Tuesday, 16 June 2020

Nguyễn Hiến Lê (1912–1984)














Nguyễn Hiến Lê
(1912–1984) 

nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học,
nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập

Hưởng thọ 73 tuổi





với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế,...

Trong hồi ký của mình, Nguyễn Hiến Lê viết:
"...Tôi sinh ngày 20 tháng 11 ta, giờ Dậu, năm Tân Hợi (nhằm ngày 8 tháng 1 năm 1912). Đổi ra bát tự để lấy lá số Tử Bình hay Hà Lạc thì tôi sinh năm Tân Hợi, tháng canh tý, ngày Quý Mùi, giờ Tân Dậu"[1].

Nguyễn Hiến Lê quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Phú Phương, huyện Ba Vì, Hà Nội). Thân phụ ông tên Nguyễn Văn Bí, hiệu Đặc Như, là con trai út của một nhà Nho. Thân mẫu ông tên Sâm, làng Hạ Đình (nay là phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội).

Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi.

Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.

Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn.

Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du ký, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.

Trong một số tác phẩm của mình, Nguyễn Hiến Lê đề bút danh Lộc Đình. Ông kể: "gần ngõ Phất Lộc có một cái đình không biết thờ vị thần nào mà kiến trúc rất đơn sơ. Hai cánh cửa gỗ luôn đóng kín, trên mái cổng tam quan có đắp một bầu rượu khá lớn nằm giữa hai con rồng uốn khúc châu đầu vào. Thuở bé, tôi được theo bà ngoại vào đình mấy lần, tôi thấy bên trong là một khoảng sân rộng vắng ngắt. Tuy vậy, mà quang cảnh lạnh lẽo trầm mặc thâm u của ngôi đình bỗng nhiên len sâu trong tâm tư tôi những khi ngồi học trong lớp, hoặc những khi tôi đến chơi nơi nào đông vui là tôi lại chạnh nghĩ đến ngôi đình, nhớ đến bà ngoại tôi. Nhất là sau ngày cha tôi và bà ngoại tôi vĩnh viễn ra đi trong cái ngõ hẹp tối tăm ấy..." và "Bút danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một bài văn ngắn từ hồi trẻ... Lộc là ngõ Phất Lộc, còn Đình là cái đình ấy."

Năm 1980 ông về lại Long Xuyên. Cùng năm ông bắt đầu viết Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, đến tháng 9 năm 1980 thì hoàn thành. Đồng thời ông tách những đoạn nói về văn nghiệp ra riêng, sửa chữa, bổ sung và biên tập lại thành cuốn sách Đời viết văn của tôi. Tác phẩm này được sửa chữa xong vào năm 1981, sau đó sửa chữa thêm và hoàn chỉnh vào năm 1983.[2]

Ông lâm bệnh và mất lúc 8 giờ 50 phút[3] ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại Bệnh viện An Bình, Chợ Lớn,[4] Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 73 tuổi. Linh cữu của ông được hỏa thiêu vào ngày 24 tháng 12 năm 1984 tại đài thiêu Thủ Đức.

Việc hỏa táng và làm tang lễ, ma chay đơn giản là ý nguyện của Nguyễn Hiến Lê lúc sinh thời[5]. Trong một bức thư gửi nhà thơ Bàng Bá Lân đề ngày 18 tháng 7 năm 1981 ông từng viết:
“ Thời xưa mong giữ được mộ 100 năm, thời nay tôi sợ không được vài chục năm. Cho nên tôi tính chết thì hỏa táng, đỡ thắc mắc cho con cháu ở xa. Và cúng giỗ, tôi cũng bảo dẹp bớt đi ! Không ngờ cái tục lệ thiêng liêng mấy nghìn năm của mình bây giờ chỉ trong có mấy năm mà thay đổi hẳn. Ngay cả tâm trạng của mình cũng thay đổi nữa ! ”

Sau khi hỏa thiêu, di cốt của ông được đem về chôn cất trong khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (người vợ thứ hai của ông) ở thành phố Long Xuyên. Năm Kỷ Mão (1999), bà Liệp tạ thế và được an táng trong khuôn viên chùa Phước Ân ở Rạch Cai Bường (thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp), thì tro cốt của ông cũng được đặt bên trên phần mộ của bà.[7]



"Tự bạch"

Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT - "Lời mở đầu" của tác phẩm "Đời viết văn của tôi".

Trong hồi ký của mình Nguyễn Hiến Lê cũng đã viết lại nhân sinh quan như sau:[8]
Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải tạo cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại đã tiến về nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy khả năng mỗi người.
Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết bàn hay Thiên đàng.
Quan niệm thiện ác thay đổi tùy nơi, tùy thời. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện, cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa mà hóa ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp; tới thời kỹ nghệ không còn lợi cho gia đình, xã hội nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức nhân, khoan hồng, công bằng, tự do, tự chủ,...
Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể, không có của riêng.
Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, trị gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng, luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người.
Nên trọng dư luận nhưng cũng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm.
Mỗi người đã phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống trong một gia đình êm ấm giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách mà được hàng vạn người hoan hô, mà còn có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn bạn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nhận một chức tước gì của chính quyền.
Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.
Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.
Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân.
Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập, cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của một người.
Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do thì không gọi là xã hội tự do được.
Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không.
Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào thân.
Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hợp ý mình; phải chung sống năm ba năm mới rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cả cá nhân ông bà lẫn xã hội. Hiện nay ở Mỹ có phong trang kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà có thể gây nhiều xáo trộn cho xã hội.
Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lan, hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.
Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được.
Cơ hồ không thay đổi được bản tính con người: người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng có quy củ, kỷ luật, biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm; và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.
Thay đổi bản tính con người như Mặc Tử, như Karl Marx muốn là chuyện không dễ một sớm một chiều. Thế giới còn những nước nhược tiểu nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai thác biển, đáy biển, Họ còn sống lâu. Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời nay đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi lần lần.
Xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói, lúc thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải quyết xong việc này thì lại sinh ra việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại cho các thế hệ sau.
Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.



Nhận xét

Người thầy Nguyễn Hiến Lê trước 1975 rất có cảm tình với Hồ Chí Minh và Cộng sản, Nguyễn Hiến Lê không giấu diếm điều này, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không bắt ông vì quan điểm chính trị của ông. Dù là người có quan điểm thiên cộng nhưng ông vẫn dám nói thật, viết thẳng theo tinh thần "phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Sau 30-04-1975, Nguyễn Hiến Lê viết:
“ Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hoá; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc…; cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm [Một thím làm tổ phó lo về đời sống, được công an phường gọi đi học tập. Mới hết buổi đầu, thấy công an chỉ dạy cách dò xét, tố cáo đồng bào (ăn uống ra sao, chỉ trích chính phủ không, khách khứa là hạng người nào…), thím ta xin thôi liền, về nói với bạn: “Tôi không làm công việc thất đức đó được”. Lớp học đó bỏ luôn] chứ đừng nói người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là nguỵ hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là nguỵ với nhau mà !”

Nguyễn Hiến Lê





















Phần trên ngôi tháp nhỏ này là nơi lưu giữ di cốt của học giả Nguyễn Hiến Lê.









Tác phẩm



Văn học - Tiểu thuyết


1
Hương sắc trong vườn văn
(2 quyển)
1962



2
Đại cương văn học sử Trung Quốc
(3 quyển)
1955



3
Cổ văn Trung Quốc
1966



4
Chiến Quốc sách
(viết chung với Giản Chi)
1968




5
Sử Ký Tư Mã Thiên
(viết chung với Giản Chi)
1970



6
Tô Đông Pha
1970



7
Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa
(dịch)
1970



8
Kiếp người
(dịch Somerset Maugham)
1962



9
Mưa
(tuyển dịch nhiều tác giả)
1969



10
Chiến tranh và hoà bình
(dịch Lev Nikolayevich Tolstoy)
1968



11
Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu
(dịch Alan Paton)
1969



12
Quê hương tan rã
(dịch C. Acheba)
1970



13
Cầu sông Drina
(dịch I. Andritch)
1972



14
Bí mật dầu lửa
(dịch Gaillard)
1968



15
Con đường thiên lý
(Xuất bản 1990)



16
Mùa hè vắng bóng chim
(dịch Hansuyn)



17
Những quần đảo thần tiên
(dịch Somerset Maugham)
(Xuất bản 2002)




18
Kinh Dịch



19
Đắc Nhân Tâm
(dịch Dale Carnegie)
(Xuất bản 1951)







Triết học


20
Nho giáo một triết lý chính trị
1958



21
Đại cương triết học Trung Quốc
(viết chung với Giản Chi)
1965



22
Nhà giáo họ Khổng
1972



23
Liệt tử và Dương tử
1972



24
Một lương tâm nổi loạn
1970



25
Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại
1971



26
Mạnh Tử
1975



27
Trang Tử
(Xuất bản 1994)



28
Hàn Phi Tử
(Xuất bản 1994)



29
Tuân Tử
(Xuất bản 1994)




30
Mặc học
(Xuất bản 1995)



31
Lão Tử
(Xuất bản 1994)



32
Luận ngữ
(Xuất bản 1995)



33
Khổng Tử
(Xuất bản 1992)



34
Kinh Dịch, đạo của người quân tử
(Xuất bản 1990)














Lịch sử


35
Lịch sử thế giới
(viết với Thiên Giang)
1955



36
Đông Kinh Nghĩa Thục
1956



37
Bài học Israel
1968



38
Bán đảo Ả Rập
1969



39
Lịch sử văn minh Ấn Độ
(dịch Will Durant)
1971



40
Bài học lịch sử
(dịch Will Durant)
1972



41
Nguồn gốc văn minh
(dịch Will Durant)
1974



42
Văn minh Ả Rập
(dịch Will Durant)
1975



43
Lịch sử văn minh Trung Quốc
(dịch Will Durant) 
(Xuất bản 1997)



44
Sử Trung Quốc
(3 tập)
1982






Giáo dục – giáo khoa



45
Thế hệ ngày mai
1953



46
Thời mới dạy con theo lối mới
1958



47
Tìm hiểu con chúng ta
1966



48
Săn sóc sự học của con em
1954



49
Tự học để thành công
1954



50
33 câu chuyện với các bà mẹ
1971



51
Thế giới bí mật của trẻ em
1972



52
Lời khuyên thanh niên
1967



53
Kim chỉ nam của học sinh
1951



54
Bí quyết thi đậu
1956



55
Để hiểu văn phạm
1952



56
Luyện văn I
(1953), II & III
(1957)



57
Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam
(viết với T. V. Chình)
1963



58
Tôi tập viết tiếng Việt
1990



59
Muốn giỏi toán hình học phẳng
1956



60
Muốn giỏi toán hình học không gian
1959



61
Muốn giỏi toán đại số
1958


















Chính trị - Kinh tế


62
Một niềm tin
1965



63
Xung đột trong đời sống quốc tế
1962







Gương danh nhân


64
Gương danh nhân
1959



65
Gương hi sinh
1962



66
Gương kiên nhẫn
1964



67
Gương chiến đấu
1966



68
Ý chí sắt đá
1971



69
40 gương thành công
1968



70
Những cuộc đời ngoại hạng
1969



71
15 gương phụ nữ
1970



72
Einstein
1971



73
Bertrand Russell
1972



74
Đời nghệ sĩ
(Xuất bản 1993)



75
Khổng Tử
(Xuất bản 1995)



76
Gogol
(Xuất bản 2000)



77
Tourgueniev
(Xuất bản 2000)



78
Tchekhov
(Xuất bản 2000)






Khảo luận – tùy bút – du ký


79
Đế Thiên Đế Thích
1968



80
Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười
1954



81
Nghề viết văn
1956



82
Vấn đề xây dựng văn hoá
1967



83
Chinh phục hạnh phúc
(dịch Bertrand Russell)
1971
Sống đẹp - 1964



84
Thư ngỏ tuổi đôi mươi
(dịch André Maurois)
1968



85
Chấp nhận cuộc đời
(dịch L. Rinser)
1971



86
Làm con nên nhớ
(viết với Đông Hồ)
1970



87
Hoa đào năm trước
1970



88
Con đường hoà bình
1971



89
Cháu bà nội tội bà ngoại
1974



90
Thư gởi người đàn bà không quen
(dịch André Maurois)
1970



92
10 câu chuyện văn chương
1975



93
Đời viết văn của tôi 
(Xuất bản 1996)



