Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Trần Thùy Mai















Trần Thùy Mai
tên thật Trần Thị Thùy Mai
(8/9/1954 Hội An - ....)

Nhà Văn







Suy nghĩ về nghề văn

"Cứ mỗi lần trèo qua một con dốc thì lập tức xuất hiện trước mắt mình một con dốc khác cao hơn. Thế là lại đi và đi mãi như thế trong gió ngược... Nhiều khi mỏi mà không muốn dừng bởi hai bên đường nhiều hoa thơm cỏ lạ quá. Cứ muốn hái và ôm đầy tay..."








Tiểu sử

Trần Thùy Mai sinh tại Hội An, Quảng Nam. Quê quán: làng An Ninh Thượng, xã Hương Long, huyện Hương Trà, (nay là phường Hương Long, Thành phố Huế), tỉnh Thừa Thiên Huế.

Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng. Tốt nghiệp Tú tài 2 từ 1972, chị thi đậu thủ khoa môn văn Đại học Sư phạm Huế. Sau 1975, chị học tiếp Đại học Sư phạm. Năm 1977, sau khi tốt nghiệp, Trần Thùy Mai được giữ lại trường, làm công tác giảng dạy và nghiên cứu môn Văn học dân gian. Năm 1987, chị quyết định chuyển sang làm biên tập viên ở Nhà xuất bản Thuận Hóa. Với lối rẽ này, Trần Thùy Mai đã chọn nghiệp viết làm con đường đi cho riêng mình.

Trưởng thành cùng thế hệ với Lý Lan, Nguyễn Thị Minh Ngọc ở Sài Gòn, những người cầm bút đầu tiên sau chiến tranh. Có thể nói, đây chính là thế hệ dò đường đi tìm những đề tài hậu chiến. Tính từ truyện ngắn đầu tay "Một chút màu xanh" in trên Tạp chí Sông Hương đến nay, nữ nhà văn người Huế này đã có trên 30 năm cầm bút với hàng trăm tác phẩm truyện ngắn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến. Trong đó, một số truyện ngắn nổi tiếng như: Gió thiên đường, Thập tự hoa, Quỷ trong trăng, Thương nhớ Hoàng Lan, Mưa đời sau, Người bán linh hồn, Trăng nơi đáy giếng, Thị trấn hoa quỳ vàng... của chị đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nhật...

Trần Thùy Mai là một trong những nhà văn nữ viết khỏe và khá đều tay hiện nay. "Những truyện ngắn của chị rất đa dạng, phảng phất không khí đất trời xứ Huế, quan tâm đến mọi mặt của cuộc sống, nhất là lớp trẻ và nhìn họ với một con mắt đầy yêu thương và hy vọng".[1]. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, Trần Thùy Mai viết nhiều về những đề tài và nhân vật lịch sử, đặc biệt là những nhân vật nữ in bóng trong lịch sử triều Nguyễn, gắn liền với Kinh thành Huế.

Trần Thùy Mai từng tâm sự: "Với tôi, viết là một nghề. Nó giống như mọi nghề khác ở chỗ phải có kỹ năng và lương tâm. Vì thế, trong cuộc đời tôi đã có nhiều lúc buồn nản nhưng chưa bao giờ thấy chán viết, chưa bao giờ muốn bỏ bút"[2].

Là một phụ nữ Huế nhẹ nhàng, tinh tế và sâu sắc, Trần Thùy Mai thấm thía nỗi đau, sự tổn thương và mất mát trong tình yêu. Một điều dễ dàng nhận thấy, Trần Thùy Mai dành tình cảm ưu ái rất riêng cho các nhân vật nữ của mình. "Cuộc sống vốn đa chiều và phức tạp. Tình yêu cũng không nằm ngoài quy luật khắc nghiệt ấy. Thế nhưng, tình yêu dẫu mất mát, phụ bạc và đớn đau đến nhường nào thì con người cũng chỉ thật sự tìm thấy hạnh phúc khi có nó. Chính vì thế, tình yêu trong truyện ngắn Trần Thùy Mai không đơn thuần là một câu chuyện lãng mạn, thấm đẫm nước mắt để "câu khách" mà đó là cái cớ để chị nói về cuộc sống với những con người đang ngày ngày sống, yêu và ruồng bỏ tình yêu của chính mình. Mỗi câu chuyện đau đáu một nỗi niềm[3].







Đinh Cường vẽ Trần Thùy Mai






Tác phẩm



1
Cỏ hát
tập truyện ngắn đầu tay in chung với Lý Lan
Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội - 1983



2
Bài thơ về biển khơi
Tập truyện ngắn
Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 1983





3
Thị trấn hoa quỳ vàng
Tập truyện ngắn
Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội - 1994





4
Trò chơi cấm
Tập truyện ngắn
Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh - 1998


Như mọi năm, đúng vào ngày một tháng giêng, ông Thanh tổ chức sinh nhật của mình trong ngôi nhà vườn ở làng quê. Khu vườn bên kia sông Bao Vinh, đầy những lá nhãn xanh um. Không bao giờ ông gửi thiệp mời cho ai. Nhưng như một tập tục, bạn bè ông cứ đúng ngày là đến. Ngày ông còn tại chức, có năm cả trăm người đến mừng sinh nhật. Từ lúc về hưu, mỗi năm người đến một thưa vắng, nhưng vẫn còn vài chục người. Ðó là những người thực sự thân tình: ông biết, ông sẽ không bao giờ mất họ. Trong số đó có cả ông Phi ở cạnh nhà: một ông già hiền lành, chuyên làm cai gian trong các đám tang. Ông Thanh giới thiệu với mọi người: " Ðây, ông cai gian của tôi, chẳng bao lâu nữa sẽ là người chôn tôi đấy" . Ðáp lời ông, ông Phi chỉ cười. Nụ cười móm mém chân chất .của ông làm người ta nghĩ đến hình ảnh hiền hậu nhất của cái chết. 

Hôm nay ông Thanh vừa đúng bảy mươi tuổi. Vào buổi tiệc ban trưa, ông đã ký những giấy tờ phân chia gia tài cho bốn đứa con trai trưởng thành. Ông có một gia sản không lớn nhưng cũng cần phải thu xếp ổn thỏa. Nhìn về phía vợ, ông hỏi: " Nào, mình có đồng ý với tôi không, hở mình?" Vợ ông rơm rớm nước mắt vì xúc động. " Ông ơi, sao ông lại hỏi thế, có bao giờ tôi không nghe lời ông?" Ðúng, bốn mươi năm qua, lúc nào bà cũng mãn nguyện làm cái bóng của ông. Suốt đời, ông đã làm lụng, đã đem lại danh giá cho bà. Bốn đứa con, đó là kết quả cuộc chung sống lâu dài và êm ấm giữa hai người. Bây giờ, chúng đã lớn, được ăn học, thành đạt, đã kiếm được những người vợ tốt; tất cả đang ngồi kia, nhìn về hai ông bà, cảm động và yêu thương. " Ba, ba vội quá, ba còn sống với chúng con rất lâu, vậy mà..." Ông Thanh đẩy hết bút giấy ra xa, như vừa dứt khoát làm xong một công việc nặng nề. Ông nói mà không nhìn ai cả: 

- Từ giờ phút này, ba đã xong hết mọi công nợ với cuộc đời. Ba có thể thanh thản yên nghỉ được rồi. Nhưng trong khi chờ đợi, ta cứ vui phải không các bạn? 

Nói xong, ông cao hứng uống cạn ly, hát một bài hát vui. Ai nấy đều hát theo ông, tiếng hát tưng bừng xóa tan ngay không khí có phần ngậm ngùi của mấy phút trước. 

Còn bây giờ, trời đã tối. Ông Thanh tự cho phép 

uống nhiều hơn, vì vậy men rượu bắt đầu giăng một màn sương trước mắt ông. Thật kỳ lạ, vào giờ phút ấy, ông chợt thấy phía cuối bàn một người phụ nữ, không biết ngồi đấy từ lúc nào. Hình như người ấy vừa đến, và cả bàn tiệc không ai ngạc nhiên vì mọi năm cũng thế rất nhiều người đến vào phút chót. Chỉ có ông Thanh bỡ ngỡ, không thể nhớ ra người ấy là ai. Tay cầm ly rượu, ông đến gần người khách lạ. Dù ai đi nữa, đó cũng là một người đã nhớ đến ông trong ngày này. Hơi rượu chếnh choáng làm ông không nhận ra người phụ nữ này bao nhiêu tuổi xưng hô thế nào cho phải. Vì thế, đáp lại nụ cười của nàng, ông chỉ biết nắm lấy bàn tay, siết chặt. 

- Thưa ông - Người khách mới đến nói giọng hơi ngập ngừng - Hôm nay là ngày sinh nhật của ông, tôi muốn đem đến cho ông một món quà. 

Nói xong, nàng đưa mắt nhìn quanh. Thấy chiếc đàn ghita trên vách, nàng ra hiệu nhờ lấy giúp. Rồi nàng so dây, và bắt đầu khúc nhạc của mình. 

Tiếng đàn buông từng nốt nhạc rời, chậm, lãng đãng tiếp theo nhau; một thứ giai điệu kỳ lạ. Bỗng nhiên, giữa đêm đẹp trời, ông Thanh tưởng mình nghe tiếng mưa. Mưa mùa thu, dìu dặt và nhẹ nhàng như không buồn đậu xuống đất mềm. 

Bất chợt, ông kêu lên một tiếng. Men rượu tan biến trước mắt ông. Ông đã nhớ ra! Khuôn mặt này, nụ cười này. Và tiếng đàn này. Tất cả đã từ lâu ngủ yên trong ký ức ông. Nhưng còn nàng, nàng từ đâu hiện về? 


*
* *

Khi gặp ông, nàng cũng như thế này. Tóc nàng dài, phủ kín hai vai. Lần đầu nàng ngước lên nhìn ông, trong đôi mắt nâu hiện ra một vầng sáng dịu. Quán cà phê Mimôsa khuất sau dốc đồi. Vào thời ấy, người ta xem việc uống cà phê buổi sáng là một thứ xa xỉ phẩm. Dưới lùm cây xanh và những vầng sương mù dày đặc, cái quán nhỏ âm thầm giấu mình như một thứ tội phạm dễ thương. Và nàng, cũng thế.

Thành phố cao nguyên đẹp nhưng quá buồn, nhất là với một người đàn ông xa gia đình. Những bực bội phiền toái trong mỗi ngày làm việc khiến buổi chiều trở thành khoảng thời gian tự do và vô vị. Một tuần hai lần, ông đến quán Mimôsa để giải khuây. Thiếu phụ áo tím ngồi sau quầy, những bông Muguet cũng mầu tím. Và rất nhiều âm nhạc. Ở đó, lần đầu ông đã nghe bản giao hưởng số 6 của Beethoven - bản giao hưởng định mệnh.

Thiếu phụ người Huế. Chồng ở Mỹ, đang làm thủ tục bảo lãnh cho nàng. Giấy tờ quá phức tạp, rắc rối. Trong khi chờ đợi, nàng giết thời giờ bằng quán Mimôsa. Nàng nói với ông nàng nhớ Huế, nhớ mùi rau diếp xanh trong vườn mẹ. Một lần, ông Thanh về phép. Khi trở lại, ông mang cho nàng một chậu nhỏ trồng đầy rau diếp xanh. Rau diếp mới ăn rất hăng nồng, nhưng lâu ngày thành nghiện. Dần dần, có lúc buồn bực, ông ra khỏi cơ quan, đầu óc căng thẳng, bước đi không định hướng. Mãi đến khi trước mắt hiện ra giàn hoa lấm tấm vàng, cái nhà gỗ thu mình sau hoa lá, ông mới biết đã đi đến chốn về của mình. Nàng đón ông ở cửa, nụ cười lặn sâu trong mắt. Lúc ấy ông Thanh đã nghĩ cả nhân gian là quán trọ, chỉ có nơi này là quê nhà của mình.

Tối hôm ấy, ông ở lại. Ðêm cao nguyên lạnh dịu dàng. Ðến lúc đó, ông mới hiểu nàng thuộc vào loại đàn bà mà người đời vẫn bảo là có bùa mê. Thật ra, đó là một năng lực kỳ bí cho tất cả phụ nữ từ thuở cổ sơ. Nhưng dần dà, người ta giấu giếm nó đi, và quên mất nó. Còn nàng, nàng không quên, không mất, vẫn mãi mãi như thế: một dòng suối hồn nhiên mê đắm.

Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, ông Thanh nghe những âm thanh dìu dặt, lãng đãng rơi dần từng giọt, từng giọt quanh giường. Cựa mình, ông nói khẽ, như người nói mê:

- Trời mưa, em ạ.

Nàng xoay mình, áp đầu xuống vai ông:

- Không đâu anh... Ðó là tiếng nhạc. Bài Jeu interdit, nghĩa là Trò chơi cấm.

Ông Thanh tỉnh hẳn. Ông nhìn thấy đĩa nhạc đang quay, những tiếng đàn êm ái như mưa. Và bàn tay nàng đậu trên vai ông, cũng mềm như tiếng nhạc.

Trò chơi cấm kéo dài bao lâu, ông không còn nhớ. Trong thời gian ấy, ông chỉ nghĩ đến một người là nàng. Một người duy nhất, có người ấy thế giới này chợt rộng lớn và vang ngân. Mọi điều ta trải qua, ta thấy, ta nghe đều day dứt, ngọt ngào vô kể.

Rồi đến một ngày, ông quyết định ra đi. Con người thật kỳ lạ, luôn muốn phiêu lưu nhưng không dám vượt ra ngoài những rào cản của cuộc sống bầy đàn. Vả lại, ông nhớ ra, rồi sẽ đến lúc nàng đi xa. Bởi đau lòng hoặc bởi hiếu thắng, ông chọn đi trước để khỏi bị nàng bỏ lại.

Nàng có một trực giác kỳ lạ, hiểu ngay những dự định của ông. Ngày trở về Huế, ông đến chia tay với nàng, như mọi lần về phép. Khi ông hôn nàng, nàng thì thầm:

- Em biết, đây là lần cuối.

Không! Ông kêu lên, siết chặt lấy nàng: Bao giờ cũng thế, mỗi lúc giữ trong vòng tay thân thể dịu mềm của nàng, bản đàn Jeu interdit lại vang lên bên tai ông. Ông đã không nói dối: đó không phải là lần cuối. Rất nhiều năm sau, thỉnh thoảng ông vẫn được gặp và hôn nàng như thế- Trong giấc mơ.

