng Ký, sông Miền Tây đục lờ chảy chậm, chiều Bạc Liêu tàn nắng. Hồi này tôi là sĩ quan tiểu đoàn 211 Pháo binh, doanh trại bộ Chỉ huy là một biệt thự trong khu vườn rộng mênh mông của ông Hội đồng Điều. Có một vài sĩ quan trong Sư đoàn 21, từng đọc Dương Nghiễm Mậu, cùng có mặt trong bữa rượu, “Để xem dung nhan nhà văn mình yêu thích”.

Lính mà, chén rượu, mỹ nhân, trận mạc, cái cách “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu”, khi đã chạm mặt, là phải đến nơi đến chốn. Nhưng ngồi một lúc, tôi nhận ra, Dương Nghiễm Mậu chừng như xa cách dần dà cảnh ồn ào, hừng hực chí lớn. Là một người lính, bấy giờ Mậu đã là bị gọi nhập ngũ, nhưng ông chừng rất ghét kỵ những ồn ào, bùng nổ lắm khi thô bạo, sỗ sàng, của cánh võ biền.

Tinh ý lắm mới nhận ra điều “xa lánh” này ở Dương Nghiễm Mậu, vì ông là một người khôn khéo, biết tự chủ, không tự để mình hóa là một kẻ lạc lõng. Vẫn một nụ cười bí ẩn, không rõ ông cười vì cái gì, vẫn một ánh mắt nhìn kín đáo, rõ là không chú mục biểu lộ một soi mói riêng tư nơi một ai. Ngồi chung bàn đầy rượu, Mậu không uống được nhiều, vẫn tỏ ra thân thiện, luôn tôn trọng mọi người.

4.

Tôi đã có thêm một người bạn, từ hôm ấy, tận dưới đáy bản đồ đất nước. Hơn nửa thế kỷ qua, tôi với ông chẳng là tri kỷ tâm giao gì, nhưng vẫn một lòng quý trọng nhau. Về tuổi tác, ông lớn hơn tôi hai tháng rưỡi tuổi. “Cùng một lứa bên trời lận đận”, ông và tôi cùng chung chịu những hoàn cảnh xã hội, thời thế, chinh chiến, đặc biệt sau Tháng Tư, 1975, chúng tôi cùng ở lại trong nước suốt hơn bốn mươi năm qua.

Cùng bầu trời ấy, hạnh phúc thì kham khó lượm nhặt năm thì mười họa, nỗi khổ thì trốn đâu cũng gặp. Rất nghi ngờ niềm vui có khi nó lẩn trốn kin đáo, hóa thân trong nỗi buồn tưởng như vạn đại.

Trong cái “lò cừ nung nấu”, “thử tài với con tạo điêu ngoa” – nói theo cách Nguyễn Gia Thiều – chúng tôi đã trải, đã thấu thị cái lẽ Vô Thường. Ông Mậu, ông hít thở khí trời, ông được khóc oa dưới bầu trời, trước tôi chừng mươi tuần lễ. Ông biết đi chập chững trước tôi, tập nói trước tôi, rứa là ông trưởng thành hơn tôi, ông Mậu hỉ.

5.

Gặp nhau một lần, cơ duyên sẽ cho gặp nhau hoài. Gặp mãi nhau, rồi có một ngày sẽ mãi mãi chẳng gặp được nhau. “Bác Dương thôi đã thôi rồi”.

Sáng hôm nay Chủ nhật. Mỗi buổi sáng cuối tuần tôi thường đi vơ vẩn khu trung tâm thành phố, quanh nhà thờ Đức Bà. Xem có gì “lạ” không. Xa xa, trên đường phố, có thể có một đám đông. Một phản xạ có điều kiện, cứ sáng sáng chủ nhật là tôi ra khỏi nhà. Như ngày ngày của một gã ăn xin, mong được bố thí, nửa ổ bánh mì, một mẩu vụn lời hứa cho Tự do.

Vòng vo. Lẩn quẩn. Mong đợi. Sàigòn nắng hay mưa, vẫn là cuộc đời vòng vo mong đợi. Mặt đất ta đi, cũ quá rồi, cằn cỗi rất mực, cần cày xới, tháo tung, gieo những hạt mầm, trồng những hy vọng.