94
Hồi ký Nguyễn Hiến Lê
(Xuất bản 1992)



95
Để tôi đọc lại
(Xuất bản 2001)






Tự luyện – Học làm người


96
Tương lai trong tay ta
1962



97
Luyện lý trí
1965



98
Sống 365 ngày một năm
1968



100
Nghệ thuật nói trước công chúng
1953



101
Sống 24 giờ một ngày
(dịch Arnold Bennett) - 1955



102
Luyện tình cảm
(dịch F. Thomas) - 1951



103
Luyện tinh thần
(dịch Dorothy Carnegie) - 1957



104
Đắc nhân tâm
(dịch Dale Carnegie) - 1951



105
Quẳng gánh lo đi và vui sống
(dịch Dale Carnegie) - 1955



106
Giúp chồng thành công
(dịch Dorothy Carnegie) - 1956



107
Bảy bước đến thành công
(dịch G. Byron) - 1952



108
Cách xử thế của người nay
(dịch Ingram) - 1965



109
Xây dựng hạnh phúc
(dịch Aldous Huxley) - 1966



110
Sống đời sống mới
(dịch Powers) - 1965



111
Thẳng tiến trên đường đời
(dịch Lurton) - 1967



112
Trút nỗi sợ đi
(dịch Coleman) - 1969



113
Con đường lập thân
(dịch Ennever) - 1969



114
Sống theo sở thích
(dịch Steinckrohn) - 1971



115
Giữ tình yêu của chồng
(dịch Kaufmann) - 1971



116
Tổ chức gia đình
1953






Các bài đăng trên tạp chí

242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách.







Chú thích

^ Sách Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXb Văn học, 1993, tr. 16.
^ Châu Hải Kỳ, trang 361-362
^ Châu Hải Kỳ, trang 412
^ Châu Hải Kỳ, trang 408
^ Châu Hải Kỳ, trang 414
^ Châu Hải Kỳ, trang 408.
^ Tìm mộ cụ Nguyễn Hiến Lê
^ Nguyễn Hiến Lê, trang 730-734



Tham khảo

Nguyễn Hiến Lê
(2006).

Hồi ký Nguyễn Hiến Lê.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn học
.
Châu Hải Kỳ
(2007).
Nguyễn Hiến Lê - Cuộc đời & Tác phẩm.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn học.












VĂN HOÁ: ĐỐT SÁCH
Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê


Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quý Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông Thứ trưởng Văn Hoá ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc.
Nhưng ông Thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm... in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.
Năm 1975, Sở Thông tin Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành.
Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông tin Văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.
Một nhóm ba thanh niên cũng xin vào xét tủ sách của tôi. Nhà tôi tiếp họ, hỏi:
- Các cháu học ở đâu? Có đọc sách ông Nguyễn Hiến Lê không?
Một người học Đại học, đáp có đọc sách tôi. Nhà tôi bảo:
- Nhà này là nhà ông Nguyễn Hiến Lê đấy.
Họ vội vàng xin lỗi rồi rút lui.
Lần đó sách ở Sài Gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao.
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị "ba hủy", chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lý... Mọi người hoang mang, gặp nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi phải tiếp năm sáu bạn lại vấn kế.
Mấy bạn tôi luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng xem lại sách báo, thứ nào muốn giữ lại thì gói riêng, lập danh sách, chở lại gởi nhà một cán bộ cao cấp (sau đòi lại thì mất già nửa); còn lại đem bán kí lô cho "ve chai" một mớ, giữ lại một mớ cầu may, nhờ trời.
Một luật sư tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà, chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới mắt công an.
Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quý, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho sở Thông tin văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết.
Bà Đông Hồ quen ông Giám đốc thư viện thành phố, bán được một số sách cho thư viện, tặng thư viện một số khác với điều kiện được mượn đem về nhà mỗi khi cần dùng tới.
Tôi nghe lời khuyên của một cán bộ Văn hóa, làm đơn xin Sở Thông tin Văn hóa cho tôi giữ tủ sách để tiếp tục làm việc biên khảo, đơn đó ông bạn cán bộ đem thẳng vô ông chủ sở, ông này chỉ đáp miệng rằng tôi là nhân sĩ thành phố, cứ yên tâm. Họ có khối việc lớn, việc nhỏ gì cũng không trả lời bằng thư, sợ lưu lại bút tích mà chịu trách nhiệm.
Ít tháng sau tình hình dịu dần rồi yên, không nhà nào bị kiểm kê. Chính quyền bảo để xét lại và một năm sau, nạn "phần thư" kể như qua hẳn. Tủ sách của tôi không mất mát gì cả, nhưng từ đó tôi không ham giữ sách nữa, ai xin tôi cũng cho.
Ngành báo chí và ngành xuất bản, chính quyền nắm hết vì coi đó là những công cụ giáo dục quần chúng. Ở Sài Gòn chỉ thấy bán vài tạp chí Nga, Ba lan, tư nhân muốn mua dài hạn phải đăng kí trước ở sở bưu điện. Một người cháu tôi từ Pháp gửi về cho tôi một tờ Nouvel Oservateur (của khối cộng), số đó bị chặn lại. Nghe nói tờ Humanité của đảng cộng sản Pháp cũng không được bán trong nước.
Tôi chưa thấy một cuốn sách Nga hay Trung Hoa nào bán ở Sài Gòn, trừ mấy cuốn về Lénine, về khoa học đã được dịch ra tiếng Việt. ở các thư viện Hà Nội có thể có sách bằng Nga văn hay Hoa văn nhưng chỉ cán bộ mới được phép coi, mà cán bộ trong ngành nào chỉ được coi về ngành đó thôi. Cũng có người đọc lén được.
Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được. Một nhà văn hợp tác với viện khoa học Xã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông "bự". Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ Văn hóa vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!
Tháng 4-1980, có một thông cáo cấm kiều bào hải ngoại gởi một số đồ nào đó về cho thân nhân trong nước, như quần áo cũ, các thực phẩm đóng hộp, các thuốc tây không có prospecties cho biết cách dùng, trị bệnh gì..., mà chỉ cho người ta một thời hạn không đầy một tháng để thi hành. Kẻ nào thảo thông cáo ra quyết định đó không hề biết rằng những gia đình có thân nhân là kiều bào ở những nơi xa xôi, hẻo lánh khắp thế giới, phải viết thư cho họ thì họ mới biết mà thi hành chỉ thị được; và ở thời này, thư máy bay từ Sài Gòn ra Hà nội mất có khi một tháng (trường hợp của tôi), từ Sài Gòn qua Pháp, Gia nã đại mất hai tháng, có khi bốn tháng. Báo chí vạch điểm đó ra cho chính quyền thấy, họ mới gia hạn cho thêm 5 tháng nữa. Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?
Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài Gòn, lóa mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Một anh bộ đội đi xe đò từ Long Xuyên lên Sài Gòn nghe hai chị bình dân miền Nam nói với nhau lên Sài Gòn sẽ mua xe tăng, máy bay, tàu chiến... mỗi thứ vài chục cái; anh ta hoảng hồn, tới trại kiểm soát vội báo cho kiểm soát viên hay có gián điệp trên xe. Chiếc xe phải đậu lại ba bốn giờ để kiểm soát, điều tra rất kĩ, sau cùng mới hay rằng hai chị hành khách đó đi mua máy bay, xe tăng, tàu chiến bằng mủ về bán cho trẻ em chơi. Hành khách trên xe nổi dóa, chửi thậm tệ anh bộ đội; khi xe tới bến Phú Lâm, họ còn đánh anh ta tơi bời nữa. Kết quả của nền giáo dục miền Bắc như vậy. Chính một cán bộ nói với tôi: "Càng học càng ngu. Thầy ngu thì làm sao trò không ngu? Nhồi sọ quá thì làm sao không ngu? Có được đọc sách báo gì ngoài sách báo của chính quyền đâu thì còn biết chút gì về thế giới nữa?"
Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà Nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin lời đó được.
Trước 1975, thấy cuốn nào in ở Bắc cũng từ 10.000 bản trở lên, có thứ 30.000, 100.000 bản, tôi và các bạn tôi phục đồng bào ngoài đó ham đọc sách. Bây giờ tôi hiểu lý do. Hà Nội mỗi năm xuất bản không biết được 100 nhan đề không (trong này, thời trước được khoảng 1.000 nhan đề); sách được gởi đi khắp nơi không có sự cạnh tranh, mà ai cũng "đói sách"; lại thêm nhiều sách có mục đích bổ túc cho sách giáo khoa, nhất là loại dạy chính trị, như vậy in nhiều là lẽ dĩ nhiên. Sách bán rất rẻ, nên cuốn nào viết về văn học, sử học mới ra cũng bán hết liền. Mấy năm nay, giấy khan, in ít, sách vừa phát hành đã bán chợ đen ở Hà Nội, không vào được tới miền Nam; những cuốn như lịch sử tỉnh Vĩnh Phú, ngay cả bộ Hồ Chí Minh toàn tập, ở Long xuyên không làm sao kiếm được một bản, các cơ quan giáo dục cũng không mua được. Trái lại bộ Lê Nin toàn tập giấy rất tốt, thì ở khắp miền Nam bán chạy veo veo; người ta mua về để bán kí lô.
Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn .









Văn Học Nghệ Thuật
số 8 & 9, tháng 12/85 & 1/86




Một sáng chủ nhật cuối năm 1984, có dịp ghé lại một hiệu sách ở quận Cam, giở tờ báo Đời số Xuân Ất Sửu tôi mới biết tin nhà văn Nguyễn Hiến Lê vừa qua đời tại Việt Nam hôm 22 tháng 12 năm 1984.

Tin đó khiến tôi lặng người bàng hoàng!Đối với tôi, nhà văn Nguyễn Hiến Lê là một vị thầy uyên bác mà hơn một trăm cuốn sách ông đã xuất bản hướng dẫn tôi suốt các giai đoạn đời. Chẳng những thế, ông còn là một người cầm bút gương mẫu, mà dù cố gắng bao nhiêu đi nữa, tôi vẫn không bao giờ đạt được những thành quả như ông. Sự cần cù hiếu học, sự tôn trọng tinh thần khách quan và nhân bản, sự cẩn trọng đối với chữ nghĩa, đức kiên nhẫn và khiêm nhường...nói chung là những gì cao đẹp nhất ở một nhà trí thức, tôi đều tìm thấy nơi ông.

Thật ra sự kính trọng hay ái mộ đối với một người không do những điều trừu tượng như thế, mà do những cuộc gặp gỡ, những lần tâm sự, những liên lạc thân hữu, những kỷ niệm chung...

So với các bạn hữu cũng thế hệ với tôi, thì tôi đọc sách ông có hơi muộn. Thời kháng chiến chống Pháp, tôi ở vùng liên khu Năm do Cộng sản kiểm soát nên mãi cho đến năm 1955, sau Hiệp định Genève tôi mới biết đến loại sách "Học làm người" của ông. Hồi đó, ở tâm trạng một học sinh trung học đệ nhị cấp và đang thời những cái mode suy tưởng du nhập từ châu Âu đang ảnh hưởng lớn lao đến tuổi thanh niên, đọc sách của ông, tôi có cảm giác khó chịu như bị ai đó đánh thức giữa lúc đang say sưa với những giấc mộng xa vời. Văn thơ thời thượng nhắc đi nhắc lại mãi những "lưu đày", những "nôn mửa", những "choáng váng" những "ngộ nhận", trong khi ông dịch Dale Carnegie để dạy chúng tôi cách xử thế sao cho khôn khéo, viết Kim Chỉ Nam Cho Học Sinh để bày cách đọc sách, cách làm phiếu ghi chép...Rồi cách kinh doanh, cách học cho giỏi toán, cách chọn một nghề, nói chung là cách học thế nào để không trở thành Con Người trừu tượng, mà học làm người có thể sống và thành công được giữa lòng xã hội.