*
* *


Bây giờ nàng ở lại đây, bên ông. Năm tháng qua, nhưng sao nàng quá trẻ. Nàng còn trẻ hơn thuở gặp ông, như một thiếu nữ mới lớn. Ông Thanh run chân, chăm chăm nhìn. Nàng vẫn đàn. Ngày xưa, ông không thấy nàng chơi đàn. Nhưng cũng những âm thanh thế này: chậm- rời, dìu dặt như tiếng mưa.

" Trò chơi cấm" . Ông Thanh nói rất khẽ, nhưng người đàn bà vẫn nghe. Dường như nàng chỉ chờ có vậy. Bản nhạc viết về một cuộc chơi, một trò đùa thần tiên đến nao lòng. " Vâng, vậy là ông đã nhớ ra".

Ông Thanh thốt lên:

- Em tưởng là tôi có thể quên sao?

Cả bàn tiệc dồn mắt về hai người.

Người khách nữ treo đàn lên vách, rồi trở lại, đứng

trước ông Thanh. Ánh đèn toả sáng trên người nàng. Nhưng không... Đây thực sự là một cô bé. Một cô bé giống nàng như tạc.

- Mẹ cháu bảo cháu đến đây, và đàn cho ông nghe khúc nhạc này.

- Mẹ cháu... vừa từ nước ngoài trở về?- Ông Thanh hỏi, môi run run.

- Không. Mẹ cháu đã không đi. Vì có cháu.

Cô bé vừa trả lời vừa nhìn ông Thanh như chế giễu sự chậm hiểu của ông. Trên khuôn mặt trẻ thơ đó là đôi mắt của ông, vẻ nhìn của ông. Cô bé đó giống nàng, và cũng giống ông, giống hơn tất cả những đứa con ông đã có.

Sững sờ, ông Thanh ngồi lặng trên ghế.

Cô bé ngồi cạnh ông. Cả hai người, không ai nói gì nữa. Hình như tiếng nói đã trở thành vô nghĩa lúc này.

Cũng như mọi năm, bữa tiệc dứt lúc trăng lên đầu ngọn cau cuối vườn. Nhưng lần này người ta không nghe tiếng cười nói xôn xao từ trên đường tiễn khách ra bến đò để qua sông về thành phố. Cả đoàn người lặng im theo sau ông Thanh và cô gái, như trong một đám rước kỳ dị, bởi ai cũng linh cảm thấy điều bí ẩn nào đó đang đè nặng tâm hồn mình.

Con thuyền đến. Cô gái quay đi. Chợt ông Thanh giữ lấy cô bé:

- Con!

Cô bé quay lại , mắt lóng lánh nước:

- Ba?...

Hai cha con ôm nhau. Mọi người đứng quanh cúi đầu, như trước một cuộc hành lễ. Ðiều bí ẩn đã rõ. Cuối cùng, ông Thanh đã thừa nhận bản thân mình- một thứ mà ông đã chối bỏ từ lâu.

"Hãy ở lại với ba. Ba chưa làm được gì cho con cả. Ba không còn gì cả, nhưng ba vẫn còn sống, ba sẽ làm mọi điều ba có thể, vì con..." Ông Thanh nói dồn dập. Rất nhiều năm rồi, ông mới nghe tim mình đập như thế. " Không, con không đến để đòi nợ ba đâu. Con đến để nhìn lại cội nguồn của mình. Và cũng để làm đúng ý nguyện của mẹ con, gửi cho ba món quà sinh nhật" . Khuôn mặt trẻ thơ đang lóng lánh nước mắt, chợt rạng rỡ một nụ cười... Rồi cô bé cương quyết xuống thuyền. Bên kia bờ, trong bóng đen sâu thẳm là những ngọn đèn của phố Bao Vinh lung linh trên nước. Giữa sông, trên con thuyền chông chênh dưới trăng, ông Thanh vẫn nhìn thấy con gái mình, rạng rỡ, sáng láng: một món quà sinh nhật quá tuyệt vời.

Ông khóc, im lặng. Nó đã đến, và đã đi. Con của ông. Một đứa trẻ cô đơn, nhưng không hề buồn thảm. Ông không còn gì cho nó, ngoài những lời nguyện cầu. Cầu cho nó cứ mãi đi trên đời như thế, cầu nước sâu cạn dưới chân nó, gió dữ tan trên đầu nó. Cầu Thượng đế hãy phù hộ cho nó, như vẫn phù hộ cho những đứa con sinh ra từ tình yêu.

Trở về nhà, không ai, kể cả vợ con ông Thanh, dám hỏi han gì ông, vì thấy ông trong trạng thái như đi giữa mây mù. Lúc bấy giờ ông không nghĩ tới ai cả không nhớ điều gì cả, ông đã thanh thỏa với cuộc đời ở đây. Bây giờ trong tâm trí ông chỉ có hình ảnh một túp nhà ở nơi rất xa, ẩn sau khóm mimosa hoa vàng. Nơi đó có một người đàn bà lặng lẽ sống, cưu mang và hoài niệm. Sự im lặng ấy phải chăng là chịu đựng hy sinh, hay cũng là một trò chơi ngông cuồng của nàng?

Ông phải gặp nàng, phải hỏi nàng điều đó, và nàng sẽ phải trả lời ông, với nụ cười bí ẩn lặn sâu trong mắt. Ngay trong đêm, ông thu dọn chiếc va ly nhỏ. Ông sẽ đi, ngay ngày mai. Ðã mười tám năm, nhưng ông cứ tin rằng nàng vẫn thế, ngôi nhà ấy vẫn thế, nho nhỏ, ngậm ngùi dưới những cơn mưa mù sương. Ðó vốn là nơi trở về của ông. Ðã đến lúc ông phải quay về. Ông còn phải sống, sống rất dài lâu, vì ông chưa hết nợ với thế gian này.

Sáng hôm sau, lúc mở cửa phòng, người ta thấy

ông nằm, mắt mở. Tim ông đã ngừng đập vào lúc còn say sưa nghĩ đến chuyến đi. Có lẽ vào giây phút ấy bên tai ông vẫn vang lên những nốt nhạc lãng đãng, dịu dàng đến mê người, những ảo thanh của một cơn mưa không dứt.










5
Người khổng lồ núi Bạc
Truyện thiếu nhi
Nhà xuất bản Trẻ, TP. Hồ Chí Minh - 2002






6
Đêm tái sinh
Tập truyện ngắn
Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 2003






7
Thập tự hoa
Tập truyện ngắn
Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 2003





8
Biển đời người
Tập truyện ngắn, 
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội - 2003



Bim mười lăm tuổi, người lép kẹp như con cá măng, mùa lạnh thì mũi lúc nào cũng ướt. Vậy mà cô Hạnh cứ làm như con cô là tiên. Mỗi lần tôi đến, cô lại trách: "Vì mày mà sau này em Bim không đi thi hoa hậu được. Lớn lên lo mà đền cho nó". Tôi rụt cổ, gãi tai, biết là cô đang muốn nhắc đến những cái sẹo to trên người Bim. Mẹ tôi bảo: "Một cái là do Măng rủ nó trèo cây đào. Một cái là Măng chơi u, xô nó té từ trên gác xuống. Một cái là do cô Hạnh sai Măng bưng bát canh, đi đến cửa nóng tay quá Măng hắt tung vào người nó". Nghe kể, tôi ân hận. Thật may là Bim chẳng trách bao giờ. Cứ thấy tôi là Bim nhảy lê: "Anh Tuấn, cho em hai ngàn đi chơi điện tử". Thế rồi, bẵng đi một dạo, mỗi lần tôi sang, Bim lơ đẹp. Tính tình khác, thân thể cũng khác xưa, cao hẳn lên, ngực lờ mờ hai chóp tròn mềm mại sau tấm áo. 

Trời mưa đột ngột xối xả vào xế trưa. Đến chiều, con nước dâng nhanh chẳng mấy chốc ngập lòng đường, tiến vào nhà, treo lên phủ ngập giường chiếu. Cả vùng thành nội ngập tràn nước trắng xoá. Bơi đến trước sân, tôi cố vượt dòng tiến vào sát cửa. Cửa đóng, lại cài then phía trong. 

"Bim ơi! Bim ơi!". Tôi cố gào át tiếng mưa. Tiếng Bim khóc nức nở gọi mẹ trong nhà vọng ra. Cố sức day cửa không được, tôi đành gắng trèo lên mái nhà dở ngói, lần xuống. Bim ngồi co trên bàn, thấy người leo vào nhà thì hét toáng lên, sau đó nhận ra tôi. "Anh Tuấn! Em tưởng kẻ cắp sợ quá. Mẹ bảo đóng cửa, ai gọi cũng đừng mở". Tôi lội đến gần Bim: "Đồ ngu. Khi mẹ dặn thì trời chưa lụt". "Mẹ về ngoại từ sớm chưa về, có sao không anh ơi". "Mẹ không quay lại vào giờ này được đâu. Nước lên nhanh lắm, công an cấm không ai được vào cổng thành". "Sao anh vào được?". "Trèo qua mặt thành. Anh mà không tới kịp, nước lên ngập đầu thì Bim thành bèo". Mới trao đổi có mấy câu, nhìn lại, nước đã vượt quá lên mấy tấc. "Trèo lên gác thôi em". Bim đứng dậy, nhưng sụm xuống, hai chân tê cóng vì ngâm nước lạnh. Tôi cầm hai tay Bim, kéo vòng qua cổ: "Bám chặt lấy, anh cõng". Tôi trèo từng bậc một lên thang, một tay quàng ra sau giữ cho Bim khỏi rơi xuống nước... 

Trời sập tối, hai đứa ngồi thu lu trong gác hẹp. Tôi sợ nước lên nữa không còn lối thoát, thò tay lên dở ngói, bẻ một khoảng rui lớn, phòng có nguy thì trèo qua mái nhà. Bim khóc rấm rứt một lúc rồi thiếp đi. Hơi thở Bim nóng như sôi phập phồng qua má tôi. Bim sốt rồi. Tôi hốt hoảng. Trời tối thui, chỉ nghe tiếng mưa ào ào trên mái, sát bên tai. 

May sao trên gác có tấm chăn cũ. Tôi lần lần cởi chiếc áo ướt cho Bim lấy chăn quàng lại. Cả đêm tôi ngồi ôm cô bé như ôm món quà gói kỹ trong chăn. Cầu cho trời mau sáng, lại cầu cho đêm cứ dài mãi ra vô tận. Sờ thấy áo khô, lại mặc vào cho Bim, trời tối, tôi chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng dám chạm mạnh, vậy mà người cứ run run. Bim thì cứ mê sảng, hết gọi mẹ lại đến sợ chuột. 

Mãi đến trưa mai, nước mới xuống. Cô Hạnh thuê đò chống vào đến ngõ, thấy nước ngập tràn đến mái nhà, cô khóc váng lên: "Con ơi là con". Thấy tôi thò đầu ra khỏi lỗ ngói, cô trợn tròn mắt như quỷ thần. Tôi bơi ra, kéo đò vào, chỉ cho cô Bim nằm mê man. Cô lại khóc rống lên, lần này vì mừng. "Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Măng ơi! Tao cho mày con Bim". 

Hai ngày sau, Bim tỉnh lại. Cô Hạnh đút cháo. Nằm trên giường, Bim bảo: "Anh Tuấn phá mái, bẻ rui nhà em, em bắt đền". Lại bắt đền! Tôi cởi trần, hì hục dọn hàng tấn bùn non ngập đầy sân. 

Từ đó, năm nào cũng vậy, trời mới mưa to tôi đã trực ở nhà cô Hạnh rồi. Số Bim là số sướng, mười bảy tuổi rồi mà chưa động tay dọn lũ lấy một lần. Mẹ tôi bảo: "Sao mà ai cũng thích đẻ con trai. Ăn cơm nhà, vác ngà voi thì nó là số một. Lo kiếm việc làm ăn đi con ạ, cả ngày hết đàn hát lại xách xe đi chùi bóng mặt đường, con gái nó không ưa đâu". 

Nhìn tôi trong bộ đồng phục công nhân màu xanh, Bim lo lắng: "Rồi ai chở em đi học?". Tôi dỗ dành: "Chịu khó đi xe đạp, hôm nào về sớm anh chở đi buổi chiều đỡ nắng". Ngày đầu đi làm, nhìn ra cả vùng đồng nước Vân Cù mênh mông, thấy cột điện chữ A mọc lên giữa những giường ruộng ngang dọc, tôi ngớ ngẩn hỏi: Người ta dùng máy gì mà đưa mấy cái cột nặng thế này ra đến đó?". Anh Hạp, tổ trưởng của tôi cười: "Cái xác mày khênh ra, chứ máy gì mà thi công được ở đây?". Tôi nhìn, phát hoảng. Lần đầu tiên được giao khiêng bộ chân tó để dựng cột, tối về tôi ngủ mơ, nói sảng: "Mẹ ơi, núi đổ, lôi con ra, lôi ra". Mẹ lay mãi, tôi mới tỉnh, mồ hôi ướt dầm mình. 

Dần dần, tôi mạnh lên, cơ bắp nổi đầy tay, lên rừng xuống biển cũng không còn sợ nữa. Đi đâu thì đi, chiều đến về nhà, việc đầu tiên là tắm gội cạo rửa tinh tươm, đến trường đón Bim về. Có hôm thấy Bim chờ một mình vắng ngắt: "Bạn em đâu cả?". "Tụi nó rủ nhau đi ăn chè". "Lần sau em cứ đi với bạn, nhắn lại với bà hàng nước cho anh biết chỗ đến tìm là được". Bim cười, ngúc ngắc hai đuôi sam: "Ai lại thế, anh đi làm mệt cả ngày, về mà không thấy Bim, anh có buồn không?". Lòng tôi như chao đi, lần đầu tiên thấy trên khuôn mặt Bim nét dịu dàng thiếu nữ. Bim của tôi lớn rồi và biết nghĩ, không còn ngốc nghếch ham chơi như tôi tưởng. Bất giác, tôi ôm Bim vào lòng. Bim cười nhắm mắt, rúc vào ngực tôi hít một cái thật dài rồi chuồi người, đẩy tôi ra. "Sao thế?". "Người ta cười". "Đồ sợ chết". 