Nhà thờ Đức Bà đông đúc những tín đồ. Cả thảy ăn vận chỉnh tề, hiến dâng lòng thành, để đợi giờ Ân Chúa.

Tôi dọc theo đường Catinat về hướng bờ Bạch Đằng. Đây rồi, La Pagode – Quán Cái Chùa ngày xưa, quán thường trực là nơi gặp gỡ các nhà sáng tác, tôi thỉnh thoảng gặp ông Mậu. Hôm nay La Pagode không còn, sau tháng Tư 1975 nó bị xóa tên, rồi đập bỏ cả, để trở thành một góc trơ của tòa nhà cao tầng. Quán Givral ở góc kia, nhìn ra tòa nhà Hạ nghị viện Cộng Hòa, nay cũng không còn dấu tích.

Nhớ ông Mậu, “Tìm một người đã Ra Đi đêm qua”, tôi rẽ trái, qua khách sạn Continental [một thời phải đổi tên là Đại Lục Lữ Quán, vì chính quyền Miền Nam Cộng Hòa không cho phép dùng tên hiệu là tiếng nước ngoài], gặp La Dolce Vita ngày xưa, đây rồi, tôi lại gặp ông Mậu, nhân một cuộc triễn lãm của Hội Họa sĩ trẻ. Nhớ khuôn mặt lặng lẽ “rất Huế” của Nguyên Khai, nhớ nụ cười hồn nhiên Nghiêu Đề, những họa sĩ tài danh. Buồn quá, bước mãi thôi. Lại đến cái nền đất của Đại học văn khoa Sàigòn thuở nọ, tiền thân nơi đây là khám Lớn, trước giam tù, sau nói triết.

Khuôn viên rộng lớn, thuở chúng ta có giấc mộng dài, từ 1966, nơi này, một góc là trụ sở của Hội Họa sĩ trẻ, góc kia là nơi sinh hoạt của Nguồn Sống – Về Nguồn, một góc khác là trụ sở CPS. Tất cả chỉ là nhà tiền chế, mái tôn vách ván, nhưng cái “nội dung của nó”, tất cả là đầy sinh lực, sức trẻ, tài hoa, là một dung nạp năng lượng cho mọi khởi đầu.

Sàigòn, mỗi khắc giây là một ngày mới của sáng tạo. Tôi lại gặp ông Mậu nơi này, Quán Văn, nền cũ của trường Văn khoa. Lót giấy trên nền cỏ, đêm đầy sao, ngồi quanh nhau, nhâm nhi cà phê, và thơ, và nhạc. Là Thái Thanh tiếng hát Tự Trời, giấc mơ từ Thiên đường đưa lại. Là Khánh Ly từ Đà Lạt xuống núi, một Nữ thần gây mê qua Tiếng hát. Là Lê Uyên và Phương, đầu tiên ra mắt tại Sàigòn. Chúng tôi vẫn thường gặp nhau. Vẫn một Dương Nghiễm Mậu ấy, thầm lặng đến lạnh lùng, như tấm gương một ngày mùa đông.

6.

Sau 1975, tôi và ông còn thêm một loại tình, Tình-sơn-mài. Thưở đầu, tôi nghĩ Dương Nghiễm Mậu đến với nghề sơn mài trong một bận lòng, chờ thời, cái kiểu Thế Lữ tả nỗi Nhớ Rừng của loài hổ, “Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt / Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua / Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ / Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm.” Hóa ra không phải vậy, Dương Nghiễm Mậu là một kẻ chung tình, nghiêm túc, và yêu những gì mình đã chọn, ông sống luôn với nghề này cho tới phút cuối cuộc đời. Là một người cầm bút, hẳn ông đầy lòng si mê, và tận tụy với công việc mới của mình. Một ít sản phẩm sơn mài của Mậu, rất đáng là tác phẩm nghệ thuật, nhưng ông vẫn luôn/chỉ nhận mình là một “Người thợ sơn mài”.

