Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Hồ Dzếnh ( 1916 - 1991)
















H.ồ Dzếnh

Hà Triệu Anh
(1916 Thanh Hóa - 13/8/1991 Hà Nội)
Hưởng thọ 75 tuổi
 nhà thơ, nhà văn







Cảm Xúc

Cô gái Việt Nam ơi!
Từ thuở sơ sinh lận đận rồi
Tôi biết tình cô u uất lắm
Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi.
Cô chẳng bao giờ biết bướm hoa
Má hồng mỗi tiết mỗi phôi pha
Khi cô vui thú là khi đã
Bồng bế con thơ đón tuổi già!
Cô gái Việt Nam ơi!
Ngọn gió thời gian đổi hướng rồi
Thế hệ huy hoàng không đủ xóa
Nghìn năm vằng vặc ánh trăng soi.
Tôi đến đây tìm lại bóng cô
Trở về vườn cũ hái mơ xưa
Rau sam vẫn mọc chân rào trước
Son sắt lòng cô vẫn đợi chờ.
Dải lúa cô trồng nay đã tươi
Gió xuân ý nhị vít bông cười,
Ai hay lòng kẻ từng chăm lúa
Trong một làng con đã héo rồi!
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.









Tiểu sử

Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Hà Kiến Huân, người gốc Quảng Đông sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ Đặng Thị Văn là người Việt, quê ở bến Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Ông học trung học, dạy tư, làm thơ, viết báo từ năm 1931 tại Hà Nội. Năm 1953 ông vào Sài Gòn làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội tiếp tục viết báo, làm thơ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ngay từ buổi đầu thành lập (1957). Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nội do xuất huyết dạ dày và viêm thận.
Hồ Dzếnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007
















Tác phẩm





 1
Dĩ vãng
(truyện vừa, 1940)







 2
Quê ngoại
 3
Những Vành Khăn Trắng
(truyện dài, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh, 1942)






 4
Tiếng kêu trong máu
(truyện dài, 1942)






 5
Một chuyện tình 15 năm về trước
(ký bút hiệu Lưu thị Hạnh, 1943)






 6
Chân trời cũ
 7
Hoa Xuân Đất Việt
 8
Cô gái Bình Xuyên
(truyện vừa, 1946)







 9
Cuốn sách không tên
(tiểu thuyết tự truyện, xuất bản sau khi mất)


Ngoài ra, ông còn cho đăng nhiều thơ, truyện ngắn trên các báo và còn mấy vở kịch đã công diễn, nhưng chưa xuất bản.

Đặc biệt, bài thơ Chiều của ông đã được nhạc sỹ Dương Thiệu Tước phổ nhạc và cũng khá nổi tiếng. Bài thơ Ngập ngừng cũng được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc như Anh Bằng (Anh cứ hẹn), Hoàng Thanh Tâm (Em cứ hẹn), Minh Duy (Ngập ngừng)... 



Giai thoại bút danh Hồ Dzếnh

Tên của Hồ Dzếnh nếu phát âm theo giọng Quảng Đông là Hồi-Tsìu-Díng, thu gọn lại là Hồi-Díng, chắc vì khi phiên âm sang tiếng Việt hai tiếng Hồi-Díng nghe không được hay lắm nên ông đã ghi là Hồ Dzếnh. Tuy vậy những người trong làng văn nghệ vẫn cứ trêu đùa gọi ông là Hồ Dính, có người còn đặt một vế đối: "Hồ Dính dính hồ hồ chẳng dính" để thách đối. Lúc có người đối lại là: "Ngọc Giao giao ngọc ngọc không giao" (mượn tên nhà văn Ngọc Giao). Cũng có người đối lại: "Vũ Bằng bằng vũ vũ chưa bằng", (mượn tên nhà văn Vũ Bằng), nhưng đều chưa chỉnh.



Gia đình

Năm 1947, Hồ Dzếnh kết hôn với bà Nguyễn Thị Huyền Nhân. Bà Huyền Nhân mất vào ngày Tết Đoan Ngọ năm 1950 vì bệnh tả, hưởng dương 20 tuổi. Năm 1954, ông tái hôn với bà Nguyễn Thị Hồng Nhật.

Người con duy nhất của Hồ Dzếnh là Hà Chính, sinh vào đầu năm 1950. Ông Hà Chính cũng chỉ có một con duy nhất Hà Quang, sinh năm 1984, đang định cư tại Hanover, Đức.







  Thơ Hồ Dzếnh phổ nhạc








 Chiều
Nhạc Dương Thiệu Tước
Thơ Hồ Dzếnh

Màu Cây Trong Khói
(Chiều)

Trên đường về nhớ đầy...
Chiều chậm đưa chân ngày,
Tiếng buồn vang trong mây...
Chim rừng quên cất cánh,
Gió say tình ngây ngây,
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay ?
Tôi là người lữ khách,
Mầu chiều khó làm khuây,
Ngỡ lòng mình là Rừng,
Ngỡ hồn mình là Mây,
Nhớ nhà châm điếu thuốc,
Khói huyền bay lên cây...






Em cứ hẹn
Nhạc Anh Bằng
Thơ Hồ Dzếnh

Ngập Ngừng
(Em Cứ Hẹn)
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân.
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần...
Tôi nói khẽ: gớm, làm sao nhớ thế !
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé.
Em tôi ơi, Tình có nghĩa gì đâu,
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu ?
Thuở ân ái mong manh như nắng lụa,
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần lữa,
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi,
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi !
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Tôi sẽ trách -- cố nhiên -- nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa... 








Những bài thơ của Hồ Dzếnh

Bài Hát Ru Em
 Mưa
 Non
 Thu





Truyện Ngắn


Em Dìn

Trong số những người đọc tôi hôm nay, ít nhất cũng có đến một trăm người quen em gái tôi. Tôi nói một trăm, vì muốn để cho em tôi đỡ tủi, khi mưa xuân lướt về trên những mái nhà đầm ấm, và nắng xuân chợt bừng qua kẽ lá như ánh sáng chiếu lại từ những tấm lòng của các thiếu nữ đương tơ. Ngót bảy năm nay, chúng tôi xa nhau, ai biết em tôi đã qua bao nhiêu cuộc thử thách, người con gái vốn đã gầy yếu sẵn khi còn ở chung với chúng tôi? Và cả em nữa, em anh ạ, biết đâu em sẽ lại chẳng đọc anh, đọc chính em, ngạc nhiên thấy đời em giống in như thiên truyện anh viết, và hết cả hồ nghi khi nhìn đến cái tên ký thân thiết dưới này. Nhưng em sẽ ở đâu đọc anh, gần anh, xa anh, hay không còn gần và xa anh nữa, trên đời này? Xuân đến! Mưa bay! Người ta bảo nhỏ anh rằng trong tháng giêng tốt lành sẽ có nhiều đám cưới. Anh không tin, mà tin làm sao, vì qua ánh sáng ngày xuân, anh vẫn thấy lòng buồn vô hạn.

***

Sau bốn năm ba tôi mất, trước hai năm tôi lên tỉnh học, em gái tôi, tôi nhớ đúng thế, vào đời. Cuộc đón rước đầu tiên ở ngưỡng cửa đời sống là một cuộc hò hẹn giữa em tôi và người bạn trai của em. Năm đó, em tôi mười lăm tuổi. Như thế em tôi còn là chậm biết đời nếu so sánh với những thiếu nữ bây giờ mới mười ba tuổi đã tỏ ra lịch lãm. Những khách nợ lâu đời nhất của dì ghẻ tôi – em tôi và tôi là đôi con cùng cha khác mẹ – được em tôi lục ra và đi đòi hết. Em tôi trang điểm cẩn thận trước khi đi, và đi thật lâu. Tôi còn nhớ mùi nước hoa lần đầu em xịt lên tóc, một thứ hương vị ảo não đặc biệt cho mũi tôi lúc bấy giờ.

Dì tôi nhìn em trang điểm thì gắt nhưng không phải là đe nẹt, mà lại ngụ ý khen. Riêng tôi, tôi nhận thấy em tôi đã đổi khác. Người con gái họ Hồ đó có lẽ sắp làm nên chuyện gì phi thường đây. Thành thử, hễ em tôi đi đòi nợ, là tôi trốn học đi theo. Chúng tôi “đuổi” nhau qua nhiều phố, cuối cùng, em tôi đến “đòi nợ” một người con trai nhỏ nhắn, xinh đẹp, đứng đợi em ở một phố vắng vẻ vùng ngoại ô. Ai đã từng có một người em gái tự do, tất hiểu lòng tôi lúc đó, một nửa căm giận, một nửa e thẹn, chỉ sợ em biết được anh tò mò dò theo. Sự bắt được tang chứng kia càng làm tôi phục ba tôi là thông minh, khi một hôm, no thuốc phiện rồi, người nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra, bảo với tôi đương loay hoay định ăn cắp một cái bánh ngọt trên khay:

– Ba biết con thèm ăn bánh lắm, nhưng sao con không xin ba? Ba đương mải nghĩ về em Dìn của con. Ba chỉ sợ sau này nó hư. Tướng nó không được tốt lắm. Chỉ có anh Hai con là tử tế thôi.

Tôi nũng nịu bảo ba tôi:

– Thế con không tử tế à ba? Lúc nào ba hút thuốc phiện chẳng có con ở ngay bên là gì. Còn anh Hai thì chỉ biết chạy đi chơi.

– Phải, con tử tế với mấy cái bánh. Nhưng thôi, các con nhờ trời cũng khá cả, cái đứa hư nhất ba sợ là con Dìn.

Và ba tôi đã nói đúng. Tôi cũng nghĩ đúng. Một dịp cho tôi khoe cái tài trinh thám với anh tôi:

– Đố anh biết đi đòi nợ là gì?

– Là đi bắt nợ, là đi thúc nợ.

– Là…

Tôi vít cổ anh tôi xuống, nói khẽ:

– Là đi với trai, em Dìn nó đi với trai đấy.

Anh tôi còn trẻ, nên cũng hăng hái hỏi tôi:

– Thật à? Bé thấy con Dìn ở đâu? Hay ai bảo? Nói mau lên, anh sốt ruột nghe lắm rồi đây!

Tôi kỹ càng thuật lại chuyện và cười bảo anh tôi:

– Anh em mình được như cái thằng cu ấy, cũng thích đấy nhỉ.

Ngày hôm sau, chúng tôi lại đi rình, và lại bắt gặp em gái tôi. Nhưng chúng tôi chỉ trông nhau mà không ai dám ra đánh mắng người con trai như ở nhà đã định. Mãi đến sau này, tôi mới kịp nhận thấy chúng tôi nhát gan và vô lý, nhưng lúc tỉnh ngộ như thế, thì em gái tôi đã vào đời!

Gia đình tôi là cuộc phân tranh ngấm ngầm và ra mặt giữa hai phe. Mẹ tôi và dì ghẻ tôi đánh nhau luôn, nhất là từ ngày ba tôi mất. Dì ghẻ tôi đã nhanh nhẹn chiếm được hết của cải của ba tôi, và khôn khéo sang tên dì ngay từ hồi ba tôi còn sống. Mẹ tôi không có cái gì cả, ngoài ba thằng con trai phải nuôi, và cái bàn thờ của ba tôi phải dọn sửa. Mẹ tôi bảo dì tôi là con một đứa hái củ nâu. Dì tôi chối phắt cái gốc tích ấy đi, và trả lại cho mẹ tôi hai tiếng “lái đò”. Rồi hai người đánh nhau. Anh Cả tôi chạy can hai người ra, anh Hai tôi đóng cửa cho hàng phố khỏi thấy, còn em tôi và tôi thì khóc. Chúng tôi không biết ai phải, ai trái, nhưng chúng tôi người nào bênh mẹ người ấy. Em gái tôi phân bua với tôi:

– Mẹ anh tồi quá, cứ đánh mẹ em luôn.

– Mẹ em tồi ấy. Cậy có của lộng quyền.

Giữa hai chúng tôi có một cái gì ngăn trở. Chúng tôi tuy cùng ở chung một nhà, ăn cùng mâm, nhưng thực ra thì xa cách. Mẹ tôi tìm đủ cơ hội để dìm dì tôi xuống, và cố nhiên, như bắt được một thứ khí giới độc ác và mầu nhiệm, người vin ngay lấy câu chuyện theo trai của em tôi để nói bóng gió. Hôm hai người cãi nhau, tôi được gọi ra làm chứng. Tôi thấy dì tôi ngồi trên sập, trước mặt một cái tráp trầu không vỡ đổ, nghiến răng hỏi tôi:

– Có thực chính mắt anh trông thấy con tôi theo trai không?

Tôi không đáp và đưa mắt nhìn em gái tôi đứng thút thít khóc ở xó nhà vì vừa bị mấy cái tát. Tiếng dì tôi vẫn dằn mạnh:

– Anh cứ nói đi để tôi đánh tan xác nó ra, đồ không có người dạy!

Mẹ tôi xen vào:

– Đừng có nỏ mồm. Bảo ai không có người dạy? Không được chạm đến con tôi!

Giữa lúc tôi chưa biết nói làm sao cả, thì em gái tôi chắp tay đưa lên bụng, kín đáo lạy tôi mấy cái. Lòng thương một người con gái yếu ớt làm tôi quên hẳn sự hiềm khích giữa người trong nhà. Tôi đáp rất gọn:

– Không, con nói dối đấy chứ!

Tức thì dì tôi vênh mặt lên:

– Nghe nữa đi, nghe cái đồ nói dối nữa đi!

Và tức thì hai cái tát của mẹ tôi cháy bỏng trên má tôi:

– Ai dạy mày nói điêu, mày hai lưỡi!

Nhưng tôi lại chỉ còn có một lưỡi, khi ngồi ăn cơm với mẹ tôi:

– Đúng là con Dìn đi với trai, mẹ ạ. Ban nãy nó lạy con đừng nói.

Mẹ tôi lườm tôi và im lặng. Một chiều kia, đi học về, tôi ngạc nhiên thấy em gái tôi bị trói chặt như con lợn nằm ngoài sân, nhăn mặt dưới những vụt roi mây chập ba lại. Bên cạnh em, những tờ thư vất bừa bãi, cái xanh, cái tím, cái vàng, cái lá mạ. Dì tôi sai anh Hai tôi đọc to lên từng cái một. Mỗi lần một bức thư đọc dứt, là một lần roi mây vụt xuống đít em tôi. Tôi ngẩn người nghe cái giọng nói khôn khéo ngọt ngào mà tôi được biết lần thứ nhất. Nó lọt tai và mát lòng quá. Đôi khi người con trai gọi em tôi là “quý nương” và tự xưng là “kẻ này”. Tôi giấu một bức thư vào túi rồi đem ra học thuộc lòng. Em tôi chắc không muốn nghe lắm, nên nhắm mắt lại. Thực không gì đẹp bằng yêu nhau, xấu bằng yêu nhau!

– Đấy, em anh, anh xử lấy. Bây giờ ba nó đã chết rồi, tùy anh định liệu.

Anh Cả tôi vốn hùng hổ nên đáp:

– Gọt gáy bôi vôi, đem trôi sông nó đi!

Em tôi nghe hai tiếng “trôi sông” thì nức nở khóc. Dì tôi nóng mắt, cúi xuống, giật từng cái áo của em mặc ra. Đột nhiên không ai bảo ai, ba anh em chúng tôi cùng quay mặt đi. Riêng tôi, tôi thấy nổi dậy trong lòng nỗi công phẫn đối với cách giáo dục tàn nhẫn kia. Và suốt đời, tôi không quên được cái thảm cảnh của một người con gái bị xử ngược chỉ vì phạm một tội rất thông thường là yêu vì nhẹ dạ. Sự đó rất có ảnh hưởng đến đời tình ái của tôi, một cuộc đời chỉ toàn thấy những dang dở vì lẽ tôi không biết giữ trong tay những hạnh phúc mau biến.

Sau trận đòn hôm ấy, em tôi trở nên buồn bã. Cuối cùng, dì tôi nhốt em tôi vào một cái buồng tối, khóa kỹ, chỉ cho giao tiếp với bên ngoài qua cái cửa sổ nhỏ. Tôi linh cảm rằng, tuy chúng tôi đã được yên lòng về cách nhốt em tôi như thế, một sự gì nghiêm trọng vẫn lảng vảng quanh nhà chúng tôi. Quả nhiên, một đêm kia thức dậy, tôi đứng ở trên gác nhìn xuống đường phố, chợt thấy một bóng người động đậy trong bóng cây. Ngay lúc đó, cánh cửa dưới nhà kêu lên, và người vú già tay cầm một tờ giấy trắng tiến lại phía cái bóng. Tôi ngẫm nghĩ và hiểu biết. Sáng mai, tôi chạy xuống nhà, lại căn buồng nhốt em gái tôi, bảo em:

– Sao em dám đưa thư cho vú già đem cho cái thằng nào đấy?

Em tôi đáp lại bằng một giọng cương quyết, rắn rỏi, một giọng nói làm tôi rùng mình, không ngờ có thể có được ở trên môi người con gái mới mười lăm tuổi:

– Tại vì… em nhớ người ta quá!

– Thế em không sợ người nhà đánh à?

– Trừ phi anh nói. Nhưng em biết anh tử tế, chắc chẳng bao giờ anh muốn em khổ hết; anh còn nhớ ngày nào chúng ta giữ trâu và ăn ổi với nhau không?

Tôi không quên được ngày đó. Nó là cái kỷ niệm đẹp đẽ của đời tôi mà em tôi vừa nhắc lại. Một cánh đồng cỏ xanh mượt nằm ngủ dưới chân đồi, mới ba giờ chiều đã mờ, vì bóng núi che khuất mặt trời đổ lên đó. Chúng tôi thả trâu cho tự do ăn cỏ, lòng thanh thản dưới một bầu trời sáng đẹp. Đôi lúc tiếng sáo của dân Mường từ xa vẳng lại, là những thanh âm độc nhất hiu hắt trong cái rộng rãi, cô quạnh của linh hồn. Chúng tôi đánh trâu bò lên đồi vào lúc mờ sáng, và trở về nhà khi nắng vàng chỉ còn nửa đốt ngón tay trên đầu bụi trúc.

Đàn vật nối nhau theo hàng một, từ trên đồi uể oải xuống, làm thành một cái dòng màu xám chảy chầm chậm trong ánh mờ nhạt của hoàng hôn.

Ngoài mấy người con gái mà tôi mến rất nhẹ nhàng và rất kỳ dị, em tôi là người bạn nhỏ hiền hậu của tôi ngày ấy. Chúng tôi cùng để lòng ước mong những chuyện không thể có, em tôi mơ được một căn nhà ngói dựng trên đồi, và tôi khờ khạo hơn, giản dị hơn, được bình yên chăn trâu trọn kiếp. Hai tôi lấy hoa sim cài lên đầu, lên áo, và cùng cho rằng hương hoa sim thơm, tuy thực ra nó vô cùng nhạt nhẽo. Chính ở cái chốn mà mây gió còn giữ nguyên màu dĩ vãng đó, chúng tôi lớn lên hồn nhiên giữa bài thơ tưng bừng của sự sống, hồn nhiên nhận biết cái tang máu mủ lần thứ nhất xảy ra trong cuộc đời chúng tôi: ba tôi mất. Cái chết lặng lẽ của người trái hẳn với tháng ngày sôi nổi người sống, làm nhiều khi tôi sinh lòng ngơ ngẩn trước thiên luật không thể cưỡng lại gieo xuống muôn loài. Đời sống lôi cuốn chúng tôi về những hoàn cảnh khác. Chúng tôi đau đớn thấy mây gió ngày xưa dần dần xa vắng bên những giấc mộng chỉ còn là nỗi thương tiếc nức nở giữa cuộc đời.

Người con gái ngây thơ, vô tội là em tôi ngày xưa, bây giờ đang yêu thắm thiết, yêu mê say và đang phác họa trong óc những bước đường liều lĩnh sau này. Một sáng, giấc mơ của tôi bị cắt đứt vì mấy tiếng kêu hốt hoảng của dì ghẻ tôi:

– Trời ơi, con Dìn nó trốn mất rồi!

Tất cả mọi người cùng chạy vội lại bên dì. Gian buồng nhốt em tôi đã từ bao giờ bật khóa. Rương của em tôi bị nậy nắp, bao nhiêu áo quần cũ, mới đều mất hết. Tôi chợt nhận thấy, trước quang cảnh đó, một sự gì hoang vắng lạ lùng, một nỗi gì lạnh lẽo không hẳn buồn rầu, nhưng kinh ngạc. Dì tôi lăn mình vật vã khắp nhà. Anh Cả tôi suy nghĩ về cách trốn đó. Anh Hai tôi thông minh hơn, chạy tìm em ở khắp các xó giường giăng đầy mạng nhện. Tôi thì chỉ biết yên lặng. Bỗng tôi để ý đến đôi mắt của ba tôi trong bức ảnh đặt trên bàn thờ, đôi mắt như quắc nhìn tôi. Nét mặt người buồn vì sám. Tôi ngờ như có sự trách cứ huyền bí nào đó, sự trách cứ chính đáng gieo xuống tôi, vì tôi là một kẻ phạm tội: tôi đã quá dung thứ sự thầm lén của em gái tôi. Cuộc trốn đi được ngót ba tháng, thì một hôm, chúng tôi nghe tin em Dìn bị người con trai từ bỏ. Sự đoạn tuyệt đột ngột đó rất phiền phức và khó hiểu với tôi. Nhưng anh Hai tôi lại tỏ ra rất tường tận, kinh nghiệm. Anh giảng cho tôi biết:

– Đại phàm yêu nhau mà lấy nhau là hỏng.

– Thế yêu nhau mà không lấy nhau là không hỏng à anh?

– Cái đó còn tùy mỗi người một duyên số!

Câu triết lý vu vơ của anh tôi thế mà đúng. Người ta yêu nhau chỉ để yêu nhau. Lấy nhau tức là tham lam, ích kỷ. Mà đã yêu nhau, sao lại không thể can đảm xa nhau, không thể cao thượng chịu dứt cái tình đau đớn được? ái tình, mà cái tên thứ hai ở thế gian này là Đau khổ, không bao giờ cho phép người ta được thỏa nguyện. Chỉ có cha mẹ mới có quyền định đoạt được cuộc đời của con, và “Trời” muốn thế, vì các bậc đã phải mang nặng đẻ đau, ắt được đền bằng một bài tính đố chính họ tìm lấy con số đáp! Xa nhau là yêu nhau thêm lên, vì hai trái tim vẫn tưởng nhau đẹp đẽ, nghĩa là vẫn sung sướng đánh lừa được nhau, vẫn mơ hồ và… tưởng tượng! Em gái tôi không hiểu thế sự, dám liều lĩnh đem cái tuổi mười lăm của mình ra thử thách một chuyện vượt lên trí óc, dại dột đem mình làm gương cho người sau, cho tôi.