Một buổi sáng chủ nhật bên suối Trà Am, lần đầu tiên Bim cho tôi ôm trong tay... Bim cười, ghé cái tai nhỏ hồng sát ngực tôi, lắng nghe tim đập. "Nhè nhẹ thôi, anh siết mạnh em đâu cả người". "Bim ơi!". "Gì anh?". Tôi bồi hồi nhớ lại cái đêm trời lụt. "Cho anh cõng Bim đi xem suối". Chân tôi đi qua những mỏm đá trơn. "Em sợ anh cõng em nặng, té gãy cổ cả hai đứa". Tôi giữ chặt Bim sau lưng. "Đừng lo. Hai bộ xà sứ vừa nặng vừa cứng anh còn cõng qua suối Nam Đông, bây giờ cõng Bim nhẹ và mềm như con gấu bông, anh đi lên thấu trời". Bim cười, tiếng cười như suối. Tôi đặt Bim ngồi trên cành cây ươi đổ ngang, giữa những cánh hoa nhung đỏ hé mở. "Anh Tuấn ơi! Con muỗi!". Tôi định đập, Bim bỗng xua cho nó bay đi. "Tội nghiệp, tha cho nó anh ạ!. Bắp tay Bim sưng lên một đốm hồng. Tôi gãi cho Bim, Bim nũng nịu: "Tuấn không có móng tay, gãi bằng cục chai trong lòng bàn tay ấy...". 

Cô Hạnh than thở với tôi: "Em nó ăn nhiều mà sao vẫn xanh. Hay là có giun?". Tôi chạy mua thuốc xổ. Lại mua cho Bim một đôi giày vải. Sáng sớm tôi đến, gõ cửa, dựng Bim dậy. Bim mắt nhắm mắt mở, chạy thể dục với tôi từ Tây Linh ra đến Tây Lộc rồi lại theo đường vòng quay về. Bữa đầu, Bim khóc mếu: "Tuấn độc tài". Dần dần quen, sáng nào tôi không ra, Bim giận lẫy. Tôi hỏi Bim: "Có muốn học bơi không, sáng ra bến Me bơi mát lắm, anh tập cho". Bim lắc đầu quầy quậy: "Mắc cỡ lắm". Tôi chợt nhớ, chân Bim có sẹo. Chẳng hiểu sẹo ra sao? Nếu giờ mà lại có một đêm lụt như đêm nào, tôi sẽ đếm lại những cái sẹo trên người Bim, tôi sẽ đền cho Bim bằng cả đời tôi... 

Cái tin Bim đi thi người đẹp làm tôi ngạc nhiên. Cô Hạnh hớn hở: "Chương trình có phần thi mặc áo tắm, nhưng toàn thể phụ huynh đều phản đối, dọa nếu thi áo tắm thì đem con về. Thế là Ban tổ chức phải chịu". Tôi cười: "Chắc cô Hạnh là người phản đối mạnh nhất". "Nghe nói giải thưởng mười triệu cháu ạ". Nghe giọng cô hí hửng như trẻ con, tôi cười thầm. Hy vọng Bim của tôi trúng giải quá mong manh, nhưng thôi cứ để cho cô tha hồ bay bổng. 

Những ngày sau đó tôi quay như cái vụ. Nào chở Bim ra tiệm Mỹ Trang thuê áo soiree. Nào chở Bim đi may áo dài. Tối lại ra nhà Bim đàn cho Bim tập đi. Rồi lại phải chọn áo. Tôi ngắm lui ngắm tới Bim của tôi trong hơn hai chục cái váy. Cuối cùng chọn được một cái soiree màu lam óng ánh, vải dịu và mềm. Bim giãy nảy: "Cái này cũ rồi". "Nhìn ban ngày cũ thế, nhưng dưới ánh đèn nó sẽ đẹp rực lên. Còn những cái kia trông huy hoàng nhưng lên sân khấu sẽ cải lương hết sức, rồi em xem". Nói mà Bim không nghe, tôi lại giở thói "độc tài". "Còn thi ứng xử nữa, em nói kém lắm làm sao thi đây". Tôi kiếm một cuốn sổ nhỏ, lần giở sách báo, tìm những câu châm ngôn sắc sảo ghi vào. Câu nào cũng ngọt ngào bay bổng, toàn những lời có cánh về tình yêu, tình bạn, sắc đẹp, vân vân và vân vân... 

Đêm thi đã đến, cô Hạnh lo lắng nhịn cả bữa ăn chiều. Tôi cũng đã xin nghỉ phép hai hôm. Giờ đây, trong tiếng nhạc đánh chậm bài La Paloma, Bim đang xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu. "Vũ Tuý Diễm, nữ sinh lớp 10 trường...". Tôi dụi mắt. Có phải là Bim của tôi đây không? Tôi bỗng nhớ đến những trái táo trên sạp hàng trái cây của mẹ tôi, vốn tầm thường khiêm tốn, chỉ cần lấy khăn lau một lượt, phun nước lên, bỗng bóng loáng, chín ửng, ai nhìn cũng muốn cắn. "Vũ Tuý Diễm năm nay mười bảy tuổi, sở thích đọc truyện, ca hát, nấu ăn...". Hừ, Bim có nấu ăn bao giờ đâu, thoáng nghĩ thế nhưng chẳng nghĩ được lâu vì tôi còn bận dán mắt vào cô gái trên sân khấu, cô gái vốn là Bim của tôi. Một chút ngập ngừng làm tăng vẻ quyến rũ thơ ngây trong dáng đi uyển chuyển. Chiếc soiree màu lam bạc ôm khít lấy tấm thân mảnh mai nẩy nở, lớp váy trong rất ngắn cho thấy đôi chân dài thẳng băng, trắng muốt. Lớp váy ngoài xẻ bốn đường rất cao, ôm rất khéo, làm dáng người đài các, thướt tha. Bim đang cười... đôi môi tô son màu hồng, sống mũi cao mềm mại thanh tú, đường nét nào cũng sắc sảo, rực rỡ hơn hẳn thường ngày. Chỉ có đôi mắt là vẫn mở to, ngơ ngơ dưới cặp lông mày cong như trăng hạ huyền. Bên cạnh tôi, cô Hạnh hể hả: "Đi lùng suốt ba bữa mới mua được đôi tất ngoại mỏng đẹp như vậy đó. Cháu thấy chưa, tôn tạo lên một chút là ăn đứt... ủa Tuấn, làm chi mà sững ra rứa, con Bim chứ ai xa lạ?". 

Điểm ngoại hình Bim cao nhất tất cả thí sinh. Tiếc rằng Bim chẳng nhớ câu nào trong số những câu tôi đã tủ cho cô bé. Ban Giám khảo hỏi: "Em nghĩ gì về ngày 8 tháng 3?". Bim đứng ngẩn một lúc: "Em nghĩ... 8 tháng 3 là một ngày nhộn nhịp...". Biển người lố nhố làm Bim hốt hoảng. Sau này, Bim bảo: "Em quớ quá, nhìn xuống mà chẳng thấy Tuấn đâu. Chỉ thấy tay với đầu người, hàng vạn cái". Cô Hạnh cứ tiếc mãi: "Giá nó trả lời được, thì đã là hoa khôi xứ Huế". Bim được danh hiệu Á khôi thứ nhất. Với tôi, thế cũng danh giá quá rồi. Đi đâu người ta cũng trầm trồ thằng Tuấn tốt số, có người yêu đẹp lắm trúng giải nhì kỳ thi Duyên dáng cố đô. 

"Ngày nhộn nhịp" đã tới. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Hạp không cho. "Hôm nay thay gấp đường dây ở đường Huyền Trân Công Chúa. Thương tình mày chưa vợ cho nghỉ buổi chiều thôi". Tôi lắp bộ xà sứ trên đỉnh cột, vừa vặn ốc vít vừa nhìn ra xa, thấy có mấy gánh hàng hoa đang bán. Có hoa hồng nhung đỏ thắm, hay quá, Bim rất thích hoa hồng ở Huế vì nó nhỏ hơn nhưng nở tự nhiên, chứ những búp hồng từ xa chở đến đẹp thì có đẹp nhưng do bị phun thuốc nên chẳng bao giờ nở. Làm xong, quần áo còn lấm lem, tôi phóng tới ngồi lựa hoa. Mấy cô giáo mặc áo dài đang trả tiền hoa nhìn tôi mỉm cười: "Cô nào may mắn mới gặp anh này". Tắm xong, mặc bộ đồ bảnh nhất, tôi phóng đến Bim. Trên bàn một lẵng hoa vừa to vừa đẹp, hoa hồng Đà Lạt đỏ tươi xen lẫn hoa thạch thảo lấm tấm trắng. Tôi khựng lại. Cô Hạnh hể hả: "Tuấn này, bây giờ văn minh thật, người ta tặng nguyên cả lẵng hoa, cứ thế mà đặt trên bàn chẳng mất công cắm tỉa gì nữa". Tôi ngồi yên, rầu rầu. Bim từ trong phòng đi ra: "Hoa 8 tháng 3 của em đâu?". Thấy vẻ mặt tôi, như hiểu ý, Bim giải thích: "Không phải của ai đâu. Đó là quà tặng của Hội Phụ nữ, khen tặng thành tích đóng góp...". Tôi tươi lên như cây héo được tưới nước. Chiều đó, dắt Bim đi ăn kem, tôi khoe đã được thao tác trên cột, lắp đặt xà sứ thành thạo. Bim cầm bàn tay tôi, áp những cục chai to vào má: "Tuấn nhớ làm việc cho giỏi, sau này nuôi Bim". "Ừ, ba năm nữa là Tuấn vững rồi, Bim thích gì Tuấn cũng mua". Bim cười, nét mặt giờ đây lại mộc mạc như những trái táo chưa chùi bóng: "Bim chỉ cần ăn cơm có cá, và mỗi tuần được đi ăn kem như thế này". Tôi trêu: "Em bây giờ là á khôi xứ Huế rồi, phải kiêu lên đi chứ". 

Tháng năm, thành phố cử Bim đi Sài Gòn dự thi hoa hậu. Cô Hạnh khoe: "Kinh phí hạn chế nên ngoài hoa khôi, chỉ có á khôi thứ nhất mới đi được". Ngày Bim đi, tổ tôi thi công lắp đặt đường dây số 6 ở trạm Nong. Bim dặn lui dặn tới: "Bốn giờ chiều là tàu đi ngang qua ga Hương Thuỷ. Tuấn nhớ chạy qua ga, Bim thò đầu ra cửa sổ, cầm cái khăn màu xanh, chào Tuấn một cái rồi Bim đi". Nghe tiếng còi tàu, tôi ba chân bốn cẳng phóng xe. Tàu đi ngang, lừ lừ một chút phóng nhanh, mất hút. Tôi đứng bần thần ngẩn ngơ trên sân. Lủi thủi về trạm, tôi đọc mấy dòng chữ trên máy nhắn tin của anh Hạp: "Tuấn ơi đừng chờ nữa. Bim đi máy bay rồi". 

Tối đó đến thăm cô Hạnh, cô liến thoắng: "Có người Mạnh Thường Quân có lòng ủng hộ quê hương, bỏ tiền ra lo đi lại, ăn ở cho thí sinh Huế...". Tôi nhìn cô. Thảo nào, mẹ tôi vẫn gọi cô là Hạnh tồ. 

Cả hai cô gái đều phải về sớm không dự kỳ thi hoa hậu được vì ai cũng thiếu một phân chiều cao. Cô Hạnh thất vọng. Giờ đây, tôi đã biết ích kỷ. Sau khi Bim nhận giải 5 triệu ở kỳ thi Duyên dáng cố đô, căn nhà nhỏ đã được lát gạch hoa láng bóng. Buổi trưa, Bim vác gối ra nằm, đi ngoài đường nhìn vào thấy cô nàng nằm khoanh trên sàn như con chó Nhật. "Vào trong mà ngủ, không được nằm đây". "Trong kia nóng lắm". "Nóng thì mở quạt. Con gái nằm ngay giữa cửa để phơi cho thiên hạ nhìn à?". Bim ấm ức: "Tuấn độc tài. Sau này chỉ có hành hạ Bim!". 

Tổ tôi nhận thi công đường dây Bắc Hải Vân, cả mấy tháng đi liên miên. Cuối tuần mới về chở Bim đi chơi Trà Am. Tôi nói với Bim tôi làm việc khéo nhất trong tổ. Anh Hạp đề nghị tăng lương sớm cho tôi... Bim chỉ bảo: "Thế à?". Hai đứa đi men theo con suối: "Tuấn cõng Bim nhé?". "Thôi, lớn rồi, cõng như con nít ấy, kỳ lắm". Bim ngồi dưới bóng cây ươi, giữa những bông hoa nhung đỏ. Muỗi từ ven suối bay lên, Bim tự đập bép bép liên hồi, không nhờ tôi... Tôi ngửa lòng tay nhìn những cục chai to, ngó vu vơ lên trời... 

Rồi tôi gặp người đàn ông ấy, một tối trời trăng. Gã ngồi song song với Bim, nơi chỗ tôi thường ngồi. Thấy tôi vào, Bim chào, ngượng ngùng. Cô Hạnh bảo: "Đây là Tuấn, cháu cưng của cô. Năm nào trời lụt cũng nhờ một tay nó". Gã chào tôi qua loa rồi nhìn lên trần nhà. "Chỗ này chỉ cần bỏ vào chừng năm ngàn đô, lên thêm một tầng kiên cố thì chẳng lo gì lụt". Tôi về nhà, ngồi nhìn ra cửa sổ, châm thuốc hút. Mẹ tôi hỏi: "Măng, con sao vậy?". "Có gì đâu?". "Sao con ngậm ngược điếu thuốc?". Lúc bấy giờ tôi mới nhìn thấy cái đót thuốc đang cháy phừng phừng. Tôi ngước lên nhìn mẹ. Cái nhìn của người vừa bị dao đâm. Mẹ tôi đỏ mắt: "Chuyện con Bim phải không? Lâu nay mẹ nghe đồn...". Bà nổi tam bành: "Đồ tham vàng bỏ ngãi. Cái năm trời lụt to, không có Măng thì còn đâu mà gả đi Tây đi Tàu". Tôi quờ tay ngăn lại: "Thôi mẹ ơi. Chuyện xưa rồi, đừng nhắc". 

Tôi biết, Bim của tôi từ nhỏ loanh quanh nơi cái xóm thấp như rún biển, cả đời mới ra khỏi thành phố một lần. Gã phương xa kia với Bim là cả một chân trời. Cũng phải thôi. Ai muốn giam mình trong ao, mà chẳng muốn vươn ra ngoài biển rộng? 