Lần gặp gỡ gần đây với nhau là ngày “Kỷ niệm Ba mươi năm ngày mất Hoàng Trúc Ly”. Hoàng Trúc Ly, của “Nhà anh nghèo anh đau tim yếu phổi / Đời lạnh lùng bốn hướng gió và mưa,” Hoàng Trúc Ly, với “Ngoài kia buồn không, buồn không em / Xa hỡi ngàn xa bóng nhạn chìm.”

Do anh Mặc T. mời. Chúng tôi đến. Chào. Lại nụ cười. Chúng tôi ngồi cùng một chiếc ghế dài. Hai chúng tôi cùng nhìn ra đường, sau lưng, xa chừng mười mét, là một sân khấu nhỏ, một diễn giả đang nói về thơ Hoàng Trúc Ly. Nhiều anh em mang máy hình, điện thoại, xin phép hai anh, cho em chụp hai anh một tấm hình. Nhìn hình, mỗi chúng tôi, dù được khen là rất còn phong độ, vẫn là hai ông già. Buồn quá, Bác Dương thôi đã thôi rồi.

7.

Thậm dài. Xin kết thúc.

Anh Mậu, khỏe re rồi. Thanh thản rất mực. Anh có thể ngồi quán Cái Chùa trên thượng giới cùng các tiên ông, Mai Thảo, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Nguyên Sa, Thanh Nam…

Có điều tôi muốn thầm hỏi anh, tôi rất xin lỗi, vì anh chẳng cần một câu hỏi nào nữa:

“ Bốn mươi mốt năm qua, “uy vũ bất năng khuất”, anh có viết gì không? Anh để lại rất nhiều trong ngăn kéo? Con tằm vẫn âm thầm nhả tơ?”

Tôi rất muốn đọc những gì từ anh để lại. Từ những công bố về sau. Nếu không có gì để Đọc, chỉ là “Niềm đau nhức trong khoảng trống” tôi vẫn chẳng trách anh, nhưng rất tiếc. Chẳng dám trách, vì tôi rất mực tôn trọng mỗi quyết định của mỗi con người. Nhưng rất đáng tiếc, văn học Việt Nam đành mất đi Những Trang Chữ, từ đó là chiếc gương soi, là phản chiếu của một phần lịch sử rất đáng ghi lại của Nhân-chứng-một-thời.

Tôi đã đọc Sáng Mùa Xuân, trong ấy có một câu, mọi người có thể lơ đãng đọc qua, nhưng tôi cho là có nhiều ý nghĩa, anh viết, “Làm kẻ sống sót, làm kẻ không chết thấy như một bản án…”

Tôi mong đây chỉ là một Cái Nhìn minh triết, một Cửa Mở để giải tỏa Nỗi Đau phận người, nhưng đó không là một Hố Thẳm, một Rào Chắn, có hiệu ứng chấm dứt cuộc Hành Xử đường trường chông gai, mà chúng ta mong đợi.

Tôi vẫn tin anh có Viết. Chỉ là chưa công bố mà thôi. Một nhân cách như anh, anh không thể gác bút, dưới một cường quyền, trong một hệ thống độc trị phi nhân, mà cả dân tộc này Không muốn đội trời chung.

Bảo toàn Danh tiết, là một nhân cách đáng trọng, chẳng bao nhiêu người làm được. Nhưng sự bảo toàn ấy lại được Bảo Toàn từ một sự Im Lặng, mãi mãi hơn bốn mươi năm đối với một người cầm bút đầy tài năng, là một nghi vấn đau lòng.

Bái biệt anh, Ông Mậu.