Trong khi văn chương báo chí thời thượng đưa chúng tôi đến những thắc mắc những tìm kiếm siêu hình, thì sách "học làm người" của Nguyễn Hiến Lê đưa chúng tôi trở về những vấn đề thực tiễn trước mắt. Thú thật hồi đó tôi đã gặp ông, nhưng đã bỏ ông.

Suốt thời gian học đại học, rồi ra trường đi dạy, tôi không lưu tâm đến sách của ông nữa. Tôi vẫn giữ thành kiến là sách của ông đã lỗi thời, chỉ giúp ích cho những người hiếu học mà không có điều kiện đến trường thu nhận một thứ kiến thức có hệ thổng và trình bày mạch lạc. Sách ông, theo tôi nghĩ, thật cần thiết cho những ai "tự học để thành công" như nhan đề một cuốn sách ông viết.

Nhưng chẳng cần chờ lâu tôi đã nhận ra rằng mình lầm lẫn quá nhiều về ông. Trước hết là những sách khảo cứu và phê bình ông viết về cổ học Trung Hoa và Việt Nam, một thế giới xa xăm huyền nhiệm mà nghề dạy văn chương bắt buộc chúng tôi phải tìm hiểu. Lúc bấy giờ, tôi mới thấy những cuốn như Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc, Luyện Văn, Hương Sắc Trong Vườn Văn, Ngữ Pháp Việt Nam (ông viết chung với Trương Văn Chình), Tô Đông Pha, Đông Kinh Nghĩa Thục, bản dịch Sử Ký của Tư Mã Thiên, bản dịch Chiến Quốc Sách của ông và ông Giản Chi là quí giá.

Chưa hết! Ông còn giúp tôi làm quen với Somerset Mangham qua dịch phẩm những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Anh như Lưỡi Dao Cạo (The Razor's Edge), Kiếp Người (Of Human Bondage), hay tập truyện ngắn Mưa; giúp tôi cảm phục thêm tài viết tiểu thuyết của văn hào Nga Leb Tolstoi với bản dịch bộ trường thiên tiểu thuyết Chiến Tranh Và Hoà Bình; giúp tôi nhận ra được tinh thần minh triết của hai nhà văn hóa André Maurois và Will Durant; giúp tôi lấy lại được niềm vui cuộc sống khi gặp những điều rủi ro với bản dịch cuốn The Importance of Living của Lâm Ngữ Đường (nhan đề bản dịch là Một Quan Niệm Về Sống Đẹp). Hai trong năm cuốn sách ảnh hưởng quan trọng đến cuộc đời tôi là cuốn The Importance of Living của Lâm Ngữ Đường và Lessons of History của Will Durant. Cả hai cuốn đó đểu do Nguyễn Hiến Lê dịch ra Việt ngữ.

Từ đó về sau, Nguyễn Hiến Lê hiện diện thường xuyên trong cuộc đời tôi. Càng về sau, tầm nghiên cứu của ông càng rộng, khả năng tổng hợp và nhận định của ông càng bao quát, và với cái nhìn minh triết nhân bản, lúc nào ông cũng giúp tôi hiểu rõ được mấu chốt của từng vấn để. Đọc sách ông viết, tôi tìm được cảm giác lâng lâng yêu đời và lòng từ ái bát ngát, giống y như lúc tôi đọc những cuốn sách của André Maurois và Will Durant. Về sau, khi đã quen thân với Nguyễn Hiến Lê, tôi được ông xác nhận rằng hai tác giả đó là mẫu mực mà ông luôn luôn mong ước vươn tới.

Năm 1971, sau một thời gian thiếu tự tín và tìm kiếm chính mình, tôi bắt đầu mạnh dạn viết lách. Đó cũng là thời tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đang hồi thịnh hành nhất, nên tôi viết một tiểu luận ngắn nhan đề Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung. Tập tiểu luận viết xong đã lâu, một phần có cho đăng ở báo nhà trường hoặc báo in ronéo của thân hữu, nhưng tôi vẫn loay hoay chẳng biết làm gì với tập bản thảo mỏng này. Rồi một người bạn, chẳng hiểu do kinh nghiệm cá nhân hay do đâu, bảo tôi nên gửi bản thảo nhờ Nguyễn Hiến Lê đọc hộ.

Tôi làm theo lời khuyên của bạn, và đúng một tuần sau, tôi nhận được lá thư đầu tiên của Nguyễn Hiến Lê gửi từ địa chỉ đường Kỳ Đồng Sài Gòn. Lá thư dài đến ba trang giấy chữ nhỏ viết cẩn thận rõ ràng, trong đó ông thú thật lâu nay không thích đọc các truyện chưởng Kim Dung. Tuy nhiên ông nhận thấy những điều tôi ghi nhận về tư tưởng Kim Dung đều đúng. Chưa hết. Ông tỉ mỉ ghi nhận những chỗ tôi viết chưa chính xác, những lỗi chính tả cần sửa. Nhận lá thư đó, tôi sửng sốt và cảm động đến bàng hoàng. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng một người cầm bút tiếng tăm như Nguyễn Hiến Lê lại chịu khó ngồi đọc thật kỹ tập bản thảo của một người trẻ xa lạ và sau đó chịu khó ngồi viết thư phúc đáp, với những lời phê bình tỉ mỉ cẩn trọng, chứ không phải chỉ là những câu cảm ơn đãi bôi. Nếu trừ đi hai ngày thư đi và hai ngày thư về, tôi tính nhẩm, ông Nguyễn Hiến Lê đã dành ba ngày để đọc và góp ý kiến về bản thảo Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung của tôi. Hai tuần sau, tạp chí Bách Khoa đăng chương đầu của tập bản thảo, và sau này anh Lê Ngộ Châu xác nhận rằng chính ông Nguyễn Hiến Lê đã đưa lại cho tòa soạn. Đó là lần đầu tôi có bài đăng trên Bách Khoa, tháng Chín năm 1971.

Từ đó các bài nhận định tổng kết tình hình văn học cuối năm, những truyện ngắn, truyện dài của tôi liên tiếp xuất hiện trên Bách Khoa, do tôi trực tiếp gửi đến tòa soạn. Tháng 11 năm đó, có dịp vào công tác ở Sài Gòn, ghé tòa soạn Bách Khoa, anh Lê Ngộ Châu rủ tôi đi thăm Nguyễn Hiến Lê. Đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, tại căn nhà yên tĩnh sau lưng ngôi chùa ở đường Kỳ Đồng.

Căn phòng khách đó có vẻ biệt tịch khác thường mà bất cứ ai bước chân đến một lần về sau không bao giờ quên được. Một bộ xa-lông xếp đặt mỹ thuật, ngăn nắp. Bức tranh Tàu vẽ ngựa ở bức tường đối diện cửa ra vào. Tranh thầy đồ dạy học ở bức tường phía tay phải. Tiếng dép bước nhẹ ở cầu thang. Một ông già thân hình ốm, khuôn mặt xương xương, đôi mắt sáng quắc, mặc bộ đồ bà ba mầu trắng. Hộp thuốc rê với những mẩu giấy vấn cắt phân nửa khổ giấy vấn thông thường. Những lời thăm hỏi chân tình. Những nhận xét về những điều đã đọc. Cảnh sống ấy, lối sống ấy , tôi mơ ước biết bao nhiêu năm mà không bao giờ, phải, có lẽ không bao giờ có được. Cuộc sống đơn giản, yên tĩnh để sống trọn với sách vở. Niềm hạnh phúc có được một căn phòng riêng, một bàn viết khuất tịch, khỏi quá lo lắng cơm áo để chỉ viết sách cũng đủ sống và sống để viết sách. Giấc mơ ngàn năm, giấc mơ viển vông của biết bao người cầm bút, mà Nguyễn Hiến Lê đã có được.

Về sau khi đã trở nên thân tình trong không khí ấm cúng của gia đình Bách Khoa, tôi mới biết để thực hiện được giấc mơ đó, Nguyễn Hiến Lê đã có những quyết định khác thường và sự cần cù kiên nhẫn phi thường. Ông đã từng phải lựa chọn giữa hai ngả đường: một bên là đời sống phẳng lặng ổn định của một công chức nhà nưởc, một bên là cuộc sống bạc bẽo thiếu thốn của một người cầm bút chân chính.

Ông đã chọn con đường thứ hai, thôi làm công chức để dành trọn thì giờ viết sách và lo cho nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê. Tính đến cuối năm 1974, ông đã in được 100 cuốn sách đủ loại: biên khảo, dịch thuật, sáng tác, và cuốn nào cũng được viết với một sự cẩn trọng tối đa. Tôi đã từng thắc mắc chẳng hiểu ông tìm được đâu ra thì giờ mà viết được chừng ấy sách. Và tôi đã tìm ra câu trả lời. Ông tự đặt cho mình một thứ kỷ luật sắt và theo đúng được thời khóa biểu làm việc một ngày tám tiếng suốt mấy mươi năm. Một cây bút Bic, bốn tờ giấy trắng có lót giấy than, ông lần lượt viết tay như thế hết cuốn này đến cuốn khác, bất kể mưa nắng, bất kể mạnh khỏe hay đau yếu, ngày nào vì lý do bất khả kháng không viết được thì ngày hôm sau viết bù, cứ như vậy, ông viết, dịch, ghi chép, tìm tài liệu...Cứ tưởng tượng một cụ già mảnh khảnh đau yếu ngồi ở bàn viết hết năm này đến năm khác lần lượt dịch hết bộ Chiến Tranh Và Hoà Bình rồi Sử Ký Tư Mã Thiên, Chiếc Cầu Trên Sông Drina, Vinh Nhục Một Đời, khảo về Văn Minh Trung Hoa rồi đến Văn Minh Ấn Độ, tìm cho được Bài Học Do Thái, tìm hiểu Kinh Dịch rồi tìm hiểu tương lai nhân loại năm 2000, cuộc đời Tô Đông Pha...Bấy nhiêu công việc ôm đồm một mình làm hết trong một đời người, hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc. Vậy mà vẫn còn thì giờ để đọc rất kỹ bất cứ bản thảo hay cuốn sách của bất cứ người viết trẻ vô danh nào gửi tới tặng và xin ý kiến.

Sau năm 1975, mặc dù biết từ đây sách mình viết ra khó lòng tìm ra nơi chịu xuất bản, Nguyễn Hiến Lê vẫn tiếp tục làm việc một ngày tám tiếng cho những tác phẩm dự định biên soạn từ trước. Ông tìm hiểu và khảo cứu trở lại cả nền triết học Trung Hoa. Lúc tôi rời Việt Nam, cuối năm 1981, ông đã viết xong cuốn khảo cứu Kinh Dịch, và Đạo Đức Kinh. Ông cũng đã sửa chữa và hoàn tất tập hồi ký về cuộc đời viết văn của mình. Lúc nào tôi đến ngôi biệt thự yên tĩnh ở đường Kỳ Đồng để thăm ông, Nguyễn Hiến Lê vẫn hiện ra y như lần đầu tiên tôi gặp: bộ bà ba trắng, đôi mắt tinh anh sáng quắc, những lời thăm hỏi ân cần, điếu thuốc rê nhỏ xíu bên mép và những cuốn sách ông đang viết hay sắp viết.

Năm 1980, sau khi viết được 1000 trang nửa đầu bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ đề tài là cuộc đời vua Quang Trung từ thời hàn vi cho đến lúc mất, tôi mang xấp bản thảo dầy cộm đến nhà Nguyễn Hiến Lê nhờ ông đọc hộ. Dù bận viết cho xong bộ Kinh Dịch, ông vẫn vui vẻ nhận xấp bản thảo, hẹn một tháng sẽ trả lại cho tôi. Đúng một tháng sau, đến thăm ông, ông đưa cho tôi tập bản thảo với những lời ghi chú phê bình bằng bút chì rất cẩn thận chi tiết. Chẳng hạn ở đoạn tôi tưởng tượng Nguyễn Nhạc (lúc bấy giờ trên ba mươi tuổi) gửi hai cậu em Lữ và Huệ xuống An Thái học chữ nho thầy giáo Hiến, tôi có tả cảnh ông anh cả đưa cho Nguyễn Lữ số tiền 50 quan. Nguyễn Lữ đưa tay nhận món tiền của anh, cúi đầu nghe những lời căn dặn, rồi từ biệt ra đi. Nguyễn Hiến Lê lưu ý tôi về số tiền 50 quan này. Vì căn cứ theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, thì hồi đó ở phủ Qui nhơn tiền lưu hành hầu hết là tiền kẽm, lại là thứ tiền kẽm xấu nặng trình trịch dễ mục dễ vỡ. Năm mươi quan mà tính theo tiền kẽm phải là một xâu tiền nặng, cho nên không thể có cảnh Nguyễn Lữ đưa tay khơi khơi nhận 50 quan của Nguyễn Nhạc được. Cả hai cậu em Huệ Lữ phải khệ nệ mất nhiều sức lắm mới xách nổi xâu tiền. Nên ông đề nghị tôi rút bớt số tiền xuống cho hợp lý.