Mai lại, đang làm việc, tôi nháng một nhát búa vào tay. Ngón cái dập nhỏ máu. Anh Hạp nhìn tôi thẫn thờ: "Công anh xúc tép nuôi cò, cò ăn cho lớn, cò dò cò đi". Thằng Tín cầm lấy cái búa đứng thay vào chỗ tôi, trêu già: "Cò khôn, cò ăn cơm Tây. Ăn chi tôm tép ruộng lầy quê ta...". Tôi trừng mắt: "Chó chết. Câm!". Trở về, tôi sốt cao, vết thương sưng húp. Mẹ tôi lo cơm cháo hơn một tuần. Bim không biết tôi ốm, có lẽ còn lo cho ngày đi... 

Ba năm sau. Tôi đã lên bậc, tăng lương hai lần. Làm được bao nhiêu tiền nướng hết vào thuốc lá. Tính lầm lì, cả ngày chỉ biết làm. 

Đi làm về, chưa thay áo, tôi nghe mẹ nói: 

- Con Bim mới về, có bồng con qua đây thăm. 

-... 

- Lấy chồng Việt kiều, đi Tây về mà không mập, lại còn gầy đi nữa chớ. 

-... 

- Sao Măng im như thóc không nói gì cả vậy? 

- Thì có gì đâu mà nói. - Tôi ư hử. 

Mẹ tôi im. Nửa như cụt hứng, nửa lại như mừng thầm. Mừng cho con trai đã quên khuấy chuyện xưa. 

Hơn tuần sau, Bim gọi điện cho tôi. 

- Nghe mẹ nói lụt năm nào anh cũng vào dọn cho mẹ, em cảm ơn anh nhiều lắm! 

Lâu lắm mới nghe Bim nói - giờ giọng Bim khác xưa, từ tốn, buồn buồn. Cái vẻ buồn làm lòng tôi bỗng chùng xuống. Muôn vàn điều muốn nói mà sao chẳng nói được gì. Lâu quá lầm lì đã thành thói quen, phản xạ nói năng hầu như chẳng có. Mãi mới kiếm được một câu để nói: 

- Em gắng giúp mẹ sửa cái nhà. Ở có một mình mà năm nào cũng vất vả. 
Bim ấp úng: 

- Thương mẹ lắm mà chưa làm sao được anh ạ. Tiền chồng, chồng giữ, tiền vợ, vợ giữ, em mới sang đâu làm được bao nhiêu...". 

Tôi thở dài: 

- Nghe mẹ anh nói, em gầy hơn trước? 

- Dạ, em đi làm xa lắm, mỗi ngày đi về phải ngồi trên xe điện ngầm hơn bốn tiếng đồng hồ. Ngồi trên xe chẳng biết làm gì, cứ nhớ nhà, nhớ hồi xưa...". 

Hai tiếng "hồi xưa" nghe sao mà âm vang. Tôi lặng yên, bồi hồi lắng nghe tiếng rung ngân của hai chữ đơn sơ ấy. 

- Hồi xưa, anh tốt với em nhiều lắm. Khi ra đi, em cứ nghĩ sau này giàu có sẽ đền công anh... 

Giọng Bim nghẹn như sắp nức nở. Bỗng dưng, nước mắt tôi ràn ra không giữ nổi. 

- Bim ơi, lớn rồi, sao còn nói ngơ ngơ? 

Chiều đó, tôi về lại Trà Am, ngồi một mình dưới gốc cây ươi bên suối. Nước cứ chảy xuôi, chảy mãi. Bim ơi, biết nơi đâu là biển của đời người. 






9
Thương nhớ Hoàng Lan

Tập truyện ngắn chọn lọc
Nhà xuất bản Văn Mới, California, USA - 2003



Thương Nhớ Hoàng Lan

Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?" Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: "Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại". Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.

Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì: "Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúnh sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ?" Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: "Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H" Rồi bà cười ha hả: "Đi tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da". Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vao đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...

Cô ruột tôi giận lắm, bảo: "Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng." Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói "Đừng". Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?

Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa. "Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni."

Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...

Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: "Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?" Tôi chỉ lắc đầu...

Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: "Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác". Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch: "Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà tránh?" Thầy hỏi: "Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong." Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì.

Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phảt dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: "Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng". Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: "Này, đừng nghịch". Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. "Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan". Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: "Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy". Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: "Mấy con Thị Màu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử?" Tôi cự: "Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ".

Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước giò. Lan phụng phịu: "Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có". Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ. "Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi".

Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: "Không can gì". "Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?" Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. "Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó". Tôi động lòng, hỏi: "Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong". Thầy cười: "Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín rầng mây". Tôi vái thầy mà thưa: "Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa."

Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. "Anh không thích phong lan nữa sao?". "Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan". Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất. Lan bảo: "Thích ghê, em chưa thấy bao giờ". Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...

Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. "Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường".Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: "Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng". Tôi hãi hồn, vội nói: "Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây". Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: "Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa".

Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...

Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.

"Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà". "Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó". "Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức". Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: "Khó tin". "Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra - bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn".

Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: "Nhà chùa có việc gì mà nhắc cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi". Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịnh vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: "Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu."... Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống, Lan lắc đầu, Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: "Đồ lừa đảo. Từ nay chứa cái thói dỗ gái đi". Quay sang Lan, tôi nạt: "Đi về!" Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi...

Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: "Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?" Tôi cau mặt: "Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?" "Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến". "Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn". Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi. "Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?" Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa... "Em có thích nghe chuyện cổ tích không?" "Thích". Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: "Sao có người làm được như thế?" Tôi gật đầu: "Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền sư trả lời: "Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua". Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng. "Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?" Tôi bảo: "Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con". Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. "Thôi, về đi em". Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...

Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: "Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu". "Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên". Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: "Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?"

Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.

"Con ma nữ" đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: "Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con". Tôi cuống quýt: "Bác bảo con làm sao được?" "Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra". Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ: "Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng". Tôi thở dài: "Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thuỷ Sám". Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...

Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: "Sao con bỏ học?" Tôi nói: "Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng". Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: "Bạch thầy". Thầy tôi bảo: "Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn." Tôi nói: "Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An". Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: "Tâm không an, có cầu cũng vô ích". Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. "Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?" Thầy nhìn vào mắt tôi: "Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình." Tôi lắc đầu: "Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi".

Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã úa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.

Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: "Chú Ninh!"

Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. "Bác lên chùa cầu cho em đi bình an..." Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.

Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan:

"Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan...

Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi..."

Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng. "Cứ khóc đi con" - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - "Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ". Tôi nức nở: "Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây Hoàng Lan không?"

Thầy bảo: "Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?" Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.

Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.

Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.

Huế, 12.2000








10
Mưa đời sau

Tập truyện ngắn
Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2005







11
Mưa ở Trasbourg
Tập truyện ngắn
Nhà xuất bản Phụ Nữ, Hà Nội – 2007





12
Lửa hoàng cung
Tập truyện ngắn
Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2008, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội - 2010




Lửa Hoàng Cung


Năm ấy nhà vua đã gần sáu mươi tuổi. Hàng ngày, cung tần mỹ nữ vẫn được tuyển thêm. Ròng rã hơn mấy mươi năm, tháng nào hậu cung cũng có một hoàng nam hay một công chúa mới ra đời. Tính đến năm thứ hai mươi bốn trị vì, nhà vua đã có đến ba mươi tư con trai và sáu mươi chín con gái.

Quỳnh Thơ là con thứ ba của Hoàng Quý Phi, lớn lên trong cung Trùng Hoa cùng với hai chị là Quỳnh Bôi, Quỳnh Tiên. Hoàng Quý Phi bị vua lãnh đạm từ lâu, ít khi được gặp vua trong nội tẩm. Ba nàng công chúa nhỏ hầu như chỉ thấy phụ hoàng từ xa, trong những ngày gia lễ, khi ngài đi thoáng qua thềm các cung viện để nghe lời chúc tụng thành khẩn từ những bà vợ bị bỏ quên của mình. Hình như Quỳnh Tiên, là trưởng nữ, đã từng được nhà vua bế lên tay một lát trong ngày chúc thọ bát tuần Thái hoàng Thái hậu. Thái hoàng Thái hậu mất đã lâu rồi và Quỳnh Tiên cũng không còn nhớ rõ kỷ niệm huy hoàng thời thơ ấu. Các nàng công chúa trong cung suốt năm chỉ mơ đến những ngày lễ Tết, ngoài những ngày vui nhộn nhịp ấy, cuộc sống lại tĩnh mịch, ngày nào cũng như ngày nào. Các phu nhân đến hầu Hoàng Quý Phi, ngón tay trơn nhẵn vì lật qua lật về quá nhiều lần những quân bài tứ sắc, đám thị nữ từ sáng đến chiều hết hái hoa, tưới hoa lại đập rũ những chăn màn bám bụi. Thế giới của đàn bà, nhỏ nhặt, nhàm chán, và lặng lẽ.

Năm Quỳnh Thơ mười hai tuổi, hoàng cung tổ chức lễ nguyên tiêu rất lớn. Những mâm bánh măng, bánh phục linh đủ màu sắc cao chất ngất. Ðèn lồng lấp lánh giăng khắp các ngọn cây trong vườn thượng uyển. Ðến giờ tý, tất cả các cuộc vui dừng lại, đèn đuốc trong nội cung tắt ngấm. Cung nga thể nữ lũ lượt mang lồng ấp sang điện Càn Thành, nơi vua ở, xin lửa.

- Thưa mẹ, tại sao phải tắt lửa đi, rồi lại đi xin những mẩu than này, hở mẹ? Quỳnh Thơ hỏi.

Hoàng Quý Phi vừa về đến cung, hai thị nữ theo sau mang lồng ấp đan hình chim phụng. Cả ba người kính cẩn đặt vào đấy mấy mẩu gỗ trầm, mùi hương toả lan ấm cúng trong đêm lạnh, rồi lửa bùng lên, những ngọn đèn lại được thắp sáng.

- Con biết không, đấy là tục lệ do các tiên hoàng đặt ra. Lửa là khí dương. Trong cung điện này tất cả chúng ta là đàn bà, thuộc về khí âm, chúng ta có được hơi ấm và sức sống là từ ngài ngự.

Hoàng Quý Phi trả lời con với vẻ thành kính, còn Quỳnh Thơ chỉ hiểu lờ mờ lời mẹ nói. Lời giải thích của Hoàng Quý Phi đã để lại trong tâm trí nàng công chúa nhỏ những nỗi thắc mắc không thôi về mối liên hệ giữa âm và dương, giữa mặt trăng và mặt trời.

Khác với Quỳnh Tiên, Quỳnh Bôi dịu dàng, ngoan ngoãn, nàng công chúa Quỳnh Thơ út luôn là mối lo lắng của Quý Phi. Theo bà, ở người con gái, trí thông minh và sự tò mò chẳng bao giờ là ưu điểm cả, nó chỉ là điềm báo những tai hoạ.

Quỳnh Thơ mười ba, rồi mười bốn tuổi. Năm nào lễ nguyên tiêu cũng tới, năm nào những phiến than hồng cũng nhen nhóm ngọn lửa mong manh nơi các cung phòng, năm nào vua cũng ban hơi ấm và sự sống cho tất cả vợ con đông đúc của ngài, mà năm nào những kiếp người trong cung cấm cũng vẫn cuộc sống buồn tủi, tẻ nhạt, lạnh lẽo. Trong ngày tháng thầm lặng giữa bốn bức tường gấm, Quỳnh Thơ đã bắt đầu cảm thấy tù túng, chật hẹp. Chiều, cô bé trèo tít lên gác cao nhìn ra xa. Sau Tử Cấm Thành là Hoàng Thành, rồi đến lớp thành ngoài cùng, nơi có ngựa xe, nhà cửa, phố phường đông đúc. Rồi tới dòng sông, rồi tới núi xa xa. Mỗi ngày mặt trời đều đến đó rồi mất hút. Mặt trời đi đâu để sáng mai lại hiện ra nơi mái lầu ngọ môn rực rỡ? Quỳnh Thơ thầm tự hỏi, những câu hỏi không một ai trong cung có thể trả lời.

Rồi một ngày, nhũ mẫu mách với Hoàng Quý Phi: - Chiều nào Quỳnh Thơ cũng ngồi hàng giờ nhìn về phía mặt trời lặn. Trong mắt nàng công chúa nhỏ, nhũ mẫu lo lắng nhận ra vẻ ngây dại, sững sờ và nhũ mẫu quyết chắc rằng công chúa đã bị tà ma ám ảnh. Ðiều kinh khiếp hơn nữa, nhũ mẫu hạ giọng nói nhỏ: "Một hôm công chúa đã hỏi tiện tỳ, "Vú có biết các hoàng tử thuở còn bé tí vẫn chơi với ta nhưng sau khi rời cung cấm, đã ở đâu? Vú có biết thế nào là một người đàn ông không?".

Ðúng là trong nội cung chẳng có cái gì giúp người ta hình dung ra một người đàn ông. Bọn thái giám với ria mép nhẵn nhụi, dáng đi uốn éo và giọng đàn bà the thé tất nhiên không thể là một ví dụ... Vẻ bí mật và lo âu hết sức quan trọng của vú làm Quỳnh Thơ ngày càng lúng túng sợ hãi, cuối cùng thì nàng đổ bệnh thật, nằm liệt một góc giường.

° ° °

Một buổi sáng, thị nữ đỡ Quỳnh Thơ ngồi dậy, nhẹ nhàng thay xống áo cho nàng và dìu nàng ra nằm trên chiếc sập gụ lót đầy gối thêu. Trước sập, một bức màn gấm dày buông chấm đất.

- Có việc gì đây, hở các em? Công chúa hỏi đám thị nữ, - tất cả các thị nữ đều lớn tuổi gấp đôi Quỳnh Thơ.

- Bẩm công nương, hôm nay quan thái y đến thăm mạch.

ả thị nữ vừa nói vừa quấn quanh cổ tay Quỳnh Thơ một băng lụa mỏng. "Lát nữa công nương thò tay ra khỏi màn, quan thái y chỉ cầm qua lớp lụa này mà xem bệnh tình. Công nương cứ yên tâm đừng sợ". Quỳnh Thơ mỏi mệt lắc đầu. Cơn sốt, những bức màn, những người hầu vây quanh, những dải băng quanh cổ tay làm nàng ngạt thở. "Các em hãy cho ta lên lầu, ngồi một mình nhìn dòng sông ngoài kia! Ta muốn tháo tung tất cả những thứ chán ngán này, chúng làm ta chết mất!".

- Không được đâu công nương. Quan thái y là đàn ông mà, làm sao có thể cầm vào tay công nương được?

- à ra thế. Một người đàn ông sẽ đến đây.

