Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2011

Nguyễn Viện















Nguyễn Viện
(1/2/1949 - .........) Hải Dương
Tên thật: Nguyễn Văn Viện

Nhà văn. Nhà thơ. Nhà báo












Tôi ở đấy và đêm sâu ngút mắt
Một mai kia, ánh sáng có quay về?
10.6.2016





"Không thấy tôi đâu"
2.2010





*





Từng làm việc và cộng tác với các báo, đài:
THANH NIÊN, GIA ĐÌNH & XÃ HỘI, THỂ THAO & VĂN HÓA, ĐẸP, SAIGON CITY LIFE, BBC… 

Chủ trương: Nhà xuất bản CỬA (một nhà xuất bản tự do tại Saigon) .

Phổ biến tác phẩm trên các tạp chí: Hợp Lưu (Hoa Kỳ), Văn Học (Hoa Kỳ), Văn (Hoa Kỳ), tienve.org, damau.org, talawas.org, procontra.asia, vanchuongviet.org, litviet.com, vandoanviet.blogspot.com…










"Chưa bao giờ nhà văn Việt Nam có những điều kiện thuận lợi như hiện nay để có những tác phẩm lớn. Bối cảnh xã hội phong phú bày cỗ sẵn cho những ai biết đón nhận, dĩ nhiên với điều kiện tiên quyết là anh không hèn. Với tôi, tôi cảm nhận một cách chân thành rằng mình đang đứng đúng "điểm rơi" của lịch sử. Bởi thế tôi đã viết miệt mài mê mải, viết tưởng như không bao giờ hết, viết ngấu nghiến, viết như sợ không còn cơ hội nào khác" 

(Nguyễn Viện trả lời phỏng vấn của Pierre Bùi)





Tác Phẩm Mới Nhất



Ở Phía Đông Âm Phủ






Về tác phẩm Ở PHÍA ĐÔNG ÂM PHỦ của Nguyễn Viện
ĐỘC SÁNG ĐỘC THOẠI ĐỐI THOẠI
Nguyễn Thị Thanh Bình


Người mà tôi đã được gặp, khá ấn tượng với bờ trán cao triết gia, cặp kính trắng cọng tròn, ria mép lãng đãng bạc lười cạo, ít nói ít cười nhưng lại hóm hỉnh, pha trò.
Điều khiến tôi ấn tượng nhất chưa hẳn vì Nguyễn Viện đã sắm được một tiểu sử rực rỡ vững chắc, mà dường như khi anh bảo anh hoàn toàn không muốn đoạn rời quê hương mình.
Theo Nguyễn Viện, đã làm một nhà văn thì phải ở lại trên chính quê hương mình để viết, để đi cùng với những thăng trầm lịch sử, nỗi đau cùng niềm hy vọng, trăn trở của đất nước.
Bất chấp cho cả những lần bị quê hương ruồng bỏ, rượt bắt anh phải đi uống-nước-trà với lũ ở đồn Phan Đăng Lưu.
Nói chi đến chuyện sách của một nhà văn đi bên lề trái như anh được xuất bản trong nước. Dù vậy, tôi vẫn nghĩ biết đâu một khi cuốn truyện kịch này của Nguyễn Viện được Tiếng Quê Hương của nhà văn Uyên Thao đang tung ra đời, mà tôi đã có dịp hân hạnh đọc dưới dạng bản thảo sẽ được dịch ra tiếng Anh, Pháp… để phát hành rộng rãi với thế giới, và rồi sẽ bay ngược về quê nhà.
Kỳ thực con người ở ngoài đời của Nguyễn Viện khá hiền lành, và sẽ không một chút gì táo tợn, dữ dội, đểu giả, thách đố như trong cõi văn chương của anh. Đặc biệt là hai tác phẩm Ở phía đông âm phủ / Và hắn đã đến mà chúng ta đang quan tâm, chú ý.
Ở đây tôi chỉ xin được làm công việc mở một cánh cửa he hé, khi bước vào thế giới văn chương Nguyễn Viện. Nơi lấp lánh, lộng lẫy chất độc sáng khác biệt, giỏi đùa cợt giữa biên giới thực-ảo của thứ không gian tiểu thuyết, và ở đó đối thoại cũng chừng như của những rợn ngợp ý tưởng, trong niềm tin chính bản thân tác giả muốn truyền đạt tới người đọc.
Vâng, khi trái đất đang nóng dần lên, tôi có cảm tưởng hai truyện kịch này của Nguyễn Viện cũng như muốn nổ tung cùng thần trí sáng tạo tuyệt vời của anh.
Cũng cùng một khí quyển chính trị, và cùng một phong cách tiểu thuyết hóa những nhân vật lịch sử, nhưng Ở phía đông âm phủ lấy bối cảnh của Việt Nam, và Và hắn đã đến mượn bối cảnh quốc tế.
Chúng ta sẽ được dịp gom chung một cuốn sách để đời độc đáo trong tay, dù chỉ vỏn vẹn 169 trang, nhưng có thể nói là đã vắt kiệt hết những suy tưởng ưu tư chất chứa về con người, lẫn những thông hiểu kiến thức thời sự, văn hóa… Đông Tây của một nhà văn đích thực say đắm, cao cả, tận tụy đến miết cuối đời.
Phải công nhận đây là cuốn sách hay lạ kỳ mà tôi được đọc từ bấy lâu nay. Lạ kỳ và của hiếm như chưa từng có một tác giả văn học Việt nam đã viết trước đó và chắc cả mai hậu. Bởi có lẽ, không một nhà văn nào có thể nhại theo được bút pháp của Nguyễn Viện. Xây dựng cấu trúc một cuốn tiểu thuyết hiện đại thì có thể có khá nhiều người làm được. Nhưng bắt chước cho giống Nguyễn Viện thì không.
Nguyễn Viện thuộc bản quyền bản sắc của Nguyễn Viện đã đành. Văn xuôi của Nguyễn Viện là của riêng một cõi Nguyễn Viện; kể cả ý đồ đánh đổ các yếu tố dựng xây nhân vật và cốt truyện. Nói cách khác, truyện của Nguyễn Viện là truyện không có cốt truyện, và nhân vật cũng không có sự hỗ tương từ đầu truyện đến cuối truyện.
Hẳn nhiên chúng ta cũng không có ý định xếp Nguyễn Viện vào ê-kíp của những tác giả hậu hiện đại, vì chính tác giả nhiều khi cũng không rõ “nguyên tắc” của hậu hiện đại là gì.
Thì chính Nguyễn Viện, khi bàn về nghệ thuật viết văn cũng đã phát biểu: “Một nghệ sĩ đích thực chỉ sáng tạo từ những đòi hỏi của chính mình, không vì nhu cầu hiện đại, hậu hiện đại hay một thứ gì khác.”
Công tâm mà nói, văn của Nguyễn Viện tập hợp được nhiều giọng điệu. Khi thì giễu nhại châm biếm, khi thì thơ mộng như thơ.
Đặc biệt ở hai truyện kịch này, nổi trội nhất là phần đối thoại giữa những cuộc gặp “giả tưởng” của những chân dung nổi bật thời đại.
Đối thoại được mở ra rất thông minh và có thể làm chao đảo người đọc bằng những cú hích bất ngờ, khi tác giả bám sát vào hiện thực của những sự kiện lịch sử để thực hiện những cuộc trò chuyện, phỏng vấn dưới âm ty hay cả trong một không gian tòa sảnh có máy điều hòa thở đều của trần gian.
Đối thoại vì thế chính là những cuộc độc thoại chồng chất ý tưởng, và tác giả muốn phơi bày những ẩn ức hay huyễn hoặc tinh thần chưa được hiển lộ.
Thử nói sơ về truyện kịch Và hắn đã đến, chúng ta sẽ thấy Nguyễn Viện cho dù muốn sử dụng “chất liệu” lịch sử chính trị, nhưng nhà văn vẫn là người có quyền kiến tạo, phóng đại một phiên bản chỉ ngờ ngợ như thế để khám phá, tìm tòi những thú vị đằng sau những phô diễn của nó.
Theo Nguyễn Viện, con người ở nơi đâu cũng đều mong chờ một đấng tái sinh cứu chuộc. Người dân Do Thái cũng đã từng ngóng trông một vị dẫn đường kiểu Môi Sen, và tương lai sáng sủa hơn cho dân tộc mình. Như người Việt chúng ta vẫn có những chờ đợi vô vọng. Tuy nhiên, để khỏi rơi vào cảm giác tuyệt vọng vô nghĩa, con người có vài suy nghĩ khác nhau về đấng toàn năng.
Tác giả cho rằng chúng ta đã quên là “Ngài” đã có mặt từ khi sinh ra thế giới con người.
Nhân vật “Hắn” mà chúng ta đang trông đang đợi lắm khi cũng chỉ là bản chất của con người.
Điều này gợi nhớ đến vở kịch nổi tiếng Trong khi chờ Godot của Samuel Beckett, hệt Vladimir và Estragon trong vở kịch, đang chờ một điều gì đó mơ hồ và chừng như không bao giờ đến.
Thật ra tôi cũng khá váng vất với thông điệp gửi gắm sâu sắc của Nguyễn Viện, về nhân vật “Hắn” chính là con người với tất cả những hỉ nộ ái ố nhiều mặt đẹp xấu. “Hắn” đâu phải từ trời của Thượng Đế giáng xuống, hay từ dưới đất được mặc khải chui lên. Mà chính là nằm trong hẳn mỗi người. Do đó, sứ mệnh được làm người là do chúng ta định. Hoàn toàn không phải là tại trời, ý trời.
Trên thực tế có muôn vạn ê chề, là do bàn tay điều khiển, dẫn dắt của những con người siêu nhân “lầm lạc”.
Chúng ta đâu còn lạ gì về sự trơ trọi của con người trong thế giới hiện đại, nơi những nguyên tắc đạo đức và nhân văn dường như bị lãng quên.
Tiếc là đám đông vốn chỉ là những bầy cừu ngoan ngoãn, chỉ biết cúi mặt ngồi chờ những rủi may và những sai khiến của những lãnh tụ “siêu nhân” ấy. Ở đây chúng ta bắt gặp phần “chính luận” sâu sắc của nhà văn Nguyễn Viện: Đó là tiếng nói nhiều âm thanh đau đớn và van nài của một kẻ sĩ, một trí thức trước những biến động thời cuộc, khi tác giả ngầm bảo đã đến lúc chúng ta phải biết nhận thức đó là một niềm trông đợi viển vông, xa vời. Mỗi con người phải tự có trách nhiệm nhận lãnh vai trò lịch sử giao phó. Không thể thoái thác cho một ai khác.
Những nhân vật tai to mặt lớn đi đứng, “phát biểu” trong Và hắn đã đến như Tập Cận Bình, Putin, thế lực tài phiệt toàn cầu đại diện ở phố Wall, quyền lực Mỹ đại diện bởi tên trùm CIA… đều được Nguyễn Viện quan sát, mô tả, vẽ lại chân dung khá tài tình.
Những con người làm ra lịch sử và nắm vận mệnh thế giới trong tay.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Viện, họ cũng chỉ là những nhân vật được nhà văn tái tạo. Trong một tác phẩm văn học, nhà văn cũng chính là Thượng Đế. Do đó, Nguyễn Viện tha hồ đặt ra nhiều câu hỏi nhiều nhận định và đưa ra nhiều ý tưởng lớn mang tính “sinh sự” về chính trị, nhưng anh cũng thật hóm hỉnh khôi hài và không phải bẻ cong ngòi bút vuốt ve, xu nịnh ai.
Điều này khiến tác phẩm của Nguyễn Viện trở nên đáng đọc, lý thú của một người có chính kiến và biết trình bày ý tưởng của mình.
Thêm nữa. Dù truyện kịch này có được so sánh, đem làm đối trọng với Trong khi chờ Godot hay không, đó là công việc nhận định đứng đắn của các nhà phê bình văn học nên làm. Với tư cách là một độc giả, và tôi cũng chỉ muốn nhìn dưới góc độ của một độc giả sẵn lòng yêu mến văn chương Nguyễn Viện, tôi đã bắt gặp rất nhiều đoạn được viết với bút pháp rất thơ, cũng như những mẩu đối thoại cuốn hút, duyên dáng với nhân vật nữ xuất hiện thoáng chốc tên Ngự.
Một điều đáng nói là văn chương Nguyễn Viện trong tác phẩm này có vẻ muốn lấy lòng phụ nữ nhiều hơn. Nguyễn Viện đã trút những lằn roi chăm chọc, châm biếm lên cánh đàn ông nhiều tham vọng xuất chúng kia, nên nơi đây vắng mặt thứ nhục cảm ẩn ức, cần giải tỏa đâu đó lên thân phận vốn đã bị rẻ rúng của phụ nữ Việt Nam.
Ở đây Nguyễn Viện hoàn toàn chấp nhận nữ quyền: “Ngự thông minh hơn tôi. Đó cũng là điều khiến tôi thích Ngự.”
Và những câu văn đọc lên lắm lúc nghe như thơ: “Linh hồn con người là một đoạn ký ức giữa lưng chừng thời gian. Không có khởi đầu, cũng không có kết thúc.” Hoặc: “Văn chương không cứu rỗi được cô ấy. Văn chương, nó rẻ rúng như chùm khế ngọt, xàm xì như một cơn mưa phùn, nặng lòng như một nỗi đau, cay đắng như một sự phản bội và hân hoan như một nụ hôn đầu. Văn chương nó không trọng đại như ta tưởng.”
Và như đã mào đầu, truyện kịch Ở phía đông âm phủ được Nguyễn Viện chọn bối cảnh Việt Nam để lồng những khuôn mặt chính trị lẫy lừng của dân tộc Việt.
Khác với cuốn Và hắn đã đến, ở đây Nguyễn Viện hoàn toàn từ chối viết hoa những tên riêng như ông diệm, ông minh, ông ánh, ông huệ… thậm chí cả hai chữ việt nam, sông gianh, sông bến hải…
Có thể nào chỉ đơn thuần là một cách viết làm mới, hay chính tác giả bỗng có điều gì đó không vui khi gợi nhớ những tên gọi ấy?
Điều tôi đặc biệt chú ý đến cuốn truyện này, có thể nói là những chi tiết, những tiểu tiết. Tôi có cảm tưởng chính những tiểu tiết, chi tiết mới đóng góp để làm thành tác phẩm lớn.
Chẳng hạn khi mô tả ông minh (nhân vật Hồ Chí Minh), Nguyễn Viện đã rất chi tiết khi viết: “ông huýt sáo một điệu nhạc dân ca trung quốc.” Hoặc: “Dưới âm phủ ông minh tiếp tục khẳng định chiến thắng vinh quang của mình khi viết lên quan tài ông diệm ba chữ “tay sai mỹ”, mà quên rằng, chính ông cũng sẽ chỉ là tốt thí cho bọn quốc tế vô sản như ông diệm đã nói trong cái đêm trắng ở paris. Hay chi tiết về cục gạch: “ông minh cười nhạt: – Sẽ không ai tin. Nhưng chính đó là cục gạch trong bếp của mẹ tôi. Đi bất cứ đâu tôi cũng bỏ vào túi xách mang theo. Đấy là quê hương.”
Với cùng bầu khí chính trị, Ở phía đông âm phủ mở ra một thế giới của luyện ngục với những gặp gỡ đối thoại hiếm hoi là lạ của những con người đã từng là lãnh tụ kiệt xuất đã vùi sâu dưới ba lòng tấc đất, nhưng vẫn còn chưa yên nguôi với giấc mộng bá vương hay tham vọng chưa thành ở trần thế.
Cái làm thu hút người đọc là sự pha trộn nhuần nhuyễn của một chút gì đó chất liệu lịch sử, đan chen với những hư cấu tưởng tượng phong phú của một ngòi bút ý thức được điều mình muốn dàn trải, trao gởi.
Có những câu hỏi mà chết rồi cũng không giải mã được, thì đúng là tác giả đang làm khó độc giả, hay một cách nào đó muốn đánh thức tâm tư cua con dân Việt: “ông diệm: – Khi nằm trong âm phủ này, nhiều lúc tôi nghĩ, có thật chúng ta đã sống và chết vì quê hương không?”
Nguyễn Viện cũng sử dụng độc thoại, như một cách thế chuyện trò với những ý tưởng ngồn ngộn trong đầu mình. Ở đó chúng ta thường bắt gặp như những suy tư thời sự thế sự, nhưng dù viết dưới đề tài nào đi nữa chừng như Nguyễn Viện vẫn muốn làm một tiểu thuyết gia hơn là viết như một nhà chính luận: “Người ta nhìn thấy phía sau của hỗn loạn đó là mỹ và c.s. Những kẻ giấu mặt này biến những tham vọng thành con sói. Người quốc gia đơn độc và thối rữa chính quyền từ ông diệm đến ông thiệu trở thành kẻ hiến tế cho những toan tính của các đại cường. Ở phía bên kia vĩ tuyến, độc dược của tình hữu nghị quốc tế vô sản thấm xuống lòng đất, và nó biến đất ấy thành đất chết. Con người phải khóc lóc và nghiến răng.”
Ở đây Nguyễn Viện muốn dùng thể loại truyện kịch có lẽ vì nó có vẻ thích hợp với những đề tài lịch sử, chính trị, xã hội. Nhất là đã gọi là truyện (kịch) thì khán giả dường như phải bị bỏ quên, nhường chỗ cho văn bản của truyện, để hướng tới một tác phẩm văn học với chất thơ, tư tưởng triết lý siêu linh nhiều hơn. Quả thật có khi khán giả chính là nhân vật “tôi”. Cũng hệt như có những lúc sân khấu không còn diễn viên, chỉ là một khoảng trống hoang mang.
Dù đọc dưới góc độ nào đi nữa, tôi ngờ rằng tác phẩm này khi trình làng sẽ gây nhiều chú ý tranh cãi. Như những khuôn mặt văn chương lẫy lừng khi viết về những nhân vật lịch sử Trần Vũ, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Mộng Giác, Nam Cao… thì dù mọi người có bình luận cách nào thì cũng không thể không công nhận giá trị của những tác phẩm Mùa mưa gai sắc, Gia phả (Trần Vũ), Phẩm tiết (Nguyễn Huy Thiệp), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác) hay Gió lửa (Nam Dao) đều mở ra mỗi người mỗi vẻ cái nhìn phóng chiếu về đề tài lịch sử đáng nghiền ngẫm. Hay nói đúng hơn, lịch sử chỉ là một cái cớ để tác giả có quyền vận dụng khả năng lập ngôn của mình về con người, khi chính tác giả cũng đâu phải là người viết chính sử mà phải sao chép rập khuôn.
Với một nhà văn tự nhận là ngoài lề như Nguyễn Viện, hai tác phẩm truyện kịch này quả thật xuất hiện rất đúng thời điểm, để tiếng nói của anh không đến nỗi phải chìm vào vô vọng. Nhất là với những ai đã từng đọc những cuốn khác của Nguyễn Viện, theo tôi không thể không tìm đọc tác phẩm độc đáo này.