Lần nào tới thăm ông, tôi đều được học những bài học bất ngờ như vậy. Và mỗi lẫn gặp ông, tôi đều nhớ lại hai câu thơ cổ:

Khẳng khái cần vương dị
Thung dung tựu nghĩa nan.

Vâng, ông là người không ồn ào, không phô trương hào nhoáng, không cố làm cho người đời thấy mình rực rỡ lóng lánh mà chỉ lặng lẽ làm việc, thung dung đạt được điều nghĩa.

Niềm tin tưởng ở công việc mình làm nơi ông lớn lao quá, đến độ cuộc sống và thời cuộc không ảnh hưởng nhiều đến ông. Giữa một xã hội chữ nghĩa mất giá, ông vẫn giữ trọn niềm trân trọng đối với chữ nghĩa.

Tôi cho đó là bài học lớn tôi học được nơi ông.

















Nguyễn Hiến Lê: “Nhân sinh quan của tôi”


Rải rác trong các tác phẩm của tôi thường đưa ra những suy tư, ý kiến của tôi về nhiều vấn đề, dưới đây tôi lựa và gom lại một số thuộc về nhân sinh quan:

1. Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại quả đã tiến về rất nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ, thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy theo khả năng mỗi người.

2. Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải, chứ không phải vì ý muốn của Thượng Đế hay một thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết Bàn hay Thiên Đàng.

3. Quan niệm thiện ác thay đổi tùy thời, tùy nơi. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện; cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa, mà hóa ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, toàn tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội ở thời nông nghiệp, tới thời kỹ nghệ, không còn lợi cho gia đình, xã hội nữa nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thải quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội.

4. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, dân tộc nào văn minh cũng trọng, như đức nhân, đức khoan hồng, công bằng, sự tự do, tự chủ…

5. Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể, không có của riêng.

6. Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, tề gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người.

7. Nên trọng dư luận nhưng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm.

8. Mỗi người đã phải đóng vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống giữa sách và hoa, được lòng quí mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách được hàng vạn người hoan hô, mà có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nên nhận một chức tước gì của chính quyền.

 9. Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, và tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.

10. Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, giản dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.

11. Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân.

12. Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập; cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi, tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của mọi người.

13. Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư, không phải nghề tự do, thì không thể gọi là một xã hội tự do được.

14. Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn thì mới giữ được độc lập tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh vì lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không.

15. Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý, hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì thế nào cũng sẽ mang họa vào thân.

16. Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hoàn toàn hợp ý mình; phải sống chung năm ba năm mới biết rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi chỉ mới thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cá nhân ông bà lẫn cho xã hội.

17. Hiện nay ở Mỹ có phong trào kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà còn có thể gây nhiều xáo trộn trong xã hội.

18. Có những hoa màu sắc vô hương mà ai cũng quí như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường.

19. Chơi hoa tôi thích loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lan hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.

20. Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được.

21. Cơ hồ không thể thay đổi được bản tính con người : người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già cũng vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích lợi.

22. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng có quy củ, kỷ luật biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm, và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.

23. Thay đổi bản tính loài người như Mặc Tử, như Karl Marx muốn là chuyện không dễ một sớm một chiều.

24. Thế giới còn những nước nhược tiểu có nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai thác biển, đáy biển. Họ còn sống lâu. Tuy nhiên, cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời này đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi lần lần.

25. Xã hội bao giờ cũng có kẻ tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói lúc thì âm (xấu) thắng lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời khi giải quyết xong thì lại sinh ra việc khác liền sau quẻ ký tế (đã xong) tiếp ngay tới quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi còn thì để lại cho các thế hệ sau.

26. Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút đừng giàu. Nhưng hồi 50 tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa : sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.

Nghiên Cứu Lịch Sử
30 tháng 11, 2018 ·



















Lê Thanh Thái, Lê Ngộ Châu, Võ Phiến, Nguyễn Hiến Lê, Vũ Hạnh
(Ban biên tập tạp chí Bách Khoa)











Trở về













MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.
















Friday, 5 June 2020

Lê Mộng Nguyên















Lê Mộng Nguyên
(05/05/1930 Huế - ..... )

Nhạc sĩ

GS-TS Quốc gia, Viện Sĩ Viện HLKHHN Pháp



Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên là tác giả ca khúc nổi tiếng Trăng mờ bên suối. Ông còn là giáo sư, tiến sĩ Luật và Khoa Học Chính trị, được bầu vào Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại của Pháp. Ngoài ra, Lê Mộng Nguyên còn viết văn và làm thơ.





Tiểu sử

Lê Mộng Nguyên sinh ngày 5 tháng 5 năm 1930, tại Phú Xuân, Huế. Lê Mộng Nguyên dùng tên thật cho hầu hết các sáng tác, đôi khi ông dùng một bút danh khác là Yên Hà hoặc Lan Đào. Ông là con trai áp út của một gia đình nho giáo, điền chủ ở tỉnh Thừa Thiên. Cha ông tên Lê Viết Mưu, mẹ là bà Hồ Thị Ngô. Ông bà có bảy người con, trong đó Lê Mộng Hoàng, anh của Lê Mộng Nguyên là một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng.

Lúc nhỏ, Lê Mộng Nguyên bắt đầu đi học ở trường làng Phú Xuân, rồi vào học trường Tiểu học (École Primaire) Chaigneau ở Huế. Sau đó ông thi tuyển vào trường trung học Khải Định và là một trong ba người đỗ đầu, được Chính phủ cấp học bổng. Ông học ở đó từ 1943 đến khi thi Tú tài năm 1950.
Lê Mộng Nguyên làm thơ, nhạc và viết văn từ thuở nhỏ, lúc 9 tuổi khởi sự làm thơ và có nhiều bài được đăng trong nội san của trường trung học Khải Định với bút danh Yên Hà.

Năm 15 tuổi, trong một cuộc thi Văn chương Học sinh trường Trung học, ông viết một bài về Phan Đình Phùng và đạt giải thưởng Hoàng Đế Bảo Đại, năm đó ông cũng sáng tác ca khúc đầu tay "Xuân Tươi" (dưới bút hiệu Lan Đào), được báo ‘’Quốc gia’’ đăng trong ‘’Đặc San Mùa Xuân’’. 
Năm 18 tuổi Lê Mộng Nguyên đã được cấp thẻ nhà báo, cộng tác cùng nhiều tờ báo khi đó: Phật giáo Văn Tập, Quốc gia, Việt Nam Tân Báo, Đường Mới.

Năm 1950, sau khi tốt nghiệp Tú tài toàn phần tại Việt Nam, Lê Mộng Nguyên sang Pháp du học, được ông Nguyễn Khoa Nam bảo lãnh tại Paris[1]. Ban đầu ông muốn theo học hòa âm tại Trường âm nhạc Paris nhưng sau đó bỏ ý định, quay sang học luật tại Khoa luật và Khoa học Kinh tế Đại học Paris 1 Panthéon Sorbonne (Faculté de Droit et de Sciences Economiques).

Năm 1954, Lê Mộng Nguyên tốt nghiệp cử nhân Luật. Từ năm 1955 tới năm 1958, ông được mời làm tùy viên kinh tế và xã hội cạnh Tòa đại sứ Việt Nam tại Paris (Attaché économique et social près l'Ambassade du Vietnam à Paris) dưới quyền của đại sứ Việt Nam Phạm Duy Khiêm. Sau đó ông quay lại trường đại học và thi đậu cuộc thi để được hành nghề luật sư. Năm 1962, ông đậu Tiến sĩ quốc gia (Doctorat d'État) với ba bằng cao học về Droit public, Droit privé và Sciences Politiques. Sau khi thôi hành nghề luật sư, năm 1967, Lê Mộng Nguyên dạy luật Hiến pháp (Droit constitutionnel) và Khoa học Chính trị (Sciences politiques) tại trường Đại học thành phố Besançon, miền Đông nước Pháp. Năm 1985 ông quay lại Paris và giảng dạy tại Đại học Paris 8 Saint Denis đến khi về hưu năm 1997. Trong thời gian đó, ông cũng sáng tác nhiều ca khúc, nhưng không phổ biến. Tuy ít tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Pháp, nhưng ông cũng đã ký tên ủng hộ việc cứu trợ nạn thuyền nhân vượt biển. Sau khi về hưu, ông cộng tác với vài báo chí Việt tại hải ngoại, trong đó có nguyệt san Nghệ thuật của nhạc sĩ Lê Dinh và Hồn Việt của ký giả Vương Huyền.

Lê Mộng Nguyên thành hôn với Nicole Moulin, một phụ nữ người Pháp vào ngày 8 tháng 1 năm 1959. Trước đó hai năm, họ gặp nhau sau một cuộc biểu tình tại quận La Tinh Paris. Hai người không có con. Ông cũng chưa từng về lại Việt Nam từ khi đi du học năm 1950.




Ngày 5 tháng 12 năm 1997, Lê Mộng Nguyên được bầu vào Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại (Académie des Sciences d'Outre-Mer) của Pháp, thay thế cho Cựu Hoàng Bảo Đại. Người được bầu vào Hàn Lâm Viện này phải có những tác phẩm được xuất bản, những công trình nghiên cứu đáp ứng đường lối của hàn lâm viện trong công cuộc phát triển văn hóa, khoa học, kinh tế, kỹ thuật hay nhân loại của những quốc gia hải ngoại trong khối Pháp. Lê Mộng Nguyên là người Pháp gốc Việt đầu tiên được bầu làm hội viên chính thức (membre titulaire), có thể được bầu làm chủ tịch Hàn Lâm Viện này và có quyền bầu để chọn người vào làm hội viên.
Trước đó, đã có một số người Việt làm hội viên liên lạc (membre correspondant) như Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng; hội viên cộng tác (membre associé) Thái Văn Kiểm. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng là hội viên chính thức tự do (membre titulaire libre), có nghĩa là hội viên thực thụ không thuộc ban (section) nào cả nhưng có quyền bỏ phiếu hay tranh cử bất cứ chức vụ nào của Hàn Lâm Viện.



Sự nghiệp âm nhạc


Lê Mộng Nguyên tự học nhạc từ khi còn nhỏ, học đánh đàn mandoline với một người bạn học cùng lớp, sau đó có học guitar và violon. Ông sáng tác ca khúc đầu tay Xuân tươi vào năm 15 tuổi ký tên Lan Đào. Bài nhạc Mừng Khánh Đản đã được Thượng tọa Minh Châu nhờ Lê Mộng Nguyên sáng tác vào năm 1948 nhân dịp khánh thành Chùa Từ Đàm.