Một lát sau, có tiếng chân đĩnh đạc đến sau bức màn. Những tiếng chân ấy vang lên rất lạ, không giống bất cứ tiếng chân nào Quỳnh Thơ đã từng nghe trong cung cấm này. Các thị nữ xúm xít quanh giường, rồi một ả nắm tay Quỳnh Thơ đưa nhẹ qua màn. Một bàn tay lạ nắm lấy cổ tay công chúa qua lần lụa mỏng. Bất giác cô gái nhỏ đỏ bừng mặt vì một cảm tưởng kỳ lạ.

Quỳnh Thơ ngồi dậy. Các thị nữ lo lắng nhìn theo, rồi họ chợt kêu rú lên, có người luống cuống đâm đầu chạy. Công chúa Quỳnh Thơ mười bốn tuổi vừa làm một việc kinh thiên động địa chưa bao giờ từng xảy ra trong cung cấm: Công chúa đã vén bức màn lên nhìn thẳng vào người đàn ông trước mặt.

Nửa giờ sau, cả hoàng cung đều biết câu chuyện điếm nhục đó. Hoàng Quý Phi khóc ròng rã ba ngày đêm, ba ngày liền các thị nữ cung Trùng Hoa cũng vì vậy mà bỏ ăn bỏ ngủ. Bà Kính Phi, người đang ở ngôi vị thứ hai trong cung, đã đem ngay cái tin này đến tai vua. Hoàng Quý Phi bị truất vì lỗi dạy con không nghiêm. Nhũ mẫu bị đuổi ra khỏi cung Trùng Hoa và sung làm thợ cắt cỏ ở vườn ngự. Quỳnh Thơ được chữa lành bệnh và sau đó bị nhốt vào lãnh cung.

Trong cung lạnh, nơi đoạ đày những cung nga xấu số, Quỳnh Thơ bàng hoàng nhớ lại... Lúc đầu nàng khóc sướt mướt khi nghĩ đến những nhục nhã mình đã gây ra cho mẹ, nhớ những cung phòng đẹp đẽ nơi ngày ngày vẫn đá kiện hay đổ xâm hường với các chị em trang lứa. Mãi sau khi đã quen với cuộc sống ở lãnh cung và nguôi dần niềm thương nhớ những người thân, Quỳnh Thơ mới biết đọng lại trong tâm hồn, đau đớn và thấm thía nhất, là hình ảnh người đàn ông lần đầu tiên nàng thấy: Một ông già khô quắt, râu tóc bạc phơ, cái miệng khắc nghiệt, với hai gò má nhăn nheo lấm tấm vết đồi mồi. Quỳnh Thơ rùng mình, không dám hồi tưởng lại. Nàng đã trả giá đắt bao nhiêu cho một điều hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì!

° ° °

Rồi một hôm, lại đến tiết nguyên tiêu. Trời rất lạnh, các đèn lồng đều tắt. Ðêm Hoàng cung lạnh ngắt, đen mù như trong đáy vực. Xa xa, Quỳnh Thơ thấy ánh sáng hừng hực hắt lên từ điện Càn Thành. Giờ này cung nga, thể nữ chắc chen nhau đến lấy lửa ấm. Nhưng ở đây, nơi của những người xấu số, không ai nhớ đem lại cho họ dù chỉ một tàn than. Bất giác Quỳnh Thơ tủi thân ôm mặt khóc.

Giữa lúc đó chợt có tiếng thét vang rền từ xa vọng lại. Tiếng người nhốn nháo, tiếng chân rầm rập, tiếng hô lệnh xung phong vang lên giữa đêm thâm u. Rồi những ánh lửa xuất hiện như sao sa, những bóng người ngựa lao tới, những ánh kiếm rực lên trong đêm.

Có biến! Trống ở ngọ môn điểm cấp tập liên hồi. Không phải nhịp trống uể oải thườngngày, đây là tiếng trống từ một bàn tay dũng mãnh. Dân phu đang xây lăng ở phía tây kinh thành đã nổi dậy. Họ đang tràn vào cung, mở cửa các nhà giam. Quỳnh Thơ nép vào một góc nhà ngục. Chiếc xiềng sắt khua loảng xoảng rồi rơi xuống. Cửa phòng giam bật mở.

Một tráng sĩ vừa xuống ngựa, tay cầm bó đuốc nhìn vào.

Lửa, lửa dữ dội, rực rỡ chiếu phòng giam lạnh lẽo.

"Hết canh tư này, nghĩa quân sẽ rút đi. Chúng ta đã phóng thích hết tù nhân trong kinh thành. Nàng hãy mau tìm đường thoát".

Quỳnh Thơ ngước nhìn. Trong phút chốc, nàng nhận ra trong mắt người nghĩa sĩ một ánh lửa rực rỡ và hiểu rằng chàng đã đến từ nơi mặt trời ẩn náu.

Tráng sĩ đưa tay cho Quỳnh Thơ, nàng nắm lấy tay chàng; nàng đã mười sáu tuổi và lần đầu tiên trong đời nhìn thấy một người đàn ông đích thực. Tráng sĩ đỡ Quỳnh Thơ ngồi lên ngựa và chỉ một khắc sau cả hai đã lao theo dòng thác người đang cuốn về cổng hoàng cung, trong tiếng chiêng báo động vang trời.

Nhiều thập kỷ sau, dân cư ở quanh vùng vẫn kể câu chuyện nàng công chúa cùng chàng dũng sĩ trên lưng con ngựa trắng phóng như bay về phía rạng đông. Không ai biết chính xác họ đi đâu, nhưng tất cả đều tin họ đã cùng sống ở một nơi nào đấy tràn trề ánh lửa. Niềm tin ấy chẳng phải là vô căn cứ, vì hiện nay nhiều dòng họ ở lân cận thành cổ vẫn tự nhận mình là con cháu của hai con người gan dạ và hạnh phúc đã ruổi ngựa đi đón mặt trời vào một đêm đầu xuân.

Còn sáu mươi tám nàng công chúa khác trong cung thì sách vở còn chép rõ về cuộc đời của họ. Có ba mươi nàng được gả cho những ông phò mã lọm khọm với tấm lưng dài cong gập trong chiếc áo the. Còn ba mươi tám nàng thì chết già trong cung, nhiều nàng chết lúc còn rất trẻ vì buồn chán những đêm nguyên tiêu lạnh.







13
Một mình ở Tokyo

Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2008






14

Onkel yêu dấu
Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2010






15
Trăng nơi đáy giếng
tập truyện ngắn chọn lọc, Nhà xuất bản Thanh Niên - 2010





Trần Thùy Mai
Trăng Nơi Đáy Giếng


"Tôi xin mình, mình dẹp giùm tôi mấy cái bàn thờ này đi. Chuyện mê tín dị đoan, đâu hay ho gì". 

Giọng thầy Phương vẫn từ tốn như thường lệ, nhưng đôi bàn tay liên tục gõ xuống bàn chứng tỏ tâm trạng thầy đang bức xúc. Cô Hạnh chỉ lặng lẽ nhìn: người đàn ông này đã là người cô thương yêu, tôn thờ cho đến nửa đời người. Trước đây, mỗi cái nhìn của ông là mệnh lệnh đối với cô, vậy mà nay cô phải trái ý ông. Ý nghĩ đó làm cô rơm rớm nước mắt. 

Hơn mười mấy năm, họ đã sống chung nơi căn hộ bé nhỏ này. Mỗi sáng, người trong xóm đều thấy cô Hạnh xách tô ra đầu ngõ mua bún cho chồng. Những hôm mưa lâm thâm, cái dáng gầy của cô co ro, tay cô cầm chiếc nón cố che cho kín tô bún, chứ chẳng nhớ che đầu. Thầy Phương người nho nhã, mảnh mai, trắng trẻo. Vốn là con nhà dõng dõi, lại được cưng từ nhỏ nên thầy kén ăn, phải chăm từng li từng tí. 

Nói là kén ăn, không phải là thầy đòi hỏi cao lương mỹ vị, mà chỉ cần những thứ đơn giản thôi, nhưng phải biết ý mới chiều được. Bữa ăn không cần thịt cá, đôi khi chỉ cần đĩa bông bí chấm nước tôm kho đánh, nhưng nước tôm phải thật sánh, thật thơm, đỏ rực. Thịt bò thì nhất định phải nấu canh với hoa thiên lý, tô canh dìu dịu mùi hương ngọt ngào. Đêm khuya ngồi đọc sách, chỉ cần ăn củ khoai bồi dưỡng, nhưng khoai phải ngọt, dẻo, hấp với lá dứa. Chiều thì vài lóng mía tiện thật sạch sẽ, ửng màu đỏ cầm rượu. 

Căn nhà nhỏ không có đồ đạc gì xa hoa, nhưng sạch như lau như li. Tính thầy Phương rất sợ bẩn. Trong bếp, phòng tắm, những cái chậu đủ màu được cô Hạnh đặt đúng vị trí của chúng, tất cả đều khô ráo, sạch sẽ. Cái chậu rửa mặt ấy còn tinh tươm quá, này coi chứ chứ... chậm con là vì quá sạch đấy" - các bà hàng xóm đùa. Trong khu tập thể này, các bà đều là cán bộ, việc cơ quan, việc nhà cứ ùn lên, ai cũng bết bát, chẳng có thời giờ nào mà chiều chồng. Các ông chồng trong xóm nào là chẻ củi, đi chợ, đón con, chẳng từ một việc gì, chỉ riêng thầy Phương được hưởng ngoại lệ. Thực ra, đâu có phải vì thế mà hơn mười năm không có con. Cô Hạnh thừa biết điều đó nên nghe người ta đùa, cô chỉ cười... 

Ở đầu ngõ, ngay cổng vào khu tập thể là nhà bà Thu, thư ký Công đoàn trường Thuận Đạt. Ngày ấy, bà Thu hội ý xong với Ban chấp hành Công đoàn trường và quyết định đến thăm chính thức cô Hạnh. Vì lý do tế nhị của cuộc thăm viếng, bà đã cẩn thận chờ cho đến lúc thầy Phương đạp xe ra khỏi, bà mới vào. Bà tìm cách nói với cô Hạnh: "Cô Hạnh này, người ta đồn anh Phương có vợ nhỏ, Công đoàn và Đảng uỷ đã tiến hành kiểm tra, thật đáng tiếc, việc này hoàn toàn chính xác". Cô Hạnh nghe, ngồi nhìn thẳng vào mắt bà Thu, không tỏ vẻ ngạc nhiên. Trái lại, bà Thu kinh ngạc đến hụt hẫng trước vẻ bình thản của người vợ bất hạnh: bà cứ tưởng cô Hạnh sẽ ngất đi, hoặc ít ra cũng níu lấy bà mà hỏi vặn đủ điều. Nhưng không, cô cứ lặng lẽ, dịu dàng, dường như cố nén nỗi khó chịu vì bị quấy rầy! 

Chờ mãi không nghe nói gì, bà Thu phát cáu: Chuyện đến thế, chị tính sao? Chị phải có thái độ đi chứ? Hay chị là Phật đất? Cô Hạnh thở dài: Hoàn cảnh em không có con, dù anh ấy có thế, em cũng chẳng oán trách. - Nói thế nghĩa là chị biết anh ấy phản bội chị mà cố tình giấu giếm tổ chức? Anh ấy không phản bội tôi - cô Hạnh ngẩng phắt lên. Vâng, dù rằng ông Phương đã có một người đàn bà khác, có một đứa con không do cô sinh ra, ông vẫn là vị Thánh sống đối với cô. Cô không cho phép ai nặng lời khi nói về ông ấy. Bởi tất cả những chuyện này là do cô: cô đã tự tay sắp đặt, chỉ vì không chịu nổi vẻ buồn thầm lặng trên khuôn mặt ông. 

"Không phải dễ dàng mà thuyết phục được anh ấy - Bởi vì anh ấy quá thương tôi. Hơn nữa, là người có chức trách, anh không dám. Tôi phải năn nỉ, ép uổng, hứa giữ bí mật cho anh ấy..." Bà Thu cau mày: "Sao chị lại làm thế? Chị có biết như vậy là phong kiến cổ hủ không? Chính chị đã đẩy anh ấy vào con đường hủ hoá!" 

Cô Hạnh khóc. "Vâng. Có thể là như vậy, nhưng lúc ấy tôi không nghĩ gì hết. Tôi chỉ muốn anh ấy sung sướng". Vâng, khi người ta thực lòng thương yêu nhau, có điều gì mà không thể hy sinh. Một cô gái quê bỗng chốc được cô Hạnh chăm lo từng li từng tí: từng chục trứng gà, từng chai mật ong được chuyển về làng để tẩm bổ cái thai mới thành hình. Rồi đến ngày cô được đền bù: Đứa con trai ra đời, cô Hạnh bế lấy nó, đỏ hỏn trong lớp tã. Ông Phương quàng vai cô, vỗ về: Con của em đó. Nghe chồng nói, cô ứa nước mắt vì sung sướng... 

Nhưng giờ đây, ngồi trước mặt bà Thu, cô mới thấy chuyện đời không đơn giản. Sắp đến kỳ bầu tín nhiệm hiệu trưởng rồi... Ông Phương bảo: Chức hiệu trưởng là cái gì... Bỏ, bỏ hết. Với tôi, chỉ cần mình vui lòng. Tôi chấp nhận mất tất cả. 

Ông nói thế, nhưng rồi không giấu được vẻ buồn. Lại cái vẻ buồn trầm lặng làm xót lòng cô. Cả đời ông sống nghiêm nghị, không để ai nói tiếng nặng tiếng nhẹ bao giờ. Giờ đây, tưởng tượng tới khuôn mặt những người lâu nay vẫn đố kị với ông... Họ sẽ hả hê biết bao trước cái tội lỗi rành rành của vị Thủ tướng đáng kính. Họ sẽ rung đùi, cười khẩy chờ ông đứng lên nhận tội... Để rồi khoái trá xúm lại tổ khổ ông, như bầy sói túm lại xé con mồi... 

Quả thật, cái tin "ông Phương hai vợ" vừa được tung ra, đã có vài ba người rắp ranh ngắm nghé cái ghế ông đang ngồi. Cuộc bầu tín nhiệm được tổ chức vào đầu tháng 3, được dự kiến như là ngày chôn vùi luôn sự nghiệp của ông hiệu trưởng nổi tiếng quản lý giỏi, đã đưa trường Thuận Đạt thành một trường tiên tiến dẫn đầu tỉnh trong hơn năm năm. Người ta chờ ông Phương đứng dậy rút lui và tự kiểm điểm, nhưng sao lâu quá chẳng thấy động tĩnh gì... Sốt ruột quá, một vị đứng dậy cắt ngang lời ông Phương khi ông còn đang trình bày "chương trình hoạt động" mà ông dự kiến sẽ thực hành trong thời gian tới. 