NGUYỄN THỊ THANH BÌNH
( Văn Việt)














NGUYỄN VIỆN

36 BÀI TỤNG CA NHỤC CẢM
(không dành cho trẻ em dưới 18 tuổi)





1.

Tôi nhâm nhi đầu vú nàng
và tôi uống từng ngụm thinh không giữa háng nàng
những mùa màng ẩm ướt
và rừng cây xanh lên cơn ngái ngủ


2.

Nàng mớm cho tôi chút nước nguồn tinh khiết
từ dưới vực sâu tôi thức dậy
mùi của trần gian mênh mang quá
và nấm hoang vu mọc thiết tha


3.

Tôi úp mặt xuống chân trời và ngửi thấy mùi khai nồng nước đái trên chùm lông lồn của nàng
những con chim sa đà hót khản giọng vào hư không niềm thương tiếc
màu xanh của nấm mồ
và linh hồn tôi tan rữa


4.

Tôi cắn ngập răng bờ vai nõn
trong lúc hai tay bóp vú nàng
cơn mưa trái mùa bất chợt đổ xuống những thanh âm của đổ vỡ từ muôn kiếp
và thất lạc trong vũng lầy của thời gian


5.

Nàng đẻ ra tôi một đêm lồn ứa máu
và thổi vào tôi ngọn gió ban mai
mùa xuân trên những cánh đồng hoang dại lầm lũi quay về
tôi quì xuống hôn nỗi biệt ly trong vực thẳm vẫn nồng cháy


6.

Hãy mở ra. mở ra những bến bờ xa lạ
tôi khát thèm bạo động. hôn mê và lạc lối
những tầng trời và địa ngục của ba ngàn thế giới chiêm bao giữa háng nàng
chập chờn cánh bướm


7.

Tôi đã trần truồng vào ngày tận thế
và chìm đắm trong sâu thẳm nàng
cho đến khi có một tiếng nổ lớn giữa sơ nguyên làm tôi xuất tinh
cả vũ trụ bùng vỡ
và tôi tái sinh như một vị thần lẫm liệt
trong lúc nàng đang giàn giụa nước mắt


8.

Có một mặt trời ở trong nàng
cũng có một mặt trăng ở trong nàng
và tôi như bóng tối trong mạch máu nàng
luân lưu nỗi khát thèm đến tận cùng hơi thở


9.

Nàng ủ tôi trong cái lồn xinh ấm áp suốt chín tháng mười ngày
rồi tôi mọc cánh
và bay đi
không tăm tích


10.

Nằm sấp trên người nàng và má áp má
trong lúc mũi tôi hít hà mùi hương của làn da cổ mịn màng thanh thoát
thì cặc tôi chìm sâu trong lồn nàng
thị kiến một cõi u huyền sơ nguyên của đất trời hằng hữu


11.

Khi nàng dạng chân ra
lồn tỏa sáng
tôi nhìn thấy thuở khai thiên lập địa bừng lên một niềm hân hoan
của tái sinh miên viễn


12.

Nàng chổng mông lên
những thế giới đã lụi tàn bỗng thức dậy
và trong cơn hoảng loạn, cả thần linh cũng bưng mặt khóc
nỗi xa rời mặt đất


13.

Trong miệng nàng, mùi rượu vang của Chúa
tôi đắm say
liếm môi mút lưỡi và nước bọt
một trần gian ngây ngất đến không cùng


14.

Làm sao tôi biết sẽ về đâu khi nàng như đêm sâu
chôn giấu tình nồng trong vực thẳm
mùi lồn và những bông hoa dại
bát ngát


15.

Nàng mân mê cặc tôi
từ muôn ngàn kiếp sống lại
tôi như sóng biển
vỗ dập dồn vào bãi hoang


16.

Úp mặt vào lồn nàng
tôi thấy một bến bờ an lạc
của hư không
của tận cùng tôi hiển lộ


17.

Nàng đưa tôi lên núi
rồi phanh thây tôi bằng cái lưỡi ngọt ngào của nàng
hiến tế cho nghìn trùng
cuộc tử sinh của những con người lạc lõng


18.

Nồng tụ trên lưỡi nàng tất cả mật ngọt và hương hoa của trần gian
tôi mút và nứng cặc khôn tả
đứa con hoang đàng đã trở về nơi nó được sinh ra và thâm tạ thượng đế lòng lành ơn phước cả
alleluia. om mani padme hum


19.

Những ngón tay của nàng đâm sâu vào ngực tôi
và bổ đầu tôi ra
rồi móc linh hồn tôi treo lên ngọn cây
như cái chết của một cơn gió, tôi lặng đi đến vô biên


20.

Và như thế tôi không còn biết mình ở đâu
những ngôi sao đứng thẳng hàng tê dại và muôn vạn kiếp tôi đầy bóng tối
nàng rướn lồn lên, tức thì tôi ộc ra một vũng lầy hoan lạc cùng lúc tan vào cái huy hoàng sáng thế


21.

Nguồn ân huệ nàng đổ xuống như một cơn mưa đêm mịt mù và khai nồng
tôi lạc vào hoang địa
không dấu chân
và đâu đó mọc lên cây mê muội xanh ngời


22.

Giữa hai chân nàng, tôi ngửa mặt nhìn ngắm
và vực sâu úp xuống
vùi dập tôi trong bóng tối của cơn chuyển mình man dại
tôi không ngừng tái sinh trong hoan lạc của muôn ngàn thế giới nhiệm màu


23.

Trong lúc tôi không ngừng đâm tôi vào sâu thẳm nàng
thì linh hồn thất lạc
nàng rên như bị cắt tiết
cuộc thảm sát của cơn mê hoặc trên các tầng trời


24.

Cứu em với, nàng kêu lên thảng thốt như một ngôi sao rụng
tôi ôm ghì chặt nàng
và cả hai, chúng tôi ấn sâu vào nhau
đến tận cùng hoang vu của cái ẩn mật tồn sinh mặt đất


25.

Tôi nhớ mùi nàng trong bữa cơm
tôi nhớ trần gian trong háng nàng
núi và rừng ôm nhau cạn máu
mùi mơ hồ xô dạt. lồn. lồn bâng khuâng


26.

Nàng cởi quần
mùi vĩnh cửu như một cơn gió thổi miên man vào hồn tôi
cơn cuồng hoan buổi sáng
dạt dào thanh âm. sự bất lực của ngôn từ tê dại trên đầu lưỡi


27.

Cơm nàng. nước nàng. khí thở nàng. bàn tay mân mê của nàng. cái miệng hôn hít bú liếm của nàng
tôi như con mèo nhỏ ngoan ngoãn
ngủ trên ngực nàng
một nỗi phù sinh vật vờ suốt kiếp


28.

Vùi vào nàng. vùi trong nàng. tôi vùi tôi chết
mưa mùa bất tận đáy vực sâu
phục sinh mầm cây cỏ
phục sinh tôi lồng lộng trên núi đồi hoang phế


29.

Tôi òa vỡ trong lồn nàng. rực rỡ như một trận mưa sao băng
rồi ngất lịm. không bờ bãi
không hình tướng. không chân như. không niết bàn.
không bất cứ điều gì


30.

Nàng bảo tôi “không được chết”, nhưng thật ra tôi đã chết từ khi chưa gặp nàng. tôi chỉ là một bóng ma của sự sống. chui ra chui vào lồn nàng như một giấc mơ vĩnh cửu


31.

Trong cõi miền nàng, tôi bay tôi rơi và tôi chất ngất
trên các tầng trời hay giữa những vực sâu
linh hồn tôi như một ánh chớp
mà mùi nàng đã mang đi vào vô tận


32.

Làm sao tôi quên được nơi tôi đã sinh ra trong vô lượng kiếp
những vòm trời thăm thẳm
nhưng tù ngục
và tôi lưu luyến quay về ôm một giấc mơ tái sinh cùng thượng đế


33.

Nếu có thể được
hãy mang linh hồn tôi đi theo mùi nàng
và hãy vùi dập thân xác tôi trong mọi giấc mơ của quỷ
như cơn gió ngọt ngào của đêm sâu


34.

Giống mù sương. giống bão. tôi ướt đẫm trong lồn nàng
những mặt trời tắt lịm. rừng sâu và đêm tối
và tôi mê hoặc như dòng sông nước lớn
mênh mông và mênh mông


35.

Cho tôi một lần nữa và một lần nữa
được ôm hôn nàng như tôi vẫn từng ôm hôn nàng
để tôi được thanh sạch
bởi khuôn mặt nàng trong nụ hôn và vòng tay ôm của tôi đã tẩy rửa tôi bằng sự thánh thiện của nàng


36.

Trong tiếng sóng vỗ của nghìn trùng, tôi nằm sấp trên người nàng
chúng tôi an ủi nhau bằng lưỡi
như loài mèo
và đi qua cuộc đời này bằng những đôi chân quấn vào nhau.


4/2021.









Phỏng vấn mới nhất 





ĐỐI THOẠI VỚI NHÀ VĂN NGUYỄN VIỆN
thực hiện trên damau.org

1. Chào nhà văn Nguyễn Viện. Tiểu thuyết Sinh Ra Từ Trứng đang được độc giả Da Màu tích cực theo dõi và nhiều người đã gửi những thắc mắc của họ về toà soạn. Mong anh cho biết ý tưởng xây dựng Sinh Ra Từ Trứng bắt đầu từ đâu và khi nào?


Từ lâu, tôi vẫn nuôi ý định viết một tiểu thuyết nhằm lý giải phần nào cái hôn ám trong định mệnh lịch sử dân tộc Việt.

Dân tộc nào cũng có những huyền thoại hoang đường và hoang đàng. Khi người Việt chọn cho mình huyền thoại khai sinh và lập quốc bằng cuộc tình duyên tiên – rồng và sinh ra trứng, có vẻ như người Việt không thiếu lãng mạn, tự hào và huyền ảo. Nhưng với tôi, việc người Việt không có khả năng thiết lập văn tự cho mình là một kém cỏi đáng hổ thẹn nhất, bên cạnh các sáng tạo nghệ thuật. Chữ Nôm ra đời rất muộn và cũng chỉ là một vay mượn thất bại. Có lẽ vì thế, người Việt đã luôn sống bằng văn hóa của người khác, cho đến tận bây giờ. Huyền thoại một mẹ trăm con của cuộc phối ngẫu tiên – rồng trở thành một mặc cảm tự tôn an ủi tinh thần một dân tộc nghèo túng về văn hóa và luôn bị ngoại bang thống trị.

Điều kỳ diệu là chúng ta vẫn tồn tại như một dân tộc độc lập. Và cũng thật kỳ diệu là chúng ta vẫn lãng mạn, và tự hào, và tiếp tục huyền ảo. Đặc biệt, khi chúng ta anh dũng kiên cường đóng thế vai cho những biến động lịch sử mang tầm vóc thế giới. Một lịch sử như thế không thể không ám ảnh tôi hay những ai quan tâm đến vận mệnh đất nước.

Tiểu thuyết SINH RA TỪ TRỨNG (2015) được bắt đầu bằng lời dẫn của huyền thoại một dân tộc được sinh ra từ trứng. Chất liệu nhân vật và hình ảnh, tôi mượn từ những bức tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng, căn phòng áp mái của một họa sĩ khác ở Hà Nội. Và mênh mông thế sự hôm nay. Nhưng có lẽ phải thú thật điều này, sau khi tiểu thuyết ĐĨ THÚI của tôi xuất hiện, cùng với một số truyện ngắn khác cùng thời kỳ, tôi bị cơ quan an ninh điều tra triệu tập với cái án treo lấp lửng trước mặt của điều 87 và 88 Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ Việt Nam – Độc lập Tự do Hạnh phúc, tôi vẫn không thể không viết. Tôi hy vọng rằng, SINH RA TỪ TRỨNG không phải là lý cớ cho việc tôi phải đi tù. Đó cũng là lý do, trong tiểu thuyết này tất cả mọi sự kiện của nó cũng đều gắn liền với những cột mốc biến động của lịch sử vào những thời điểm nhất định mà tôi không tiện dẫn giải, nếu tinh ý bạn đọc sẽ thấy những điều tương thích.

2. Có thể hiểu việc Cái Ngọ – người phụ nữ sinh ra từ trứng – bị gã buôn đồ cổ Trung Hoa và một người lính Lê Dương hãm hiếp là ẩn dụ của lịch sử Việt Nam bị Tàu và Tây đô hộ, và những đứa con lai là sản phẩm của việc pha tạp trong cách nhìn về lịch sử. Vậy khi cái Ngọ bị ông hoạ sĩ hiếp dâm thì lịch sử ấy nên được hiểu theo cách nào từ phía những người làm nghệ thuật?

Ngoài các yếu tố ngoại lai, thì lịch sử dân tộc nào cũng bị/được tác động trực tiếp bởi các yêu tố nội tại. Nếu nhân vật cái Ngọ có thể được coi là biểu tượng cho linh hồn dân tộc, thì nhân vật ông họa sĩ hẳn phải là đại biểu cho nhân dân. Tôi rất muốn nhân dân hùng hổ hãm hiếp linh hồn dân tộc mình, hiểu cả về mặt chính trị lẫn nghệ thuật, không phải để đánh đĩ, tự sướng như huyền thoại tiên rồng, mà chính là cuộc vận động tự thân cho sự sinh thành, tạo dựng nhằm làm thay đổi hiện trạng đang rất bi đát hiện nay. Nếu nhân dân không dám hiếp linh hồn dân tộc của nó thì lịch sử sẽ chỉ là một xác chết và nghệ thuật cũng chỉ là phường tuồng.

Lịch sử dân tộc Việt giống như một dụ ngôn về sự hãm hiếp trường kỳ của Tàu, Tây và Mỹ. Nhưng chính người Việt lại từ chối cái “vinh quang” này. Tôi tin rằng chỉ khi nào người Việt dám “bạo hành” với cái “ngàn vàng” cao quí của dân tộc mình, thì khi đó lịch sử Việt mới được viết bởi chính nhân dân của mình. Lý lịch của những đứa con lai sẽ được gột rửa. Chúng ta tái sinh trong ánh sáng hoan lạc của cái “loạn luân” tông truyền, nội huyết.

Ông họa sĩ của tôi đã hiếp dâm cái Ngọ như tôi mong muốn nhìn thấy tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ dù dấn thân hay trùm mền dám sống thật. Nhưng tiếc thay, tôi chỉ thấy sự bất lương trong kiểu sống hai mặt của hầu hết họ. Tôi thích phát biểu một cách “nhân dân” hơn: Bọn thủ dâm lịch sử hay ngậm miệng ăn tiền chỉ là bọn chó chết.

3. Phần đầu truyện đậm đặc không khí hội hoạ. Không gian truyện được bố cục từ tranh, khí hậu truyện được tạo ra từ những mảng màu, nhân vật truyện là những hình tượng thường trực đi lại giữa những khung vải và đời sống. Một nhân vật do chính người hoạ sĩ tạo ra đã bước vào đời và hành động. Cô nói: “Đất nhà em đã bị cưỡng chế không còn nữa vì thế em tá túc trong bức tranh này.”

“Cô vẽ trên mặt đất một con sông. Rồi cô bước qua con sông. Cô vẽ một ngọn núi. Rồi cô bước qua ngọn núi. Cô quay lại xóa đi những gì đã vẽ. Tôi nhìn trò chơi của cô và liên tưởng đến công việc của ông họa sĩ.”

SInh Ra Từ Trứng đưa ra những đề nghị gì cho hội hoạ và nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, và cả trách nhiệm của người viết?

Hình ảnh những dân oan bị cưỡng chế đất đai thất thểu tìm công lý có lẽ đã quá quen thuộc với chúng ta. Và chúng ta, một cách nào đó, hẳn cũng cảm thấy mình đang bị cưỡng chế bứt ra khỏi “quê nhà” và trở thành lưu vong ngay trên chính quê hương mình, bởi một tâm thế bị chối từ quyền con người của mình, bị cấm cửa trong những quyết định về mệnh mình và đất nước mình. Vì thế, tôi nghĩ nghệ thuật phải là cách con người tìm về lại “quê nhà” của mình, xác lập con người tự do cũng như trách nhiệm với cộng đồng. Nếu như nghệ thuật không phải là ý thức của tự do, phá bỏ những rào cản cho tự do và dự phóng cho những chân trời mới, thì mong gì chính trị có thay đổi.

Hội họa hay văn học nghệ thuật nói chung, mưu cầu sự an toàn, nó sẽ an toàn. Và nó sẽ không là gì cả.

Tôi cổ vũ cho mọi thay đổi, làm mới, làm khác. Bởi đó là cách chúng ta hiện diện như một cá thể. Và đó cũng là cách chúng ta tạo cảm hứng cho những thay đổi khác của xã hội.

4. “Ông nhìn nhận tự do sáng tạo giống như cánh cửa mở được cả về hai phía trong, ngoài. Phía nào cũng có thể là tự do, phía nào cũng có thể là ngục tù. Và ông mắc kẹt ở ngưỡng.”

Như đã nói, phần đầu truyện mở ra không khí đậm đặc chất nghệ thuật và các diễn biến xảy ra mang tính vô cớ của giấc mơ. Những nhân vật phi thực từ tranh đi ra sống động và hoàn toàn có lý trong cách họ hiện hữu, một dạng hiện hữu nội tại. Tuy vậy, nửa phần sau của truyện mở ra hiện hữu bên ngoài, những tranh đấu, những bất công, những đàn áp, trong không khí trĩu nặng của lịch sử. Những nhân vật trở nên khô cứng hơn, khí hậu truyện mỏng dần nhường chỗ cho những chồng chất của sự kiện. Sự sắp đặt một chuỗi những biến cố để giải trình nguyên lý “sinh ra từ trứng”, một mặt cần thiết cho hướng đi của truyện, mặt khác tạo cảm giác sức tưởng tượng bị hụt hơi. Đây là một sự biến thiên về cảm hứng hay do gắng sức để trình bày hiện thực? “Ngưỡng” ở đây cũng mang tính cách “bản lề”, nhân vật nở ra từ quả trứng 4,000 năm. Có phải việc củng cố chủ đề “sinh ra từ trứng” tạo ra sự mắc kẹt về phương diện nghệ thuật?