Gia Định tháng Vu Lan. 2016















Phạm Duy & Cung Tích Biền


CUNG TÍCH BIỀN: PHẠM DUY, RA ĐI TỪ LÚC TRĂNG TƠ


Chúng tôi chào đời vào buổi không mấy vui. Cái vui chưa đúng là vui, không đáng nhớ. Cái buồn đi lố cái gọi là buồn, phải kèm thêm từ “thảm”. Trốn đi đâu cũng chẳng thể ra ngoài nỗi nhớ.
Cuộc đời thì dài dặc, niềm vui biến đâu mất tiêu. Cứ nghe cha đêm khuya thở dài. Mẹ ru con toàn nỗi nhớ // Chiều chiều ra đứng ngõ sau / nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều // Nhớ ai không nhớ, nhớ người thất thế sa cơ // Chiều chiều én liệng truông mây / cảm thương chú Lía bị vây trong thành //
Nhớ, là một cõi từ trường của nam châm. Chúng tôi, một thế hệ người mang bệnh “giàu cái nhớ”. Một thứ cố tật hiện nay chưa có thuốc chữa.
Ngồi chốn Sài Gòn, nhớ những ngày bề thế mộng mơ trước 1975. Bên cốc cà phê trên đất Mỹ, nhớ quê hương mù mưa nắng bụi.
Chừng như nói tới cái vui là chuyện bình thường. Thì thầm nỗi nhớ, những kỷ niệm, lòng ta mới bùi ngùi sâu thẳm. Mới man mác nổi trôi.
Đến như Phạm Duy, trong tình yêu quê huơng, yêu người, vui gì thì cũng đầy nỗi nhớ. Nhớ người ra đi, nhớ anh thương binh, nhớ Hoàng Thị, nhớ mẹ cha bên chiếc đèn dầu hao, nhớ anh nông phu áo chàm quảy lúa trong nương chiều.
Cùng Thế Lữ, Phạm Duy nhớ:
Ϲòn đâu em ơi! Ϲòn đâu ánh trăng vàng
Ϲòn đâu ánh trăng vàng, mơ trên làn tóc rối?
Ϲòn đâu em ơi! Ϲòn đâu bước chân người
Ϲòn đâu bước chân người, mơ trên đường chiều rơi?
Ϲòn đâu đêm sang lá đổ rộn ràng!
Ϲòn đâu sương tan trăng nội mơ màng?
Ϲòn đâu em ngoan, tóc rối ngổn ngang
Tuổi em đôi mươi, xuân mới vừa sang…
Ϲòn đâu em ơi! Ϲòn đâu giờ nhung lụa?
Mộng trùm trên bông, tình nồng trong gối…
Ϲòn đâu em ơi! Ϲòn đâu mùi cỏ dại?
Ϲhút tình thơ ngâу, Không còn trên đôi má.
Là nhà văn, khi cầm bút, quá khứ luôn đứng đầu chỗ ngọn bút. Mỗi giọt mực là một giọt / dòng dĩ vãng. Tất cả cái “bản đồ số phận” trong Cõi Nhớ ấy, trong một thời / không gian có hạn định, đã từ lâu trôi qua. Có khi trôi tít mù trong bộ nhớ của nhân loại. Nó như xác một con gián chết khô trong kẹt tủ, dưới gầm bàn bỏ quên. Mà chúng tôi vẫn nhớ. Nhớ tận mạng, li ti, ray rứt. Không có thước tấc nào đo đạc đủ bề sâu chiều rộng cái Nhớ ấy.
Nhìn chung, chúng tôi, chừng là một tộc người đang đánh mất hiện tại, mù đôi mắt nhìn ra tương lai. Chỉ dặm dài, hun hút một đôi-mắt-luôn-sau-ót, phản chiếu những phó bản của Ngày Qua.
**
Nói / Viết về Phạm Duy, cũng là cách tôi mò mẫm quá khứ, kể lể về mình. Tôi đã lỡ biết đánh đàn, đi theo tiếng đàn từ thuở bé, lớn lên đi theo các ban nhạc hát hò. Vào cõi âm nhạc Việt Nam là không thể không biết đến Phạm Duy.
Các đấng tài hoa trong âm nhạc như Văn Cao, Lê Thương, Đặng Thế Phong, Nguyễn Văn Thương, Dương Thiệu Tước, Phạm Đình Chương… đến với tôi như các ga tàu. Lên ga này một đoạn đường, rồi xuống ga, giã từ. Đến ga khác.
Phạm Duy, là con đường tàu dài, xa / suốt. Lên tàu, xuống tàu, từ Ải Nam Quan, tận Miền Nam trả ơn cái cối cái chày, vẫn một con đường, vẫn những “ga Phạm Duy”. Ở đó luôn là những âm vang dội lại từ nụ cười tiếng khóc, nhịp điệu nhân gian qua tháng ngày.
Phạm Duy, ông đến từ Hôm Ấy, vắng mặt Hôm Nay. Ông cỡi-hạc-ra-đi đã nhiều năm, nhưng ông vẫn còn lơ lửng trong mắt người. Như một con diều giấy rực rỡ bay trong một chiều vàng no gió, khi diều đã đứt dây, rơi rụng, bọn trẻ nhắm mắt, con diều thân yêu vẫn còn bay trong bóng tối mắt mình.