Chuyện năng lực của anh Phương thì còn gì phải bàn nữa, dài dòng làm chi mất thời gian. Chỉ có điều, dư luận đang râm ran chuyện gia đình anh, anh em tui rất hoang mang. Vì, lãnh đạo thì không chỉ có tài mà phải có đức... 

Ông Phương không nói, chỉ lặng yên bình thản nhìn kẻ địch thủ đang hân hoan, đắc thắng, rồi lại bình thản nhìn cái vẻ hân hoan, đắc thắng đó xẹp xuống, nhăn nhúm lại như một quả bóng xì xuống thất vọng. Bởi vì cô Hạnh đã đứng dậy đưa ra trước Hội đồng tờ giấy chứng nhận ly hôn giữa cô và ông Phương cùng tờ giấy đăng ký kết hôn giữa ông Phương với vợ mới. Lúc đó cả hội trường mới biết rằng, trên pháp luật, ông Phương chẳng có lỗi gì... Nghĩa là cái chức hiệu trưởng của ông, lấy búa tạ mà nện cũng không thể nào rung rinh nổi. 

Không rung rinh nổi, nhưng người ta vẫn cứ tìm cách nện. Lòng người đầy ham muốn, đâu có buông tha cho ông Phương qua cửa ải một cách dễ dàng như thế. Vì vậy, trọn năm sau, ông Phương quả là lao tâm khổ tứ, ở không yên ổn, ngồi không vững vàng. 

Lại một lần nữa, bà Thu phải đến thăm riêng cô Hạnh. "Khổ thân chị, tôi tìm mọi cách trấn an dư luận để bảo vệ chị, nhưng mà người ta không thể thông cảm như tôi. Nói chị đừng buồn, hoàn cảnh chị rất gay. Chị đã phạm pháp mà không biết: sống chung như vợ chồng với chồng của người khác! 

Cô Hạnh sững sờ. Giờ đây ông Phương có còn là chồng của cô nữa đâu? Cô nhìn thằng bé đang thiêm thiếp ngủ trong tay run rẩy. Cô biết, người ta đang lôi tuột ông ra khỏi tay cô. Cô sẽ phải xa ông, bất giác, cô ôm chặt lấy cu Nhứt, như cố níu giữ cái phiên bản của người đàn ông mà cô tôn thờ... 

***
Lại một lần nữa, tôi phải năn nỉ anh. Tôi không đành lòng thấy anh cứ gầy rộc đi, mắt hõm, râu mọc xanh cả cằm. "Quân tử ứ hự đã đau, Tiểu nhân dùi đục đập đầu như không". Anh vẫn thường nói thế. Con người anh tinh tế, tự trọng, chịu sao nổi bao nhiêu lời ong tiếng ve. Đành lòng dốc hết tiền của góp trong người mười mấy năm mua một căn nhà ở ngoại ô cho anh ấy đưa cô Thắm lên. Lúc ấy, Thắm lại đang có thai. Thương tôi, anh ấy không chịu rời đi, tôi phải cắn răng làm mặt giận, cấm lửa nhịn đói suốt mấy ngày... 

Anh đi rồi, căn nhà trống đến khủng khiếp. Đi làm về, tiếng mở cửa tiếng bước chân tôi cứ vang lên lạnh lẽo như từ thế giới nào. Vào đến gian bếp, nhìn thấy chiếc may ô của anh còn sót lại trên dây phơi, tôi sụp xuống, nức nở khóc... 

Thỉnh thoảng anh cũng về thăm tôi. Nhưng anh về một chút rồi lại đi. Tôi không dám trách. Sắp đến đại hội chi bộ, phải giữ gìn. Anh có muốn nấn ná tôi cũng giục anh đi cho được. Anh bảo: "Mình đừng buồn. Tôi nói với mình đinh ninh từ khi chưa ly hôn. Nay cũng thế, tôi ở bên ấy nhưng thực ra chỉ có mình mới là vợ của tôi". Tôi nghe, chỉ biết khóc. Vợ chồng mà gặp nhau lén lút như thế này, cái số tôi sao mà trớ trêu? Có hôm bị bệnh nằm một mình không dám nhắn chồng, tôi đành nhắn người mời bà đồng Thơi đến chích lễ giải cảm. Bà Thơi vừa nặn máu cho tôi vừa bảo: "Khí đen tụ ở giữa hai chân mày. Cái uất nén trong lòng mà thành bệnh". Tôi lắc đầu: "Tôi không uất, không phiền. Chỉ vì mệt mỏi quá". Cô Thơi sửa lại áo khăn thắp nén hương giữa trời. Hôm ấy rằm, trăng sáng. Cô Thơi niệm khấn rồi cầm chén nước trong bảo tôi uống. "Để tôi xin cho chị một quẻ Thánh". Cô Thơi xủ quẻ rồi nói: "Quẻ của chị là quẻ lộng giả thành chân. Đêm trăng nơi đáy giếng, thấy bóng chẳng thấy hình. Cứ theo quẻ này giả hoá thực, thực hoá giả, giả thực thực giả khó lường". Tôi cũng không tin mấy, chỉ cảm thấy dễ chịu vì có người quan tâm. "Việc gì thực hay giả, mà giả thực liên quan gì đến bệnh cảm của tôi?". Cô Thơi nghiêng đầu như làm duyên, cặp môi son hé cười: "Lời Thánh sâu xa, nhiều khi đến việc mới hiểu". 

Đại hội Chi bộ đã qua, anh lại được tín nhiệm cao. Tôi mừng. Tôi nhắn Thắm chăm sóc anh cho chu đáo. Không có ai khó chăm như anh. Cái gì cũng phải sạch, phải tinh tươm. Áo quần gấp xong nhớ đặt vào tủ, ngay ngắn, bộ nào sắp mặc thì đặt cuối giường chứ đừng đặt đầu giường. Chỗ anh ấy ngồi viết thì phải tinh tấn, ngăn nắp, đừng qua lại nhiều làm phiền anh. Tôi dặn gì, Thắm cũng nhất nhất vâng dạ. Thấy Thắm ngoan, tôi mừng. 

Tết đến, tôi lo mua nếp gói bánh. Năm nay nhà đông phải gói nhiều. Đang loay hoay tìm mua lá dong, chợt nghe nói bà Thu sắp có dịp về quê, tôi lật đật sang nhờ bà ấy mua giúp. Vào đến cửa, tôi chững lại khi nghe tiếng anh Phương, rồi tiếng Thắm. Một giỏ quà, ý chừng đồ đi tết, đang nằm trên ghế. Bà Thu cười: Không có tôi thì anh chị còn mỗi người một nơi đến bao giờ? Nhưng mà nói vậy chứ không nhận quà này nhé. Bày vẽ làm gì, cái tình với nhau là chính". "Ấy, chút quà xin chị nhận cho, của thảo lòng thành". Tôi rụng rời, không nhận ra được giọng cô gái quê thơ ngây chất phác sáu năm về trước... Bà Thu ngọt ngào: "Cái cô Thắm này khéo thật, chả trách bà Hạnh cất công tìm tòi chọn lựa mãi". Tiếng Thắm cười: "Chị ấy tưởng thế thôi chứ thực ra trước khi bà thím giới thiệu với chị thì anh Phương đã gặp em mấy lần khi về quê ăn giỗ". "Quả là chồng khéo vợ khéo, trách gì chẳng thành đôi". Họ cười, tiếng cười vui vẻ râm ran trong đêm yên ả... 

Tôi rút lui, suýt ngã khi xuống thềm. Rồi cứ đi trong đêm như người ngây, mãi đến lúc bước vào một ngôi nhà, ngửi thấy mùi nhang trong không gian, và nhận ra mình không hiểu từ lúc nào đã đến nhà cô đồng Thơi. Tôi ngồi sụp xuống nền nhà mà khóc, nhớ lại lời cô nói với tôi đêm trăng hôm nào. "Nín đi em. Em giỏi nín đi. Rồi cô soi cho, cho thấy hết tiền oan nghiệp chướng". Cô cứ tỉ tê khóc, cô nạt: "Sao lại khóc? Mất gì đâu mà khóc. Cái mất, thực ra đã mất từ lâu rồi. Chừ còn ôm huyễn mộng mà kêu trời như con đười ươi ôm cái ống tre rỗng mà cười một mình giữa núi". Lời cô Thơi làm tôi tỉnh ra. "Tôi sai rồi, còn oán ai. Người ta là vợ chồng, đã có con cái. Còn tôi... tôi chỉ là một vật thừa..." Cô Thơi hứ một tiếng, đỏng đảnh: "Đã thương thì thương cho trót, đã vót thì vót cho tròn. Đã giữ thì giữ riết luôn, đã cho thì cho đứt". Tôi bỗng ngượng ngùng, không khóc được nữa. Ừ, đã cho thì cho đứt luôn, sao tôi đã nói hy sinh mà còn tiếc nuối. Nhưng là người có máu có thịt, làm sao bỗng chốc cắt lìa? Tôi đâu có phải Thánh mà một phút dứt bỏ nửa cuộc đời... Không, không phải nửa cuộc đời, anh là cả cuộc đời tôi... 

Tết năm ấy, tôi sốt li bì, suốt ba tuần rụng gần nửa đầu tóc. Chiều mồng ba tết, mở mắt ra, thấy anh Phương và Thắm ngồi trước giường. Tôi thở dài, se sắt. Tôi mong gặp một mình anh, một lần. Để tôi mơ ước được mạnh trở lại, được để dành cho anh cái thau sạch, cái khăn sạch, lựa cho anh củ khoai thật bùi thơm ăn khuya, đọc sách. Nhưng anh không dám đến đây một mình... Tôi ứa nước mắt nhìn hai vợ chồng - vâng, họ mới là hai vợ chồng. "Tôi hiểu cả rồi. Hai người không phải lo cho tôi. Cho thằng cu sang đây với tôi là đủ. Có nó là tôi sống được". Thắm giặt khăn lau mặt cho tôi. Anh Phương không nói gì, cũng chẳng dám tỏ thái độ gì. Tôi cố bình thản che nỗi xót xa. Tôi mất anh rồi, sự thực đã như thế từ lâu mà giờ này tôi mới bẽ bàng nhận ra... 

Tháng sau, Thắm sinh con thứ hai, lần này là con gái. Cu Nhứt về ở với tôi, thằng bé bồng theo một con chó con. Căn nhà tưng bừng lên vì tiếng trẻ con cười, tiếng chó gâu ăng ẳng. Tôi như người sống lại. Thằng bé gọi tôi là mẹ Cả. Tiếng gọi thật ngọt ngào. Tôi rất muốn thằng bé gọi tôi chỉ là "Mẹ" thôi. "Như thế thì cu lầm với mẹ hai. Ba bảo cu: Mẹ cả, mẹ hai, hai mẹ đều là mẹ cả, mà!". Tôi bật cười. Cu Nhứt thông minh y như ba nó. Cái mắt sáng, cái da trắng, cái chân mày nét ngang, tất cả đều là của anh. Mặc thằng bé gọi tôi bằng gì đi nữa, nó vẫn là con tôi. Tôi lại trồng khoai, lại nuôi gà, lại để dành từng quả trứng. Thằng bé ăn, tôi thấy ngon. Đêm nó ngủ dụi đầu vào lòng tôi. Tôi đã có con, tạ ơn trời, giờ đây tôi không cần gì hơn nữa... 

Lại tháng chạp, tôi đến cô Thơi xin cho cu Nhứt cái bùa đeo cổ để đeo đi chơi tết. Cô Thơi mới tạc pho tượng ông hoàng đứng trên mây, vừa rước lên bàn, thắp nhang xong thì quay ra thấy tôi. Đưa bùa cho tôi xong, cô bấm quẻ dịch rồi bảo: Chiều lòng chị thì rước cho chị, chứ chị xin nhằm giờ không vong, vật tuy có nhưng mà vô dụng. 

Tôi băn khoăn về nhà. Ngày xưa, anh Phương thường trách tôi mê xem bói. Anh không biết đó là chỗ dựa tinh thần của những người đàn bà hay bối rối như tôi... Đến cửa, tôi giật mình khi thấy Thắm. Cu Nhứt quấn mẹ đẻ, cười rúc rích. Thắm khẽ khàng thưa gửi:
- Trình chị, em đã cai bú cho bé, nay xin chị cho cu Nhứt về nhà ăn tết với em.
Tôi khựng lại, đau đớn. Một lát sau tôi đeo cái bùa vào cổ cho cu Nhứt:
- Đeo cho em kẻo đi đường gió máy. Mà ăn tết xong mồng mấy mới cho em về?
Thắm không nói gì, chỉ nhìn tôi, một cái nhìn khó hiểu.
Thằng bé đi rồi, còn lại con chó con luẩn quẩn với tôi. Đã một năm, giờ nó đã choai choai, láng mượt. Cu Nhứt dặn: "Mẹ cả nuôi cẩn thận cho cu". Bao nhiêu thứ dành cho thằng bé, giờ xẻ hơn nửa cho nó. Thui thủi vào ra, chỉ có nó và tôi. 

Từng ngày, tôi chờ con trở về, càng ngày càng trông càng ngóng. Nhiều hôm, nghe tiếng thằng Tèo nhà bên cạnh gọi: "Mẹ ơi!" giọng trẻ con sao mà giống nhau, tưởng con về, đang làm gì tôi cũng vứt hết chạy ra. Chỉ thấy sân hiên vắng lặng, không một bóng người... 

Rằm tháng giêng. Con chó đột nhiên bỏ đi đâu mất. Tôi tìm ngất ngơ quanh xóm chẳng thấy. Lòng cồn cào lại càng nhớ, càng thương cu Nhứt. Góp được một chục trứng gà, tôi lững thững đạp xe đi thăm con. Lâu lắm mới đến nhà mới, tôi ngạc nhiên vì nó lạ hẳn so với cái thời hai vợ chồng đến mua. Cây cỏ mọc xanh trong sân, một mái hiên rộng được cơi thêm ra, thoáng mát. Tôi từ từ bước, phân vân như đi vào một ngôi nhà lạ. 