Em tôi đi được ba tháng thì dì ghẻ tôi cũng đi theo. Người đàn bà này đường hoàng đi ra bằng lối cửa chính, đem theo tất cả những của cải mồ hôi, nước mắt của ba tôi. Người khách thương ba mươi năm trời lăn lộn để gây chút sự nghiệp mong manh, không biết lúc này, ở thế giới bên kia, có thấy rằng, chỉ những cuộc hôn nhân chính đáng mới tạo được nên những người vợ hiền và con chính đáng? Còn những sự lấy nhau vì nhục dục, vì tham vọng, chỉ là cách tự thỏa mãn và không có nghĩa gì?

Từ bao lâu nay, tôi vẫn tin rằng mẹ tôi sung sướng. Nhiệm vụ một người vợ hiền, mẹ đảm Việt Nam đã được làm trọn vẹn, và danh vọng xứng đáng ấy được lấp lánh ở một chỗ cao quý nhất trong trái tim người. Cái phần thưởng đến với người tuy quá chậm và khó, nhưng chính sự khó và chậm ấy đã khiến tôi yêu mến nước Nam của tôi bằng một tấm lòng trọng đại, một mối tình vô song, nhất là quê hương thứ hai của tôi lại không được huy hoàng rực rỡ!

Một năm trôi qua. Mùa xuân đến. Chúng tôi đón Tết trong nhà nhỏ, ba anh em cùng ngồi quây quần bên mẹ, quanh một nồi bánh chưng sôi. Gió bên ngoài rét lắm, lật trái những tấm lá thấp thoáng trong ánh lửa từ bếp chiếu ra. Mưa rơi ngoài cửa. Bàn thờ ba tôi sáng trưng lên dưới một hàng nến đỏ nghiêm chỉnh như một toán quân đi chào cờ. Mắt mẹ tôi long lanh ướt. Người nhìn vào bếp lửa, đầu gối giơ cao để che lấp đôi mắt, chăm chú giở củi, nhưng thực ra là để che sự cảm động. Giữa lúc đó, người vú già ghé vào tai tôi:

– Cậu ra cho cô Dìn hỏi. Cậu ra một mình thôi!

Tôi ngạc nhiên đứng dậy, nói thác với mẹ tôi là đi tiểu rồi mở cửa bên chạy ra đường. Tôi thấy em tôi đứng nép dưới hiên một nhà người hàng xóm, rét run cầm cập. Tuy không trông rõ mặt và người em, nhưng tôi cũng biết được em gầy và yếu đi nhiều lắm. Em tôi nhìn tôi rồi hỏi:

– Anh ra có ai biết không? Mẹ em làm gì đấy?

Tôi giấu chuyện dì tôi bỏ nhà đi, và đáp:

– Không ai biết cả, vì anh nói dối anh đi tiểu. Cả nhà đang nhớ em, sao em không vào?

– Anh đừng nói cho ai biết em về nhé! Em van anh đó. Em xấu hổ lắm. Em lại đây thăm nhà vì em nhớ mẹ, nhớ các anh.

Tôi nghẹn ngào bảo em:

– Thôi em cứ về. Mẹ em năm nay ăn Tết ở nhà ông ngoại. Chả ai đánh em nữa đâu.

Nước mắt em tôi trào ra, em nức giọng:

– Không, em không vào. Em đến chúc Tết anh là đủ. Xong, em đi…

Tôi hốt hoảng:

– Em đi đâu?

– Em vào Sài Gòn. Mười giờ tối hôm nay có tàu. Em chỉ còn ở đây được hai giờ nữa thôi. Năm nay anh có được nhiều tiền phong bao không? Chắc bánh chưng ở nhà ngon lắm nhỉ?

– ừ ngon lắm, em vào mà ăn!

– Em đã bảo em không vào mà lại! Em lại đây cốt được trông thấy anh, và xin anh… mấy xu mừng tuổi gọi là nhớ lại ngày nào anh mừng tuổi em!

Tôi sờ vào túi, móc ra được năm đồng xu, ngần ngại đưa cho em tôi.

– Anh nghèo lắm em ạ.

Em tôi đón lấy số tiền, và cười đau đớn:

– Thế là nhiều rồi anh ạ. Thôi em đi nhé!

Nói dứt, em tôi lủi vào bóng tối, trong lúc tôi chợt nhớ ra, hỏi với:

– Em… em vào Sài Gòn với ai?

Tôi bước vào nhà buồn bã, sau khi đưa ống tay áo lên quệt nước mắt, giữa lúc mẹ tôi đã đứng dậy thắp hương trên bàn thờ ba tôi, vì tiếng pháo giao thừa bắt đầu nổ. Xuân về!

Mẹ tôi yên lặng khấn khứa, đoạn quay lại phía chúng tôi, giọng nói của người như nhắc lại cả một dĩ vãng thiếu tươi đẹp:

– Không biết con Dìn năm nay bao nhiêu tuổi nhỉ?

12 -1943
Chân trời cũ,
Nhà xuất bản á Châu, Hà Nội, 1946.







NGƯỜI CHỊ DÂU TÔI

Dòng máu Trung Hoa thấm đến ba anh em chúng tôi thì không còn được nguyên chất nữa.

Người lo đến cái ngày lạc giống nhất, có lẽ là ba tôi. Triết lý qua làn khói thuốc phiện, chén nước chè Tàu, ba tôi thường bảo:

- Thế nào một trong ba đứa cũng phải cho về Tàu mới được!

Công việc gây dựng lại nòi giống Trung Hoa thiêng liêng được anh tôi đảm nhận bằng cách cưới, sau bốn năm trời nghiên bút, một người vợ đặc Tàu. Cái hỷ tín ấy bắn từ bên kia trùng dương sang khiến ba tôi vuốt râu cười khoái chí, trong khi mẹ tôi có vẻ không bằng lòng. Rồi, mặc dầu sự phản đối nhỏ nhặt của một người đàn bà phương Đông yếu đuối, chị dâu tôi đã ở dưới cái nóc nhà thân mật với chúng tôi, cái nóc nhà sau này đã chứng kiến những ngày buồn thảm của đời chị, mà tôi muốn tả ra đây bằng một nét bút chí thành.

Hỡi chị! Nếu số phận đã bắt chị vào làm dâu một gia đình cơ khổ, làm vợ một người chồng không bằng người, làm một người đàn bà lưu lạc, chị hãy nhận ở đây, trong mấy dòng chữ này, một lời yên ủi, để may ra lòng đau khổ của chị được san sẻ một vài phần.

° ° °

- Ừ, rồi tha hồ mà vui. Chốc nữa chị dâu mày sắp về đấy!

Mẹ tôi bỏ rá gạo vo xong xuống miệng chum, nhìn tôi và cười một vẻ mai mỉa. Từ hôm nhận được tin anh cưới vợ, mẹ tôi đâm ra buồn rượi suốt ngày. Là vì mẹ tôi có định kiến sẵn về cuộc hôn nhân của anh tôi, và người con dâu của mẹ tôi phải là người biết gồng gánh, biết chịu khó xay lúa, giã gạo, cáng đáng mọi việc trong nhà. Tôi còn nhớ hôm cầm đến ảnh anh chị tôi, mẹ tôi thở dài:

- Cái ngữ này lại chỉ xõng xác ra lá hết!

Tôi nhỏ nên dễ tưởng tượng. Tôi tưởng tượng chị dâu tôi là một thiếu phụ sang trọng, đẹp đẽ, bó chân và chuốt bím bằng dầu thơm. Năm sáu lần, cầm bức ảnh chụp từ bên Tàu gửi sang, tôi sung sướng vì sắp được là em một người đàn bà Tàu quý phái, yêu tôi và cho tôi nhiều tiền. Mà chị dâu tôi đẹp thật, nói là yểu điệu thì đúng hơn.

Đôi má hồng luôn và cặp mắt ngơ ngác như vừa qua cái thảm cảnh của phân lá, chị tôi nhìn chúng tôi, thằng nhớn dắt tay thằng nhỏ, ngó chăm chú cái con người bắt đầu đến làm thân với hơi bàn ghế trong nhà. Mẹ tôi lúc ấy không có ở đấy. Chỉ có mình ba tôi yếu đuối ngồi trên sập gụ mỉm cười. Tôi đánh bạo xán lại gần chị. Chị vui vẻ vuốt tóc tôi và dúi vào tay tôi hai hào chỉ. Tôi càng mến chị tôi hơn nên quấn quýt bên chị suốt ngày. Hình như chị dâu tôi sống giữa sự lãnh đạm của mọi người, trừ anh Cả tôi - chồng chị - và tôi, những người đem lại cho chị một phần lớn tình lưu luyến của gia đình.

Thậm chí đến anh Hai tôi cũng thường bảo tôi:

- Mày cứ xán lại gần chị ấy, mẹ ghét lắm đấy!

Mỗi lần anh tôi mắng, tôi thường đem những đồng hào mới tinh ra khoe:

- Này, anh xem, chị ấy tốt lắm kia!

Chị dâu tôi sống trong sự bỡ ngỡ có đến ngót hai tháng. Một hôm đi học về, tôi ngạc nhiên thấy chị đang xay lúa, thở hổn hển, và luôn luôn đưa khăn mặt lên lau trán. Tôi chạy ngay xuống nhà bếp, giận dỗi hỏi mẹ tôi:

- Sao mẹ bắt chị Cả xay lúa thế ! Chị Cả có quen làm những công việc ấy đâu !

Mẹ tôi trừng mắt:

- Không quen thì không làm à? Tao mua con dâu về có phải để mà thờ đâu !

Tôi tức quá, toan cãi, nhưng nghĩ đến ngọn roi mây, lại thôi. Mẹ tôi, nói đúng ra, không phải là người ác. Sự cần cù có từ khi lấy ba tôi, và cái thành kiến xấu xa về mẹ chồng, con dâu nuôi ngấm ngầm trong những đầu óc bảo thủ, là hai cớ chính xui mẹ tôi khinh ghét những kẻ không quen làm.

Thông minh, chị dâu tôi dần dần làm được hết mọi việc. Từ chiếc áo dài hoa, đôi giày nhiễu, chị tôi đã nhũn nhặn đổi sang bộ quần áo màu chàm thẫm, đôi dép da trâu mà chị tôi không bao giờ rời ra nữa. Cực khổ nhất là mấy tháng đầu, khi chị tôi chưa nói thạo tiếng Việt Nam. Nhớ đến sự cực khổ ấy, có lần chị tôi đã nhắc lại:

- Thà cứ câm đi mà hơn, chú ạ.

Nhà tôi là nhà nghèo, cơm thường ghế khoai cho đỡ gạo. Trừ tôi là được ăn cơm trắng. Nấu niêu cơm ngon lành mà tôi thường ăn hết ấy, tai hại! lại là công việc của chị tôi, một người đàn bà Tàu xưa nay chỉ quen sống trong cảnh đài các. Một hôm, ăn quá no, tôi bảo đùa chị:

- Chị ăn hộ cả cơm cho em nhé!

Chị tôi ăn thật, ăn ngon lành, nhưng với một vẻ sợ hãi làm tôi đoán ra là lâu nay chị thường thèm những buổi cơm gạo trắng lắm. Từ đấy, tôi thường kín đáo dành lại trong nồi một hai bát, và bao giờ, bao giờ chị tôi cũng nể lòng ăn hết!

Chị dâu tôi hay khóc lắm, khóc rưng rức suốt ngày. Chị thường bảo tôi bằng một giọng lơ lớ:

- Mẹ hay mắng lắm, em ạ.

Tôi còn nhỏ, không biết can gián, yên ủi thế nào cho khéo, ngoài cách khóc theo với chị tôi. Tôi hiểu biết người đàn bà ấy lắm, người đàn bà buồn khổ sàng từng hạt mẵn xuống nong trong khi trời chiều từng giọt hoàng hôn xuống tóc. Trông chị ngồi tẩn mẩn làm những công việc hằng ngày mà có lẽ xưa kia, chị không bao giờ ngờ sẽ phải nhúng tay tới, tôi thấy tâm hồn xúc động, bâng khuâng... Tôi nghĩ đến cái tổ quốc Trung Hoa với những manh áo chàm giang hồ khắp tứ xứ, cái tổ quốc mà tôi chưa từng biết bao giờ!

- Tối rồi, em ạ, thắp đèn mà học đi.

Ô hay! Sao lúc viết mấy dòng chữ này, tôi còn thấy như một niềm bối rối, gió tối bận bịu trong chùm tre, một đốm lửa lung lay châm loe vào bóng đêm bất tận! Tôi chăm chỉ ngồi học dưới ánh đèn lúc ấy, nhưng lúc này, quay nhìn lại cái dĩ vãng không vui vẻ, tôi rùng mình thấy hiện ra trên cái gì xa xôi, một váng vất buồn rầu, tang chế.

Người chị dâu tôi... Người chị dâu tôi...

Tôi là người biết cảm sầu rất sớm, nên người đàn bà lìa quê hương ấy đã là cái đề cho tôi khóc bằng thơ để làm ố hoen cả một buổi bình minh đáng lẽ rất tươi đẹp.

Hai năm sau khi chị tôi sinh thằng cháu đầu lòng, thì ba tôi mất. Cái vận mệnh nhà tôi thâm lại với những gót chân của ba thằng con mất bố. Mẹ tôi yếu, gia đình sa sút thêm. Chỉ còn mình tôi là được đi học. Chị tôi phải về ở nhà quê làm việc. Ngày đưa chân cả nhà tôi ra ga để lìa bỏ cái tỉnh thành bạc bẽo, tôi sụt sùi bảo chị dâu tôi:

- Chị về chịu khó hầu mẹ nhé. Đến Tết em về, em mua nhiều bánh cho cháu.

Chị tôi gật, ứa nước mắt.

Từ đấy cứ tuần tuần, tôi gửi về một bức thư, phần nhiều là thư khuyên mẹ tôi ăn ở rộng lượng với mọi người trong nhà. Làm như thế, tôi mong mỏi sẽ vợi được ở lòng người chị dâu đau khổ của tôi những nỗi buồn rầu khi xa đất nước...

Mỗi một dịp được nghỉ về nhà, với tôi hồi ấy, là sự giải thoát cái ngục tù thành phố, nơi tôi chỉ mơ màng thấy hình bóng một người đàn bà Tàu đau khổ. Tội nghiệp, những lúc trông thấy mặt tôi, chị dâu tôi cứ đứng ngây người ra, vì sự cảm động đã làm cạn hết lời nói. Tôi giấu mẹ tôi những thức quà biếu chị, có lúc là chai dầu thơm, có khi là vài thước lụa. Chị tôi thường phàn nàn:

- Chú tử tế với chị quá. Chị chả biết biếu chú gì được bây giờ.

Có, chị ạ, chị đã biếu em một thứ quà quý nhất: một tấm lòng thương người, một chân tình xứng đáng. Và bây giờ đây, trong cái linh hồn thơ pha lệ bị vùi sâu giữa cát bụi của đời, vẫn còn Sáng mãi những cảm tình chân thật buổi đầu.

Thường thường, chị kể chuyện cho tôi nghe:

- Chú ạ, ngày xưa chị sung sướng lắm kia. Chị là con một trong gia đình quí phái, cũng được nuông chiều như chú bây giờ, có phần hơn thế nữa.

Nói xong, chị tôi lại khóc. Chị tôi chỉ biết khóc. Những bữa cơm khoai, những ngày lam lũ đã làm chị chạnh nhớ đến cảnh sum họp năm nào.

Thời hạn nghỉ của nhà trường rất ngắn, nên thường thường tôi chỉ ở nhà được ba hôm là cùng. Mỗi lần lên tỉnh, chị tôi hay cho tôi tiền, hoặc bỏ giấu vào túi áo, hoặc nhét dưới đáy valise, và dặn quen miệng:

- Chú chăm mà học, rồi về dạy cháu.

Anh Cả tôi vì sự làm ăn ở tỉnh, chỉ có thể về quê thăm nhà mỗi năm vào dịp Tết. Vắng hai người thân ái nhất, chị tôi trở lại sống buồn bã như ngày mới về nhà chồng. Tiếng xay lúa ồ ồ nhiều lúc đến tận hai giờ Sáng như những nhịp đời thương nhớ âm vọng trong thời khắc và lòng người.

Hai năm sau, chị dâu tôi hoàn toàn thành một người đàn bà nhà quê An nam đặc. Trên cánh đồng rộng rãi của làng Đông Bích, người ta thường thấy một dải áo chàm in bặt trên nền trời mỗi Sáng, chăm chỉ và lặng lẽ như dấu hiệu một cuộc sống vâng lời, ngu muội.

Chị dâu tôi đã khác với ngày trước lắm rồi. Ba năm đôi, mấy đứa cháu tôi thi nhau ra đời, thi nhau sống một cách cơ cực và thi nhau kết thêm một ít dây liên lạc trói buộc chặt chẽ người mẹ chúng nó với cái đất nước này.

Người đàn bà ấy đã thôi không bao giờ còn dám há vọng trở về quê hương nữa.

° ° °

Tôi ra đời, xếp sách vở lại, mang vào trong bụi bậm cái hình bóng một người chị dâu lam lũ, nghèo hèn, chút chân tình nhận được khi trái tim tôi chưa biết đập một tiếng giả dối nào.

Sáu năm rồi, tôi cố nhắm mắt xoá cái vết đen mò của dĩ vãng, và xóa luôn cả những kỷ niệm buổi đầu.

Vài ba lá thư mỏng mảnh thỉnh thoảng rơi vào trong cái tẻ lạnh của đời tôi, đem lại nỗi nhớ nhung còn hơi vấn vương ở góc trời cũ. Mẹ tôi bây giờ đã già, ngót bảy mươi tuổi. Chị tôi thêm được mấy cháu, đôi mắt lâu ngày tôi chưa gặp chắc cũng mờ dần dần...

Tôi đi con đường tôi, đem châu báu của lòng ném hết vào những cuộc tình duyên vô vọng. Tôi phao phí thanh xuân đi để chóng thấy cái ngày già sắp tới, để tự phụ là mình biết sống đúng theo linh hồn.

Trên cái bao lơn của năm tháng cũ, chị dâu tôi vẫn đứng, buỗn bã với manh áo màu chàm cũ, mắt nhìn từ quãng trời xa về, bóng hoàng hôn mơ hồ ôm trùm lên sự vật.

Chỉ có tôi là sống ích kỷ, còn người mẹ già, người chị dâu đau khổ, mấy đứa cháu rách rưới vẫn sống theo khuôn phép, lặng lẽ và cần cù.

Sáu năm! Tôi xa quê hương sáu năm rồi mà không một lần nào nghĩ đến chuyện trở lại. Cái sức khỏe yếu ớt của mẹ tôi còn đứng được hay không, tôi không biết, và người chị dâu lưu lạc của tôi, có nói dối mấy đi nữa, chắc cũng đã quá chiều, xế bóng rồi...

Tháng tư, 1938






Anh Đỏ Phụ

Đã lâu, lâu lắm rồi, người dân xã Hòa Trường không ai còn nghe nói đến tăm hơi anh đỏ Phụ Ở đâu nữa. Nhiều người đồn rằng anh đã chết bên Tân thế giới. Riêng tôi, tôi không sao quên được anh, mà không quên được anh, có nghĩa là anh vẫn sống, ít nhất là trong ký ức tôi.

Mãi đến năm hơn ba mươi tuổi, anh đỏ Phụ mới đến làm rể mẹ tôi để chờ ngày cưới chị Yên về làm vợ. Đó là một anh chàng rụt rè, nhút nhát, đối với nhà vợ rất nể sợ, nhưng lại tỏ ra hết sức tháo vát trong mọi công việc. Lui tới nhà tôi trong hơn hai năm, anh giữ gìn từng cử chỉ, lời nói, ngay cả việc giáp mặt chị Yên, anh cũng cố tránh để khỏi mang tiếng là suồng sã. Mẹ tôi thương anh vì anh nết na, cần cù, giao cho việc gì cũng làm đến nơi, đến chốn. Mẹ tôi thường nói:

- Thằng Phụ nó nghèo nhưng là cái nghèo thanh bạch. Ông Biếm lại là ông đồ nho hay chữ nhất xã.

ông Biếm là bố anh đỏ Phụ. Vác lều chõng đi thi hỏng tú tài, thất thế, ông quay về làng mở lớp dạy học. Cái thuở "chi, hồ, giả, dã" nhanh chóng qua đi, học trò ông Biếm sớm đổi ngọn bút lông sang ngòi bút sắt. Trong đám môn sinh thưa vắng dần, chỉ còn một người theo học, ngoan ngoãn nằm rạp trên chiếc chiếu, mài mực, chép bài. Người đó là anh đỏ Phụ, vừa là con, vừa là môn đệ của thầy.

Rồi anh Phụ cũng thôi học nốt. Vốn liếng chữ nghĩa bố ban cho, anh Phụ chỉ còn giữ lại được mươi trang luận ngữ và anh chuyển sang đọc chữ Nôm, dựa vào cuốn Kim Vân Kiều truyện khắc gỗ, in chân phương trên nền giấy bản:

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Tiếng anh đỏ Phụ ngâm Kiều nghe buồn như tiếng xẻ gỗ vào những chiều nắng tà hiu hắt. Và cái nghèo, cái đói cũng len lỏi vào ba gian nhà lá thừa tự, làm hốc hác thêm nét mặt người bố và làm rạn dần hai bộ quần áo may bằng vải trúc bâu, lâu ngày sợi đã bở, của hai bố con ông Biếm.

Hồi gia đình tôi mới đến "ngụ cư" ở xã Hòa Trường này, ba tôi tìm tới kết thân với ông Biếm. Ông là người được xóm làng vị nể, họ bên ngoại ông lại trùng với họ chúng tôi. Theo một tập tục đã có từ nhiều đời, ba tôi, mỗi khi đến ngụ cư ở đâu, thường vẫn tìm những người "đồng tính", hoặc "đồng tuế", "đồng hương" để kết nghĩa. Hơn nữa, ông Biếm lại am hiểu Hán học, nên qua những câu chuyện trao đổi, ông trở thành người bạn tâm đắc với ba tôi. Mỗi lần sang nhà ông chơi, ba tôi đều dắt tôi đi theo. Đó cũng chính là đầu mối thân quen đưa đẩy anh đỏ Phụ trở thành người con rể trong gia đình chúng tôi

Còn chị Yên, chị gái nuôi, thì mẹ tôi đặt đâu chị ngồi đó, tuổi chị cũng xấp xỉ tuổi anh Phụ, và cũng ước mong kín đáo một tấm chồng chân chỉ như anh.

Thấy anh đỏ Phụ lần nào đến với chúng tôi cũng chỉ với cái áo cánh nâu, chiếc quần nâu, tôi hiểu ngay rằng anh chỉ có độc một bộ như thế mà khi về nhà anh cởi ngay ra, để mặc vào chiếc quần vá, hoặc đóng một cái khố nâu. Ở quê tôi ngày xưa, đàn ông nghèo đóng khố ra đường là chuyện thường thấy. Một lần, tôi bảo nhỏ anh Phụ:

- Anh em còn mấy bộ quần áo đấy. Hay là em lấy đưa anh mặc tạm nhé?

Tức thì anh Phụ rối rít xua tay, mặt ửng đỏ:

- Chết! Ai lại làm thế. Mẹ biết, mẹ cười cho!

ý anh Phụ muốn nói:

-... Chị Yên biết, chị Yên cười cho.

Nhưng anh không dám nhắc đến hai tiếng "chị Yên".

Đã là người thân của anh Phụ, tôi hay sang nhà anh chơi. Nhà anh ngăn nắp nhưng có vẻ trống trải, mái lá, vách đất, sân bằng đất nện, nửa sào vườn trồng mấy hàng cây cam, cây bưởi, vài thân cau. Từ ngõ chạy vào là hai hàng rào râm bụt cắt tỉa gọn gàng. Những ngày hè oi ả, sang nhà anh chơi, tôi có cái cảm giác như được hưởng những làn gió mát rợi, làn gió thường ngày vẫn lay động nhẹ nhàng chiếc quần vải trúc bâu phơi trên dây thừng, cái quần độc nhất ông Biếm đợi khô để nương nhẹ mặc vào, mỗi khi có việc ra đường hay đi ăn cỗ. Ông Biếm sống bằng nghề viết câu đối và tính hộ ngày giờ hung cát cho những đôi lứa thành thân.

Vốn liếng hàng năm của gia đình ông là hai mùa trẩy quả vườn đem ra chợ bán, chắt chiu để dành trong cái tráp gỗ sơn đen. Từ ngày được nhận làm thông gia với nhà tôi, ông Biếm mỗi năm ba bốn lần biện một món lễ sang sêu tết, có khi là mâm xôi, con gà, có khi là mấy gói chè hương, khay ngũ quả. Tôi còn nhỏ, nhưng cũng hiểu ra rằng, để sắm được một món lễ cho ra lễ như thế, ông Biếm và anh Phụ đã phải bóp bụng, bớt ăn trong nhiều ngày.

Hơn hai năm qua đi. Sắp đến ngày mãn tang ba tôi. Sắp đến ngày anh Phụ bỏ miếng trầu ăn hỏi, và thế là niềm mong ước bao lâu nay của ông Biếm đã có cơ thành sự thật. Lấy anh đỏ Phụ, chị Yên không phải sống xa nhà, chị có nhiều dịp tạt về thăm chúng tôi, cũng như tôi, bất cứ lúc nào, cũng có thể dễ dàng đến với chị. Cái hạnh phúc nhỏ bé của lòng tôi sao mà náo nức, thiết tha và gần gũi đến thế!

Chị Yên! Nếu đời chị đừng gặp một tai họa éo le, nếu chị cứ là chị Yên ước mong thầm kín một người chồng hiền lành như anh Phụ, thì đâu đến nỗi chị phải xa lìa tôi, lẩn tránh mọi người, và tôi đâu có phải viết ra câu chuyện tình đau xót hôm nay!

Cả anh Phụ nữa, sao cái bóng dáng hiền lành của anh lúc này không còn thấp thoáng hiện ra qua hàng rào cây ruối nữa, cái bóng dáng cố làm ra thản nhiên, nhưng kỳ thực là bối rối, xao xuyến, mỗi lần anh đến nhà tôi?

Chỉ còn một tháng nữa, ba mươi ngày nữa, một tuần trăng nữa, là anh đỏ Phụ sẽ đem lễ sang nhà tôi xin cưới chị Yên! Đột nhiên, như một cơn gió độc, người cậu họ tôi, không rõ từ đâu, sà xuống mái nhà chúng tôi, ở lỳ làm một vị khách báo hại. Những cái gì xấu xa, bỉ ổi xảy đến với người con gái đang khấp khởi tin vui, người con gái đau khổ, tôi đã có dịp viết hết ra trong truyện "Chị Yên".

Anh Phụ không biết gì hết.

Mọi người trong nhà tôi không ai biết gì hết.

Chỉ có hai người biết: cậu tôi - tên tội phạm - và tôi. Nhưng cậu tôi đã bỏ nhà tôi, trốn biệt. Tôi ở lại, nhưng tôi lại phải ngậm miệng, giấu tận đáy lòng một sự thật tàn nhẫn mà nếu hở ra, tôi chắc sẽ làm cho đời anh đỏ Phụ tan nát. Thà cứ để anh ấy không biết gì cả, cứ để anh ngờ vực, phỏng đoán, kín đáo dò hỏi xung quanh. Rồi không dằn lòng được mãi, một hôm anh kéo tôi lại sát gần, hỏi rất nhỏ:

- Nói thật cho anh biết đi em. Tại sao chị Yên lại bỏ nhà ra đỉ Ai đánh chị hay đuổi chị?

Tôi trả lời mà đôi mắt cay sè, nóng bỏng:

- Em không biết. Em không biết thật mà. Chắc là... chắc là chị ấy bị mẹ mìn dỗ đi không chừngGiá như mọi lần, nghe tôi nói như thế, anh Phụ đã cười. Nhưng lần này anh không còn có thể cười được nữa. Mặt anh đanh lại. Tiếng anh nói, tôi nghe thều thào, không thật, tiếng nói như rơi vào một khoảng trống rỗng mơ hồ:

- Lạ thật em nhỉ? Sao chị Yên lại bỏ nhà ra đi?

Rồi anh nằm vật xuống giường, một tay vắt lên trán, thở dài. Đó là một dáng nằm chán chường, tuyệt vọng. Tại sao tôi không nói thẳng cho anh biết rằng chị Yên của tôi, người vợ sắp cưới của anh, đã bị một tên khốn nạn làm nhục? Tại sao? Tôi chỉ còn biết trả lời cho chính tôi nghe mà thôi.

Từ hôm chị Yên bỏ nhà ra đi, việc làm đầu tiên của mẹ tôi là sang xin lỗi ông Biếm và xin trả của lại cho ông. Mẹ tôi tính nhẩm lại những món lễ ông mang sang biếu nhà tôi, hết bao nhiêu, để mẹ tôi đáp lại bằng số tiền rộng rãi gấp bội.

Nhưng ông Biếm một mực từ chối. Đôi mắt ông vốn đã buồn, lúc này càng buồn hơn. Ông vẫn mặc bộ quần áo vải trúc bâu đã sờn để tiếp chuyện mẹ tôi, bộ cánh ngày nào ông mặc vào những lần sang sêu tết. Tôi nhận thấy ông già đi nhiều, đôi gò má nhô lên và nước da khô héo. Giọng ông run run, chậm rãi:

- Bà cũng như tôi, có ai muốn chuyện xảy ra như thế này đâu. Chỉ thương thằng Phụ nhà tôi, hơn ba chục tuổi đầu rồi mà vẫn còn chịu cảnh hẩm hiu. Chỗ đi lại thân tình từ ngày còn ông cụ, xin bà chước cho món tiền trả của.

Nói xong, ông lim dim mắt nhìn ra ngoài vườn đầy nắng gió. Vẫn là thứ gió hiền hòa, nhẹ nhàng phe phẩy ngọn cau, giậu hoa râm bụt, thứ gió đã đón tôi ngày nào tôi sang chơi với anh đỏ Phụ.

Không trả được của cho ông Biếm, mẹ tôi tính sang một chuyện khác, hy vọng có thể làm nguôi ngoai được nỗi lòng anh Phụ. Dạo đó, mẹ tôi quen biết một nhà thuyền chuyên đến khắp nẻo bến chợ, buôn bán, đổi chác các mặt hàng. Chủ thuyền là một bà trước đây ở thị xã, có một cô gái lớn chưa chồng. Họ cần một tay chèo lái. Dịp may hiếm có, mẹ tôi giới thiệu anh đỏ Phụ. Thoạt đầu, anh không bằng lòng. Mẹ tôi cố nói vào để anh xiêu lòng dần:

- Anh chịu khó xuống thuyền với họ. Họ là những người làm ăn thật thà, may ra anh cũng có phận nhờ. Con Yên nó không lấy được anh là một thiệt thòi cho nó lắm. Anh phải thương lấy ông cụ, thương lấy anh.

Mẹ tôi đã tính toán và xếp đặt rất khéo. Anh đỏ Phụ đến sống trong khoang thuyền chật hẹp, làm sao khỏi có những "ra đụng vào chạm" với cô gái con bà chủ? Trước lạ, sau quen, huống hồ anh Phụ lại là người cần cù, chịu thương, chịu khó, thì sớm hay muộn, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.

Cuộc đời sông nước của người con trai xã Hòa Trường bắt đầu từ đó. Đã nhiều canh gà lạ eo óc trên những bến sông xạ Đã nhiều lần sao hôm, sao mai thay nhau hiện ra rồi lịm tắt. Nhưng hình bóng anh đỏ Phụ vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức tôi, thấp thoáng bên kia hàng rào cây ruối, mỗi lần anh đến nhà tôi. Cũng như còn nguyên vẹn cái vẻ hớt hải của chị Yên, khi chị nắm chặt cánh tay tôi lần chót, rồi vội vã bỏ ra đi vào một buổi sáng còn chưa rõ mặt người.

Chị Yên! Chị đi đâu đấy? Tại sao tôi không đủ can đảm nói thật tất cả cho anh đỏ Phụ biết? Tôi không dám nói ra vì đó là sự thật! "Có những sự thật không nên nói ra", ai đã viết nên câu chân lý đó?

Tôi mong cho con thuyền đưa anh Phụ trên các triền sông được thuận buồm, xuôi gió, cuộc đời anh được bình an ghé lại một bờ bến yêu thương. Mẹ tôi có lần vui vẻ nói với chúng tôi:

- Thằng cha đỏ Phụ tưởng không gặp may, thế mà lại hóa ra tốt số. Thôi thì cũng mừng cho nóNhưng mẹ tôi mừng hơi vội, vì một hôm, bất ngờ, anh đỏ Phụ đã trở lại. Anh không còn là anh đỏ Phụ ngày nào nữa. Nước da anh đã sạm nắng gió. Anh gầy đi trông thấy, đôi mắt đăm chiêu mỏi mệt. Chỉ khác trước đây là anh đã có thêm bộ quần áo bằng vải thô nhuộm mầu chàm xanh lơ như mầu sông nước.

Anh trở về, nhưng không còn ghé lại nhà chúng tôi như bao nhiêu lần trước nữa. Trong ba gian nhà lá thừa tự, bên cạnh người bố già, anh sống lùi lũi như một chiếc bóng cô đơn. Đã tắt hẳn cái giọng kể chuyện Kiều kéo dài và buồn man mác. Ngay cả tôi là người anh vẫn từng tỏ ra trìu mến, anh cũng tìm cách lánh mặt, hôm tôi đến gặp anh, trước khi lên đường ra thị xã học tiếp. Tuy anh không hé môi nói vì sao anh bỏ mẹ con bà chủ thuyền để trở về với cái xã Hòa Trường heo hút này, nhưng chúng tôi đều biết rằng, một lần nữa, đời anh lại "đứt gánh". Con thuyền buôn ghé lại ăn hàng trên các bến sông, đã thay chủ, và người chủ thuê mướn anh cũng đã thay lòng. Không còn chuyện "lửa gần rơm" như hôm nào mẹ tôi từng mong ước cho anh đỏ Phụ, cho chú rể hờ.

° ° ° Tôi ra tỉnh vừa học, vừa làm "gia sư" cho một nhà hàng cơm sát ngay ga xe lửa thị xã. Tại đây, có nhiều toán người thay nhau đến ăn cơm và ngủ trọ. Hầu như ngày nào cũng diễn ra những quang cảnh lạ lùng: những đợt mộ phu đi đất đỏ cao su và sang Tân thế giới. Những tên cai mộ phu lỳ lợm, mặt cắt không ra một giọt máu, mở túi bạc trả tiền mua người theo một giá ấn định, sau khi đã cầm từng ngón tay bắt lăn và điểm chỉ lên tờ giấy cam đoan đóng sẵn con dấu nhà thầu: mười đồng một đầu phu sang Tân thế giới và năm đồng đến đất đỏ Nam Kỳ. Chỉ sau một cử chỉ khô, gọn là nhận số tiền định mạng, con người chợt thấy hoang mang, nghe như có nhát dao nào cắt đứt lìa mình khỏi cuộc đời quen thuộc, khỏi thân thích, quê hương.

Một hôm, đang đứng chứng kiến cảnh đau lòng kia, tôi bỗng giật mình nghe có tiếng ai gọi:

- Cậu! Cậu út!

Tôi đưa mắt tìm: anh đỏ Phụ! Bên cạnh anh là người chị gái nghe tin em đi phu, nên vội ra thị xã tiễn chân. Tôi chạy lại với anh. Anh vẫn mặc bộ quần áo xanh lơ màu sông nước, chỉ khác là phía trên ngực, vừa đính thêm một mảnh vải trắng mang hàng chữ số phu phen! Tôi nghẹn ngào hỏi anh:

- Anh đi đâu đấy anh Phụ? Sao anh lại ở đây?

Anh đưa ống tay áo lên gạt nước mắt, trả lời tôi:

- Tôi đi phu Tân Thế Giới cậu ạ. Ra đây tìm mãi không được việc làm. Thôi thì cũng liều một chuyến, có người, có ta, lo gì!

Từ phút gặp lại nhau, anh đỏ Phụ và tôi không lúc nào còn muốn rời nhau ra nữa. Cả hai chúng tôi cùng nằm chờ tàu ngoài sân ga, suốt một đêm dài. Chúng tôi yên lặng nhiều hơn là nói chuyện, những câu chuyện ngày xưa vô cùng, vô tận, nhưng lại đứt đoạn, rời rạc, vì tâm trạng chúng tôi đang ở vào một cực độ hoang mang. Cũng như tôi, anh Phụ tránh không nhắc đến tên chị Yên, tuy anh có hỏi thăm mẹ tôi.

Đêm đó, tôi mong cho con tàu đừng đến, mong anh Phụ đổi ý, trở về. Nhưng tất cả chỉ là ước mơ hờ hão. Anh đỏ Phụ đã lăn tay, đã điểm chỉ rồi. Anh đã dúi vào bàn tay người chị gái tờ giấy bạc con công năm đồng, nửa số tiền bán đời mình để gửi về phụng dưỡng bố.

Và con tàu đang lù lù tiến đến, sau một hồi còi thét lên, xé ruột. Anh đỏ Phụ đứng bật dây. Tôi ôm ghì lấy anh, khóc nức nở. Một bàn tay chắc nịch kéo tôi ra, ấn anh Phụ và toán phu vào trong cái toa sắt đen ngòm, cái toa thường ngày vẫn dùng chở súc vật, khóa lại.

Khi đoàn tàu lừ lừ chuyển bánh, từ giữa đám người còn hoang mang, ngơ ngác, chị gái anh đỏ Phụ vụt lao ra, đâm bổ chạy theo tàu, chạy theo em, chạy thật nhanh, gào khóc, vẫy gọi, như muốn giằng lại khối thép, cho đến khi đứt hơi, chị nằm ngã vật xuống bên đường.

Con tàu mở hết tốc lực, phun khói mịt mù.

Từ phút đó, không bao giờ tôi còn gặp lại anh đỏ Phụ nữa.






Đọc truyện Hồ Dzếnh


 Hồ Dzếnh 1952











Tham khảo thêm về tác giả Hồ Dzếnh









Thụy Khuê
Hồ Dzếnh, vườn Thanh và nỗi sầu vạn cổ
 
 
 Ðất Thanh Hóa, vườn Thanh, quê ngoại Hồ Dzếnh, cũng là quê hương mối tình thứ nhất với người yêu Hồng Phúc, biệt hiệu "người em gái", người mà Hồ Dzếnh đã phác họa bằng những nét:
 Em ăn em nói em cười,
 Kiếp này không có hai người như em
người mà Hồ Dzếnh nhắn nhủ:
 Ðừng mong ước cả Thiên Ðường
 Hãy xin lấy một tấc vườn vắng hoa.
 Những câu thơ viết cho Hồng Phúc trong bài Giản dị, Mai Thảo nhớ lầm, sửa thành:
 Dẫu cho lỡ cả Thiên Ðường
 Thì xin một nửa tấc vườn vắng hoa.
 Sự nhớ lầm gây thêm nồng độ tha thiết của mối tình, và dẫn ngọn bút của Mai Thảo đến một triền vực khác: "Thì xin một nửa tấc vườn vắng hoa. Thế đâu là xin. Có gì mà xin. Thế là cho. Cho hết cả mùa hồn, gặt hái được nhánh nào cho luôn nhánh ấy, cuống quít thơ ngây và hồn hậu sống. Thế là thơ đầu đời, thế là sức khỏe của thơ có, thế là thơ không yếu đau. Rồi ý thức tới. Chứ sao. Nhưng cái gì tạo thành ý thức sinh động hồng hào [...] nếu không là những va chạm tình cảm bàng hoàng dội đập lại thành những cực điểm hân hoan hay thành những tận cùng bi đát?
 Trời đẹp như trời mới tráng gương
 Chim ca ánh sáng rộn ven tường
 Có ai bên cửa ngồi hong tóc
 Cho chảy lan thành một suối hương
 Trời, đất, chim ca, ánh sáng, mái tóc trở thành một suối hương. Tạo vật trong thơ Hồ Dzếnh, cuộc đời vào thơ Hồ Dzếnh biến hình từ một chủ quan không bao giờ chối từ cái quyền uy tỏa chiếu rạng ngời vả đổi thay lộng lẫy của nó. Như thế là chủ động. Như thế là sáng tạo. Như thế là thơ. Thơ là mặt trời và đời người Hồ Dzếnh."  Ðó là văn Mai Thảo.
 Vẫn Mai Thảo, bừng bừng, xung bút và chủ quan: "Trong cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở của những tháp ngà tiền chiến như những phần mộ lạnh buốt, thơ Hồ Dzếnh, hơn cả Xuân Diệu và theo tôi, hơn cả Nguyễn Bính đầu mùa, là những xâu chuỗi lanh lảnh nhạc vàng, gõ vui từng nhịp nắng mênh mông đài trán thanh niên. Tôi nhớ mãi cái cảm giác của tôi, hai mươi tuổi, tiếp nhận một tập thơ còn trẻ hơn hồn mình phơi phới. [...] Thơ Hồ Dzếnh tiền chiến là cái trạng thái ngu ngơ trong suốt nhất của một tiếng thơ mà chủ đề là tình yêu và ánh sáng. Ngó thật kỹ Quê Ngoại không hằn một vết nhăn. Nó là một khối lạc quan và tin tưởng toàn vẹn.(1)"
 Lạc quan và tin tưởng toàn vẹn? Có thật thế không? Hình như Mai Thảo hơi quá tay. Như Mai Thảo quá chén mỗi lần uống rượu. Như Mai Thảo sa đà mỗi lần được chữ đưa đi. Quê Ngoại hẳn là không hằn một vết nhăn, dù có cộng thêm ba mươi năm nữa. Nhưng niềm lạc quan và tin tưởng toàn vẹn là của Mai Thảo, chỉ là tâm tư Mai Thảo về Hồ Dzếnh. Còn Hồ Dzếnh, Hồ Dzếnh mang một tâm tư bi đát, một mối "sầu vạn cổ". Hồ Dzếnh đã gieo lên tiếng thơ tình yêu tan vỡ: Tình yêu và tan vỡ như một "thú đau thương" đặc dị, phát sinh một giọng thơ reo vui, mời gọi sự lỗi hẹn như một chén rượu nồng, như một trái cấm không cay:
 Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
 Ðể lòng buồn tôi dạo khắp trong sân,
 Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần...
 Tôi nói khẽ, gớm, làm sao nhớ thế!
 ...
 Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
 Tôi sẽ trách - cố nhiên! - nhưng rất nhẹ;
 Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
 Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
 Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dỏ.
 Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
 Cho nghìn sau ... lơ lửng ... với nghìn xưa....
........                                        (Ngập ngừng)
 Cuộc đời riêng của Hồ Dzếnh ghi đậm dấu ấn trong thơ. Người yêu đi lấy chồng. Người yêu trở thành trái cấm. Và trái cấm trong đời trở thành đối tượng trong thơ:
 Mộng tàn nước chảy mây trôi
 Tôi lui hồn lại nhưng đời đã xa.
  (Trở lại)
 Trời không nắng cũng không mưa
 Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung

 Chiều buồn như mối sầu chung
 Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa

 Ðâu hình tầu chậm quên ga
 Bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày
 (Mùa thu năm ngoái)
 Tính chất bi đát nơi Hồ Dzếnh không phải là do ngôn ngữ tạo thành mà như chính nó là hiện thân của không gian, cảnh vật, chính nó là chất liệu tác thành hình ảnh, tạo nên dư âm, tạo nên một thứ âm nhạc mới: âm nhạc nhẹ nhàng mà tha thiết; một thứ buồn mới: buồn chiều, buồn Hồ Dzếnh, lâng lâng, nhanh hơn slow, chậm hơn valse, buồn toả khắp không gian trong âm thanh và mầu sắc, một thứ sương mây của tiên nâu, một từ trầm không khói mà cay. Sự dịu nhẹ nơi Hồ Dzếnh ẩn dấu một chất buồn mỏng và nhẹ như sương, nhưng khi thấm vào người thì chẳng mạch huyết nào mà không rạn vỡ:
 Trên đường về nhớ đầy
 Chiều chậm đưa chân ngây
 Tiếng buồn vang trong mây
 Chim rừng quên cất cánh
 Gió say tình ngây ngây
 Có phải sầu vạn cổ
 Chất trong hồn chiều nay?
 Tôi là người lữ khách
 Màu chiều khó làm khuây
 Ngỡ lòng mình là rừng
 Ngỡ hồn mình là mây
 Nhớ nhà châm điếu thuốc
 Khói huyền bay lên cây ...
 (Màu cây trong khói)
 Dương Thiệu Tức phổ nhạc, đổi nhan thành Chiều, điệp hai lần Tiếng buồn vang trong mây, tiếng buồn vang trong mây... Chất trong hồn chiều nay, chất trong hồn chiều nay làm dài thêm dư âm, sâu hơn nỗi buồn.
 Nhạc ở Màu cây trong khói là nhạc tự chữ, ảnh hưởng tượng trưng, Dương Thiệu Tước trong Chiều vẫn giữ nguyên nhịp điệu Hồ Dzếnh, chỉ nhấn thêm một "ton", gia tốc thêm một chút, tạo ra một thứ biến điệu đồng điệu, một tiến độ tiệm tiến, khiến như Dương Thiệu Tước đã không làm vỡ chất buồn nhẹ mà trĩu như sương nơi Hồ Dzếnh, mà chỉ làm cho nó say sưa hơn, mờ nhạt hơn, quyến rũ hơn.


*
 "Tôi không muốn sống. Không muốn sống, không có nghĩa là chán sống, là không thể sống được. Không muốn sống, vì tôi thấy cái hiện tại tầm thường quá. Tôi băn khăn quay đầu về phương trời đã mất, sống lại cái gì đã qua, khóc ngày xưa không bao giờ về nữa. Tôi nghiệm thấy sống như thế thú lắm, tuy đau."(2)
 Những dòng trên đây, viết đã hơn nửa thế kỷ mà dường như đã ám ảnh, đã đeo nặng thân phận Hồ Dzếnh suốt đời. Một cuộc đời sống nhờ dĩ vãng, một đời văn, đời thơ, đời người luôn luôn băn khoăn tìm về phương trời đã mất, một đời từ chối cuộc hiện sinh để truy lùng quá khứ: Một nỗi bất hạnh. Như Kierkegaard đã linh nghiệm và cảm nghiệm: Sự tìm về quá khứ là nỗi bất hạnh sâu xa nhất của con người, vì ta không thể sống hai lần một giây phút hay một khoảnh khắc nào đó của đời ta, mà chỉ có thể sống nó trong sáng tác, sống nó trong nguồn bất tận của sáng tác.

 Ở Hồ Dzếnh, thú đau thương vừa là lẽ sống của sáng tác, vừa là thực tại của một cuộc đời nhiều chia ly và bất hạnh. Bất hạnh đời riêng , lồng trong bất hạnh lịch sử. Dường như Hồ Dzếnh là người cầm cờ cho một thế hệ làm thinh trước thời cuộc sôi bỏng, sống trong không khí đấu tranh mà những kẻ đấu tranh bị kết ám câm lặng: Ðó là thế hệ thanh niên nâng cao ngọn cờ ái quốc nhưng lại phải phủ nhận tư tưởng của chính mình: không thể phát biểu những điều chân thực nhất của lòng mình.
 Nỗi đau thương nơi Hồ Dzếnh như một sự lựa chọn đến từ khi chưa ra đời, khi người cha Giang Tây qua gặp người mẹ Thanh Hóa trong một bối cảnh nghèo nàn buồn bã, rồi nó đeo đuổi trong thời trẻ khi người "em gái" vườn Thanh bỏ đi lấy chồng, và nó vẫn không tha đến phải bỏ thơ để làm thợ, như bao nhiêu số phận cầm bút khác từ Nhân Văn.
 Từ Nhân Văn, Hồ Dzếnh ít giao du, gần như ngưng sáng tác, sống lặng lẽ với nghề thợ đúc thép, thợ cơ khí nhà máy xe lửa Gia Lâm. Hồ Dzếnh mất đi, ngày 13/8/1991 tại nhà riêng, số 80 phố Hòa Mã, Hà Nội, cũng trong lặng lẽ âm thầm, để lại ba tác phẩm tiêu biểu: Tập truyện ngắn Chân Trời Cũ, tập thơ Quê Ngoại và tập hồi ký Quyển Truyện Không Tên.

*
 Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, sinh năm 1916. Cha là người Quảng Ðông, chạy loạn sang Việt Nam khoảng 1890, gặp mẹ là cô lái đò bến sông Ghép, Thanh Hóa. Bắt đầu một sự giao lưu giữa hai thân phận, gặp gỡ giữa hai buồn rầu, hai định mệnh khắt khe. Ðó là một "duyên phận tối tăm và buồn rầu", Hồ Dzếnh cảm nhận "ngày gặp gỡ" của họ như vậy. Người cha "linh hồn Trung Quốc phát lộ trong từng bước đi" và người mẹ giống như những bà mẹ Việt Nam "đều phải đau khổ từ lúc lọt lòng" với "những tiếng thở dài mất tăm trong đêm tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống bổn phận hàng ngày, tầm thường và nhỏ mọn."
 Sự giao lưu giữa hai khối buồn rầu nẩy sinh những mầm mống buồn rầu khác, như thể hạt mầm gặp đất tốt cứ thế vươn lên: Sự buồn rầu, đau khổ, không may mắn trong dòng máu lây lan khắp thân phận tất cả những người thân yêu của Hồ Dzếnh, từ người cha, người mẹ, hai người anh, đứa em gái cùng cha khác mẹ, người chú, thậm chí đến cả người chị nuôi, người chị dâu, người anh rể, người hàng xóm, người cháu, cả con ngựa trắng của cha ... và bản thân Hồ Dzếnh cũng được hưởng gia tài bất hạnh đem vào văn học.
 Khung cảnh tạo dựng lên toàn bộ tác phẩm của Hồ Dzếnh như một "nỗi sầu vạn cổ" là một mái nhà tranh lợp sơ sài, để chảy xuống mặt khách một dòng ánh trăng hạ tuần, và ngừng lại ở đấy thành những đồng hào mới long lanh (Ngày gặp gỡ) một thế giới của những "người đàn bà buồn khổ sàng từng hạt tấm xuống nong, trong khi trời chiều sàng từng giọt hoàng hôn xuống tóc" (Người chị dâu tôi) không gian ở đây là một không gian giao cầu Nam Bắc:
 "Ðêm về trong những bước nhẹ, hắt hiu bốc hơi lên mặt sông. Nắng tắt dần dần, chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn ở Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây u hoài như một chinh phụ nhớ chồng." (Ngày gặp gỡ)
 Nền tâm hồn của Hồ Dzếnh dựa trên hai chữ "buồn bã" như thể trung tâm cuộc đời là buồn bã, và từ chốn đó, mọi sinh thể quay xung quanh, tạo nên một không gian buồn bã, và thời gian trôi đi, trôi lại, như luyến tiếc hồng tâm "buồn bã" không muốn giã từ.
 "Trên nền năm tháng cũ, hình ảnh chị dâu tôi vẫn đứng, buồn bã với manh áo màu chàm cũ, mắt nhìn từ quãng trời xa về, bóng hoàng hôn mơ hồ ôm trùm lên sự vật." (Người chị dâu tôi)
 Ở đây không có biên giới giữa văn và thơ vì văn Hồ Dzếnh chứa chất đầy hình ảnh buồn bã đã là những lời thơ trong văn. Lời thơ là những mảnh đời buồn bã mà mỗi con chữ là một nỗi buồn, chắt gạn lên từ những sần sùi, thô lậu của cuộc sống giao lưu hai linh hồn dân tộc Hoa Việt, nghèo khổ và buồn bã như nhau.

*
 Về cuộc sống riêng tư, ba người phụ nữ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đời Hồ Dzếnh, Huyền Nhân, Hồng Nhật, hai người vợ, Hồng Phúc người yêu và đối tượng thi ca.
 Hồ Dzếnh mất ngày 13/8 năm 1991, hai năm sau, năm 1993, phần di cảo của ông được chào đời do sự cố gắng của bốn người thân: bà Hồng Nhật, nay đã qua đời, anh Hà Chính, con trai nhà thơ, bà Hồng Phúc, người yêu và ông Nguyễn Khắc Xuyên, người sưu tầm và đề bạt; nhà xuất bản Thanh Văn, Hoa Kỳ, in hai tác phẩm: tập thơ Quê Ngoại II hay Tiếng Hát Thiên Nga và quyển hồi ký Quyển Truyện Không Tên.

 Quê Ngoại II phần lớn là thơ tặng Hồng Phúc. Một bài tặng Huyền Nhân, tựa đề Tặng Vợ Tôi Khi Còn Sống, làm năm 50, có những câu:
 Mùa đời rụng hết vàng xanh
 Nỗi đau thương cũ nay thành máu thơ.
 Một bài tặng Hồng Nhật, tựa đề Bài Thơ Tặng Vợ, với những dòng
 Mình vừa là chị là em
 Tấm lòng người mẹ trái tim bạn đời.
 Ngoài ra còn có bản thảo viết tay bài thơ nổi tiếng Giản Dị, tặng Hồng Phúc với những hàng:
 Em ăn, em nói, em cười
 Kiếp này không có hai người như em.
 Ba ý thơ gói trọn ba sinh mệnh khác nhau gắn bó với cuộc đời Hồ Dzếnh. Nhưng có lẽ sinh mệnh ngắn ngủi của người vợ đầu, đã để lại tác phẩm đau đớn và tổng kết một cách toàn diện chất bi đát trong đời văn, đời thơ, đời người Hồ Dzếnh mà có lẽ Hồ Dzếnh không ngờ, bởi ông viết không phải để in mà chỉ "để lại cho con". Ðây không phải là một tác phẩm văn chương trau truốt mà là những điều nói thẳng, nói thật của một người trực diện với hoàn cảnh gắt gao của cuộc đấu tranh tinh thần giữa con người và sự phủ nhận con người.
 Quyển Truyện Không Tên của Hồ Dzếnh là đoạn hồi ký viết về bốn năm bi thảm nhất trong đời nhà thơ, từ năm 1947 đến 1950, với người vợ thứ nhất, bà Nguyễn thị Huyền Nhân. Vào Thanh Hóa thời kỳ kháng chiến, Hồ Dzếnh gặp lại Hồng Phúc. Người yêu cũ khuyên ông nên lấy vợ. Hồ Dzếnh kết duyên với bà Huyền Nhân, một độc giả mến mộ thi tài và đã thầm yêu ông từ nhiều năm trước. 1947-1948, trong kháng chiến Khu Tư với tướng Nguyễn Sơn, tại Thanh Hóa, Hồ Dzếnh làm công tác văn nghệ tuyên truyền. Nhưng gia đình nhỏ của ông không sinh sống nổi, phải kéo nhau lên mạn ngược. Ở đây, "nước độc" không chịu được lại phải kéo nhau về đồng bằng. Nghèo quá, lương giáo chức không nuôi nổi gia đình hai vợ chồng và hai đứa con trai. Hồ Dzếnh phải bán chiếc xe đạp cũ để tiêu dần, cho nên phải cuốc bộ mỗi ngày mấy cây số đi dạy học. Rồi người ta không cho Hồ Dzếnh dạy học nữa, phải xoay ra buôn bán. Vẫn túng. Sau cùng ông xin được một chỗ dạy ở xa, hàng tháng mới về thăm gia đình. Huyền Nhân yếu dần, không đủ sữa nuôi con. Ðứa con đầu lòng ba tuổi, mất đột ngột vì không kịp chữa chạy. Người mẹ ốm không tiền thang thuốc. Ít lâu sau cũng mất theo con. Còn lại đứa bé bốn tháng rưỡi, Hồ Dzếnh địu con đi khắp Khu Tư xin sữa cứu sống thằng bé. Huyền Nhân mất năm 1950 thì hai năm sau, 1952, Hồ Dzếnh mang được con vào thành.
 Viết về giai đoạn kháng chiến bi thảm này, Hồ Dzếnh ký giọng người con trai sống sót kể lại chuyện mình với cái nhìn đặc biệt của nhà thơ về kháng chiến và chiến tranh. Thay lời con, Hồ Dzếnh viết: "Tôi sinh ra giữa một kỷ nguyên khác lạ, kỷ nguyên của những con đường thênh thang bị phá vỡ, cầu đổ xụp, nhà cửa tiêu tan, xe cộ mất lối. Người đô thị tản mạn lên rừng xanh, những cô gái xinh tươi của cuộc đời nhung lụa biến thành những cô hàng nước, những bèo bọt phong trần. Cuộc đổi đời đó thật là vĩ đại và kinh khủng, lay chuyển hết mọi từng lớp, giai cấp, san phẳng hết mọi chênh lệch sang giầu. Nếu chỉ có một trạng thái biến đổi đó thì chưa đến nỗi gay gắt. Ðằng này, buồn thế hệ gặm nhắm vào từng lòng người, cái phẫn uất, cay chua nhào thành một loại cảm giác kỳ dị, gán lên cuộc sống một hình thức sượng sần khó tả. Cái gì dở, trái, đều được văn chương mới mạng danh bằng những tiếng kêu ròn: tiểu tư sản, phong kiến. Muốn vào trong cái thế giới vừa tân tạo hôm qua, con người bắt buộc phải qua một lượt lột xác, hay ít nhất, cũng phải có ý thức lột xác [...]
 ... Cha tôi không còn được dạy học nữa vì lý do sức khỏe và nhất là vì giáo khoa (của ông) không thực tế. Học trò bây giờ quy tất cả các môn học về chính trị. [...] Chỉ tội nghiệp cho cô Kiều, cho Nguyệt Nga, lạc lõng từ mấy thế kỷ xa lại, thốt nhiên được người ta phê bình mổ xẻ [...]
 Văn nghệ biến ra một ý nghĩa khác: ai cũng làm văn nghệ được [...] và tác phẩm của một cá nhân, tuy được mang tên mình, phải có xen vào công trình tập thể.
 Trong cái biển đại chúng, bản sắc của một cá nhân bị đánh tan ra thành bọt. Văn nghệ không nhận ai là thiên tài cũng như cõi đời không biết có người nào là xuất chúng.
 Một nhà văn như cha tôi không khác gì cô gái điếm: Cô gái chiều khách hàng, nhà văn chiều thời đại. [...]
 [Nhưng] nghệ thuật không thể lừa được ai, và cũng không có gì lừa được nghệ thuật. Những tà tâm, lợi dụng nhất thời làm nổi tiếng, hay đúng hơn, làm xôn xao, sẽ chìm ngập khi con người không còn có mặt để kêu rộn những ngụy thuyết của mình."

(trích hồi ký, trang 19/20, 30, 31 và 55)

  Một Hồ Dzếnh rất khác và cũng rất giống Hồ Dzếnh ngày xưa. Một Hồ Dzếnh phẫn nộ ôn tồn. Hồ Dzếnh phẫn nộ công kích bản chất chế độ. Hồ Dzếnh viết những điều mà nhà văn đã phải câm nín suốt đời. Viết trong một lúc không thể "nhịn" viết được nữa. Hồ Dzếnh trực tiếp tả chân niềm ô nhục của người cầm bút như gái điếm bán trôn nuôi miệng, nhưng vẫn không xa một Hồ Dzếnh ngày xưa, Hồ Dzếnh của Chân Trời Cũ, mổ xẻ những nỗi đau của con người.
 Hồ Dzếnh viết thay cho con:
 "Có lúc tôi nhai mạnh đầu vú. Ở chỗ thịt nứt, nước miếng tôi thấm vào, tia sữa bị rút lên, nghe buốt đến tận ruột mẹ. Và sữa tuôn ra với máu, chảy tràn ra hai mép tôi, chất ngọt dịu pha lẫn mùi vị tanh hăng làm cổ tôi nuốt vội. Mẹ tôi co người, nghiến chặt răng lại, đôi mắt chớp chớp trong giòng lệ nóng hổi. [...]
 Máu cứ ứa, sữa cứ bật ra, cả một nguồn sống huyết lệ mẹ tôi cấp cho tôi để tôi đi vào đời với những con người ít khi nghĩ rằng nhân loại là một tác phẩm nhẹ mỏng như pha lê cần phải nâng niu từng cử động nhỏ. Giá những người nhắm mắt xô đẩy cả nguồn hy vọng loài người xuống hố đen thỏa thích, cũng được trời ban cho đôi đầu vú nứt cổ gà như vậy, thì chắc là đại họa được tránh đi, hòa bình phải được tôn trọng. Than ôi, chỉ vì quyền sinh sát lại ở những con người không được đẻ, không biết đẻ là gì, lấy lý trí để án ngữ cảm tình, và mỉm cười cho rằng sống ở đời nhiều khi phải tàn nhẫn [...]
 Sao cứ phải lấy máu để dựng một sự nghiệp, lịch sử cổ kim chưa bao giờ thấy nói đến giòng máu ác đổ ra mà làm nên truyện được. Nước Trung Hoa không sống vì Vạn Lý Trường Thành mà sống vì Khổng Tử. Dân tộc Pháp được nhắc đến thiên thu bởi vì nền văn hóa tinh anh mà không phải vì Nã Phá Luân hiếu thắng. [...]
 Cha tôi ghi trong hồi ký: [...] Thời đại bố sống là một thứ thời đại tác quái, thời đại bít hết nẻo thông và lương tâm nhiều khi rẫy chết. Lúc con đọc những dòng chữ này, chắc loài người đã nguôi cơn điên loạn, thế hệ đã chôn cất những khổ đau một thời [...] Bố muốn rằng, đọc lại nó, con nên có cái tâm niệm này trước hết: đừng bao giờ cổ võ, dầu chỉ bằng một lời nói vô tình, cái ý thức chém giết hằng rền vang trong mạch máu động vật [...]. Cái thời đại bố sống, anh em thù nhau, Ðông Tây ghét nhau, quả đất hừng hực những căm hờn bất mãn. Lẽ sống dệt bằng khói lửa, người ta không biết gì hơn là thủ tiêu nhau để hòng thoát ngõ bí.
 Trong cuộc xáo trộn Nam Bắc, có cái gì còn nguyên được giá trị cố hữu đâu. Cái quý nhất là con người lại không còn gì quý nữa, nếu nó không là thứ xuất phẩm được rèn đúc theo khuôn khổ của thời đại."

(trích những trang 47, 48, 49, 75 và 87)

  Một Hồ Dzếnh ngắn, trong di cảo tổng kết cái nhìn nhân bản nhất của nhà văn về chiến tranh, về tất cả các hình thức chiến tranh. Kể cả những thứ chiến tranh được gọi là cao đẹp nhất như kháng chiến. Bởi nó đã được chủ trương bằng những người, "không được đẻ", không biết đẻ là gì. Những người không có bầu vú nứt máu, tuôn sữa cho con bú. Cho nên họ không hiểu được giá trị sinh mạng con người.

Thụy Khuê


Chú thích:
(1)  Mai Thảo, Hai Nhánh Sông Tâm Hồn Trong Thơ Hồ Dzếnh, Văn, số đặc biệt về Hồ Dzếnh, NXB Nguyễn Ðình Vượng, Sài Gòn 1973. In lại trong Hồ Dzếnh Thi Sĩ, NXB Hội Nhà Văn, 1993.

(2)  Trích Gửi Bạn Phương Trời, trong tập Chân Trời Cũ, nhà xuất bản Nguyên Hà, Hà Nội, 1942.

 






Hồ Dzếnh


Nhà văn Thanh Châu có một giang sơn riêng – một gác xép bằng gỗ ghép giống hệt gác xép của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái”, mà chúng tôi gọi đùa là “ông Giê Su ở phố Hàng Thuốc Bắc”.. 
Một thời nhiều nhà có thứ gác xép như thế. Nó tăng diện tích ở không nhiều, nhưng tạo ra một mảng riêng tư. Gác xép của Thanh Châu được dành riêng cho ông làm việc và tiếp bạn, người nhà không hề lai vãng. Để lên cái gác xép ấy tôi phải leo một cái thang dựng ngược, bám cứng vào hai thành lung lay của nó mà từng bước nhích lên rồi chui mới qua một lỗ vuông hẹp. 

Từ khi nhà nước cách mạng về tiếp quản Hà Nội, Thanh Châu biến khỏi văn đàn. Đề tài, bút pháp thuộc dòng lãng mạn đã không hợp thời, lại còn nguy hiểm. Nó bị coi là nọc độc. Tác giả Tà Áo Lụa, Bóng Người Ngày Xưa… giờ đây ngồi lặng lẽ nơi mảnh đất tự tạo bên cái bàn trà nhỏ đã lên màu cánh gián và bộ ấm chén gan gà tí tẹo. 

Người thường xuyên có mặt trên gác xép của Thanh Châu là Kim Lân, cây bút số một về chuyện nhà quê. Người thứ hai là Bùi Xuân Phái. Gày còm, xanh xao, với gương mặt rất giống Chúa Cứu Thế, tự xưng “nhát gan bậc nhất Hà Thành”, hễ gặp quá ba khách đến trước là anh lịch sự bắt tay mỗi người một cái rồi ù té. 
Từ cái lỗ vuông ấy, vào một ngày không còn nhớ, nhô lên một mái đầu chải ngược, đường ngôi rõ ràng, một khuôn mặt xạm đen với nụ cười phô những cái răng dài. 
- Hồ Dzếnh đấy! - Thanh Châu nói khẽ với tôi. 
Tôi không quên được hình ảnh ấy – nó gắn chết vào trí nhớ. 
Con người lộc ngộc, xương to, thịt ít, ngồi xuống bên tôi: 
- Vũ Thư Hiên? Thanh Châu gật. 
Chắc hẳn Thanh Châu, hoặc Kim Lân đã nhắc đến tên tôi nhân đụng tới thế sự văn chương. Và còn một lẽ nữa - trong các khách của Thanh Châu tôi ít tuổi nhất. 

Chả là hồi ấy dư luận đang ồn lên với bài “Giương cao ngọn cờ tính Đảng, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ” của Tố Hữu. Nó hứa hẹn một trận đánh, rất có thể sẽ là một vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" thứ hai, Tôi được nêu tên cùng với truyện ngắn Đêm Mất Ngủ. Cùng với tôi còn có Nguyên Ngọc và Ngô Ngọc Bội. Là may. Chứ một mình thì nguy to. 

Lời phê phán của nhà thơ lãnh tụ lần này không gây ra đám cháy lớn. Tuy nhiên, sau bài báo đó các ông tổng biên tập, các thư ký toà soạn liền cầm kính lúp soi từng chữ trong mỗi vần thơ, mỗi câu văn. Mấy truyện ngắn hiền lành của tôi gửi đến đều bị trả lại. Hỏi vì sao thì các vị cầm trịch nhe răng cười. 
Trong hoạ có phúc. Tôi không được in thì lại được được tiếp chuyện các bậc đàn anh nhiều hơn. 

Kim Lân phát mạnh vào vai tôi: “Mặc mẹ nó! Được Tố Hữu đập, coi như “lúy” công nhận ông có chiếu trong làng văn. Hay chứ không dở”. Nói thế, Kim Lân phải tin tôi lắm. Câu ấy mà đến tai Tố Hữu thì lôi thôi to. Được Kim Lân tin, tôi sướng âm ỉ. Hiền lành một cục, thận trọng cũng một cục, thế mà rồi có lúc anh cũng bị nện cho một trận với truyện ngắn “Con chó xấu xí”. Người ta nói tác giả ví văn nghệ sĩ trung thành với đảng như con chó ghẻ xấu xí nọ, nó gắng sức giữ nhà cho chủ, thế mà vừa trơn lông đỏ da là chủ vật ra làm thịt. Một truyện ngắn hay, giọng văn mộc mạc, khó có thể tìm được một câu được hiểu là móc máy. Kim Lân cười buồn: “Cái bọn phê bình có cần chó gì nghệ thuật. Nghề của bọn ấy là bới. Cứ thằng nào viết văn không nổi là y như rằng nó quay ra làm phê bình”. Nguyễn Tuân trăn trối trước: “Này, đừng có chôn tôi bên cạnh một thằng phê bình đấy nhá!”. Nói cho công bằng, những nhà phê bình đôi khi cũng có ích ra phết. Không có họ độc giả không hiểu hết ý của tác giả, họ vạch ra mới thấy. Không kể những trường hợp các phê bình gia bịa ra những cái tác giả không chủ tâm. Như Văn Ngan Tướng Công của Vũ Tú Nam chẳng hạn. 
Hồ Dzếnh nắm chặt tay tôi, bóp bóp vài cái. Ấy là anh khen đấy, Thanh Châu giải thích. Anh ý nhị nhìn tôi, cười tủm tỉm. Sau mới biết Hồ Dzếnh ít khi tỏ thái độ khen chê. Anh là người kín kẽ. Thanh Châu nói về Hồ Dzếnh: “Của hiếm trong văn học. Bút pháp của ông ấy tôi muốn học cũng không được – là văn đấy, mà cũng là thơ đấy”. 

Không nổi tiếng như Nguyễn Tuân, nhưng Thanh Châu vẫn cứ là một bô lão trong nghề, được nhiều cây bút trẻ trọng vọng. Họ đến với anh, thành kính như vụng trộm hành hương về một quá khứ đã bị chôn. 

Thanh Châu bỏ bút đã đành, nhưng Kim Lân, trẻ hơn Thanh Châu cả chục tuổi, hoạ hoằn mới cho ra một truyện ngắn. Vì “ngứa nghề” (chữ của Kim Lân), chứ không phải vì nhuận bút. Nhuận bút bấy giờ còm cõi lắm. Đã thế lại chỉ có vài tờ báo nhận đăng thơ, hoặc truyện ngắn. Người muốn trở thành nhà thơ, nhà văn lại quá nhiều. Thiên hạ muốn cái tiếng cái danh, chứ nhuận bút họ không màng. Ấy là chưa kể họ còn phải nghiến răng móc túi cho những bữa chiêu đãi các vị chức sắc ở các thứ toà soạn. 

Trong số khách văn của Thanh Châu, Hồ Dzếnh là một nhân vật đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ anh lặng lẽ đến, lặng lẽ leo lên, rồi trầm ngâm nhấm nháp trà quạu, không nói không rằng. Lối viết của anh, chẳng khác gì của Thanh Châu, đã không còn đắc dụng. Viết văn giờ là công tác phục vụ cách mạng, phục vụ công nông binh, là trách nhiệm và sự nghiệp của nhà văn. Viết cái gì, viết thế nào, đã có đảng cầm tay chỉ việc. Mặc dầu không dính dáng gì với đám phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm", nhưng anh vẫn bị người ta nhìn bằng cặp mắt nghi ngờ - bọn văn nghệ sĩ cũ không thể tin – lũ ấy kém mười lăm phút đầy phản động. Để yên thân, thỉnh thoảng anh cũng có một bài thơ nhạt nhẽo trên tờ Lao Động. Anh không bao giờ nhắc đến chúng. 

Tôi đọc Hồ Dzếnh rất sớm, lúc mới lên mười. Cha tôi thường mang về cho tôi những cuốn Sách Hồng cho trẻ con, mỗi cuốn là một chuyện cổ tích. Chúng được kể với giọng dí dỏm, dễ hiểu, lôi cuốn. Lại có cả một cuốn sách thơ cho trẻ con, không nhớ là của ai, trong đó có hai câu còn đọng lại lâu trong trí nhớ:
Hôm qua trời đổ mưa rào, 
Mặt trời sợ ướt lẩn vào đám mây. 

Cuốn sách đầu tiên, đích thực sách, mà tôi được đọc, là Chân Trời Cũ. Một ngày, mẹ tôi mua Chân Trời Cũ về. Bà đọc chăm chú, có lúc thừ người ra, lấy tay dụi mắt – bà khóc thầm. 
Chờ cho mẹ đọc xong, quên nó rồi, đi vắng rồi, tôi mới dám lấy nó ra từ trong giỏ kim chỉ của bà. Lệ trong nhà là thế, trẻ con không được đọc sách người lớn. 

Tôi không biết nói về cảm giác của tôi là thế nào khi đọc Chân Trời Cũ. Một nỗi xúc động bất ngờ trong tâm hồn trẻ thơ chăng? Có thể không phải thế, hoặc không rõ ràng là thế. Những câu chuyện bình dị về những kiếp người, được viết bằng thứ tiếng Việt chân chất, không uốn éo, không màu mè, gợi nhớ những gì tôi đã biết, đã thấy trong cuộc sống bé bỏng của mình. Chúng để lại trong tôi ấn tượng mạnh chưa từng có. 

- Anh là người thày đầu tiên dạy tôi yêu văn – tôi nói với Hồ Dzếnh - Còn hơn thế, anh làm cho tôi hiểu tiếng Việt của ta đẹp đến là nhường nào. Nghe tôi, Hồ Dzếnh cười bẽn lẽn. Tôi dùng đúng chữ phải dùng – anh bẽn lẽn thật sự. Mặt anh đỏ lên, mắt anh chớp chớp, anh lúng túng trước lời khen. Những con người lớn thật sự bao giờ cũng mang trong mình một đứa trẻ. 

- Anh hiểu tôi rồi đấy – anh khẽ nói với tôi, như nói một mình – Tình yêu đối với văn chương không bắt đầu bằng cái gì khác ngoài tình yêu ngôn ngữ. Chuyện để kể thì ai mà chẳng có. Nhưng để viết nó ra, cho nó có hình hài, cho nó sống dậy, cho nó đi lại, trò chuyện được với mọi người thì ngôn ngữ là cái quan trọng hàng đầu. Và duy nhất. Nó quyến rũ mình, nó hút hồn mình, nó rủ rê mình, và sau hết, xúi giục mình cầm lấy cây bút. 

Tôi được nghe lời tâm sự này vào một đêm khuya ở ngôi nhà nhỏ của anh, số 80 Hòa Mã, khi Hà Nội đã ngủ yên. - 

Tiếng Việt là âm nhạc, anh ạ. Thoạt kỳ thuỷ, những câu văn xuất hiện như một dòng nhạc. Nó ngân nga mãi trong đầu trước khi mình cả gan đặt bút lên trang giấy trắng những chữ đầu tiên. Nó là một cái gì đó mơ hồ, ta chưa thể hình dung, một cái gì rất mơ hồ, như mây như gió, ta không nắm bắt được nó, không làm chủ được nó, không sai khiến được nó, cái ấy cứ cục cựa không thôi ở trong đầu, đòi được thoát ra. Ta như bị bức bách phải cho nó đi xuống trang giấy, thành một vần thơ, hoặc một câu văn. Sau đó thì vần thơ ấy, câu văn ấy, sẽ tự kéo theo nó những chữ khác, những câu khác. Và cứ thế, một bài thơ, hay một truyện ngắn ra đời. 
Tôi trích ở đây một đoạn trong Chân Trời Cũ tả người khách tha hương ngồi bên bến đò vắng tanh vắng ngắt trong chiều tà. Giở nắm cơm ra nhai trệu trạo, đoạn đứng lên bắc loa miệng gọi đò: “Tồ ui!” Trời đã ngả màu tím. Khách không tin còn đò. Nhưng rồi con đò ở bờ bên kia cũng rời bến sang với khách. Đêm ấy khách được ngủ đỗ trong nhà cô lái đò tốt bụng. 

Mấy tiếng tù và khuya rúc lên, bay vào gian nhà vắng. Lắng biết mọi người đã ngủ yên cả, vị thần tử của giang sơn Trung Hoa vắt chân chữ ngũ, khe khẽ ngâm một bài thơ cổ, qua nỗi xúc động đột nhiên tụ lại trong người: 

Uỵt loọc, vú thày sướng mủn thín, 
Coóng phống, dì phố, tui sàu mìn, 
Cú chấu sèng ngồi Hồn Sán sì. 
Dề pun, chống séng tâu hác sin. 

(Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên 
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên, 
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự, 
Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền)1 

Ngay lúc ấy, từ gian buồng bên, nổi lên mấy tiếng gì như chuột rúc. Lữ khách, thấy đứt mạch cảm hứng, càu nhàu trong bóng tối: 

- Ấy dà! Cẩm tố xỉ a! (Chà! Lắm chuột thế!) 

Nhưng đó không phải tiếng chuột rúc. Đó là tiếng người con gái chở đò ban tối cười qua hai làn môi khép kín. 

Cuốn Chân Trời Cũ văn gồm nhiều truyện ngắn, theo ghi chú của tác giả thì nó được viết vào tháng Giêng năm 1940, xuất bản lần đầu năm 1942. Nó được tái bản nhiều lần về sau này. Tôi rất nhớ hai câu kết của truyện ngắn Ngày Gặp Gỡ: 

“Người khách sang sông chiều muộn ấy về sau này là cha tôi. Và cô lái đò, là mẹ tôi“. 

Không hiểu sao mà câu sau cùng này lại biến mất trong lần tái bản sau cùng. Mà tôi cho rằng đó là câu khép chuyện hay nhất. Nó mới giản dị làm sao! Mới đẹp làm sao! 
Tôi có lần viết ở đâu đó: “Tôi có hai người thầy: Hồ Dzếnh chỉ cho tôi thấy cái đẹp trong ngôn ngữ giản dị; Nguyễn Tuân, ngược lại, dạy tôi cách sử dụng những từ cầu kỳ đúng chỗ để tăng sức mạnh của câu văn. Cả hai cho tôi hiểu tiếng Việt là âm nhạc, đích thực là âm nhạc, với những tiết tấu riêng, với sự xen kẽ của những toàn hài và cung chướng để đưa người đọc đi xa hơn, cùng với liên tưởng bất giác để bay xa, vượt lên trên những con chữ”. 

Hồi ấy, còn nhỏ, tôi chưa gặp thơ Hồ Dzếnh. Lớn lên, đọc anh tôi mới hiểu ra tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ theo nghĩa đen, đã ảnh hưởng tới anh mạnh đến thế nào. 

Trời đẹp như trời mới tráng gương 
Chim ca ánh sáng rộn ven tường 
Có ai bên cửa ngồi hong tóc 
Cho chảy lan thành một suối hương.2 

Một khúc khác: 

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! 
Ðể lòng buồn tôi dạo khắp trong sân, 
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần... 
Tôi nói khẽ, gớm, làm sao nhớ thế! ... 

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! 
Tôi sẽ trách - cố nhiên! - nhưng rất nhẹ; 
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về, 
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề, 
Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dở. 
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ, 
Cho nghìn sau ... lơ lửng ... với nghìn xưa....3 

Và : 

Trời không nắng cũng không mưa, 
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung. 
Chiều buồn như mối sầu chung 
Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa 
Ðâu hình tầu chậm quên ga 
Bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày 4 

Hay bài thơ Chiều đã được Dương Thiệu Tước phổ nhạc mà nhiều người thuộc nhưng không biết, hay quên, là những vần thơ của Hồ Dzếnh: 

Trên đường về nhớ đầy 
Chiều chậm đưa chân ngày 
Tiếng buồn vang trong mây 
Chim rừng quên cất cánh 
Gió say tình ngây ngây 
Có phải sầu vạn cổ 
Chất trong hồn chiều nay? 
Tôi là người lữ khách 
Màu chiều khó làm khuây 
Ngỡ lòng mình là rừng 
Ngỡ hồn mình là mây 
Nhớ nhà châm điếu thuốc 
Khói huyền bay lên cây ... 

Tôi không rành lý luận văn học. Tôi cũng không có ý định nghiên cứu về văn Hồ Dzếnh. Cái đó không phải việc của tôi – tôi không có cả tài năng lẫn hứng thú. Tôi có đọc một số bài nghiên cứu về Hồ Dzếnh. Trong những bài này có khá đủ dữ kiện để người đọc biết về Hồ Dzếnh với tư cách một văn tài. Nhưng tôi còn muốn nhiều hơn – một chân dung Hồ Dzếnh, con người và cuộc đời. 

Sau khi được làm quen với Hồ Dzếnh, tôi tìm đọc lại vài tác phẩm của anh. Ngôn ngữ trong những tác phẩm ấy tất nhiên khác với ngôn ngữ hiện đại. Nhưng nó không lỗi thời. Cái đẹp vẫn còn đó nhờ sức mạnh của ngôn từ giản dị. 

Năm 1986 Hồ Dzếnh vào Sài Gòn. Lần gặp gỡ này tôi được gần anh nhiều hơn những buổi tối ngắn ngủi ở ngôi nhà phố Hòa Mã. Ngắn ngủi là vì muốn nghe chuyện anh lắm tôi cũng không thể ngồi quá khuya, khi chị bắt đầu đi ra đi vào, có ý nhắc đã đến giờ anh đi ngủ. 

Ở Sài Gòn hôm nào anh cũng đến rủ tôi đi ăn sáng. Bắt đầu bằng một bát phở ở một quán theo anh là rất tuyệt ở chân cầu chữ Y, đoạn đi tiếp, uống cà phê ở một quán khác, gần nhà hàng Bát Đạt trên đường Trần Hưng Đạo, nó cũng tuyệt không kém. Một người bạn sành ăn sành uống đã cho anh lời khuyên, nó được anh nắn nót ghi vào mảnh giấy nhét trong túi ngực. 

Tôi chở anh đi bằng xe Honda 67. Chúng tôi phóng vèo vèo trên phố xá. Ngồi sau, anh ôm cứng tôi, luôn cục cựa, hết quay phải lại quay trái. Không biết trong những chuyến cưỡi ngựa xem hoa ngày ấy có làm anh nhớ đến Cô Gái Bình Xuyên năm 1945 hay không. Nó là tác phẩm lần đầu và cũng là lần duy nhất Hồ Dzếnh rời miền ký ức thân quen để bay lên những tầng trời tưởng tượng. Một thư sinh Bắc Kỳ lạc bước vào Hòn Ngọc Viễn Đông gặp một nữ tướng cướp. Chàng yêu nàng. Nàng yêu chàng. Một hôm nàng đi cướp, bị bắn. Xót nàng, băng bó cho nàng xong chàng mới ôm nàng trong lòng, mới thủ thỉ bảo nàng hãy ở nhà, chàng sẽ đi làm công việc nguy hiểm ấy thay nàng. Nữ tướng cướp nghe chàng, cười rũ. Nàng ép đầu chàng vào ngực mà bảo: công việc ấy không phải của anh mà, anh hãy cầm số tiền này rồi về Bắc đi. Nơi này, việc này không phải dành cho anh. 

- Tôi không giàu tưởng tượng – nhắc đến Cô Gái Bình Xuyên, anh cười mình – Cái gì dính với tôi, với những kỷ niệm trong đầu thì tôi viết được, hễ bịa là y như rằng hỏng, anh ạ. 
- Ờ, Cô Gái Bình Xuyên không quá tồi, nhưng với anh, tôi nghĩ nó là một thất bại. Tôi nói toạc, không sợ anh giận. Chúng tôi quen nói với nhau thật thà, không kiêng nể. 
- Nghề của ta thế đấy. Cái mình viết đã thả ra là không cách nào đuổi theo để bắt nó về. Vì vậy mà viết xong tôi thường để đấy rất lâu rồi mới cho in. 
- Nghĩa là anh còn nhiều bản thảo đắp chiếu? 
Hồ Dzếnh cười, tránh câu trả lời. 
Hồ Dzếnh viết thận trọng. Nhưng chỉ chừng ấy tác phẩm đã được anh thả ra cũng đủ làm phong phú thêm nền văn học mà ta quen gọi là tiền chiến. Những gì anh viết còn cho ta thấy được một hiện tượng khác - ấy là một người nước ngoài hoàn toàn có thể sáng tác bằng tiếng Việt không khác gì người Việt. 
Nghe nói người Hoa khuyến khích con trai Hoa lấy vợ Việt nhưng ngăn cấm con gái Hoa lấy chồng Việt. Chuyện này có thật - người ta làm thế là để bảo vệ nòi giống, và cả mở rộng nòi giống nữa. Chẳng thế mà những người Tàu tha hương giữ gìn tiếng Hoa lắm lắm, cho dù có lưu lạc đến tận đẩu tận đâu trên địa cầu. Hơn bất cứ cộng đồng di dân nào, người Hoa coi mất ngôn ngữ là mất gốc. Tiếng bản địa đối với họ vĩnh viễn là ngôn ngữ thứ hai, chỉ đủ dùng trong giao tiếp là được, không cần hơn. Thời tôi, nhiều người Hoa thuộc thế hệ thứ ba thứ tư vẫn không nói sõi tiếng nơi mình sinh sống. Trường hợp Hồ Dzếnh là hãn hữu. Mặc dầu theo phong tục của người Hoa, anh ắt phải học và rành tiếng Hoa hơn tiếng Việt. Anh sáng tác được bằng tiếng Việt ắt hẳn do anh có mẹ người Việt, và tiếng mẹ đẻ của anh đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn anh. 


Hồ Dzếnh và Vũ Thư Hiên, 1986


Cuộc gặp gỡ nhiều ngày với Hồ Dzếnh ở Sài Gòn cho tôi hiểu anh thêm. Chúng tôi có đủ thời gian cho những chuyện tâm tình. Cũng trong cuộc gặp gỡ này tôi mới biết trong sâu thẳm tâm hồn, Hồ Dzếnh có một vết thương khó lành và không đáng có. Dù anh đã có một chỗ đứng trong văn đàn Việt Nam, anh vẫn luôn cảm thấy có sự phân biệt: anh là nhà văn, nhưng là nhà văn người Tàu, hoặc tử tế hơn: nhà văn gốc Hoa. 

Mặc dầu người Hoa đến Việt Nam đã ăn đời ở kiếp trên đất này, đã chôn nhiều thế hệ cha ông ở đây, đã được người bản địa hiền hoà mở rộng vòng tay đón nhận, coi như người trong gia đình lớn các tộc người cùng sống chung với nhau trên một mảnh đất, nhưng đã xảy ra không ít cảnh đau lòng. 
Sử sách còn ghi trận quân Tây Sơn tàn sát một vạn sinh linh người Hoa ở cù lao Phố vào thế kỷ 18. Trong cơn thịnh nộ: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó ngựa xe tan tác/ Đánh cho nó mảnh giáp không còn/ Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ”, đến đàn bà trẻ con người Hoa cũng không thoát khỏi ngọn giáo lưỡi gươm thù hận. 
Theo thống kê không mấy chính xác, năm 1978 và đầu năm 1979 đã có hai vạn rưởi người Hoa vượt biên giới phía bắc để trở về Trung Quốc. Nhà nước Trung Hoa đỏ đặt tên cho nó là “nạn kiều”. Tất cả bắt đầu bằng một tờ truyền đơn giả mạo tựa hồ của chính quyền Trung Quốc kêu gọi người Hoa mau mau trở về tổ quốc để tránh một cuộc “tắm máu” sắp xảy tới. Tờ truyền đơn do một tên vô danh tiểu tốt ở Quảng Ninh học tiếng Trung ở Nam Ninh (Trung Quốc) thảo ra, dưới sự khuyến khích của tên quan thầy nắm công tác tổ chức ở trung ương. Tác giả tờ truyền đơn về sau leo lên một trong những chức vị cao nhất trong hệ thống nhà nước. Công lao được ghi nhận của y là đã xua đuổi được hàng vạn người Hoa ra khỏi Việt Nam mà không tốn một viên đạn. Tôi không viết tên chúng ra đây – chúng không đáng được nhắc đến. 

Thế là những con người, chứ không phải những con vật, đã ăn đời ở kiếp trên đất nước ta bồng bế nhau, dắt díu nhau, bỏ ruộng, bỏ vườn, bỏ nhà cửa, bỏ mồ mả cha ông chạy về cái đất nước mà tổ tiên họ đã bỏ đi để tới đất này. Ở mảnh đất bỏ đi ấy, những địa danh chỉ được mơ hồ biết đến, được nhớ tới, trong những truyền thuyết và những chuyện kể về đêm của những ông già bà cả. Giờ đây họ mếu máo chạy về một chân trời xám xịt đầy một màu máu của đủ thứ cách mạng long trời lở đất, hết cái này đến cái khác, mà họ được nghe từ những đồng bào sống sót trốn qua biên giới. Tổng số người Hoa rời khỏi Việt Nam từ Bắc chí Nam trong thời kỳ này lên tới gần một triệu trong số gần hai triệu người Hoa sinh sống ở Việt Nam, theo một con số thống kê. 
Kim Lân, theo tôi quan sát, là bạn thân nhất của Hồ Dzếnh, Nhưng hình như có những tâm sự chua xót Hồ Dzếnh chưa hề nói với bạn. Không phải anh có điều gì phải giấu giếm. Chỉ là anh không muốn nói, không muốn kể, những chuyện đau lòng.
Tôi may mắn hơn. Tôi được nghe anh kể những gì đã xảy ra với anh trong năm 1978: 
“Tờ truyền đơn ấy có tác động kinh khủng. Người ta tin nó là thật. Họ chép lại, trao tay nhau, rồi lời đồn loang xa. Thế là người Hoa ùn ùn kéo đi. Có gì trong nhà mang ra bán cho bằng hết, bán rẻ như cho, lùng sục mua vàng. Nhẫn một chỉ, nửa chỉ, vài đồng cân, mua hết, không cân kẹo, không phân biệt thật giả, dắt tất tật vào lưng quần. Lưng đeo ba lô, vai khoác tay nải, họ dắt díu nhau lên đường. Nước mắt lưng tròng, họ hối hả đi, thất thểu đi. Thảm lắm, Tội nghiệp nhất là những gia đình Hoa Việt - chồng đi, vợ ở lại, vợ đi, chồng ở lại. Những đứa con mếu máo chia tay nhau, đứa đi đứa ở, xảy đàn tan nghé. Tôi có anh bạn bác sĩ đông y người Hoa, vợ Việt, hai đứa con, một trai một gái. Anh chồng mang theo con trai, vợ ở lại với con gái. Bao nhiêu là nước mắt. Chia tay họ, tôi khóc ròng”. 

- Còn anh thì sao? – tôi hỏi. - 
Tôi không đi. - 
Tất nhiên, anh còn đang ngồi đây với tôi mà. 
Hồ Dzếnh thở dài: - Tôi không thể đi. Nơi này là quê hương tôi, là đất nước tôi, là tình yêu của tôi. Tôi không thể bỏ. 
- Những người ra đi không lôi kéo anh? 
- Có chứ. Người ta đến nhà rủ tôi đi cùng. Hằng ngày. 
Người ta thương tôi, lo sợ cho tôi. 
- Còn chính quyền? 
- Chính quyền? 
- Người ta có làm khó anh nhiều không? 
- Có đấy. Họ đến nhà, giục gia đình tôi đi. Không phải một lần. Tôi lánh mặt. Họ hỏi vợ tôi: “Bao giờ ông bà mới chịu đi?” 
- Chị trả lời thế nào? 
- Nhà tôi bảo: “Tôi không biết. Thuyền theo lái, gái theo chồng, câu ấy chẳng lẽ các ông không biết. Trong nhà ông nhà tôi là người quyết định, không phải tôi. Các ông đi mà hỏi ông ấy!” 
- Ông ấy không chịu giáp mặt chúng tôi. 
Chúng tôi biết – ông ấy đang ở trong nhà. 
- Ông ấy đi từ sớm, lúc tôi còn ngủ. Thức dậy đã không thấy ông ấy đâu. Chắc ông ấy không ngủ được, dậy xong là đi. Các ông thử tìm ở mấy quán cà phê xem có ông ấy có đấy không? 
“ Rồi họ cũng tóm được tôi – anh tiếp – Bảo tôi đi theo. Đi thì đi. Ngồi lên command-car, hai người của chính quyền ngồi hai bên. Như sợ tôi chạy. Công an, tôi nghĩ. Họ đưa mình đi đâu đây? Xe rẽ vào Hỏa Lò, anh ạ. Cái Maison Centrale này người Hà Nội có ai không biết. Tôi tự hỏi: “Mình làm gì mà họ bắt cơ chứ”? Xe đỗ lại trong một cái sân rộng. Tôi hình dung cái sân Hỏa Lò sạch bong với mấy dàn nho queo quắt. Tôi đã đứng đây vào thời thuộc Pháp khi đi thăm cha tôi. Tôi cũng đã đứng đây chờ được đưa vào xà lim, thời cách mạng. “Theo chân họ, tôi bước vào một căn phòng trống huếch trống hoác, ở tường hậu có một cái bàn giấy. Lấy thêm ghế, phân ngôi chủ khách. Chủ ngồi trong. Tôi ngồi ngoài. Mời uống trà. Thuốc lá sang, Thăng Long bao bạc hẳn hoi. Chuyện trên trời dưới đất. Sau hết, mới vào đề: 
- Anh nhất định không chịu ? 
- Tại sao tôi lại phải đi? 
- Người Hoa đi cả, anh ở lại làm gì? 
- Nhà tôi ở đây, vợ con tôi ở đây, đi đâu? Việc gì tôi phải đi? tôi nói. 
Họ nhìn nhau, cười. Cứ như họ nghe một câu trả lời ngớ ngẩn của người điên. Tôi bặm môi lại, không nói thêm câu nào nữa. Nói làm gì? Có nói họ cũng chẳng hiểu. Với họ, tâm hồn con người là thứ vớ vẩn, họ không thể hiểu, không thèm hiểu. Rồi họ đứng lên, ra hiệu cho tôi đi theo”. Anh im lặng, nhớ lại. 
- Họ đưa anh đi đâu? “Qua một cửa lớn làm bằng nhiều song sắt. Rồi một cửa nhỏ, cũng bằng song sắt. Nó dẫn vào một hành lang mờ mờ tối, hai bên là những cánh cửa sơn xám có then cài với những cái khóa bằng đồng”. 
Tôi thảng thốt: 
- Đó là khu xà lim 1. Tôi từng ở đấy. Họ giam anh? 
Hồ Dzếnh trầm ngâm. Rồi cười buồn: “Lúc ấy tôi cũng nghĩ thế - mình sẽ bị giam ở đây. Nhưng không, họ không giam tôi. Một anh có vẻ là cấp trên trong hai người mở nắp cái ô nhỏ bên trên cánh cửa, kiễng chân nhòm vào, rồi ra hiệu cho tôi nhòm theo. Cái lỗ quan sát ấy tôi biết qua sách. Người Pháp gọi nó là le judas. Tôi không phải kiễng chân, tôi cao hơn anh ta, Nhòm vào, tôi giật bắn mình - bên trong là một cái xác trần truồng, gày đét. Nghe động, cái xác hé mắt. Hoá ra là một người sống. Tất nhiên, anh ta không nhìn thấy tôi, cái lỗ ấy chỉ cho anh ta thấy hai con mắt. May, không phải một người quen. Tiếp theo, họ mở thêm vài cái ô như thế nữa, vẫy tôi lại, nhưng tôi lắc” 
– Rồi sao? 
“Họ đưa tôi về nhà, cũng trên chiếc command-car ấy. Trên xe, chúng tôi không ai nói với ai câu nào. Chỉ khi mở cửa xe cho tôi xuống, người công an cấp trên mới đặt tay lên vai tôi: “Anh thấy rồi đấy – anh muốn về Tàu hay muốn ở lại trong cái chỗ anh vừa thấy?” 

Câu chuyện Hồ Dzếnh kể làm tôi bàng hoàng. Lại thêm một cái không thể ngờ có thể xảy ra trong cuộc cách mạng mà tôi đi theo từ thuở thiếu thời. Những người mà tôi từng gọi là đồng chí bên trong cái vỏ bọc cách mạng đã hành xử tàn nhẫn đến thế đấy, với một nhà văn không hề chống lại họ. 

Đoạn hồi ức này không có tham vọng nào hơn là thêm vài chuyện vặt vào những gì nhiều người đã viết về Hồ Dzếnh. Lần gặp anh ở Sài Gòn là lần cuối. Sau đó chúng tôi cũng không có thư từ, điện thoại cho nhau. Tin nhắn cuối cùng anh gửi cho tôi là bài viết thay cáo phó trên tờ Văn Nghệ.

***

 Tháng 8 năm 1991, tôi ở Warszawa. 

Một buổi chiều, sau khi uống cà phê ở quán U Szwejka trên quảng trường Konstytucji, tôi thả bộ tới đường Marszałkowska thì một chiếc taxi trờ tới. Ắt hẳn anh lái nghĩ tôi là một du khách đang lớ ngớ tìm đường. Ngạc nhiên làm sao, vừa ngồi vào xe, lên tôi thấy bên mình một tờ báo tiếng Việt. Một hàng tít lớn đập vào mắt :”Nhà văn Hồ Dzếnh không còn nữa”. Xem ngày tháng thì thấy tờ báo mới ra hôm qua. Chắc hẳn người khách trước tôi là người Việt vừa đi từ phi trường Okiecie vào thành phố đã bỏ lại. 

Tôi bàng hoàng. Tôi ít khi nghĩ tới cái chết, cho chính mình, cũng như cho những người tôi biết. Sự sống vốn chẳng là vô hạn với bất cứ ai – biết là thế, nhưng bất ngờ vẫn cứ là bất ngờ. Thậm chí trong hành trang của tôi vẫn còn đấy cái đồng hồ quả quít cổ mặt sứ tôi mua ở chợ đen Donbass để gửi cho Hồ Dzếnh. Có lần nào đó anh nói với tôi anh thích đồng hồ quả quít hơn đồng hồ đeo tay. Nó gợi nhớ cái đồng hồ của cha anh - vật còn lại lâu hơn mọi thứ khác sau khi cha anh qua đời và mẹ anh phải bán đi tất cả. 

Tôi nhoài lên ghế trên, hấp tấp nói lại địa chỉ. Thay vì về nhà, tôi bảo anh tài xế đưa tôi đến chỗ khác. Ở thương vụ Việt Nam tôi có thể nhờ gửi tin nhắn bằng telex nhanh nhất về cho con rể. Các con tôi đã có mặt trong tang lễ, thay tôi tiễn đưa nhà văn mà tôi yêu mến đến nơi an nghỉ cuối cùng. 

Thêm một lần, tôi tin ở tâm linh. Nó có thật hay không có thật tôi không biết. Bằng sự tình cờ hi hữu, Hồ Dzếnh gửi cho tôi lời nhắn cuối cùng: “Tôi đi đây. Chào nhé!”. 


Những tác phẩm đã xuất bản của Hồ Dzếnh: 
- Quê Ngoại (thơ, gồm những bài góp nhặt từ năm 1935 đến 1942, xuất bản năm 1943); - Hoa Xuân Đất Việt (thơ); - Chân Trời Cũ (tập truyện ngắn, xuất bản năm 1942 (nhà xuất bản Hoa Tiên); - Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hoa Tiên) - Hai Mối Tình hay Tiếng Kêu Trong Máu (truyện dài, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hợp Lực, 1968); - Dĩ Vãng (tiểu thuyết) - Những Vành Khăn Trắng (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh); - Đường Kẽ Mãnh (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật ,số 187, 12-12-1943); - Nhà Nhiều Con (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật, số 206, 11-6-1944). - và nhiều truyện ngắn khác đăng rải rác trong các giai phẩm xuất bản thời tiền-chiến. 

Chú thích : 

1 Bài thơ Phong kiều dạ bạc của Trương Kế, đời Đường. 
2. Xuân ý. 
3. Ngập ngừng 
4. Mùa thu năm ngoái 







Hồ Dzếnh văn xuôi và chân trời buốt nhớ
 Vi Thùy Linh


Công chúng vẫn nhớ ông qua hai bài thơ đã đi vào ca khúc là Chiều và Ngập ngừng, nhưng Hồ Dzếnh không chỉ có thế. Giở lại Tuyển tập thơ văn Hồ Dzếnh tuyển chọn được NXB Hội Nhà văn in từ cuối năm 2012, tôi lại thấy cần phải viết về ông.

Cơ duyên với Thạch Lam

Các thế hệ công chúng vẫn nhớ ông qua hai bài thơ thành ca từ ca khúc: Chiều (viết năm 1940, được Dương Thiệu Tước phổ nhạc tại Sài Gòn sau hơn 30 năm), Ngập ngừng với câu đầu Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! Tôi thích tên ban đầu của Chiều là Màu cây trong khói, in báo Người Mới.

Trước đó, Hồ Dzếnh đã in tập truyện hồi ký Người chị dâu tôi (tập san Mùa gặt mới, NXB Tân Việt) được Thạch Lam để ý và nhắn Như Phong bảo Hồ Dzếnh đến báo Thời Nay nhận thư khen - cơ duyên cho Hồ Dzếnh thăm bậc đàn anh, tại ngôi nhà đơn sơ ven đê Yên Phụ. Số lần gặp ít ỏi, tổng thời gian chỉ vài tiếng, Thạch Lam - bậc thầy tùy bút đã truyền cho Hồ Dzếnh tinh thần của người sáng tạo chân chính.

Chính Thạch Lam, vào tháng ngày cuối đời, bệnh phổi không thuốc chữa trị, gầy rộc và ốm yếu, đã đọc, góp ý cho tập truyện Chân trời cũ. Bài tựa cho tập truyện này là nét bút cuối cùng của Thạch Lam - nghệ sĩ say mê ngôn ngữ (chữ của Hồ Dzếnh) với cõi đời. Khi người em đến nhà đàn anh lần thứ 6, mang theo tập truyện vừa in, thì “tôi chỉ còn thấy quang cảnh đắng ngắt, một chiếc giường nhỏ trống trơn, chị Thạch Lam lặng lẽ bước ra, đầu vấn khăn tang, nghẹn ngào cho tôi hay, anh đã mất được hơn một tháng”.

Thạch Lam, Hồ Dzếnh - hai con người, sinh trưởng, vùng kí ức và miền sáng tạo khác nhau, đều hết lòng vì văn chương, tác phẩm của họ sau bao năm vẫn lay động người đọc. Tình cảm, nỗi xa xót luyến thương, sự mẫn cảm và nhân ái trước bao số phận lam lũ, nhỏ nhoi thể hiện bằng rung động chữ mãnh liệt và tinh tế.
 
Thơ không ấn tượng bằng văn xuôi

Không phải với cây bút nào, văn cũng là người, còn Hồ Dzếnh văn - đời - nghiệp - mệnh. Thơ Hồ Dzếnh trong tập Quê ngoại, Hoa xuân đất Việt (1946) không ấn tượng mạnh bằng văn xuôi.

Trong các tác phẩm của ông, giọng tự sự trong sáng là chủ đạo, dù “đổi vai”, dù giấu mình qua việc tả người khác. Văn liệu của ông lấy từ cuộc đời mình, được thể hiện đầy tài hoa, kỹ lưỡng. Ông viết về đớn đau, mất mát như cách chăm chút lại mình khi đã qua bão tố. Trận này rồi trận khác, rút của ông sinh lực, nước mắt, mà Hồ Dzếnh không một lần than trách, bẳn gắt, cay nghiệt.

Người đàn ông Trung Hoa Hà Kiến Huân từ Quảng Đông sang đất Việt làm ăn, lúc đầu bán thuốc dạo, gặp và lấy cô lái đò Đặng Thị Văn, ở bến Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa chăm chỉ làm ăn, mở được xưởng gỗ ở đường Hạc Thành, châu Như Xuân.

Hai người có 3 con trai, Hà Triệu Anh sinh năm 1916, là con út. Năm 15 tuổi, Hà Triệu Anh rời làng Đông Bích, xã Hòa Trường (nay là Quảng Trường) lên Hà Nội học tiếp bậc Thành chung, dạy tư, làm công cho các hiệu buôn Hoa kiều. Từ 1937, thơ, truyện ngắn của ông in trên các báo: Tiểu thuyết thứ Bảy, Trung Bắc Chủ nhật. Những sáng tác trước 1945 là mảng chính lưu tên Hồ Dzếnh trong lòng bạn đọc. Hồ Dzếnh là phát âm tiếng Quảng Đông từ “Hà Anh”.

Mỗi dòng về mẹ cha, anh trai, chị dâu, chú Nhì, đứa cháu, e Dìn đều đập mạch thiên lương hiền hậu, đặc biệt quan tâm đến thân phận phụ nữ nông thôn. Trái tim đa cảm, nhân hậu của ông dành cho chị Yên: “ Thân hình gầy nhẳng trái hẳn lại với sức khỏe dai dẳng của chị, bổ hết 5 tạ củi một ngày”. Chị được mẹ tác giả mua giá 2 quan vào năm lụt lội đói ăn, nhận làm con nuôi. Phận áo ngắn yêu nhau, người xin lấy chị Yên là anh đỏ Phụ. Truyện ngắn Anh đỏ Phụ (10/1941) là mối đồng cảm với tha nhân. Không ít người viết truyện thật lại thấy giả, truyện ngắn của Hồ Dzếnh luôn cho tôi cảm giác là truyện thật mà ông tham dự, chứng kiến trong đời. Nó được viết kỹ, dồn cảm xúc, với phong cách với văn phong tài hoa Anh đỏ Phụ là phận dân đen con của ông Biếm, thầy giáo làng, đã cùng cha sang ăn hỏi chị Yên, ba năm mãn tang cha nuôi sẽ cưới, ngờ đâu, hơn hai năm thì chị bị hại, do chính “cậu tôi cướp đoạt đời con gái”, chị Yên phải bỏ làng ra đi. Anh đỏ Phụ đi làm thuê rồi xung làm phu đất đỏ cao su ở Tân Thế Giới, chia tay “tôi” ở ga xe lửa thị xã, vì đau khổ mà đưa đời dân đen vào kiếp phu phen bỏ xác xứ người. “Đêm đó, tôi mong cho con tàu đừng đến, mong anh Phụ đổi ý trở về, nhưng chỉ là mơ ước hờ hão. Anh đỏ Phụ đã lăn tay điểm chỉ rồi. Anh đã giúi vào tay chị gái tờ giấy bạc con còng 5 đồng, nửa số tiền bán đời mình để gửi về phụng dưỡng bố. Tôi ôm ghì lấy anh, khóc nức nở. Một bàn tay chắc nịch kéo ra, ấn anh Phụ và toán phu vào trong toa sắt đen ngòm, cái toa thường ngày vẫn dùng chở súc vật, khóa lại”.

Truyện Hồ Dzếnh làm người đọc cay mắt, thậm chí khóc ròng, bởi ông viết bằng ngòi bút hòa máu và nước mắt, bởi không phải hư cấu mà chính từ bi kịch đời ông, mất nửa đời lo miếng ăn, long đong khốn đốn.

Tận cùng cay đắng

Ngoài tập truyện ngắn Chân trời cũ, Hồ Dzếnh còn có tiểu thuyết: Cô gái Bình Xuyên; Một chuyện tình 15 năm trước, kịch thơ Đêm lịch sử (một hồi một cảnh), truyện dài Cuốn sách không tên (bắt đầu viết 1978, NXB Văn học 1993), thơ - dịch Nazim Hikmet, các bài ký chân dung...
Kháng chiến, ông về lại xứ Thanh, năm 1947 lấy bà Nguyễn Thị Huyền Nhân. Năm 1950, khi con trai mới bốn tháng tuổi, buổi sáng Tết Đoan Ngọ (5/5 AL), bà Huyền Nhân khi đó 20 tuổi, chỉ vì ăn bát chè đỗ đen phơi sương qua đêm và miếng dưa hấu buổi sáng, chiều phát bệnh tả không có thuốc, qua đời.

Vợ chết, con khát sữa khóc ngằn ngặt, Hồ Dzếnh gầy lả nuốt nước mắt đi tìm mua quan tài, về chỉ kịp vùi vợ xuống nghĩa trang cùng hai phu khiêng, không bia mộ. Ông đưa con đi “bú thép” (bú nhờ) khắp khu Tư, cảnh mà Vũ Bằng đã thấy và ghi lại. Ông chạy xuống cầu Bố về Hà Nội thì không còn thân thích, lại cõng con vào Sài Gòn, ở đó có anh ruột Hồ Triệu Bích, mở tiệm xe đạp ở đường Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu).

Năm 1954, ông về Hà Nội lấy bà Nguyễn Thị Hồng Nhật (cùng tuổi, góa chồng, có một con trai riêng) và sống ở tầng trệt nhà 26B phố Huế, sau bị đẩy lên gác. Năm 1978, gia đình ông chuyển sang nhà 80 Hòa Mã - nơi ông mất năm 1991, do xuất huyết dạ dày, viêm thận. Bà từng có thai nhưng bị chết lưu, phải cắt dạ con, nên họ không có con chung. Người con duy nhất của ông là Hà Chính và ông Hà Chính cũng chỉ có một con duy nhất Hà Quang (SN 1984), học đại học xong, đã đi làm định cư Hanover, Đức. Cháu đích tôn của thi sĩ vẫn tiếp phận tha hương, dù sướng hơn ông nội nhiều lần.

Hà thành, chốn làm sáng tên ông, những sáng tác thời sung sức. Hà thành không quên ông, 1 trong 165 người sáng lập Hội Nhà văn VN tháng 4/1957, nơi bàn tay cầm bút từng phải làm thợ đúc thép, thợ cơ khí nhà máy xe lửa Gia Lâm, ăn lương công nhật hơn 10 năm rồi nghỉ, không có bảo hiểm, lương hưu. Nổi nênh, thua thiệt và cay cực chỉ vì định kiến vô lý về chuyện ông vào Nam tìm anh trai nương tựa, khiến Hồ Dzếnh chịu trớ trêu oan uổng, bị “bỏ quên” suốt thời gian dài, ông vẫn nén chịu như đã quen thế, để yêu thương, để khiêm nhường và hy vọng. Nhiều tác phẩm của ông in trong tuyển tập không ghi rõ năm sáng tác, hơi khó khi định giá từng chặng viết. Song hình như điều ấy không quan trọng nữa, tác phẩm của ông đạt độ “phi thời gian” rồi.

Tôi đã khóc rất lâu khi trong đêm đọc Cuốn sách không tên. Ông hóa thân vào con trai, viết lại sự tủi nhục khi con mất mẹ; người chồng kiệt sức, kiệt tiền, gặp mụ bán quan tài nanh ác, chỉ chờ thời cơ “chặt chém” không thương tiếc. Ông đành dùng mẹo lừa lấy được cái quan tài về chôn vợ ban đêm, vợ đã chết từ chiều, nằm giúi vào bụi cây vì nhà thương thiếu phòng để xác:

“Mẹ tôi nằm ở đó, lãnh đạm trước cuộc oanh tạc, giống một cây củi khô. Chiếc quần đen mỏng rách, áo cánh vận từ hôm bị ốm. Để người chết đỡ tủi, cha tôi cởi chiếc áo cánh ướt trên người, đắp lên người vợ. Cha tôi nghẹn ngào không khóc được. Quan tài ngắn, người chết buộc phải nhét chặt, chân hơi vồng lên, tóc lòi ra ngoài. Rồi vài ngày sẽ bị bật nắp ván”. Ngôi mộ vùi sơ sài, không có bia đã bị thất lạc, Hồ Dzếnh không tìm được. Con ông, năm 2002 đã cố công tìm, song tất cả bị san phẳng như ngôi mộ đứa con đầu lòng của Hồ Dzếnh mất hơn 1 tuổi - Hà Xuân Nhuệ chôn ở cánh đồng làng.

Hồ Dzếnh đã viết tận cùng cay đắng, vượt qua mức tả thuật đơn thuần, khiến tôi liên tưởng đến một “Victor Hugo Việt Nam” - nhà văn của những người cùng khổ.

Ông đã đến tận cùng, mà hơn 70 năm trước và ngay giờ đây, vẫn còn sống bằng quan niệm “Cái đẹp nằm trong sự lơ lửng”: “Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề/ Đời chỉ đẹp khi còn dang dở”. 

Vi Thùy Linh
Thể thao & Văn hóa










Đọc lại Hồ Dzếnh*

Mathilde Tuyết Trần




…“Cho nên được mang danh là nhà văn, tôi thấy thẹn thùng biết mấy!“

Hồ Dzếnh


Khép cuốn „Chân Trời Cũ“ (xuất bản năm 1942, tái bản năm 1946) lại, tôi đã đọc ngấu nghiến như thưở còn mười ba một cuốn sách cũ, tình cờ moi ra khi tìm sách chất chứa trong các thùng để trên nóc nhà, tôi thấy mình sung sướng như trẻ lại mấy mươi tuổi. Từ giai đoạn Văn thơ tiền chiến trước cái mốc 1945 đến ngày hôm nay tôi ngồi đây mơ về Hồ Dzếnh là đã sáu, bẩy mươi năm rồi còn gì. Các tên tuổi nhà văn, nhà thơ khác nổi hơn tên Hồ Dzếnh, nhưng không làm mất đi một chỗ đứng đặc biệt của ông.

Nếu Khái Hưng chỉ với một câu: „Thằng Bò, cái Nhớn, cái Bé…anh phải sống.“ đã giữ vững địa vị tuyệt đỉnh của mình trong Tự Lực văn đoàn, thì những ai đang yêu đương mơ mộng, ít nhất là cho đến thế hệ tôi, thường hay nhớ đến một câu thơ lãng mạn…“Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé, Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân… Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề, Đời chỉ đẹp khi hãy còn dang dở…“. Thưở ấy, cái thú yêu thương được hiểu theo nghĩa ấy, yêu mà được yêu lại, lấy nhau, sinh con đẻ cái, rồi hết yêu nhau, thế là không phải một tình yêu đẹp, một tình yêu lãng mạn. Yêu nhau, nhưng bị ngăn cách, cản trở, lại còn thấy mình yêu nồng nàn thêm, giấc mơ kéo dài thêm, không dứt. Các „người em gái“ tóc thề ngang vai thời ấy đều mơ mộng ước chi mình có được một mối tình dang dở. Đó là công trạng của những nhà văn nhà thơ thời văn học lãng mạn như Hồ Dzếnh.

Có được một chỗ đứng trong tim người trải qua nhiều thế hệ không phải là chuyện dễ. Hồ Dzếnh trả giá chỗ đứng ấy bằng cuộc đời thầm lặng, khiêm tốn, chịu đựng những mất mát, những đau thương của chính mình.

Hồ Dzếnh viết văn xuôi, làm thơ. Bài thơ „Chiều“ được Dương Thiệu Tước phổ nhạc là bài nổi tiếng nhất „Trên đường về nhớ đầy...Chiều chậm đưa chân ngày, Tiếng buồn vang trong mây... „ . Nhưng cũng còn những câu thơ khác đầy nhạc điệu trữ tình.

Cảm giác của tôi bây giờ khi đọc Hồ Dzếnh có khác cảm giác của một cô nữ sinh áo dài trắng tuổi ô mai ngày xưa, ngồi trong lớp học, vừa lơ đãng ngắm làn nắng sớm đang len lén rọi vào khung cửa sổ, vừa nghe tiếng cô giáo giảng một bài văn, giọng khi trầm khi bổng.

Những cảm giác buồn mang mác, nhẹ nhàng, tha thiết, rất thơ và rất thật tỏa ra trong các mẫu chuyện ngắn chứa đựng chân dung và cuộc đời của những nhân vật chung quanh Hồ Dzếnh, một gia đình chứa đựng hai nền văn hóa, từ nghèo lên giàu rồi lại trở thành nghèo, như cứ „lên voi xuống chó“.

Nhưng nổi bật hơn cả, ngòi bút Hồ Dzếnh viết nên một sự âu yếm, âu yếm vô cùng, cả đối với những gì gọi là không „tốt“, một người anh Cả nghiện thuốc phiện, một người anh Hai ham phiêu du, một cô em gái lỡ đàng, một người chị nuôi, một con ngựa trắng...Người viết, ngay cả những khi mình đã trưởng thành trong chuyện kể, luôn giữ ánh mắt nhìn của một đứa trẻ thơ không có tuổi, thích nũng nịu, thích bám gấu áo mẹ, cho nên tình thương toát ra từ những hàng chữ mang nét chân thật ngây thơ.
 
Mẹ tôi nói dối. mẹ tôi đuổi tôi lên nhà, để mẹ tôi khóc. Lúc tôi chạy xuống bếp lục cơm ăn, thì thấy đôi mắt mẹ tôi đỏ ngầu, vạt áo ướt đẫm.

Tôi ngả vào lòng người, rồi mếu máo:

Con không đi học nữa, mẹ ạ….“ (1)


Chị dâu tôi phải về ở nhà quê làm việc. Ngày đưa chân, cả nhà tôi ra ga để lìa bỏ cái tỉnh thành bạc bẽo, tôi sụt sùi bảo chị dâu tôi:

Chị chịu khó hầu mẹ nhé. Đến tết em về, em mua nhiều bánh cho cháu.

Chị tôi gật, ứa nước mắt….“ (2)
 
Tôi đáp rất gọn:

Không con nói dối đấy chứ!

Tức thì dì tôi vênh mặt lên:

Nghe nữa đi, nghe cái đồ nói dối nữa đi!

Và tức thì hai cái tát của mẹ tôi cháy bỏng trên má tôi:

Ai dạy mày nói điêu, mày hai lưỡi !

Nhưng tôi chỉ còn có một lưỡi , khi ngồi ăn cơm với mẹ tôi:

Đúng là con Din đi với trai , mẹ ạ. Ban nẫy nó lạy con đừng nói.

Mẹ tôi lườm tôi và im lặng.“ (3)
 
Có điều mà mãi đến nay tôi vẫn lấy làm lạ, là càng ghét anh bao nhiêu, tôi càng thương anh bấy nhiêu. Tôi thấy luôn luôn hình ảnh con người ấy quằn quại trong một mối đau đớn vô hạn, dưới cái ánh sao buồn rầu le lói đã chứng kiến ngày lọt lòng mẹ tăm tối của đời anh…“ (4)
 
Tuy rằng chỉ được diễn tả qua vài trang giấy nhưng thời gian trong các câu chuyện của „Chân Trời Cũ“ kể trải dài cả một đời người, đem không gian trải rộng từ nhà quê đến thành phố, từ sông ra đồng, từ Việt Nam đến Trung Hoa. Xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ hai mươi đang trong buổi giao thời, các nền văn hóa khác biệt, Việt, Pháp, Hoa va chạm với nhau, nhưng khung cảnh miền Bắc khi ấy vẫn còn là đất lề quê thói, „nề nếp“ Nho giáo vẫn có ảnh hưởng nặng.

Mỗi nhân vật trong gia đình ấy có một số phần khác nhau, người đọc thấy bứt rứt bồi hồi, tại sao lại sống như thế nhỉ. Sống là chấp nhận số phận, hay thách thức số phận, cãi lại số phận ? Sống theo ý mình, „cá nhân chủ nghĩa“, hay yên phận sống theo thời thế bó buộc ? quyết định nào sẽ đem lại kết quả tốt hơn ? ý muốn của con người có thắng được số trời hay không ? Hồ Dzếnh cắn răng chấp nhận số phận „thiên định thắng nhân định“, kể cả khi phải đeo đứa con thứ hai mới được mấy tháng đi nhiều nơi xin sữa nuôi con, khi mà tình trạng chiến tranh làm cho hầu như mọi người đều túng thiếu. Đầu sách, một câu ngắn „Kính nhớ vong hồn song thân, vợ và con trai đầu lòng„ cho người đọc thấy ngay những mất mát của Hồ Dzếnh. Hạnh phúc ? Có khi nào Hồ Dzếnh đã tìm thấy hạnh phúc ?
 
Trời trở buồn, ai hiểu nghĩa làm sao ?
Mây lạc nẻo, tim nghe chừng thất vọng.

(Giữ Gìn)

Mùa đời rụng hết vàng xanh
Nỗi đau thương cũ nay thành máu thơ.

(Tặng Vợ Tôi Khi Còn Sống)

Từng phen gió lạnh bay vào
Ngẩn ngơ ta xuống ga nào hở em?

(Chuyến Tàu Ðời)
 
Hồ Dzếnh không thuộc vào Tự Lực văn đoàn, cũng chưa bao giờ nhận được một giải thưởng của Tự Lực văn đoàn, nhưng văn và thơ của ông đi cùng một chiều hướng: sử dụng tiếng Việt, bớt các khái niệm chữ Hán, bớt dùng các điển tích trong tứ thư ngũ kinh Nho giáo, cách đặt vấn đề tế nhị, kín đáo, văn phong nhẹ nhàng, trong sáng, câu ngắn, cấu trúc rõ ràng, không dùng cấu trúc các thể thơ Hán.

Chỉ có trong một bài thơ, Hồ Dzếnh sử dụng kinh điển Hán học:
 
Tô Châu lớp lớp phù kiều
trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam


buồn Tư Mã nhớ Chiêu Quân
nét hoa thấp thoáng ý thần đê mê

(Đợi Thơ)
 
Tôi nghĩ đi nghĩ lại câu giới thiệu của Thạch Lam ở đầu cuốn sách …“Tôi không nói rằng tác phẩm này không có khuyết điểm, nhưng…“, và tôi tò mò đi tìm khuyết điểm trong „Chân Trời Cũ“. Thạch Lam là bạn, có lẽ không muốn khen quá lời, nên giữ vẻ khiêm tốn cho tác phẩm. Nhưng nếu cứ nghĩ rằng, Hồ Dzếnh là người „Minh Hương“, cha là người Trung Hoa, mẹ là người Việt, thì phải thấy ông xử dụng tiếng Việt nhuần nhuyễn, trong sáng còn hơn nhiều người Việt.
 
Bén nhọn như: …“Khách mặc một bộ quần áo bằng lĩnh Quảng Đông, nguyên mầu đen, nhưng sau khi trải nhiều phong trần, đã đổi sàng mầu xám kệch…Từ đằng xa những gợn lụa phơ phất như những gợn gió trùng dương, và khi lại gần thì gió trùng dương lại chỉ toàn xông lên một mùi cá mặn!

Gợi cảm như:…“Tôi nhận thấy mấy cây cột nhà đứng bơ vơ hôm trước, bóng tối mau chiếm lấy sân và lòng tôi hay nhớ thương, ngao ngán. Ở trong cái lạnh lẽo bốc lên trước lúc gà vịt nhẩy chuồng, bốn ngọn nến cùng nháy mắt trên chiếc bàn thờ mới dựng, thay chỗ cho nơi kê bàn đèn thuốc phiện ngày xưa…“

Chua xót như: „Ròng rã trong hai ngày sau, tôi đoán biết một sự xung đột nhỏ nổi lên giữa anh chị tôi, và khi ghé mắt qua khe cửa phòng học nhìn sang bên cạnh, tôi thấy chị dâu tôi đương quỳ trước mặt chồng khóc lóc…Tôi nhớ nhất cái dáng điệu vừa quỳ vừa khóc của chị dâu tôi, và tôi thấy buồn một nỗi buồn thê thiết quá.“

Tả chân cái chết một cách rất hiện thực như: „…Anh không đói thuốc phiện, anh không gào nước nữa: đường xuống suối còn xa, đường về quê đã biến. Số mệnh đã muốn cắm ở giây phút đó một cuộc hành trình điên dại của một kiếp người. Anh thở dài một tiếng, lòng trắng giãn ra và chiếm đầy mắt…Anh nấc lên một tiếng nhỏ. Anh gục đầu xuống một bụi rậm, có cái gì thối tha đưa lên sau mông đít. Cành gai yếu ngả xuống làm anh gục theo. Một con chim kêu lên đâu đó. Rừng và Núi. Núi và Rừng.“
 
Xám kệch, gợn lụa, cá mặn, bơ vơ, nhẩy chuồng, nháy mắt, ròng rã, ghé mắt, khóc lóc, thê thiết, đói, gào, biến, cắm, điên dại, nấc, thối tha, mông đít, ngả, gục…những chữ thuần Việt được sử dụng rất đúng chỗ và gợi hình, gợi cảm.

Hồ Dzếnh không để lại cho đời một khối lượng lớn về tác phẩm, nhưng đời không thể quên ông, một số phận con tằm nhả tơ óng ả, mà không được đền bù xứng đáng. Hồ Dzếnh, theo các tài liệu viết về ông, qua đời lặng lẽ âm thầm, khi nhà thơ, nhà văn chỉ còn là một người thợ đúc thép, thợ cơ khí nhà máy xe lửa Gia Lâm, ngày 13.8.1991 tại nhà riêng, số 80 phố Hòa Mã, Hà Nội, được 75 tuổi (sinh năm 1916), để lại cho đứa cháu một bài thơ:
 
Khi sống ông nghèo nhất thế gian
Ra đi của cải bỗng vô vàn
Trời-Mây-Trăng-Nước-Chim-Hoa-Gió
Tất cả dành riêng tặng cháu ngoan.

(Gửi cháu)
 
Tựa cuốn văn xuôi đầu tay của ông „Chân Trời Cũ“ cũng làm cho tôi suy nghĩ. Có cũ thì tất có mới. Chân Trời Cũ mang nhiều hàm ý, vừa là một quá khứ, vừa là nửa phần gốc tích quê quán, vừa là hình ảnh người cha, vừa là cả em Dìn, anh Cả, anh Hai, chị dâu, chú Nhì, em Thi, thằng Quắn, chị Yên, chị Đỏ Đương, vừa là người mẹ Việt Nam.

„Quê Ngoại“ của Hồ Dzếnh, vừa là nơi chôn nhau cắt rún, vừa là nơi gởi nắm xương tàn của ông, như thế mà cứ gọi ông là người „khách“, người Minh Hương, không phải là người Việt Nam thì thật là bạc bẽo với ông quá.
 

©MathildeTuyetTran, France 2010 www.tuyettran.de



Ngập Ngừng

 
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần
Tôi nói khẽ: ôi, làm sao nhớ thế !
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Em tôi ơi, tình có nghĩa gì đâu
Nếu là không lưu luyến buổi ban đầu
Thuở ân ái mong manh hơn nắng lụa
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần lữa
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Tôi sẽ tránh, cố nhiên, nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi em hãy gắng quay về
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp khi hãy còn dang dở
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đổ
Cho ngàn sau lơ lững với ngàn xưa ...

Hồ Dzếnh 

* Hồ Dzếnh (1916 – 1991), có khi được viết là Hồ Dzếch, tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng Quảng Đông là Hồ Dzếnh), quê ở làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Hà Kiến Huân, người gốc Quảng Đông, mẹ là Đặng Thị Vân là người Việt. Ba tác phẩm tiêu biểu chính của ông là tập truyện ngắn Chân Trời Cũ, tập thơ Quê Ngoại và tập hồi ký Quyển Truyện Không Tên.

1. Lòng mẹ, Chân trời cũ, Hồ Dzếnh, Hoa Tiên
2. Người chị dâu tôi, Chân trời cũ, Hồ Dzếnh, Hoa Tiên
3. Em Dìn, Chân trời cũ, Hồ Dzếnh, Hoa Tiên
4. Người anh xấu số, Hồ Dzếnh, Hoa Tiên sưu tập


Diễn Đàn Forum












Một Mảnh Đời Hồ Dzếnh

Vào năm 1954, gia đình tôi mới di cư vào Nam thì nhận được một lá thư của Hồ Dzếnh (thời gian đầu của năm 1954-1955 Bắc-Nam còn nhận được thư).Lúc đó tôi còn bé chưa biết ông là một thi sĩ, Ba tôi nói: Có người đàn ông Trung Hoa muốn lấy thím Phương. Thím Phương của chúng tôi là vợ góa của chú Trần Trung Phương, người có tập Thơ cho học trò Mấy Vần Tươi Sáng, mà từ nhỏ anh chị em chúng tôi đã thuộc lòng nhiều bài trong đó. Khi học ở Tiểu Học được học lại ở trong lớp như những bài Học Thuộc Lòng.
Chiều qua trăng ngã xuống hồ
Bầy sao nghịch ngợm đổ xô xuống tìm
Trên không có mấy con chim
Vội vàng đâm bổ đi tìm bóng trăng.
(Vội Vàng- TTP)
Lá thư của chú Dzếnh, tôi không được đọc, chỉ nghe Ba nói là một lá thư với lời lẽ hết sức lễ phép, xin phép anh chị cho em được thay anh Phương vào làm em anh chị trong gia đình. Ba tôi vốn sẵn hiền lành, nên đọc thư cảm động đến ngồi ngây người ra, không biết trả lời sao cho xứng với lá thư đó.
Chú Trần Trung Phương của tôi khi còn sống viết văn, làm báo cho thiếu nhi, hoạt động chống Pháp, bị bắt, tra tấn trong tù. Khi được thả ra thì ho lao chết ngày 24/7/1945. Lúc đó con trai mới 6 tháng tuổi. Thím Hồng Nhật, một người đàn bà có học, có nhan sắc, yêu văn chương, được tất cả các bạn văn của chồng kính nể. Mỗi năm làm giỗ chồng, thím mặc khăn áo đại tang làm giỗ, mời các bạn Văn/ Họa Sĩ của chồng như: Mạnh Quỳnh, Hữu Thanh, Tống Ngọc, Tam Lang, Khái Hưng v.v… đến dự. Ai cũng kính phục.
Thím ở vậy nuôi con, cho tới khi gặp Hồ Dzếnh. Cũng nên nhắc lại, thím Hồng Nhật cũng viết văn, làm thơ, lúc trẻ Hồng Nhật có gửi bài cho Phong Hóa và Ngày Nay là thời điểm Trần Trung Phương đang phụ trách trang Thiếu Nhi của hai tờ báo này. Duyên văn nghệ đưa đến cuộc hôn nhân đẹp nhưng quá ngắn (Không đầy 2 năm).
Khi chú mất, tôi cũng chỉ hơn em Cường một tuổi nên không biết gì cả.
Lớn lên mới biết thím là một phụ nữ đảm đang, qua bao nghịch cảnh, góa chồng, ly loạn vẫn gây dựng lại được những gì đã mất. Hiệu Sách Bình Minh 200 A, Phố Huế, nức tiếng ở Hà Nội một thời.
Vào năm 1951 thím Hồng Nhật muốn tái bản tập thơ Mấy Vần Tươi Sáng, nên có vào Nam nhờ Hồ Dzếnh đỡ đầu. Hồ Dzếnh cũng đang trong cảnh gà trống nuôi con rất vất vả. Hai người cảm thông nhau cùng hoàn cảnh góa bụa, cùng có hai đứa con trai nhỏ, cùng yêu văn chương nên nhanh chóng yêu nhau. Đầu năm 1954 Hồ Dzếnh trở về Hà Nội, cuối năm đó lập lại gia đình với thím Hồng Nhật.
Giai Thoại kể lại: Hôm đám cưới, các bạn văn cũ của chú Phương đến dự đông đủ, có một người ra câu đối: Vợ góa nhà văn lấy nhà văn góa vợ. Không ai đối được.
Cũng có thêm giai thoại nữa về cái tên Hồ Dzếnh, bạn hữu hay gọi đùa là Hồ Dính và có ra câu đối: Hồ Dính, dính hồ, hồ chẳng dính, có người đối là Ngọc Giao, giao ngọc, ngọc không giao.
Sau năm 1975 chú Dzếnh và Thím Hồng Nhật có vào Nam tìm gia đình anh chị, thì cha mẹ và chúng tôi đã sang Mỹ. Khi tôi liên lạc được với chú thím bằng thư thì cha mẹ tôi đã qua đời. Lá thư cuối tôi nhận được, chú nhờ tôi lấy tiền nhuận bút của những nhà sách bên Mỹ đã tái bản và phát hành những tác phẩm cùa chú nhưng không nhà xuất bản nào trả một đồng (Các nhà xuất bản hồi đó điều nghĩ việc họ tái xuất bản sách Việt ở hải ngoại là một đặc ân họ ban phát cho tác giả.)
Năm 1998 lần đầu tiên tôi về Việt Nam thì chú Dzếnh đã mất được 7 năm (1991). Buổi tối, nằm ngủ chung với thím trên chiếc giường của hai người, nghe thím kể lại: lúc biết mình sắp mất, chú đòi về nhà, mất trên cái giường của vợ chồng. Câu cuối cùng của chú là lời gọi: Mình ơi! trước khi nhắm mắt.
Mình vừa là chị là em
Tấm lòng người mẹ, trái tim bạn đời
Mai này tới phút chia đôi
Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?
Xót mình đã lắm thương đau
Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ mình
Cuộc đời đâu phải phù sinh
Nước non chan chứa nghĩa tình, mình ơi!
(Bài Thơ Tặng Vợ - Hồ Dzếnh)
Chú Dzếnh muốn đi sau để tránh cảnh thương đau cho thím, nhưng chú lại là người đi trước. Trên chiếc giường gỗ ở ngôi nhà 80 phố Hòa Mã, Hà Nội, trong bóng tối mờ mờ của ngọn đèn đêm ngoài phố hắt vào, tôi nằm cạnh thím, nắm chặt bàn tay già nua của thím, nhìn lên đình màn, hình dung ra khuôn mặt thanh nhã với nụ cười hiền lành ở bức ảnh trên bàn thờ của một thi sĩ Trung Hoa mang trái tim Việt Nam trong lồng ngực, tôi nói thầm trong lòng: Cám ơn thi sĩ đã vào trong gia đình họ Trần Trung.
Tuổi thơ tôi lớn lên bằng những bài Thơ học trò ngây thơ trong Mấy Vần Tươi Sáng của thi sĩ Trần Trung Phương và tôi nghĩ đó chính là những hạt giống văn chương đã gieo vào mảnh đất hồn tôi để sau này mọc lên hoa trái. Rồi tiếp theo đó là Thơ và Văn Chương trong sáng, giản dị của Hồ Dzếnh ảnh hưởng tới văn chương và cách viết của tôi.
Tôi cám ơn Thượng Đế đã cho tôi cả hai ông chú tuyệt vời.

tmt
Tháng 7/25/2017








Hồ Dzếnh - Nhà văn của nỗi sầu vạn cổ về thân phận con người.
TS.Nguyễn Thị Minh Thái

Hồ Dzếnh không coi viết văn và làm thơ là làm một nghề. Cả đời ông hầu như không bao giờ ông tuyên ngôn văn chương nghệ thuật. Hình như ông cũng chưa bao giờ có ý định tổng kết đời văn của mình thành một thứ kinh nghiệm cho những nhà văn trẻ mới vào nghề noi theo. Ông sống như thế nào, đau đớn và vui sướng, yêu dấu và ghét bỏ như thế nào, thì ông ghi chép lại như thế ấy…


Nhất là ở tuổi hoa niên, khi trái tim ông trong trắng, tâm hồn ông thành thiệt, đa cảm, đầy thương vay khóc mướn, thì ông mới viết. Y như lời tự thú của ông trên Tạp chí Sông Hương số 1 năm 1983:……Năm ấy tôi mới hai mươi tuổi, chưa có ý định triết lý nào cả để làm một nhà văn. Tôi chỉ ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe, về số phận trôi dạt của những con người mà tôi đã chứng kiến và đã làm tôi xúc động…


Cho đến tháng 8/2003 này, ông đã về bên kia nói chẵn tròn một con Giáp, 12 năm (1991 - 2003). Kể từ 2 giờ 18 phút sáng ngày 13/8/1991, khi Hồ Dzếnh mất ấy, bây giờ xem lại gần như tất cả những gì ông viết đã được xuất bản lại: Hồ Dzếnh – tác phẩm chọn lọc (NXB Văn học 1988), Cuốn sách không tên (NXB Văn học 1993) và thơ với tuổi thơ (NXB Kim Đồng 2000) và đọc tất cả các bài viết về ông của bạn bè, của người hâm mộ, của báo chí… ta càng thấy thấm thía và rưng rưng một điều rằng: Hồ Dzếnh, cái người không coi văn chương như là một nghề này; cái người đã bị số phận hoà lẫn ngẫu nhiên trong mình hai dòng máu Trung Hoa – Việt Nam này, đã đích thực sống chan hoà với đất Việt, đã nặng lòng yêu người Việt và tiếng Việt đến mức tự nhiên thành một nhà văn việt Nam đúng nghĩa, một nhà văn việt Nam toàn phần, mặc dù ông viết không nhiều… và chỉ vì một ít bài thơ, một chùm truyện ngắn, một cuốn sách không tên như thế thôi, chừng đó cũng đủ là những tác phẩm xuyên thời gian mà nhà văn Hồ Dzếnh cống hiến cho nền văn học việt Nam hiện đại.


Không hề ngẫu nhiên, tất cả những gì Hồ Dzếnh muốn nói với đời, ông đều nói bằng tác phẩm văn chương. Và tất cả những tác phẩm văn chương của ông đều viết như thể muốn nói hộ những thân phận con người việt Nam qua sự va chạm hết sức máu thịt và thân mật của ông đối với họ. Dường như tài năng văn chương của ông đã khởi phát từ chính thân phận ông, và cái sự “ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe” của ông đã là kết quả của cái tài năng ấy, nên Hồ Dzếnh có khả năng nhìn ngược về nguồn gốc của chính mình, bắt đầu từ số phận trôi dạt trước hết của chính cha ông: một người Trung Hoa phiêu dạt đến việt Nam và kết duyên với một cô lái đò người Thanh Hoá.


Chúng ta biết rằng Hồ Dzếnh sinh ra vào thập kỷ thứ 2 của thế kỷ XX và bắt đầu viết văn khoảng 20 tuổi. Tác phẩm đầu tay của ông: Chân trời cũ là một tập truyện ngắn được NXB á Châu ra mắt năm 1942. Trước đó, năm 1937 ông đã có một số bài thơ và truyện ngắn rải rác đăng trên các tờ báo khá có tiếng tăm lúc bấy giờ: Trung Bắc Chủ nhật, tiểu thuyết thứ bảy và tập san Mùa gặt Mới. Tập thơ đầu tay của ông: Quê ngoại được xuất bản sau Chân trời cũ một năm tại NXB Nguyên Hà 1943. Về thể loại tiểu thuyết, từ 1942 đến 1946, Hồ Dzếnh được xuất bản hai cuốn: Một truyện tình 15 năm về trước (ký bút danh Lưu thị Hanh) NXB á Châu 1942 và Cô gái Bình Xuyên NXB tiếng Phương đông, 1946. Về thơ, sau tập Quê ngoại, là tập Hoa Xuân đất việt, NXB Nam Hoa thư xã, 1946. Ngoài văn xuôi và thơ, Hồ Dzếnh còn có hai vở kịch một màn đã công diễn nhưng chưa xuất bản: Người nữ cứu thương Trung Hoa viết năm 1947 và đi hay ở 1955. Sau này, khi Hồ Dzếnh đã mất, NXB Văn học đã xuất bản Cuốn sách không tên, mà tác giả, trước ngày qua đời, chưa có ý định công bố1.

Thực sự, Cuốn sách không tên nằm trong di cảo Hồ Dzếnh do gia đình tìm thấy, chưa hề được nhà văn biên tập và đánh dấu chấm hết. Song cuốn sách có thể gọi là tiểu thuyết này đã rất nhất quán với văn mạch của Chân trời cũ. Nó - cũng y như con người Hồ Dzếnh, là giọt nước mắt của ông rơi cho chính thân phận mình và gia đình của mình, vừa mới được thành lập, đã chết một đứa con trai, sau đã là người vợ, để chỉ còn lại người chồng là ông - Hồ Dzếnh và đứa con năm tháng tuổi.

Trong số tác phẩm không nhiều của Hồ Dzếnh, có hai tác phẩm thuộc hai thể loại được người đời biết đến nhiều nhất, nhớ đến nhiều nhất và lan tỏa ảnh hưởng văn chương sâu rộng nhất đã là tập thơ Quê ngoại và tập truyện ngắn Chân trời cũ. Và nhất là Chân trời cũ, với những nhân vật truyện ngắn mang đậm đặc sắc màu thân phận người viết ở làng quê miền Trung đầu thế kỷ XX, đã làm nhiều người đọc của nhiều thế hệ khó có thể quên.

Chắc chắn khi nảy ra ý định lập nghiệp ở việt Nam, người cha của Hồ Dzếnh, một người Trung Hoa chính gốc không ngờ rằng trong ba đứa con trai mà ông có với người vợ việt Nam, đã có một nhà văn là đứa con trai út quá nặng lòng với quê ngoại và không bao giờ có ý định trở về Trung Hoa, như hai đứa con đầu của ông. Sự pha trộn dòng máu, sự phân vân giữa tình yêu quê cha, quê mẹ, sự thiết tha nghiêng lệch của Hồ Dzếnh đối với quê mẹ, sự yêu thương vô bờ của ông đối với gia đình mà số phận “bắt buộc phải buồn rầu” đã khiến Hồ Dzếnh trở thành con người đa cảm, với trái tim đầy xót thương với thân phận con người.

Như đã nói, Hồ Dzếnh sống rất kĩ lưỡng thân mật với gia đình mình, và ông đặc biệt yêu mẹ. Mẹ ông được ông yêu dấu tôn thờ, với tính cách việt Nam điển hình, đúng như thạch Lam nhận xét về nhân vật người mẹ - một thân phận bao trùm trong nhiều truyện ngắn của ông và đặc biệt ảnh hưậng đến “tính cách đa sầu đa cảm” của ông trong phong cách viết văn, đã là: một người mẹ việt Nam vào hạng những đàn bà việt Nam đã làm nên đất nước này, người đàn bà chỉ biết có chịu khó về chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn hay oán hận, mà cái ước mong sung sướng nhất là cứ được hy sinh mãi. (Lời tựa của thạch Lam cho Chân trời cũ xuất bản 1942).

Trong cái gia đình hình như số phận bắt buộc phải buồn rầu này, ai cũng đau khổ, nhất là những người phụ nữ. Với một người cha Trung Hoa, suốt ngày lầm lì không nói, với ba người con trai lựa chọn ba con đường khác nhau, với một người con dâu người Trung Hoa sống lầm lũi như một cái bóng, với em Dìn, chị đỏ Dương, chị Yên…. Tất cả đã tạo thành thế giới nhân vật của Hồ Dzếnh. Tuy không viết ngay về họ khi đang sống với họ, mà ông đã viết về họ sau một cuộc “lùi xa” này cả về không gian lẫn thời gian, ông tha hồ nhớ về quê ngoại, nhớ về chân trời cũ của ông, nơi cái “làng quê bé bé”; “cánh đồng xa xa”, nơi có những nhân vật của ông đang sống trọn vẹn thân phận bé mọn của họ.

Văn xuôi của ông chính là kể về họ. Mỗi người dường như được ông kể vừa vặn trong một truyện ngắn. Và mỗi truyện ngắn là một phận người từ lúc xuất hiện cho đến khi chết, có khi chỉ vừa khít với một kết thúc “không có hậu” và hình như Hồ Dzếnh buộc phải viết những kết thúc “không có hậu” cho những nhân vật của mình dù ông rất đau khổ, dù ông đầy mong muốn cho họ một số phận tươi sáng hơn.


Là một thứ văn xuôi nhuốm đậm màu tự truyện, hầu hết các truyện ngắn của Hồ Dzếnh trong Chân trời cũ là ngoái nhìn lại chính cái gia đình đầy đau khổ của mình với nỗi tiếc hận là mình không thể làm gì cho vơi bớt những đau khổ ấy của từng người một, nhất là mẹ. Người mẹ mà Hồ Dzếnh đã viết những dòng văn cảm động về Người trong truyện ngắn Lòng Mẹ, và những dòng văn đầy hoài cảm thương mến khi tả lại cuộc gặp gỡ của cha mẹ mình trong truyện ngắn Ngày gặp gỡ. Chính ở nơi “quê mẹ tôi ở Trung Bé”- Hồ Dzếnh viết: Nhà Người – tôi không làm thơ đâu – ở bên kia một dòng sông nhỏ, ôm kín với hai bẹ lau xanh… lúc Người mới mười lăm tuổi, thì một tình duyên đẹp đẽ gây nên, sự gặp gỡ giữa hai người xa lạ (Chân trời cũ – truyện ngắn Lòng mẹ).

Vì sinh ra trên đất việt, Hồ Dzếnh đã thiên lệch yêu quê ngoại và yêu mẹ “một cách bịn rịn”. Hồ Dzếnh được mẹ yêu chiều nựng nịu, có l vì Người đoán thấy ở tôi một số phận thiếu êm vui. Mà đúng là thiếu êm vui, thừa đau khổ, nhất là đối với trái tim dễ đau đớn, dễ bị thương tổn, dễ “thương vay khóc mướn” ở nơi Hồ Dzếnh. Có người nói tính cách yếu đuối và đa cảm này của Hồ Dzếnh xuyên suốt cuộc đời ông, khiến cho ông có một giọng văn trầm lắng, nặng trĩu những nỗi buồn kiếp người. Nỗi đau buồn của ông về con người ngìm sâu vào trang sách đến mức mỗi một nhân vật của ông đều mang theo một tiếng thở dài đau đớn của ông. Và hầu hết những tiếng thở dài nóo nùng thương cảm nhất ông đều dành cho những người đàn bà nông thôn Trung Bé, thưêng chịu gánh nặng định mệnh khe khắt của duyên phận bẽ bàng. đọc truyện ngắn của Hồ Dzếnh khó có thể quên được những nhân vật này: Nhân vật mẹ ông, nhân vật người chị dâu Trung Hoa với xuất thân từ con nhà trưởng giả đặc Tàu, sang đến việc Nam làm dâu nhà ông, lấy anh cả ông, rốt cuộc đã phải “nhập gia tuỳ tục”, đến nỗi “chỉ hai năm sau, chị dâu tôi hoàn toàn thành một người đàn bà quê việt Nam đặc”.


Mối đồng cảm này của Hồ Dzếnh dường như không bao giờ vơi cạn trong cuộc đời ông. Nó khiến ông có một gãc nhìn riêng biệt độc đáo, dường như nếu không phải là ông thì sẽ không thể có những chân dung như người mẹ, người chị dâu Trung Hoa, em Dìn, chị đỏ đương, anh đỏ Phụ, em Fin, chú Nhì, chị Yên, thím Cư… trong Chân trời cũ. Nó cũng khiến ông có một phong cách viết truyện ngắn riêng, một lối “truyện ngắn - thơ” với chất truyện đầy chi tiết văn xuôi, nhưng lại với giọng kể chuyện đầy tình cảm bọc lộ theo lối trực tiếp và tức thì của chủ thể trữ tình trong thơ. Giọng kể này bao trùm lên cách xây dùng nhân vật truyện ngắn của Hồ Dzếnh, khiến mỗi nhân vật của ông có một cách kết dính đặc biệt chứ có ở cây bút đa sầu đa cảm này: đã là những chi tiết truyện ngắn làm nên sắc thái riêng của nhân vật và những đoạn trữ tình ngoại đề mà bao giờ cũng được Hồ Dzếnh viết thẳng vào truyện ngắn như thể ông không kìm nén được, mà phải xổ tung ra cái lòng thương của mình trong những lúc nhân vật đau đớn đến cao trào. Thí dụ trong các truyện ngắn của ông, thường ông không ngăn được lòng thương cảm khi kêu lên rằng: phần nhiều, hay tất cả cũng được, những bà mẹ việt Nam đều phải đau khổ ngay từ lúc lọt lòng. Mọi sự do “Trời” định các tâm hồn đó chỉ biết vâng theo, một cách nhẫn nhục, một cách lặng lẽ, một cách chua xót vô cùng. Bao nhiêu thế kỷ rồi, những tiếng thở dài mất tăm trong đêm tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống bổn phận hàng ngày, tầm thưng và nhỏ mọn. Cuộc hôn nhân của mẹ tôi, đến nay, tôi mới thấm thía được hết cái đơn giản, cái nghi lễ của nó. Và đến ngày nay, tôi mới biết mẹ tôi hơn lúc nào hết, người lái đò trên sông ghép ngày xưa, người mẹ việt Nam một cách dịu dàng và cao quý. (truyện ngắn Ngày gặp gỡ). Trong truyện ngắn “Người chị dâu tôi”, ngay trang đầu tiên, tác giả đã thương mến viết như ân hận, như xin lỗi người chị dâu Trung Hoa đã lỡ bị ràng buộc vào gia đình của mình: Hỡi chị! Nếu số phận đã bắt chị làm dâu một gia đình cơ khổ, làm vợ một người chồng không bằng người, làm một người đàn bà lưu lạc, chị hãy nhận ở đây, trong mấy dòng chữ này, một lời an ủi, đó may ra lòng đau khổ của chị được san sẻ một vài phần…

Có thể nói không truyện ngắn nào không có những dòng sẻ chia như vậy của Hồ Dzếnh cho thân phận nhân vật của mình. Cũng có thể nói đây là vẻ riêng trong cốt cách văn chương Hồ Dzếnh, thứ văn chương chứ dùng đó ngoái nhìn về dĩ vãng, cái dĩ vãng xa vời vợi như một chân trời cũ tràn ngập một nỗi sầu vạn cổ.

Không phải ngẫu nhiên, ngay từ năm 1987, nhà thơ quần Phương đã nhận xét rất chính xác rằng: truyện ngắn Hồ Dzếnh là truyện ngắn trữ tình – Nhân vật chính xuyên qua tất cả mọi truyện chính là tác giả. Nhiều lúc diễn biết cèt truyện bị ngưng lại nhường cho người viết bọc lộ. Song, những đoạn trữ tình ngoại đề luôn luôn xuất hiện trong truyện ngắn của Hồ Dzếnh vẫn chưa thỏa nỗi khát khao bọc lộ tình cảm buồn thương chất ngất sầu vạn cổ của Hồ Dzếnh đối với những điều trông thấy luôn làm ông đau đớn cho số phận con người và cho cả chính trái tim dễ vỡ của ông nữa.

Tất yếu nỗi khát khao của Hồ Dzếnh tràn sang một thể loại trữ tình, đã là thơ. Và ở thể loại này tâm hồn đầy thương cảm của Hồ Dzếnh đã rót đầy những vần thơ lục bát và đôi khi còn tràn bờ sang các thể thơ khác, thậm chí xuất thần một bài thơ được coi là đỉnh cao của thơ Hồ Dzếnh. Bài chiều.

Trong thơ cũng vn là tâm hàn và têm lòng Hồ Dzếnh mà truyện ngắn chưa trang trải hết. Và về sau này, Hồ Dzếnh còn phải tìm đến cả tiểu thuyết đó trang trải những nỗi đau luôn canh cánh bên lòng ông, với tư cách một người mà số mệnh đã bắt ghi chép lại những điều trông thấy của cõi người.

Hồ Dzếnh hình như có gì đã đồng điệu với Nguyễn Bính. Nếu như Nguyễn Bính yêu làng quê, đồng ruộng với một tâm hồn thành thị, thì Hồ Dzếnh đã yêu đồng quê với một tâm hồn quê mùa chất phác, mộc mạc giản dị hơn nhiều. Sự khác nhau này đã dẫn Hồ Dzếnh đến những bài thơ lục bát mang một dáng vẻ riêng Hồ Dzếnh khó có thể lẫn với thơ lục bát của những nhà thơ Mới khác.

Thơ lục bát của Hồ Dzếnh có một tình điệu riêng, man mác buồn và thấm thía xa xôi một nỗi buồn của ca dao người việt: Có lần tôi thấy tôi yêu/ Mắt nhung cô bé khăn điều cuối thôn/ Lâu rồi tôi đã hơi khôn/ biết cô hàng xóm có còn nhớ nhau, hoặc là hai câu thơ nói về tình yêu trai gái quê kiểng kín đáo và ý nhị: Yêu là khó nói cho xuôi/ Bởi ai hiểu được sao trời lại xanh.

Không thể không đồng ý với nhận xét của một số nhà phê bình thơ Mới rằng Hồ Dzếnh là một trong số những nhà thơ của phong trào thơ Mới đã cố ý “lạ hóa” cái thể thơ lục bát truyền thống dân tộc bằng cách phổ vào nó những ý tưởng mới mẻ của thời đại, ví dụ như nỗi buồn đầy màu sắc cá thể của Hồ Dzếnh trong bốn câu thơ tiêu biểu sau:

Chiều buồn như mối sầu chung

Lòng im nghe thoảng tơ chùng chốn xa

Đâu hình tàu chậm quên ga

Bâng khuâng gió nhớ về qua lá đầy.

(Mùa thu năm ngoái)

Và khó có thể tin được rằng, bằng vào thơ lục bát, có thể diễn đạt được những cảm giác tinh tế đến như Hồ Dzếnh lắng nghe đất trời khẽ rùng mình: Khi vàng đứng bóng im trưa/ tiếng khô lá rụng làm thưa phố phường. Không biết về sau này hai câu thơ tuyệt bút của trần đăng Khoa có thể có một ảnh hưởng (từ rất xa) các câu thơ lục bát của Hồ Dzếnh hay là của các nhà thơ Mới đầu thế kỷ XX chăng: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

Tuy trong cả văn xuôi lẫn thơ, Hồ Dzếnh đều đó riêng ra một góc lòng nhớ về quê cha ở Trung Hoa, nhưng đã là những nỗi nhớ mang đầy vẻ xa xôi thậm chí vu vơ ước lệ, với những câu thơ mang tính ước lệ, không ấm nóng một thứ tình nhân thế như ta vẫn thấy đầy ấm áp trong thơ văn viết về quê mẹ của Hồ Dzếnh. đi đến cuối nỗi nhớ này, ta chỉ gặp những hình ảnh ước lệ sáo mòn:

Liễu động đình thơm chuyện hảo cầu

Tốc thề che mướt gái Tô Châu

Bâng khuâng trăng sáng trời Viên Hán

Một dải Giang Nam nước rộn màu

(Tư hương)

Song, bài thơ được coi là hay nhất, độc đáo nhất và số phận của nó ly kỳ nhất chính là bài thơ chiều của Hồ Dzếnh. Suýt bị mất, vì Hồ Dzếnh viết một mạch trong lúc xuất thần, trên vỏ bao thuốc lá và bỏ quên trong túi áo. May mà bất chợt tìm lại được. Sau khi ra đời gần mười năm, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước đã phổ nhạc bài thơ này (và đổi tên là chiều. Tên đầu của bài thơ Hồ Dzếnh đặt là Màu cây trong khói). Phổ nhạc bài thơ, mặc dù Dương Thiệu Tước thấm thía tận lòng nỗi buồn nhớ chất ngất “sầu vạn cổ” của Hồ Dzếnh, vị nhạc sĩ tài hoa này vẫn mất gần sáu tháng trời đó sao cho nhạc tan thêm vào từng lời thơ và lên hết những nghĩa của lời thơ bằng âm thanh của từng nốt nhạc và xâu chuỗi lại thành giai điệu tổng thể của cả bài hát. Chiều như một ca khúc sáng giá nhất của Dương Thiệu Tước. Có người cho rằng sở dĩ bài hát chiều trở thành vượt thời gian là do Dương Thiệu Tước phổ nhạc, nhưng chính nhạc sĩ lại phủ nhận điều này. Nhà thơ Hoàng Hưng cho biết (báo Lao động 25-8-1991) chính Dương Thiệu Tước nói rằng: “Trong ca khúc phổ thơ, phổ thơ có vai trò chính. Với bài chiều càng như thế”.

Quả thực là như vậy. Bài chiều đã làm Hồ Dzếnh khác lạ hẳn các nhà thơ mới khác ở tình điệu vô song của nó trong thể thơ 5 chữ. Bài thơ bắt đầu bằng một không gian bát ngát cảm xúc trực giác của nhà thơ, với một con đường về cụ thể, với nỗi nhớ đầy không gian, ngập tràn không gian. Trong không gian đầy nỗi nhớ Ấy, chiều xuống thật chậm, dùng dằng dùng dình như kéo níu khi phải đưa chân bóng ngày đó chiếm lĩnh không gian cho bóng tối bắt đầu buông xuống. Và khi màn đêm buông rài, mọi vật nhòa trong hư vô, chứ còn nghe được tiếng buồn vang trong mây. đến đây, bài thơ chuyển đoạn với 4 câu tiếp nối tả mọi vật ngưng lại, hoặc bị phá vì thăng bằng: Chim rừng quên cất cánh/ Gió say tình ngây ngây/ . Tất cả chứ đó nhằm đẩy nỗi buồn lên chất ngất, với một từ ước lệ sầu vạn cổ nhưng lại rất cụ thể: nỗi buồn lén trong mây giã lan tỏa trong hư vô, bỗng dồn nén lại chất chồng cả vào hồn của chủ thể thơ, với tất cả sức nặng hư vô của nó…

Khổ thơ cuối, người lữ khách mới xuất hiện và xuất thỗn những ý thơ thật mới của một kiểu chủ thể thơ cô đơn giữa trời đất, chỉ mới hiển hiện trong phong trào thơ Mới: Tôi là người lữ khách / Màu chiều khó làm khuây/ Ngỡ lòng mình là rừng / Ngỡ hồn mình là mây/

Và đến cái kết thúc, thì bài thơ đã hoàn toàn thấm nhuần một tinh thỗn lãng mạn hiện đại, mà trước các thi sĩ thơ Mới như Hồ Dzếnh, ở thơ cũ không thể có một bài thơ bừng sáng đến thế bằng hai câu kết: Nhớ nhà châm điếu thuốc/ Khói huyền bay lên cây… đến đây thì phải chia sẻ với nhận xét thông minh, tinh tế của Hoàng Hưng về cái kết của bài chiều “Trong thơ tiền chiến cái tôi chưa bao giờ có được một tư thế nhưvậy”. Tôi cũng cho rằng cùng với cái tôi trong văn xuôi, vả cả thơ nữa như thế, Hồ Dzếnh đã có một tư thế riêng vững chắc trong văn chương việt Nam hiện đại./.

N.T.M.T













Hồ Dzếnh và gia đình












Hồ Dzếnh cùng con trai Hồ Chính, con dâu & cháu nội Hồ Quang




















Hồ Dzếnh lúc trẻ













Trở về









MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.