Nhạc phẩm nổi tiếng nhất của Lê Mộng Nguyên Trăng mờ bên suối được viết ngày 13 tháng 11, năm 1949 khi ông mới 19 tuổi. Trăng mờ bên suối nói lên nỗi lòng của tác giả khi nhớ người yêu, nhớ sông Hương núi Ngự trước khi lên đường sang Pháp du học vào năm 1950. Trong một bức thư trả lời một người bạn, Lê Mộng Nguyên viết: "Bài trăng mờ bên suối viết ngày 13 tháng 11 năm 1949 (tôi còn giữ bản thảo), một buổi chiều không mưa ở nhà một mình tôi ở Huế (đường Gia Long), với cây lục huyền cầm Y Pha nho, vừa nhạc vừa lời song song với nhau, rất mau lẹ (từ 20 đến 30 phút là xong), trong một cuốn vở có phân ly (papier millimétré) đầy ký chú những bài học Lý Hóa ở trường Khải Định". Lời hát của Trăng mờ bên suối cổ điển và sang trọng, khá giống với Suối mơ của Văn Cao:
Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu Một đêm thiết tha rồi đây xa cách Rồi đây hai ngả biết tới phương nào...Suối mơ... lời hẹn ước ven bờ suối xưa Nhớ chăng... người phương xa trong khói điêu tàn Suối ơi... vờn theo bóng trăng vàng ngày xanh Nào những lúc trên thuyền say sưa Nhìn trăng vừa lên, ai hay chia lìa Sương khói biên thùy hiu hắt người đi xa trường sa...

Tuy được viết vào cuối năm 1949, nhưng Trăng mờ bên suối được xem như một ca khúc tiền chiến và đã trở thành bất hủ của tân nhạc Việt Nam. Nhạc sĩ, ca sĩ Thu Hồ là người hát Trăng mờ bên suối đầu tiên trên đài phát thanh Pháp Á năm 1949.

Lê Mộng Nguyên cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên sáng tác về Huế, miền Trung, ca tụng nơi ông đã sinh ra và lớn lên. Ngoài những nhạc phẩm có tính cách tranh đấu như Vó ngựa giang hồ (1949), hay Mùa lúa mới và Trường ca Quân tiến, từ thời thiếu niên Lê Mộng Nguyên đã sáng tác nhiều ca khúc lãng mạn "để tiếp theo hứng cảm của các tác giả mà ông yêu chuộng như Văn CaoĐặng Thế Phong..."[2]. Từ ngày sang Pháp học, ông viết các bản nhạc nói lên nỗi nhớ quê hương như Xuân tha hương, Lá thư cho mẹ, Trời Âu... Lê Mộng Nguyên cũng viết bản Bụi đời, Người đã trở về cho bộ phim Bụi đời do anh trai ông là Lê Mộng Hoàng đạo diễn năm 1957.

Khoảng 1990, tại Việt Nam, một tuyển tập nhạc Phật giáo gồm 25 bài do Lê Mộng Nguyên viết trước năm 20 tuổi đã được Giáo hội Phật giáo Việt Nam xuất bản.






















Tác phẩm

Âm nhạc





Bài Thơ Huế





Bên Dòng Sông Seine






Bụi Đời

Chiều Thu

Chiều Vàng Bến Chợ Đông Ba

Chiều Vàng Năm Xưa






Cô Gái Huế






Đôi Mắt Nhung

Gia đình Thân Ái

Giao Mùa

Hoàng Hoa Thôn

Hướng Phật Đài

Kiếp Giang Hồ

Lá Thư Cho Mẹ

Ly Hương
Ma Vie Sans Toi (Đời Không Có Em)

Mơ Đà Lạt

Một Chiều Thương Nhớ

Mưa Huế

Mùa Lúa Mới 






Mừng Khánh Đản






Người Đã Trở Về

Nhớ Huế

Quê Tôi

Trái Tim Đau

Lời Cuối Của Anh

Hồi Hướng

Tìm Lại Ngày Xưa

Thề Non Nước

Thu Sầu

Thu Trên Sông Seine

















Trời Âu

Trọng Thủy Mỵ Châu

Trường Ca Quân Tiến

Về Chơi Thôn Vỹ

Việt Nam Thắm Tươi

Vó Ngựa Giang Hồ

Xuân Tha Hương

Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương

Xuân Tươi

Nhớ Cha

Nhung Nhớ

Em Cho Anh Tình Yêu

Hòa nhịp yêu thương

Giao Mùa

Soi Gương

Yêu anh em làm thơ

Bến Đời Không Ước Hẹn

vân vân.














nghe những bài hát hay nhất của Lê Mộng Nguyên









Các tác phẩm khác



La Constitution de la Vème République de Charles de Gaulle à François Mitterrand

(4ème édition, 1994, Ed. STH)
Hiến pháp đệ Ngũ cộng hòa từ Charles de Gaulle tới François Mitterrand



Les systèmes politiques démocratiques contemporains

(4ème édition, 1994, Ed. STH)
Những hệ thống chính trị dân chủ cận đại



Initiation au droit

(1996, Ed. L'Hermès)
Hành trình đi vào luật pháp



La Constitution de 1958

(1996, ed. L'Hermès)
Hiến pháp 1958



Le Budget de l'Etat

(1997, ed. L'Hermès)
Ngân Quỹ Quốc gia



Finances Publiques

(1997, ed. L'Hermès)
Tài chính Công Cộng







Bốn sách tổng hợp: 



Les agglomérations urbaines dans les Pays du Tiers Monde
(1971, ed. de l'Institut de Sociologie, Bruxelles, Bỉ)
Vùng thành thị trong các quốc gia đệ Tam thế giới



Le Vietnam au temps présent

(1992, Đường Mới)
Xứ Việt Nam đương thời



Đảng Cộng sản trước thực trạng Việt Nam

(1994, Đường Mới)



Những Vấn đề Cấp Thiết của Việt Nam

(1995, Tiếng Gọi Dân tộc xuất bản)



Tập thơ Đời Không Có Em

(1998)





Cùng hơn một trăm bài xã luan viết về Hiến pháp và Dân Chủ cho nhiều tạp chí Âu châu tiếng tăm.








Chú thích


^ Khi đó Lê Mộng Nguyên 20 tuổi, trong khi tuổi trường thành thời ấy là 21
^ Trích phỏng vấn Lê Mộng Nguyên


















Phỏng Vấn Nhạc Sĩ Lê Mộng Nguyên
Bảo Trâm Thực Hiện









Bảo Trâm (BT) : Thầy bắt đầu sáng tác vào năm mấy tuổi ? Trong trường hợp, cảnh huống nào ? 
Lê Mộng Nguyên (LMN) :Xin Trâm cho tôi bắt đầu nói về thi văn vì đó là nguồn gốc của sáng tác âm nhạc trong trường hợp riêng tôi. Làm thơ từ 9 tuối và được người ta biết là có khiếu viết văn ngay từ dạo ấy ở Huế, tại trường cao đẳng tiểu học Chaigneau, tôi diễn tả ‘’Cái ghen của Hoạn Thư’’ trong một bài thi lên lớp được thầy quá khen và đã không ngần ngại cho điểm 20 trên 20... và sau này trong tuyển thải giữa các thí sinh trường trung học (concours général) ở cựu thủ đô đế quốc An-Nam, tôi chiếm Giải Nhất (Giải Thưởng Bảo Đại). Sở dĩ tôi bắt đầu bằng thơ và quốc ngữ vì hai điểm này (như tôi đã nói trên) có dính dáng đến sự nghiệp soạn nhạc của tôi. Nguyên do : hồi ấy, cạnh nhà tôi ở Chợ Cống (Phú Xuân) có anh Trần Kim Ngọc lớn hơn tôi độ ba bốn tuổi, biết tiếng tôi viết văn hay nên nhờ tôi đặt lời cho vài bản nhạc của anh sáng tác qua cây đàn mandoline. Để thuận tiện, anh Ngọc dạy cho tôi đàn măng cầm và bán rẻ cho tôi cây đàn của anh vì anh quá thích lời tôi viết cho nhạc của anh. Từ đó, tôi tập đàn và bắt đầu sáng tác trên măng cầm (sau này, qua lục huyền cầm Y pha nho) và mặc dầu chưa đọc một sách nhạc lý nào cả, tôi tìm kiếm một mình và tự học qua những bản nhạc đã xuất bản lúc bấy giờ của Lưu Hữu Phước, như Bạch Đằng Giang, Nam Tiến, Hội Nghị Diên Hồng... hoặc nhạc hướng đạo như Lên Đàng, Gọi Đoàn... hoặc những bản ca quốc tế đặt lời Việt như trong tập ‘’Đời Vui Sướng ‘’ của Phạm Văn Xung, ‘’Tiếng Chim Ca’’ của Lưu Ngọc Văn và Đào Văn Thiết... Bài Xuân Tươi là bài tôi sáng tác đầu tiên năm 15 tuổi, tôi rất hãnh diện được báo ‘’Quốc Gia’’ cho đăng ngay trong ‘’Đặc San Mùa Xuân’’ (dưới bút hiệu Lan Đào là tên 2 người em gái của một người bạn thân thiết, anh Trần Đình Bá) : Xuân về chào đời, Ngàn thắm tươi, Xuân về đầy lời tràn núi sông, Hát vang trong bao nhiêu lòng, Chào Quốc gia, mừng hát ca đời thắm hoa, vân vân. Lời nhạc trong sáng, vô tư, đúng là hình ảnh của một thời êm đẹp đã qua !

Sau đó tôi tự học (autodidacte) nhạc lý trong sách ‘’La deuxième année DE MUSIQUE Solfège et Chants’’ của Ạ MARMONTEL, Paris Armand Colin 1890, cả thảy 336 trang nhưng rất đầy đủ vì có rất nhiều tỉ dụ lấy từ những bài nhạc lừng danh. Về phần hòa âm, tác giả cho vài ‘’Notions élémentaires d’harmonie’’, vỏn vẹn 6 trang mà thật quá ích lợi cho bất cứ người nào mới bắt đầu trong lãnh vực. Hiện giờ, tôi vẫn giữ cuốn sách cũ kĩ này của ông Marmontel với những lời mở đầu do các nhạc sĩ đại tài thuộc Bác sĩ Học viện Pháp (Institut de France) như Gounod, Massenet, Saint-Saẽns, Delibes... như một kỷ vật đáng tôn thờ. Từ nhạc vui mạnh đến nhạc buồn lãng mạn (vì hoàn cảnh chiến tranh và những cuộc tình dang dở) và để tiếp theo hứng cảm của các tác giả tôi yêu chuộng như Văn Cao (Suối Mơ), Đặng Thế Phong (Con Thuyền Không Bến), Nguyễn Văn Thương (Đêm Đông), Hoàng Giác (Ngày Về), Dzoãn Mẫn (Biệt Ly), Anh Việt (Bến Cũ)... tôi đã làm trong những năm 1948, 49, 50 những bản nhạc mà hơn nửa thế kỷ sau người ta vẫn còn ưa thích, như Nhớ Huế, Bài Thơ Huế, Mỵ Châu Trọng Thủy, Trăng Mờ Bên Suối...

(BT) : Trong thời gian du học tại Pháp, thầy có sáng tác gì nữa không ? Nếu có, thì những sáng tác ấy mang chủ đề gì ? Nếu không, xin thầy cho biết lý do tại sao ?
(LMN) : Trong mấy năm đầu : 1951, 1952 và 1953... ở Paris, tôi tiếp tục sáng tác, hôm nay dở lại bản thảo, thấy có nhiều bài diễn tả nỗi lòng cô quạnh của một người trai trẻ sống trên đất khách, xa nhà, quê hương và người yêu dấu. Nhớ nhà và ân nghĩa sinh thành, tôi viết bài Lá Thư Cho Meï và sau khi ba tôi mất, bài Tìm Lại Ngày Xưa để tặng hương hồn người thân phụ quá cố. Tôi có kể chuyện này trong bài tùy bút ‘’Những cái chết đã qua trong đời tôi hay là những mảnh đời không tươi sáng...’’ (xem Hồn Quê 6, ngày 15-06-2001). Về phần tình cảm và lãng mạn nhớ nhung, có bài Tha Hương (viết đêm 11-12-1950, 2 tháng sau khi tôi đặt chân xuống phi trường Orly-Paris ngày 05-10-1950, cung ré mineur với (hành nhạc) : Tempo di English Waltz), chưa đặt lời... tôi cũng không hiểu tại sao. Đến lượt Xuân Tha Hương rất thiểu não... và từ Hiệp định Genève năm 1954, một số bài tiêu biểu như : Sông Seine, bao giờ ta veà nước Nam ? Kiếp Giang Hồ, Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương, Bụi Đời (cảm đề phim do Lê Mộng Hoàng đạo diễn), và gần đây : Quê Tôi, Chiều Vàng Năm Xưa... đó là không kể Thu Trên Sông Seine, Giao Mùa, Thề Non Nước là những bài thơ của Vương Thu Thủy, Phạm Ngọc, Tản Đà được tôi phổ nhạc.