Có thực mỗi ngày một sự Mới? Ngôi sao đã lặn đêm qua, đêm nay đã trở lại trên bầu trời. Giọt sương đã tan sớm qua, hôm nay mặt trời lên, giọt sương vẫn long lanh trên lá. Cuộc biến đổi, lắm khi, chỉ là những hóa thân. Phạm Duy luôn, và thường trực hóa thân, ít ra trong ngôn ngữ riêng ông. Vẫn những dòng ngôn ngữ cũ mòn ấy, những hình thái đã ẩm mốc tháng ngày, qua Phạm Duy, bỗng mới ra, bỗng dìu dặt tang bồng, tách lìa cái vừa qua, trong tiến trình sáng tác nơi ông. Phạm Duy, người sáng tạo ngôn ngữ
Phạm Duy, là Có, cũng là Ảo. Như có thực, như ta đặt điều mà nói. Ta khó diễn tả tận lòng một thế giới bao trùm. Nói chuyện này chưa xong là kỷ niệm kia hiện về. Sao là thế? Vì, chính Phạm Duy, luôn dẫn dắt người đi với Tiếng Lòng của ông. Sông rộng đường dài, từ ngỏ ngách tâm tình mở khép, khi trực ngộ, khi lung lạc huyền ảo. Phạm Duy rất thực, nhưng thoát ngoài những sự thế bình thường.
Phải chăng, Phạm Duy rất tục lại rất thanh. Phạm Duy tinh khiết mà lầy lội những tình nhân thế. Nghịch dị, luôn ở trong môt con người, Phạm Duy.
**
Tôi có cái duyên may, từ sáu tuổi đã học đàn. Lên tám, đã thành thạo đàn mandolin. Lúc này tôi theo học tại trường tiểu học Kế Xuyên – École Primaire de Kế Xuyên. Thời thanh bình. Cành tre bụi trúc vườn cỏ dại, nơi nào cũng một vẻ đẹp, an nhiên. Chừng trong gió mùa có bước chân một ai về. Gần với tiếng đàn, chừng là gần gũi với điều thanh cao, những thanh tẩy tâm hồn.
Tuy không vào học tại một trường / viện âm nhạc nào – thuở ấy chưa hề có, nhưng tôi được học nhạc lý khá bài bản, cả phương pháp sáng tác, tưởng mai sau sẽ thành một nhạc sĩ. Nhưng cuộc đời lại đẩy đưa tôi cầm bút, rồi lênh đênh chữ nghĩa, bèo giạt mây trôi tận cuối cuộc đời.
Đầu tiên tôi học với người anh ruột, lúc này anh đang theo học ban Thành Chung tại trường Viên Minh, Phố cổ Hội An. Thời Kháng chiến học thêm ở Thầy Lê Khắc Bạc. Học đến trình độ cao trong lĩnh vực sáng tác. Học guitar với anh Hàn Vỹ, 1954 anh tập kết ra Bắc, từng là khoa trưởng một khoa của Nhạc Viện Hà Nội. Học violon với anh Phan Tùng Lâm, nhưng gặp lúc kháng chiến, ban nhạc luôn phải gọn nhẹ, dân dã, thường trực di chuyển, nên chỉ thuần dùng mandolin, guitar, sáo trúc, khó bước vào với cây đàn “quý tộc” này.
Nhìn chung suốt nhiều chục năm, nhất là chín năm kháng chiến, tôi rất gần gũi với tiếng đàn. Cả diễn kịch, tôi đi khắp nơi. Nơi nào cũng đầy dấu đạn bom của quân Pháp oanh tạc. Những làng thôn quê nhà nghèo khó, thiếu thốn. Chỉ lòng người là gần gũi chia sẻ ngọt đắng thân phận cùng nhau.
Tôi rành nghề cũng do thời Kháng chiến, nhu cầu hưởng thụ tinh thần của quần chúng vô cùng thiếu thốn. Không có máy hát. Không nhạc băng đĩa, radio – tuyệt không có một chiếc máy thu phát thanh nào – truyền tin tức rất hạn chế.
Suốt chín năm sống trong vùng Liên Khu V, tôi chưa hề nghe bất cứ một bài hát, một bản tin nào từ bất cứ một hệ truyền thanh Hà Nội, Huế, Sài Gòn, nói chung trong lẫn ngoài nước. Chúng tôi sống khá cách biệt với thế giới bên ngoài. Bên ngoài này cũng hàm nghĩa một bên này với bên kia sông, giữa vùng Việt Minh và vùng Pháp chiếm – kể từ năm 1949 gọi là Vùng Quốc Gia.
Dân chúng làm việc tối ngày, lâu lâu có một đêm kịch, nhạc. Thèm nghe như thèm chả. Ban nhạc phần đông chỉ đàn dây, mandolin, ghita, dàn trống cồng kềnh – chưa có nhạc cụ gì điện tử. Một ban nhạc đàn mandolin.
Những nhạc cổ điển, bán cổ điển từ thời Pháp hãy còn phổ biến rất nhiều – những Sérénata [Enrico Toselli – về sau Phạm Duy viết lời, gọi tên “Chiều Tà”] Les Flots du Danube [Iosif Ivanovici], Beau Danube Bleu [Johann Strauss – về sau có lời Việt Phạm Duy là Dòng sông xanh] – Sérénade (Schubert), Plaisir d’amour, Célèbre Valse (Brahms)…
Nhạc Việt có những bài hòa tấu rất hay như Xuân Và Tuổi Trẻ của La Hối, Cung Đàn Xưa của Văn Cao… Điệu valse rất hợp với đàn dây. Dễ khích động đám lỗ tai dân dã.
**
Thuở tôi học trò, thuở Phạm Duy đã có bài Cô Hái Mơ 1942, nước ta là thuộc địa của người Pháp. Lấy nước Pháp làm nước Mẹ, Mẫu quốc. Lúc chào cờ hát quốc ca Pháp là bài Marseillaise. Chào quốc kỳ Pháp ba màu xanh trắng đỏ, gọi là cờ tam tài. Con trai Việt, ngay lúc bé nhỏ, đã phải biết mình có tổ tiên Gaulois. Nos ancêtres sont des Gaulois // Tổ tiên chúng ta là người Gaulois.
Phạm Duy thời buổi này đã ngoài hai mươi tuổi. Ảnh hưởng được một nền văn hóa Pháp, đã giỏi tiếng Pháp. Tầm ảnh hưởng của một nền văn hóa Hán Nôm hãy còn sâu rộng, hẳn ông đã đọc được nhiều kinh điển, văn hóa của Đông Phương.
Tiếng đàn của tôi bấy giờ đã thành thạo, tròn vang, nhưng trí não non tơ, tâm hồn cỏ dại, chưa hiểu gì nhiều lời thơ, ý nhạc. Nhưng buổi đầu đời trong sáng ấy, lấp lánh hoang mơ, như là lời mở đầu Con Đường Cái Quan của ông, “Ra đi từ lúc trăng tơ…”
Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ
Chia đôi một họ trăm con đã lên đường
Năm mươi người ngược núi rừng
Đã dựng vòng biên ải
Năm mươi người trẩy theo sông tới khơi chừng
Tôi theo người vượt quan san
Ơi người ơi Ơi người ơi
Vẽ lối mòn gìn giữ quê hương
ngăn đường giặc Hán
Tôi chưa về Ải Chi Lăng
Ơi người ơi Ơi người ơi
Dưới chiến bào người thấy băn khoăn
thương ai đầu nguồn…
[Con Đường Cái Quan – lời lữ khách]
**
Từ “buổi trăng tơ” ấy, bầu trời âm nhạc Việt có một vì sao sáng tỏa. Một Phạm Duy man mác trữ tình, nồng nhiệt. Một tổng hợp tình tiết nhân gian, hoạt cảnh xã hội, mảnh tâm tình buồn vui nơi mỗi lòng người. Hô hào kháng chiến, hăng hái lên đường, nhưng lời ca tiếng hát ấy không hề là khẩu hiệu, kích động sự chém giết. Hùng tráng mà không thô cứng. Sức mạnh ấy từ một tâm hồn đa cảm, tấm lòng rộng mở, cưu mang.
Do vậy bao nhiêu bản hùng ca thịnh hành một thời, rất hữu dụng cho công cuộc cách mạng, chống ngoại xâm, chỉ một thời gian ngắn sau, người đời quên bẵng. Tiêu biểu, Lưu Hữu Phước chẳng hạn.
Phạm Duy ca ngợi anh chiến binh, bà mẹ chiến sĩ, chiến thắng sông Lô, đánh được đồn Tây, nhưng là những bản “tình ca”, thời nào cũng hát được.
Nhạc người họ Phạm buồn, đầy nỗi nhớ, niềm yêu đánh mất, nhưng không bi lụy, cải lương dài dòng, khóc lóc kiểu ngôn tình. Vậy đấy. Kháng chiến có Phạm Duy. Thanh bình đôi chút còn Phạm Duy đôi nơi.
**
Người ấy đi từ Hôm Ấy tới Hôm Qua. Cùng nhịp bước của vô thường, Người đã bỏ đi.
Một đêm của năm 2016, trên đất Mỹ, tôi được Nhà báo Hòa Bình Lê, mời dự đêm tưởng niệm Phạm Duy tại hội trường Việt Báo, Westminster, Nam California. Tưởng niệm là đương nhiên, ông đã về với thần tiên từ ba năm qua, từ 2013, nhưng tôi vẫn tìm ông quanh quất, trong cái tiềm thức chợt hiện.
Không thấy Phạm Duy đâu. Ông, chỉ là tấm chân dung to lớn, vẫn mái tóc bạc, nụ cười ngạo nghễ. Gặp lại hình ảnh ông trong một hội trường lớn của Việt Báo, đầm tiếng ca, nỗi nhớ, qua Tình Hoài Hương, Tình Ca, Ngày Trở Về, Giọt Mưa trên Lá… Phạm Duy, ông là chiếc bóng phủ dụ trên nhiều phận người.
**
Cõi đời, có phận rủi may mang người trôi những dặm trường dung rủi. Thời tuổi thơ, đến lúc tôi là một “văn công nhí” ca hát chín năm vùng Kháng Chiến Việt Minh Liên Khu Năm. Ca hát nhạc Phạm Duy chỉ được ba bốn năm đầu khởi chiến, [1946 – 1949] tôi gọi đó là “Thời lãng mạn kháng chiến”, rồi Phạm Duy vắng bóng.
1975, ông ra đi.
Tưởng ông là một kẻ biệt cố hương. Nhưng. Cái “nhưng” không mong đợi, tôi lại gặp ông từ đất Mỹ trở lại, năm 2000. Buổi gặp đầu tiên tại khách sạn Continental, Sài Gòn. Lần lượt, khá đông người đến thăm ông. Bạn bè, người quen cũ, những người trẻ yêu mến ông, và… rất đông những người làm văn nghệ thuộc chính quyền đương thời.
Phạm Duy về nước đôi lần, dò xem cái quê hương cũ có là Đất Mẹ, như ông từng thương nhớ, hay nay đã là vùng Đất Hiểm, khó dung tha người quay lại.
Được. Sau vài lần dò dẫm, ông ở luôn quê nhà.
Thật kinh ngạc, Phạm Duy mần đơn xin Nhà nước cho phép hát nhạc… Phạm Duy!
Sự “ trái gió trở trời” này của Phạm Duy, là một “sự cố” thêm vào, để cho người đời, những kẻ vốn dè bỉu ông có thêm “mồi” để tiếp tục xơi tái ông.
Với tôi, quả là chúng ta thấy một Phạm Duy đã thực sự là một hài nhi. Một suối nguồn thơ trẻ, bấy lâu ẩn nấp trong chốn thiên tài.
Đời một nhà sáng tác, sáng tạo, chỉ tác phẩm lưu đời mới chính là Đời Sống của họ. Chẳng ai nhớ tới cái nợ nần, cái say sưa của Tản Đà, chẳng cần biết mỗi sáng ông uống cà phê hay uống trà, chỉ biết mỗi Tản Đà sống tàn một cuộc gió bụi, mơ hoặc trong cõi điêu linh, đã để lại cho đời những vẫn thơ trác tuyệt.
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…
Phạm Công Thiện, một kỳ nhân, kẻ đã động tâm với cuộc thong dong, đã thốt lời, “Đi cho hết một đêm Hoang vu trên mặt đất”, đã mê ngẩn với cái tâm thượng ngoài cõi của Tản Đà “Cái hạc bay lên vút tận trời.
Và tôi, tôi cũng mong sao, đươc phiêu bồng trong Cõi Biệt, “Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.”
***
Dù sao, thế nào, vậy chăng! Người đời gởi Phạm Duy làn trầm thơm, nụ hoa hồng, lẫn những trách hờn cay đắng.
Với tôi, Phạm Duy là Người gieo hương. Những hương tơ trúc nồng nàn. Những hương của Âm, Lời rộng tỏa. Ấm, lạnh, nó vẫn đi suốt những linh hồn. Tôi đến với ông từ tuổi còn bé thơ, tới hôm nay, khi viết những dòng này, tuổi đời đã vào thềm 90, đời đã riêng bề, một góc nhỏ.
Đến với Phạm Duy là đến với, là trở về, là tìm lại, những mảnh hồn quê, những tình nhân gian, những tiếng khóc cười dâu bể, những kể lể êm đềm câu chuyện tưởng là nhỏ / vặt / đáng quên. Đi với ông là đi với những phận đời theo cùng nước non, sử lịch. Mỗi con người, chiếc thuyền đơn trắc ẩn trong biến động dập vùi.
Cảm ơn núi non đã cho những tầm cao. Cảm ơn những cổ thụ đã cho bóng mát, đã gieo trong tôi cái ý niệm trường tồn.
(Ảnh: Phạm Duy và Cung Tích Biền)
Cung Tích Biền (nguồn: Da Màu)