Cu Nhứt đang chơi ở hiên sau. Vừa đùa với quả bóng, thằng bé vừa hát: "Trên trời cao, có muôn ngàn ánh sao... Nhưng mặt trời chỉ có một mà thôi. Và mẹ em chỉ có một trên đời. ..". Thấy tôi, thằng bé reo lên, chạy ùa vào lòng tôi... Nhưng nó bỗng khựng lại, đưa mắt nhìn vào trong, rồi cầm tay, thỏ thẻ: "Mẹ Thắm bảo con, thời này mà còn mẹ cả, mẹ hai, nghe cổ hủ lắm. Vậy con gọi bằng gì?". Tôi ôm cái đầu nhỏ bé vào lòng, chỗ có trái tim phập phồng đau đớn. "Thôi thì... Con hãy gọi bằng bác... Bác tệ quá, hôm qua đã làm mất con chó Cún của con". "Ồ, không mất, bác ơi, nó đây này!". Con cún từ sau vườn chạy tới, nhảy lon ton, vẫy đuôi rối rít. Ôi, cả con chó cũng bỏ tôi tìm về đây mất rồi! 

Bàng hoàng, tôi đứng dậy, bước đi. Rỗi bỗng quay lui, tôi dạo một vòng sau nhà, như muốn nhìn tận mắt cái thế giới đang hút về tất cả những gì yêu quý nhất của một đời tôi... Sau sân, anh Phương ngồi bên vòi nước, đang lúi húi giặt một đống quần áo đủ loại, đánh đánh chà chà trên sân xi măng. Chưa bao giờ thấy anh trong tư thế như vậy nên tôi sững sờ, ngẩn cả người không sao nói một lời. Không hiểu sao đã chịu đựng bao nhiêu điều nặng nề, mà giờ đây tôi lại không kham nổi cái cảnh tượng hết sức bình thường thế này? Thắm đang ngồi dỗ con, thấy tôi vào chỉ cười, hất hàm về phía đức ông chồng: "Làm trai, học sẩy học sàng. Đến khi vợ đẻ thì làm mà ăn". Tôi ngẩn ngơ như người mất hồn, lẩn thẩn nói: "Ngày trước ở với tôi, anh ấy chẳng phải động tay tới việc gì. Tôi đi vắng mà trời mưa, anh ấy cũng chỉ lôi giùm tôi cái áo trên dây phơi, chứ cái quần để mặc cũng không hề đụng đến". Thắm khủng khỉnh: "Em thấy chị cũng sạch chứ đâu có bẩn. Mà người quân tử có sợ bẩn thì dùng khoèo mà khoèo, rồi dùng xà phòng mà rửa khoèo cũng được chứ sao? Tôi cảm thấy như có quả đấm giáng vào giữa mặt, lảo đảo, trời đất chung quanh tối sầm. Cố gắng về đến nhà, tôi lăn ra mà khóc, khóc thảm thiết. Láng giềng nghe tiếng hờ trời hờ đất chạy sang hỏi: "Ai chết thế?". Tôi không nói được gì, không nghĩ được gì, trong tâm trí chỉ có mỗi một hình ảnh: thần tượng của tôi, vị thánh sống của tôi ngồi chò hỏ giặt đồ bên bể nước. Những bọt trắng xà phòng bay, bay tấp tới, nhận chìm tôi, tức tưởi, mê man... 

Lại một lần nữa, tôi ốm nặng, tóc rụng lả tả trên gối, nhưng không báo với ai để khỏi ai bận lòng. 

Đấy là chuyện đời chồng trước của tôi... 

***
Người trong xóm cứ tưởng cô Hạnh phen này chết vì mấy lần cô bắt chuồn chuồn, cấm khẩu. Họ ngạc nhiên khi thấy cô không thuốc men gì mà lại đi đứng như thường. Cô xin về hưu non, cuốc đất, làm vườn, lại sống cái đời cần cù và đạm bạc như thuở nào. Sáng sáng, họ lại thấy cô mua bún bò, bưng vào ngược con ngõ, những bữa trời mưa lâm thâm cô kéo chiếc nón che tô bún, quên cả che đầu. 

Rồi trước hiên nhà lại xuất hiện những cái áo nho nhỏ màu đỏ, màu xanh phơi trên dây. Ai đi ngang hỏi, cô cười hiền lành: Áo thằng cu. May cho cu mặc tết". 

Nếu ai tò mò đi theo cô vào căn nhà vắng lặng, có thể thấy ngay giữa nhà là một bàn thờ đồ sộ mà cô gia công trang hoàng như một cung điện rực rỡ vàng son. Giữa bàn thờ là tượng một người đàn ông đẹp đẽ phương phi, tay cầm kiếm, chân đạp lên mấy tầng mây. Có hỏi thì cô thì thầm: "Ông Hoàng Bảy, trấn thủ tỉnh Thừa Thiên". 

Rằm, mồng một, cô chất hương hoa đầy thánh điện của cô, rồi ra nhà bà đồng Thơi lễ bái. Nghe đâu bà đồng Thơi bảo rằng số cô Hạnh không theo ông Phương được trọn đời vì người âm ưng, mà người âm này vai vế lớn lắm, con thứ bảy của Đức Mẫu, quyền sinh sát cả một giang sơn. Lâu nay, ông với cô Hạnh đã được một con trai ở cõi vô hình, mà cô Hạnh đâu có hay. 

"Nhờ có Thánh cứu, chứ không thì mấy trận đau, hắn đã chết trọc óc chứ mô còn tới chừ". Bà Thơi nói. Cô Hạnh cười, vẫn cái cười dịu dàng, không còn buồn thảm như xưa, mà phảng phất một vẻ mơ màng - vẻ mơ màng thường thấy trên gương mặt những người lãng trí. "Sắp tới tháng Ba rồi, phải không chị? Tháng Ba ni chị cho em đi về chầu điện Hòn Chén". Bà Thơi nghe cô Hạnh nói, hài lòng gật đầu. "Ừ, tháng Bảy giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ. Lễ hội tháng Ba này em cũng nên về chầu Đức Mẫu cho phải đạo dâu con". 

Đầu tháng Ba, ông Phương bỗng về thăm vợ cũ. Từ đó, người ta thấy ông qua lại luôn. "Năm lần bảy lượt tôi nói với mình, mình dẹp cái trò mê tín đó đi giùm tôi. Vì cái chuyện đồng bóng lễ bái của mình mà tôi mang tiếng nhiều lắm rồi, dù gì thì mình cũng là vợ cũ của tôi, một hiệu trưởng, một đảng viên...". Cô Hạnh chẳng nói gì, đang lo đặt đĩa khoai luộc nóng hổi lên bàn thờ. Trông dáng vẻ cô ân cần chẳng khác gì trước đây chăm chút cho ông. Cử chỉ đó làm ông Phương thêm bực tức . "Mình muốn trách khéo tôi phải không? Mình biết là đâu phải tôi muốn thế, chính mình đã muốn hy sinh cho tôi... Tôi xin mình, hãy vì tôi lần nữa...". 

Cô Hạnh đã đặt xong đĩa muối chấm khoai, thủng thỉnh ngồi xuống, nhìn ông Phương với đôi mắt rộng lượng như thể từ trên cõi tiên nhìn xuống thế giới nhỏ bé của loài người. "Hôm qua ông đã gặp bà Thơi phải không? Thảo nào bà ấy bảo tôi có muốn quay về với ông thì để bà ấy xin cho cái lễ chẻ đôi chiếc đũa đồng tiền, li dị với ông Hoàng...". 

"Mình đừng giận tôi, thuở ấy người ta còn khắt khe, mình cũng biết hơn ai hết. Giờ đây quan niệm về đời tư cũng cởi mở hơn trước, thỉnh thoảng tôi lại về thăm mình. Để mình thui thủi thế này tôi cũng chẳng đành lòng". 

Cô Hạnh nhìn ông Phương một lát rồi cười. Cái cười mơ màng lâu nay vẫn ẩn hiện trên gương mặt cô. "Ông à, thực ra tôi không giận ông. Nhưng chuyện ông nói thì không thể được. Tôi đã vì ông đến nửa đời người, nay ông yên phận rồi, hãy để cho tôi yên phận tôi. Xưa tôi là vợ mình, chỉ biết có mình, nay đã là vợ ông Hoàng, chỉ biết có ông Hoàng. Tôi đã nói với bà Thơi, tôi không cúng, không chẻ đũa, bẻ tiền chi hết, tôi không bỏ ông Hoàng vì ông ấy đỡ đần tôi khi thập tử nhất sinh, ông ấy không bỏ tôi, không ruồng rẫy tôi bao giờ...". 

"Nhưng làm gì có cái gọi là ông Hoàng, làm gì có cái bóng ma ấy, nó chỉ có trong trí tưởng tượng của bà thôi, bà có biết không?". Ông Phương phát thịnh nộ, không tự chủ được nữa, đập mạnh tay xuống bàn mà nói như quát. Cô Hạnh đứng bật dậy, run bần bật như bị xúc phạm nặng nề. Hai hàm răng cô đánh lập cập vào nhau, rồi bỗng cô thình lình vớ lấy cả cái khay ấm chén trước mặt, ném vào người chồng cũ. Đến lúc ấy ông Phương vẫn không nhận ra rằng từ khi bị cô Hạnh bắt gặp ngồi giặt đồ bên bể nước, trong mắt cô, ông chỉ còn là một tượng thần đã mất hết linh thiêng. 

Người trong xóm thấy ông Phương phóng xe ra ngược con ngõ, áo và tóc ướt từng vạt nước trà vàng vàng, mặt bừng bừng lửa giận. Hai hôm sau, việc đến tai bà Thu. Bà lắc đầu an ủi: "Chị ấy tốt bụng nhưng lý trí không vững nên tâm nó loạn. Trước đã bày ra chuyện phong kiến cổ hủ, nay lại sinh ra trò mê tín dị đoan. Thôi thì mặc ý chị ấy, tôi cũng hết phép". 

Cô Hạnh chẳng quan tâm đến ai, cứ vào ra trong ngôi nhà vắng tanh với nụ cười mãn nguyện của một người đàn bà hạnh phúc. Chiều hôm ấy cô thung dung đi chợ chọn mua vải may chiếc áo dài mới để tháng Ba này ngược sông Hương trảy hội mùa xuân. 















16

Về tiểu thuyết “Từ Dụ thái hậu” của Trần Thùy Mai
Nguyễn Thị Việt Nga




Vanvn- Tôi thích Trần Thùy Mai từ những truyện ngắn chị in trên báo văn nghệ, với giọng văn rất “gái Huế”, nhẹ nhàng, ngọt ngào và trong trẻo. Cho nên, khi tiểu thuyết “Từ Dụ Thái hậu” được xuất bản, thì ngay lập tức nó có trên kệ sách của tôi.

Cũng như nhiều độc giả khác, tôi đọc 800 trang của bộ tiểu thuyết này một mạch với lòng yêu mến đức Nghi Thiên Chương Hoàng hậu trong chính sử, một mệnh phụ nhà Nguyễn (quý phi của hoàng đế Thiệu Trị, mẹ ruột hoàng đế Tự Đức) nổi tiếng đôn hậu, đức cao vọng trọng, từ vua quan đến dân thường đều yêu kính.Nhà phê bình Nguyễn Thị Việt Nga

Tiểu thuyết khá dày, chia làm hai tập, quyển thượng và quyển hạ, được viết theo lối kết cấu tuyến tính truyền thống nên khá dễ dàng trong việc tóm tắt. Nhân vật chính trong truyện, như tên của truyện, là Từ Dụ Thái hậu. Tác phẩm kể về cuộc đời của bà, bắt đầu từ khi còn là cô bé Phạm Thị Hằng lên mười, ái nữ của viên quan đại thần tài giỏi Phạm Đăng Hưng cho đến lúc ở trên ngôi cao thái hậu. Mười ba tuổi, Phạm Thị Hằng được tiến cung, bắt đầu cuộc đời khác, một cuộc sống trong cung cấm mà với người ngoài là niềm ngưỡng vọng và mơ ước cao vời, nhưng với người trong cuộc thì thực sự là một hành trình nhọc nhằn, cay đắng và nguy hiểm. Cung đình không chỉ có những vàng son lấp lánh mà còn là chốn đầy máu và nước mắt. Đi đôi với những quyền lực ngất trời là sự mưu mô, toan tính, đấu đá, tranh giành, sát hại lẫn nhau. Phạm Thị Hằng, cô tiểu thư bé bỏng, xinh đẹp, ngoan lành và trong trẻo đã đi qua những tháng ngày đầy cam go nơi cung cấm với không ít hãi hùng. Kết duyên cùng hoàng tử Miên Tông, Phạm Thị Hằng có địa vị vững chắc nơi lầu son gác tía. Nhưng dù xinh đẹp, ngoan lành, nàng cũng không được sống một cuộc đời êm ấm, phẳng lặng bên người chồng “thanh mai trúc mã” hết mực yêu thương mình. Những mưu kế, ganh ghét từ hậu cung mà thái hậu Trần Thị Đang là người tạo dựng luôn tạo nên những đợt sóng ngầm khủng khiếp nhằm nhấn chìm những người không cùng bè cánh với bà. Không có mưu sâu kế hiểm, Phạm Thị Hằng chỉ có tấm lòng nhân ái bao la, sự trong trẻo, thiện lành làm vũ khí để đối lại với những tàn khốc chốn hậu cung. Và cuối cùng, nàng đã chiến thắng, với một kết cục khá có hậu khi nàng trở thành đức Từ Dụ Thái hậu.

Công bằng mà nói, Trần Thùy Mai đã khá dụng công khi viết tiểu thuyết này. Quãng thời gian được tái hiện trong tiểu thuyết chỉ khoảng 30 năm, nhưng trải 3 đời vua Nguyễn: Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Trong lịch sử các triều đại phong kiến nước nhà, mỗi lần có sự đổi ngôi vua là một lần có sóng gió triều chính, dù sóng ngầm hay sóng nổi, dù âm ỉ hay cuồn cuộn thét gào. Tác giả tiểu thuyết chắc chắn phải “cảo thơm lần giở trước đèn” để đọc kỹ lịch sử các triều đại nhà Nguyễn với biết bao thăng trầm, biến cố để hình dung ra số phận của các nhân vật lịch sử, từ đó xây dựng thành nhân vật văn chương. Tiểu thuyết “Từ Dụ Thái hậu” đã khá trung thành với chính sử. Có thể hình dung chính sử như một ngôi nhà đã xây dựng xong phần thô. Trần Thùy Mai hoàn thiện bằng những tô vẽ, thêm thắt các chi tiết hư cấu nghệ thuật để thành một công trình sinh động và đẹp đẽ.