“Tự do sáng tạo giống như cánh cửa mở được cả về hai phía trong, ngoài. Phía nào cũng có thể là tự do, phía nào cũng có thể là ngục tù.” Vâng, đó là hoàn cảnh của những tác giả trong nước hiện nay. Trong và ngoài một người sáng tạo, có thể là tự do, có thể là ngục tù, tùy thuộc vào chọn lựa của anh ta. Ngoài những vùng cấm của chế độ cai trị độc tài, người sáng tác còn đối diện với chính truyền thống văn hóa của mình, quán tính thẩm mỹ và khả năng tiếp cận cái mới. Một ngục tù do chế độ khoanh vùng và một ngục tù của nỗi sợ hãi tự thân. Nhân vật của tôi bị kẹt ở giữa. Họ quen thuộc với sự trung thành, vì thế sự khác biệt bị coi là phản bội. Một tâm lý của loài cừu, buồn thay, lại rất phổ biến. Cả trong sáng tạo nghệ thuật lẫn đời sống xã hội.

Nếu như phần đầu trong tác phẩm SINH RA TỪ TRỨNG đậm đặc không khí hội họa, thì phần sau, nó đã được mở ra một bối cảnh rộng hơn. Trước hết, nó cần đi hết cái hành trình sinh ra từ trứng như một số phận. Đồng thời, vì nó bước ra từ bức tranh, từ nghệ thuật… thì hướng đi của nó, tất nhiên sẽ phải là cuộc đời. Và cuộc đời thì dẫu chỉ là tưởng tượng hay hiện thực, cũng cần hơi thở. Thực sự, tôi muốn đẩy câu chuyện của mình từ hư cấu như huyền thoại tiên rồng và trứng của nó, đến một hiện thực sát sườn đương thời như một định mệnh của lịch sử. Đó là một lịch sử từ chiều sâu tâm linh đến những oan khiên hiển lộ. Đó là một bước chuyển tuy không đồng bộ trong bầu khí của truyện, nhưng lại tất yếu trong logic của sử lịch một dân tộc vốn sống bằng huyền thoại. Ma đưa lối quỉ đưa đường. Tôi hy vọng người đọc không cảm thấy bị đột ngột vì hiện tượng khí hậu bất thường. Tôi muốn lôi cổ ông nghệ sĩ của mình từ cái tổ kén xuống đường. Tôi muốn cái Ngọ sinh ra từ quả trứng được ấp từ hơn 4000 năm trước sống đời với tôi hôm nay. Tôi muốn phá vỡ cái ảo để nó thành hiện thực. Tôi thích sự ngỗ nghịch bất qui tắc, để hóa giải qui tắc. Tôi muốn thể hiện ngay từ cấu trúc tiểu thuyết của mình những thay đổi, những biến thiên ngoài tầm kiểm soát để cuộc đời hay sáng tạo của mình luôn là những ngẫu hứng. Có lẽ vì thế, ngoài tiểu thuyết THỜI CỦA NHỮNG TIÊN TRI GIẢ được tôi xây dựng cốt truyện từ đầu, tất cả còn lại tôi đều viết không dự định gì trước cho những câu chuyện của nó. Tôi thích để nó “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến”… Đó là cách duy nhất để tôi tiếp cận với sự thật của nghệ thuật, duy trì khả năng sáng tạo không biên giới từ cấu trúc đến ngôn ngữ và thể loại. Một cách nào đó, tôi đã viết theo kiểu chữ sau nối chữ trước, cho đến khi nó tự đứt đoạn.

Bạn thử đặt mình vào hoàn cảnh thập diện mai phục như cá nằm trên thớt của tôi xem. Bất cứ kiểu thoát hiểm nào cũng phải “chơi” chứ, phải không? Ngọ nguậy chỉ là cách để biết mình còn sống.

5. Truyện đôi khi phản chiếu hình ảnh và tư tưởng trong kinh thánh: “một vùng đất hứa cho sự an toàn, sữa và mật ong” hay “Con chồn có hang nhưng con người không chỗ nương náu. Cô nghĩ, ánh sáng mặt trời chiếu rọi cho cả người ngay và kẻ gian.”

Tôn giáo có vai trò gì trong việc hình thành nhân vật nữ chính và trong tiến trình dân tộc hiện nay?

Thực ra, nhân vật nữ chính trong tiểu thuyết SINH RA TỪ TRỨNG không phải là một người. Nó là hồi quang của những số phận, những con người Việt Nam khác nhau thì hiện tại. Họ đến từ nhiều phía, từ trong tranh bước ra hay từ một quán nhậu bình dân đi vào. Họ không còn niềm tin vào chính quyền và thậm chí các giá trị xã hội. May thay, họ vẫn còn niềm tin vào chính mình. Niềm tin ấy nó giữ cho dân tộc này chưa tan rã. Hiện nay, tự do tôn giáo ở trong nước vẫn là một vấn nạn nhân quyền. Tôi không phải là người cực đoan cho rằng con người cần phải có tôn giáo như một yếu tính cho sự hiện hữu và cứu cánh của ý nghĩa con người. Nhưng tôi tin tuyệt đối rằng, người Việt Nam cần có tôn giáo, đặc biệt trong trường hợp ý thức hệ Cộng sản đã phá sản. Dân tộc Việt Nam hiện nay không có một nền tảng triết lý đúng đắn nào cho sự tồn tại và phát triển. Cái tưởng là căn bản của chế độ là duy vật cũng phá sản. Cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm thế chỗ cho tư tưởng Mác – Lê thì quá vá víu. Việc đưa hình tượng ông Hồ vào chùa miếu, theo tôi, nó diễu cợt chủ trương vô thần của ổng. Nếu như trong kinh tế chính trị, nhà nước đu dây giữa các lý thuyết và sức mạnh đối nghịch, thì trong đời sống tinh thần, chế độ cũng dựa hơi cả thần thánh và ma quỉ. Nó mang đến những cơn lên đồng của bọn mê tín, ngụy tín và cuồng tín. Và đẩy xã hội vào sự trần truồng của bản năng, hoang dã.

Tôn giáo không chỉ là cửa thoát cho sự đau khổ của con người và nâng con người lên với hàng thần thánh, mà nó còn cần thiết một cách cụ thể như giềng mối cho một xã hội an bình. Trong lịch sử của mình, tôn giáo ở Việt Nam không chỉ là một sức mạnh đủ bảo bọc con người trong mọi khắc nghiệt, giúp con người biết tha thứ, yêu thương nhau, mà nó còn là nền tảng cho sự trường tồn của dân tộc. Nếu không có tôn giáo, thì những gì Cộng sản để lại cho xã hội chỉ là sự tan nát.

6. Nếu tôn giáo như một hệ tư tưởng cho dân tộc, thì theo anh hình thức nào thích hợp nhất với tâm thức người Việt và đáp ứng đúng nhất cho tình thế hiện nay? Một ý thức xã hội mới trong tinh thần nhân bản, độc lập khỏi tôn giáo, phải cần những điều kiện nào?

Cách đây khoảng 10 năm trước, khi Thượng tọa Thích Nhất Hạnh được nhà nước cho về VN và hoạt động tôn giáo của mình, tôi không nghĩ đó đơn thuần chỉ là thực hiện Nghị quyết 36 về hòa hợp hòa giải dân tộc, mà những tưởng Đảng đã chấp nhận mượn hệ tư tưởng Phật giáo Làng Mai làm nền tảng cho xã hội VN bù đắp vào khoảng trống của hệ tư tưởng Marxisme đã sụp đổ trên toàn cầu. Tuy nhiên, mọi chuyện đã xảy ra một cách đáng tiếc, không những Thày Nhất Hạnh phải ra đi mà các đệ tử của Thày cũng phải lưu vong.

Mặc dù tôi theo đạo Công giáo, nhưng tôi cũng phải chân thành nói rằng: Nếu đất nước này cần một tôn giáo như một hệ tư tưởng cho dân tộc thì không cần phải tìm đâu xa, nó vốn tồn tại một cách sinh động trong đời sống nhân dân, đó chính là cái mà chúng ta quen gọi là “đạo ông bà”. Sự hiếu kính với cha mẹ và biết ơn tổ tiên, cũng như tinh thần coi mọi người xung quanh là anh em, “đồng bào”… Đó là một tinh thần xã-hội-gia-đình đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa đấu tranh giai cấp sắt máu, một mất một còn, “ai thắng ai” của Cộng sản. Chính nhờ nó mà xã hội VN còn tồn tại. Ngày nay, chủ nghĩa Cộng sản không còn trên thực tế. Xã hội biến thái thành một tương quan sinh tồn trên nền tảng chiếm đoạt và phục tùng. Nó chà đạp phẩm giá con người và làm bần cùng văn hóa nhân sinh. Vì thế, một triết lý khoan dung và yêu thương theo tinh thần “đồng bào” của huyền thoại “một mẹ trăm con” hay “xã hội gia đình” kiểu “đạo ông bà” nếu được triển khai, nâng tầm lý luận thành một chủ thuyết, tôi tin nó có thể cứu vãn được tình trạng suy đồi hiện nay của dân tộc. Đồng thời, cứu độ cho nỗi cô đơn của con người thời đại trước thời gian.

Đạo ông bà của người Việt chưa bao giờ là một tôn giáo. Và có lẽ sẽ không bao giờ trở thành một tôn giáo. Nhưng hoàn toàn có thể là một minh triết cho đời sống.

Tuy nhiên, tất cả những hệ lụy, bi thương mà dân tộc Việt đã gánh chịu, tôi nghĩ cũng từ cái mà tôi ca tụng: Đạo ông bà. Chính cái tôn ti trật tự truyền thống của nó đã triệt tiêu khả năng khai phóng, sáng tạo và niềm kiêu hãnh của con người cá nhân. Người Việt quen với sự chấp nhận áp đặt như một đức tính.

Đến đây, tôi nhìn thấy cái chìa khóa của vấn đề chị muốn hỏi. Tinh thần khai phóng và khai phóng tinh thần. Đấy là giải pháp trước mắt có thể tháo gỡ cái vòng kim cô mà chế độ chính trị đã xiết vào đầu dân. Và lâu dài, nó giúp ngăn ngừa chúng ta đeo một cái vòng kim cô khác.

7. “Nếu mày biết tao là dao thì đừng đụng đến tao. Vì là dao, tao sẽ đâm theo lao vào bất kể thằng nào. Nếu mày cũng biết đau thì đừng láo. Khi chúng mày thấy lao đao thì hãy nhớ đến dao. Đấy là công lý của bọn tao.

Không phải là tao ác, mà chúng mày không đáng sống. Vì sự sống, chúng mày phải chết. Ai bảo mày cản đường tao. Ai bảo mày cướp của tao, tự do và quyền làm người. Ai bảo mày đười ươi. Ai bảo mày trêu ngươi.”

Ngôn ngữ trong bài Rap của cô gái mang tính côn đồ hơn là lời kêu gọi bất bạo động của người trí thức nghiên cứu luật. Phải chăng đó là điều tất yếu “mang tính bản thể” trong tiến trình xã hội hiện nay? Cách tranh đấu hiệu quả nhất đến từ con dao nhọn hay từ đâu?

Tôi thích bài Rap đó. Nó thể hiện tính đương đại của trào lưu văn hóa cũng như tính hiện thực của hiện trạng xã hội, tính côn đồ trong hệ thống cai trị và tình trạng phẫn uất của nhân dân. Nó là một phản ứng có tính tự động. Tất nhiên đấy là một hiểm họa có thật cho tất cả chúng ta.

Con dao tự nó không phải tội ác. Nhưng kẻ dùng dao sẽ chết vì dao (Chúa nói). Hơn nữa, dao không hiệu quả bằng súng trong việc thanh toán lẫn nhau, nếu cần.

Đấu tranh cho dân chủ và tương lai của đất nước hiện nay có phải là một cuộc thanh toán lẫn nhau giữa nhân dân và chính quyền hay không?

Tôi tin những người tỉnh táo nhất đều hiểu rằng, “kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai” (Phạm Duy). Vì thế, một cuộc đấu tranh vì chính nghĩa, vì tương lai và hạnh phúc của chúng ta chỉ nên là một đòi hỏi trong hòa bình để những người cai trị hiểu rằng: Các anh đang sai. Các anh cần phục thiện. Nếu các anh không giác ngộ nhân bản mà vẫn ngoan cố duy trì đặc quyền, đặc lợi của mình bất kể mọi sự, thì đấy chính là hành động của bọn ôm bom tự sát. Dân tộc này sẽ cùng tiêu vong với các anh.

8. Nhiều phát biểu trong Sinh Ra Từ Trứng làm nhiều người đọc bị phản cảm về phương diện nữ quyền:

“Tuy nhiên, trong tận cùng tôi, nỗi khao khát muốn hiếp cô vẫn nóng nẩy. Cô đẹp và đầy sức mạnh hủy diệt.”

“Đêm ấy, cô ngủ với ông. Và cô muốn ông đụ cô vỡ nát.”

Có thể nghĩ đây là cách khuyến khích bạo hành tình dục, qua cách sử dụng từ ngữ và sự áp đặt cái nhìn “đực” tính trong các quan hệ nam nữ? Điều này sẽ làm hiện trạng nữ quyền ở Việt Nam vốn đã tệ hại, càng tồi tệ hơn?


Người đàn ông muôn đời, từ ngàn xưa cho đến ngàn sau, có lẽ không bao giờ phai nhạt nỗi ham muốn hãm hiếp phụ nữ như một bản năng giống đực, hoặc sử dụng phụ nữ như một phương tiện tình dục của mình. Nhưng đồng thời, đàn ông cũng muôn đời khao khát được làm nô lệ, phục dịch cho người phụ nữ như một khả thể cho sự ngưỡng vọng cao cả và thuần khiết. Tương tự như thế, tôi nghĩ cũng không thiếu phụ nữ muốn được hãm hiếp, muốn được chiếm đoạt và muốn được dâng hiến, tan ra.

Dù sao, tôi không phủ nhận “đực tính” (hay nho nhã hơn là nam tính) của mình, mạnh. Chẳng có điều gì khiến tôi phải e ngại phô trương cái sức mạnh giống nòi ấy. Tuy nhiên, điều ấy không có nghĩa là tôi phủ nhận hay coi thường vấn đề nữ quyền. Trong cuộc sống thực, tôi yêu mến, quí trọng những phụ nữ có cá tính và biết thể hiện mình như một chủ thể độc lập. Tôi đề cao nữ quyền như cách đương nhiên của một phẩm giá.

Trong tác phẩm của mình, tôi không tuyên dương sự bạo hành trong tình yêu hay tình dục. Tôi chỉ mô tả những hiện tượng có thật, rất thật như một phần thuộc về bản chất trong đời sống tình cảm con người.

Về hiện tượng bạo hành trong đời sống gia đình ở Việt Nam quả thật rất trầm trọng, di căn của nền văn hóa phong kiến Nho giáo. Cùng với nó, chúng ta cũng cảm nhận được tính trấn áp thường trực trong cuộc sống hôm nay bởi bộ máy cai trị. Nhưng đấy là một bộ mặt khác của xã hội. Trong tác phẩm của tôi, tình dục hay tình yêu, luôn được tôi xiển dương như một ý nghĩa tốt đẹp và thiết yếu, tôi luôn mô tả nó ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thăng hoa và hủy diệt. Như nó vốn là thế.

9. Tôi không nghĩ rằng “…không thiếu phụ nữ muốn được hãm hiếp, muốn được chiếm đoạt và muốn được dâng hiến, tan ra” như anh nói. Cách nghĩ này rất phổ biến vì nó phát xuất từ sự phóng tưởng mang tính tự tôn của nam giới, và được sử dụng như một công cụ tiện lợi cho việc áp chế tình dục trong quan hệ nam nữ. Vì bị hãm hiếp và muốn dâng hiến là hai điều hoàn toàn khác. Cách nghĩ này hình thành từ cơ chế phụ quyền, được củng cố để đặt phụ nữ vào thế bị động và không thể mở miệng tự bênh vực mình. Tình dục trở thành cách biểu thị quyền lực giữa hai giới tính, vận hành y như cách bộ máy cai trị trấn áp con người, như anh vừa nói. Một cách thức trấn áp khác là lãng mạn hoá và thi vị hóa sự áp chế, như cảnh ông hoạ sĩ hiếp dâm cái Ngọ, một bé gái 14 tuổi:
“ Ông họa sĩ với khả năng bẩm sinh đã nhìn thấy cái đẹp choáng ngợp nhưng thô sơ của cô bé chăn trâu. Bộ quần áo ướt đẫm đã bộc lộ tất cả sự giản dị và phi thường của một thân thể mới lớn. Ông xúc động sâu xa và không thể rời mắt khỏi cô bé. Cô bé cũng nhìn ông như thể nó nhận ra ông là người đàn ông đích thực của nó. Ông hỏi nó: “Em có lạnh không?” Cô bé lắc đầu. Nhưng ông không thể nào từ khước ham muốn được ôm nó vào lòng, sưởi ấm một linh hồn mong manh. Và ông đã làm như thế. Cô bé yên lặng không nói năng. Nhưng giống như con gà con tìm được đôi cánh của mẹ, nó vui sướng ẩn nấp trong cánh tay người đàn ông xa lạ. Rồi trong cơn mưa của trời đất có một cơn mưa khác ấm áp hơn và nồng nhiệt hơn đã rơi xuống trên cánh đồng ngô, rơi xuống trong tử cung của cô bé.”

Những chuyện hiếp dâm như thế vẫn xảy ra, ở mọi nơi, nhưng cách viết đầy thi vị như thế này rất nguy hiểm vì nó vô tình đã khuyến khích hoặc gây cảm tưởng việc này chấp nhận được. Và vấn đề đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm người viết nên được nghĩ ra sao trong phạm vi nữ quyền, vốn chính là nhân quyền?


Trước hết xin thành thật khai báo. Nguyễn Viện là nhà văn, không phải cán bộ tuyên giáo, lại càng không phải là một nhà đạo đức học.

Tôi đã viết về tình dục, tình yêu, phụ nữ hay các vấn đề xã hội khác là bởi tôi nghĩ thế, cảm nghiệm thế. Và tôi viết như nó là thế.

Có lẽ sự giả dối hay đạo đức giả thì ở đâu cũng có. Nhưng ở Việt Nam, tình trạng giả dối trở thành một não trạng. Việc tôi “thi vị hóa” một hành động hiếp dâm chắc chắn không phải là cách tôi khuyến khích tội ác hay phản nhân quyền, hoặc chống lại cái não trạng giả dối hay đạo đức giả rất phổ biến hiện nay. Nhưng tôi kinh tởm cái giáo điều “ta căn bản là tốt, địch nhất định phải xấu” như trong tuyên truyền chính trị, hoặc bất cứ tội ác nào cũng thô bạo dơ dáy như cái nhìn vô cảm của luật pháp.

Chiến tranh có thể là anh hùng ca, cũng có thể là quỉ dữ.

Tôi nhìn thấy cái éo le trong hành động của nhân vật ông họa sĩ khi hiếp dâm cô gái 14 tuổi. Vâng, đó là một hành vi tội lỗi theo luân lý thông thường. Và việc làm của ông ta đáng bị truy tố theo pháp luật hiện hành. Nhưng chắc chắn rằng, chúng ta chẳng thể nào cấm được ông rung động trước cái đẹp và muốn chiếm hữu, hưởng thụ nó. Việc của tôi là kể lại cái khoảnh khắc dường như tuyệt vọng của con người trước sự thật. Còn kết án hay khuyến khích nó không phải là việc của tôi. Tôi không giành quyền chọn lựa của độc giả.

10. Ở trên anh nói: “Tôi tin rằng chỉ khi nào người Việt dám “bạo hành” với cái “ngàn vàng” cao quí của dân tộc mình, thì khi đó lịch sử Việt mới được viết bởi chính nhân dân của mình. Lý lịch của những đứa con lai sẽ được gột rửa. Chúng ta tái sinh trong ánh sáng hoan lạc của cái “loạn luân” tông truyền, nội huyết.”

Trong vở kịch cuối truyện, cảnh người con trai với người mẹ lấp lửng gần biên giới của “loạn luân.” Anh có thể nói thêm về dụng ý khi viết phần này?


Tôi đang sống trong một đất nước thiếu thốn nhiều thứ, từ tự do cá nhân đến nền tảng triết lý cho một xã hội. Điều ấy không có nghĩa là tôi khao khát được làm mọi thứ, có mọi thứ, bất chấp luân thường đạo lý.

Trong phần cuối truyện này, tôi để người con lai gặp lại người mẹ sau bao năm xa cách bởi chiến tranh, bởi ý thức hệ, bởi bối cảnh xã hội, bởi mất mát và thiếu thốn cả trong đời sống vật chất lẫn tinh thần. Người mẹ, vốn được sinh ra từ trứng, tôi xem như một biểu tượng tâm linh dân tộc. Người con lai, tất nhiên là nhân vật đại biểu cho nền văn hóa đương đại. Và, dụng ý của tôi thật ra cũng đơn giản. Đâu là cách chúng ta tìm lại chính mình sau những luân lạc của thời đại? Phải chăng một cuộc lội ngược dòng, về nguồn là niềm hy vọng cho sự tái sinh trong ánh sáng? Hay nói một cách khác, tự hủy diệt để sống dậy từ tro tàn, có thể?

11. Vì vở kịch cuối truyện, theo tôi là phần bất ngờ và độc đáo để kết thúc, đã mang phần riêng tư trong quan hệ giới tính phóng chiếu thành dụ ngôn chung của dân tộc, nên người phụ nữ luôn ở vị thế hiểm nghèo cũng như cái gọi là tâm linh vậy. “Khi ông bố bạo hành tình dục người mẹ, một ẩn dụ của “truyền thống” bạo hành “tâm linh dân tộc”, người con – “đại biểu nền văn hoá đương đại” – đã chọn thái độ bàng quan, mặc dù trước đó đã nghe mẹ kêu cứu về nỗi đau 4,000 năm. Khi bỏ đi, về mặt riêng tư, người con chấp nhận sự áp chế của chế độ phụ quyền trong đời sống cá nhân – biểu hiện qua bạo hành tình dục trong gia đình. Về mặt xã hội, hành động “cố gắng không gây ra tiếng động và bước ra ngoài” nói lên hiện tượng phổ biến về những người dân bất kể giai cấp và lý lịch chính trị đang bỏ nước mà đi. Người con có khả năng làm gì hay hơn thế trong hoàn cảnh đó?

Vâng, “cố gắng không gây ra tiếng động và bước ra ngoài” đang là một hiện tượng phổ biến cho những người có khả năng bỏ nước ra đi. Nhưng còn nhiều hơn thế là vẫn cố gắng không gây ra tiếng động và nằm im chịu đựng cho những người buộc phải ở lại.

Tôi đồ rằng trong số những người đang nằm im chịu đựng, họ thật sự không biết điều gì đang xảy ra, hoặc biết nhưng giả như không biết. Chỉ có một số rất ít bày tỏ thái độ của mình, bị “ông bố” cho là phản nghịch, đánh đòn.

Bất chợt, lòng tôi chùng xuống. Tôi buồn. Đất nước này, dân tộc này đang bị bỏ mặc cho bọn lưu manh xâu xé và chà đạp. Tôi cũng có cảm giác “Chúa đã khước từ” khi cái nền tảng tâm linh của người Việt đã bị đánh tráo bởi sự mê tín. Một cảm giác khác của sự mạt vận. Không những môi trường thiên nhiên bị hủy diệt mà bản thân con người ở đây cũng đang bị đầu độc, từ thân xác tới tinh thần. Tôi cảm thông với những người bỏ nước ra đi, và chia sẻ nỗi đau uất nghẹn với người ở lại chờ ngày suy tàn.

Còn người con lai, nhân vật của tôi có thể có một cách hành xử khác không? Tôi không biết.

Nguồn:

http://damau.org/archives/44997

















Tác phẩm


Đĩ Thúi
nxb Cửa 2013




Đĩ thúi (1)
Tháng 5, 3, 2013


Nguyễn Viện



Tiểu thuyết


Trong cuốn tiểu thuyết phản lịch sử, phản hư cấu, phản hiện thực và phản tiểu thuyết này, các nhân vật chính của tác phẩm văn học Việt Nam nổi tiếng nhất, Truyện Kiều, và cả tác giả của nó, Nguyễn Du, bước thẳng ra từ hư cấu và lịch sử để lăn lộn trên một bàn cờ thế sự quái đản mà tất cả chúng ta dường như đều có mặt.

Bạn có thể thích hay ghét, rất thích hay rất ghét, khen hay chê tác phẩm Phản Kiều, hay Tân Đoạn trường tân thanh này, nhưng tôi tin rằng bạn sẽ không thể dửng dưng với nó. Tôi hân hạnh giới thiệu tác phẩm mới nhất của nhà văn Nguyễn Viện, đăng thành 5 kì trên pro&contra.


_______________

Gặp Mã Kiều Nhi trong một lầu xanh tại Bắc Kinh nhân chuyến đi sứ năm 1813, Nguyễn đã chới với. Đó là một kiều nữ tài hoa. Cầm kỳ thi họa đủ món ăn chơi vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề, đặc biệt là món thổi kèn điêu luyện theo đúng tinh thần Karma Yoga không phân biệt đối xử của nàng. Dẫu sao, Nguyễn cũng không tránh được cái mặc cảm của người tiểu quốc đi trả thù dân tộc. Vì thế, hành động vô cầu bất phân rất lương tâm chức nghiệp của Kiều Nhi khiến cho Nguyễn cảm động. Và chàng muốn chiếm lấy nàng, theo một cách nào đó tương tự như Từ Hải trong một giả định hóa giải oan nghiệp. Tất nhiên, khoản được gọi là “bo” của Nguyễn không thể so sánh với các hào phú bản địa, nhưng Mã Kiều Nhi thượng thừa bản lĩnh và thâm hậu nhân sinh hiểu được đây là cơ hội nàng bước vào một thế giới khác, mà ngay cả một hảo hán như Từ Hải cũng không thể làm nổi. Thế giới của ảo tượng văn chương.

Mã Kiều Nhi trốn theo Nguyễn về Việt Nam năm 1814.

Cho đến sau năm 1820, không còn ai ở Việt Nam biết Mã Kiều Nhi là ai nữa. Nàng đã có một khai sinh mới được gọi là Vương Thúy Kiều. Tôi chưa bao giờ ngưỡng mộ Truyện Kiều, nhưng tôi thích cái hệ lụy củaTruyện Kiều.

Vì thế, có một Mã Kiều Nhi trở thành nhân vật văn chương và cũng có những Mã Kiều Nhi khác vẫn quanh quẩn đâu đó trong các lầu xanh. Nàng đi xuyên suốt dòng lịch sử từ những kỹ viện đầu tiên do Quản Trọng, Tể tướng nước Tề sáng lập khoảng 2700 năm trước đến các khu đèn đỏ đương đại. Đĩ là vĩnh cửu.

Sau khi vượt ải Nam Quan, Mã Kiều Nhi đã rũ bỏ bộ đồ hóa trang làm tên lính hầu của Nguyễn. Nàng trở lại là một cô gái xinh đẹp. Xinh đẹp và e lệ thì cũng đến lúc phải đi tiểu. Tiết tháng ba ở rừng biên cương mát mẻ và phong quang, vì thế nàng đã phải đi hơi xa để tìm một chỗ kín đáo. Kiều Nhi nhìn thấy một gò đất. Và nàng ngồi xuống. Cỏ vàng hiu hiu. Bỗng nhiên, Kiều Nhi nghe thấy tiếng nói sau lưng mình: “Cô đã đánh thức tôi dậy.” Nàng quay lại thấy một cô gái dường như rất quen. Đoán được điều ấy, cô gái nói: “Tôi là Đạm Tiên, cũng từng ở lầu xanh như cô ở Bắc Kinh. Tôi theo Mạc Đĩnh Chi sang đây.” Kiều Nhi hỏi ngay: “Sao chị không về Tràng An mà lại ở chốn hoang vu thế này?” Đạm Tiên bảo: “Chuyện dài lắm, không có thì giờ để nói đâu. Em hãy đi theo chị.” “Tại sao?”, Kiều Nhi hỏi lại. Đạm Tiên nói: “Vương phủ không phải là chỗ của chúng ta. Chị đã đến đó và chị đã quay về.” Kiều Nhi lại hỏi: “Chị muốn đưa em về?” “Không, không phải trở lại Bắc Kinh, mà là trở về con đường của mình”, Đạm Tiên giải thích.

Thấy Mã Kiều Nhi đi lâu, Nguyễn đích thân cùng vài tên lính đi tìm. Trong vòng vài dặm, không thấy một bóng nhà. Khi tối trời vẫn không thấy nàng đâu, Nguyễn và đoàn tùy tùng đều cho rằng Kiều Nhi có thể đã bị thú hoang ăn thịt.



1.

Mã Kiều Nhi đến một trong những trang trại ở khu vực rừng biên giới được các nhà đầu tư Trung Quốc thuê của Việt Nam. Đạm Tiên dặn Kiều Nhi: “Em không được nói tiếng Hoa.” Kiều Nhi thắc mắc: “Ở đây toàn là người Trung Quốc không mà?” Đạm Tiên bảo: “Tất cả bọn đàn ông đều thích của lạ. Bởi vậy em hãy nói tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc nào ở Việt Nam cũng được.”

Chính sách mỗi gia đình chỉ có một con của Trung Quốc dẫn đến tình trạng đàn ông khó tìm được vợ. Đến Việt Nam không phải chỉ là lời mời gọi của miếng cơm manh áo mà còn bởi cơn quẫn bách thèm khát giống cái của lao động giống đực Trung Quốc đòi được giải quyết. Giống cái Việt vừa đẹp vừa nhiều vừa rẻ. Việt Nam trở thành thị trường giống cái của thế giới.

Kiều Nhi và Đạm Tiên mở quán nhậu bán rượu Mao Đài. Mái tôn vách lá sơ sài. Nhưng chiều tối nào quán cũng đông nghẹt. Công nhân Trung Quốc cũng không khác Việt Nam, lao động cật lực rồi uống rượu. Rượu lên cơn thì gái nào cũng là gái, kể gì hàng dạt hàng xịn. Kiều Nhi thường tiếp khách suốt đêm, sáng ngủ bù. Khô rát âm đạo, để đỡ đau Kiều Nhi phải dùng gel bôi trơn. Bọn Trung Quốc bảo nàng không có chút biểu cảm.

Kiều Nhi từng là ngôi sao của vũ trường Kit ở Sài Gòn. Trong số những khách quen của nàng có Thiếu tá Việt Nam Cộng hòa tên Tùng. Tuy không oai phong ngang tàng như các sĩ quan Dù, Biệt động Quân hay Thủy quân Lục chiến, nhưng Tùng hào hoa đẹp trai và nhiều tiền nhờ bán hàng quân tiếp vụ cho Việt cộng. Tùng yêu và chiều Kiều Nhi. Nàng thích chàng không phải vì tiền mà ở những bước nhảy bay bướm cũng như thái độ sùng tín gái đẹp của chàng. Nhưng có một người đàn bà khác không cho đó là mối tình đẹp. Vợ Tùng đánh ghen bằng một lon acid và một bản án chung thân máng vào cổ nàng: “Hồng nhan bạc phận”. Sau này, Kiều Nhi đã giải phẫu thẩm mỹ khuôn mặt nhưng bản án “Hồng nhan bạc phận” nàng khắc vào miếng lắc đeo ở tay. Từ đó, không ai thấy được cảm xúc của nàng trên khuôn mặt nữa. Bù lại, thân thể của nàng càng ngày càng đẹp và quyến rũ. Kiều Nhi trở thành đĩ tinh ròng.

Vào đầu những năm 2000, khi nền kinh tế thị trường trong nước phát triển, những cô gái sở hữu một thân hình chuẩn có vơ vàn cơ hội kiếm tiền. Họ làm người mẫu trình diễn hoặc quảng cáo và được các đại gia theo đuổi. Những giá trị mới được xác lập. Kiều Nhi được một đại gia bao trong căn biệt thự tuy không lộng lẫy nhưng cũng đủ danh giá. Nàng tân trang lại trinh tiết. Thỉnh thoảng bán trinh tìm cảm xúc mới. Nàng phát biểu, nhận tiền từ tay những người đàn ông đi mua trinh nó khác hẳn làm điếm chuyên nghiệp. Không hẳn vì những số tiền lớn lao, mà nàng nhận được cả niềm tin thiêng liêng của người mua trinh về cái lộc của tạo hóa. Nàng bảo “lộc trời bao la, sao nỡ hẹp với mọi người”.

Đôi khi nhớ tới Nguyễn, nàng cũng muốn tặng chàng “chữ trinh còn một chút này” để cảm tạ tấm lòng tri kỷ. Nhưng dường như Nguyễn không quan tâm đến điều ấy. Chàng vẫn nói: “Lần nào đụ em, anh cũng tìm thấy cảm giác của sự trinh bạch.” Lần nào cũng là lần đầu tiên. Kiều Nhi cũng không hiểu được lòng mình, tại sao với Nguyễn, nàng luôn luôn trinh bạch. Nguyễn bảo “anh vẫn nhìn thấy khuôn mặt thật của em dưới lớp da nhân tạo.”

Hoài niệm vẫn là một khuynh hướng tự nhiên của con người. Thời kỳ chuyên chính vô sản xã hội chủ nghĩa, ai cũng khổ như chó. Kiều Nhi sống bằng cách tham gia đoàn văn công thành phố. Nàng có nhiều khách. Nhưng họ chỉ trả bằng tem phiếu hoặc nhu yếu phẩm. Không huy hoàng, nhưng vẫn được sống tiện nghi hơn người. Nguyễn có rượu ngoại uống và thuốc lá thơm hút cũng nhờ Mã Kiều Nhi từ bi nhân hậu chia sẻ.

Thơ mộng nhất trong cuộc đời Kiều Nhi có lẽ phải kể đến giai đoạn hưng thịnh của cô đầu. Phẩm chất nghệ sĩ hoang đường với cây tì bà của nàng cùng nhịp phách tiếng hát đa tình của Nguyễn Công Trứ quả là một cặp đôi hoàn hảo, anh hùng và mỹ nhân kinh điển cho mọi thời đại. Trong số những người tình của Mã Kiều Nhi, không kể Nguyễn Du, thì Nguyễn Công Trứ làm nàng say đắm nhất.

Không như Từ Hải, Trứ phụng sự triều đình tận tụy theo cốt cách của một quân tử. Và Trứ cũng trở thành một hình tượng đối nghịch với bọn văn nô nịnh thần trong thời đại của ông. Cùng với một đức hạnh ngay thẳng như Nguyễn Công Trứ, nhưng Kiều Nhi vẫn chan hòa với bọn văn nô dịch vật, bởi vì với nàng “tiền nào cũng là tiền” và nàng phục vụ theo đúng nghĩa vụ công bằng mà thiên hạ đã mua nàng. Kiều Nhi bảo “Em tam giáo đồng nguyên, vô vi theo Lão giáo, hành động mà không làm gì cả. Phục tùng ước muốn của đàn ông mọi lúc mọi nơi theo kinh tế thị trường định hướng Khổng Nho nên em đòi hỏi ăn bánh trả tiền. Đời là ảo tượng vô thường, vì thế không bám níu chấp trước để giải phóng oan nghiệp theo lời Phật dạy.”

Không hối tiếc. Đàn ông hay tiền bạc cũng là một thứ nhu cầu. Cũng chẳng thấy đâu là ngu muội hay minh triết. Nàng bảo “không có tiền thì cạp đất mà ăn à”. Vì thế, khi Nguyễn mang cho nàng đọc Truyện Kiều, nàng chỉ nói “em không biết mình có thiện căn hay không, nhưng em tin rằng em luôn sống thành thật.” Nguyễn biết điều ấy, chính vì thế Vương Thúy Kiều trở thành bất hủ. Sau 200 năm ngày sinh, Nguyễn Du được Hội đồng Hòa bình Thế giới phong tặng “Danh nhân văn hóa”.

Năm 2012, nhà văn đồng hương của Mã Kiều Nhi đoạt Giải Nobel Văn chương. Dư luận không thống nhất về kết quả này bởi thái độ chính trị của Mạc Ngôn đối với một chế độ toàn trị như Trung Quốc. Văn tài và nhân cách trở thành một vấn nạn thời đại. Bất cứ nhà văn nào cho rằng mình đứng ngoài chính trị đều là ngụy biện cho sự ẩn náu trước cái ác.

Kiều Nhi viết một status trên Facebook: “Nếu anh Mạc Ngôn muốn, em sẵn sàng chiêu đãi miễn phí món phong nhũ phì đồn đặc sản thiên nhiên của em để tưởng thưởng cho tinh thần đồng văn đề huề giữa đĩ hiện đại và truyền thống thập thành của Trung Quốc cố cựu.”

Tin Giải Nobel cho Mạc Ngôn tuy đến được với xóm lao động Trung Quốc trong rừng sâu đầu nguồn của Việt Nam, nhưng không ai quan tâm, ngoại trừ Mã Kiều Nhi. Đêm đó, nàng tiếp gần hai chục khách. Lần đầu tiên, nàng cảm nhận một cách khác thường về những con cu Trung Quốc. Tất cả đều vội vã. Tất cả đều tột đỉnh. Nhưng cũng tất cả tinh dịch đều khô như bột. Mã Kiều Nhi hỏi Đạm Tiên về hiện tượng này, Tiên cũng chỉ phỏng đoán: “Có lẽ đó là kết quả của một chính sách về toàn cầu hóa của người Trung Quốc. Chị ngờ rằng, đàn bà chỉ ngửi bằng mũi cũng có thể thụ thai.”

Tinh khí bay mù mịt. Những cô gái người dân tộc thiểu số sống ở quanh vùng đều mang bầu khống. Bụng của họ càng ngày càng to ra nhưng rỗng tuếch. Nỗi hoang mang lan tỏa khắp rừng núi. Nhưng hơn chín tháng sau, bụng của họ tự xẹp xuống như chưa có chuyện gì. Tuy nhiên, cái tai nạn kỳ cục đó đã để lại những vết nhăn di chứng không những trên bụng họ mà còn trên bụng của tất cả những bé gái sinh ra sau này. Các thày cúng đều cho rằng đó là hội chứng “thiên triều”.

Một trong số những cô gái từng mang bầu khống đã theo anh chàng buôn gỗ lậu về miền xuôi nói với Kiều Nhi: “Em hoàn toàn mất cảm giác về chuyện ấy. Nhưng em muốn theo chồng để phục hồi chức năng. Chị giúp em được chứ?”. Kiều Nhi bảo: “Không cần đâu. Cảm giác chỉ là sự bịa đặt của mấy ông nhà văn. Em muốn thế nào thì nó sẽ là như thế.” Cô gái không hiểu. Nhưng cô ta có bản năng của một thú rừng, vì thế sự hoang dã có bài học của riêng nó.

Những ngày hành nghề trong rừng với lao động đồng hương Trung Quốc, Mã Kiều Nhi không cảm thấy bị tổn thương như Nguyễn đã thương cảm một cây quế cao quí để cho mán mường trèo leo. Ngược lại, nàng hoàn toàn sống an vui với truyền thống “thập nữ viết vô” trong sự tồn tại của mình. Một cách nghịch lý, nó giải thoát nàng bằng thân phận một con đĩ. Đậm đà bản sắc Nho giáo.

Chính Nguyễn cũng đã không nhìn thấy tính phản động của tinh thần Nho giáo trong cuộc đời mình. Vì thế đã có lúc, Nguyễn muốn chạy vào Gia Định theo phò Nguyễn Ánh chống giặc Tây Sơn. Nhưng Nguyễn không bao giờ cảm thấy được hóa giải nghiệp chướng như con đĩ toàn phần Mã Kiều Nhi. Nguyễn lúc nào cũng là một hàng thần lơ láo thân phận trí thức.

Cuộc đời Mã Kiều Nhi không có biến cố, kể cả việc nàng phải bán mình chuộc cha và trở thành Vương Thúy Kiều như Thanh Tâm Tài Nhân hay Nguyễn Du đã mô tả. Từ trước khi nàng có mặt trên cõi đời, Mã Kiều Nhi đã là đĩ. Và cho đến muôn đời sau, Mã Kiều Nhi vẫn là đĩ.

Bản thân Khổng Tử hay Nguyễn Du cũng chỉ là những kẻ chạy theo quyền lực và phò quyền lực. Khổng giáo là tập đại thành của sự sa đọa trí thức.

Năm 1862, Hòa ước Nhâm Tuất được ký, tỉnh Gia Định được nhượng quyền cho Pháp cùng với Biên Hòa và Định Tường. Lúc ấy Mã Kiều Nhi đang sống trong Chợ Lớn. Trải nghiệm với lính Tây là một cảm giác rất kỳ quặc. Khi lính Tây xông vào nhà, Mã Kiều Nhi đang ngồi đan áo, nàng vội vàng đứng lên định cởi quần dâng hiến ngay, nhưng dường như bọn Tây không biết thế nào là phụ nữ Á Đông toàn tòng, xông vào với tất cả khí thế của kẻ đi chinh phục thuộc địa. Kết quả là Tây không tìm được sự thỏa mãn khai hóa, mà Ta cũng mất cơ hội thống khoái của thứ đức hạnh nhẫn nhục. Tây nằm bất tỉnh nhân sự thượng mã phong trên cái ngổn ngang giao lưu văn hóa. Tay vẫn còn cầm cây đan, Kiều Nhi đâm vào khúc xương cùng anh Tây, giải cứu chàng thoát khỏi nỗi ô nhục văn minh súng đạn.

Tỉnh dậy, Tây nhìn ra Tây và cũng nhìn thấy Ta. Từ đó, có kỹ nghệ lấy Tây và Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng.

Năm 1975. Mã Kiều Nhi bất chợt cảm thấy mình trở thành nhân vật trung tâm của toàn bộ cuộc cách mạng do Karl Marx khởi xướng. Bản thân nàng là một tuyên ngôn “vô sản thế giới hãy đoàn kết lại” trong mọi góc độ, chủ thể và đối tượng. Khám phá này nâng tầm Mã Kiều Nhi thành một thương hiệu toàn cầu và mang tính phổ quát. Chưa bao giờ Mã Kiều Nhi lại nhận được một thứ tình cảm tương lân như thế với tất cả nhân dân khi trên giường cũng như ngoài đường phố.

Không có quần áo đại cán hay công nhân lao động. Cũng không có linh hồn hay bản sắc. Mọi thứ trở nên đơn giản lạ kỳ.

Và đến khi bước vào thế kỷ 21, Mã Kiều Nhi đã trở thành đĩ quốc tế.

Có lúc nàng phải đến tận Hà Khẩu của Trung Quốc hay các khu đèn đỏ ở Campuchia, Singapore và Malaysia kiếm ăn. Hộ chiếu Việt vẫn có sự hấp dẫn riêng của nó.



2.

Chuyện ở Hà Khẩu.

Có anh nông dân muốn mua nàng mang về quê. Kiều Nhi bảo anh: “Em là đĩ, không làm vợ được.”

Anh nông dân khẩn khoản: “Anh cần có con nối dõi, em đẻ cho anh một thằng con trai, sau đó tùy em.”

Tuy nhiên, Kiều Nhi bảo anh nông dân đồng hương: “Nếu em chỉ có thể đẻ cho anh toàn con gái thì sao?”

Anh nông dân điềm nhiên: “Thì em sẽ phải tự biết cách xử lý. Anh cần một thằng con trai.”

Kiều Nhi hỏi: “Em sẽ được đền bù ra sao?”

Anh nông dân vẫn bình thản: “Đủ để cho em có một kỹ viện ở Bắc Kinh hoặc Hà Nội.”

Kiều Nhi bảo: “Cho em vài ngày suy nghĩ và thu xếp công việc.”

Anh nông dân nói: “Không, đi ngay bây giờ. Mọi thứ anh đã chuẩn bị rồi. Em có thể ra khỏi đây mà không sợ phiền hà gì.”

Kiều Nhi hiểu ngay mình đã gặp một tay anh chị thứ thiệt. Có thể là Sở Khanh, cũng có thể là Từ Hải. Hoặc hai trong một, vì thế có thể gọi anh nông dân này là Sở Từ.

Sở Từ đưa Kiều Nhi ra xe hơi. Đi nửa ngày đường, họ đến một thị trấn trên núi và đi qua cái cổng cầu kỳ vào một biệt thự thuộc vào loại đẹp nhất khu vực. Sở Từ nói với Kiều Nhi: “Hoặc em là bà chủ của ngôi biệt thự này, hoặc em sẽ là một con nha đầu mãn kiếp ở đây.”

Ở trong nhà thì tuyệt đối sung sướng, muốn gì cũng được, nhưng bước ra khỏi cổng đều có người đi theo. Kiều Nhi buộc phải trở thành cái máy đẻ. Rồi nàng cũng mang thai. Sinh con gái, Kiều Nhi không kịp thấy mặt con. Nó bị bóp cổ chết và ngâm rượu. Đó là loại rượu chỉ dành cho các đại gia muốn tẩm bổ quả thận và cầu mong ân sủng của vận hạn. Lần đẻ con thứ hai, may sao là con trai. Sở Từ giữ đúng lời hứa, Mã Kiều Nhi được giải phóng. Nàng ôm một đống tiền về Hà Nội mở quán bia ôm.

Mã Kiều Nhi nhờ Đạm Tiên tuyển tiếp viên và giao Đạm Tiên làm má mì quản lý các em. Không ai xuất sắc hơn Đạm Tiên trong việc này. Các anh giai muốn chân quê hay hiện đại đều được đáp ứng. Các kiểu cung đình phương Đông hay quái dị bạo lực phương Tây cũng đều được phục vụ chu đáo. “Tất cả thế giới trong tầm tay”, đó là slogan của nhà hàng đặc sản Kiều Tiên.

Sự thành công của Kiều Tiên khiến các bà Hoạn Thư trong Hội Liên hiệp Phụ nữ ganh tị và phản ứng quyết liệt. Kiều Nhi và Đạm Tiên phải vào trường phục hồi nhân phẩm với quyết định cấm hành nghề mại dâm vĩnh viễn.

Kinh tế thị trường với qui luật cung cầu tự nhiên, mặc dù được định hướng xã hội chủ nghĩa cũng không thể ngăn cản Kiều Nhi và Đạm Tiên tiếp tục hành nghề. Bởi xét cho cùng, xã hội phong kiến Khổng Nho cũng như xã hội xã hội chủ nghĩa đương đại, trong bản chất luôn tiềm ẩn những ức chế nội tại một cách nóng bỏng nhất. Vì thế nhu cầu về sự phóng thể trở thành tất yếu đối với toàn xã hội. Thực hiện hành vi tình dục là một giải pháp thuận tiện và đơn giản để giải phóng năng lượng và an ủi bản thân mang tính cá nhân. Đồng thời nó cũng là một hòa giải với căn tính đĩ mang màu sắc xã hội.

Kiều Nhi không bao giờ chết. Nàng tồn tại vừa như một bản thể vừa như một hiện tượng. Ngay chính Vương Thúy Kiều cũng không thể vượt thoát được cái mệnh bạc mà tráng lệ ấy khi tìm đến với cái chết trên sông Tiền Đường.

Để trốn tránh chế độ quản thúc tại địa phương, Kiều Nhi và Đạm Tiên lên rừng đầu nguồn phục vụ các anh giai đồng hương Trung Quốc. Nhưng tình trạng mang bầu khống liên miên do tinh trùng bột của niềm kiêu hãnh Hán hóa rơi vãi vô tội vạ khiến Kiều Nhi và Đạm Tiên phải bỏ chạy. Các em lại về trong vòng tay âu yếm của anh trai Việt. Kể từ khi gặp Nguyễn, Mã Kiều Nhi đã là người tình muôn thuở của tâm hồn Việt. Nàng vẫn dzin trên từng cây số. Vẫn mẫu mực trâm anh văn hóa thuần Việt.



3.

Mã Kiều Nhi có phải là tín đồ của Linga không? Nàng chẳng bao giờ thắc mắc về điều ấy. Nàng có cái vốn tự có và để cho Linga có thể là Linga như nó phải thế, cái Yoni của nàng tung tóe từ ngõ hẻm đến đại lộ như nó vốn là thế. Nhân phẩm của nàng. Dâng hiến và bị hãm hiếp.

Từ sâu thẳm, tất cả đều tôn thờ nàng. Nhưng tất cả đều miệt thị nàng. Vì thế, để xác lập quyền tồn tại và mưu cầu hạnh phúc, thậm chí mang hạnh phúc đến cho người khác, nàng luôn bành hai chân dạng háng uy nghi trước mọi nền văn minh nhân loại.

Mã Kiều Nhi kéo đầu từng người áp dí vào hĩm nàng. Nàng bảo đấy là niềm ân sủng vĩ đại nhất mà con người từng biết đến. Chẳng có lãnh tụ nào muôn năm như nàng. Thế nhưng Nguyễn vẫn bảo nàng mệnh bạc. Cái hạnh phúc thật của con người không phải vì đám đông, cho đám đông. Lẽ ra Vương Thúy Kiều phải thuộc về Nguyễn, hay Mã Kiều Nhi phải thuộc về tôi chẳng hạn. Nhưng cả Vương Thúy Kiều và Mã Kiều Nhi đều là người của bá tánh, vì bá tánh và cho bá tánh. Hồng nhan đa truân.

Cả Vương Thúy Kiều và Mã Kiều Nhi đều không có quyền chọn lựa.

Vì thế, Vương Thúy Kiều lại từ phong tình cổ lục lặng lẽ bước ra phong trần. Thúy Kiều đi theo Kiều Nhi và Đạm Tiên mở quán cà phê ôm, hớt tóc massage trên mọi nẻo đường quê hương của Nguyễn.

Cả ba vừa trực tiếp hành nghề, vừa tuyển thêm đào nương khi họ làm ăn phát đạt. Đạm Tiên vốn là ma nên nàng biết đi đâu để tìm các cô gái có nhu cầu muốn làm gái báo hiếu song thân. Sau khi được Vương Thúy Kiều phỏng vấn, nhiệm vụ dạy nghề cho các cô là của Mã Kiều Nhi.

Thúy Kiều hoàn toàn thất vọng vì tấm gương báo hiếu bán mình chuộc cha của nàng đã trở thành một lý do chính đáng biện minh cho sự xả thân của các cô. Không một cô gái nào bày tỏ ý muốn làm gái vì vinh quang của nghề hay bản chất đĩ tính của mình. Tất cả vì hoàn cảnh.

Mã Kiều Nhi nói: “Không một ai nhận trách nhiệm do mình và vì mình.” Vì thế việc dạy nghề của nàng cũng trở nên khó khăn hơn. Các cô gái không nhận biết được cái phẩm chất và lương tâm nghể nghiệp là phục vụ một cách bình đẳng tất cả mọi khách chơi, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ.

Đạm Tiên cũng bảo: “Không một cô gái nào nhìn ra làm gái là con đường duy nhất của mình.”

Nghề làm gái mất đi chất hồng nhan bạc mệnh và cái tài tình công phu của nghề, mà chỉ còn là một thứ lao động giản đơn thuần túy kinh tế thị trường. Vì thế, gái bán dâm cũng không còn là một cảm hứng thi ca như các nàng kỹ nữ xưa kia.

Nhưng nó vẫn là một quá trình văn hóa hình thành bởi các cuộc cách mạng công nghệ và ý thức hệ.

Vương Thúy Kiều, Mã Kiều Nhi và Đạm Tiên không những hành nghề bán dâm mà còn luôn đi cùng và đi trước thời đại, các em có mặt trong mọi thứ văn hóa phẩm từ phim XXX dị tính, đồng tính và lưỡng tính đến quảng cáo sex toy đủ loại để quảng bá và tạo nên một thị hiếu nghệ thuật sống mang tính xã hội hài hòa theo tinh thần triết lý chính trị của Hồ Cẩm Đào tiên sinh.

Tứ hải giai huynh đệ của Khổng Tử là chuyện vặt.



4.

Trong lúc đó, Kim Trọng vẫn yên bề gia thất và trung quân ái quốc, bất kể vật đã đổi sao đã dời. Tuy thỉnh thoảng chàng cũng tìm cách mua vui với Vương Thúy Kiều một vài trống canh. Lỡ khi Thúy Kiều kẹt trong mùa kinh nguyệt thì chàng tìm Mã Kiều Nhi. Và để cho có ý vị nhân sinh cao cả, chàng cũng thường thoát tục với Đạm Tiên trong cõi thiền. Tóm lại, còn vua còn mình, chàng đề huề sinh thái.

Thật ra, chỉ có Mã Kiều Nhi mới biết Kim Trọng thực hư thế nào. Vương Thúy Kiều không phải không biết, nhưng nàng vẫn cố giữ thể diện cho chàng. Vì thế, Kim Trọng cho đến muôn đời sau vẫn là một anh trí thức mà Mao Trạch Đông coi không bằng cục phân. Những cục phân ấy luôn tự an ủi mình trong cõi ta bà rằng “ăn cây nào rào cây ấy” theo đúng đạo nghĩa Nho gia.

Những gì Mã Kiều Nhi biết về Kim Trọng chỉ là vấn đề chất lượng đàn ông. Cái mà Đạm Tiên biết về Kim Trọng mới thực là con người và niềm tin của chàng.

Bí thư Tỉnh ủy là một trong các chức vụ không phải cao nhất của Kim Trọng nhưng lại mang đến cho chàng sự viên mãn nhất. Với chức vụ này, chàng đủ điều kiện để hủ hóa mang tính chất mặt trận tổ quốc, đồng thời thu vén được cả một gia tài cho con cháu hưởng lộc đến muôn đời sau. Sử sách ghi chép về giai đoạn này không kể xiết, thế hệ độc giả thời Google.com có thể truy cứu tài liệu với các từ khóa như “dự án”, “đất đai”, “mua quan bán chức”, “tham nhũng”, “lợi ích nhóm” hoặc “đảng”…

Nhưng để đạt được vinh quang, Kim Trọng đã phải nhờ đến Đạm Tiên.

Cứ mỗi cuối tháng âm lịch, Kim Trọng cùng Thúy Vân đều đến trước mộ Đạm Tiên cúng vái và cầu cơ. Nể tình Vương Thúy Kiều, Đạm Tiên giúp Kim Trọng tất cả những gì chàng muốn với một điều kiện duy nhất, Kim Trọng phải tự làm hình nộm khỏa thân của mình và hóa vàng xuống âm phủ cho nàng. Không ai biết ở thế giới bên kia Kim Trọng và Đạm Tiên có làm gì với nhau không, nhưng con người còn lại của Kim Trọng trên dương thế hoàn toàn bị bất lực trong vòng nửa tuần trăng mỗi lần như thế. Vương Thúy Vân không ghen, bởi vì nàng cần những thứ khác cũng không kém tình yêu của Kim Trọng.

Giải thích về điều này, Đạm Tiên chỉ bảo: “Nếu không vong thân tuyệt đối, anh ta sẽ không thể thành công trên cõi đời.” Riêng Vương Thúy Kiều lại nhìn nhận vấn đề cách khác: “Thật ra, Kim Trọng cũng chẳng vong thân tha hóa gì cả, con người chàng nó vậy.” Mã Kiều Nhi thì đơn giản hơn, nàng nói: “Anh Kim Trọng lúc nào cũng bo rất đẹp.”

Trong lúc Kim Trọng vẫn là một kẻ sĩ mẫu mực phục vụ chế độ hết mình hết trí khôn, vợ đẹp con ngoan, lợi dụng chức quyền vun vén tài sản; thì Từ Hải đã trở thành nạn nhân trong các vụ cướp cạn giữa ban ngày của đám vua quan như Kim Trọng.

Không sống được ở Trung Quốc, Từ Hải trốn qua Việt Nam cũng chung thân bất mãn. Trải qua nhiều triều đại, từ vô sản bần cố nông chàng đã đổi đời thành trí thức tiểu tư sản. Karl Marx, Lenin, Mao Trạch Đông và công an nhân dân không biết xếp chàng vào loại giai cấp nào để xử lý cho đúng. Về bản chất, Từ Hải vẫn là kẻ vô sản về mặt kinh tế xã hội, nhưng thái độ chính trị của chàng lại có những biểu hiện của kẻ ngang ngược và bất định của tên trí thức tiểu tư sản thành thị.

Từ năm 1956, cùng với phong trào Nhân văn – Giai phẩm, Từ Hải đã làm những bài thơ mang tính phản kháng và giễu cợt, nhưng thơ của chàng chỉ được đọc trong những lúc rượu vào lời ra, vì thế Đảng không chấp. Cũng nhờ thế, thơ của chàng trở thành một thứ tài sản chung được truyền tụng từ bàn nhậu này tới bàn nhậu khác. Đó là những năm tháng cùng quẫn nhất của đời chàng. Bất cứ một ý tưởng hay hành vi nào mang tính khác thường đều bị qui kết là chống chế độ. Mà chàng vốn là con người mang mầm mống chống đối từ trong máu. Giữ cho dòng máu ấy không vọt ra là một cực hình. Sự phẫn uất của chàng biến thành thơ và nỗi cay đắng của chàng biến thành sự u mặc. Cơm áo gạo tiền biến chàng thành ma cô của Thúy Kiều. Chưa bao giờ chàng lại cảm thấy số phận mình và Thúy Kiều hòa trộn vào nhau đến thế.

Càng nghĩ đến tình cảnh của mình, Từ Hải càng u uất. Chàng chìm đắm trong rượu. Nhưng để có rượu uống không phải lúc nào cũng hào hùng.

Năm 1970. Sau khi từ chiến trường miềnNamtrở về, Từ Hải lấy một cô bạn cùng khóa ở Đại học Sư phạm làm vợ. Nhờ gia thế nhà vợ và cũng nhờ cái lý lịch cựu chiến binh, Từ Hải xin được một chân biên tập của Thông tấn Xã. Cũng từ đây, chàng bắt đầu viết văn theo đúng tinh thần cán bộ chiến sĩ thi đua người tốt việc tốt và sinh hoạt chi bộ Đảng. Chàng quên hết những bài thơ châm biếm xưa kia, phục vụ Đảng tận tụy. Chàng dễ dàng có một chỗ đứng trong hàng ngũ Hội Nhà văn Việt Nam. Mọi chuyện thật tốt đẹp và tiếp tục tốt đẹp cho đến cả sau khi thống nhất đất nước.

Năm 1976 chàng chuyển vào Sài Gòn công tác. Được tận mắt và tiếp xúc với hàng đống sản phẩm văn hóa đồi trụy của miền Nam bày bán ở khu chợ trời đường Đặng Thị Nhu, Từ Hải hoa mắt vì các tựa sách mà trước đó ở miền Bắc có mơ cũng không thấy. Càng đọc càng choáng váng. Từ Hải nhìn thấy ánh sáng của tự do. Chàng mơ hồ nhận ra con người thật của mình đã ngủ quên bao năm. Nhưng chàng biết không thể đánh thức nó bởi cái con người thật ấy có thể sẽ làm chàng mất tất cả.

Bà cô bên vợ chàng vốn di cư từ 1954 đón tiếp chàng nồng hậu. Biết chàng thiếu thốn vì mới chân ướt chân ráo vào miền Nam, bà cho vợ chồng chàng tất cả những thứ cần thiết, từ quần áo, giày dép đến giường tủ, thậm chí cả một chiếc xe đạp, quạt máy và cái TV. Đó là một gia tài vĩ đại.

Khi nhà nước cho phép cán bộ, công chức được quyền tham gia hoạt động kinh tế, Từ Hải liền cải biến căn nhà của mình thành khách sạn cho thuê giờ. Cả Mã Kiều Nhi, Vương Thúy Kiều và Đạm Tiên đều dẫn khách đến khách sạn của Từ Hải. Vừa là chỗ thân tình, vừa cũng là để giữ mối, giá thuê phòng của ba nàng được Từ Hải bớt 20%. Tuy nhiên, mỗi lần dẫn mối cho họ, Từ Hải đòi ăn chia 40% tiền cò.

Vốn trải nghiệm của Từ Hải về cuộc sống đặc biệt phong phú, nhất là với giới hồng nhan. Vì thế, Từ Hải vẫn ôm giấc mộng viết một tác phẩm lớn về cái gọi là Vina-đĩ như một biểu tượng văn hóa người Việt. Nhưng mỗi lần cầm bút, Từ Hải lại nhớ đến Hồ Tôn Hiến, nhớ đến cái nhục chết đứng của mình, chàng mượn rượu chém gió.

Năm 1972. Không biết từ nỗi ghen ăn tức ở nào, Từ Hải bị vu cáo đã hợp tác với địch khi cùng đồng đội chiếm đóng Huế năm 1968.

Tất cả bạn bè đều sợ hãi xa lánh chàng. Chi bộ Đảng họp kiểm điểm. Công đoàn họp kiểm điểm. Chi Hội Nhà báo họp kiểm điểm. Chi Hội Nhà văn họp kiểm điểm. Ai cũng cố tìm một điều gì đó để kết án chàng. Ai không phát biểu thì được yêu cầu phát biểu, nếu không có ý kiến sẽ bị qui kết thành đồng lõa.

Từ Hải không nhớ mình đã phải viết bao nhiêu bản tự kiểm. Từ Hải không biết phải chống đỡ kiểu gì. Chàng suy sụp. Nguy cơ bị đuổi ra khỏi cơ quan đã ở trước mắt, không kể chàng có thể bị bắt.

Từ Hải ngủ không được, nuốt không vô. Những ảo ảnh bay lượn. Hệ thống phản xạ của cơ thể bị tê liệt. Đàm rãi nhổ không ra, mỗi lần như thế chàng phải há miệng cho sự kinh tởm tự động rớt xuống đất. Chàng cũng không thể đứng đái. Nước tiểu chỉ có thể thoát được khi chàng ngồi xuống như đàn bà.

Tuyệt vọng và liều mạng, Từ Hải không đến cơ quan nữa. Chàng đến nhà Thúc Sinh tìm sự cứu giúp. Bấy giờ Thúc Sinh đã là một ông lớn trong Ban An ninh Nội chính. Bà Hoạn Thư tiếp đãi chàng ân cần như người nhà. Thuở ấy, gia đình bà có tiêu chuẩn vào cửa hàng mậu dịch quốc tế. Từ Hải biết bọn ở cơ quan chỉ là một lũ thượng đội hạ đạp, nên chàng bảo Hoạn Thư cần gì chàng đi mua giùm, rồi chàng mang đống đồ của Họan Thư mua theo chế độ đặc biệt đến vất trên bàn mình ở cơ quan. Bọn chúng nhìn thấy đống đồ xa xỉ và cao cấp ấy đều chóa mắt và xanh mặt, dù đó chỉ là mấy thước vải ni-lông, chai mật ong và dăm ổ bánh mì. Chúng hiểu thông điệp của chàng. Và rồi chúng biết chàng là chỗ quen biết với Thúc Sinh. Thế là án oan quan hệ với CIA của chàng tự nhiên chìm vào quên lãng.

Mọi mối quan hệ của chàng trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết.

Năm 1968, Từ Hải có mặt ở Huế. Không như những nhà văn, nhà báo ngồi ở Hà Nội thêu dệt về những người dân Huế mặc áo mới hân hoan đón đoàn quân giải phóng, dân Huế đã sợ hãi bỏ chạy như tất cả những nơi có chiến sự. Cho dù chỉ chạy loanh quanh. Nhưng quan trọng hơn, Từ Hải thấy dân chúng sợ Việt cộng, sợ mình. Hiện thân của súng đạn và tử thần. Rồi Từ Hải ngỡ ngàng. Chàng đâm ra trắc ẩn. Và chàng đã chia sẻ. Từ Hải nhường phần ăn của mình cho một gia đình đang đói. Chẳng may gia đình ấy là một gia đình “ngụy quyền”. Một đồng đội báo cáo cho cấp trên. Sự nhân đạo được suy diễn và nâng thành quan điểm. Nó trở thành một vết đen trong lý lịch của chàng. Và trở thành cái cớ cho những kẻ thù trong Đảng đánh chàng.

Không những thế, Từ Hải còn bị rắc rối vì một chuyện khác. Cũng năm 1968 ở Huế, chàng báo công đã cứu một anh cán bộ rất nổi tiếng trong phong trào đấu tranh của sinh viên Huế bằng việc dùng dao lam cạo râu mổ an toàn lấy viên đạn ra khỏi chân anh ta. Sau này, anh cán bộ nằm vùng cũng ra Bắc. Anh ta lại báo cáo một người khác đã cứu mình trong chiến dịch Mậu Thân ở Huế. Đó chính là thủ trưởng của anh ta. Từ Hải nghe, chỉ còn biết chửi thề.

Từ Hải vẫn nhớ mãi tâm trạng hụt hẫng của mình khi rút khỏi Huế. Một số đồng đội của chàng rời hàng ngũ “hồi chánh” theo địch. Chính chàng cũng đã nhìn thấy một phần của một sự thật khác về cái miền Nam trong “kìm kẹp Mỹ ngụy” không như mình vẫn tưởng. Lá cờ Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam trên kỳ đài Ngọ Môn bị máy bay trực thăng của quân “ngụy” bắn tơi tả.

Từ đó, khi Thúc Sinh nhờ chàng đưa các em Mã Kiều Nhi, Vương Thúy Kiều, Đạm Tiên đến phục vụ các loại thủ trưởng, chàng đã rất thản nhiên.

5.

Mã Kiều Nhi nói với tôi: “Em tuổi gà và cũng như gà, em đi tìm giun, không thấy giun mà chỉ thấy dây thun. Biết là dây thun nhưng vẫn nuốt.”

Tôi nói: “Anh cũng chỉ là một thứ dây thun thôi. Nuốt vào thắt ruột chết đấy.”

Kiều Nhi bảo cũng chả sao. Nàng khoe vú: “Hàng chuẩn.”

Tôi nhìn-cười-bảo: “Tuyệt.”

Kiều Nhi nói: “Cho hôn đấy.”

Thúy Kiều bất ngờ xuất hiện: “Hàng của nó chỉ là thứ phẩm thôi. Đây mới là hàng xịn.” Rồi nàng cũng vạch vú ra.

Tôi bảo: “Siêu phẩm.”

Nhưng khi Đạm Tiên khoe hàng, ngôn ngữ bỗng trở nên ú ớ. Đạm Tiên dịu dàng: “Nếu anh không đủ đức tin thì cứ bóp thử.”

Tôi không phải Tô-Ma của Chúa Giêsu, nên tôi tin. Đây là thứ ảo tượng ma quái, nó chỉ tùy thuộc vào cái cảm thức tiên thiên về bản chất của hiện tượng. Vì thế, bóp hay không bóp cũng không khác gì nhau. Tôi nói: “Anh chỉ bóp khi biết chính xác nó là thật. Và vì anh biết nó là thật nên không cần bóp thử.”

Đạm Tiên hỏi: “Vậy thì anh muốn gì?”

Tôi nói như một người đàn ông chân chính: “Anh muốn nó là của riêng anh.”

Đạm Tiên cười: “Không bao giờ. Nó là của riêng em và em muốn phân phát nó một cách rộng rãi nhất. Nếu anh muốn, anh cũng có phần.”

Tôi lắc đầu: “Anh ăn bánh trả tiền.”

Đạm Tiên lại cười: “Anh là đồ dây thun. Nhưng em không xài tiền âm phủ.”

Bất ngờ, Thúy Kiều xen vào: “Em biết anh hợp với tuổi gà. Em cũng tuổi gà đấy.”

Đạm Tiên nói: “Em cũng là gà thích nuốt dây thun.”

Cái dây thun của tôi bị kéo căng ra. Ba con gà mái dầu mổ tôi gãy xương sườn.

Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm dưới đất trong một căn nhà trống trơn. Nhưng tôi lại nghe thấy những âm thanh kỳ lạ phát ra từ bốn bức tường, trên trần và dưới nền nhà. Đó là tạp âm không thể phân biệt giữa những tiếng rên sung sướng và đau khổ. Tôi cũng ngửi thấy mùi hiu hắt của đất thó, mùi tanh tưởi của tinh trùng, mùi nếp chín nồng nồng của âm hộ. Tôi có cảm giác như trong âm ty, nhưng ánh sáng bình minh đang rực rỡ chiếu qua khung cửa. Tôi đã qua một đêm hay nhiều đêm cũng không thể kiểm chứng. Tôi thử cử động chân tay. Rồi tôi xoay người ngồi dậy. Đây là thực tại. Những bức tường trắng vẫn rầm rì những âm thanh của thống khoái và đọa đày. Và tôi nhìn thấy những bức tường oằn oại. Không phải ảo giác.

Mã Kiều Nhi hỏi: “Anh nuôi em được không?”

Tôi nói: “Nếu em độ cho anh trúng số.”

Kiều Nhi nói: “Em chỉ có thể độ cho anh giải thoát thôi.”

Tôi bảo: “Nhưng anh còn muốn tục lụy.”

Kiều Nhi nói: “Vậy thì anh nên sống với Thúy Kiều.”

Tôi bảo: “Anh không thích tính cách của Thúy Kiều. Mặc dù Thúy Kiều là một mẫu đàn bà nhân hậu.”

Thúy Kiều bước ra khỏi bức tường. Tôi không còn nghe thấy những âm thanh rầm rì nữa. Thúy Kiều nói: “Em vẫn luôn là một người yếu đuối.”

Tôi nhìn Kiều. Giống như lúc Kiều ngồi ở lầu Ngưng Bích. Mặt nàng nhợt nhạt. Sương khói. Tôi cảm thấy ái ngại. Nhưng tôi có thể làm gì? Tôi không phải Thúc Sinh, Sở Khanh hay Từ Hải. Tôi không thể đeo mang số phận người khác. Tôi là kẻ nhìn ngắm. Kẻ chơi chạy. Kẻ phá hủy.

Đạm Tiên ở dưới đất chui lên. Nàng như lửa. Tôi nói: “Em biến anh thành kẻ tham lam.”

Nhưng Đạm Tiên cười: “Anh không biết lượng sức mình.” Ừ, có lẽ tôi chỉ nói cho sướng miệng. Tuy thế, Đạm Tiên vẫn đốt tôi bừng bừng cháy. Đạm Tiên là ân huệ, nàng đẩy tôi tới một cảnh giới trừu tượng mê hoặc. Không còn biết mơ hay thực. Và tôi không phân biệt được ai là Mã Kiều Nhi, ai là Vương Thúy Kiều, ai là Đạm Tiên. Tôi bơi trong một không gian lỏng. Mất trọng lực.

Thúc Sinh bảo sân khấu chính trị bây giờ chỉ toàn bọn sâu bọ và ngu dốt, thằng nào có tư cách một chút thì lại mê gái. Mã Kiều Nhi bảo: “Đàn ông mê gái mới là người có tư cách.”

Thúc Sinh nói thêm: “Thế nhưng, những người đàn ông đích thực ấy lại bị bọn âm binh biến thành nhơ bẩn.”

Đạm Tiên hỏi: “Anh không phải là phù thủy của bọn âm binh sao?”

Thúc Sinh nói: “Anh về hưu rồi.”

Đạm Tiên bảo: “Các bác về hưu đều rách chuyện.”

Thúc Sinh cười trừ: “Đấy là vấn đề thuộc về cơ chế em ạ.”

Đạm Tiên nói: “Em là ma nên em đi guốc trong bụng tất cả các anh. Các anh chỉ khác nhau ở chỗ thật hay giả.”

Thúy Kiều xen vào: “Em không quan tâm chuyện thật hay giả. Em tin tất cả những ai đến với em, cho dù họ cứng hay mềm.”

Tôi thường xuyên mất trọng lực.

Thúc Sinh quàng tay ôm vai Thúy Kiều, nói: “Nếu như có thể bắt đầu lại, chắc chắn tôi sẽ làm khác, sống khác.”

Từ Hải hỏi: “Anh biết sai từ bao giờ?”

Thúc Sinh đáp: “Ngay sau khi vào Đảng.”

Từ Hải lại hỏi: “Đảng sai từ bao giờ?”

Thúc Sinh đáp: “Ngay sau khi thành lập.”

Từ Hải hỏi tiếp: “Người thành lập Đảng sai từ bao giờ?”

Thúc Sinh im lặng một lúc rồi nói: “Từ Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp tại Tours tháng 12.1920, gia nhập Cộng sản Quốc tế thứ ba và trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp.”

Từ Hải nói: “Đáng lẽ chúng ta chỉ nên vui chơi.”

Thúc Sinh nói: “Cách mạng cũng là một cuộc chơi.”

Từ Hải bảo: “Chúng ta mất quá nhiều.”

Vương Thúy Kiều nói: “Cả hai anh đều không còn giống như hồi mới gặp em.”

Đạm Tiên nói: “Nếu không có Mao Trạch Đông thì các anh vẫn phong kiến.” Thúc Sinh cười: “Thời đại Mao Trạch Đông chỉ là bình mới rượu cũ. Vẫn là một thứ trung quân ái quốc vô điều kiện. Chuyên chính hơn vì thế cũng ít nhân tính hơn.”

Mã Kiều Nhi nói với tôi: “Từ Hải đã biến thái. Thúc Sinh cũng biến thái.”

Tôi bảo: “Anh cũng biến dạng.”

Mã Kiều Nhi cười: “Anh từ xấu giai đến xấu lão.”

Tôi cũng cười: “Lẽ ra, đàn ông khi về già thường đẹp hơn nhờ từng trải và tự tại.”

Mã Kiều Nhi nói: “Anh xấu vì lúc nào cũng thảng thốt.”

Tôi bảo: “Anh tưởng mình nham nhở.”

Mã Kiều Nhi xoa đầu tôi: “Thực ra, anh rất dở hơi.”

Tôi ngả đầu vào lòng Mã Kiều Nhi: “Đó là những vết thương. Những cơn đau bất chợt. Và ám ảnh bởi cái chết.”

Mã Kiều Nhi hỏi: “Tại sao lại có những vết thương. Chiến tranh ư?”

Tôi nói: “Không. Nạn nhân của hòa bình.”

Mã Kiều Nhi nói: “Em không hiểu.”

Tôi bảo: “Giết người hay phủ nhận người khác trong hòa bình bao giờ cũng tàn nhẫn hơn thời chiến, bởi nó vô lý và vô nhân tính. Chúng ta bị giết mỗi ngày. Điều này không phải ai cũng nhận ra.”

Mã Kiều Nhi lắc đầu: “Em không quan tâm. Nhưng em lo nghĩ về anh.” Nàng nói thêm: “Anh cần được thoải mái.”

Tôi không nói nữa. Và tôi nằm xuống.

Bốn bức tường xung quanh tôi lại rầm rì.

Tôi nghe những tiếng đàn ông huyên thuyên. Đè lên nhau. Đan xéo nhau. Mỗi lúc một dày hơn. Và rồi không còn những bức tường xi măng nữa, chỉ là những tiếng nói dựng lên, bao kín. Những bức tường tiếng nói che khuất tôi, hay che khuất chung quanh. Và rồi nó trở nên quá mức chịu đựng. Tôi muốn hét lên. Nhưng tôi hét không ra tiếng. Đúng lúc ấy, tôi thấy Mã Kiều Nhi đè lên tôi.

Rồi tôi nghe những tiếng chạy thình thịch trên mặt đất. Người tôi nẩy lên. Tôi cần thoát ra khỏi chỗ này. Tôi nghĩ thế, nhưng tôi bất lực. Mã Kiều Nhi vẫn đè trên tôi. Mùi của nàng thiên cổ.

Tôi mở mắt. Đạm Tiên đứng trên đầu tôi. Ở tư thế nằm, tôi thấy Đạm Tiên sừng sững và đang trút xuống, như thác.

Tôi muốn nói: “Em đừng biến đi”, nhưng tôi nói không thành lời. Rồi người tôi bỗng nhẹ hẫng.

Mã Kiều Nhi nói: “Anh cứ nằm nghỉ đi.”

Thế giới quanh tôi như không có, chưa có. Khởi thủy chỉ có lời. Nhưng lời không hiện diện. Tôi há miệng cho lời tuôn ra. Nhưng chỉ có gió. Gió thông suốt từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong. Tôi xoay người nằm nghiêng. Vẫn chỉ thấy gió.

Từ Hải hỏi Thúc Sinh: “Làm thế nào để sửa sai?”

Thúc Sinh nói: “Có hai cách. Một là ra khỏi Đảng. Hai là xóa bỏ Đảng.”

Từ Hải lắc đầu. Ý nghĩ ấy chưa bao giờ có trong đầu chàng. Từ Hải hỏi: “Không có cách thứ ba sao?”

Thúc Sinh nói: “Tất cả các cách còn lại đều vô ích.”

Từ Hải hỏi tiếp: “Anh chọn cách nào?”

Thúc Sinh nói: “Không chọn cách nào cả.”

Từ Hải hỏi mà dường như không nhắm vào ai: “Vậy thì chúng ta đang vui chơi, hay làm cách mạng?”

Thúc Sinh cười, nói: “Chúng ta đang kiếm ăn.”

Từ Hải bỗng tràn ngập một mối hoài cảm về cái ngày chàng đầu hàng Hồ Tôn Hiến. Niềm tin chỉ dành cho bọn ngây thơ. Cùng lúc, Thúc Sinh có một niềm hưng phấn khác, bảo: “Bất kể thời đại nào, buôn thần bán thánh, hoặc mua quan bán chức đều rất ngon ăn. Cậu nên theo tôi.”

Từ Hải nhớ lại việc Vương Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha, chàng quyết định theo Thúc Sinh. Họ môi giới buôn bán từ một chỗ làm nhỏ mọn đến những địa vị cao sang nhất. Họ ăn tiền cò cả bên bán và bên mua. Và họ còn được cả ơn nghĩa.

(Còn 4 kì)

© 2013 Nguyễn Viện & pro&contra








Tác phẩm đã xuất bản:






1
Trinh nữ

(tập truyện). NXB Thời Văn, 1995. Việt Nam.







2
Bố mẹ và con và…
(tạp bút). NXB Trẻ 1997. Việt Nam.







3
Hạt cát mang bóng đêm
(tiểu thuyết). NXB Trẻ 1998. Việt Nam.







4
Rồng và Rắn
(tiểu thuyết). Tổ hợp xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2002. Hoa Kỳ.
http://tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=9009






5
Thời của những tiên tri giả
(tiểu thuyết). NXB Công An Nhân Dân, 2003. Việt Nam.


6
Chữ dưới chân tường
(tiểu thuyết). NXB Văn Mới, 2004. Hoa Kỳ.







7
26 LầnTờ Bờ Lờ
(tiểu thuyết). NXB CỬA, 2008. Việt Nam.

http://tienve.org/home/books/viewBooks.do?action=viewArtwork&artworkId=9020








8
Cơn bấn loạn bằng phẳng
(tiểu thuyết). NXB CỬA, 2008. Việt Nam.











10
Nín thở & chạy & một hơi
(thơ). NXB CỬA, 2008. Việt Nam.







11
Đi & Đến
(tập truyện). NXB CỬA, 2009. Việt Nam.








12
Ngồi bên lề rất trái
(truyện & kịch). NXB CỬA, 2011. Việt Nam.









13
Nhảy múa để chết
(tiểu thuyết). NXB Tiếng Quê Hương, 2013. Hoa Kỳ.









14
Đĩ thúi
(tiểu thuyết). NXB CỬA, 2013. Việt Nam.









15
Đĩ thúi & phần còn lại ở cõi chết
(tiểu thuyết). NXB Chương Văn, 2015. Hoa Kỳ.









16
- Thảo mai trên dốc gió
(tiểu thuyết 2020)









17
Trong hàng rào kẽm gai tôi thở
Thơ








18
Ma & Người
Tiểu thuyết








19
Thần thánh không biết bơi











20
Cõi Người Ở Lại












21
Nu Na Nu Nống Xứ Mê Man

(tập truyện cổ tích mới 2019)







22
Ở Phía Đông Âm Phủ
(Nxb Tiếng quê Hương 2024)















Tác phẩm chưa xuất bản:




- Của mặt đất sấm sét
(thơ 2021)



- 36 bài tụng ca nhục cảm
(thơ 2021)












Cơn Đau Thắt Giữa Hai Đùi


Đứng trong phòng tắm, trên tay cầm lưỡi dao lam vừa được bóc ra khỏi tờ giấy bọc, chờ cho đôi mắt có ánh xanh của quỉ liếm xuống lưỡi dao xong, nó đặt lưỡi dao lên chiếc bồn rửa mặt, tụt quần xà lỏn xuống. Tay trái nó cầm con cu kéo dài ra, tay phải cầm lại con dao lam. Đôi mắt có ánh xanh của quỉ khép chặt. Miệng nó mím lại. Máu xối ra, không có một âm thanh nào khi con cu bị lưỡi dao sắc lẻm cắt ngọt, ngoài tiếng hét trong đáy lòng nó. Tiếng hét kéo dài trong lúc cái đầu mẩu của con cu vẫn nằm trong hai ngón tay của bàn tay trái. Nó ngất đi trong phòng tắm. Tiếng hét đau đớn vẫn vang vọng. “Em phải lên đường thôi. Bỏ lại cơn chán chường. Bỏ lại những thói quen cũ. Bỏ lại những gương mặt lờ nhờ không khí sắc”. Anh tự pha cho mình một ly café và ngồi xuống. Ngày chủ nhật không có Chúa. Anh không biết phải sống thế nào trong những ngày này. Ông anh cao quí phát hiện ra nó nằm giúm dó trong buồng tắm, máu lênh láng. Mang đi cấp cứu, con cu nó được gắn lại. Ông anh bảo mày là đàn ông, cần phải chứng thực mày trong cái lỗ của đàn bà. Nó nói không phải, tôi là đàn bà. Hãy cho tôi là đàn bà. Ông anh tát cho một cái nói mày làm nhục gia đình. “Em sẽ đi Cali. Lang thang ở đó một tháng. Em cần bình tĩnh lại”. Ly café đã nguội rồi. Anh vẫn ngồi ở chỗ quen thuộc và người bốc khói. Ở giữa hai đùi, bởi một sức trì kéo sâu thẳm, cái mu trơn láng từ từ lõm xuống rồi rách ra thành một cái khe. Ở giữa cái khe có một nỗi khao khát. Người nó toát mồ hôi. Bác sĩ ơi, làm ơn giải phẫu cho tôi. Hãy cho tôi là đàn bà. Bác sĩ bảo đâu cần thiết phải thế, cậu cứ đến rạp hát Vườn Trầu, ở đó sẽ có những người giải quyết cho vấn đề của cậu. “Em rất nhớ những ngày lang thang ở Sài Gòn. Những lần nhậu suốt đêm với lũ thiên tài loi choi. Giờ đây chỉ có một mình em vật lộn với những thứ thủ tục vớ vẩn”. Anh sợ đến lúc sẽ phải gục xuống vì mệt mỏi. Em có muốn anh tả cảnh cho nghe không? Nắng nhạt và lòng hoang mang. Khí hậu Sài Gòn dường như đang thay đổi. Anh nghĩ nếu có em, thì em lại bảo có điều gì không thay đổi đâu. Trong rạp không nhìn thấy người nhưng vẫn nghe thấy những tiếng rúc rích. Nó ngồi đại xuống một chiếc ghế. Trên màn ảnh những chiếc xe đuổi nhau. Tiếng bánh xe rít trên mặt đường ken két như tiếng người ta bú nhau. Một người giống đàn ông ngồi xuống bên cạnh, hắn nói nhỏ máy lạnh lạnh quá, rồi sờ vào đùi nó vuốt ve nhè nhẹ. Một cảm giác rờn rợn chạy khắp người. Bất thình lình bàn tay ấy bóp mạnh cu nó. Nó hất bàn tay đó ra. Người giống đàn ông ấy nói: “Em thương anh mà, sướng đi anh”. Nó đứng lên rời khỏi rạp. Những con chim mang mầm bệnh bay từ phương bắc xuống trốn rét đậu kín trên mặt đường. “Em nhận ra tự do chỉ là ảo tưởng”. Nhưng con người cần có ảo tưởng để sống. “Tình yêu cũng là một ảo tưởng”. Và điều ấy đẹp đẽ biết bao, phải không? “Em không nghĩ thế”. Bác sĩ ơi, tôi cần một người đàn ông thật sự yêu tôi như tôi là một người đàn bà. Thì cứ đến rạp Vườn Trầu thử xem. Nó lại đến rạp Vườn Trầu. Có một người đàn ông tụt quần nó ra và ấn con cu của hắn vào lỗ đít nó. Không phải chỗ ấy, nó kéo quần lên bỏ chạy. “Em đã gặp nhà văn Moris. Cám ơn anh đã giới thiệu. Em phải thú nhận rằng, bà ấy cũng chẳng có gì ghê gớm”. Không, anh chỉ muốn nói là bà ấy “dễ thương”. “Đấy là một từ đểu. Em không có ý định yêu bà ấy”. Vậy thì em có ý định yêu anh không? “Vì anh dễ thương?”. Từ nhà nó đến bệnh viện gần mười cây số. Đã gần mười năm, ngày nào nó cũng đáp xe buýt đến gặp ban giám đốc bệnh viện với một thỉnh cầu duy nhất xin giải phẫu chuyển đổi giới tính. Ban giám đốc bệnh viện bảo không có thẩm quyền giải quyết. Cậu nên đi Thái Lan, giá cũng không đắt lắm. Ba má ơi, cho con tiền đi Thái Lan. Mày điên à? Anh chị ơi, cho em tiền đi giải phẫu. Kiếm đâu ra tiền mà cho mày. Bác sĩ ơi, y tá ơi xin giúp tôi. Chúng tôi có muốn cũng không thể giúp cậu, bởi chúng tôi không được phép. Vậy thì tôi phải xin phép ở đâu? Cậu thử lên sở y tế xem. Ông sở y tế ơi, cho phép tôi thành đàn bà. Cậu đừng giỡn chơi như thế, cho phép cậu là đàn bà hay đàn ông thuộc thẩm quyền của ông hộ tịch bên sở tư pháp. Ông hộ tịch sở tư pháp ơi, cho phép tôi thành đàn bà. Cái này chưa có chủ trương, để chúng tôi xin ý kiến bộ. Bạn anh bảo: “Một mặt, chúng ta phải chu tất cho bản năng mình được thỏa mãn. Mặt khác, chúng ta cũng có nghĩa vụ dâng hiến mình cho sự thỏa mãn của nhân loại”. Anh nghĩ, làm tình với em, trong cùng một lúc anh hoàn tất được cả hai đòi hỏi ấy. “Anh ạ, đấy là sự gian lận”. Tại sao lúc nào em cũng nói năng nghiêm trang? “Vì em là con gái”. Không phải thế, là con gái thì em phải đưa đẩy giăng câu lừa đảo. Người đàn ông từ nguyên thủy đã là kẻ mắc bẫy. Ông bác sĩ không đeo kính, không trắng trẻo, không bảnh bao. Trông ông ta như một gã thợ đục. Nhưng ông ta có một giọng nói trầm ấm. Bác sĩ ơi có thương em không? Bác sĩ mổ cho em nhé. Em sẽ trở thành người đàn bà của bác sĩ. (Cu nó dựng lên). Bác sĩ cắt bỏ nó đi nhé. (Máu chạy rần rật hai bên thái dương). Bác sĩ khoét cho em một cái lỗ để em được ôm ấp bác sĩ trong ấy. (Hai bàn tay nó để kẹp giữa hai đùi). Bác sĩ bóp cho hai vú em to lên. Em sẽ mặc những cái xú chiêng đẹp nhất, những cái quần lót xịn nhất. Bác sĩ thích gì em cũng chiều. “Hãy kể cho em nghe anh đang làm gì”. Anh chỉ muốn nói anh đang sống thế nào. Phía trước anh là một khoảng trống, phía sau anh cũng là một khoảng trống. Trên đầu anh là em. Dưới chân anh là sâu bọ. Bên phải anh có một người đeo kính đen. Bên trái anh có một người đội mũ. Anh có thừa không khí để thở, mặc dù không khí ấy có mùi của những con bọ xít. Thực chất em là đàn bà. Bởi thế em yêu anh, em cần anh. Em muốn được anh ôm ấp. Em muốn được nghe giọng nói ngọt ngào của anh. Em sẽ tặng anh tấm hình em để tóc dài nhé. Gã chụp hình bảo em giống con gái lắm. Thì em chẳng là con gái là gì. Anh có thích không? Em muốn được hiên ngang đi với anh giữa phố. Em muốn cho tất cả mọi người biết em là đàn bà, mà là người đàn bà được anh yêu cơ đấy. “Em sẽ đến với anh khi nào em thấy cần thiết”. Người đội mũ đã chuyển sang bên phải. Và tất nhiên người đeo kính đen sẽ phải đổi chỗ sang bên trái. Trên đầu anh vẫn là em. Em không cảm thấy cần thiết ngồi như thế ư? “Tất nhiên là không. Ngồi như thế em có thể nhìn thấy rất xa, nhưng thật sự em cũng chỉ muốn nhìn gần”. Em đã nhìn thấy anh uống rượu. Những lỗ chân lông trên khuôn mặt anh nở ra rất to giống như một cục đá ong, nóng bỏng. Khuôn mặt ấy áp xuống bụng em. Và bụng em to dần lên mang thai anh. Em muốn mang thai anh suốt đời em. “Cây chùm gửi đã chết. Mặt đất nứt nẻ thoát ra những ánh chớp. Em nhớ bữa đi ăn cơm trưa với anh và anh đã rủ em về khách sạn ngủ”. Ngủ cũng là một từ đểu. Khép đôi mắt lại, bao giờ anh cũng thấy lửa bừng lên như rừng cháy. Bẽ bàng thay, anh vẫn ngủ với em trong dự cảm của sự khước từ. Theo cách ấy thì việc em có mặt hay không cũng là hiện hữu như nhau. Nhưng dẫu sao, anh vẫn mong ước em thật sự ngủ với anh. “Làm tình hay an nghỉ?”. Không có gì khác nhau giữa hai điều ấy. Người bảo vệ bệnh viện chặn lối không cho nó vào. Ông ta nói: Cậu không được đến đây quấy rầy. Tại sao lại nói tôi quấy rầy? Chúng tôi không giải thích nữa, cậu về đi. Nó rút con dao Thái Lan ra bảo nếu không cho tôi vào, tôi sẽ tự cắt ngay tại đây. Đấy là quyền của cậu. Nó cởi cúc quần. Người bảo vệ quay mặt đi. “Ở đây có rất nhiều người hát rong và người điên. Sáng nay em đã cảm thấy vui lên khi mường tượng ngồi uống café với anh”.


(9.2.2004)













Kịch






Đất Thánh





Diễn Từ Của Cái Chết





*




Đối thoại

Hoàng Sa & Trường Sa 2007-2008 : Lời ai điếu cho một dân tộc













*





Tham khảo thêm về tác giả Nguyễn Viện










Nguyễn Viện với Rồng và rắn


Tổ hợp xuất bản miền Ðông Hoa Kỳ cuối năm 2002 đã trình làng một tác phẩm lạ, một tên tuổi mới: Nguyễn Viện, vừa xuất hiện trên văn đàn hải ngoại vài năm gần đây. Tác phẩm Rồng và rắn của Nguyễn Viện hồm 4 tiểu thuyết: Thời của những tiên tri giả, Ðâm sừng vào bóng tối, Người dẫn đường đã tới và Rồng và rắn, cũng có thể gọi là bốn truyện vừa. Ðặc biệt bốn truyện này cùng có cấu trúc song song, tức là mỗi truyện kể ít nhất với hai giọng, "quay" bằng hai ống kính khác nhau.

Thời của những tiên tri giả thể hiện dưới ánh mắt và qua giọng nói của một người đàn bà có chồng đi tập kết, đồng thời còn một lăng kính, một giọng nói khác, có lẽ là của một tiên tri -không biết giả hay thật- nhái giọng Thánh kinh hay Sấm trạng, vừa bình, vừa phê, lúc triết lý, lúc bảo ban dạy dỗ, khi an ủi, kêu nài, lúc mỉa mai, châm biếm, nguyền rủa ... tuồng như bên ngoài, bên trên cõi đời còn có con mắt của một thứ tiên tri, thứ Sấm trạng, đội lốt Thượng Ðế, vừa phán xét, vừa đe dọa. Những "sấm-kinh" ấy nói gì, đây là một đoạn:

"Trái đất lăn trên sợi dây treo của lòng tham vọng. Hãy bắn đi, bắn đi. Ðừng lo thiếu đạn vì đạn giải quyết việc làm cho hàng triệu công nhân, vì đạn mang lại sức mạnh cho một dân tộc vĩ đại và niềm tự hào cho nền văn minh nhân loại." (trang 19)

Lời sấm này có thể gẫm ngay vào trận chiến Iracq bây giờ, hoặc cuộc chiến Việt Nam ngày trước, nó mô tả những sắc thái của một "dân tộc vĩ đại" mà lòng tham vọng trở thành căn cứ phát xuất các cuộc oanh tạc con người.
Vẫn giọng kinh ngôn ấy, có lúc kêu gào: "Hãy đứng sau lưng tôi, hỡi đồng bào, tôi cam kết không bỏ chạy. Tôi sẽ bắn tới viên đạn cuối cùng" (trang 17). Ở đây, lời "sấm" đã trở thành lời hứa cuội của kẻ giả hình thượng đế, và ngay sau đó, một siêu thượng đế khác phán xét: "Ðừng tin những gì thằng khùng nói, hãy nhìn những gì thằng khùng làm." (trang 17)

Những tiếng "sấm" trên đây, rơi vãi trên dọc đại lộ kinh hoàng Pleiku - Phú Bổn, cuối tháng tư, Cao nguyên, triệt thoái. Một cuộc chạy đua với tử thần, mà đủ loại ma, quỷ, xen lẫn với loài người, trà trộn giọng thánh kinh vang lên, như vừa muốn mô tả cảnh tượng hỗn loạn, lại muốn hăm dọa chúng sinh trước ngày tận thế:"Cơn thịnh nộ của một đấng toàn hảo đang giáng xuống. Trong bóng tối, cả người tỉnh thức và ngủ mê đều bị co giật. Mọi cơn mơ sẽ trở nên trống rỗng vì linh hồn bị tách lìa khỏi thân xác đã không tìm được lối quay về." (trang 25)
Nhìn sang phía chiến thắng, tiên tri cảnh báo một tương lai "sáng ngời", đầy phúc lợi và văn minh, hoang tưởng: "Chân trời của chúng ta đang đi tới có kính thiên văn lớn nhất thế giới. Chúng ta sẽ bắt được tín hiệu của mọi hành tinh trong vũ trụ và sẽ làm chủ cả vũ trụ bởi chúng ta là những người bách chiến bách thắng." (trang 72)

*

Với lối viết này, Nguyễn Viện đã trình bày bối cảnh Ba mươi tháng tư trên hai bình diện: Mặt thực tế kinh hoàng đang thật sự diễn ra và cái gương chiếu hậu trong con mắt của những "tiên tri". Chiếc gương phân tích và phê bình hiện thực, phanh phui thực chất của mỗi nhân vật thắng cũng như bại, đã tạo dựng nên cái hí trường bi đát, đầy máu và nước mắt này. Ðó là thứ hiện thực được nhìn từ ngoài hiện thực, từ trên hiện thực, bằng con mắt của những người, hay những hồn người đã bước qua sự sống, không còn dính đến hiện thực nữa; họ ở vào giai đoạn "quá độ" của sự sống, cho nên họ ít mu muội hơn những người đang sống. Vì họ đã "thoát" ra ngoài, đã có một khoảng cách đủ xa, đủ cao, để nhìn thấy toàn diện bối cảnh. Trong khi những kẻ đang sống, đang chạy vất vưởng trên đại lộ kinh hoàng, đang bắn người hoặc đang tẩu thoát, những "nhân sinh" ấy chỉ có cái nhìn "cục bộ", giới hạn bởi nhãn quan hẹp hòi của người trong cuộc. Những lập ngôn, dù là hàm hồ, của những vị "tiên tri giả" có tác dụng làm "sáng mắt" những kẻ đang u mê trầm thảm trong biển khổ chiến tranh: thực tế là gia đình một người đàn bà có chồng đi tập kết.

Người đàn bà đó có bốn đứa con. Ngày chia tay, người chồng ra Bắc; người đàn bà đó không nỡ để chồng đi một mình, đã "chia" cho chồng một đứa: thằng lớn nhất, 12 tuổi. Sau khi từ giã chồng và con trai, người đàn bà ấy đã "gom ba đứa còn lại, ngủ chung một giường, ủ trong mình và khóc lặng lẽ." (trang 20). Và như thế người mẹ ấy đã ngậm tăm để sống, để nuôi con và nuôi sự bí mật của đời mình trong suốt hai mươi năm trời. Cho đến ngày 30 tháng tư.

Ba mươi tháng tư, đối với bà là ngày thiêng liêng đoàn tụ, ngày bà chờ đợi như mục đích cuối của đời mình. Và để đến được ngày lịch sử này, người mẹ ấy đã trải qua nhiều bất hạnh. "Mậu thân 1968, giữa những tiếng pháo của đêm xuân đã lẫn những tiếng súng của cuộc nổi dậy tổng tiến công. Khi những đứa con tôi còn ngơ ngác và sợ hãi thì trong lòng tôi âm thầm hoan hỉ. Tôi vẫn chờ đợi với một nỗi niềm giấu kín, sự chiến thắng từ bên kia núi sẽ mang chồng con tôi về. [...] Nhưng những ngày hi vọng ấy tắt sớm và tệ hại hơn, tai vạ chiến tranh đã đổ xuống ngay căn nhà tôi ở, một cây xà đập ngang lưng và tôi nhận lấy thêm một bất hạnh. Tôi trở thành kẻ bại liệt vĩnh viễn." (trang 16-17)

Ngồi trên xe lăn, người mẹ già, liệt này theo con, xuyên qua thân cây, xác lá, xác người, di tản từ Pleiku, Phú Bổn trên đại lộ kinh hoàng của súng đạn, máu mê và nước mắt. Trên con lộ đầy tử thi ấy, trong trạng thái nửa mơ, nửa tỉnh, người đàn bà bất hạnh đã mục kích: "Tôi thấy những người bị bỏ lại đã chết và cả những người còn sống thoi thóp. Tôi thấy những giọt nước mắt và nghe những lời kêu gào xé ruột. Một người mẹ vất con lại bên đường với lời cấu xin tha thứ. Ðàn kiến bò lên thân xác đứa bé rúc rỉa. [...] Tôi lại co giật. Tôi thấy ở không xa lắm, một người lính đang lả xuống vì kiệt sức. Anh ta chạy một mình. Bỗng nhiên bên cạnh anh ta xuất hiện hai cái bóng mờ. Có lẽ đó là mẹ và em gái anh ta. Hai cái bóng mờ ấy cố nâng đỡ và dìu anh đi tới. Nhưng anh ta vẫn đổ xuống vì anh ta đã kiệt quệ. Cho đến khi hai bóng mờ tan đi cùng với hư ảo của tình yêu thì thân xác anh ta cũng thối rữa và thấm dần vào lòng đất." (trang 30-31)

Những hình ảnh vừa thực, vừa ảo, chồng chất lên nhau, trong ký ức của người phụ nữ có chồng đi tập kết trong suốt hai mươi năm, đã tạo nên khí quyển sống của bà: Một cuộc sống vừa đợi chờ, vừa phóng tới trước mặt tìm ngày đoàn tụ, y hệt như lúc này, bà đang di chuyển trên vai hai đứa con gái thay phiên nhau cõng mẹ. Bà đi mà không có chân, bà được bỏ lên xe jeep, xe tăng, lăn đi, trườn tới, để tìm đến ngày hạnh phúc chờ đợi. Bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn, máu và nước mắt ấy, chỉ để đổi lấy một ngày trong mộng: ba mươi tháng tư.

Ba mươi tháng tư có đến, nhưng hạnh phúc thì không. Người chồng đã có vợ con ngoài Bắc, không vào. Chỉ có Lân, đứa con mà bà đã "chia" cho chồng ngày trước, trở về trong đám bộ đội từ Bắc vào Nam. Ngày Lân trở về thì cũng là ngày Châu, đứa em lớn lên trong Nam, bị bắt.
Miền Nam chấp nhận thân phận mới. Châu, sau khi đi cải tạo về, trở nên một người khác, lạnh nhạt với cuộc sống. Cuộc "đổi đời" xẩy ra trên toàn diện, từ ngoại cảnh đến tâm giới của con người. Dường như Nguyễn Viện có tham vọng muốn vẽ lại cả một giai đoạn sống: từ sự ra đi khốn cùng, tất tưởi vượt biên, đến sự trở về, Việt kiều, xúng xính áo mão ngựa xe, quan "Trạng", đến những toan tính làm ăn, chụp giật, bẩn thỉu... Mỗi cá nhân có một lối hành xử, một tâm sự, một quằn quại, ủ rũ, khát vọng, tuyệt vọng... riêng tư. Ít nhiều, Nguyễn Viện đã viết nên được những hài hước đớn đau ấy.

Tất nhiên Thời của những tiên tri giả chưa phải là một tác phẩm thành công, còn có những nhược điểm kỹ thuật như giọng kể của bà mẹ, nhiều lúc không phải là giọng của một người đàn bà đã trải qua những thăng trầm khốn khổ mà lại là giọng của chính tác giả. Những chân dung nhân vật nhiều khi mờ nhạt, tác giả quá chú tâm đến triết lý, nên đôi khi đưa ra những nhận xét triết lý không đúng chỗ, hoặc từ miệng nhân vật hay trong lời trần thuật, làm loãng đối thoại, làm trơ mạch kể. Nếu để triết lý gián tiếp tiềm ẩn trong bối cảnh, trong không khí câu truyện, trong bản chất đối thoại, trong trạng thái lặng chìm, có lẽ thành công hơn là để nhân vật nói những lời triết lý một cách trực tiếp, sôi nổi.

Mặc dầu với những nhược điểm trên đây, Thời của những tiên tri giả vẫn là một tiểu thuyết đáng đọc, nó xác định một cái nhìn mới, một cái nhìn không giới tuyến về chiến tranh Việt Nam, một cái nhìn trung thực và ân tình giữa những người hai bên giới tuyến.

Trong Ðâm sừng vào bóng tối, tác giả viết về tình yêu, đam mê và nhục dục. Cả ba gắn bó với nhau, tạo nên một toàn bộ khốc liệt và mù quáng, như con tê giác lao đi, đâm sừng vào bóng tối. Trong ba yếu tố tình yêu, đam mê và nhục dục, dường như đam mê và nhục dục là hai cánh sừng, còn bản thân tê giác mang nặng thể xác của tình yêu.

"Con tê giác lầm lũi phóng đi trong bóng tối. Những chiếc lá cọ quẹt vào người như một bàn tay mơn trớn. Cảm giác cần được âu yếm, là một cơn khát trong sa mạc, bởi thế con tê giác vẫn phóng như điên cuồng trong bóng tối để cho mọi thứ cây lá cào vào lớp da dày..."(trang 138)

Ðâm sừng vào bóng tối là bản giao hưởng tình yêu giữa một người đàn ông đứng tuổi và một người con gái đáng tuổi con mình, bản nhạc có thể gây sốc cho người nghe bởi tính chất sống sượng của nó, nhưng tác phẩm đã nói lên được khía cạnh mâu thuẫn của đam mê: đạo đức lẫn vô luân, thiên đường lẫn địa ngục, u mê lẫn sáng suốt, tuyệt vời lẫn tuyệt vọng trong tình yêu và thân xác. Chủ trương tự do tuyệt đối trong cuộc tình dẫn đến chủ trương tự do tuyệt đối của con người. Nhưng người ta có thể đặt vấn đề với tác giả: con người có thể tự do tuyệt đối hay không? Hay là tất cả tự do đều chỉ có nghĩa khi nó đi đôi với trách nhiệm, bởi tự do và trách nhiệm là hai giá trị song hành, có cái này thì phải có cái kia. Tự do mà không trách nhiệm thì trở thành vô luân, vô luật. Trách nhiệm mà không có tự do thì không còn là trách nhiệm mà trở thành nô lệ. Trách nhiệm ở đây không đòi hỏi chuyện cấm đoán vì cấm đoán đối với đam mê là vô ích. Trách nhiệm ở đây có lẽ chỉ cần một chút hoài nghi, một chút ngần ngại. Nabokov trong Lolita, có cái ngần ngại đó, và chính cái ngần ngại ấy đã tạo cho Lolita một trường hợp "giảm khinh", một tác phẩm tuyệt vời. Hình như nhân vật chính, Nam, trong Ðâm sừng vào bóng tối, không bị đong đưa, dù chỉ trong giây phút, giữa hoài nghi và ngần ngại. Nam quá bình tâm, quá chắc trong vị trí của mình. Và đó là câu hỏi đặt ra cho tác giả.

Rồng và rắn là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Viện. Ở đây tác giả đã thu gọn được bối cảnh chiến tranh, sự tàn phá con người trong chiến tranh và xã hội tàn nhẫn, vô ơn, sau chiến tranh, trong một truyện vừa.

Vai chính trong truyện là X, một người bộ đội và có lẽ cũng là một công an; anh đã sống và bây giờ hồn anh vẫn sống. Anh đã xả thân, không phải cho lý tưởng, mà chỉ là sự làm hết mình của một người có trách nhiệm trước công tác được giao phó. Công tác của anh, trước kia là đánh nhau, bây giờ là theo dõi và ghi chép. Qua X, Nguyễn Viện đã tạo được một nhân vật bốn chiều: công an, bộ đội, sống và chết. Ở bốn chiều này, X có đủ phương tiện để nhận xét con người. Những nhận xét của anh thường vắn tắt, ngắn gọn như những lời tốc ký của một thám tử, nó cực ngắn, nó rút gọn đến tối thiểu những nhàm chán hàng ngày của cuộc sống để chỉ giữ phần cốt tủy. Trong khi "theo dõi" và ghi lại những diễn biến của người sống, X cũng không quên điểm lại quá khứ của đời mình. Hai diễn biến quá khứ và hiện tại cùng trôi trong dòng truyện, với lối cấu trúc song song, nhưng ở đây, người đọc, vì do song hành, nên so sánh được hai lớp tàn bạo của cuộc sống: người chết một lần hôm qua trong thời chiến, và chết lại một lần hôm nay, trong thời bình, như X. 

Gục trên mộ, X kể lể: "Tôi muốn ngủ. Hãy để tôi ngủ. Tôi cần ngủ. Ðừng đánh thức tôi bằng tiếng súng. Cũng đừng đánh thức tôi bằng tiếng kẻng. Hãy để tôi nằm một mình. Giữa mùa hè, những xác chết trương phình lên nhanh chóng. Bọn địch lấy xe ủi đất gom các xác chết vào chung một cái hố lớn, đổ vôi xuống rồi lấp đất lại. Cái hố chật chội đầy những mầu máu và mồ hôi. Thành phố thì chật những cánh quạ. Ðám xác chết bắt đầu cãi nhau. Xác nào cũng muốn chen lên cho đỡ ngạt. Một thằng quát lớn: Hãy trật tự. Theo thứ tự quân hàm mà nằm, tính từ dưới lên." (trang 310)

X và đồng đội đang muốn được ngủ yên, bỗng nhiên bị dựng dậy bởi "tiếng kèn tập họp vang lên khắp nơi. Các xác chết hỏi nhau: Lại động binh nữa à?" (trang 312)

Họ bị dựng dậy để đón một ông tướng ma mới, vừa nằm xuống. Ông ra lệnh chiến đấu. Hỏi: Chúng ta chiến đấu với ai? Trả lời: "Ðồ ngu, chiến đấu để bảo vệ chỗ nằm. Tin tình báo cho hay, bọn cò đất đã nhăm nhe dọ ý chào những miếng đất nghĩa trang. Chúng bán tất cả những gì có thể bán được, không bán được thì chúng cho thuê. Những miếng đất như đất của các anh hùng, danh nhân, thuộc loại béo bở nhất, bởi thế nguy cơ mất chỗ nằm của chúng ta đã đến gần. Tôi tuyên bố tình trạng chiến tranh." (trang 314)

Và đó là lý do khiến ông tướng về hưu đã uất lên mà chết. Tính chất trào lộng pha lẫn tử khí, trầm uất, xông lên trong Rồng và rắn, một kết hợp thành công của Nguyễn Viện, khi ông nhìn cuộc đời từ bốn chiều kích: sống, chết, xưa và nay.



Paris, 2/2003















Trần Nhuệ Tâm : Nhà thơ nói về thơ tình : Nguyễn Viện




Phan Nhiên Hạo : Đọc 26 lần tờ bờ lờ của Nguyễn Viện




Nguyễn Viện




Nguyễn Viện: Những suy nghĩ về ngày 30/4













Nguyễn Viện trên Tiền vệ















Phan Nguyên, Cung Tích Biền, Nguyễn Viện. 2010












Trịnh Cung, Nguyễn Viện, Phan Nguyên












Phan Nguyên, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Viện, Phạm Tường Vân, Huy Tưởng,
Saigon 2016







Bùi Hoằng Vị , Phan Nguyên, Nguyễn Viện  Sài gòn 2017

















Phan Nguyên , Nguyễn Viện, Hậu Khảo cổ
SG 2024






Sài Gòn 2024


















Trở về 




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.