Cung Tích Biền trên Da Màu



12.08.2016

29.04.2016

01.05.2015

29.04.2015

28.04.2015

11.04.2014

10.04.2014

08.04.2014

08.04.2014

23.05.2011

21.04.2011

21.09.2009

11.08.2009

30.04.2009

27.04.2009

18.03.2009

25.12.2008

17.11.2008

16.11.2008

15.11.2008

14.11.2008

25.09.2008

24.09.2008

24.09.2008

23.09.2008

23.09.2008

22.09.2008

22.09.2008

21.09.2008

22.08.2008

18.05.2008

29.03.2008

27.03.2008

26.03.2008

26.03.2008

25.03.2008

25.03.2008

24.03.2008

24.03.2008

23.03.2008

23.03.2008

23.03.2008

21.03.2008

07.09.2007

10.08.2007

31.05.2007









Cung Tích Biền
Ảnh Trần Cao Lĩnh























Phan Nguyên, Cung Tích Biền, Nguyễn Viện . 2010








Nv Trịnh Y Thư, Nv Cung Tích Biền, Hs Phan Nguyên, Hs Nguyên Khai, Hs Nguyễn Đình Thuần
California 2017









Cung Tích Biền & Phan Nguyên
California 2017








SG. Lala coffee 2024







Hs Phan Nguyên, Nv Nguyễn Viện, Nv Cung Tích Biền, Nt Phạm Viẹt Cường






















Trở về 






MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.