(BT) : Lần đầu Trâm gặp thầy, trong giảng đường đại học vào năm 1986, Trâm lên bục giảng hỏi thầy : Phải thầy là tác giả của Trăng Mờ Bên suối không ?... Thầy đã nghĩ gì ngay lúc ấy ? Tâm trạng thế nào ? Ngạc nhiên ? Vui ? Ngậm ngùi ?
(LMN) : Trước hết, xin cảm ơn Trâm đã kể lại cuộc ‘’gặp gỡ’’ này trên NET và gần đây trên báo Nghệ Thuật của nhạc sĩ Lê Dinh ở Montréal, qua bài tùy bút Kỷ niệm với tác giả của Trăng Mờ Bên Suối rất dịu dàng và nhung nhớ, đã làm tôi xúc động vô cùng. Trâm viết năm 1998 mà tôi chỉ mới được đọc hồi tháng tư năm nay (2001) nghĩa là từ ngày tôi có Internet và gia nhập ‘’Nhóm Sáng Tác’’ của Trâm và một số thân hữu chủ trương. Hồi ấy tôi chỉ thoáng nghe Phương Khanh nói là Trâm có viết một bài kỷ niệm với tôi rất hay nhưng tôi chưa vào Internet mà cũng không biết cách nào để đọc trên máy người khác. Lúc Trâm đến hỏi tôi năm 1986 sau bài học về ‘’Khoa học Chính trị’’ tôi dạy hôm ấy cho sinh viên của Département d’Administration Economique et Sociale mà tôi được hân hạnh làm giám đốc (directeur) ở đại học Paris VIII, tôi hơi ngạc nhiên trong khoảnh khắc vì chuyện đã xưa rồi mà nay vẫn còn có người (một cô sinh viên nhỏ nhắn, xinh xắn và e dè) nhắc nhở trên đất khách, nhưng lòng thấy vui vui như một hạnh phúc mong manh đã trở lại sưỡi ấm một quả tim lưu lạc. Hồi ấy, tôi không liên lạc nhiều với cộng đồng VN, nhưng mỗi lần gặp một sinh viên VN nhất là phái nữ ghi tên theo dõi những ‘’khoa quyết tuyển’’ (matières à option) của tôi, là một nguồn hãnh diện mới... Sau đó, Trâm có tặng tôi một tập thơ (7 bài) với nhan đề ‘’Hoàng Hôn Trắng’’ và một băng cassette audio trong đó Trâm tự hát và ghi âm (đàn đệm lục huyền cầm) những bài đượm tình nhung nhớ (như tôi đã kể lại trong ‘’Từ Mây Khúc đến Hẹn Anh 15 Năm của Bảo Trâm - Trang Thanh Trúc hay là Paris và Montréal trong tình đời và tình người’’, ns HỒN QUÊ 7 , ngày 15-07-2001).


(BT) : Trâm xem lại một số sáng tác của thầy, thấy chủ đề quê hương rất nhiều, hoặc nhắc về một tình yêu nào đó trong dĩ vãng và cái dĩ vãng ấy luôn luôn được lồng trong khung cảnh quê hương. Có đúng như vậy không ? Và nếu quê hương luôn luôn hiện diện trong những nhạc phẩm của thầy, thầy có bao giờ trở lại quê quán chưa ? Có hoặc không, xin thầy có thể cho biết lý do ?
(LMN) : Xin Trâm biết rằng không những chỉ trong một số sáng tác mà hơn nữa tôi có thể nói là trong tất cả những sáng tác của tôi, bất kể là nhạc hùng từ Vó Ngựa Giang Hồ (1948) đến Việt Nam Thắm Tươi (2001) hay nhạc tình cảm từ Trăng Mờ Bên Suối (1949) hay Nhớ Huế (1950) cho đến Thề Non Nước (2001) và Chiều Vàng Năm Xưa (05-11-2001), qua gần một trăm bản nhạc mà tôi đã cho in hay viết ra, chủ đề duy nhất là quê hương đất nước, hứng cảm tận cùng là làng mạc, thôn xóm, sông Hương, núi Ngự với một dĩ vãng vừa êm dịu vừa thương đau, một mối tình dang dở nhưng đã trở thành bất diệt như bài Trăng Mờ Bên Suối (1949) làm tại quốc nội (xin xem tùy bút ‘’TMBS hay là cuộc hành trình trong một quá khứ lãng mạn và thương yêu’’ của Lê Mộng Nguyên, Hồn Quê 9, ngày 15-09-2001) hay Xuân Tha Hương (hoặc Kiếp Tha hương) viết tại Paris (1952) trong những ngày đau khổ và cô quạnh trên đất khách ... : Chỉ thiếu một mình em chiều nay phương trời Âu xa vời. Mây kéo lê thê, trời nước bao la kìa dòng sông Seine lơ lửng xuôi ngày tháng. Mùa xuân đến khắp trời, khắp nơi người ta đi lướt thướt. Riêng tôi đứng nhìn, nhớ lại ngày qua cùng em sánh vai bên dòng đời âm thầm ! Tôi nhớ sông Hương với giọng hò cô lái. Khi thấy sông Seine nước đục lờ không tình yêu ! Vườn hoa nơi đây lại gợi nhớ Văn Lâu. Sao lúc xuân về mà nước non âu sầu ? Xa cách muôn trùng bởi vì đâu còn lưu luyến ? Ngày xưa tiếng đàn còn thiết tha tình duyên ! Bài này (do nhà xuất bản An Phú phát hành ở Saigon) đã được Thái Thanh hát lần đầu tiên tại Đài phát thanh Việt Nam trong năm 51-52 theo lời yêu cầu của người yêu của tôi còn ở lại bên nhà. Đầu năm nay (tháng 02-2001), tôi có viết nhạc phẩm ‘’Ma Vie Sans Toi’’ (Đời Không Có Em), lời bằng tiếng Pháp (mà cũng là cả một bài thơ) theo nhạc của TMBS :Pourquoi ne viens-tu pas en France ?Où il fait bon vivre, ensembleNous continuons notre amourAu bord de la Seine du bonheur.Sous le beau ciel bleu de ParisNotre idylle le jour, la nuitReprend son cours et sa passionEn bravant le destin du mondeAMOUR ! Pour la vie ou pour un jourMon coeur bat pour toi mille fois encoreAMOUR ! de mes jeunes années passéesà travers champs, dans les présles nuits d’étéJe ne sais pas pourquoi la vienous lie et nous désunitMa vie depuis n’a aucun sensLoin du pays de mon enfanceSouffrant, je vis au jour le jourDans cette vie sans ton amour.
.. và vừa rồi (ngày 05-11-2001) bài Chiều Vàng Năm Xưa đượm nhớ nhung và buồn man mác như là tiếp nối trên đất khách một cuộc tình dang dở đã diễn tả trong ‘’Trăng Mờ Bên Suối’’.

Từ ngày Saigon mất và để trả lời câu hỏi của Trâm, tôi không bao giờ có ý định trở lại cố hương... Tôi sẽ trở lại quê quán một ngày mai nước Việt thanh bình và dân tộc ấm no, hạnh phúc. Xin lỗi Trâm, tôi không muốn nói thêm nhiều về chuyện này.


Mời nghe

(BT) : Trâm quen biết thầy từ năm 1986, nhưng không bao giờ thấy thầy có mặt trong những buổi sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng VN. Mà phải chờ mãi đến đầu những năm 90, tình cờ mới được gặp thầy trong một buổi văn nghệ của Tổng Hội Sinh Viên VN tại Paris tổ chức. Xin thầy cho biết, trong cái khoảng thời gian ấy, có nghĩa là từ lúc Trâm gặp thầy vào năm 1986 đến1990, sinh hoạt thường ngày của thầy là gì và những sáng tác vẫn tiếp tục ra đời hay đã bị gián đoạn ?

(LMN) : Nếu riêng Trâm lần đầu thấy tôi trong đêm văn nghệ Tết của THSV năm 1990, đó không phải là lần đầu tôi có mặt trong một buổi văn nghệ của đồng bào mình tổ chức. Thật ra, những năm trước đó, năm nào tôi cũng có mặt tại Nhà Hát Lớn Maubert-Mutualité để ủng hộ sinh viên nước mình (nhà tôi cách đó chừng hai phút đi bộ thôi). Trước 1990 và ngay từ năm 1977-1978, tôi đã thuộc vào nhóm trí thức kêu gọi dân tộc và nhà cầm quyền Pháp quan tâm cứu trợ nạn thuyền nhân vượt biển (boat people) do một tờ báo VN đề khởi, nhắm mục đích việc thuê chiếc tàu ‘’Đảo Ánh Sáng’’ - ỵle -de-Lumière (lúc ấy Trâm mới 12 tuối mà cũng vừa mới đặt chân trên đất Pháp thành thử không làm sao theo dõi được) vào khoảng tháng 4-1979, với sự ủng hộ của các nhóm trí thức người Pháp không phân biệt tả hữu, như Jean-Paul Sartre, Raymond Aron, Simone de Beauvoir, Maurice clavel, Jean Lacouture, André Glucksman, Yves Montand, Olivier Todd, Bernard Kouchner... Từ dạo ấy tôi có viết nhiều bài báo phần đông bằng tiếng Pháp về vấn đề Việt Nam, ngoài ra phải lo giảng dạy ở đại học Besançon, hơn nữa (tương tự bất cứ giảng sư đại học nào) phải làm ‘’travaux scientifiques’’ rất nhiều (khảo cứu về luật hiến pháp và khoa học chính trị, đăng báo và xuất bản nhiều sách) để được thăng trật và thuyên chuyển lên đại học Paris VIII từ năm 1984-1985. Trong khoảng thời gian từ 1986 đến 1990, tôi không có nhiều thì giờ để sáng tác nhạc mặc dầu hứng cảm lúc nào cũng dồi dào (lâu lâu cho đăng một nhạc mới trên báo chí hải ngoại và nhất là trên những đặc san Mùa Xuân). Ngoài ra, bắt đầu 1993 tôi viết thường xuyên những bài về chính trị VN và quốc tế (bằng Pháp ngữ) trên bán nguyệt san ‘’L’Appel de la Nation’’, và từ 1995 trên nguyệt san song ngữ ‘’Tin Tức’’ cùng trên tạp chí tam cá nguyệt ‘’Human Rights’’ (Huntington Beach), ‘’ Đối Lực’’ và ‘’Khai Thác Thị Trường’’ ở Toronto hay những bài phê bình văn nghệ rất thường xuyên từ năm 1998 trên nguyệt san Nghệ Thuật của nhạc sĩ Lê Dinh ở Montréal...




Từ trái: Mai Anh Tuấn, Lê Mộng Nguyên, Quách Vĩ Thiện, Nguyên Lộc, Trần Quang Hải, Tuyết Dung, Hoàng Yến, Linh Chi, Nguyên Dung, Nguyễn Minh Châu 

(Paris 9/8/2001) 







(BT) : Động cơ nào thúc đẩy thầy gia nhập những sinh hoạt của cộng đồng VN tại Paris ? 

(LMN) : Nỗi nhớ nhà, thương nước, thương đồng bào... đã là những lý do trong việc tôi tham gia (với chút thì giờ còn lại ngoài công ăn việc làm và viết lách), tôi nói tham gia chứ không phải gia nhập vào hội này hội khác. Tôi muốn đứng ngoài hội hè và đình đám để hăng say làm việc một mình có hiệu quả hơn, cho nên luôn từ chối làm chủ tịch, tổng thư ký hay thành viên ban quản trị của nhóm này hay nhóm khác. Tôi muốn , với những sách khảo luận, những bài báo, bài nhạc, bài thơ, làm cho dư luận quốc tế chú ý đến tình trạng đau khổ của đồng bào quốc nội. Bài Thề Non Nước tôi phổ nhạc thơ Tản Đà, muốn nói lên nỗi đoạn trường vô cùng tận của tôi trên xứ lạ, lúc nào cũng hướng về quê cha đất tổ và như nữ sĩ BảoTrâm đã viết rất chính xác để kết thúc bài tùy bút êm đẹp và nhung nhớ của nàng ‘’Kỷ Niệm Với Tác Giả Của Trăng Mờ Bên Suối’’ : Nước có trôi đến đâu cũng trở về nguồn !





(BT) Xin thầy cho biết những dự định trong tương lai?

(LMN) : Tôi sống rất nhiều trong hiện tại... Nhưng để trả lời câu hỏi của Trâm : trong một tương lai rất gần (nghĩa là trong một, hai hoặc ba tháng ... hay sang năm) tôi sẽ cho xuất bản sách ‘’Phê Bình Văn Nghệ’’ (Thi Văn Nhạc Sĩ Hải Ngoại), và một tuyển tập bằng Pháp ngữ ‘’Contes philosophiques asiatiques’’ cùng một biên khảo ‘’La Guerre Civile Vietnamienne’’ (khoảng chừng 500 trang). Sách viết xong hết cả từ lâu, hiện tôi đang do dự tìm kiếm và lựa chọn một nhà xuất bản có tiếng trong lãnh vực. Về phần sáng tác âm nhạc, tôi vừa nhận được thư của một nhà xuất bản Pháp muốn liên lạc với tôi (qua SACEM) xin cho in một số nhạc của tôi như : Ma Vie Sans Toi, La Légende de My Chau et Trong Thuy, v.v. 



(BT) : Để kết thúc, Trâm có vài câu hỏi nhỏ mà thầy chỉ cần trả lời bằng một chữ mà thôi. 1 chữ đủ nói lên tất cả (nhưng lẽ dĩ nhiên thầy hoàn toàn tự do lựa chọn cách trả lời) :

(LMN) :
Tôn giáo : Tự Do Tín Ngưỡng (Liberté de croyance)
Chủ Nghĩa : Dân Chủ Tự Do (Démocratie Libérale)
Màu sắc : Xanh trời (Bleu ciel)
Saison : Mùa Thu (Automne)
Thần tượng : GANDHI (1869-1948)
Điện ảnh : APOCALYPSE NOW
Văn chương : Việt Nam : NGUYỄN DU (Kim Vân Kiều) ; Pháp : VICTOR HUGO, LAMARTINE
Âm nhạc : MOZART 
Vos bons côtés : Tôi là một người rất giàu tình cảm ! 

Vos mauvais côtés : Dậy rất sớm mỗi ngày để làm việc (kể cả ngày lễ và chủ nhật). Xấu hay tốt ? Tùy ý độc giả Hồn Quê phán đoán. 


Votre citation préférée (d’une personne célèbre) : Bốn câu thơ của LAMARTINE (trích bài ‘’L’Isolement’’, trong thi tập ‘’Méditations Poétiques’’) :Que me font ces vallons, ces palais, ces chaumières, Vains objets dont pour moi le charme est envolé ? Fleuves, rochers, forêts, solitudes si chères, Un seul être vous manque, et tout est dépeuplé ! 

Xin tạm dịch : 

Trước thung lũng, đền đài và nhà lá
Ngoại vật trống không, mê ảo rụng rời
Cả những sông, núi đá, khu rừng thẳm
Từng ẩn núp mộng tưởng với cô liêu 
Nay thiếu bóng một người yêu muôn thuở 
Tâm hồn ta như hoang vắng, quạnh hiu




Votre rêve (aspiration) : Tôi hy vọng trong một ngày mai rất gần tất cả nhân loại sẽ chung sống trong tự do, hạnh phúc và thân ái. Xin thành thật cảm ơn ký giả Vương Huyền, chủ trương nguyệt san Hồn Quê và nữ sĩ Bảo Trâm đã cho tôi có dịp bày tỏ đôi lời tâm sự với đồng bào độc giả quí mến trên mạng lưới qua một nguyệt san lừng danh.


(PARIS, ngày 25 tháng 11-2001)


Bảo Trâm Thực Hiện

















Trăng Mờ Bên Suối
hay là cuộc hành trình trong một quá khứ lãng mạn và thương yêu

Lê Mộng Nguyên



Trong bài diễn văn mở đầu cuộc Tuyển Lựa Ca Sĩ Giải Cung Vàng 3 do Đài Tiếng Nói Việt Nam của ký giả Lê Thái và báo Nghệ Thuật của nhạc sĩ Lê Dinh tổ chức đêm mồng một tháng tư năm 2000 tại Trung tâm Văn Hóa Xã Hội Brossard (Québec, Gia Nã Đại) để kỷ niệm Đệ Tứ Chu Niên của Đài và để vinh danh một ‘’nhạc sĩ kỳ cựu’’ đã không ngần ngại bay từ Paris đến Montréal làm Chánh Chủ Khảo, tôi có đôi lời nhắn nhủ 16 thí sinh được lựa chọn vào phần Chung Kết như sau : ‘’... Hãy hát một cách hồn nhiên, thành thật, nếu buồn thì phải cho người nghe nhung nhớ, nếu khổ thì phải chia xẻ với khán thính giả mắt rưng rưng, nếu vui thì phải hòa hợp với mùa xuân đang chớm nở... Tóm lại : các em phải làm thế nào cho đồng bào hiện diện nơi đây được thông cảm với nhạc và lời của tác giả, với người hát và với bối cảnh muôn hình vạn dạng của một quá khứ mà nhạc sĩ muốn ghi lại cho đời...’’ Theo cùng một quan niệm, Trăng Mờ Bên Suối được viết cách đây hơn nửa thế kỷ vào một ngày không mưa tại Huế để đánh dấu một mối tình bất diệt nhưng đau khổ của hai đứa trẻ yêu nhau trong thời khói lửa... với linh tính sẽ xa nhau mãi mãi (Tóc xanh nhuốm bạc màu nhân thế, Tưởng nhớ người xưa mộng lỡ làng... Trời Âu, thơ LMN) sau một đêm gặp gỡ cuối cùng bên bờ suối, dưới ánh trăng mờ : Ai hay chia lìa, Sương gió biên thùy, Hiu hắt người đi sa trường xa... Lúc bấy giờ, chiến tranh bùng nổ giữa quân đội Quốc gia (dưới thời cựu hoàng Bảo Đại, Quốc trưởng kiêm Thủ tướng Chính phủ thành lập ngày mồng một tháng bảy 1949, với Tướng Nguyễn Văn Xuân, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng), dư luận xôn xao bàn tán về cuộc tổng động viên sắp ban hành...


Với cây đàn lục huyền cầm Y Pha Nho chiều hôm ấy (13 tháng 11 năm 1949), tâm hồn xao xuyến và dưới một sự xúc cảm dạt dào, tôi đã viết rất mau lẹ (từ 20 tới 30 phút) trong một cuốn vở học trò và trên những trang giấy có phân ly (papier millimétré) đầy ký chú những bài học Lý Hóa ở trường Quốc học Khải Định, một tác phẩm mà sau này sẽ trở thành bất hủ, nhạc phẩm Trăng Mờ Bên Suối. Ai là nhạc thần trong sự sáng tác bài nhạc này đã làm cho ngay tác giả lúc nghe lại chiều hôm ấy cũng phải rụng rời con tim ? Nhiều người đã hỏi tôi và gần đây, Huyền Châu (nữ ca sĩ số một hiện giờ ở Montréal) trong cuộc phỏng vấn Lê Mộng Nguyên trên Đài TNVN chiều hôm 02/04/2000, muốn biết (tôi xin trích) trong trường hợp nào và những tình cảm, những kỷ niệm nào đã cho tác giả nguồn cảm hứng để sáng tác nhạc phẩm muôn thuở TMBS mà nàng đã được hân hạnh và vinh dự trình bày đêm ca nhạc 01/04/2000. Linh tính một sự đau khổ trong tương lai vì phải rời quê cha đất tổ qua năm sau (nghĩa là cuối năm 1950) cùng với óc tưởng tượng dồi dào của một học sinh 19 tuổi đã làm cho tôi biến hóa những cuộc gặp nhau bên bờ sông Hương, sau Đài Trận Vong Chiến Sĩ nằm trước cửa hai trường Khải Định-Đồng Khánh (Em ơi đã hứa bao lần, Bên Bia đá nặng lời sông Hương thề...’’Mấy Tờ Thư’’, thơ LMN) và trên đường Nam Giao (nơi trú ngụ của cô gái Huế người hoàng tộc mới tuổi dậy thì : Về nơi mô ? Chiều Nam Giao, nhớ người Bến Ngự, nhớ lời ước thề... Bài Thơ Huế, nhạc LMN), trong lúc chiều vàng mặt trời sắp xuống, thành một gặp gỡ cuối cùng bên bờ suối vắng dưới ánh trăng mờ, mà ngay hoa lá cũng động lòng nức nở khóc nỗi chia ly :


Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối
Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu
Một đêm thiết tha rồi đây xa cách
Ròi đây hai ngả biết tới phương nào...

Tôi vừa viết xong thì anh Lê Mộng Hoàng lúc ấy mới đi chơi về, hát thử ngay với giọng ténor léger của anh rất xúc cảm, tôi quyết định gửi cho danh ca Thu Hồ trính bày ba bốn hôm sau trên Đài Phát thanh Pháp Á (Radio France-Asie) và ngay từ dạo ấy, TMBS đã sẩy tay tác giả để tự làm một cuộc đời danh vọng, vượt cả không gian và thời gian, trải qua bao thế hệ. Để tường thuật buối ca nhạc thân mật đêm 7 tháng 10-1978 tại Quán Trúc (tòa soạn báo Quê Mẹ ở Paris), ký giả Hồ Trường An viết : Anh Lê Mộng Nguyên, một nhạc sĩ lừng danh trong thập niên 50, tác giả những bản ‘’Trăng Mờ Bên Suối’’, ‘’Nhớ Huế’’, ‘’Bài Thơ Huế’’ hôm nay lên hát lại những tác phẩm của mình. Khoảng thời gian vắng bóng trong giới âm nhạc quá dài, nên anh quên khá nhiều lời hát. Có kẻ nhắc dùm anh và anh hát với cảm xúc dạt dào. Anh sáng tác nhạc như bỏ con rơi của mình cho cuộc đời, không ngờ người đời còn giữ gìn cho anh’’ (Quê Mẹ số 26, ngày 14/10/1978, tr. 15). Thật vậy ! Tôi bỏ nhà ra đi từ cuối năm 1950 sau khi đã sáng tác rất nhiều nhạc để lại cho Thu Hồ hát trên Đài Pháp Á và cho in nhiều lần tại các nhà xuất bản Hương Mộc Lan, Tinh Hoa, Ái Hoa, An Phú hay Á Châu, vân vân. Và sau đó những nam nữ ca sĩ danh tiếng không ai là không hát và thu thanh ít nhất một lần và một bài TMBS. Từ đất Pháp, tôi được biết qua thư từ rằng vào khoảng năm 1951-1952, TMBS được thính giả Đài Phát Thanh Việt Nam lựa chọn vào 8 bài hát hay nhất trong nước và từ ấy, vào đĩa 78, 45, 33 vòng, cassettes, vidéo, CD vân vân ở quốc nội và hải ngoại... Nhạc sĩ Trịnh Hưng kể lại cho tôi biết lúc anh còn là Bộ đội Việt Minh làm Văn Công, anh đã nghe nhiều người hát TMBS vì đó là một bài hát lãng mạn rất hợp với tâm trạng người lính mặc dầu chính phủ Cộng sản cẩm hát nhạc ủy mị một cách gắt gao trong quân đội. Trịnh Hưng viết cho tôi trong thư đề ngày 14/03/1998 : Năm 1952 tôi về Thành, về Hà Nội, tôi đi đờn ở Dancing cho lính Tây nhảy, họ cũng có chơi ở đó cho ai nhảy slow, và tôi về nhà có dạy một số em học sinh đờn Hawaìi, họ học được ba tháng là thế nào cũng bắt tôi dạy họ bài TMBS của anh vì vậy tôi cứ tướng là anh nhiều tuổi lắm. Khi đó tôi mới ngoài 20, tôi tưởng là một người làm được bài nhạc đó chắc là đã lớn rồi, chứ đâu có ngờ anh còn quá trẻ và làm nhạc thành công quá sớm, lúc đó tôi chưa làm được một bài nhạc ngắn nào cả nên càng khâm phục. Rồi vào Saigon thì bài nhạc đó cũng thịnh hành. Không một thanh niên hay thiếu nữ nào chả biết đến nó và hát nó...


Lẽ dĩ nhiên là TMBS từ dạo ấy đã dính vào da tôi hơn cả một danh thiếp ! Người ta chẳng ai chú ý đến nghề nghiệp của tôi đã làm cho tôi sinh sống ở đất khách quê người : Tôi chỉ cần tự giới thiệu là nhạc sĩ, tác giả TMBS là ai cũng biết tiếng rồi ! Có người so sánh tôi với Alain-Fournier, tác giả ‘’Le Grand Meaulnes’’, chỉ có một tác phẩm mà cũng đủ nổi tiếng khắp năm Châu ! Nói vậy là không đúng, vì tôi làm nhạc từ 15 tuổi : bài Xuân Tươi viết năm 1945 : Xuân về chào đời, Ngàn thắm tươi, Xuân về đầy lời tràn núi sông, Hát vang trong bao nhiêu lòng, Chào Quốc gia, mừng hát ca đời thắm hoa ... Nhạc tươi vui như mảnh đời vô tư của thời thơ trẻ : bài này dưới bút hiệu Lan Đào được đăng báo QUỐC GIA Đặc sanTết Mậu Tý. Cũng trong năm ấy, bài nghiên cứu lịch sử ‘’Phan Đình Phùng’’ của tôi được đăng trên ViỆt Nam TÂn BÁo dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim; năm 18 tuối tôi được cấp Thẻ Nhà Báo (Carte de Presse), sau khi đã viết thơ và nhạc cho phẬt giÁo vĂn tẬp và làm trưởng ban hợp ca thanh,thiếu niên Phật tử ở Huế. Chính tôi với tư cách tác giả bài Mừng Khánh Đản đã điều khiến ban hợp ca này (với cây đàn vĩ cầm hồi ấy) trong dịp khánh thành chùa Từ Đàm rất lớn ở Huế năm 1948 :

Ngày Rằm Tháng Tư nay về đây !
Ngày trần gian chào đón Đức Phật Từ tôn chúng ta
Ngàn ánh sáng tưng bừng lan trong nắng mai huy hoàng...

Năm 1948 cũng là năm tôi sáng tác Vó Ngựa Giang Hồ; bài này được HƯƠNG MỘc Lan xuất bản năm 1949. Trong sách NH_C LÝ Dẫn Giải do Lê Thương đề tựa in năm1949, anh Giám đốc Trần Văn Đặng loan báo sẽ xuất bản Chiều Thu của Lê Mộng Nguyên cùng với ‘’Ngợi Trùng Dương’’ và ‘’Trên Sông Hương’’ của Lưu Hữu Phước. Bài Một Chiều Thương nhớ viết năm 1949 (29/11) nghĩa là hai tuần sau TMBS là sự tiếp nối của một mối tình dứt đoạn :


... Rồi đây sương gió duyên kiếp lỡ làng

Trời xa xăm lắm em biết đâu tìm
Lòng anh khắc khoải chờ mong
Mờ mịt trời Âu đôi lứa khóc âm thầm



Cũng như bài Ly Hương sáng tác năm 1950 trước khi tôi rời đất nước là để kết thúc một cuộc tình từ nay dang dở : ... Chiều nay ly hương, Rời xa nước non ngàn năm luyến lưu một đời gió sương, Một chiều ly hương úa phai ngày ấy, Con tàu lướt sóng về đến trời Âu... Những bài tôi làm trong năm 1950 rất nhiều (trước khi qua Pháp du học tháng 10 -1950) trong đó có : Nhớ Huế (28/02/1950), Bài Thơ Huế, Ly Hương... toàn muốn diễn tả cái đau đớn tận cùng của hai đứa trẻ đang gặp nhau nhưng biết trước sẽ ngàn năm vĩnh biệt nhau:

Em của anh giờ nay ở đâu ?Tìm em anh dạo suốt canh thâuĐường chia hai ngả anh đâu biết
Là sẽ ngàn năm vĩnh biệt nhau

Bài thơ ‘’Tìm Em’’này của tôi (đăng trong CHTY 5-1999) đã được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc và do Khắc Dũng ca trong CD ‘’Hẹn Về Phan Thiết’’, 2000, Singapore). Sống trên đất Pháp từ ngày 05/10/1950, và để tặng người xưa đã lập gia đình, tôi đã hứng cảm nhạc lòng ưu ái và đau khổ qua : Xuân Tha Hương, Bên Dòng Sông Seine (Sông Seine, bao giờ ta về nước Nam ?), Thề Non Nước (Thơ Tản Đà), Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương, Kiếp Giang hồ, Quê Tôi... và một thi tập ĐỜi KhÔng CÓ Em (sẽ xuất bản).

Những bài nhạc mà tôi ưa thích và hay hát nhất hồi còn học sinh cùng lớp với bạn Tôn Thất Niệm tại trường trung học Khải Định (cạnh trường nữ học sinh Đồng Khánh ở Huế) và có thể có ảnh hưởng sau này (một phần nào trong tiềm thức) việc sáng tác TMBS, là : ‘’Thiên Thai’’ (Văn Cao), ‘’Giọt Mưa Thu’’ và ‘’Con Thuyền Không Bến’’ (Đặng Thế Phong), ‘’Ngày Về’’ (Hoàng Giác), ‘’Đêm Đông’’ (Nguyễn Văn Thương), ‘’Biệt Ly’’ (Dzoãn Mẫn)... Để nhắc lại thời tươi trẻ này, nhà văn học sử Nguyễn Cúc (tác giả sách SAIGON 300 NĂM CŨ) đã ghi lại trong ‘’Tiếng Sông Hương’’ (Kỷ Niệm 100 năm Trường Quốc Học : 1896-1996, Dallas 1996, tr. 252 trong LTS giới thiệu truyện ngắn ‘’Khúc Nhạc Trở Về’’ của tôi) : Học sinh Khải Định thế hệ 45, hay hát và hát hay có Tôn Thất Niệm và Lê Mộng Nguyên. Bạn bè ‘’hai phe’’ mỗi người thích một giọng hát riêng. Tôn Thất Niệm, còn nhỏ đã ‘’mệ’’ rồi, tiếng hát còn mệ hơn; giọng trầm, hơi ‘’ấm’’ với tiếng ngân microtone như lắng đọng trong tim xa vắng... lâng lâng. Lê Mộng Nguyên, tiếng hát velato, nhẹ nhàng, ướt át, hụt hẵng chơi vơi. Cũng cùng thế hệ 45, sáng tác nhạc (cũng là điều lạ lùng, hồi đó không ai dạy cả) có Nguyễn Tăng Hích Trần Hoàn ‘’Sơn Nữ Ca’’ rất ‘’fantasia’’ và Trăng Mờ Bên Suối Lê Mộng Nguyên, sáng tác rất luttuoso... Gặp lại Lê Mộng Nguyên năm rồi ở Quartier Latin, đọc thêm lần nữa bài gởi đăng T.S.H. : KhÚc NhẠc TrỞ VỀ, thấy như vọng lại đâu đây âm hưởng ‘’nhạc lòng tê tái... có biết phương nào’’, một thứ séquence mélodique của đường tơ chưa dứt (Symphonie inachevée) ngày nào, năm xưa... rất Lê Mộng Nguyên.’’

1945 xa xưa ! Và nhân cuộc hành trình trở lại nguồn gốc hứng cảm TMBS, tâm tưởng lại đưa đẩy tôi về thời gian sau Cách Mạng tháng 8 : gia đình tôi dạo ấy ở làng Phú Xuân, bên bờ sông Bình Lục, cạnh đô thành Huế, với Đập Đá chia cách sông này với Hương giang, và bên kia là Thôn Vỹ Dạ...(bài Về Chơi Thôn Vỹ, 1950). Tôi còn mãi trong trí nhớ (một thiếu niên 15 tuổi) cái hình ảnh hư ảo của một ban ca nhạc rong, đi chỗ này qua chỗ khác để truyền bá tinh thần cách mạng và luôn tiện là một cách sinh sống trong thời khói lửa, trong đó có một ông già chơi đàn accordéon và với một đứa trẻ chừng 9 tuối, cùng hát bài ‘’Sơn La’’ (thật giống như trong ‘’Sans Famille’’ của Hector Malot), theo cung ré mineur với những âm thanh bình dị, dễ dàng : sol sol, la la, ré ré... (tôi không còn nhớ rõ đoạn tiếp), nhưng sau này biết là của Đỗ Nhuận (có người nói ‘’ông già’’ ấy chính là nhạc sĩ ĐN). Nhạc rất buồn làm tôi rưng rưng nước mắt, bóc túi tìm xem có đồng xu nào để trả ơn... Đêm ấy, trên đường về nhà dưới ánh trăng, tôi bàng hoàng liên tưởng đến bức tranh linh động mà tôi vừa chứng kiến và văng vẳng còn trong tâm trí tiếng hát đau khố như thốt tự đáy lòng của những kẻ bị tù đày dưới thời Pháp thuộc. Có lẽ ở trong tiềm thức và trong lúc sáng tác TMBS bốn năm sau, bằng cung ré mineur , những nốt nhạc bình dị và dễ thương đã thúc đẩy tôi làm rất mau lẹ cho xong bài hát mà sau này (cũng rất mau lẹ) sẽ trở thành một tình ca muôn thuở. Cái bình dị này được làm nổi bật trong chuyỆn ngÀy qua, Tạp bút của Nguyễn Ngọc Diệp (TTVHXH Bruxelles, 1999) mà tôi đã giới thiệu trong Nghệ Thuật (Montréal, Canada, số 58 tháng 01-1999), qua truyện 1 ‘’Mùa Hè Đầu Tiên’’, với đoạn văn hóm hỉnh như sau : ... Chị tôi lên tiếng trước : - Vì Vịt bầu đờn hay, ta yêu cầu nhà ngươi trình diễn bài người hẹn cùng ta đứng bên bụi chuối, nghe chưa ? Hơn nữa nhà tau có bụi chuối mà mi có đứng bên đó một lần phải không ? Xác nhận đi và đờn ngay, ta tha cho ! ... Tau cũng đồng ý cho qua chuyện chuối chiếc, chừ thì trở lại chuyện hát hỏng, nghe rõ mấy mụ o dọn mồm ? - Tau hỏi thiệt Vịt bầu tại răng mà ai mới học đờn mandoline cũng đờn bài bụi chuối ni ? - Vì bài ni dễ đờn lắm, mi thấy chưa, này, rề rề pha xôn la phà... Tôi đã không bực mình vì người ta muốn đổi lời cho vui như thế (mà chỉ mỉm cười và hãnh diện) vì đó là một chứng minh rằng Trăng Mờ Bên Suối sẽ sống mãi trong tâm hồn và lý tưởng của những kẻ thương mến nhau ! Xin cảm ơn các bạn xa gần : tôi vừa tìm ra một trong những lý lẽ xác đáng về sự thành công vĩnh viễn của một bài hát tôi viết cách đây hơn nửa thế kỷ. Xin tạm ngừng và nhân dịp mùa Xuân Văn Nghệ của ái tình : tôi xin mến tặng (một lần nữa) nhạc phẩm Trăng Mờ Bên Suối cho tất cả đồng bào khắp năm châu đã, đang, hoặc sẽ thề nguyện yêu nhau trọn đời, với nhau và với tình sông nước như Tản Đà tiên sinh đã nhắc nhở năm 1922 trong ‘’Thề Non Nước’’ (LMN phổ nhạc) :

Nước non nặng một lời thề,Nước đi đi mãi không về cùng non.Nhớ lời ‘’nguyện nước thề non’’,Nước đi chưa lại, non còn đứng không...................................................................Ngàn năm giao ước kết đôi,

Non non nước nước không nguôi lời thề...




Lê Mộng Nguyên (Paris)


























MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.