Tiểu thuyết “Từ Dụ thái hậu” của Trần Thùy Mai

Như vậy, điều quan trọng nhất trong việc sáng tác về đề tài lịch sử là sự “tô vẽ, thêm thắt”, là các yếu tố văn chương. Nếu không, tác phẩm chỉ như sự diễn giải cụ thể, thậm chí dài dòng và khô cứng về lịch sử. Trần Thùy Mai đã làm tương đối tốt việc “tô vẽ, thêm thắt” đó. Chị có ưu thế đặc biệt khi thực hiện cuốn tiểu thuyết lịch sử này: là người con của quê hương xứ Huế, có tình yêu da diết với mảnh đất cố đô, có sự am hiểu về những phong tục, tập quán nơi đây… Những điều mà nếu không phải là người Huế, chắc chắn sẽ phải bỏ công tìm hiểu rất nhiều. Điều khiến Trần Thùy Mai “ghi điểm” nhất trong tiểu thuyết “Từ Dụ Thái hậu”, theo tôi chính là việc nhà văn đã dựng lên được một cách sống động, chân thực và hấp dẫn cuộc sống phía hậu cung, điều mà chính sử không ghi chép lại nhiều, và nếu không phải là người trong cuộc, thì cũng khó lòng được thấy. Trần Thùy Mai đã vén tấm rèm lấp lánh của cung đình, để soi rọi vào cuộc sống nơi tử cấm thành, tưởng như êm đềm với những cung tần mỹ nữ, những hoàng hậu, hoàng thái hậu chỉ biết chuyên tâm chuyện phấn son váy áo, nấu nướng thêu thùa, sinh con đẻ cái cho hoàng tộc mà hóa ra nhiều sóng gió hơn cả chốn triều chính ngoài cung điện. Những mưu mô kinh hoàng nơi hậu cung không chỉ tác động tới thân phận bao con người trong đó mà còn có thể làm chao đảo triều chính, dập vùi bao đại thần trung chính, tài năng; thậm chí có thể quyết định vận mệnh của muôn dân, của cả giang san, đất nước. Những nhân vật của “Từ Dụ Thái hậu” bước từ chính sử vào tiểu thuyết một cách tự nhiên, nhuần nhị, được Trần Thùy Mai “nhuận sắc” khá tài tình. Nhân vật nào cũng mang thân phận. Nhân vật nào cũng sống động, cá tính. Đặc biệt là trong cả dàn nhân vật mỹ nữ nơi cung cấm, Trần Thùy Mai xây dựng “mỗi người một vẻ”: Phạm Thị Hằng nhuần nhị, đoan trang, hiếu hạnh, nhân từ; Hạnh Thảo trọng nhân nghĩa, khéo léo, đa cảm nhưng giàu nghị lực; Cam Lộ hừng hực sức sống, nuôi mộng lớn mà nông nổi, dại khờ, dễ bị lợi dụng; Ngọc Bình cả đời ôm nỗi đau hận câm lặng của một tam phi được sủng hạnh trong khoái lạc man rợ của quân vương; thái hậu Trần Thị Đang đầy tham vọng quyền lực, tuy mưu lược, thông minh, sắc sảo, nhưng tàn độc, lạnh lùng đến ghê rợn…vv. Những cơn bão quét qua chốn hậu cung toàn do Trần Thị Đang nhen nhóm, thổi bùng, đẩy bao cuộc đời vào bi kịch đớn đau. Thái hậu Đang mang bóng dáng của nhân vật Võ Tắc Thiên trong lịch sử Trung Quốc, người đàn bà quyền lực nghiêng trời, lệch đất nhưng cũng như rắn độc chốn hoàng cung (cho dù chính sử Trung Hoa vẫn còn nhiều bàn cãi về nhân vật phụ nữ quyền lực này).

Thành công nhất của Trần Thùy Mai trong tiểu thuyết “Từ Dụ Thái hậu” không phải là việc “viết lại sử bằng văn” dù có viết một cách sinh động, say mê, tỉ mỉ và trung thực mà là khám phá, tạo dựng, hư cấu những điều không có hoặc không được ghi trong sử sách. Chính chỗ khuyết thiếu, ảo mờ đó là mảnh đất cho sáng tạo văn chương. Những mối tình đẹp đẽ trong tiểu thuyết này là sáng tạo độc đáo của nhà văn. Tình yêu đơn phương câm lặng nhưng sâu sắc của Phạm Đan Quế dành cho Phạm Thị Hằng. Mối tình trong trẻo, keo sơn của hoàng tử Miên Tông với Phạm Thị Hằng. Tình yêu muộn màng, thử thách qua biết bao sóng gió của Phạm Đăng Hưng và Hạnh Thảo. Cả tình yêu quái gở của đức vua Gia Long với tam phi Ngọc Bình được ngòi bút tinh tế của Trần Thùy Mai lý giải thật thấm thía: Ngọc Bình vốn là hoàng hậu nhà Tây Sơn, chính thất của Cảnh Thịnh Đế Nguyễn Quang Toản, nhưng khi Tây Sơn bại trận nàng trở thành phi tần của Gia Long. Gia Long đắm đuối Ngọc Bình vì nhan sắc nên mới giữ nàng lại làm phi, không giết như những tay chân, thân tộc khác nhà Tây Sơn. Nhưng ngài yêu Ngọc Bình trong sự giày vò thân xác dã man, chỉ cảm thấy hoan lạc trên nỗi đau hoảng loạn của Ngọc Bình, bởi, Trần Thùy Mai lý giải, Ngọc Bình như một nấm mộ nhà Tây Sơn còn hiện hữu, đêm đêm Gia Long khai quật lại, trong niềm hưng phấn man dại của kẻ chiến thắng, chà đạp lên kẻ thù đang quằn quại. Bởi thế, Ngọc Bình là thân phận đau đớn nhất, đáng thương nhất trong cuốn tiểu thuyết này. Tình yêu cũng chính là căn cốt sâu xa để dẫn đến bao tranh đoạt, ghen hờn, mầm mống của những tội ác kinh hoàng. Thái hậu Trần Thị Đang trở thành một con người đáng sợ cũng do những cay đắng, ghen tuông, tủi hờn chốn hậu cung. Từ một người vợ tào khang gắn bó với vua Gia Long từ thuở hàn vi, được vua hết lòng yêu vì, nể phục, đến khi nhà vua nghiêm ngắn ở ngôi cao, nghĩa vợ chồng dường như đã lạt, tình phu thê dường như dần phai vì bên cạnh nhà vua còn biết bao nhan sắc mĩ miều mê hoặc. Không còn địa vị độc tôn trong trái tim người đàn ông duy nhất của đời mình, thì bà tìm cách củng cố địa vị quyền lực chốn cung đình với bao mưu mô hiểm độc. Nhân vật Trần Thị Đang trong tiểu thuyết của Trần Thùy Mai khác với thái hậu Trần Thị Đang trong lịch sử rất nhiều. Và chính cái khác này đã khiến cho đây là nhân vật được xây dựng thành công nhất của tiểu thuyết này. Dường như tác giả bứt ra được cái bóng của lịch sử để thỏa sức sáng tạo nhân vật của riêng mình. Đây là thành công và cũng là hạn chế của tác phẩm. Hạn chế bởi tên tác phẩm là “Từ Dụ Thái hậu”, nhưng nhân vật phụ đã lấn át nhân vật chính. Thậm chí thái hậu Trần Thị Đang xuất hiện nhiều hơn cả Phạm Thị Hằng. Gần hết quyển Thượng nhưng hình ảnh Phạm Thị Hằng vẫn còn rất mờ nhạt, ngược lại nhân vật Trần Thị Đang sinh động, sắc nét, cá tính nổi bật từ đầu đến cuối tác phẩm. Nếu không câu nệ vào tên sách, có lẽ người đọc sẽ thấy cuốn tiểu thuyết này viết về Trần Thị Đang hơn là Phạm Thị Hằng. Trần Thùy Mai viết “Từ Dụ Thái hậu” để thể hiện sự ngưỡng vọng, tri ân một con người được hậu thế hết lời ca tụng như bộc bạch của chị ở đầu sách: “Lúc còn ở Nam Giao, tôi hay vào thăm lăng Xương Thọ, nơi yên nghỉ của bà. Khi bước đi trên nền gạch vỡ nát của ngôi lăng cũ, những hình ảnh xa xưa thường hiện ra trong trí tưởng tượng của tôi như những thước phim sống động. Tính giản dị, khiêm nhường và tình thương của bà như dòng nước dịu mát giữa tàn khốc của những âm mưu chốn cung đình, những khúc quanh đau buồn của lịch sử”. Và nhà văn thực sự đã bị “đóng đinh” vào những ký ức quen thuộc của cộng đồng về nhân vật Từ Dụ Thái hậu: tính giản dị, đức khiêm nhường, tình thương bao la… Bởi vậy, Trần Thùy Mai đã không dám – vâng, thực sự là không dám, bứt ra khỏi ký ức quen thuộc đó để thỏa sức sáng tạo nhân vật. Phạm Thị Hằng – đức Từ Dụ Thái hậu trong truyện không có độ chênh với nhân vật ngoài đời (được ghi lại trong sử sách) nên ít gây hứng thú cho người đọc bằng các nhân vật khác, dù nhà văn đã hết sức nỗ lực chăm chút cho nhân vật này.

Trở lại tên truyện. Rõ ràng sức hàm chứa trong tiểu thuyết này lớn hơn tên truyện. Tôi vẫn lấy làm tiếc và cứ hình dung ra nhà văn trung thành với ý tưởng ban đầu là viết tác phẩm về đức Từ Dụ Thái hậu nên lấy tên bà là tên tác phẩm. Đành rằng qua một thân phận con người sẽ hiện lên cả xã hội, cả triều đại, nhưng trong tiểu thuyết này, như tôi đã nói, sức bao chứa của nó lớn hơn nhan đề nhiều và hỉnh ảnh những nhân vật phụ nhiều khi lấn át nhân vật chính. Tuy nhà văn viết rất kỹ, rất dụng công trong việc xây dựng bối cảnh lịch sử, miêu tả phong tục, tập quán, lễ nghi nhưng vẫn có lúc sơ xuất trong ngôn ngữ. Nhân vật triều Nguyễn của bà có lúc sử dụng ngôn ngữ hiện đại. Những cảnh miêu tả tình yêu trong sáng, đẹp đẽ của Phạm Thị Hằng với hoàng tử Miên Tông cũng theo chiều hướng “hiện đại hóa”, từ ngôn ngữ cho đến cử chỉ, điệu bộ, tâm trạng… của nhân vật. Một Phạm Thị Hằng thuần khiết, nết na, gia giáo trong tình yêu đầu đời mới chớm ở giữa chốn hoàng cung không thể giống Phạm Thị Hằng nhí nhảnh, say mê như những cô gái hiện đại trong miêu tả của Trần Thùy Mai được.

“Từ Dụ Thái hậu” viết theo lối an toàn, và so sánh với tiêu chí của tiểu thuyết lịch sử truyền thống thì khá thành công, nhưng như đánh giá của nhà thơ Hữu Thỉnh – Trưởng Ban Tổ chức cuộc thi tiểu thuyết lần thứ V của Hội Nhà văn là “có sự cách tân về tiểu thuyết”, là “cái mốc của sự phát triển tiểu thuyết Việt Nam hiện đại” (trả lời phỏng vấn trên báo Thời Nay, ngày 25/9/2020, Hà Dương thực hiện) thì thực sự chưa tới. Nhìn tổng thể, “Từ Dụ Thái hậu” vẫn là sự diễn giải trung thành lịch sử, tuy có sinh động, tỉ mỉ, hấp dẫn bởi lối kể chuyện có duyên của Trần Thùy Mai. Nếu Trần Thùy Mai mạnh dạn thoát khỏi sự ám ảnh của việc “trung thành với lịch sử” để nhìn nhận, đánh giá, lý giải lịch sử theo cách riêng của mình, thì tôi tin cuốn sách sẽ hấp dẫn hơn rất nhiều.

Hải Dương, 20.2.2020

NGUYỄN THỊ VIỆT NGA



















Nghiên cứu:


Truyện kể dân gian Bình Trị Thiên

Sưu tầm - biên khảo, Soạn chung với Trần Hoàng, Phạm Bá Thịnh, Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên xuất bản 1986.




Ca dao, dân ca Bình Trị Thiên
Sưu tầm - biên khảo, Soạn chung với Trần Hoàng, Phạm Bá Thịnh, Đinh Thị Hựu, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 1989.



Dân ca Thừa Thiên Huế
Sưu tầm - biên khảo, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 2004





Dịch thuật


Bên trong
Tập truyện ngắn của các tác giả nữ Nhật Bản, dịch từ tiếng Anh, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 2010



Nhiều truyện ngắn của Trần Thùy Mai đã được chuyển thể kịch bản sân khấu hoặc dựng thành phim như: 



"Hãy khóc đi em"
(2005)




(2005)


(2009)















Suy nghĩ về nghề văn

"Cứ mỗi lần trèo qua một con dốc thì lập tức xuất hiện trước mắt mình một con dốc khác cao hơn. Thế là lại đi và đi mãi như thế trong gió ngược... Nhiều khi mỏi mà không muốn dừng bởi hai bên đường nhiều hoa thơm cỏ lạ quá. Cứ muốn hái và ôm đầy tay..."



Giải thưởng

Giải B, giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ hai[7], (1998) cho Tập truyện ngắn "Thị trấn hoa quỳ vàng".

Giải C, Giải thưởng Văn học thiếu nhi "Vì tương lai đất nước" của Nhà xuất bản Trẻ (2002) cho truyện dài thiếu nhi "Người khổng lồ núi Bạc"

Giải B, Hội Nhà văn Việt Nam (2002, không có giải A) và Giải A, giải thưởng Văn học Cố đô lần thứ ba[7] (2005), cho tập truyện ngắn "Quỷ trong trăng".

Giải thưởng Ủy ban Toàn quốc Liên Hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (2003) và Giải A, giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ tư[8] (2008) cho tập truyện ngắn "Thập tự hoa".

Giải thưởng của Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế (2008), cho tập truyện ngắn "Một mình ở Tokyo"[9].

Giải cống hiến vì cộng đồng năm 2011 do Ủy ban kết nghĩa thành phố San Francisco - TP. Hồ Chí Minh trao tặng[10].






Chú thích

3/ Tìm trong trang viết, tập tiểu luận, Nhà xuất bản. Thuận Hóa, Huế - 1998
5/ Báo An ninh thế giới ngày 13 tháng 3 năm 2006
Liên kết ngoài































Trở về






MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua