Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

Nguyên Sa (1932 - 1998)












Nguyên Sa

Tên thật: Trần Bích Lan
Bút danh khác: Hư Trúc
(01/03/1932 Hà Nội - 18/04/1998 Hoa Kỳ)
Hưởng thọ 66 tuổi
Nhà thơ, Nhà văn, Nhà giáo






Nguyên Sa là một nhà thơ, kiêm nhà giáo, nổi danh từ những năm 50 thế kỷ trước với những Áo Lụa Hà Đông, Tháng Sáu Trời Mưa, Paris Có Gì Lạ Không Em? Hư Ảo Trăng, Tuổi Mười Ba v.v...

Những bài thơ sáng tác từ lúc trẻ khi còn du học tại Pháp.

Gia đình cho ông sang Pháp du học tự túc năm 1949, đậu Bac năm 1953, rồi ghi danh học ban Triết Đại học Sorbonne, Paris.

 Xong bằng Cử Nhân, Nguyên Sa hồi hương cùng với vợ mới cưới (bà Trịnh Thúy Nga) để sống bằng nghề dạy học, ông nguyên là Giáo sư Triết trường Trung học Chu Văn An và Hiệu trưởng các trường tư thục Văn Khôi, Văn Học tại Sài Gòn. 

Cũng tại Sài Gòn, ông chủ trương tạp chí Hiện Đại, một trong những tạp chí sáng tác hàng đầu của miền Nam cùng với Sáng Tạo, Văn, Bách Khoa, Thế Kỷ 20 v.v... 

Những tập Thơ Nguyên Sa đã được ra đời trong giai đoạn này.
Nhiều bài thơ được Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên và nhiều nhạc sĩ khác phổ nhạc, đặc biệt được giới trẻ miền Nam yêu thích, phổ biến.
Nguyên Sa cũng một thời được mệnh danh là "Thi sĩ của tình yêu" trong giới học trò yêu thơ.

Năm 1975, Nguyên Sa và vợ trở sang Pháp đoàn tụ với các con, sau đó định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục làm báo, làm sách và băng nhạc.

Nguyên Sa tên thật là Trần Bích Lan, từ trần ngày 18/04/1998 sau một thời gian bị ung thư dạ dầy. 

Hưởng thọ 66 tuổi.












"Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?"


 (bài thơ khắc trên bia mộ Nguyên Sa)













Tác phẩm






Thơ Nguyên Sa 










Thơ Nguyên Sa 







Thơ Nguyên Sa 








Thơ Nguyên Sa










Thơ Nguyên Sa toàn tập













Tìm thấy tập thơ đầu tay của Nguyên Sa?



Hy Vọng



Hội Văn Nghệ Việt Nam Hải Ngoại
Kỷ niệm đêm văn nghệ Paris 23/12/1954









Tìm thấy tập thơ đầu tay của Nguyên Sa?

Thứ Ba, 07/02/2012 




(TT&VH) - Nhắc đến nhà thơ Nguyên Sa, nhiều người khẽ run trên môi hát: “Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn/ Mà mùa Thu dài lắm ở chung quanh” hoặc “Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn/ Nếu em sợ thời gian dài vô tận”. Thơ Nguyên Sa được nhiều người thuộc lòng là vậy, nhưng với người yêu mến ông, đâu là tác phẩm đầu tay của Nguyên Sa?

Tìm trên Google và hỏi nhiều người yêu thơ Nguyên Sa, gần như không ai biết tác phẩm đầu tay của Nguyên Sa tên gì, được xuất bản vào lúc nào, ở đâu? Thật may mắn, người viết bài này được sở hữu một bản sao thơ Nguyên Sa in vào năm 1954 mang tên Hy vọng. Tập thơ mỏng chỉ có 15 trang cả bìa và trang lót, in 9 bài thơ của Nguyên Sa dưới dạng ronéo. Nguyên Sa gửi Hy vọng gì trong tập thơ này? Câu hỏi này đang rất cần những nhà nghiên cứu văn học trả lời.


Hy vọng tặng GS Tăng Kim Tây

Người tặng tôi bản sao tập thơ Hy vọng là nhà văn trào phúng Lê Văn Nghĩa - Chủ biên bán nguyệt san Tuổi trẻ cười. Ngoài làm báo, viết văn, Lê Văn Nghĩa còn là một tay chơi đồ cổ có hạng, đặc biệt là băng đĩa và sách xưa. Lê Văn Nghĩa đã sưu tập được Hy vọng trong một lần săn tìm sách xưa như thế.

Với những người yêu thơ Nguyên Sa, Hy vọng là một tập thơ quý cả về giá trị sưu tập cũng như giá trị thơ ca. Điều đặc biệt là, Hy vọng được Nguyên Sa ký tặng một vị trí thức cũng rất nổi tiếng đang sống tại Việt Nam - GS Tăng Kim Tây. Nguyên Sa viết tặng trên trang lót của tập thơ: “Hy vọng của anh Tăng Kim Tây là hy vọng của Nguyên Sa”. 

Nhà văn Lê Văn Nghĩa phỏng đoán rằng: “Thời trẻ, có thể Nguyên Sa và Tăng Kim Tây cùng học bên Pháp nên tập thơ này đã được Nguyên Sa tặng Tăng Kim Tây ở đó. Còn việc Hy vọng trôi nổi ngoài đời có lẽ do người nhà GS Tăng Kim Tây trong lúc dọn nhà đã biến Hy vọng thành… đồng nát”. Rất tiếc, chúng tôi chưa liên lạc được với GS Tăng Kim Tây để tìm hiểu thêm những câu chuyện có lẽ sẽ rất thú vị xoay quanh tập thơ này.

Nhà thơ Nguyên Sa tên thật là Trần Bích Lan, ông sinh ngày 1/3/1932 tại Hà Nội, mất ngày 18/4/1998 tại Mỹ. Năm 17 tuổi, Nguyên Sa được gia đình cho du học Pháp, sau khi tốt nghiệp Tú tài ông ghi danh vào khoa Triết ĐH Sorbonne. Năm 1956, Nguyên Sa về Sài Gòn mở hai trường Văn Học, Văn Khôi và giảng dạy môn triết học. Ông quan niệm bản thân “vốn chỉ là hạt cát” nên ký bút danh Nguyên Sa.

Thời gian ở Pháp, Nguyên Sa có được nhiều bài thơ hay và nổi tiếng nhờ kết duyên cùng âm nhạc, như: Áo lụa Hà Đông, Tuổi mười ba, Paris có gì lạ không em, Tháng Sáu trời mưa… Tuy nhiên, khi tách khỏi âm nhạc thì thơ Nguyên Sa vẫn là thơ Nguyên Sa không lẫn vào bất cứ giá trị nào khác. Chẳng hạn như bài ông viết về chiếc áo dài, không cần phổ nhạc vẫn có rất nhiều người thuộc lòng: “Có phải em mang trên áo bay/ Hai phần gió thổi, một phần may/ Hay là em gói mây trong áo/ Rồi thở cho làn áo trắng bay”.



Nguyên Sa hy vọng gì trong Hy vọng?


Tập thơ Hy vọng được Hội Văn nghệ Việt Nam hải ngoại xuất bản nhân một đêm văn nghệ tại Paris vào ngày 23/12/1954. Đến nay, theo thông tin của người viết bài này, dường như chưa có tập thơ nào của Nguyên Sa xuất bản trước đó. Vậy nên có thể xem Hy vọng là tập thơ đầu tay của Nguyên Sa.

Đọc Hy vọng có thể nhận thấy tâm trạng của người tha hương nhớ về quê nhà trong bối cảnh chiến loạn lúc bấy giờ. Trong bài thơ ngắn dùng làm tên cho cả tập, Nguyên Sa viết: “Tôi không đo bằng thước thật ngắn cho hy vọng dài/ Tôi không cộng nhầm hy vọng cho một thành hai/ Tôi không bọc hy vọng trong muôn trùng dây thép gai/ Tôi không giữ hy vọng cho một mình tôi/ Tôi không nhuộm nâu cho hy vọng đừng cũ/ Tôi không dệt trắng cho hy vọng đừng phai/ Nhưng tôi muốn trừ hết những quân giết người/ Để chúng đừng bắn, đừng giết những mầm hy vọng”.

Hy vọng viết về những con người đang sống trên quê hương khi Nguyên Sa xa cách:

Mắt chị hiền nên muôn đời vẫn sáng
Môi ngọt ngào nên mấy thuở còn ngoan
Nên nắng cuối làng bão nhỏ gió đầu thôn
Chị vẫn đẹp với nụ cười hồn hậu
Tấm áo nâu vẫn chỉ đen viền gấu
Chiếc nón mềm vẫn dịu lá gồi xanh
Mắt vẫn nhìn và bỡ ngỡ: Thưa anh
Khi gió nhẹ của lòng người man mác
Giọng thủ thỉ như lá tre dào dạt
Môi ngập ngừng như lúa bé nỉ non
Chị vẫn ngọt ngào như bát cơm chiêm
Mắt vẫn sáng như ngọn đèn khai hội
Và má đỏ khi lòng người khẽ hỏi

Bằng một lời là lạ giọng con trai:

Tát nước gầu sòng hay tát nước gầu dai
Chị không nói nhưng nụ cười vẫn đẹp
(tríchNgười con gái ở quê tôi).

Sở dĩ tôi muốn trích thật nhiều những câu thơ trong Hy vọng vì tin rằng rất nhiều người yêu thơ Nguyên Sa chưa có dịp tiếp xúc với những bài thơ này. Người ta biết đến Nguyên Sa phần nhiều nhờ những bài thơ trữ tình có tên gọi, nhưng có một bài thơ dài thật lạ, in cuối cùng trong tập Hy vọng lại không đặt tên. Bài thơ này in hình một ngôi sao năm cánh thay cho tên gọi với dòng đề từ: “Tôi sinh ra để biết em, để gọi tên em…” của Paul Eluard. Mở đầu bài thơ này, Nguyên Sa viết:
Tôi muốn ví mắt em như một vì sao
Chưa có ở trên trời
Một vì sao: ngủ muộn hơn sao Hôm
Dậy sớm hơn sao Mai/ Mà lòng tôi vẫn nhìn
Chưa bao giờ chớp mắt
Như em vẫn nhìn/ Nụ cười của em
Trong mắt tôi…”. 

Và đoạn kết:
Và lòng tôi khẽ hỏi
Hôm nay là ngày hội
Nên hè phố nhớn lên
(hay lòng tôi bé lại)
Như một hôm nào tháng Tám: mùa Xuân.

Trần Hoàng Nhân






















Truyện


Giấc Mơ 1
Giấc Mơ 2
Giấc Mơ 3








Vài Ngày Làm Việc Ở Chung Sự Vụ
Truyện dài












Tập truyện ngắn









Gõ Đầu Trẻ
1959







Mây Bay Đi
1967








Đông Du Ký







Nguyên Sa - Hồi Ký






Cuộc Hành Trình Tên Là Lục Bát




















Tạ Tỵ vẽ Nguyên Sa










Biên khảo




Quan Điểm Văn Học và Triết Học
1960










Descartes 
Nhìn Từ Phương Đông
nxb Trình Bầy 1969










Một Mình Một Ngựa
1971











Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ
nxb Trình Bầy 1967













Sách Giáo Khoa
Ký tên Trần Bích Lan











Tâm Lý Học








Luận Triết  Học










Câu Hỏi Giáo Khoa Triết Học











Sách dịch






Socrate
Dịch chung với Nguyễn Hữu Dung











Thơ Nguyên Sa phổ nhạc







Nguyên Sa & Trịnh Thúy Nga
Thời sinh viên du học tại Paris (Pháp)






Tháng Sáu Trời Mưa


Thơ: Nguyên Sa
Nhạc: Ngô Thụy Miên


Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt
Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong tỏa đường về
Và đêm ơi xin cứ dài vô tận

Đôi mắt em anh xin đừng lo ngại
Mười ngón tay đừng tà áo mân mê
Đừng hỏi anh rằng: có phải đêm đã khuya
Sao lại sợ đêm khuya, sao lại e trời sáng...

Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến

Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa
Hãy gửi cho nhau từng hơi thở mùa thu
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ

Và hãy nói năng những lời vô nghĩa

Hãy cười bằng mắt, ngủ bằng vai
Hãy để môi rót rượu vào môi
Hãy cầm tay bằng ngón tay bấn loạn

Gió có lạnh hãy cầm tay cho chặt

Đêm có khuya em hãy ngủ cho ngoan
Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn
Nếu em sợ thời gian dài vô tận

Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống

Trời không mưa em có lạy trời mưa?
Anh vẫn xin mưa phong tỏa đường về
Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm

Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng

Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc

Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc

Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm cho gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu








Kỳ Diệu



Khi đám mây cao dừng trên nếp trán

Anh chợt nghe vỗ cánh chim bay
Trái thơm ngon nặng chĩu trên môi
Dòng suối lạ chảy qua hơi thở
Bốn mùa xuân về đứng trên cơ thể
Ở giữa mầm lộc biếc và lá non
Anh đứng nghe âu yếm gọi tên em
Khi em đến nằm ngoan trên đồi cỏ
Có bỡ ngỡ là mặt trời bỡ ngỡ
Có xôn xao là núi lớn xôn xao
Cánh tay anh, anh đã dặn nằm im
Đôi mắt anh đã trở thành tinh tú
Đứng thật xa để canh chừng giấc ngủ
Đứng thật cao như ngọn hải đăng
Anh canh chừng con thuyền lạ đi ngang
Sẻ chở em về quê hương thần thoại
Cả mái tóc đã thành rừng lo ngại
Mỗi chân tơ có mong nhớ xanh um
Khi môi anh nặng chĩu trái thơm ngon
Khi em đến mang theo dòng nhựa ngọt
Huyết quản thành sông chở linh hồn lá biếc
Cánh tay là cầu mang thương mến qua sông
Anh nghe thức dậy tuổi mười lăm

Anh nghe em bước vào thơ sáng lạn

Em chớ hỏi: sóng đi trên biển lớn

Cớ làm sao thành nhã nhạc dâng lên
Cớ làm sao muôn tinh tú trong đêm
Bỗng rung động khi em cười rất nhẹ...










Áo Lụa Hà Đông
Thơ: Nguyên Sa
Nhạc: Ngô Thụy Miên


Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bầy vội vã vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
Em không nói đã nghe từng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã động trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
Nhưng sao đi  mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng












Nguyên Sa & Trịnh Thúy Nga






Tuổi Mười Ba
Thơ: Nguyên Sa
Nhạc: Ngô Thụy Miên



Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng? 

Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngọt ngào... tôi ở lại đây
Như một buổi hiên nhà nàng dịu sáng.

Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám?

Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba
Tôi phải van lơn ngoan nhé, đừng ngờ ...
Tôi phải dỗ như là... tôi đã nhớn.

Tôi phải đợi như là tôi đã hẹn

Phải thẹn thò như sắp cưới hay vừa yêu
Phải nói vơ vào rất vội: người yêu
Nếu ai có hỏi thầm : ai thế?
Tôi nói lâu rồi... nhưng ngập ngừng khe khẽ
Để giận hờn chim bướm chả giùm tôi
Nhưng rồi lòng an ủi "nắng chưa phai..."
Tình chưa cũ bởi tình chưa mới...

Má vẫn đỏ, đỏ một màu con gái

Với những lời hiền dịu nhưng chua ngoa
Lòng vẫn ngỡ ngàng: tóc ướp bằng thơ
Sao hương sắc lên mắt mình thi tứ?

Và đôi mắt nhìn tôi ngập ngừng chim sẻ

Đôi mắt nhìn trời nhè nhẹ mây nghiêng
Tôi biết nói gì? cả trăm phút đều thiêng
Hay muốn nói nhưng lòng mình ngường ngượng

Chân díu bước và mắt nhìn vương vướng

Nàng đến gần tôi chỉ dám... quay đi
Cả những giờ bên lớp học, trường thi
Tà áo khuất thì thầm: "chưa phải lúc..."

Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc

Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường 
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực cho vừa màu áo tím...

Chả có gì... sao lòng mình cũng thẹn

Đến ngượng ngùng bỡ ngỡ: hay là ai...?
Trăm bức thư lót giấy kẻ dòng đôi
Mà nét chữ còn run (dù rất nhẹ)

Tôi đã viết hay chỉ thầm âu yếm kể

Tôi đã nhìn hay lặng lẽ say sưa?
Nên đêm vui sao cũng chớm buồn thưa
Và lo sợ khi lòng mừng quá đỗi...

Rồi trách móc: trời không gần cho tay với

Và cả nàng hư quá, sao mà kiêu...
Nên đến trăm lần: "nhất định mình chưa yêu"
Hôm nay nữa...
Nhưng lòng mình sao lạ quá...










Hư Ảo Trăng





Thơ: Nguyên Sa
Nhạc: Phạm Anh Dũng
Tiếng hát: Mai Hương


Hư ảo nào như hư ảo trăng
Em đàn cung nguyệt hát cung vân
Ta về đúng lúc đêm đang tới
Tìm thấy trong thơ chiếc nguyệt cầm

Hư ảo nào như hư ảo mây

Em cười trong nắng, áo trong tay
Thơ trong tà áo, em trong gió
Ta nhớ mơ hồ mây trắng bay

Hư ảo nào như hư ảo em

Tiếng cười khua động những thân quen
Đời xưa ta nhớ mây tiền kiếp
Còn lúc bây giờ ta nhớ em

Hư ảo nào như hư ảo ta

Xòe tay năm ngón động âm ba
Nhìn quanh bất trắc cao thành núi
Đứng tựa vai làm tri kỷ xưa

Hư ảo nào như hư ảo trăng

Trời đưa ta tới chỗ em nằm
Em như huyền hoặc, đời như mộng
Ta ngả lưng làm một giấc trăng












Paris Có Gì Lạ Không Em?
Thơ: Nguyên Sa
Nhạc: Ngô Thụy Miên
Tiếng hát: Ngọc H


Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim?

Paris có gì lạ không em?

Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một dòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em?

Em có đứng ở bên bờ sông?

Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo dòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng

Anh sẽ thở trong hơi sương khuya

Mỗi lần tan một chút sương sa
Bao giờ sáng một trời sao sáng
Là mắt em nhìn trong gió đưa...

Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay

Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay

Anh sẽ chép thơ trên thời gian

Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen
Vì em hay một vừng trăng sáng
Đã đắm trong lòng cặp mắt em?

Anh sẽ đàn những phím tơ trùng

Anh đàn mà chả có thanh âm
Chỉ nghe gió thoảng niềm thương nhớ
Để lúc xa vời đỡ nhớ nhung

Paris có gì lạ không em?

Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen?...











Vết Sâu






Thơ: Nguyên Sa
Nhạc: Phạm Duy
Tiếng hát: Ý Lan




Khi em

Khi em mở cửa bước vào
Em bước vào
Hồng non trên má
Hồng đào, hồng đào trên môi
Những ngày âu yếm đã phai rồi
Đã phai rồi
Sao mang trở lại một trời
Một trời oan khiên ...
Mang anh
Mang anh trở lại ưu phiền
Nỗi ưu phiền
Ngày em đem tới một trời
Một trời oan khiên
Mang anh trở lại ưu phiền
Nỗi ưu phiền
Chỗ nhăn hạnh phúc chưa liền vết sâu
Hãy còn vết đau
Chưa liền vết sâu ...









Trịnh Thúy Nga & Nguyên Sa







Tham khảo thêm về Nhà thơ Nguyên Sa










ÁM ẢNH CỦA NGUYÊN SA (phỏng vấn)
Vũ Bằng ghi



Khoảng 1956, tôi gặp Nguyên Sa lần đầu ở nhà xuất bản Nam Sơn, đường Nguyễn An Ninh. Hồi đó tôi làm báo “Dân Chúng” chạy sang nhà Nam Sơn để mượn cuốn tự điển về điển tích. Lúc ấy Nguyên Sa ở Pháp mới về. Anh nổi tiếng là một giáo sư triết được nhiều học sinh yêu mến vì anh có một lối giảng triết đặc biệt, nói về triết học mà thanh thoát dễ hiểu và thấm thía như là nói chuyện tâm sự với nhau. Vì triết học không phải là địa hạt của tôi, câu chuyện giữa Nguyên Sa và tôi gần như không có gì, ngoài việc hỏi thăm nhau về gia đình, sức khỏe và nợ áo cơm.
Từ 1956 tới nay, Nguyên Sa bật hẳn lên trong trời thơ văn. Mấy cuốn sách xuất bản gần đây như “Một bông hồng cho văn nghệ”, “Descartes nhìn từ Phương Đông” và nhất là “Thơ Nguyên Sa” tái bản tới năm lần cùng nhiều bài đăng trên các báo chí gần đây, như “Sáng Tạo”, “Đất Nước”, “Văn Học”, “Hiện Đại”, “Quần Chúng” đã dành cho anh một địa vị cao trong làng nghệ thuật. Lần này, tôi đến thăm anh với tính cách bạn bè văn bút tại nhà riêng ở đường Phan Thanh Giản. Anh ở với gia đình kế bên trường trung học “Văn Học”. Lúc ấy khoảng sáu giờ. Giờ tan trường. Các học sinh nam nữ, khoảng một ngàn người, ra về chật cả một góc đường. Hai bạn Thượng Sỹ, Phan Kim Thịnh cùng đi với tôi phải đợi ngót nửa tiếng đồng hồ mới gặp Nguyên Sa mà bây giờ một số thanh niên gọi là “thi sĩ của tình yêu”.
Tại sao lại là “thi sĩ của tình yêu”? Một hôm, ngồi nói chuyện thơ văn ở một nhà xuất bản nọ, có một bạn bảo tôi “Nguyên Sa thi sĩ của tình yêu”: tại sao lại thế? Thế thì Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Leiba, Thâm Tâm... không phải là thi sĩ của tình yêu sao? Tôi thắc mắc vì câu đó. Gặp Nguyên Sa, thế nào tôi cũng tìm biết ý nghĩ của anh về danh từ này mà người ta đã tặng anh; có đúng không, có hợp không, có hoàn toàn “đắt” không?

CHỮ LỌC KỸ, NHƯNG NGƯỜI ĐƠN GIẢN

Tôi có một thành kiến từ lúc còn ở Hà nội: những người đi học Pháp về đều ăn mặc chải chuốt, dầu chải mượt, quần áo may đúng thời trang. Là vì những người bạn du học u Mỹ của tôi về nước trước đây như Chu Mậu, Đặng trung Duyệt, Đỗ Văn, Đặng phúc Thông đều như thế cả. Trước khi gặp lại Nguyên Sa, tôi tiên cảm sẽ gặp một người bạn cũ cũng ăn mặc chải chuốt, điệu bộ - nhất là sau khi đọc thơ của anh tôi thấy rằng mặc dầu thơ anh viết đơn giản và thân mật, nhưng những chữ anh dùng có vẻ chọn lựa rất kỹ mà có lẽ chính anh không biết - tôi tiên cảm phục sức và lề lối tiếp chuyện của anh cũng sẽ điệu bộ và kỹ càng như thế. Tôi đã lầm. Nguyên Sa ăn mặc đơn giản như một ông y sĩ thôn quê: áo sơ mi bỏ ra ngoài, đi dép và đội nón ni-lông vành rộng trên đầu – mặc dầu lúc ấy trời đã tối.
Khác hẳn những nhà văn lớn, những thi sĩ lớn của “hôm nay” ưa suy nghĩ, Nguyên Sa nói năng hiền lành, chất phác và đơn giản cũng như ăn mặc. Tôi cảm thấy anh em thân mật và cởi mở ngay, mặc dầu đã hơn một chục năm nay không chuyện trò gặp gỡ.

Vũ Bằng: Gần đây, nhiều người nói đến thơ anh. So về lượng thì những thơ trước tác ở đây nhiều hơn hay ít hơn những thơ anh trước tác ở nước ngoài?

Nguyên Sa: Tôi đi học ở Pháp từ năm 1948. Sự thực, trước khi đó tôi đã làm thơ, thơ Đường, thơ lục bát, nhưng thiên về trào phúng. Đó là những thơ giai đoạn làm chơi để đáp ứng những nhu cầu thời sự và đến bây giờ tôi cũng không giữ và cũng không nhớ làm gì. Thực ra, kể từ lúc tôi ở Pháp và đi các nước Anh, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp v.v... tôi mới thấy mê thơ. Tôi vừa học, vừa vào các thư viện đọc văn thơ của nước ngoài, nhưng làm cho tôi say sưa, mê mải, đó là những văn thơ của nước ta mà ở trong nước tôi chỉ mới học sơ qua. Đến lúc bấy giờ, tôi mới tìm thấy tất cả cái hay, cái đẹp của thơ ta, thơ tầu. May mắn cho tôi là ở các thư viện Pháp, các sách văn học sử, các thơ ca cũ mới, các truyện tích cũng như tiểu thuyết cổ kim của người mình lại đầy đủ có phần hơn cả các thư viện nước ta cho nên nhờ đó tôi học hỏi được nhiều, phân tách, so sánh và tự tìm lấy một lối đi riêng cho mình. Tôi học hỏi, tìm tòi và nghiên cứu với một tinh thần độc lập, cầu tiến, không bị ảnh hưởng của phe này, phái nọ, cho nên đến bây giờ tôi vẫn tự nghĩ là tôi không bị ảnh hưởng của phe phái nào hết, tôi thấy cái gì hay thì tôi bảo là hay, cái gì dở thì tôi nói là dở, chớ không vì phe phái mà nói xấu là tốt, nói trắng là đen, nhằm mục đích đưa bọn mình lên còn thiên hạ là “đồ bỏ" cả.

Thượng Sỹ: Như vậy, có thể nói là anh không chịu ảnh hưởng của thi nhân nào, thi phái nào không?

Nguyên Sa: Nói như thế, không đúng. Rất có thể tôi chịu ảnh hưởng của nhiều văn nhân thi sĩ mà tôi đã đọc và đã học, nhưng cái học và cái đọc ấy thấm nhuần vào trong tôi mà chính tôi không biết. Tôi cũng phải nói thêm với các anh rằng không một lúc nào tôi ngừng học và ngừng đọc. Ở nước ngoài tôi đọc và về đây tôi vẫn đọc luôn. Tôi đọc sách đọc báo, không dám chê loại báo nào hết và tôi thấy rằng nhiều khi có tờ báo hàng ngày đăng một bài thơ của một độc giả vô danh rất hay mà chính nhà báo coi thường, không để ý. Có những bài thơ không ai buồn để ý mà hay một cách lạ thường. Có bài có vài câu hay thôi, nhưng hay bật lên một cách kỳ ảo. Tôi xin nói thật: những thi sĩ vô danh ấy, những thi sĩ bị chìm trước khi nổi tiếng đó không ít thì nhiều đã ảnh hưởng đến tâm hồn tôi. Tôi nói không cần dấu diếm: rất có thể những câu thơ hay mà không ai lưu ý đó đã thấm nhuần vào tôi và giúp tôi rất nhiều về thi hứng cũng như về trước tác.

Phan Kim Thịnh: Anh là một giáo sư triết học, anh có chịu ảnh hưởng gì của các hiền triết Tây phương hay một triết thuyết nào không? Ngoài ra, có một số nhà văn nhà thơ lại tỏ ý ngạc nhiên rằng trong thơ anh không thấy nhiều triết lý, anh có biết như thế hay không?

Nguyên Sa: Tôi biết có một vài bạn băn khoăn về điều đó, nhưng nếu quả thực trong thơ tôi không nặng về triết lý, đó là một điều mà chính tôi mừng cho tôi. Là vì tôi vẫn nghĩ rằng trong thơ cũng như trong văn, người ta càng ít triết lý thì lại càng gần triết lý, càng nói nhiều triết lý thì lại càng xa triết lý. Trong mười bốn, mười lăm năm dậy triết, tôi rất ít khi muốn đem trưng bày triết lý trong cuộc đời vì tôi nghĩ rằng có khi không nói, hay nói rất bình thường cũng đã là triết lý rồi. Nói triết lý sa sả, e rằng sẽ là người tự kiêu. Nhất là trong thơ, càng nhiều triết lý, e rằng càng mất tính cách của thơ đi.

Thượng Sỹ: Theo ý anh thực chất của thơ là gì?

Nguyên Sa: Theo tôi, thực chất của thơ là cái linh hồn, là sự sống của những chữ ta dùng. Làm văn xuôi, chữ không có một sức mạnh ma quái như vậy. Thí dụ làm văn xuôi, người ta viết như nói chuyện, đại khái thấy một giai nhân cười rất tươi, rất đẹp, nhà văn viết: “Cô cười, tươi như một bông hoa”. Nhà thơ không thế. Nhà thơ gói cái cười tươi ấy vào trong một chữ, cái chữ ấy là thần là thánh, là sự vật, là thực thể. Nguyễn Du viết:
“Hoa cười, ngọc thốt đoan trang”
Chữ “hoa cười” ấy là sự vật, là sự thật, là thần thánh, thánh. Thi nhân là một thần linh nói một thứ chữ riêng, mà thế nhân phải diễn tả dài dòng, thô lậu.
Thí dụ một chữ khác trong “Chinh Phụ Ngâm”:
“Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt”
Hai chữ “lung lay” cũng là một trong loại chữ thần. Tiếng trống vang lên trong đêm, lọt vào tai người ta, ảnh hưởng đến tim, làm cho người nghe thấy không khí và bóng trăng rung động. Nếu làm văn xuôi, ít ra phải viết đến bốn năm câu, may ra mới nói lên được trạng thái đó, mà nhà thơ chỉ gói ghém vỏn vẹn vào hai chữ “lung lay”.

Thượng Sỹ: Có một số người đọc thơ anh cho rằng có một vài khi anh sử dụng chữ trong thơ “tây” quá, có vẻ hơi bỡ ngỡ đối với người Việt Nam.

Nguyên Sa: Chữ và vần trong thơ tôi có được hay không, hoàn toàn do người đọc xét xử, tôi không dám có ý kiến.

Vũ Bằng: Về điểm này, tôi xin đỡ lời: làm văn cũng như làm thơ cần phải đi tìm luôn cái mới. Rất có thể Nguyên Sa thấm nhuần những cái hình, những chữ của Tây phương mà không tự biết, nhưng nếu chỉ câu nệ rằng những chữ, những hình mới ấy làm cho độc giả bỡ ngỡ mà sợ thì e rằng ngôn ngữ của ta không bao giờ tiến triển và phồn thịnh hơn. Thí dụ: trong chúng ta ai cũng biết rằng người Tây phương có một thuật dùng chữ để làm bật điều gì mà họ có ý nhấn mạnh. Cụ Nguyễn Du có biết như thế bao giờ, nhưng đã viết những câu còn Tây hơn cả Tây, lúc tả Thúy Kiều vào lầu xanh, trông thấy bàn thờ Bạch Mi:
“Trên thờ một tượng, trắng đôi lông mày.”
“Trắng đôi lông mày”, nếu dịch ra Pháp thì phải dịch là: un génie blanc quant aux sourcils. Trạng từ “trắng” dùng trên chữ “lông mày” là một trạng từ thần thánh. Rất Tây phương, nhưng có phải chịu ảnh hưởng của Tây đâu.
Trong “Tự Tình Khúc" của Cao Bá Nhạ, có những câu như:
“Trong một mình bảy tám biệt ly”
Tả sự đau buồn của ông Cao lúc bị bắt, phải xa cách vợ con, cây cảnh, thử hỏi Tây cũng chỉ nói đến thế mà thôi – mà ai dám bảo ông Cao đã chịu ảnh hưởng của Tây, dù là Tây có nói “Con tầu chở nặng biệt ly”? Anh Nguyên Sa, anh có nghĩ như thế hay không?

Nguyên Sa: Có lẽ. Nhưng vấn đề chính, tôi vẫn thấy là bí quyết của thơ nằm trong thuật tìm chữ đắt và gieo vần thần tình biến ảo. Một số nhà thơ cũ của ta quả là những vị thần linh về môn đó. Nhớ cái gì, nói cái ấy. Tôi xin kể Phan Huy Vịnh, trong bản dịch Tỳ Bà Hành:
“Dây to nhường đổ mưa rào,
Tỉ tê dây nhỏ như chiều chuyện riêng.”
Cũng tả một tiếng đàn mà hai câu biến hóa “không chịu được”; câu trên theo một lối văn phạm thường, đột nhiên sang câu thứ hai động từ đặt lên trên, cực tả được sự biến hóa trong tiếng đàn.
Thơ Yên Đổ, có bài khóc cụ Dương Khuê:
“Bác Dương, thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”
Bác Dương là kêu theo họ của bạn một cách lịch sự, nhưng hai chữ thôi đi liền với nhau cũng là một chữ thần. Chữ “thôi” trên có ý tỏ sự ngao ngán, thương tiếc, nhưng chữ “thôi” dưới thật đắt, tỏ được lòng kính trọng anh hồn người chết: không nói chết, không nói thác, nhưng nói một cách tôn trọng là bác đã đi rồi, về rồi, thôi rồi.
Truyện Kiều rất nhiều thí dụ về cách chọn chữ tài tình, làm sống những chữ dùng, đem cho chữ một linh hồn, làm cho chữ thành một hữu thể.
“Cỏ non xanh rợn chân trời”
Chỉ có sáu chữ ma quái mà người đọc nhận thấy ba cảm giác: chữ “non” thỏa mãn vị giác của ta, chữ “xanh” thỏa mãn thị giác của ta, chữ “rợn” thỏa mãn xúc giác của ta. Kỹ thuật dùng hình trong thơ của ta thực huyền ảo. Nếu nói tóc như mây, da trắng như tuyết thì thường lắm. Đã bảo thi nhân là thần linh: cụ Nguyễn Du không dùng chữ như nhưng viết:
“Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Hai chữ “thua” và “nhường” kỳ ảo hơn chữ như nhiều lắm cũng như hai chữ “thua” và chữ “hờn” trong câu :
“Mây ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Cái gì “thắm”, cái gì “xanh”? Tác giả không nói ra, để cho độc giả tìm hiểu như chơi một trò hú tim, cách dùng chữ dùng hình như thế thực là thần thánh.
Có điều trớ trêu là tất cả những cái hay cái đẹp của thơ ta, tôi đã tìm học tìm hiểu ở thư viện. Lúc tôi đi học, người ta, không dậy tôi như thế. Lắm lúc tôi nghĩ có lẽ suốt một đời, tôi không thể nào tìm được hết cái hay, cái đẹp của thơ ta, cho nên bây giờ khi nào nhàn rỗi, nhất là trước khi đi nghỉ, tôi vẫn dở những thơ cũ ra đọc để tìm hiểu, để học hỏi và tôi đọc cả những thơ của các nhà thơ mới, kể cả thơ in thành sách, thơ đăng tạp chí, tuần báo hay nhật báo. Tôi không phân biệt cũ, mới: cứ hay là tôi chịu, dở thì tôi chê vì tôi nghĩ rằng đối với một người yêu nghệ thuật, tâm hồn phải phóng khoáng, rộng rãi, hay nói là hay, dở nói là dở, chớ nếu chỉ gò bó vào trong thành kiến, trong phe nhóm “đảng ta hơn hết, bọn khác là đồ bỏ” thì không bao giờ “mở mày mở mắt” được vì tâm hồn mà chỉ thu vào những cuộc tranh chấp, kỳ thị nhỏ nhen thì chắc chắn tâm hồn phải hẹp đi và do đó hóa ra ti tiểu. Ti tiểu và hẹp hòi thì làm sao mà phục vụ nghệ thuật được!

Phan Kim Thịnh: Hình như ý niệm ấy anh đã diễn tả trong “Một bông hồng cho văn nghệ”?

Nguyên Sa: Mười năm nay, tôi vẫn nghĩ như thế và tôi sẽ còn viết nhiều nữa về ý niệm ấy sau này vì tôi tin rằng nếu còn nuôi óc kỳ thị, tranh chấp trong văn nghệ thì văn nghệ không bao giờ tiến được. Chúng tôi bước chân vào làng nghệ thuật mà thấy thiếu mặt tới 8 phần 10 anh em đi trước mình, phải đơn phương độc mã sinh hoạt và cảm thấy tất cả sự trơ trọi của mình cho nên đã hiểu nỗi đau buồn khi thấy văn hữu, thi hữu không thương yêu nhau, bổ túc cho nhau, trái lại lại chia ra phe nhóm, chia ra tà giáo, ma giáo, thánh giáo, mong đè đầu đè cổ người khác, làm cho người khác chết đi để một mình thỏa thích “múa gậy vườn hoang”.

Phan Kim Thịnh: Làm thơ, anh có nghiêng về thi phái nào không? Anh có chuyên chú về loại nào không?

Nguyên Sa: Bao giờ tôi cũng muốn giữ cho mình độc lập. Anh đã biết ý kiến của tôi về phe nhóm rồi. Về thi phái, tôi cũng nghĩ như vậy.

Phan Kim Thịnh: Anh có biết rằng một số người hiện nay cho anh là một tín đồ của thơ tự do không?

Nguyên Sa: Tôi không biết. Riêng tôi thì thấy rằng về hình thức của thơ, lúc nào tôi cũng giữ cho mình độc lập. Nếu ấn định phải làm thơ theo một hình thức nào, cũng như bắt buộc phải theo một số đề tài quyết định nào thì chính nhà thơ tự làm cho mình bị tê liệt, nghèo nàn, nô lệ. Mà nhà thơ thì không làm nô lệ cho ai hết, nhà thơ là ông vua của chính mình, không hề chịu một giáo chủ nào chi phối. Xúc động về tình thì viết thơ tình, buồn phiền về chiến tranh thì làm thơ về chiến tranh, sợ hãi cái chết thì làm thơ về cái chết: thi đàn là một nơi họp mặt chung, nơi họp mặt tự do. Việc gì phải gò bó đầu óc tư tưởng, cảm xúc, rung động của mình vào một thể thơ nhất định? Thích làm thơ Đường thì làm thơ Đường, hứng lên muốn làm thơ mới thì làm thơ mới, nhưng nếu có hôm hồn thơ cảm xúc dâng lên anh cảm thấy phải ghi ngay hết cả trạng thái tâm hồn, uyển chuyển, dài dòng mà thấy rằng bảy chữ, tám, chữ mười hai chữ, mười sáu chữ không đủ thì anh làm thơ hai mươi bốn chữ, ba mươi sáu chữ một câu, nghĩa là thơ tự do, tùy ý anh.

Thượng Sỹ: Thơ mới và thơ tự do có khác biệt nhau không? Và khác biệt ở chỗ nào?

Nguyên Sa: Khác nhau rõ rệt. Thí dụ một điểm là về vần và về phân đoạn.
Thơ mới, vần cố định hoặc ôm, hoặc là vần chéo.
Thơ tự do cũng như thơ văn xuôi, không bó buộc vần, và khác hẳn thơ mới, số lượng câu gieo vần trắc quan trọng bằng vần bằng, mà thơ mới thì nghiêng về vần bằng nhiều hơn. Số chữ của thơ tự do hay thơ văn xuôi không cố định, tám chữ, mười hai chữ, hai mươi bốn chữ hay một chữ, hai chữ tùy theo hứng của nhà thơ.
Thí dụ thơ văn xuôi câu nhiều chữ:
“Suốt cả đời người anh đã chờ đợi tin yêu: lửa đến từ những cửa ngõ cuộc đời đã đốt cháy mười đầu ngón tay bằng những khối nhựa đường nóng bỏng.”
Về vần, không bó buộc, có khi gần nhau:
“Còn nếu như em không đến? Em không đến, tôi cũng chẳng dám giận hờn em
Em hãy ở lại nhà. Đóng chặt cửa sổ kẻo mưa hiu hắt. Kéo chăn chùm kín cổ kẻo gió lùa về lạnh như những giấc mơ êm.”
Hoặc xa nhau rất nhiều:
“Tôi cũng không phải hỏi rừng để rừng bảo hỏi cây. Cây khuyên hỏi lá. Lá bảo hỏi chim muông. Tôi nhìn quanh tôi những cánh quạ đen cười giễu cợt.
Tôi không phải ước ao lên sơn lâm làm một loài thảo khấu cướp của khách vãng lai những bức thư tình đem lên núi cao đọc to cho giun dế nghe để chia nỗi niềm cô độc.
Tôi cũng không phải bỏ trốn - như sáng hôm nay - ra giữa trùng dương để làm một gã thủy thủ già lái tàu theo kim chỉ nam mà chỉ thấy toàn rượu ngọt.”
Nói về phân đoạn, thơ mới phân đoạn bốn câu hay đoạn dài hơn, thí dụ thơ “Tình Thứ Nhất" của Xuân Diệu phân đoạn bốn câu một. Thơ tự do phân đoạn không cố định cũng như số chữ không cố định.
Nhân nói về đoạn và vần, tôi xin trở lại vấn đề vần trong thơ vừa đề cập tới mà tôi chưa nói hết. Về vần của thơ, tôi còn muốn nói đến một điều này nữa. Khác hẳn lúc chúng ta còn đi học, ông thầy quốc văn vẫn dạy rằng vần phải trúng với nhau như ôm đúng với hôm, mày với cay v.v... nhưng bây giờ tôi thấy rằng bắt buộc như thế thì vần gò ép, mất tự do và bay bướm của lời thơ. Phan Huy Vịnh, Nguyễn Du, Cao Bá Nhạ v.v... Không hề bị bó mình trong khuôn sáo chật hẹp đó. Trong “Tỳ Bà Hành”, ta đã thấy sự phóng khoáng trong việc gieo vần ngay từ mấy câu đầu:
“Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc đi”
Thử kề một vài vần trong truyện Kiều:
“Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay
Tình sâu mong trả nghĩa đầy
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa”

Thượng Sỹ: Anh đã cho biết ý kiến về thực chất của thơ tự do, anh có thể cho biết về ưu điểm của thơ tự do không?

Nguyên Sa: Không có loại thơ nào có ưu điểm hơn loại thơ nào: thơ lục bát không ưu điểm hơn thơ đường, thơ đường không ưu điểm hơn thơ mới, thơ mới không ưu điểm hơn thơ tự do. Riêng tôi, tới khi nào tôi cảm hứng và thích loại thơ nào thì tôi làm loại thơ đó. Thí dụ cuốn thơ của tôi vừa tái bản, tôi chia làm ba loại, thơ mới, thơ tự do, thơ văn xuôi. Tôi nhắc lại rằng theo tôi, nếu ấn định phải làm thơ theo một số đề tài nào, hình thức nào tức là mình có giáo điều, do đó chính mình làm cho mình bị tê liệt xúc động.

Thượng Sỹ: Trong ít lâu nay, thơ tự do và thơ văn xuôi bị mờ đi. Có không và tại sao?

Nguyên Sa: Tôi không tin như thế. Riêng tôi nhận thấy rằng thơ tự do và thơ văn xuôi đăng trên các báo và tạp chí giảm đi, nhưng những người có khả năng làm thơ tự do và thơ văn xuôi tăng lên. Do đó sự kiện này xảy ra: số người không nắm vững được ngôn ngữ chán nản, nhưng những người nắm vững được ngôn ngữ thì không chán nản. Dù sao, tôi cũng nhận rằng trong vòm trời thơ tự do hay thơ văn xuôi trong số sao sáng có mờ đi ít nhiều. Nhưng so với tiền chiến thì số người nổi tiếng về thơ tự do, thơ văn xuôi cũng không có bao lăm. Có lẽ tại thơ tự do, thơ văn xuôi khó khăn hơn các loại khác chăng? Có lẽ vì không bó buộc số vần mà khó làm hơn chăng?

Phan Kim Thịnh: Anh làm thơ nhiều, hồi ở ngoại quốc hay sau khi về nước?

Nguyên Sa: Sau khi về nước. Từ 1948 đến 1955, tôi tương đối làm ít thơ, từ 1956 làm nhiều hơn.

Phan Kim Thịnh: Bút hiệu Nguyên Sa anh lấy từ hồi ở Pháp hay sau khi về nước?

Nguyên Sa: Từ hồi ở Pháp.

Phan Kim Thịnh: Bút hiệu ấy hàm ý gì? Tên một người yêu? Lấy vào “bộ”? Hay có nghĩa gì khác?

Nguyên Sa: Không có ý gì sâu sắc cả. Thành thực lúc nào tôi cũng cho tôi là một số không, tôi không “lớn” nên tôi tự cho mình “vốn dĩ chỉ là hạt cát”. Tôi không đặt bút hiệu theo danh nghĩa như ông Quán Chi, Lê Thần, Thiên Hư... phải theo bộ, hay phải theo sách vở.

Phan kim Thịnh: Ngoài ra anh còn có bút hiệu nào khác không?

Nguyên Sa: Còn vài bút hiệu nữa để viết báo, viết chuyện viết các bài lặt vặt, xét ra không quan hệ lắm nên khỏi nói ra làm gì.

Vũ Bằng: Anh nói ra điều đó, mặc nhiên đã giải được cho tôi một mối băn khoăn từ trước. Hồi anh đi học ở Pháp, vào khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, tôi có nghe thấy ở Pháp có một nữ sinh nổi tiếng là đẹp và học giỏi tên là Đỗ Thị Xá. Tôi và một số anh em (có người bây giờ đã quá cố) cứ tưởng là giữa anh và cô ấy có chuyện tâm tình và anh đã lấy tên cô ấy ghi vào bút tự của anh và đổi X ra S.
Nếu tôi không quá tò mò, tôi có thể hỏi anh rằng anh được một số người tặng cho danh hiệu “thi sĩ của tình yêu” có phải là vì một người đẹp nào không?
Nói thực với anh, có một số người lại cho rằng danh từ “thi sĩ của tình yêu” hơi mơ hồ vì thi sĩ nào như Xuân Diệu, Thế Lữ, Leiba, Trần Huyền Trân, Hồ Dzếnh... lại chẳng là thi sĩ của tình yêu? Hỏi như thế cũng có lý, nhưng riêng tôi thấy rằng bảo Nguyên Sa là thi sĩ của tình yêu cũng có đúng phần nào vì tất cả thơ anh trong cuốn “Thơ Nguyên Sa” dù là mới cũ, tự do hay văn xuôi đều ca ngợi yêu đương trong khi các thi nhân khác ngoài yêu đương ra còn đề cập đến nhiều đề tài khác như chiến tranh lẻ loi, rừng núi, tự do, bạc mệnh, hay xuân hạ thu đông chẳng hạn. Dù sao, cái đó không quan hệ lắm. Phần đông anh em muốn biết bao nhiêu thơ chứa đọng bao nhiêu tình yêu đó có nhắm vào một người đẹp nào không? Hay đó chỉ là một tượng trưng cho cái Đẹp (Đ viết chữ hoa), tượng trưng cho Nghệ Thuật? Hay yêu đó là yêu thương tất cả, yêu nước, yêu nòi, yêu sự sống?

Nguyên Sa: Không, đấy chỉ là suy luận, là giả tưởng. Tôi vẫn nói rằng tôi cố giữ thành thực với chính tôi với mọi người. Tôi làm thơ yêu chỉ là vì tôi yêu thế thôi. Hình ảnh người đẹp trong những bài thơ của tôi là hình ảnh một người có thực không tưởng tượng. Tuy nhiên, tôi muốn thêm rằng nếu trong “Thơ Nguyên Sa” có nhiều tình yêu, thì ngược lại, trong “Những năm sáu mươi” đang in là đau buồn cùng với quê hương đau khổ.

Vũ Bằng: Người ấy là người Việt? Hay là một người ngoại quốc?

Nguyên Sa: Một cô gái Việt, tức là vợ tôi bây giờ. Tôi yêu nhà tôi từ lúc hai đứa cùng học ở Pháp: tôi học ở Sorbonne còn nhà tôi thì lúc ấy sửa soạn vào một trường kỹ sư. Một số thơ ca của tôi trước tác vào thời đó. Chúng tôi lấy nhau hồi 1955 rồi về nước. Đến 1963 nhà tôi mở trường “Văn Học”. Tóm lại thơ của tôi trong cuốn “Thơ Nguyên Sa” nghiêng về tình yêu nhiều hơn - mà yêu đây – tôi cứ thành thực mà nói – không phải là yêu cái Đẹp tổng quát không phải là yêu Đời nhưng yêu một người cố định, một người thực. Tại sao lại yêu đến như thế, tại sao nhắm vào tình yêu, chính tôi không biết lý do và cũng không thể nào giải thích nổi.

Vũ Bằng: Thêm một câu hỏi nữa. Anh làm thơ thì làm hết một bài thơ ngay hay thỉnh thoảng hứng lên mới viết một câu, cả tuần cả tháng mới thành ra một bài?

Nguyên Sa: Bài thơ nào tôi cũng làm cho xong thì mới ăn ngon ngủ yên được. Rồi tôi để đấy, thỉnh thoảng lại đem ra ngâm rồi sửa lại để tìm chữ đắt hơn và vần thuận hơn.

*
Câu chuyện nói đến đây thì trời chuyển mưa. Chúng tôi cáo biệt ra về.
Nguyên Sa, đội sùm sụp cái mũ ni lông trên đầu tiễn chúng tôi ra cửa lúc ấy đã bắt đầu có đông đảo học sinh đi xe đạp đi xe gắn máy đến học lớp tối. Quay lại, chúng tôi thấy bóng Nguyên Sa đứng trầm lặng dưới một ánh đèn vàng ố, như pho tượng.
Anh nghĩ về một chữ chưa đắt, một vần chưa gieo?
Hay là anh nghĩ đến yêu, đến mây trắng, đến người đàn bà đẹp? Hay đến quê mẹ buồn đau?
Phải rồi nhà thơ cũng như nhà văn bao giờ chẳng thấy cô đơn, vẩn vơ như thế.
“Ý thức của họ bị dằn vặt hành hạ, lay động bởi cơn gió tím của người đàn bà: làm thế nào cho đẹp? Đi thế nào cho duyên dáng, nói thế nào cho dịu dàng, nằm thế nào cho khêu gợi? Phải tô môi đánh mắt, phải kẻ móng tay như thế nào? Chuyển hóa sang phạm vi nghệ thuật, những câu hỏi này sẽ mang hình thức, hành văn thế nào cho độc đáo, cấu tạo nhân vật thế nào cho đầy đặn, chọn vần thế nào cho mới lạ, pha mầu, phết cọ thế nào cho khoẻ? Nói vắn tắt: Kỹ thuật sáng tạo phải như thế nào?”

VŨ BẰNG (ghi)
(Văn Học số 99 ngày 15-12-1969, chủ đề Nguyên Sa)
* Ảnh: (1) Ký họa của Duy Thanh (2) Bìa tạp chí Văn Học số 99 với ký họa của Tạ Tỵ
















Rời Bỏ Nền Văn Chương Trú Ẩn

NGUYÊN SA




Nguyên Sa



Cái ý tưởng văn nghệ thường trục sáng tạo, văn nghệ là sự cố gắng ngày cố gắng đêm, là tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trong suốt thời gian còn cầm bút, cố gắng mang lại cái mới là cái ý tưởng chung của nhiều người.

Ý muốn làm cái mới, muốn mang lại tác phẩm sáng tạo đích danh, khởi đầu bằng sự nói không với dĩ vãng, với những tác phẩm đã có của những người đi trước, nói không với chính mình. Đó không phải là sự xóa bỏ toàn diện, không phải cực đoan, không phải lập dị. Có những tiếng không kỳ cục ấy, những phủ nhận phách lối như thế. Có anh phủ nhận tất cả những người đi trước để ra cái điều ta đây mới lạ. Anh khác nói không với tác phẩm của mình để biểu diễn ta đây thay đổi. Những trò vặt vãnh này không phải là văn nghệ. Nó không phải là ý muốn sáng tạo, ý muốn làm mới. Nó nặng phần trình diễn. Nó là sự trình diễn ý muốn mới làm mới, ý muốn sáng tạo chứ không phải là ý muốn sáng tạo đích thực. Ta bỏ ra ngoài các anh đó. Ta chỉ nói về những tay biết luật lệ của cuộc chơi, những kẻ có tinh thần thể thao.

Nhiều lắm. Nói sơ đến những trường hợp quen thuộc nhất. Tự Lực văn đoàn cất tiếng lớn nói không với sự sáng tạo dĩ vãng. Phải theo mới, phải loại bỏ cái cũ, điều tâm niệm này của Hoàng Đạo không phải nhằm tới những cải cách xã hội mà còn hướng đến những đổi mới văn nghệ. Thế hệ năm mươi sáu mươi, đến lượt nó, ồn ào phủ nhận văn nghệ tiền chiến. Những người viết thời gian này cho rằng tiền chiến là lãng mạn, là không được, phải bỏ qua đi, làm kiểu khác. Lịch sử văn chương thế giới chắc cũng có nhiều lắm những đứng dậy, những chối bỏ, những xét lại tương tự. Tôi biết đại khái về văn chương Pháp, tôi nói về nó. Bạn nào biết về văn chương các nước khác, bữa nào rảnh nói thêm dùm. Phải lãng mạn, vì ý muốn làm mới, không chấp nhận lề lối quan niệm, định luật sáng tạo cửa những cổ điển Corneille, Racine, Moliere. Thi sơn rồi tượng trưng đến sau lãng mạn không bằng lòng về nền thi ca có nhiều nước mắt, có nhiều tâm sự của những lãng mạn Lamartin, Musset. Cứ thế mà tiếp tục, những tiếng không, những phủ nhận rõ rệt lắm kế tiếp nhau dõng dạc cất lên. Tả chân xã hội nói không với tả chân. Siêu thực muốn đi ra ngoài những con đường tả thực cũ kỹ ấy. Văn chương hiện sinh có những khuôn khổ sáng tạo khác với văn chương giữa hai kỳ đại chiến. Tiểu thuyết mới nói lên sự không chấp nhận quan điểm sáng tạo hiện sinh.

Ở bên này và bên kia mặt địa cầu, trong thời đại này và trong những thời đại dĩ vãng những tiếng không dõng dạc, những đứng dậy, những chối bỏ, những xét lại là những cựa mình ghê gớm của những loài dã thú thức giấc sau một mùa Đông. Động đá lớn đã được dùng làm nơi an nghỉ vẫn được nhìn bằng một cách hàm ơn, nhưng những động tác của thân thể đã nói rõ sự rời bỏ, sự di chuyển đến mùa Xuân trước mặt. Tất nhiên chúng ta không thể nhầm được những thức giấc rời bỏ nơi trú ẩn tinh thần dĩ vãng, những tác phẩm thần thánh thờ phượng trong tuổi trẻ và những đố kỵ nhỏ nhen, những bới móc bần tiện của cái bọn mà tôi gọi là sa-đích văn nghệ. Không thể nhầm lẫn một bắt đầu mùa Xuân và những bất lực.

Nói không với hàm ơn, để làm lại một bắt đầu, khởi lại một cuộc chơi. Văn nghệ chính là cái sự làm lại liên tục đó. Văn nghệ thật cũng như một dân tộc lớn. Tôi nhớ một cách không rõ rệt là một nhà tư tưởng nào đó đã cho rằng những dân tộc lớn thường bạc bẽo. Nó không tôn sùng lãnh tụ, không thán phục mù quáng. Vì dân tộc lớn là dân tộc không phải chỉ có một người giỏi không thay thế được. Nó phải có nhiều nhân tài. Mỗi kẻ được gọi đến để dâng hiến cho nó cái tinh túy nhất của bản thân trong một thời gian cố định rồi được nó gửi đến lời cảm tạ và mời về an nghỉ trong ngôi nhà vinh dự của danh nhân. Nhưng không thể để ở đó vĩnh viễn để nhận lấy sự thần phục mãn đời. Văn nghệ cũng thế. Cái động đá tinh thần làm bằng những tác phẩm dĩ vãng, sáng nay, trong thành phố này, đất nước buồn này, vẫn được chiếu sáng bởi những mắt nhìn âu yếm chẳng quên. Nhưng mùa Xuân đã thức giấc ở trước mặt chẳng còn cho phép sự an nghỉ kéo dài.

Những tác phẩm sáng tạo văn học nghệ thuật của chúng ta, những năm ba mươi bốn mươi gọi là tiền chiến và những năm năm mươi sáu mươi gọi là hậu chiến là những tác phẩm tốt. Bây giờ một số anh em khác cho rằng tiền chiến là không tốt... Một số anh em khác cho rằng những năm năm mươi sáu mươi không được, chưa có tác phẩm lớn. Muốn nói thế cũng được. Cái thế sáng tạo nó bắt phải nói như thế thì cứ nói như thế đi không sao. Thỉnh thoảng nói quá đi một tý cũng không sao. Đó là cái khát vọng bùng cháy nó làm ra như thế. Những không bằng lòng về tiền chiến, về bây giờ là những ngọn roi cần thiết quất mạnh vào loài ngựa hoang trí tưởng. Nhưng những lúc suy xét bình thản tôi thấy văn nghệ tiền chiến cũng như văn nghệ những năm năm mươi sáu mươi cũng được lắm. Văn xuôi của những Vũ Trọng Phụng, Nhuyễn Tuân, Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, những tên chợt nhớ trong số lượng đông hơn nhiều vẫn là những thế giới có những cảnh sắc mà những thăm viếng lần đầu chẳng thể không làm cho xúc động khoái trá, chẳng thể không làm cho những thăm viếng kế tiếp mang lại những thích thú dịu êm. Văn vần của những Huy Cận, Xuân Diệu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương nhìn kỹ lại vẫn là những hòn đảo kỳ diệu của biển ngôn ngữ trên đó có cây xanh, có nhạc dịu, có những vết chân buồn. Anh nào muốn nói gì thì nói, tôi đã nói và còn tiếp tục bảo những cái đó tốt. Đó là sự sáng tạo. Đó là nghệ thuật.

Tôi còn trở về đó trong nhiều lần thăm viếng. Những ngày hè dài, những đêm mưa buồn, những buổi sáng sảng khoái, tôi còn đến gõ cửa những ngôi nhà đó để uống một chén trà với tùy bút Mai Thảo, bùng cháy với tình yêu Chu Tử, lạc trong khu vườn tuổi nhỏ của Duyên Anh, nhìn ngắm thế giới giang hồ của Thụy Long, nghe một hồi chuông của Thế Nguyên, sống một phút bình dị với Thanh Nam, đọc một đoạn thơ điêu luyện của Trần Dạ Từ và cầm lấy bàn tay quen thuộc của người này người khác.

Nhưng bây giờ vẫn phải thức giấc, vẫn phải cựa mình, vẫn phải rời bỏ cái động đá ấm áp này để đi tới một cuộc phiêu lưu mới. Vẫn phải nói không với tất cả chính mình trong những ngày tháng dĩ vãng. Không, không thể dừng lại ở đó. Không thể chấp nhận vĩnh viễn nơi trú ẩn dĩ vãng đó.

Tôi đã nói là một số các anh em đã nói không với tiền chiến. Nhưng thật ra tiếng nói ấy, lời phủ nhận đó mơ hồ lắm, chẳng có gì là rõ rệt cả. Chúng ta vẫn nói là ra đi và vẫn nằm yên trong nơi ở mùa Đông đó. Chúng ta nói không mà vẫn có.

Sự thể nó như thế này.

Văn nghệ những năm năm mươi sáu mươi đã cất tiếng, mà tôi gọi là ồn ào phủ thận văn nghệ tiền chiến, nói lên ý muốn làm mới, làm khác tiền chiến. Vì ồn ào cho nên không rõ rệt. Ta hãy nghe kỹ lại những tiếng nói đó.

Văn nghệ ở ngoài Bắc nhiều lần bày tỏ quan điểm sáng tác đối với những tác phẩm tiền chiến mà họ cho là nền văn chương tiểu tư sản hay trưởng giả, nền văn chương do thực dân tạo dựng nhằm ru ngủ, nhằm làm tê liệt mọi ý thức chính trị. Những tác giả còn đứng lại ở bên kia giới tuyến đó đều phải trải qua một giai đoạn tự phê bình, phải cất tiếng chối bỏ dĩ vãng và tác phẩm dĩ vãng của chính mình. Kết luận của những cuộc chơi kỳ cục ấy đơn giản lắm. Văn chương tiền chiến nhất định hay tất yếu là không có giá trị gì. Tác phẩm tiền chiến được sản xuất bởi một giai cấp không phải là giai cấp vô sản, trong một tình trạng kinh tế bóc lột, dưới sự bảo trợ gián tiếp của một chế độ chính trị đế quốc, thực dân cho nên bắt buộc không thể hay được. Do đó phải phủ nhận, phải loại bỏ. Cái quan niệm này đại khái cũng giống cái quan niệm của một anh sa-đích ở đây là người nào sung sướng bắt buộc viết văn không thể hay được. Đó là những loại định luật văn nghệ đơn giản đến mức độ lố bịch. Đó là những lời nói bừa, nói láo mặc lấy bộ áo định luật văn nghệ. Chẳng biết các anh nghĩ gì về cái nền văn nghệ hiện thực xã hội, chứ riêng tôi, tôi nói thực, tôi không lấy làm khoái. Chẳng phải vì ở trong khung cảnh xã hội này cần tỏ ra ta đây có lập truờng. Với văn nghệ cái chuyện lập trường lập chiếc cũng nhạt nhẽo lắm. Nhưng tôi không thích một cách tổng quát bất cứ anh nào tin tưởng một cách chắc nịch là mình nắm vững chân lý. Chỉ có chân lý của nó mới là chân lý. Tôi không khoái tất cả những anh nào muốn người sáng tạo phải tuân theo những tiêu chuẩn rõ rệt, phải áp dụng đúng cái nguyên tắc được coi là thần thánh. Cái trò đó làm tê liệt hết tất cả, hỏng cả. Sáng tạo hóa ra học trò tốt. Văn chương hóa ra bài luận mẫu. Phan Khôi, trong những hoàn cảnh khó khăn lắm đã bất bình với cái kiểu ra đề hạn vận. Cho nên tôi không khoái cái anh hiện thực xã hội vì nó muốn bắt người khác phải yêu cái mà nó yêu, phải ghét cái mà nó ghét, phải sáng tác theo đường lối nhất định. Tác phẩm tiền chiến hay nhưng ở ngoài đường lối cho nên hoá ra dở, phải phủ nhận. Đó là cái quan niệm phổ biến của nền văn nghệ ở phần đất bên kia.

Các nhà văn nghệ của chúng ta ở đây, nhiều lân, nhiêu người, từ lúc còn sinh thời tác giả Bướm Trắng đã lớn tiếng nói không với nền văn nghệ tiền chiến. Cái lý do thúc đẩy các nhà văn thơ ở đây phủ nhận tiền chiến như đã nói là một lý do đẹp: cái tham vọng muốn làm mới nghệ thuật. Nhưng thế hệ năm mươi sáu mươi đã nói không với tiền chiến ở với khoản nào, về cái vấn đề nào. Các anh em này chê tiền chiến ở cái chỗ nào. Cái điều này quan trọng lắm. Cũng như tục ngữ đã nói là hãy cho tôi biết anh chơi với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai, ta có thể nói cứ nhìn thế hệ năm mươi sáu mươi chê tiền chiến ở điểm nào ta sẽ ngó thấy nó đi về phía nào. Thế hệ năm mươi sáu mươi chê tiền chiến nhiều nhất ở một điểm: tính chất lãng mạn của văn chương tiền chiến.

Người làm lịch sử văn học nghệ thuật, nhờ cái khoảng cách thời gian cần thiết mà nó sẽ có được, sẽ bình tĩnh hơn, sẽ trả lời đúng đắn hơn ở câu hỏi này: văn chương tiền chiến có phải là một nền văn chương lãng mạn hay không. Với tôi, tôi cho rằng văn chương tiền chiến không thể là văn chương lãng mạn. Văn chương tiền chiến không phải chỉ gồm có Tự Lực văn đoàn. Người làm văn nghệ không thể nhìn lịch sử văn chương qua chương trình chính thức của Bộ Giáo Dục. Người "một mình một ngựa", tác giả Số Đỏ và Giông Tố, nhất định không phải là lãng mạn. Những người biết sáng tác và biên khảo trong nhóm Hàn Thuyên rõ rệt, với một lập trường tư tưởng bày tỏ bằng chữ viết, không thể xếp vào nhóm lãng mạn. Và lãng mạn là gì. Các nhà văn của thế hệ năm mươi sáu mươi khi đồng hoá tiền chiến với lãng mạn để đả kích đã chỉ nói một cách lờ mờ. Những nhà văn tiền chiến được kể là lãng mạn chỉ vì họ nói với tình ái, chỉ vì văn chương của họ "ướt sũng nước mắt". Trong lịch sử văn chương Pháp thành ngữ "ướt sũng nước mắt" cũng đã được các nhà sáng tác đến sau lãng mạn dùng để nhắm tới những Lamartine, những Musset. Nhưng phái văn chương được gọi là lãng mạn trong lịch sử văn chương của các nước xa xôi kia không phải chỉ có hai đặc điểm là ái tình và buồn bã. Những tác phẩm của phái lãng mạn về thơ, về kịch, về tiểu thuyết, về phê bình văn học không phải chỉ là sự xúc động tình cảm trữ tình. Có những cái đó nhưng không phải chỉ có những cái đó. Và lãng mạn V. Hugo không giống lãng mạn Lamartine, lãng mạn Vigny khác xa lãng mạn Chateaubriand. Nỗi buồn trong Stello, La maison du berger rõ rệt không có dấu vết của nỗi buồn vô cớ của một René. Tác phẩm của các nhà văn thuộc nhóm Tự Lực văn đoànmang một số dấu vết đáng kể của nền văn chương lãng mạn Pháp nhưng tác phẩm mồ hôi nước mắt của những Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, Xuân Diệu, không thể gói ghém trong cái túi gọn gàng dán nhãn "lãng mạn tiền chiến".

Phản ứng của nhà văn thế hệ năm mươi sáu mươi, ở đây nói lên mấy điều. Sự khát khao sáng tạo làm cho vội vã, làm giản lược nhãn quan phán xét, làm sự phủ nhận thiếu vững chắc.

Nhưng những điều đó không quan hệ. Đứng về phía những người phủ nhận tiền chiến tôi có thể đưa ra một lô lý luận. Chúng tôi không làm công việc nghiên cứu văn học sử cho nên không cần nêu chi tiết này nọ. Chúng tôi chỉ nhìn vào những điểm chính. Điểm chính yếu cửa lãng mạn là gì nếu không là sự xúc động quá mãnh liệt, sự trữ tình bi thảm hóa. Và tiền chiến không phải chỉ có Tự Lực Văn đoàn trữ tình, biết rồi, nhưng đó là cái nhóm nổi bật với dư luận cho nên chúng tôi tập trung hỏa lực vào đó, để bầy tỏ ý tưởng đối mới.

Biện luận như thế hay biện luận khác đi, không sao. Cứ cho là được đi. Bởi vì cái then, cái chốt của vấn đề là ở đây.

Các nhà văn thế hệ năm mươi sáu mươi chống đối tiền chiến chỉ ở một điểm căn bản. Là không chấp nhận cái lãng mạn của văn chương tiền chiến. Sáng tác lãng mạn, với chúng tôi, là không được. Trữ tình là không được. Tình ái là không được. Như thế tức là còn nhiều cái được lắm. Chúng tôi chỉ chống sự lãng mạn. Chúng tôi chỉ chê văn chương lãng mạn. Tức là chúng tôi có thể làm văn chương hiện sinh. Chúng tôi có thể làm văn nghệ dấn thân. Chúng tôi có thể làm tiểu thuyết mới.

Đó là sự buồn bã ghê gớm của thế hệ năm mươi sáu mươi. Tiền chiến buồn bã bấy nhiêu thì chúng ta buồn bã bấy nhiêu.

Bởi vì những động đá trú ẩn.

Tiền chiến và năm mươi sáu mươi vẫn là những nền văn nghệ trú ẩn trong những động đá kiên cố. Vẫn là những nền văn nghệ bình an và kỹ lưỡng. Bây giờ chúng ta phải rời bỏ những vùng trú ẩn ấm êm đó. Phải rời bỏ những nền văn nghệ động đá ấy.

Chứ còn gì nữa. Chúng ta chưa thực sự yêu mến cái mới. Chúng ta chưa thực sự sáng tạo. Tiền chiến và năm mươi sáu mươi đều thế cả. Chúng chỉ yêu mến cái mới được chấp nhận. Chúng ta chỉ sáng tạo trong khuôn khổ. Cũng như những người thực tiễn chấp nhận cái thước kiểu mẫu cất ở tòa nhà vùng Sèvres, độ không của kinh tuyến chạy qua làng Greenwich, những tiêu chuẩn để đo lường nghệ thuật của chúng ta cũng được sản xuất từ phía bên kia địa cầu. Khoa học thì nó phải phố quát. Được rồi. Chúng ta đo bằng thước căn theo cái thước của ngôi nhà Breteuil, ở Sèvres, được rồi. Chúng ta lấy ngôi làng Greenwich ở gần thành Luân Đôn làm kinh tuyến khởi điểm, đồng ý. Nhưng văn chương như thế thì buồn quá. Buồn lắm. Không thể lấy Bắc Kinh hay Trùng Khánh, Đông Kinh hay Hương Cảng làm khuôn vàng thước ngọc. Cũng không thể lấy Ba Lê, Luân Đôn, Nữu Ước hay Thụy Điển.

Cảnh buồn bã thê thảm như thế này.

Những người làm văn học nghệ thuật đi trước chúng ta một hai giáp đó đã trú ẩn trong những trường phái văn nghệ sáng tạo bởi người khác, đã lấy những phương thức nghệ thuật sáng tạo bởi những người làm văn nghệ khác làm phương hướng sáng tạo. Ở một chỗ nào đó xa đây, có lãng mạn thì chúng ta có lãng mạn. Chateaubriand có "tristesse sans cause" thì tiền chiến có "buồn vô cớ". Tây phương có tả chân thì Trương Tửu có tả chân. Tây phương có tượng trưng thì Bích Khê có tượng trưng. Tây phương có siêu thực thì chúng ta với Nhuyễn Xuân Sánh có Xuân thu nhã tập.

Đó là văn nghệ trú ẩn. Đó là sự sáng tạo trong cái khuôn sáng tạo đã được sáng tạo bởi những người làm văn học nghệ thuật khác. Đó là sự làm mới trong kích thước của cái mới đã được mang lại bởi những người làm văn học nghệ thuật không phải là chính mình.

Bây giờ, chúng ta tiếp tục cái truyền thống văn chương trú ẩn, văn chương bình an trong động đá đáng tiếc đó. Chúng ta nói không với tiền chiến, biết rồi. Chúng ta sáng tác khác với tiền chiến, chưa chắc nhưng có thể lắm. Nhưng cái truyền thống văn chương trú ẩn còn nguyên vẹn. Chúng ta đã làm những gì trong năm năm mươi sáu mươi này. Lúc thì tôi nghe nói nhà văn đang lên này hiện sinh ghê lắm. Khi thì tôi thấy cây viết kia ra cái điều dấn thân. Gần nhất, có người manh nhà sáng tạo theo lối tiểu thuyết mới. Những người làm văn học ở ngoài kia đi đều bước trên con đường sáng tạo hiện thực xã hội. Buồn quá. Ở bên Nga người ta hiện thực xã hội thì những người sáng tạo đồng bào ta cũng hiện thực. Ở bên Pháp, Sartre ném ra cái văn chương hiện sinh thì chúng ta vội vã hiện sinh. Văn chương dấn thân được bày ra chúng ta vội tôi dấn thân bạn tôi dấn thân nhóm tôi dấn thân. Trong khuôn khổ của văn chương hiện sinh, văn nghệ dấn thân, tiểu thuyết mới hay lãng mạn, tả chân, siêu thực, hiện thực của xã hội chúng ta có làm đúng sách vở thánh truyền hay không tôi xin nhường lời cho các bạn quan tâm đến ngành tỷ giảo văn học. Tôi chỉ muốn nói như thế này. Khi tự nhận rằng mình là hiện sinh hay dấn thân những người viết của ta có sáng tác đứng đắn trong khuôn khổ lý thuyết văn nghệ của các trường văn học đó hay không hay cũng chỉ học vội làm dối đây một câu buồn nôn, kia một câu phi lý để ra cái điều hiện sinh còn toàn thể tác phẩm không có gì phù hợp với lý thuyết văn nghệ đó.

Trong cái xứ sở yêu mến chuộng đồ ngoại hoá này nhiều khi cái nhãn làm nhầm lẫn thực chất. Nếu viết văn mà anh không tương vào đó vài câu triết lý vớ vẩn thì ba cái triết lý ăn đong lại lên mặt kêu dễ hiểu. Nó khỉ thế đấy. Nhưng cái khía cạnh này của vấn đề không phải là trọng tâm của bài văn này. Tôi muốn đi xa hơn. Tôi muốn nói rằng ngay như chúng ta viết đúng khuôn khổ sáng tạo của hiện sinh, của dấn thân của tiểu thuyết mới hay của tả chân của lãng mạn, siêu thực hay hiện thực xã hội thì đó cũng chưa phải là sáng tạo đích danh. Đó vẫn chỉ là sáng tạo trong khuôn khổ sáng tạo không do ta thiết lập. Đó vẫn chỉ là làm mới trong khuôn khổ của một cái mới đã có. Cái mới của ta do đó vẫn chỉ là cái mới đã có trong một kích thước nhỏ bé. Ta vẫn chỉ sáng tạo ra cái đã sáng tạo ra rồi trong một hình thức khác. Đã nói thì nói cho hết. Ta chỉ là những người học trò tốt. Bởi vì cam chịu nền văn chương trú ẩn. Bởi vì chấp nhận nằm trong hang đá bình an. Khi tạp chí Đất Nước số 1 được in xong, chúng tôi, Thế Nguyên, Thảo Trường, Nguyễn Văn Trung, Đỗ Long Vân, Nguyễn Trọng Văn và tôi, trong một bữa tối mưa gặp nhau trong một cuộc ăn nhậu tốt lắm để bàn về chủ đề số 2 của Đất Nước.

Chủ đề này được đưa ra. Chúng tôi cố gắng bẻ gẫy nó trước khi chấp nhận nó. Như thế có phải là một loại chủ nghĩa quốc gia cực đoan không? Như thế có phải là mặc cảm tự ty không? Bây giờ phương tiện giao thông mau lẹ. Sản phẩm văn học nghệ thuật cũng như những phát minh khám phá khoa học một khi đã hình thành, đã phổ biến không còn thuộc về những quốc gia nào nữa. Ta có thể yên lòng sáng tạo trong khuôn khổ lý thuyết văn nghệ của bất cứ người cầm bút nào tìm ra. Được không?

Chúng tôi đã lần lượt tìm kiếm cùng nhau những giải đáp cho những thắc mắc lớn nhỏ.

Không, tuổi trời mà chúng ta mang trên vai, những ngày tháng hào hứng và chán nản, hân hoan và thống khổ, tin tưởng và hoài nghi trên đất nước này trong ngành sinh hoạt văn nghệ này, những mặc cảm đã bỏ đi nhiều lắm. Những cái nhìn phóng ra bốn phía, những cuộc tiếp xúc với những đất đai khác, ý thức rõ rệt về những cái tương quan chính trị của thế giới hiện tại, cái vị trí đau xót của nước ta, chúng tôi chẳng thể đi vào cái pháo đài cũ kỹ của chủ nghĩa "sô vanh" (chauvinisme). Và chúng tôi ý thức một cách đau xót rằng dù có muốn cũng không được. Trong cái hoàn cảnh viện trợ này, cái hoàn cảnh chiến tranh này, cái hoàn cảnh phân chia thế giới vì cái địa vị vệ tinh chầu rìa này mà nói đến quốc gia cực đoan bế quan tỏa cảng là một chuyện khôi hài nhằm giải tỏa một mặc cảm, phản ảnh một bất lực thảm hại. Nếu không phải là một mánh lới chính trị nhằm đưa dư luận rẽ sang một lối khác để lãng quên những ngột ngạt trước mặt. Dân tộc, chúng tôi yêu lắm chứ. Biết cầm bút chúng tôi biết nhục lắm, những nhục nhã dân tộc ta đang gánh chịu, biết ao ước những mơ ước dân tộc đang ước mơ, biết hãnh diện niềm kiêu hãnh của đại thể. Bởi thế, chúng tôi khao khát lắm những công trình văn chương khoa học không phải chỉ làm cho tác giả của nó mãn nguyện mà còn làm cho mỗi đồng bào của tác giả ấy, trong số có chúng tôi, được ngẩng đầu cao. Nhưng chúng tôi đã nhìn thấy nhiều quá những xử dụng bừa bãi hai chữ dân tộc chẳng biểu lộ gì hơn cái vỏ sò bất lực. Dân tộc, trong văn hoá, không phải là cái áo cũ ta khoác lên cơ thể để từ chối mọi tiến bộ, mọi đổi thay. Mà phải là sự đóng góp liên tục vào cái gia tài đã có. Bởi vì dân tộc không phải là một khái niệm tĩnh và bất biến, không phải chỉ gồm cái đã có mà còn bao gồm cái đang có cái sẽ có. Văn hoá dân tộc là cái được liên tục làm thành chớ không phải là định mệnh chớ không phải là cái loại ý tưởng có sẵn trong một thế giới chẳng hạn như linh-tượng-giới kiểu Platon. Không biết các anh em khác trong tạp chí Đất Nước nghĩ thế nào về các vấn đề văn hoá dân tộc, còn riêng tôi, tôi chấp nhận nó. Chấp nhận trong cái viễn tưởng "động", chấp nhận nền văn hóa dân tộc hàm chứa sự tiến bộ, sự đổi mới không ngừng chớ không như định mệnh chết cứng một vỏ sò tù hãm.

Cho nên không có mặc cảm, không có vấn đề quốc gia cực đoan, không có vấn đề bế quan tỏa cảng văn hóa.

Còn cái sự sản phẩm chung của nhân loại nghe cũng được. Tác phẩm văn học và khoa học một khi đã thành hình trở thành sản phẩm của nhân loại. Cũng đúng lắm, chúng ta dạy cho con em chúng ta khoa học của những Pasteur, những Einstein. Từ mười hai năm nay tôi vẫn nói với những người tuổi trẻ về những toán học của Euclide và toán học phi-Euclide của những Riemann, những Lobatchevsky, những vật lý học của Heisenberg, những Niels Bohr, những sinh vật học của Rostand. Văn học nghệ thuật cũng thế. Người bạn này gửi vào những cặp mắt kinh ngạc khoái trá ở lớp học này và giảng đường kia của những tác phẩm kịch của Shakespear, Molière, Racine, truyện ngắn của Daudet, thơ của Bạch Cư Dị, Hugo, Claudel hay Valéry. Đúng, những tác phẩm đó không phải chỉ được giảng dậy ở những quê hương của tác giả. Nhưng đó là cái vấn đề truyền giảng chớ không phải là vấn đề sáng tạo. Chúng ta, khi làm công việc cố gắng sáng tạo văn học nghệ thuật không thể đứng trên cái vị trí của nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học thế giới, mà đứng trên vị trí của người làm nghệ thuật. Chúng ta không thể lý luận như còn đứng ở những trên vị trí kia. Lý thuyết văn nghệ của người nào là của người ấy. Lề lối sáng tạo, quan điểm nghệ thuật của người nào là của người nấy. Không thể cả ngày cứ ngồi chờ xem văn học nghệ thuật các nước khác đưa ra ý kiến sáng tạo nào mới lạ, cái lý thuyết văn nghệ nào hay hay là đọc cho mau, áp dụng cho lẹ trước các anh em. Người ta hiện sinh thì mình hiện sinh, người ta hiện thực thì mình hiện thực, người ta dấn thân thì mình dấn thân. Thôi không chơi cái trò này nữa. Nhớn rồi. Hãy rời bỏ những vùng trúí ẩn cũ. Hãy rời bỏ những động đá cần thiết cho mùa Đông nhưng tù hãm lắm, tê liệt lắm.

Rời bỏ nền văn chương trú ẩn, khuôn thước, rời bỏ động đá bảo trợ vững vàng. Đi đâu? Chưa biết.

Đó là cuộc phiêu lưu. Có thể trước mặt sẽ là sự khám phá thần thánh. Có thể là sự gục ngã. Gục ngã vì dại khờ. Gục ngã vì điên loạn. Nhưng trong văn nghệ, cũng như trong tình ái, chẳng thà gục ngã trong dại khờ còn hơn sống mãi trong khôn ngoan. Chết ở chân trời thử thách, chết trong cuộc phiêu lưu còn hơn sống mãi tầm gửi trong động đá trú ẩn êm ấm.

Nguyên Sa
Tạp chí Đất Nước số 2 tháng 12, 1967










Mặc Lâm:
Nhà thơ Nguyên Sa và sự thay đổi cảm nhận thi ca VN















Nguyên Sa, “Cuộc Hành Trình Tên Là Lục Bát”

Nguyễn Mạnh Trinh


Gần nửa thế kỷ trước, Nguyên Sa đã làm thơ, bài “Di Chúc”, như một bầy tỏ cuối đời, dù lúc ấy. ông còn rất trẻ và chưa có dấu hiệu nào sẽ ra đi trên chuyến tàu miên viễn mà ai cũng phải đi, phải đến sân ga, phải chờ phải đợi:

“...Tôi đến đây không ai mời
Cũng mong rằng: Ði đừng ai giữ
Có nhớ, có thương
Có tạc nên tượng hình bằng đá trắng đồng đen
Cũng đừng bày giữa những sân trường đại học
Ðừng bày giữa những công trường.
Xin nhớ để giùm ở một góc công viên
Ðể những đêm khuya
(Rất khuya)

Tôi nhìn mặt trăng soi gương
Và ngắm những người yêu nhau tình tự...”

Và, trước năm ông ra đi, năm 1998, cũng có một bài thơ, mà sau này được khắc lên bia mộ, cũng ở một nơi khiêm nhường, nhưng rất đặc thù Nguyên Sa:

“nằm chơi ở góc rừng này
chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
xin em một sợi tóc vàng
làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
biết đâu thảo mộc bớt đau?
biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?”

Bút hiệu Nguyên Sa, theo lời chính ông giải thích thì chỉ là “không có gì sâu sắc cả. Thành thực lúc nào tôi cũng cho tôi là một số không, tôi không lớn, nên tôi tự cho mình vốn dĩ chỉ là hạt cát.”

Theo tôi hiểu, điều mà ông lúc nào cũng mong muốn là một người ca tụng tình yêu. Trong thơ Nguyên Sa, có những bài mà phần đông người đọc đã cho là những “hạt ngọc bắt được của trời” sự lãng mạn đã tạo thành một không gian, thời gian đầy nét trẻ trung đầy nét đam mê ở bất cứ thời điểm nào. Bây giờ, đọc những bài thơ ông viết về Paris, về Sài Gòn, về những cổng trường áo trắng, về cái thời tiết man mác bềnh bồng của những người yêu nhau, dù đã ở tuổi sáu mươi, mà vẫn còn rung động.

Nguyên Sa viết hồi ký mà những trang, những dòng là những bài thơ nối tiếp nhau, những vần thơ của một người vẫn tiềm tàng trong ý thức một tình yêu, yêu mình, yêu người yêu và têu cả cuộc đời. Hồi ký ấy, ông gọi là “Cuộc Hành Trình Tên Là Lục Bát”

Thời gian đi qua thật nhanh. Lật bật, thế mà đã đến cái giỗ thứ tám của nhà thơ Nguyên Sa. Nhiều người đã có cảm giác rằng thân xác người thơ đã đi vào hư vô, đã khuất núi nhưng ngôn ngữ vần điệu thì vẫn còn sống mãi ở hiện tại trong lòng những người yêu văn chương chữ nghĩa. Nên đã có phát biểu rằng ở những vóc dáng nghệ thuật lớn như Nguyên Sa, tác phẩm không có tuổi thọ. Mỗi ngày, mỗi năm, thi ca đối thoại cùng với miên viễn, bất tử. Những trang sách vẫn còn mãi, như tấm gương soi phản chiếu một hành trình văn học nhiều đặc sắc...

Giở những trang hồi ký, được in sau ngày thi sĩ từ trần, đọc lại để tưởng tượng ra một thời kỳ khá đặc biệt của văn học Việt Nam. Thời thế ấy, con người ấy, đã sống, đã làm việc, đã buồn, đã vui, với rất nhiều tâm tư chia sẻ của một thời đại đầy biến cố. Qua những trang sách, những ngày tháng sôi động mở ra kèm theo những chi tiết lý thú. Ở đó, chất chứa những nỗi niềm. Ở đó, là những giấc mơ. Và, quen thuộc hơn hết, vẫn là nhân dáng đời thường, với những hệ lụy của nó. Hiện thực được nhìn ngắm và diễn tả dưới đôi mắt thi sĩ. Lãng mạn.

Lúc nhà thơ còn sinh tiền, qua những câu chuyện kể với cá nhân tôi về chuỗi ngày đã qua, tôi rất tâm đắc và thường bày tỏ lòng mong mỏi sẽ được đọc những cái chung của thời đại qua cái tư riêng của ông với những suy tư, cảm nghĩ trên từng trang hồi ký. Và, ở trong những điều cảm nhận được, chúng ta sẽ có được những phóng chiếu chính xác để hình dung được những đời sống phức tạp trong một thời kỳ nhiều đổi thay biến chuyển mà chữ nghĩa thể hiện.

Nguyên Sa là một khuôn mặt đa diện. Trong đó, ông là một nhà thơ nổi tiếng, một nhà giáo yêu nghề, một nhà báo lừng lẫy, một thương gia thành công, một nhà văn nhiều khám phá, sáng tạo, và của một người có tham dự ở trong hậu trường của chính giới miền Nam... Tất cả những vóc dáng này trộn lẫn lại, thành một chân dung đặc sắc riêng. Nhưng, trước sau, vẫn bao trùm chất thi sĩ trong mỗi vóc dáng. Chất thơ, với một chút lãng mạn, một chút của mơ mộng pha trộn vào những cảm xúc có từ đời sống thực là một nét đặc biệt của “cõi riêng Nguyên Sa.”

Thi ca, làm biểu hiện rõ nét hơn trong bầy tỏ bằng ngôn ngữ vần điệu.

Hồi ký Nguyên Sa, trong bố cục bốn phần, biểu hiện một phần nào những góc cạnh của khuôn mặt ấy. Ông viết không theo một trình tự thời gian nào, mà mở rộng ra những không gian từ trong nước đến khi ra hải ngoại hay lúc du học ở Pháp đến khi về nước tham gia trường văn trận bút. Trong những trang hồi ký, ông ghi chép lại những biến cố trong cuộc sống của ông mà qua đó, thấy được những biến cố của đất nước. Những nỗi niềm của một người mà cố tổng thống Ngô Ðình Diệm đã nhận xét với bác sĩ Trần Kim Tuyến là “quá lãng mạn” phảng phất trong từng giấc mơ và có lẽ là những mẫu số chung của người trí thức trong cùng một thế hệ. Thời thế, với những cơn trốt dông bão không ngờ trước được, đã cuốn lôi tất cả vào những tình huống và cảnh ngộ thật nhiều bất ngờ.

Trong diễn tả, có phác họa nhiều khuôn mặt. Của chính khách một thời quyền lực như bác sĩ Trần Kim Tuyến. Của hòa thượng lãnh đạo Phật Giáo Thích Tâm Châu. Của nhà văn chủ nhiệm tạp chí Sáng Tạo Mai Thảo. Của nhà báo lừng lẫy một thời đảng trưởng đảng Ðỡ Buồn Chu Tử, người gây giông bão cho bọn quan lại tham nhũng. Của những khuôn mặt giáo chức nổi tiếng mô phạm Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Xuân Nghiên... Mỗi một vị trí, trong những chuyện kể khác nhau, làm nổi bật thêm những sắc thái trong cuộc đời tác giả. Mà, hình như, đời sống của ông cũng khá nhiều biến cố và phần nào có nét biểu tượng cho xã hội mà người thơ đã sống.

Làm nhà giáo, chia sẻ những sinh hoạt chung với bạn bè đồng nghiệp, ông có cùng những dự tính những mơ ước. Làm nhà báo, viết những bài “nổ văng miểng lung tung”, không ngoài một ý muốn làm sạch sẽ hơn cái xã hội bị tha hóa đến không tưởng tượng nổi. Ở đó, ông gặp những Chu Tử, những nhóm “nồi niêu xoong chảo” Hoàng Anh Tuấn, Trần Dạ Từ, Tú Kếu, Nguyễn Thụy Long,à Làm nhà thơ, với những Ðinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, cái duyên nghiệp văn chương một thời hiển lộng, để, thơ Nguyên Sa của “áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc” thành những trang vở chép nâng niu trìu mến của nhiều thế hệ học trò. Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã phát biểu rằng những người từ Pháp về như Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn,à đã mang lại cho thơ văn Việt Nam một chút lãng mạn của Paris, của những phương trời nhiều lãng mạn.

Khi trả lời một câu hỏi về thơ, thi sĩ của “áo lụa Hà Ðông” đã nói:

“Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Ðó là cách thế giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có, và bản ngã muốn có. Những bài thơ khác biệt mang lại những bản ngã khác biệt trong thời gian.

Làm thơ với tôi bao giờ cũng cần có cảm hứng, có cảm hứng mới làm được thơ, không có cảm hứng thì chịu thua. Cảm hứng đưa tôi vào thơ, thời gian này, cũng như từ hơn bốn thập niên, luôn luôn đến từ xúc động chân thực. Lúc hai mươi tuổi, đam mê tình ái mang thơ lại cho tôi. Khi tuổi già đã tới, cánh cửa của một đời người sắp khép kín lại, những xúc động của những ngày tháng đối diện với sự thật của kiếp người, một cuộc tình hồi tưởng lại, một cuộc tình mơ ước, giọt sương mai mong manh, cơn mưa đến muộn, buổi hoàng hôn nơi quê người, người bạn thâm niên bỏ đi vĩnh viễn, là nguồn cảm hứng hôm nay của tôi. Cảm hứng này xây trên xúc động chân thực luôn luôn đổi mới, cùng với kỹ thuật thi ca có suy nghĩ, giúp cho sáng tạo tránh khỏi nhắc lại chính mình...”

Ðọc lại những trang hồi ký Nguyên Sa, tôi dường như thấy lại những đoạn đường gập ghềnh của văn học Việt Nam. Nền văn học ấy từ những nỗ lực xây dựng, những tận tình khai phá sáng tạo. Ðể có những thành quả mà một chế độ chuyên chế dùng đủ mọi cách để triệt tiêu nhưng không làm nổi. Cũng như, từ những tàn phá gẫy đổ, những mâu thuẫn ý thức hệ chi phối văn chương tạo nên những tha hóa những xuyên tạc ngộ nhận. Nhưng vượt lên tất cả, vẫn là tâm tư của những người muốn làm đẹp quê hương, bảo tồn những giá trị cao quý của dân tộc. Viết những dòng ghi chép lại cuộc sống, trong chủ quan có những cảm xúc kèm theo. Những dòng chữ, ở trong một cảm nhận nào đó, có tác dụng của những luồng điện truyền đi, gây những cơn “shock” mạnh trong tâm não. Phong thái diễn tả, có sự sinh động của dòng máu chảy, có dồn dập của nhịp trái tim. Từ ngôn ngữ, đời sống hiện ra, rõ nét nhưng bàng bạc chất ngất tâm sự. Ðọc, để thấy lại một đoạn đời. Ðọc, để soi trong tấm gương nhân sinh vóc dáng của nhiều người, có phận đời riêng nhưng chia sẻ chung với nhau những đa mang cam chịu của cùng một thời đại.

Viết về nguyên ủy của một bài thơ, tác giả có sự chân thành của một người nhìn lại và xét đoán chính công việc của mình:

“...Tôi đưa ngay Cắt Tóc Ăn Tết cho Thế Nguyên, bài thơ Xuân đầu tiên sau bốn năm, mau chóng, bài thơ được đọc trong anh em Trình Bày từ trước khi số Xuân Trình Bày in xong. Ðộng lực nào làm tôi tới được với Thơ Xuân, cơn gió kỳ lạ nào đã đưa Thơ Xuân tới với tôi? Nguyễn Ngọc Lan trước giờ vẫn nhìn tôi nghi ngờ. Nhà thơ phe Hữu này đến đây làm gì? Tôi có tất cả những yếu tố hữu, cả từ đời sống đến tác phẩm. Tôi làm thơ tình, chỉ thơ tình, có cả thơ tình vì tình cờ, có cả thơ tình vì đời sống, có cả thơ tình như chọn lựa. Tôi cũng nói với Thế Nguyên tôi không thích loại thơ thời cuộc. Ngôn ngữ thơ tự nó là một thế giới, nó không là ký hiệu, là dấu chỉ cho một thế giới nào khác. Văn xuôi là dấu chỉ biểu hiện những sự vật. Thơ tự nó là sự vật. Làm sao nó có thể dấn thân? Nhóm Trình Bày có nhiều bằng hữu thật trong sáng. Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Văn Trung, những khuôn mặt hàng đầu của nhóm nghệ sĩ này không hiện ra thu hút với tôi. Tôi có giao thiệp nhiều với Nguyễn Văn Trung, nhưng Trung là người của biên khảo, tôi có viết biên khảo nhưng vẫn chỉ cảm thấy gắn bó với thi ca. Nguyễn Ngọc Lan xa lạ. Nhưng Nguyễn Quốc Thái ngây thơ và tình tự. Diễm Châu sâu thẳm đa dạng. Hoàng Ngọc Biên hào hùng. Mai Vi Phúc hiền hòa... Những cuộc trò chuyện với Thế Nguyên về giá tiền sắm bộ chữ Romain mới, với Diễm Châu về Malcolm X, với Nguyễn Quốc Thái về Sư đoàn 18 và thị trấn Tây Ninh, về thơ tự do, tất cả kết hợp lại thành chuyến xe chạy trên những con lộ thênh thang có hơi thở của núi non và biển cả...”

Viết hồi ký, phải chăng là ghi chép lại những kinh nghiệm của chính đời mình cho những người ở thế hệ sau hiểu được tâm tư cảm nghĩ của thời đại mà mình đang sống? Với Nguyên Sa, hình như còn mục đích khác. Không hiểu chủ quan tôi có đúng không khi nghĩ rằng tác giả “Áo Lụa Hà Ðông” còn muốn đối thoại với những cái thiên thu trường cửu. Ðời sống sẽ ngắn ngủi lắm với lượng thời gian dần hao hụt theo tháng năm nhưng ở cõi bất tử những chữ nghĩa vẫn còn mãi. Tôi đã từng nghe những nghệ sĩ nổi danh chỉ mong ước có một bản nhạc, một bài thơ... của mình còn tồn tại qua sự sàng lọc của lãng quên.

Với hồi ký Nguyên Sa, với “Cuộc hành trình tên là lục bát,” có phải là điểm khởi đầu cho một miên viễn thiên thu?













Cõi Thơ


Tác giả : Nguyên Sa



Trí nhớ của tôi trong những ngày tháng này mơ hồ kinh khủng. Hồi đó, hồi dậy tâm lý học ở Saigòn, tôi vẫn nói với những thanh niên nam nữ theo học, là có hai loại bệnh quên. Có những người quên những kỷ niệm gần, nhưng lại nhớ rất rõ ràng những kỷ niệm thật xa xưa. Những người lớn tuổi quên ngay những sự việc mới xẩy ra ngày hôm qua, nhưng nhớ rõ từng chi tiết về những ngày thơ ấu. Loại người bị bệnh quên thứ nhì, ngược lại, hoài niệm bị xóa mờ, chỉ nhớ những gì mới xẩy ra. Với tôi, bệnh quên xẩy ra có ngày. Không thể nói dứt khoát ngày nắng hay ngày mưa, cuối mùa thu hay đầu mùa hạ. Có năm ngày mưa thì trí nhớ tôi tốt, những ngày mùa xuân mùa hạ, trí nhớ tôi rất được, khi thu sang, trời lạnh, trí nhớ mơ hồ. Thời điểm này, trời nắng ấm, sao trí nhớ tôi cũng bỗng nhiên mơ hồ qúa? Tôi muốn tìm lại những hoài niệm về Hoàng Thụy Châu, tôi tìm hoài không được. Tôi nhớ Hoàng Thụy Châu nay là Hoàng Dược Thảo, hồi đó là Huỳnh Laure Brigitte, hồi chưa lấy Du Tử Lê, tới nay tôi vẫn quen gọi là “cô Châu.” Tôi nhớ vậy đó, nhưng muốn tìm lại những hoài niệm hình ảnh, những hoài niệm của thị giác, muốn nhớ lại kiểu tóc Châu ngày đi học, màu áo của Châu ngày Châu và Lê tới tôi, sau lễ hôn nhân, tôi tìm hoài không được. Tôi sử dụng đủ thứ kỹ thuật gọi là kỹ thuật khêu gợi hoài niệm, từ những hoài niệm nổi lần tới hoài niệm chìm, từ những hoài niệm trong cùng một vùng thời gian tìm ra những hoài niệm muốn tìm thấy, từ những hoài niệm thính giác và khứu giác, rất mạnh nơi tôi, lần ra những hoài niệm thị giác và vị giác tôi yếu kém, vô ích. Hình ảnh Thụy Châu với Tay Trái, Tay Phải, hình ảnh tươi vui, rạng rỡ, hình ảnh Thụy Châu quay cuồng trong những buồn phiền, tưởng như những cơn điên, hình ảnh Thụy Châu ân cần, thân ái pha lẫn chút luyến nhớ xót xa một thời đã qua, những hình ảnh có cấp độ cao hơn làm thành những bức tường thành thật dầy ngăn cản tuyệt đối tôi và Thụy Châu thời Huỳnh Laure Brigitte. Hoài niệm về Du Tử Lê cũng là những kỷ niệm rời. Cách đây hai tháng, Nguyễn Mạnh Trinh gửi cho tôi một tờ Văn Học, trong đó có một bài về cuộc thi văn chương toàn quốc kỳ đó tôi có tham dự với tư cách giám khảo. Bài báo thật tuyệt vời, đánh thức dậy trong tôi những kỷ niệm mất hút, tưởng như vĩnh viễn tới mức không còn một nghi ngờ nào về hiện hữu của những sự việc đó. Tôi nhớ chấm thời kỳ đó, có Vũ hoàng Chương chủ tịch, có Thanh Tâm Tuyền, đọc bài báo tôi mới nhớ lại được rõ ràng những kỷ niệm về chị Mộng Tuyết, anh Hà Thượng Nhân. Tôi nhớ chiếc Vespa của Du Tử Lê ở Saigòn, bộ quân phục. Tôi nhớ tôi có cảm nghĩ nhưng không nhớ rõ vào thời điểm nào, đúng thế, tôi nhớ tôi có cảm tưởng Du Tử Lê mặc quân phục trông rất có nét. Tôi nhớ chiếc áo lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ của Du Tử Lê bay lồng lộng trong gió trên đồi Trại Một của Pendleton. Lê đứng đó, trong đêm, trong sương mù, những ánh đèn của những ngọn pha xe nhà binh lại gần rồi chìm xuống, như những chiếc phao mất khuất trong biển đêm, Lê đứng đó với Nguyễn Thừa Dzu, Trần Tam Tiệp, Trương Trọng Trác, Nguyên Sa. Tôi hoàn toàn không còn nhớ chúng tôi đã trò chuyện với nhau những gì những buổi chiều Pendleton, những buổi trưa, Du Tử Lê tới tôi ở Saigòn, những ngày vui khai trương Tay Trái, những buổi tới Lê rất “Em Xi” ở Lup. Lê giới thiệu Cao Đông Khánh ngâm “Trường Sa Hành,” giới thiệu Mai Thảo nói mấy lời mở đầu chương trình, giới thiệu Trần Duy Đức hát sáng tác mới nhất của Đức, giới thiệu Lê Uyên ca “Chiều Trên Phá Tám Giang.” Tôi nhớ, thỉnh thoảng có đêm ngồi với Lê thật lâu, thật riêng ở đó, ở Lup, chúng tôi đã nói với nhau về thật nhiều chuyện, có cả những kỷ niệm về dĩ vãng, những buồn phiền về cuộc sống mười phần chẳng như, về những dự án tương lai. Nhưng dĩ vãng nào đã réo gọi, buồn phiền nào đã làm thành ngậm ngùi, tương lai nào thoáng hiện trong đáy cốc, tôi không thể nhớ được. Cũng may, thơ Du Tử Lê giúp tôi tìm lại được thật nhiều mất mát. 






cảm ơn 
cảm ơn Pendleton
đã cho ta những buổi sáng đầy sương mù
như đôi mắt của người con gái yêu ta còn ở Saigòn... 


Phải rồi, đôi mắt Thụy Châu có sương mù, có nụ cười ở tuốt phía sau màn sương mù đó. Chỉ khi màn sương mù đó được xé rách toang mới nhìn thấy được hồn nhiên, ân cần, lưu luyến của nụ cười tìm thấy. 


cảm ơn 
cảm ơn Pendleton
đã cho ta những chiếc quần áo
rộng như những chiếc bao bố
những chiếc áo đôi khi mặc vào khỏi cần quần nữa
hay những chiếc quần đôi khi mặc vào khỏi cần mặc áo
tuy nhiên
ta vẫn hân hoan và súng sính đi lại
có sao đâu
bởi với ta bây giờ chẳng còn chi quan trọng. 


Phải rồi, áo lính Thủy Quân Lục Chiến phát ở Pendleton rộng thật. Trước Pendleton là đảo Guam, là trại Asan. Là những chuyến xe bus quân đội đưa người mới từ phi trường Guam về trại. Là chiếc máy phát thanh để kế bên người quân nhân Marine lái xe phóng lớn bản tin Đại Tướng Dương Văn Minh đã hạ lệnh cho toàn thể quân nhân buông súng. Những tiếng động cơ, tiếng máy phát thanh, tiếng khóc thút thít. Đến khi tiếng động cơ đã bỏ đi, tiếng máy phát thanh đã tắt hẳn, tiếng khóc tức tưởi không thể giữ được trong cổ họng vẫn bật vỡ ra. Trong nhà ăn. Dưới chiếc mền trùm kín đầu trên nền xi măng. Dưới gốc dừa trông ra biển, quay mặt về phía đông. 

cảm ơn

cảm ơn Pendleton
đã cho ta những bữa cơm ngao ngán
......
đã cho ta những buổi chiều rét ngọt
những buổi chiều ta thấy hồn ta trên những đỉnh núi 
vây quanh 
và tưởng có thể nhìn xa bốn phía
mặc dù ta chẳng nhìn thấy chi
ngoài chính chiếc bóng ta
và nghe được tiếng giầy mòn
khua trên đường về chỗ nằm hiu quạnh. 

Tôi nhớ cái rét đó. Du Tử Lê gọi là rét ngọt. Tôi thấy kinh hoàng. Rét ở trên núi, trong lều vải hở lung tung, chăn càng đắp càng thấy nặng, không thấy ấm. Nhưng “những đỉnh núi vây quanh” hồi đó thì buồn thật. Nhìn ra, nhìn lên bốn bề chỉ thấy núi. Nhưng này Lê, bây giờ, sao cũng có những buổi chiều vẫn chỉ thấy hồn ta trên những đỉnh núi vây quanh, và tưởng có thể nhìn xa bốn phía, mặc dù ta chẳng nhìn thấy chi, ngoài chính chiếc bóng ta, và nghe được tiếng giầy mòn, khua trên đường về chỗ nằm hiu quạnh... 

Hồi đó, những ngày tháng ở Paris với Đỗ Long Vân, với Hoàng Anh Tuấn, với Lê Trạch Lựu, Lê Trọng Việt, Trần Đình Hòa, Đỗ Hữu Khải, tôi nghĩ muốn hiểu được thấu đáo tác phẩm, nhất là tác phẩm của một nhà thơ, cần tìm hiểu thật kỹ lưỡng cuộc đời tác giả. Những dấu mốc ngày tháng, những biến đổi của sự sống là hải đăng chiếu xuống biển tác phẩm. Cả bọn ngồi ở Flores, ở Aux Deux Magots, ở Julien, ở thư viện Saint Genevière đi thẳng vào những ngày tháng kháng chiến của Paul Eluard để hiểu thật rõ Liberté, đi tuốt tới những vùng trời mưa gió ở Brest cùng với Barbara của Prevert, đến tận ngôi mộ Vercos để lắng nghe “Niềm Im Lặng Của Biển Cả.”

Bây giờ thì tôi thấy sự việc không đơn giản như thế. Cũng có thể cuộc đời soi sáng cho tác phẩm, nhưng có thể chính tác phẩm mới cho thấy cuộc đời. Nhất là khi trí nhớ bỏ đi, cuộc đời đã bắt đầu bỏ đi, cuộc khởi hành lớn đã mơ hồ phía trước. 

ngủ đi. Ngủ với biển trời
ngủ mười năm nữa hay ngồi dậy chơi
ngủ đi. Ngủ chớ ngậm ngùi
trái tim ta nát ba đời bởi em
ngủ đi. Tóc rụng chân thềm
tháng năm quên lãng. Buông rèm lìa xa
ngủ đi. Ta đã mù kòa
không trông thấy ảnh. Không sờ thấy đau
không cha mẹ. Không cửa nhà
Không con. Không vợ. Không chờ. Không mong
ngủ đi. Ủ giữ trong lòng
tuổi tên ta đã một lần ở em
nhận giùm ta lậy cuối cùng
trước khi khăn gói về sông nước người. 

Bài thơ có tên là “Chuyết kinh thi.” Tôi không hiểu thật rõ cái tựa này. Nhưng tôi biết bài lục bát tới, một lục bát không Nguyễn Du, không Nguyễn Bính, không Huy Cận. Thế hệ chúng tôi đến với lục bát với câu hỏi lớn “làm sao khác với Nguyễn Du, làm sao khác với Nguyễn Bính, làm sao khác với Huy Cận?” Lục bát Du Tử Lê, như “Chuyết Kinh Thi,” Như “Đêm, Nhớ Trăng Saigòn,” Như “Cõi Tôi,” như những bài lục bát ở Úc Châu làm thành một lục bát khác. Một lục bát Du Tử Lê. Một lục bát khác Huy Cận. Một lục bát vượt Huy Cận. Vượt không có nghĩa là hơn. Thơ không có so sánh. Không có hơn kém. Vượt là khác. Là đẩy thơ đi tới. Là làm thơ thành thơ. Chuyết Kinh Thi cũng như hàng chục bài U, những bài Bồ Tát, những Lãm Ca, những tôn thờ Thánh Nữ cho tôi thấy rõ hơn năm năm ở Lup, những ngày tháng với Lê Uyên. Đúng thế, chính thơ đó cho tôi thấy rõ hơn cuộc đời người bạn, những chuyến đi qua sa mạc, những ngày tan tác trở về, những đêm dằn vặt, những tháng khắc khoải, những trời điên mê. Thơ cho tôi gặp cả những người bạn của bạn tôi. Những Bành Nho, những Đào Quý Châu, Những Từ Công Phụng, những Kiểm, những Tư Cóc, những Minh Dê, Hồng Trố. Thơ đưa tôi tới Melbourne, tóc Thúy, đêm nghe tây ban cầm với Quỳnh. Năm chữ đầy ắp Thụy Châu. Lục bát có Saigòn. Bảy chữ đưa tôi tới Khánh Trường, tới Vũ Huy Quang. Lục bát, bảy chữ, tám chữ, năm chữ tuyệt vời đưa tới tôi đủ thứ. Tới dĩ vãng Lê. Tới núi non. Tới biển khơi. Tới sa mạc. Tới cơn điên không dứt, tới dằn vặt khôn cùng. Tới cả những kỷ niệm chưa gặp, những tương lai mà sao nằm trong ký ức. Tôi thấy cả tôi: 

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà... 

Tôi sửng sốt nhìn lại. Tôi ngạc nhiên hơn là ngạc nhiên. Tôi nhận ra Du Tử Lê là nhà thơ tôi có cơ may gặp gỡ nhiều nhất. Có những năm tôi gặp gỡ Vũ Hoàng Chương nhiều. Thời Hiện Đại gặp Đinh Hùng, Thái Thủy, Thanh Nam gần như mỗi ngày. Những ngày tháng báo Sống trang nhất của hoài niệm là tám cột Trần Dạ Từ. Có bằng hữu tôi có cơ may gặp gỡ thời những ngày tháng thập niên năm mươi lúc ở Pháp mới về. Có bằng hữu thật gần gũi những ngày chiến tranh rực lửa. Nguyễn Quốc Thái, Diễm Châu. Sau đó, xa cách. Tổ quốc trôi xa. Tuấn và Vân, thời tuổi trẻ. Nhưng Du Tử Lê thì tôi có cơ may gặp hơn một thời kỳ. Những năm năm mươi, nhà thơ còn đi dậy học, mới bước vào cuộc đời văn nghệ, bị đánh đấm tơi bời, Du Tử Lê đã tìm đến tôi. Những năm sáu mươi và bảy mươi, ngôi nhà ở đường Phan Thanh Giản thường hằng là nơi chúng tôi gặp nhau. Du Tử Lê là nhà xuất bản in thơ Nguyên Sa. Trại Pendleton đầu kiếp lưu vong chúng tôi đứng bên nhau. Tôi ngạc nhiên nhận ra chúng tôi gặp nhau lâu ghê, gặp nhau thật nhiều. Tôi càng ngạc nhiên, thích thú, người bạn thơ tôi có cơ may gặp gỡ nhiều vẫn tiếp tục làm thơ, vẫn cùng tôi rời bỏ tất cả. Trừ thơ. Thơ Lê dài hơi. Đa diện. Lục bát ra lục bát. Tám chữ ra tám chữ. Thất ngôn chất ngất những cơn say, những cơn điên, những bài hành. Năm chữ từ “Kẻ Từ Phương Đông Qua,” có chuyện kể đúng phong vị năm chữ. Tôi thích lắm những tám chữ dài và những tám chữ ngắn của Du Tử Lê. Dài như “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển.” Như “Bài Nắng Mưa Thứ Nhất.” Ngắn như loạt đoản thi “Tam Thập Nhất,” bốn câu, ba câu tám chữ, một câu bảy, tám chữ đoản thi “Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu.” 

Như “Ngựa Đã Tan Đàn”: 

này trí nhớ đậu trên cành ký ức
tháng sáu về yên lặng bước chân quên
tình yêu cũng đậu trên cành gian dối
ở trong tôi, ôi ngựa đã tan đàn... 


Như “Thơ Ở Đào Quý Châu”:

không ai chết hai lần tôi cũng thế
riêng mối sầu cư ngụ tới muôn năm
đời vốn ngắn dù bàn tay sáu ngón
tôi sống thừa từng phút héo ăn năn.


Như “Còn Ai Nhìn Tôi Nhỏ Máu Trong Thơ:

ôi chữ nghĩa trở về như khách lạ
vầng trăng xưa không có ngọn cờ
ngày em bỏ tôi, vào cõi khác
lấy ai nhìn tôi nhỏ máu trong thơ! 

Như “Đáy Khuya”:

tôi trở lại đáy khuya ngồi với bóng
những chiếc bàn trật khấc nỗi cô đơn
em nên biết cuộc đời tôi đã hết
có thương nhau lo hộ nhúm xương tàn. 

Như “Thơ Ở Saigòn”:

sông núi cũ rủ tôi về với đất
bốn mươi năm ngơ ngác làm người
trên thân xác đã mọc đầy móng vuốt
thì có gì sai đúng với ai đây? 

Đúng thế. Có gì sai đúng với ai đây? Du Tử Lê đã tìm ra nó. Đã tìm ra nó ở bên ngoài những phán xét của nhân gian, bên ngoài luân lý, vô luân lý và cả phi luân lý. Đã tìm ra nó. Sự sống.Cũng như anh đã tìm ra trái tim cho thơ. Cho lục bát, cho bảy chữ, cho năm chữ, cho tám chữ. Thơ vượt băng lên. Vượt qua bình nguyên mô tả. Vút qua ngọn đồi so sánh. Trên những ngọn tạo hình. Vút luôn lên tới đó, tới chỗ chót vót nơi chữ không còn là chữ, không còn là dấu chỉ, chữ trở thành bắp thịt, thành hơi thở, thành tuần hoàn, thành hô hấp, thành cuộc đời, thành sự vật. Nơi đó, những chiếc bàn trật khấc nỗi cô đơn, bàn không phải là bàn, trật khấc không phải là trật khấc. Mỗi chữ phóng ra không còn là những con đường đưa tới ngoại giới mà trở thành thế giới. Du Tử Lê bằng những cố công, những kiên nhẫn, những chịu đựng, những thao thức, những dằn vặt suốt một đời người, đã tìm ra con đường kỳ lạ đó của thơ. Con đường đưa tới Cõi Thơ. Cõi Thơ, chỗ tới thần thánh của thơ ngàn đời. Cõi Thơ, chỗ không dễ gì ai tới, không dễ gì ai thấy.

Nguyên S. (*)

(Trích "Du Tử Lê, Tác giả và Tác phẩm," tập I, Tạp chí Đời xuất bản, 1992, California, USA.) 
(*) Theo bản gốc, khi ra khỏi bài viết, tác giả không ký “Nguyên Sa,” mà ký “Nguyên S.” Sắp chữ lại, chúng tôi tôn trọng.














Liên hệ giữa Nguyên Sa, Sáng Tạo và, những ngộ nhận












Thụy Khuê
Sóng từ trường II

___

Nguyên Sa (1932-1998) 



Những năm 54-60, miền Nam chào cờ phải hát bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống, miền Bắc phải học thơ Bác Hồ, thì ở sân trường miền Nam, học trò tình tự với nhau bằng thơ Nguyên Sa. Cái khác nhau giữa nhà nước và nhà thơ là ở chỗ ấy: Một bên, người ta phải hát, phải học. Một bên khơi khơi đi vào lòng người, không thông hành, không gõ cửa và khi đã đột nhập vào rồi thì dù có tẩy não nó cũng chẳng đi. Áo Lụa Hà Ðông, Cần Thiết, Tuổi Mười Ba, Paris Có Gì Lạ Không Em... những bài thơ Nguyên Sa đã đi vào giới trẻ miền Nam những năm 60 và ở lại trong lòng người như thế:



Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở xung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bầy vội vã vào trong hồn mở cửa.
Gặp một bữa anh mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn
Thơ học trò anh chép lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.
Em không nói đã nghe từng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt.
Em chợt đến, chợt đi anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Ðể anh gọi tiếng thơ buồn vọng lại.
Ðể anh giận mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi xám hối chạy trên môi
Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng.
Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh mầu áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.



(Áo lụa Hà Ðông)



Nguyên Sa thuộc lớp người muốn canh tân văn học. Cuối thập niên 50, ở Pháp về, hành trang nặng gánh Sartre, Camus, ông dạy triết học trong những lớp luyện thi tú tài, thời ấy gọi là cua riêng. Cua riêng của thầy Trần Bích Lan lúc nào cũng đông nghẹt học trò. Triết học, nơi ông, là triết học xuống đường, thực dụng, triết học bình dân, dễ hiểu, hợp với tạng học trò. Trong lớp, dù là giờ Tâm lý, Ðạo đức hay Triết học hiện sinh, học trò không thể ngủ gật vì những bản thể, những siêu hình, những hư vô, những phương pháp luận... lọc qua lăng kính Trần Bích Lan, đã trở thành những tiếng cười châm biếm Tú Xương... những câu hát đối hóm hỉnh Cầu Lim, Nội Duệ..., Trần Bích Lan đến với tuổi trẻ qua ngả học đường bằng hình ảnh người thầy Tây học, hiện sinh, tài hoa và thơ mộng.


Rồi Thơ Nguyên Sa ra đời. Ra đời trong bối cảnh Mai Thảo giã từ Hà Nội, Vũ Thành mơ giấc mơ hồi hương, Thanh Tâm Tuyền không còn cô độc, Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy hát tiễn em giữa mùa thu Paris. Vũ Khắc Khoan mộng thấy thần tháp rùa. Nhật Tiến bước vào thềm hoang. Vũ Bằng nhớ miếng ngon Hà Nội. Bình Nguyên Lộc ký thác cho đò dọc. Võ Phiến viết chữ tình. Nguyễn Văn Trung đang nhận định, Vũ Hoàng Chương mang tâm sự kẻ sang Tần. Ðinh Hùng lạc trong mê hồn ca...


Hồi ấy, như Nguyên Sa kêu gọi: Chúng ta -tức là những người bạn của ông- không hô hào đổi mới suông. "Chúng ta" phải đánh đổ những người đi trước bằng tác phẩm văn học. "Chúng tôi" muốn đổi mới văn học, tác phẩm của chúng tôi đây, các anh đọc xem có được không? Trước những xông xáo xuống đường của Sáng Tạo, Nhất Linh lên suối Ða Mê tu tiên, Vũ Hoàng Chương khề khà Kinh Kha hề Kinh Kha và Ðinh Hùng miệt mài trên đường vào tình sử, Nguyên Sa hóm hỉnh ném vào sân trường trung và đại học, những hình ảnh bất ngờ:


Hôm nay Nga buồn như con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Ðể anh giận sao chả là nước biển.


(Nga)


Và học trò yêu ngay, chấp nhận ngay. Họ dấu thơ Nguyên Sa trong áo, họ tán nhau bằng thơ Nguyên Sa. Nhưng học sinh, sinh viên không phải là một giai cấp. Ðời sinh viên chỉ có một thời. Ðời sinh viên sẽ chấm dứt như tuổi trẻ. Vậy mà thơ Nguyên Sa ở lại. Tại sao? Bởi vì nó đã tạo được một mốc thời đại.

Nguyên Sa không đổi mới vần điệu. Cũng không làm thơ tự do. Ông vẫn dùng vần điệu của thơ tiền chiến. Thơ ông cũng không sâu sắc gì, ông nói trực tiếp, không ngụ ý hàm ngôn. Ông trải ẩn dụ ra để chúng trở về với thực tế so sánh, đơn giản và dễ hiểu như nói với học trò. Tóm lại, ông đi thẳng vào câu chuyện yêu đương, ở chỗ con trai còn rụt rè chưa dám tán, ông nói phắt hộ:


Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa.

(Cần thiết)

Cái tình ở đây là tình học trò, bồ bịch, Tây gọi là copain, copine, hơn là tình yêu da diết, say đắm, "trưởng thành" trong thơ Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử... Thơ Nguyên Sa dò dẫm, vụng về như tuổi trẻ vào đời:


Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám quay đi
Cả những giờ bên lớp học trường thi
Tà áo khuất thì thầm chưa phải lúc.

(Tuổi mười ba)

Nhưng thơ Nguyên Sa cần thiết và trực tiếp cho thời mới lớn. Cần thiết và trực tiếp cho giai đoạn đổi mới. Cần thiết vì ở một thời điểm mới, nếu muốn hạ bệ quá khứ tiền chiến của các bậc đàn anh, không lẽ lại vẫn nhai đi nhai lại một hình ảnh người em sầu mộng của Lưu Trọng Lư đã cũ mèm. Mà phải tạo ra một nàng thơ mới, mốt hơn, điệu hơn. Nàng thơ này không thể tìm thấy trong "Liên, đêm mặt trời tìm thấy" của Thanh Tâm Tuyền với những ý thức chạy ngược trong tiềm thức hoang loạn, học trò không hiểu gì cả.

Cũng không thể là "người em" tóc vàng xứ tuyết lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế của Cung Trầm Tưởng. Người em không thể đầm đặc như thế.

Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến không tạo được các người em Biên Hòa, Bình Ðịnh, vì họ không sành thơ.

Nguyên Sa đã tạo được một mẫu người em lý tưởng: người em Bắc Kỳ tóc ngắn, mặc áo lụa Hà Ðông và người em này đã tức khắc thay thế người em ngồi bên cửa sổ của Lưu Trọng Lư trong tư thế văn học và trong lòng người.

Em bây giờ -tức là em những năm 60- phải là em Bắc kỳ di cư. Sau này Nguyễn Tất Nhiên có cóp lại mẫu người em của Nguyên Sa, nhưng hơi muộn. Thời Nguyễn Tất Nhiên, các "em Bắc kỳ di cư" tóc đã điểm sương rồi. Văn học hải ngoại chưa có "người em". Chả biết "người em Linda mặt ngang" của Ðỗ Kh. rồi có trở thành "người em hải ngoại" chăng?

Sự thành công của mẫu hình người em tóc ngắn, áo lụa Hà Ðông, buồn như con chó đói, như con mèo ngái ngủ của Nguyên Sa không phải là chuyện đùa, nó phản ánh tính cách áp đảo của văn học di cư ở miền Nam, những năm chia đôi đất nước.

Người Bắc di cư, mang theo mỗi người một hình ảnh Hà Nội trong lòng, vào hội họa, thi ca, tiểu thuyết... Những tên tuổi như Nguyễn Gia Trí, Tạ Tỵ, Thái Tuấn, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nhật Tiến, Mặc Ðỗ, Mặc Thu, Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Cung Trầm Tưởng... thời 54-60 vẫn còn chưa rũ được hơi hướng Hà Nội của họ. Duy nhất, có Phạm Duy, và cùng lắm Phạm Ðình Chương, vượt trên tính địa phương, làng xóm để tìm đến với tất cả mọi miền, ngay trong những ngày đầu của thời kỳ chia đôi đất nước bằng Tình Ca, Tình Hoài Hương, Con Ðường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, Hội Trùng Dương...

Cho nên, sự thành công của Nguyên Sa là đã vẽ được một người em mới, điển hình cho một thế hệ tình yêu mới, một giai đoạn văn hóa tư tưởng mới.


Sau này khi sang Mỹ, Nguyên Sa cho xuất bản tập Thơ Nguyên Sa II, mượt mà hơn, đầy nhục cảm và đớn đau hơn:

Anh nắm tay cho chặt tiếng đàn
Tiếng mềm hơi thở, tiếng thơm ngoan
Khi nghe tiếng lạnh vào da thịt
Nhớ tiếng thơ về có tiếng em.

(Em gầy như liễu trong thơ cổ)

Nhưng thơ ông không còn được mọi người chú ý đến nữa. Thơ ông đã trở thành cổ điển. Ngày trước ông mở đường, bây giờ ông đoạn hậu. Ðoạn hậu cho một giai đoạn khó khăn, giai đoạn mà những người cũ đã lần lượt ra đi và lớp người mới chưa thật sự thành hình.








Nguyên Sa, một bông hồng cho văn nghệ

Những suy tưởng về sáng tạo, về sự hình thành một tác phẩm nghệ thuật, về khái niệm thẩm mỹ học... ít thấy xuất hiện trong văn học Việt Nam. Có lẽ đó là lý do khiến Nguyên Sa viết Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ năm 1967. Ðây là một trong những tác phẩm hiếm hoi có tính cách triết học thực dụng trong đời sống tư tưởng và văn nghệ.

Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ đối với Nguyên Sa tương tự như Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết đối với Nhất Linh. Cả hai đều tóm lược những kinh nghiệm và suy tưởng của người cầm bút, sau một thời kỳ sống và sáng tác.

Nhất Linh chủ yếu nghiêng về kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết mà Thạch Lam đã có lần đề cập đến trong Xuôi Dòng; Nguyên Sa mổ xẻ vấn đề suy tưởng trong sáng tác nghệ thuật. Nguyên Sa đi từ: 1- tình cảnh nhà văn Việt Nam những năm năm mươi, sáu mươi, để 2- tìm chỗ đứng của văn học nghệ thuật Việt Nam trong tình thế hiện đại, để 3- bầy tỏ về sự giàu có và nghèo nàn của văn học nghệ thuật ta, để 4- đào sâu nỗi cần thiết suy tưởng về nghệ thuật, ngõ hầu 5- nhìn kỹ về ý thức và nghệ thuật, và 6- sự sáng tạo đề tài về 7- khái niệm thẩm mỹ học.


Những suy nghiệm đó bắt nguồn từ nhận thức về sự cô đơn. Sự cô đơn của thế hệ năm mươi, sáu mươi, thế hệ Nguyên Sa, mà ông gọi là "sự cô đơn của thế hệ không có đàn anh". Ðây không phải là sự cô đơn trừu tượng, nhập tâm nhập tủy của người cầm bút trước trang giấy trắng mà các triết gia chuyên nghiệp hay bàn đến. Ðây là cái cô đơn hiện thực, sờ mó được, những thiếu vắng, mất mát, ly tán, kiệt quệ của thế hệ làm văn nghệ sau ngày chia đôi đất nước. Nguyên Sa viết:


"Chúng ta bước vào một ngôi nhà trống rỗng, một khu vườn bỏ hoang, một vũ trụ không người, chẳng có ai trước mặt thật. [...] Bọn họ đâu cả rồi? [...] Chiến tranh đã trổ ra trăm cánh tay móng nhọn trăm đầu miệng rộng răng to để cướp mất người này bằng cánh tay vũ khí, xóa mất người kia bằng hàm răng chính trị. Người bị thủ tiêu, Khái Hưng đấy. Người phiêu bạt rừng núi, ở quê người chẳng về, đứng lại tê liệt ở bên kia vĩ tuyến, lặng lẽ rút khỏi thế giới văn nghệ hoặc khoác lên vai chiếc áo chính ủy như những tác giả Lửa Thiêng, Vang Bóng Một Thời, Gửi Hương Cho Gió. Mất cả, mất cả. [...]

Các anh hãy tưởng tượng tác giả Ðoạn Tuyệt đứng giữa bìa báo bao bọc bởi những Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Ðạo, Xuân Diệu, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Nguyễn Tuân thì khuôn mặt văn nghệ những năm Năm Mươi, Sáu Mươi sẽ khác đi không biết thế nào. Các anh thử nghĩ đi."

(Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ, NXB Ðời, California in lại, không đề năm, trang 18-19-20)

Người đi sau, không có người đi trước để cản đường. Nguyên Sa đã nhận thấy sự trống rỗng ấy rất sớm. Trước những bài báo đả kích Tự Lực Văn Ðoàn, Nhất Linh không nói gì. Ðinh Hùng, Vũ Hoàng Chương im lặng. Lớp đàn anh còn lại, đây một người, kia một người, đã "không hợp thành một lớp người" để đòi hỏi "chúng tôi" phải tận lực chống, phải vượt qua hay xin gia nhập họ. "Chúng tôi" đã phải "múa gậy trong khoảng không", đã phải "đối thoại với chính mình", phản kháng chính mình, không biết là mình đã tìm ra được "những miếng võ ghê gớm" hay là chỉ "múa may hỗn loạn". Thế hệ năm mươi, sáu mươi, ngoài cái cô đơn siêu hình của người cầm bút còn thêm cái cô đơn hiện thực của một dân tộc nghèo đói, ly tán chiến tranh. "Nhà văn, nhà thơ chỉ có số phận mà dân tộc nó có".


Những trống rỗng mà Nguyên Sa nhận thấy ở thế hệ ông vẫn còn kéo dài cho đến bây giờ. Nỗi cô đơn này, người cầm bút hiện nay ở trong cũng như ngoài nước, đều gặp phải, như một cái rớp. Thế hệ nhà văn hôm nay vẫn đứng trước một trống vắng, một thực tại không có đàn anh hoặc đàn anh còn sống mà kể như không có, họ không còn là một lực lượng văn học đáng kể, không còn là những lực cản đường để kẻ đi sau có thể phản kháng, đạp đổ mà xông tới những cái khác, hoặc cổ võ họ để xin gia nhập họ. Ðàn anh của thế hệ hôm nay cũng bị dập vùi trong trận chiến rồi trong hòa bình di tản, trong những chiến dịch luân lưu trói, cởi, cởi, trói văn nghệ.

Sự cô đơn của thế hệ hôm nay vẫn còn dai dẳng, vẫn còn "nhập cuộc". Sự cô đơn này nằm trong khối cô đơn khổng lồ, bao trùm toàn diện những người cầm bút nhược tiểu.

Ðã biết bao lần những người làm văn nghệ Việt Nam tự hỏi: Tại sao văn nghệ chúng ta khựng lại? Chúng ta không thật sự bằng lòng với nền văn học hiện đại của mình, nền văn nghệ này phải tự kiểm và tìm ra những cần thiết để tiến bộ. Nguyên Sa cũng như những người làm văn nghệ thông thạo tình hình văn học thế giới, biết rõ hơn ai hết, là dù nền văn nghệ Việt Nam còn có những chỗ chưa hoàn hảo, chưa thật sự đáp ứng lòng mong muốn của mọi người, nhưng với những kết quả đã thu lượm được của những người đi trước, với những tác phẩm văn học của thế kỷ XVIII, XIX, XX, văn học Việt Nam, từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Ðặng Trần Côn, Tản Ðà, Nguyễn Khuyến... đến văn học tiền chiến, văn học trong thời kỳ chia đôi đất nước và cả hiện tại bây giờ, với những thành tựu tác phẩm đã đạt được, văn học Việt Nam có thể ngẩng đầu. Chúng ta không có gì hổ thẹn cả. Nhưng tại sao văn học ta vẫn phải đứng hàng ghế chót của đại sảnh, đứng chỗ chầu rìa trong khung cảnh văn học thế giới? Tại sao? Tại sao?


Bởi đúng như lời Nguyên Sa viết, nhà văn, nhà thơ chỉ có chỗ đứng mà dân tộc nó có (trang 37), chỗ đứng của một dân tộc nhược tiểu, nghèo đói, chiến tranh, tan rã.

Ở thời Nguyên Sa viết Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ mọi người xôn xao hỏi nhau: Sách của ai sắp được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp? Nghe nói người này sắp được dịch, người kia sắp được dịch? Nhưng rồi cuối cùng vẫn trơ ra một vài tên sách, một vài địa chỉ xuất bản. Nghe nói Nhất Linh, nghe nói Vũ Hoàng Chương... sắp được dịch nhưng không thấy, không chắc gì cả. Kiều và Chinh Phụ Ngâm có được dịch ra Pháp ngữ với tư cách tài liệu sưu tầm. Nguyên Sa viết:


"Giới văn học nghệ thuật Pháp Anh không bàn đến Nguyễn Du như ta bàn đến Victor Hugo hay Lamartine, Byron hay Keats. Nghĩa là ngay khi được phiên dịch, tác phẩm của văn học nghệ thuật ta vẫn đứng ở cái chỗ khốn nạn ấy: hàng ghế chót của đại sảnh, chỗ chầu rìa trong thiên đường của anh thánh đàn em mà cả các thánh đàn anh, cả Thượng Ðế, nếu có, đều không biết tên, không biết mặt. [...]

Sartre có thể hoặc đã làm, hoặc muốn làm cái việc đọc Dos Passos bằng Anh ngữ. Evtouchenko có thể đã thử đọc Eluard nguyên tác, nhưng có nhiều hy vọng họ không biết đến Nguyễn Du và cũng chẳng bao giờ nẩy ra ý muốn, dù chỉ là ý muốn, đọc các nhà văn nhà thơ ta qua nguyên tác.

Các người làm văn học nghệ thuật Tây phương này chắc chắn không có một quan niệm kỳ thị. Vả lại họ có thể biện bạch: Không thể học hết mọi thứ tiếng để đọc văn của mỗi nước. Tôi cũng chẳng nghĩ như thế bao giờ. Nhưng đấy, tôi chỉ muốn nói đến một sự thực đơn giản này: Chỗ đứng sáng chói của Tây phương trên thế giới ngày nay, Tây phương Mỹ cũng như Nga, Anh cũng như Pháp, đã mang lại cho văn học nghệ thuật của họ cái chỗ đứng sáng chói. Và trong vùng sáng chói lòa đó, dù không chủ trương ý thức và hữu ý, các nhà văn học nghệ thuật Tây phương vẫn bị lóa mắt, không còn nhìn thấy trong vùng bóng tối, do đó chỗ đứng của văn học nghệ thuật các nước nhỏ, đã hoặc đang bị trị, nghèo đói, trong đó có ta, đã bị lệch lạc vì chỗ đứng của quốc gia, lại càng bị lu mờ hơn nữa vì khuynh hướng kỳ thị vô thức."

(Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ, trang 51, 64 và 65)


Tất cả những điều Nguyên Sa nói trên đây vẫn còn đúng, vẫn còn đang xẩy ra bây giờ.

Có thể bây giờ người ta tìm dịch các tác phẩm Việt Nam nhiều hơn năm 67, nhưng chúng ta đừng vội mừng. Tìm dịch để thỏa mãn nhu cầu exotisme, để chứng tỏ sự mở cửa của văn minh Tây phương, để thỏa mãn niềm tự tôn dân chủ, nâng đỡ những tác giả dissident, hơn là tìm dịch vì muốn thật sự tìm hiểu văn hóa Việt Nam, tìm hiểu văn hóa của một nước "nhược tiểu".

Bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn Chiến Tranh, nghe đâu bán rất chạy, nhưng nếu so với nguyên tác, nghe đâu cũng lại rất đáng buồn. Hiện nay ở Pháp có những nhà xuất bản chạy về Việt Nam, tìm cách ký những giao kèo rất rẻ với các tác giả, và tìm người dịch vội vàng, cũng rất rẻ, để về Pháp, họ nhờ người Pháp viết lại bằng thứ tiếng Pháp gẫy gọn. Sách bán được. Sống được. Nghề buôn bán văn nghệ nhược tiểu này khá thịnh hành. Khởi sắc. Sống được. Niềm cay đắng là chính các nạn nhân "được dịch" vẫn tin tưởng ở cái hào quang "được dịch" mà không có phương tiện để kiểm chứng cái sự dịch kia nó đã xẩy ra như thế nào. Khuynh hướng kỳ thị vô thức của những người làm văn nghệ Tây phương mà Nguyên Sa đề cập đến năm 67, nay trở thành một khuynh hướng trao đổi, thành sự cởi mở, giao lưu mang lại rất nhiều lợi điểm xã hội, chính trị, tiếc rằng những lợi điểm này không dành cho văn học.

Nếu chúng ta nhìn rộng ra đến những cuộc hội thảo quốc tế Việt học, chúng vẫn xẩy ra bằng tiếng Pháp, tiếng Anh một cách tự nhiên mà người được mời cũng như người tổ chức không thấy một trở ngại gì. Người duy nhất phản đối việc tiếng Việt không được sử dụng ở các hội nghị quốc tế Việt học hiện nay là giáo sư Nguyễn Văn Trung, còn tất thẩy giới trí thức Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, tham dự hội nghị đều mũ ni che tai, hồ hỡi chấp nhận mà không thấy có ý kiến phản đối nào cụ thể (1).


Từ nhận thức Nguyễn Du phải có chỗ đứng bên cạnh Shakespeare, Dante, Hugo, Nguyên Sa nói đến "ý thức tìm hiểu sự thất bại" và ông phân tích những cái nghèo nàn trong văn học nghệ thuật Việt Nam. Theo ông, cái nghèo khổ thứ nhất của văn học Việt Nam là sự thiếu suy tưởng quy mô về nghệ thuật, thiếu quan điểm về nghệ thuật, về bản chất nghệ thuật, bản chất sáng tác.

Một thái độ chấp nhận quá dễ dãi, sự biến chế vội vàng, đôi khi vụng về những quan điểm văn học nghệ thuật thế giới, hay ngược lại, không biết đến những quan điểm này, hoặc biết rồi mô phỏng, bắt chước một cách thô thiển, hoặc không biết gì cả, cả ba thái độ đều nguy hiểm. Do đó, suy tưởng về nghệ thuật, về sự sáng tạo đề tài, về khái niệm thẩm mỹ học là những yếu tố cần thiết để đánh bại cái nghèo nàn trong văn học nghệ thuật của ta.

Nguyễn Du đã nghĩ đến sự tương phản gay go giữa Tự Do và Ðịnh Mệnh, đến ba trăm năm sau, đến tính chất "mua vui" của nghệ thuật. Tản Ðà đã nghĩ đến đời đáng chán hay không đáng chán. Nguyễn Công Trứ đã nghĩ đếnchí nam nhi. Nguyễn Gia Thiều, Xuân Hương đã nghĩ đến thân phận của người phụ nữ, Ðặng Trần Côn đến hậu quả của chiến tranh. Khái Hưng, Nhất Linh về xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX... Tất cả những tác giả lớn của ta đều đã có những suy tưởng về nghệ thuật, về nhân sinh nhưng chưa có ai hệ thống hóa những ý thức đó thành những lý thuyết cơ bản về nghệ thuật để những người đi sau có thể dùng được như ta dùng Sartre, Camus, Blanchot hay Breton, để những người đi sau biết được yếu tính của cái đã có, biết cái mình đã có, rõ hơn, là một cách để đừng đi lại lối mòn, để vượt qua hay để làm một cái gì khác họ.

Chẳng hạn nếu chúng ta nắm rõ bản chất cái gọi là thơ mới, thì có lẽ bây giờ chúng ta đã vượt xa nó từ lâu, để lập ra những cái khác nó, chưa chắc là đã hay hơn nó, nhưng chắc chắn phải khác nó.


Nếu nói đến một chúc thư văn học của người mới ra đi, thì chúc thư của Nguyên Sa nằm ở những dòng sau đây:


"Văn học nghệ thuật và dân tộc ta không dừng mãi ở chỗ này. Và sự di chuyển, sự đổi thay đã bắt đầu ngay từ ý thức tàn nhẫn về thất bại. Sự đổi thay của dân tộc sẽ mang lại sự di chuyển của văn học nghệ thuật. Ngược lại, làm cho văn học nghệ thuật di chuyển, đổi mới, thoát xác trong thực chất và sáng rõ trong chỗ đứng, chắc chắn sẽ là động lực có sức mạnh khỏe hơn cả kinh tế, quân sự, chính trị, làm cho đất nước hồi sinh, dân tộc vạm vỡ, tổ quốc bình phục."


Paris, tháng 5/1998

Thụy Khuê





Chú thích:

(1) Ðây là tình hình tháng 5/98. Về sau có thay đổi. Có thể vì ý kiến của giáo sư Nguyễn Văn Trung đã được nghe chăng? Cho nên trong các cuộc hội thảo quốc tế về Việt học người ta đã lẻ tẻ dùng tiếng Việt 















Nguyên Sa







Nguyên Sa (Trần Bích Lan): Sinh năm 1932 tại Hà Nội 

Tác phẩm: Thơ Nguyên Sa 1958,Gõ đầu trẻ (truyện) 1959,Quan điểm văn học và triết học(biên khảo) 1960, Mây bay đi (tập truyện) 1967, Một bông hồng cho văn nghệ (biên khảo) 1967, Descartes nhìn từ phương Đông (biên khảo) 1969 


Nguyên Sa 
Và ngôn ngữ tình yêu trong thi ca 
Có lẽ, đã trên mười năm, vào buổi chiều Sài Gòn sau một cơn mưa lớn, tôi đang ngồi dưới mái hiên nhìn những vũng nước đục lầm trước nhà thì Mai Thảo đến thăm. Cùng đi với Mai Thảo có thêm một chàng trai phốp pháp có dáng dấp hồn nhiên. Mai Thảo giới thiệu –Nguyên Sa, người có thơ đăng trong Sáng Tạo mà cậu thích! Cái bắt tay lần đầu giữa tôi và Nguyên Sa thật là thắm thiết. Tôi nhìn chòng chọc vào Nguyên Sa đang đối diện, để chứng nghiệm lời Mai Thảo nói với tôi bữa trước, Nguyên Sa mới từ Pháp về, có tinh thần tiến bộ muốn đi cùng một đường với anh em. 
Sau buổi tối hội ngộ đó, tôi đã coi Nguyên Sa như người bạn cũ. Tôi nhớ, trước khi về Nguyên Sa có tặng tôi một bài thơ mang tựa đề "Nga", in trên giấy láng, được dùng thay thiệp báo hỷ, ấn loát tại Ba-lê ngày 10-12-1955. Bài thơ này Nguyên Sa sáng tác tại Solden, No# 1954. Tôi yêu bài thơ đó lắm, tuy nội dung chưa vượt khỏi ước lệ thông thường với suy tư và rung cảm của một tình nhân đối với một tình nhân. 


“Hôm nay Nga buồn như con chó ốm 
Như con mèo ngái ngủ trong tay anh 
Đôi mắt cá ươn ướt như sắp sửa se mình 
Để anh giận sao chẳng là nước biển…”
Ngôn ngữ của Nguyên Sa trong bài thơ tuy không mới nhưng hình ảnh thật mới được lồng trong khuôn thức của nhịp điệu làm người đọc dễ rung cảm và lãnh hội. 


“Em nhớ không đã có một lần anh van em 
Đã có một lần lâu hơn cả ngày xưa… 
Em sợ thời gian như mọt nhấm từng câu thơ 
Em sợ thời gian ác như lửa thiêu từng thanh củi 
Mắt e ngại như từng con chỉ rối 
Em sợ những ngày trời nắng như hôm nay 
Em sợ những đường tàu vướng víu như chỉ tay 
Không dám chọn lấy một ga hò hẹn…”
Đọc thơ Nguyên Sa tôi có cảm tưởng như được thấy những ý nghĩ thầm kín của hồn mình. Nó gần gũi. Nó trẻ và sống. Nó chuyên chở từng dung nhan diễm tuyệt, ngay cả trong lo sợ. Mỗi dòng, mỗi chữ được Nguyên Sa cân nhắc và sử dụng linh động như nhà phù thuỷ cao tay sai khiến âm binh. Thơ Nguyên Sa không nóng bỏng, suồng sã, đam mê, khăng khít như Xuân Diệu hoặc thâm trầm, tế nhị, kiêu sa như Huy Cận mà nó luân lưu, uyển chuyển giữa hai dòng thơ lớn đó của thời tiền chiến. Tuy đã sống ở Paris nhiều năm, đã am hiểu văn hóa Tây phương nhất là triết học, mà Nguyên Sa lúc làm vần thơ vẫn giữ được cái phong thái của thi ca Việt Nam ngay cả ở những bài thơ mà Nguyên Sa đã sáng tác tại Kinh Đô Ánh Sáng: 


“Mai tôi đi dù hôm nay đang vào thu 
Dòng sông Seine đang mặc áo sương mù 
Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc 
Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa…” 
(“Paris”)
Paris với dòng sông Seine, với tháp Eiffel, với xóm Montmartre, với những thư viện, những bảo tàng, những mái giáo đường với sương mù tuyết trắng, với những nàng kiều nữ, với trăm vạn đam mê huyễn hoặc, mà sao Nguyên Sa chỉ dùng chúng trong thi ca như dùng những phương tiện để chuyên chở từng ý nghĩ Việt Nam, từng ngôn ngữ Việt Nam. Thi sĩ William Carlos đã nói đúng:“Sự sáng tạo ngôn ngữ mới cho thi ca, ở đó, các thi nhân Mỹ có thể viết ra được, chính là một ngôn ngữ mang biểu tượng nước Mỹ” (Jarell, Situation d’un Poète). 
Xuyên qua ngôn ngữ Nguyên Sa, người đọc hình dung thấy một khung cửa bỏ ngỏ. Từ khung cửa đó, có thể nhìn ra một khu vườn với màu sắc chói chang, với muôn vàn cánh bướm đang múa lượn chập chờn làm rung động những đài hoa ngát nhuỵ. Những cánh bướm của tình yêu, của khát vọng, của dự tưởng, Nguyên Sa dang rộng đôi tay bé nhỏ muốn ôm vào lòng mình. Cái vũ trụ nào đó, mà Nguyên Sa đoán biết hay tìm thấy không phải cái vũ trụ được đo lường và ước đoán bằng chứng nghiệm toán học, bằng những năm ánh sáng, bằng vệ tinh, bằng phi thuyền. Vũ trụ ấy chẳng ai chứng minh được vì nó là Vũ trụ của Tình yêu, do tình yêu hình thành. Sartre nói – “Cái TA là do kẻ khác”. Cái nguyên lý này, Nguyên Sa là người biết rõ hơn ai hết. Nguyên Sa biết triết học trước khi biết làm thơ. Hình ảnh chói loà của Socrate, Platon, Kant, Nietzsche, Heidegger, Bergson, Russel, Jaspers, Sartre v.v… với các triết thuyết cao siêu mà các vị đó đã để lại cho nhân loại, hình như chẳng có chút liên hệ gì trong địa hạt thi ca, một địa hạt mà Nguyên Sa coi như cứu cánh của đời mình. Điều nói đó có thể không đúng hẳn, nhưng xuyên qua thi phẩm Nguyên Sa, người đọc chưa chiếu rọi hay khám phá được màu sắc triết học hay hướng đến triết học. 
Nguyên Sa đi vào thi ca với những bước chân mang nhiều ân tình cho kẻ khác. Kẻ khác, đương nhiên là người con gái, là Tình yêu. Tình yêu đối với Nguyên Sa như ân sủng, như nguồn thương vô tận, với ngọt ngào môi hôn, với bấn loạn tâm hồn, với quấn quít vòng tay, với dịu hiền hơi thở. Sự kiện này rất tự nhiên và bản chất Nguyên Sa như vậy. 


“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát 
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông 
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng 
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng 
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn 
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh 
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung 
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa…" 
("Áo lụa Hà Đông")
Chất thơ Nguyên Sa là chất thơ thuần tuý, ở đó, mỗi âm thanh, mỗi ngôn ngữ như một lời kể lể, một cầu xin, một đắm đuối. Tình yêu là chuyện muôn thuở, chẳng phải chỉ Nguyên Sa mới tỏ bày lần thứ nhất, mà con người ở mỗi thời đại có nhiệm vụ làm-mới-lại những cái gì của-hôm-qua với khả năng nghệ thuật vô biên. Goethe nói: “Thiên nhiên vẫn y nguyên, nhưng nhãn quan của mỗi con người làm thay đổi thiên nhiên” “Goethe et la littérature universelle. Thornton Wilder). Trong tình yêu cũng vậy, tình yêu vẫn thế nhưng mỗi kẻ tình nhân làm tình yêu đổi mới: 


“Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến 
Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa 
Hãy gửi cho nhau từng hơi thở mùa thu 
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ 
Và hãy nói năng những lời vô nghĩa 
Hãy cười bằng mắt, ngủ bằng vai 
Hãy để môi rót rượu vào môi 
Hãy cầm tay bằng ngón tay bấn loạn 
Gió có lạnh hãy cầm tay cho chặt 
Đêm có khuya hãy ngủ cho ngoan 
Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn 
Nếu em sợ thời gian dài vô tận…" 
("Tháng sáu trời mưa")
“Hãy để môi rót rượu vào môi” và “biến cuộc đời thành những tối tân hôn” quả thật Nguyên Sa đã sử dụng ngôn ngữ thi ca một cách tài tình dù rằng ngôn ngữ đó để chuyển đạt một ý nghĩ rất Tây phương. Theo Randall Jarrell, thi sĩ là một kẻ sáng tạo, một nguyên trinh (pureté), một kiến trúc sư của kỹ thuật thi ca. Nguyên Sa đã tự sáng tạo và giành lấy đặc quyền trong lãnh vực tình yêu, dù tình yêu đôi khi chỉ là ảo ảnh, là nỗi buồn thảm, tối tăm của thất vọng và đớn đau, chia cách. Thơ Nguyên Sa toát ra sự mong manh, rạn vỡ ngay cả trong hy vọng đợi chờ.


“Em chói sáng trong tình anh cô độc 
Cả cuộc đời mộng ảo nhớn bùng lên… 
… Em đến chưa? Sao đêm chợt vắng 
Cả cuộc đời xáo động cũng hao đi 
Những ngón tay dần chẳng đến hôn mê 
Và tà áo phủ chân trời trước mặt”. 
("Người em sống trong cô độc")
Trong bài thuyết minh nhân dịp tưởng niệm Goethe tại Aspen (Colorado) năm 1949, Wilder có nhắc lại câu nói của Goethe “Trí não con người làm văn học nghệ thuật giống như một thùng chứa những mảnh giấy được bóc ra khỏi cuốn bách khoa vĩ đại, những mảnh giấy đó không phải chỉ chứa đựng sự ghi nhớ thông thường mà đích thực ở mỗi tờ đều toát ra và rung lên cảm xúc, nó có thể là liều thuốc hay niềm an ủi, cũng có thể là lời báo trước một bi thảm...”.(Goethe et la littérature Universelle, Protil, no 1) 
Người làm thơ cũng phải gỡ ra khỏi hồn mình những chất liệu để cấu tạo nghệ thuật. Nguyên Sa bóc năm tháng của cuộc sống riêng tư để ca tụng tình yêu, để trải tâm sự qua từng niềm thương, nỗi nhớ, qua từng giọt sữa yêu đương cũng như nỗi buồn mật đắng: 


“Em đứng lẩn bên góc hè phố vắng 
Như loài hoa hoang dại trong rừng sâu 
Màu da tơ bóng tối ngả u sầu 
Đôi mắt đẹp từng cánh sao tắt lịm 
Em đứng đợi một người không hẹn đến 
Bán cho người tất cả những niềm vui 
… Đêm gần tàn em ơi người gái đĩ 
Đợi trong khuya bến vắng ngủ say rồi 
Nhìn ánh đèn vương lại cửa nhà ai 
Rồi kéo vội khăn quàng trên vai lạnh…” 
("Đợi khách")
Tình yêu đối với Nguyên Sa đẹp như một nàng công chúa mới lên ngôi, nhưng có lúc nó biến thành tình thương khi Nguyên Sa bắt gặp cuộc đời có mặt với những giận hờn, ti tiện, bon chen, đố kỵ do những ước lệ xã hội tạo nên… Nói cho đúng, Nguyên Sa là một thi sĩ gặp nhiều may mắn ở cuộc đời cũng như ở nghệ thuật. Sự cúi xuống tình thương chỉ do từ tâm – một ngoại lệ. Vì đó, niềm xót xa mà Nguyên Sa diễn đạt bằng ngôn ngữ thi ca chỉ mang giá trị tương đối. Người đọc chỉ cảm thấy hay chứ không xúc động, vì Nguyên Sa đã biến đổi nó thành vóc dáng khác, ở đó, cái “nhìn” và cái “nhận” không còn nằm ở vị trí “khách thể” nữa. Nhưng có điều mọi người chắc chắn đều nhận ra, những nỗi buồn thảm và tối tăm của sự vật cũng như cuộc sống thường gặp lại ở những bài thơ hay, do đó, sự nghiêng xuống khổ đau đối với thi nhân chỉ được xem như thường tình. 
Chính vì chất thơ của Nguyên Sa không nằm ngoài vị trí tình yêu nên ngôn ngữ tình ái trong thơ Nguyên Sa được sử dụng với tất cả tài hoa của một tâm hồn phóng khoáng muốn dùng khả năng hữu hạn của ngôn ngữ để vẽ chân dung tình yêu với tất cả cảm xúc lúc nào cũng tràn dâng làm ngập lụt linh hồn: 


“Không có anh lấy ai đưa em đi học về 
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học 
Ai lau mắt cho em ngồi khóc 
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa 
Những lúc em cười trong đêm khuya 
Lấy ai nhìn những đường răng em trắng 
Đôi mắt sáng là hành tinh lóng lánh 
Lúc sương mờ ai thở để sương tan 
Ai cầm tay cho đỏ má hồng em 
Ai thở nhẹ cho mây vào trong tóc…” 
("Cần thiết")
Đoạn thơ trên, Nguyên Sa đi rất gần Tế Hanh tác giả thi phẩm Hoa niên thời tiền chiến. Tuổi trẻ nào chả vậy, bước chân thứ nhất vào đời qua ngưỡng cửa nhớ mong, sầu mộng, qua “trời hải đảo”, “tóc bồng bềnh” với “lá gió trăm cây” với “mây trắng lênh đênh” để “lời ngỏ ý sẽ là kinh cầu nguyện”. Nhưng Nguyên Sa, một thi sĩ đã hiểu thấu đáo về luật thời gian, đã hiểu rõ thân phận mình và kẻ khác, chẳng phải do Triết học hay Khoa học mà chính nỗi ưu tư, phiền muộn do chính thực tế trao gửi. Chiếc bong bóng tình yêu của thi sĩ thả lên trời cao để mặc cho gió đẩy đưa, mặc cho giông gió huỷ hoại trong nỗi bàng hoàng của biệt ly, của thất bại: 


“Người về đêm nay hay đêm mai 
Người sắp đi chưa hay đã đi rồi 
Muôn vị hành tinh rung nhè nhẹ 
Hay ly rượu tàn run trên môi… 
Tôi muốn hỏi thầm người rất nhẹ 
Tôi đưa người hay tôi đưa tôi?...” 
(“Tiễn biệt”)
Nguyên Sa vào đối với bản tình ca trên môi, với lời chào trong mắt, với bước chân quấn quít. Nguyên Sa sợ thời gian, sợ tan biến, sợ hư không, do đó, mỗi lời nói trao duyên, mỗi lần tình tự, người đọc nhận thấy sự vội vàng, sự níu kéo xen vào nỗi buồn rờn rợn như sắp đánh mất hay bị cướp đi sự quý báu thiêng liêng tưởng như đã thuộc-riêng-mình. Thơ Nguyên Sa hiện diện giữa cuộc đời với sự mong manh đó. Người đọc nhìn nó trong suốt như nhìn qua tấm pha lê có chạm trổ những hình nét tuyệt luân, nhưng chỉ một vô ý cỏn con tấm pha lê đó sẽ biến thành những mảnh thuỷ tinh nát vụn. Làm thơ không phải là công việc của riêng cá nhân hay của một thời đại nào nhất định. Sự hiện diện của thi ca, hàng loạt con người bất cứ ở đâu, bất cứ thời đại nào đều phải nhận rằng, năng khiếu thi ca không chỉ định một hiếm hoi hay để tán tụng một bài thơ diễm tuyệt. Tiếng nói của thi ca tuy không làm chủ được định mệnh nhưng nó có mặt để trình bày một giá trị, một lời an ủi dịu dàng làm nguôi ngoai đau khổ. Vì biết rõ giá trị tương đối của Thi ca đứng trước thực tế, trong phạm trù nhân sinh nên Nguyên Sa dùng nó để giải toả ẩn ức, giải toả mặc cảm mà mỗi con người phải cúi đầu vâng theo định luật thiên nhiên. 
Nguyên Sa đã nhìn thấy “sa mạc hoang vu chạy suốt linh hồn” nghĩa là thi sĩ đã chấp nhận. Sự chấp nhận đây không phải là đầu hàng mà đích thực để hành động, để tránh né cái “không-thể-tránh” mong để lại những chứng tích thực thể trước cái yếu đuối của con người với ngàn vạn thất vọng, bi thương. 
Vì quá yêu sự sống nên Nguyên Sa luôn luôn đẩy về phía trước những hy vọng: 


“Tôi sẽ sang thăm em 
Để những mái tóc màu củi chưa đun 
Màu gỗ chưa ai ghép làm thuyền 
Lùa vào nhau nhóm lửa… 
Tôi sẽ sang thăm em 
Để tình yêu đừng chua cay 
Để tình yêu là sóng 
Một dòng sông gặp gỡ một dòng sông…”. 
(“Tôi sẽ sang thăm em”)
Sự yêu thương và niềm hy vọng như một động cơ luôn luôn nổ máy để lấn át mọi hệ luỵ do cuộc sống trôi dạt đến. Nguyên Sa thường cầu khẩn với lòng mình cũng như với người yêu: 


“Và tôi vẫn xin em 
Cho tôi ghì thật chặt 
Như chiếc thắt lưng xanh 
Ghì quanh lần áo vải 
Cho tôi tìm một chữ mới 
Không có trong hai mươi nhăm chữ cái 
Để bắt đầu tên em: 
.............................. ”. 
(“Tự do”)
Ngay trong những đêm buồn thành phố, chán ngán cột đèn với những đại lộ quần chân, Nguyên Sa vùng dậy: 


“Bằng hơi thở thiên thần 
Bằng giọng nói đam mê 
Bằng ngón tay mầu nhiệm 
Ta truyền 
Hỡi Sài Gòn ban đêm mở cửa!...”
Mở cửa để làm gì? Để thi sĩ “đi thanh tra những mái tóc bâng quơ, những cánh tay buồn, những mối sầu thơ dại!” để nghe ở đáy hồn cất lên tiếng nói: “Sao không mang nặng cặp mắt Trần Dần, cánh tay Phùng Quán với thân hình vạm vỡ tình yêu?” rồi tiếng nói vụt tắt, rồi xiềng xích áo cơm, danh vọng, bổn phận xiết lấy thân phận và chỉ có bóng đêm chứng kiến sự nổi loạn của tâm hồn cô độc trong nỗi nghẹn ngào chờ đợi bình minh. 
Nguồn cảm hứng trong thơ Nguyên Sa như dòng sông lớn chảy phăng phăng ra biển cả, bỏ mặc hai bên những bến bờ nhân thế. Nhưng “nỗi niềm của một kiếp người đã nhiều tháng ngày ngồi trong ngõ tối, để suốt cả đời chờ đợi tin yêu” để nhìn “hy vọng bay theo từng hy vọng” đã làm Nguyên Sa vụt nghĩ đến cái chết. Cái chết mà Dante, thi hào Ý Đại Lợi ở đầu thế kỷ XIV thét lên – “Tôi không hiểu tại sao, sự chết đối với một số đông lại có nghĩa là bại trận!”.Nguyên Sa không có cái can đảm của Dante, nên khi nói về cái chết vẫn hình dung đến sự ghê gớm, lạnh lẽo với tiếc thương “trên ấy”. 


“Anh cúi mặt hôn lên lòng đất 
Sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng 
Mười ngón tay sờ soạng giữa hư không 
Đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh. 
Ở trên ấy mây mùa thu có lạnh 
Anh nhìn lên mái cỏ kín chân trời 
Em có ngồi mà nghe gió thu phai 
Và em có thắp hương bằng mắt sáng? 
Lúc ra đi hai chân anh đằng trước 
Mắt đi sau còn vướng vất cuộc đời 
Hai mươi năm, buồn ở đấy, trên vai 
Thân thể nặng đóng đinh bằng tội lỗi 
.............................. 
Những bài thơ anh đã viết trên môi 
Lửa trái đất sẽ nung thành ảo ảnh…” 
(“Lúc chết”)






















NGUYÊN SA NHÀ THƠ TÌNH YÊU




Nguyên Sa là bút hiệu, mà nhà thơ đã có lần khiêm tốn cắt nghĩa “vốn dĩ chỉ là hạt cát”. Ông tên thật Trần Bích Lan, sinh ngày 1.3.1932 tại Hà Nội. Bắt đầu làm thơ khi đang du học ở Pháp, về nước, những bài thơ về Paris đăng báo Người Việt của sinh viên di cư, rồi trên tạp chí Sáng Tạo đã làm ông nổi danh. Tập Thơ Nguyên Sa tập 1 xuất bản năm 1959, tái bản nhiều lần, đã xác định địa vị vững vàng của ông trên thi đàn văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975. Ông còn xuất bản tập truyện ngắn Gõ Đầu Trẻ (1959), Mây Bay Đi (1967) và truyện dài Vài Ngày Làm Việc Ở Chung Sự Vụ cũng như một số nghị luận văn nghệ và triết học (Quan Điểm Văn Học Và Triết Học, 1960; Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ (1967); Descartes Nhìn Từ Phương Đông (1969); Một Mình Một Ngựa (1971). Giáo sư Triết trường Trung học Chu Văn An rồi hiệu trưởng Trung học tư thục Văn Học. Năm 1966, ông nhập ngũ khóa 24 Thủ Đức. Ra trường, ông phục vụ tại trường Quốc Gia Nghĩa Tử. Nguyên Sa được mời làm Phụ khảo Triết ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn nhưng sau một niên học, ông đã dứt khoát từ chức trước những chống đối của đồng nghiệp nhắm vị khoa trưởng là bạn của ông từ thời du học Âu Châu.

Từ những năm 1960, thơ Nguyên Sa đã bớt xuất hiện đều, thơ tình yêu càng ít hơn. Có thể cắt nghĩa một phần “Nga”, nguồn cảm hứng của “tình nhân” Trần Bích Lan đã thành người phối ngẫu của ông. Ra khỏi nước, thơ Nguyên Sa sau năm 1975 đã không còn nguyên chất trữ tình và độc đáo của thơ ông thập niên 1950. Nguyên Sa làm nhiều hơn thơ lục bát và bảy chữ dù vẫn làm thơ tự do. Nhiều bài rất đạt. Đời sống lưu đầy, bạn hữu và thực tế cuộc đời đã lẫn vào thơ Nguyên Sa, dĩ nhiên là bình thường, nhưng sẽ không là đối tượng chính của bài viết. Chúng tôi muốn nói đến tình yêu trong thơ của Nguyên Sa, nhất là ở giai đoạn Thơ Nguyên Sa tập 1. Phần lớn các bài thơ trong tập này ca tụng tình yêu và Nguyên Sa đã được xem là “thi sĩ của tình yêu” cùng chiếu với Xuân Diệu, Nguyễn Bính, T.T.Kh..., một “Xuân Diệu” hậu chiến. Thật ra, so Nguyên Sa với Xuân Diệu cũng không ổn. Chính Nguyên Sa đã xác nhận thơ ông“không phải là yêu cái Đẹp tổng quát, không phải là yêu Đời nhưng yêu một người cố định, một người thực”. Người đó là Nga, tức bà Nguyên Sa. Bài Thơ Nga nổi tiếng khi đăng báo đã được gửi cho bè bạn “thay cho thiệp báo hỷ”. Tình yêu của Nguyên Sa rõ nét, đặc thù, cá nhân, có hình dáng, trong khi đó tình yêu Xuân Diệu tổng quát hơn, tình yêu chung chung, đúng ra là của lòng trai mới lớn, mở ra, với đam mê cùng tận. Tình yêu trong thơ Nguyên Sa là một tình yêu phức tạp, đa dạng nhưng lả lướt, như trái tim người trẻ tuổi thấm nhuần hai văn hóa sống vào buổi giao thời của những năm cuối thập niên 1940 và đầu 1950. 

Thơ tình yêu của Nguyên Sa là một thứ tình yêu thuần chất, trữ tình thường nhật, hiện sinh. Khác thơ tình hiếm hoi của Thanh Tâm Tuyền, thơ Nguyên Sa không làm ra để gây băn khoăn hay suy nghĩ. Thanh Tâm Tuyền phải lo cho sứ mạng văn nghệ do đó bỏ quên tình yêu (“Tôi không ngợi ca tình yêu, tôi nguyền rủa tình yêu (...) Thơ hôm nay không cần đến Tình Ái và khi Tình Ái đến với thơ hôm nay cùng với vẻ tiều tụy khốn khổ chịu đựng hất hủi như cả một cuộc đời...” 

Trong bài “Nỗi buồn thơ hôm nay”, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn khi ông hạ giá tình yêu: "Tình ái cũng bị dùng làm phương tiện khám phá đời sống, khai quật ý thức...”. Do đó, cũng như các “nhà thơ hôm nay” của hai thập niên 1950 và 1960, Nguyên Sa chống trữ tình và lãng mạn, chống cả tình ái theo nghĩa thường vì theo ông, lãng mạn là “sự xúc động quá mãnh liệt, sự trữ tình bi thảm hóa”. Yêu nhưng không lãng mạn, cả không thác loạn của thơ tiền chiến. Tình với ngôn ngữ mới, cung cách mới, thơ mộng nhớ nhung mới và khác, thực tế hơn, thành thật hơn. Vậy thì Nguyên Sa sống và đã ca tụng tình yêu như thế nào? Tình yêu có thể bắt đầu bằng mong nhớ, đợi chờ và những lời trách móc tự nhiên:


Có phải em về đêm nay?
Trên con đường thời gian trắc trở
Để lòng anh đèn khuya cửa ngõ
Ngọn đèn dầu lụi bấc mắt long lanh.

[Có phải em về đêm nay].



Cái buồn xa người yêu, lại đợi chờ: 

Em đến chưa? Sao đêm chợt vắng
Cả cuộc đời xáo động cũng hao đi
Những ngón tay dần chuyển đến hôn mê
Và tà áo phủ chân trời trước mặt

[Người em sống trong cô độc]. 


Hay những mối tình đầu đời, thơ ngây. Chàng tỏ tình, lời hãy tràn đầy cảm xúc: 


Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học 
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa
Những lúc em cười trong đêm khuya
Lấy ai nhìn những đường răng em trắng 

[Cần thiết]. 



Tình đầu học trò và người yêu ở tuổi 13: 


Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám
Tuổi của nàng, tôi nhớ chỉ mười ba
Tôi phải van lơn, ngoan nhé, đừng ngờ...
Tôi phải dỗ như là...tôi đã nhớn

[Tuổi mười ba]. 


Khi đã gần, đã đính hôn, rung cảm vẫn mạnh: 

Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm –
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh –
Đôi mắt cá ươm như sắp sửa se mình 
Để anh giận sao chả là nước biển
[Nga]. 

“Em” thời nay thành “con chó ốm, con mèo ngái ngủ”và “mắt cá ươn”, không còn là “mắt xanh lả bóng dừa hoang dại” [Đinh Hùng], “Em đi áo mỏng phô hờn tủi” [Quang Dũng]. Tóc của “em” chỉ là “tóc ngắn” [Áo lụa Hà Đông]. Tình yêu đến với nhà thơ như một hạnh phúc, một tròn đầy với những cảm xúc thật với da thịt cũng như trong tâm hồn. Tình yêu hôm nay hay tình đầu Hà Nội nhắc nhở?:

Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn –
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông 
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng 
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
[Áo lụa Hà Đông]. 

Yêu cho nên hay van xin, kể lể: 

Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến 
Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa 
Hãy gửi cho nhau từng hơi thở mùa thu 
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ
[Tháng sáu trời mưa]. 

Tán người yêu với ngôn ngữ mới của trai hiện sinh: 

Sự thực là đôi mắt em đẹp vô cùng
Tôi ném-không phải là nhìn-ném vào mắt em 
Ngưỡng mộ, sự thèm khát, sự ước ao dã thú 
Ta là sự đam mê to và sâu như ban đêm

Trân trọng “mời” dự cuộc phiêu lưu tình ái: Tôi trân trọng mời em dự chuyến tàu tình ái. Trong một phút, một giây, cuộc hành trình sẽ mở. Tôi mời em. Trân trọng mời em cùng đi, cùng khai mạc cuộc đời.”
[Mời]. 

Chữ nghĩa con tim, lúc sắp ly biệt: 

Mai tôi ra đi chắc trời mưa 
Tôi chắc trời mưa mau –
Mưa thì mưa, chắc tôi không bước vội 
Nhưng chậm thế nào thì cũng phải xa nhau
[Paris].

Lại có khi dùng nghi vấn để bầy tỏ, giữa một Paris trong giờ tiễn biệt: 

Người về đêm nay hay đêm mai 
Người sắp đi chưa hay đi rồi–
Muôn vì hành tinh rung nhè nhẹ 
Hay ly rượu tàn run trên môi
[Tiễn biệt]. 

Mới hay không thì cũng tình ái đấy và lãng mạn đấy thôi! Năm 1949, 1950, “đèn vàng", “ga nhỏ” có thể các sự vật và cảnh vật thường nhật, “hiện sinh”, thay thế các ước lệ “trăng, sao, núi sông, mây, tuyết trắng, cò...”của văn chương lãng mạn cổ điển.“Rót rượu vào môi”, “biến cuộc đời thành những tối tân hôn”, mới và táo bạo nhưng vẫn là những lãng mạn, trữ tình! 

Cái đẹp “hôm nay” là cái đẹp bình thường trước mặt, chạm tay được, nhưng hay bị thơ văn bỏ quên. Vả lại, Paris lúc bấy giờ còn mới lạ với người thưởng thức văn nghệ Việt Nam: tả ngạn sông Seine, vườn Luxembourg mùa Xuân mùa Thu, sân trường đại học Sorbonne, khu Saint Michel, những quán cà phê sinh viên và nghệ sĩ đầy khói thuốc ở Quartier Latin, là thơ Jacques Prévert, Guillaume Apollinaire, các người con gái mắt xanh da trời...:

Paris có gì lạ khôngg em? 
Mai anh về giữa bến sông Seine 
Anh về giữa một dòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em? 
[Paris có gì lạ không em?].

Thơ tự do của Nguyên Sa có tiết tấu và nhạc điệu đặc biệt chưa thấy trước đó. Nguyên Sa lại có tài sử dụng nhiều hình ảnh mới và lạ. Nào “chải tóc em bằng năm ngón tay”, nào "lệ trắng gạo mềm”, “da em trắng anh chẳng cần ánh sáng / tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân”, “tóc màu củi chưa đun”, miệng “chim sẻ”, áo “sương mù”, “bàn tay chim khuyên” [Nga] hay“sương gió trầm tư thêu thùa má ướt”...: 

Người về đâu giữa đêm khuya dìu dặt 
Hơi thở thiên thần trong tóc ẩm hương xưa 
Người đi về trời nắng hay mưa 
Sao để sương gió trầm tư thêu thùa má ướt
[Đẹp].

Muốn “phá thể" và “tự do” nhưng thơ Nguyên Sa có lời và chất nhạc rất nhẹ nhàng, rất Việt Nam. Ông sử dụng lại những ước lệ của thi ca cổ điển như“thuyền ghé bến”, tay “lá sen”, mắt “một vừng trăng sáng”, hay của thơ mới như “gió heo may”. Thành ra Nguyên Sa có các câu thơ ngôn từ như có âm hưởng ca dao dù đã tân hóa theo thời đại: 

Gặp một bữa anh đã mừng một bữa 
Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn...
[Áo lụa Hà Đông].

Có thể hình ảnh cũ nhưng ý mới, có khi táo bạo. Về hình thức, thơ Nguyên Sa có nhiều bài vẫn có vần có nhịp khúc:

Tôi đã gặp em từ bao giờ 
Kể từ nguyệt bạch xuống đêm khuya 
Kể từ gió thổi trong vừng tóc 
Hay lúc thu về cánh nhạn kia? 
[Tương tư].

Hay lời thường dung dị của đời sống thường ngày: 

Tôi sẽ thăm em 
Để những mớ tóc màu củi chưa đun 
Màu gỗ chưa ai ghép làm thuyền 
Lùa vào nhau nhóm lửa
[Tôi sẽ thăm em].

Nguyên Sa còn có các bài thơ ca tụng tình bạn như Thằng Sỹ Chết, Cầu Siêu Cho Nguyễn Quan Đại Chết Ở Khe Sanh...nhưng nổi bật nhất vẫn là bài Đám Tang Nguyễn Duy Diễn: 

Diễn đã chết, Diễn đã chết 
Chúng tôi nhảy múa hòa reo
Thế là nó thoát, thế là nó thoát
Cuồng lưu dằn vặt đã trôi qua". 

Thời sự cũng chiếm chỗ quan trọng không kém trong thơ ông: 

Cắt cho ta, hãy cắt cho ta – 
Cắt cho ta sợi dài – 
Cắt cho ta sợi ngắn – 
Cắt cái sợi ăn gian 
[Cắt tóc ăn Tết]. 

Thơ tự do của Nguyên Sa dễ cảm xúc, dễ thụ nhận và không bí hiểm như thơ Thanh tâm Tuyền. Dùng thể tự do với nhiều hình ảnh mới và cách dùng chữ bất ngờ, bén nhạy...chứng tỏ Nguyên Sa đã nắm vững quy luật của ngôn ngữ, của tiếng Việt. 

Giáo sư triết nhưng thơ ông không cao siêu triết lý, chỉ là thơ con người với chữ nghĩa của con tim. Điểm này Nguyên Sa khác Thanh tâm Tuyền nhiều triết lý và ý thức. Với Thanh Tâm Tuyền, ý thức bao trùm vì nhịp điệu của thơ, của hình ảnh và ý tưởng chuyên chở chỉ là sự thể hiện của nhịp điệu ý thức. Thơ Nguyên Sa tập đầu và những bài thơ đăng báo thời đi vào văn nghệ của ông cho thấy ông có một tâm hồn nhạy cảm của tình yêu, của Tình Yêu viết hoa, phổ biến nhưng khởi từ tình yêu cá biệt của thi nhân. Thơ ông thời ấy chứng tỏ ông có một thẩm mỹ quan riêng, có ngôn từ và cung cách dù vậy căn bản vẫn hãy còn cũ xưa. Triết lý trong thơ ông thời đó có nhưng ít hơn: phận người trong một không bí lối: 

Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt 
Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
[Bây giờ].

Tình yêu ở trong cả thế giới bên kia, nếu sẽ ra đi vẫn khôngg nỡ, con tim hãy còn ở lại trên trần thế, nên vẫn còn thắc mắc, nhắn nhủ: 

Anh cúi mặt hôn lên lòng đất 
Sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng 
Mười ngón tay sờ soạng giữa hư không–
Đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh
[Lúc chết]. 

Dĩ nhiên, trong số những bài thơ thời Sáng Tạo của Nguyên Sa có nhiều bài nặng về khai phá hình thức, nghệ thuật vị nghệ thuật, nhưng nay ít ai nhớ đến, như bài Hịch: 

Bằng hơi thở thiên thần–
Bằng giọng nói đam mê 
Bằng ngón tay mầu nhiệm 
Ta truyền 
Hỡi Sài Gòn ban đêm mở cửa. 

Thơ tự do của Nguyên Sa thời ra đời trên Người Việt và Sáng tạo đã thuyết phục người thưởng thức văn nghệ rằng thơ tự do có thể sống động, rằng thơ tự do cũng có thơ tính. Thơ tự do của Nguyên Sa nhờ giàu nhạc tính, đơn sơ, truyền cảm và còn chứa đựng tâm hồn Việt Nam do đó đã sống lâu hơn đến ngày nay và chắc cả sau này, trong khi thơ tự do của nhiều nhà thơ thời ông đã và đang đi vào quên lãng. Nếu lúc đầu thơ tự do được cổ võ như một vượt thoát khỏi những bó buộc và giới hạn của luật thơ thì nay bài thơ tự do nào còn giữ được vần, nhạc và hình ảnh tiếp tục được yêu thích. Trường hợp Nguyên Sa, phủ nhận Thơ Mới và tiền chiến đồng thời cổ xúy thơ tự do và phá thể, nay phân tích lại thì Nguyên Sa đã không đi xa trên con đường thơ tự do và vô tình thơ ông là gạch nối với thơ tiền chiến và dòng thơ kháng chiến trước đó. Cho đến khi tạp chí Sáng Tạo đình bản hẳn, những nhà lý thuyết cổ võ thơ tự do của nhóm đã không thuyết phục thật sự giới thưởng thức văn nghệ. Thanh Tâm Tuyền người cuối cùng lên tiếng cho rằng người làm thơ tự do vì sống thời gian hôm nay và dùng thanh âm ngôn từ để khám phá chính mình. Dù sao cùng với Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa đã đem lại niềm tin nơi thể thơ tự do, cả hai ông đã chiếu sáng trên nền thi ca Việt Nam hậu chiến.Sau 1975, Nguyên Sa lúc đầu định cư ở Pháp, nhưng Pháp không giữ được chân ông, lần này ông đi tìm cuộc đời mới ở Nam California. Nguyên Sa tiếp tục làm thơ nhưng không còn được người đọc đón nhận như nhiều thập niên trước đó. Người tuổi trẻ hết cảm nhận vì hết cùng tần số. Thơ Nguyên Sa tập 2 xuất bản năm 1988 gồm các sáng tác từ 1966 đến 1988, tập 3 xuất bản năm 1996. Thơ giai đoạn sau 1966 nhiều triết lý, nhưng sau 1975 rõ là của một tâm hồn đã chín, sầu đời, pha tín ngưỡng và triết lý, thuần túy Đông Phương. Dùng tạ lỗi như một tự hối tự nhiên:

Hãy tha thứ cho ta
Những anh em đã chết
Những anh em chết ở bờ ở bụi
Những anh em chết ở đồng vắng 
[Xin lỗi về những lầm lẫn dĩ vãng]

Còn tình yêu? Nhà thơ dĩ nhiên đã bớt da diết và mộng mơ. Hình tượng “em” cũng hiện thực hơn: 

Em vào tắm dưới hoa sen 
Những khe nước chảy những miền hải lưu
Những thuyền lạc dưới trời sao 
Hỏi em hay hỏi hoa đào của anh
[Hoa Sen và Hoa Đào]. 

Cảnh chờ đợi, gần với phim ảnh Hoa Kỳ. Hết còn những mong mỏi nôn nao, người yêu nhẹ quan trọng cho đời “chàng”:

Chờ em ở góc cây xăng 
Em không thấy tới ta nằm trong xe 
Nhạc buồn ta vặn thật to 
Sao buồn không vỡ sao ta vẫn còn?
[Chờ em]. 

Cảnh vợ chồng hay nhân ngãi hôm nay: 

Bốn mươi, con vạc ăn sương 
Có giường nệm trắng có em cởi truồng
Em nằm nghe hát cải lương 
Anh nằm nhớ bác Tú Xương ngậm ngùi
[Nhớ Tú Xương]. 

Hôn nhau chẳng còn hơi, nụ hôn bớt nhiều ngọt ngào và hương vị tình ái: 

Gặp em không thể chào bằng môi 
Chỉ còn da thịt chẳng còn hơi"... 

Tại sao vậy? Có thể vì tang chung đất nước và tình cảnh phân ly, xa xứ nên: 

Ta chỉ chào bằng hai hàng nước mắt 
Từ hai mươi năm nằm im trên môi..
[Chào nhau].



Nguyên Sa đã yêu, được yêu, bệnh ngặt nghèo sớm đưa ông về với Chúa. Nhưng thơ tình ông đã và vẫn sống động với người yêu thơ và tình nhân, ngày nào còn có người yêu nhau! Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, nhà nước cộng sản tìm đủ cách cấm đoán, tịch thu, viết sách bêu xấu các nhà làm văn nghệ ở miền Nam trong đó có Nguyên Sa. Tuy nhiên, Lữ Phương, Phạm Văn Sĩ, Trần Trọng Đăng Đàn và các nhà “phê bình” của Viện Văn Học Hà Nội có tấn công thơ tự do gọi xiên xỏ“bí hiểm”, “tắc tị”, “quái thai”, “hỗn tạpnhững rối răm quái gở" , “dựng lại cái thây ma mà mười lăm năm về trước những người trong nhóm Xuân Thu Nhã Tập đã nêu lên” mà không động đến thơ tình Nguyên Sa vì thơ ông được người “chiến thắng” lén lút tìm đọc thời còn bị cấm, nay được in lại trong nước. Gần đây trong nước có các nghiên cứu “cởi trói”, có cái nhìn “khách quan” hơn. Trần Thị Mai Nhi viết về “nhóm Sáng Tạo” nhìn nhận họ“muốn có một đường hướng sáng tạo, muốn là kẻ sáng tạo ngôn ngữ trong thơ ca (...) họ muốn đổi mới niêm luật, cú pháp, chấm câu, từ ngữ trong thơ ca. Rồi việc họ chấp nhận thứ "tiếng của vỉa hè" cũng không hoàn toàn chỉ là một sự lập dị (...). Đúng thôi, văn học Sài Gòn gặp văn học phương Tây ở quan niệm thẩm mỹ...”.




Nguồn: VanNgheSi.Net. 
























Trang thơ 

Nguyên Sa



(bấm vào đây để xem từng bài trên thuvien.net)




























TRIẾT HỌC
CỦA
KANT



Tác giả: Nguyên Sa

 Sáng Tạo, số 11,  tháng 8, 1957




Khi Kant bắt đầu giảng dạy tại đại học Konigsberg thì triết  học Tây phương đang bị chi phối bởi hai trào lưu tư tưởng chính: một bên là những đề án có tính cách quyết đoán (dogmatique) của Leibniz và Wolf, bên kia là những tác phẩm thiên về hoài nghi chủ nghĩa của David Hume.

Những người thuộc phe quyết đoán tin rằng có đủ chứng cớ để chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế, sự bất diệt của linh hồn, tính tự do của con người. Rồi họ suy diễn ra rằng: tin tưởng ở Thượng đế, ta có thể hy vọng sẽ được hưởng một cuộc đời bất diệt đầy hạnh phúc. Kết luận: ta phải cố gắng làm việc tu nhân, tích đức cho thuận với lẽ trời.

Cũng có những người thuộc phe quyết đoán lại chủ trương ngược hẳn lại. Họ cho rằng có thể chứng minh sự vô hữu của Thượng đế - chết là hết - và họ nghĩ rằng ta không có gì để hy vọng ở bên kia cõi đời này. Cho nên tất cả vấn đề là làm thế nào quy định được cho rõ ràng thế nào là hạnh phúc và cách thức đạt tới ra làm sao?

Phe hoài nghi chủ nghĩa cho rằng ta không thể trả lời được câu hỏi có Trời hay không. Ta không thể biết được một chút gì về nguồn gốc và số phận ta. Cho nên ta không nên hy vọng vì tất cả có thể là ảo vọng. Cuộc sống của ta như vậy, ta nên hướng dẫn theo thói lề, tập quán, rồi được đến đâu hay đến đấy - đó là lời khuyên của một Montaigne. Còn câu hỏi: «ta phải sống ra làm sao?» là một vấn đề nan giải.

Nhận biết rõ hoàn cảnh triết học đường thời (và cũng là hoàn cảnh truyền thống của triết học), Kant đã tóm tắt lại trong một trang sách danh tiếng rằng: những vấn đề triết học thật ra chỉ có ba vấn đề. Thứ nhất: ta biết được những gì? Thứ hai: ta được phép hy vọng gì? Và thứ ba: ta phải làm gì? Vấn đề thứ nhất nhằm sự phê bình những khả năng của tri thức. Vấn đề thứ hai thuộc phạm vi tôn giáo. Và vấn đề sau cùng là một vấn đề luân lý. Những nhà triết học trước Kant đều đặt và thử giải quyết ba vấn đề kể trên theo thứ tự đó: Kant cũng nhận thấy rằng cần thiết phải trả lời ba vấn đề đó. Nhưng cái đặc biệt đầu tiên của nhà triết học Đức là đã không theo thứ tự cổ truyền trong khi thử giải quyết. Kant nghĩ rằng vấn đề luân lý không tùy thuộc vấn đề tôn giáo. «Ta phải làm gì?» không cần phải được diễn dịch ra từ lời giải thích câu hỏi «ta có thể hy vọng được gì?» Và hơn nữa,
chính giải đáp của câu hỏi thuộc phạm vi luân lý sẽ giúp ta giải quyết được vấn đề tôn giáo. Cho nên từ câu hỏi thứ nhất, Kant đã đi thẳng sang vấn đề thứ ba, để lại trở lại vấn đề thứ hai sau cùng.

Đảo lộn những vấn đề không phải Kant muốn phủ nhận trật tự luân lý của những vấn đề đó mà chính vì muốn đem lại cho triết học một nền tảng mới. Ngay từ khi trả lời câu hỏi đầu tiên «ta có thể biết được gì?» trong sách «Critique đe la raison pure spéculative», Kant đã có cao vọng đưa triết học ra khỏi chỗ bế tắc. Sự suy ngẫm về sách vở của David Hume đã không cho phép Kant chấp nhận biện pháp dễ dàng của chủ trương quyết đoán, Hume đã thức tỉnh Kant khỏi «giấc mơ quyết đoán». Nhưng chấp nhận quan niệm của Hume, Kant nhận thấy rằng không thể được. David Hume không những cho rằng ta không thể biết chắc rằng «có thượng đế hay không», lại còn lên tiếng hồ nghi cả những khoa học như toán pháp và vật lý. Hume bảo rằng: sở dĩ ta tin ở sự thật hiển nhiên của những nguyên lý và những định luật thiên nhiên chỉ là vì thói quen. Kant không thể nhận được những lời chứng minh, những lý luận dễ dàng về sự hiện hữu hay vô hữu của Thượng đế, nhưng ông cũng không đồng ý với phái hoài nghi. Từ đấy đường lối triết lý của Kant đã được vạch định. Không đồng ý với hoài nghi chủ nghĩa thì ta phải căn cứ ở những gì để chứng minh rằng có những sự kiện như khoa học chẳng hạn là chắc chắn, là không đáng hoài nghi. Không chấp nhận lý luận quyết đoán về sự hiện hữu và vô hữu của Thượng đế, ta cần phải vạch rõ chỗ quyết đoán của những lý luận đó, sự thất bại của siêu hình học. Sau đó, ta mới giải quyết những vấn đề luân lý và tôn giáo xem «ta phải làm gì?» và «có thể hy vọng gì ở thế giới bên kia?...»

*

Trước hết ta hãy xét xem Kant nghĩ gì về khả năng của tri thức? Ta hãy bắt đầu nhớ lại văn ảnh danh tiếng của Platon. Tri thức của con người Platon cho rằng chỉ là một thứ kiến thức của «ếch ngồi đáy giếng». Kiến thức của con người giống như sự hiểu biết của một kẻ bị giam hãm từ lúc sinh ra trong một hang đá có bốn bề thì ba khép kín. Còn một lỗ hổng qua đó ánh sáng của mặt trời rọi xuống và trên những bức tường đá ta nhìn thấy bóng của sự vật. Chỉ có bóng của sự vật thôi vì sự vật ở trên kia, ở bên ngoài hang đá. Phải thoát ra ngoài ta mới biết được, phân biệt được rằng sự vật không giống những bóng đen in trên vách đá một chút nào. Với Kant ta phải nói đến một văn ảnh khác, tuy tương tự nhưng bi đát hơn nhiều. Tù nhân của Platon có thể vượt hang đá ra ngoài để chiêm ngưỡng thực tại, phân biệt thực hư. Kant nghĩ rằng ta bị vĩnh viễn giam cầm. Ta bị giam trong một chiếc tháp kín mít. Ta có thể nhìn ra ngoài nhưng chỉ nhìn qua những khuôn cửa khép chặt bởi một thứ lăng kính có khả năng bóp méo sự vật bên ngoài hay nói khác đi ta chỉ nhận được những hình ảnh giả tạo, méo mó. Hơn nữa, chiếc tháp giam cầm con người đó lại nằm trong lòng chiếc tháp nữa cũng bịt kín bằng những tấm lăng kính có những đặc tính như những tấm lăng kính nói trên. Nhưng Kant đã muốn nói gì qua văn ảnh đó? Kant đã nhận thấy ta biết được sự vật bên ngoài là nhờ tri năng. Tri năng tổng hợp «những chất liệu của trực giác» mà giác quan đem lại cho ta. Nhưng «chất liệu» mà cảm quan đem lại đó vốn phân tán, cần phải được xếp vào một cái dàn, cái khung. Dàn đó là những hình thức của cảm quan, những hình thức có sẵn. Ta biết được sự vật ở trong «khung» thời gian và không gian. Đó là hai khái niệm có sẵn ở nơi ta. Nếu là một con ong, cái kiến ta sẽ nhìn thiên nhiên qua những biểu tượng khác, bởi vì loài vật không có như ta một hình thức của cảm quan. Hình thức của cảm quan đó chính là những lăng kính bóp méo sự vật bởi vì ta không thể nhận thẳng sự vật y như nó xuất hiện mà chỉ nhận biết chúng qua một khung không gian, thời gian nào đó của ta. Tri năng của ta bị giam cầm, bị lừa lọc bởi những tấm kính cảm quan. Cần phải tổng hợp cái phân tán, lý luận để xây dựng một hệ thống sự vật thống nhất và mạch lạc. Nhưng biểu tượng về sự vật mà tri năng tác thành được, tổng hợp được sẽ chỉ là một tổng hợp về hiện tượng của sự vật, cái vẻ ngoài, cái hiện ra bên ngoài của sự vật mà Platon đã gọi là ảo ảnh. Nên Kant đi đến kết luận rằng ta không thể vượt khỏi được những tấm kính «hình thức của cảm quan»; cố gắng tìm đến cái tuyệt đối, cái ẩn tượng của sự vật, ta sẽ rơi vào một lý luận bất lực một cách phũ phàng. Tất cả những gì ta biết sẽ chỉ là những hiểu biết về hiện tượng của sự vật mà thôi.

Lý thuyết bi đát vô cùng nhưng cũng thật khôn ngoan. Kant tránh được hoài nghi chủ nghĩa. Ông không như họ phủ nhận giá trị của những nguyên lý trên đó khoa học được xây dựng. Bởi lẽ ta có thể biết được, dựng được một khoa học về hiện tượng. Và như thế những nguyên lý không phải chỉ là «sản phẩm của thói quen» như Hume đã chủ trương. Đồng thời Kant cũng loại bỏ được những lý luận dễ dàng của phe quyết đoán. Loại bỏ được cái ảo vọng xây dựng được một khoa siêu hình xây dựng trên những chứng minh có tính chất khoa học như toán pháp.

*

Để chứng minh sự tin tưởng đó, nhà triết học Đức đã đưa ta vào những lý luận hết sức phức tạp nhưng cũng rất phong phú.

Trước hết, nhà triết học Đức phân biệt nơi con người ba khả năng để hiểu biết: cảm quan, tri năng và lý trí. Và sự hiểu biết thật sự tất nhiên sẽ đưa ta đến chỗ phê phán chính xác. Nhưng thế nào là phê phán? Kant đã trả lời: phê phán là sự nhận biết của trí tuệ về sự tương quan giữa chủ thể và những thuộc từ. Thí dụ: «Tất cả mọi người đều phải chết». Đó là một lời phê phán quy định chủ thể «người» thuộc về loại thuộc từ «phải chết». Phê phán như vậy là một lời công nhận đến từ trí tuệ. Nhưng khác với những nhà luận lý học cổ truyền, Kant chia phê phán ra làm ba loại trong khi những nhà luận lý nói trên chỉ nhận thấy có hai. Ba loại phê phán đó là: phê phán phân tách, phê phán tổng hợp, và phê phán tổng hợp và tiên nghiệm. Từ xưa, phàm đã nói đến phê phán phân tách tức là nói đến tiên nghiệm. Thí dụ: con bạch mã của vua Henri đệ tứ sắc trắng, nước sông Hồng màu đỏ. Ta chỉ cần phân tách khái niệm «con bạch mã của vua Henri
đệ tứ và nước sông Hồng Hà là thâu tóm được ngay màu sắc của con ngựa và nước sông». Phê phán phân tách vốn tiên nghiệm và tất yếu. Tất nhiên màu lông của con bạch mã là trắng. Chủ trương ngược lại sẽ rơi vào chỗ vô lý. Ta đã nói đến bạch mã sao lại còn bảo rằng con ngựa không có màu trắng? Tóm lại, ở một lời phê phán phân tách, ta biết ngay sự thật mà không cần thử thách, thí nghiệm. Đó là một lời phê phán tất yếu bởi vì tiên nghiệm.  Kinh nghiệm chỉ cho ta biết về sự hiện hữu của một sự kiện chứ không cho ta biết gì về một điều không thể nào không có được.

Phê phán tổng hợp trái lại không thể đến từ chỗ phân tách chủ thể. Thí dụ tôi nói: con ngựa của vua Henri đệ tứ sắc trắng. Phân tách chủ thể «con ngựa của vua Henri đệ tứ»,  tôi vẫn chưa biết gì về màu sắc của con ngựa. Lời phê phán đó đòi hỏi sự va chạm, kinh nghiệm. Vậy đặc tính của phê phán tổng hợp là: hậu nghiệm. Va chạm, kinh nghiệm đem lại cho ta sự hiểu biết lời phê phán. Vậy phê phán tổng hợp sẽ không có tính cách thiết yếu: con ngựa của vua Henri đệ tứ không nhất thiết phải trắng. Nhưng ở ngoài hai loại phê phán đó, Kant cho rằng đã khám phá ra một loại phê phán thứ ba: phê phán tổng hợp và tiên nghiệm. Vừa tổng hợp vừa tiên nghiệm, hai tính chất vốn mâu thuẫn được phối hợp. Thí dụ khi ta nói: con đường thẳng là con đường gần nhất nối liền hai điểm trong không gian. Lời phê phán đó mang hai tính chất:
l-  Nó tất yếu: đường thẳng nhất định là đường gần nhất
2- Nó tổng hợp: phân tách khái niệm đường thẳng ta vẫn chưa biết về sự nó là con đường gần nhất từ một điểm đến một điểm khác.

Nói khác đi, lời phê phán đó tất yếu vậy tiên nghiệm, bởi lẽ những gì hậu nghiệm vốn biến đổi chứ không thể nào tất yếu được. Con ngựa mà ta sắp quan sát không nhất thiết  mang sắc trắng. Nhưng lời phê phán trên, một đằng thì tất yếu, đằng khác lại tổng hợp. Và tổng hợp như chúng ta đã  biết vốn hậu nghiệm. Làm thế nào ta lại có thể phát biểu những lời phê phán vừatổng hợp vừa tiên nghiệm như vậy được? Lời giải theo Kant rất giản dị: ta biết một cách tiên nghiệm những sự kiện chính vì ta đã đem một chút gì của ta vào đó. Từ điểm nhận định này, Kant đã xây dựng tất cả hệ  thống triết học của mình: chứng minh sự thành công chắc chắn của một khoa học về hiện tượng và sự thất bại phũ phàng của siêu hình học.

Chúng ta đã đem một chút gì của ta vào trong biểu tượng của ta về sự vật nên ta mới có thể có được những phê phán vừa tổng hợp, vừa tiên nghiệm. 

Về toán pháp chẳng hạn, ta thấy có những phê phán vừa  tổng hợp vừa tiên nghiệm liên quan đến không gian, thí dụ như lời phê phán về đường thẳng mà ta đã đề cập đến ở trên. Có những phê phán khác liên quan đến thời gian chẳng hạn như mệnh đề «thời gian chỉ có một chiều», mệnh đề then  chốt của cơ học thuần lý. Ta hãy nhận rõ: ta có thể có những lời phê phán tổng hợp và thuần lý liên quan đến không gian và thời gian. Như thế nghĩa là ta đã đem một chút gì của ta vào sự nhận định đó, ta đã có một kinh nghiệm tiên nghiệm  về thời gian và không gian trong biểu tượng mà ta có về sự vật.

Không gian và thời gian theo Kant không phải là thực tại mà  chỉ là những hình thể ta dùng để nhận định những chất liệu của cảm quan. Không gian và thời gian là những tấm lăng kính bóp méo sự vật. Cảm quan ta chỉ có thể nhận biết sự  vật qua bức tường vô hình đó mà không thể vượt qua được.

Trong vật lý ta cũng có những lời phê phán tổng hợp và tiên
nghiệm. Kant phân ra làm bốn loại: «công lý của trực giác, tiên đoán của sự nhận định, tương xứng của kinh nghiệm, định đề của tư tưởng… » Nguyên lý về sự căn do «không có gỉ xảy ra trong thiên nhiên mà không có căn do» là một thí dụ. Nguyên lý đó chi phối tất cả vật lý học cho nên ta phải nhận định rằng có thể có một vật lý học chắc thực như toán học.

Ta hãy đi sâu hơn chút nữa vào chi tiết của triết học Kant. Ta nhớ rằng: có những chất liệu của sự hiểu biết đến từ cảm  quan. Chất liệu đó bị đóng khung vào trong những hình thể  có sẵn là những hình thức của cảm quan: thời gian và không gian. Hình thức đó ví như những tấm kính bóp méo sự vật của chiếc tháp kể trên. Tri năng ta bị giam cầm trong tháp, nhận biết sự vật qua những lăng kính «hình thức cảm quan». Thế tại sao ta lại xây được một khoa học về hiện tượng? Chính vì ta đã đóng những chất liệu đến từ cảm quan vào trong khung «hình thức cảm quan», và những hiện tượng mà ta nhận biết là những sự kiện chỉ hiện ra với con người không thể khác đi được khi ta vẫn có những «hình thức cảm quan» đó, nên một khoa học về hiện tượng là điều có thể. Những chất liệu đó phân tán, hỗn độn thì đã có tri năng dàn xếp. Biểu tượng về sự vật của ý thức ta là kết quả của một cuộc tổng hợp bởi tri năng. Tri năng  phê phán và hành động chính là hành động tổng hợp, thu gọn những sự kiện phân tán về một mối thống nhất. Ta có thể phê phán thiên về: 1) lượng - 2)  phẩm – 3) tương quan – 4) hình thái dạng thức. Nói khác đi, tri năng được sự giúp sức của phạm trù trong hành động phê phán. Thí dụ khi ta nói: tất cả mọi người đều phải chết. Tri năng sẽ không thể phê phán tất cả mọi người nếu không có sẵn một khái niệm về toàn thể. Tri năng không thể công nhận sự sẽ chết của con người là đúng nếu không có một khái niệm về thực tại. Mệnh đề sẽ không được kể là một sự kiện nếu tri năng không có khái niệm  hiện hữu.

Tri năng như vậy theo Kant đã được phụ lực bởi 12 phạm trù gồm trong bốn loại: lượng, phẩm, tương quan, hình thái dạng thức. Tri năng ngồi trong tháp nhìn những hình ảnh méo mó, phân tán nhưng cũng có những ống kính khác, nếu không đủ sức giúp nó nhận ra cái ẩn tượng của hiện tượng thì cũng tổng hợp được chất liệu phân tán đó.

Thế tại sao những chất liệu vốn hậu nghiệm đến nhờ cảm quan và những phạm trù của tri năng vốn tiên nghiệm lại phù hợp với nhau? Động cơ gì đã thúc đẩy sự ăn khớp đó? Kant bảo: Tri năng ta chỉ nhận biết được sự vật ở trong khuôn khổ của những định luật hết sức tổng quát, đó là những nguyên lý của tri năng. Thí dụ ta sẽ không biết gì về một vật nếu nó không có phẩm, lượng, không liên quan với vật khác bởi một tương quan nhân quả định rõ trước sau. Đó là những điều kiện để tôi có thể biết về sự vật được. Và nếu tôi biết thì chính là sự vật có những tính chất đó để có thể được biết. Nhiều người sau Kant còn đi xa đến chỗ chủ trương rằng không có hiện tượng nào xuất hiện ra trước trí tuệ con người được, nếu không ở trong khuôn khổ định luật giúp ta biết rõ hiện tượng đó, cũng như giúp ta tiên đoán và sử dụng hiện tượng. Kant không đi đến đó nhưng ông đã nói rõ rệt: ta biết được sự vật (hiện tượng), vì hiện tượng có tính chất biết được. Kết quả lạc quan là ta có thể xây dựng một khoa học về hiện tượng trên những hệ thống công lý của tri năng. Thuyết hoài nghi bị loại bỏ.

Nhưng tại sao trong khi tin tưởng được ở khoa học về hiện tượng thì siêu hình học lại đang bị gạt sang một bên?

 

II - SỰ THẤT BẠI CỦA SIÊU HÌNH HỌC


Con người bởi có lý trí nên không chịu dừng bước trước những hiểu biết nửa chừng. Cảm quan được giúp sức bởi những thể tiên nghiệm (formes a priori) và bởi những phạm trù của tri năng (catégories de l'entendement) đã đem lại cho con người những hiểu biết về hiện tượng. Khoa học vốn là một khoa học về hiện tượng nên cũng nhờ thế mà thành công. Nhưng lý trí con người không muốn dừng bước trước những sự hiểu biết về hiện tượng đó. Ta đã biết về cái hiện tượng, cái vẻ ngoài của sự vật đó, nên ta khao khát muốn biết cái bề trong, cái ẩn tượng(noumène) của sự vật ra sao. Thống nhất được toàn thể kiến thức, vén được bức màn che dấu cái tuyệt đối, đó là những nguyện vọng của lý trí. Nhưng những bề trong, những ẩn tượng mà lý trí muốn đạt tới đó là gì? Đã nhờ tri năng, cảm quan mà con người biết được tương quan giữa các hiện tượng trong vũ trụ, con người còn muốn biết cái lý do sâu xa của vũ trụ, của cõi đời. Biết được cuộc sống là cái vẻ ngoài của con người, ta lại muốn biết về linh hồn, cái lý do sâu xa của cuộc sống đó. Biết rằng mỗi sự kiện đều có một căn do, ta muốn tìm đến cái căn do nguyên thuỷ có khả năng chi phối, phát sinh ra mọi căn do nhỏ bé khác, đó là Thượng đế. Tìm hiểu về linh hồn, về vũ trụ, về Thượng đế là những mục tiêu cốt yếu của lý trí.

Nhưng trước những mục tiêu đó, lý trí phải thúc thủ, bó tay bởi vì không có một phương tiện nào để đạt tới. Triết học cổ điển đã thử thách nhiều lần. Siêu hình học đã nhiều lần được dựng lên. Nhưng tất cả đều đưa đến chỗ suy sụp. Tri năng có những nguyên lý giúp ta biết được hiện tượng. Nhưng siêu hình học cổ truyền đã lấy những nguyên lý của tri năng làm nguyên lý cho 1ý trí. Siêu hình học lý luận về những sự kiện ở ngoài lĩnh vực thấu triệt được bởi cảm quan. Như thế, cũng như tri năng đã lý luận về những hiện tượng, lý luận  về những điều vô hình bằng cách suy diễn từ chỗ hữu hình đến chỗ vô hình. Mà thật ra nguyên lý của tri năng không có một giá trị gì ngoài thế giới của hiện tượng. Vì thế nên tất cả chỉ là một biện chứng hão huyền.

*

Trong thế giới hiện tượng chẳng hạn, ta thấy rằng mỗi sự kiện thường có những đặc tính của những hiện tượng đó. Những thuộc tính có thể biến đổi, khác nhau nhưng sự kiện vẫn là một. Lý trí căn cứ vào sự nhận định đó để chứng minh tính chất đơn thuần của linh hồn. Triết học cổ điển chủ trương rằng linh hồn vốn đơn giản, duy nhất, bất khả phân và bất tử. Để chứng minh những đặc tính đó của linh hồn,  siêu hình học đã căn cứ trên những lý luận lỏng lẻo. Họ lý luận bằng cách: lấy điều ta tưởng rằng thật làm sự thật.  Tôi nhận thấy tôi chỉ là tôi mặc dầu quan niệm, tính tình tôi có khác đi ít nhiều theo sự biến đổi của thời gian. Tôi thấy rằng tôi chỉ 1à tôi, chỉ là một, vậy tôi vốn có bản chất đơn thuần;  cũng vậy, tôi thấy rằng tôi bất khả phân, không thể bị hủy diệt được, vậy tôi kết luận: tôi có một bản chất bất khả phân, bất diệt.

Nhưng siêu hình học cổ điển đã sai lầm. Bởi vì tôi thấy rằng tôi vẫn là tôi qua những biến đổi của thời gian, tôi cũng  chưa đủ quyền, đủ lý để kết luận rằng tôi vẫn có một bản chất đơn thuần. Điều tôi nhận thấy, tôi căn cứ vào đâu mà quả quyết rằng đó là chân lý. Tôi chẳng nhận thấy rằng trái đất bất động đó hay sao? Thế sao tôi vẫn không được kết luận rằng trái đất quả nhiên là bất động? Vì vậy, mặc dầu tôi thấy rằng tôi đơn thuần, bất khả phân, bất diệt, tôi cũng không được kết luận rằng tôi quả nhiên là có một bản chất đơn thuần, bất khả phân và bất diệt. Căn cứ vào những tính chất hiện ra ở cái vẻ ngoài để kết luận về bản chất sâu xa là một việc sai lầm:

Suy từ mối tương quan giữa chủ thể và thuộc tính (sujet et les attrìbuts), của những sự kiện thuộc thế giới hiện tượng đến linh hồn, một ẩn tượng, và đặc tính của linh hồn là sự suy diễn sai lầm thứ nhất.

Sự suy diễn sai lầm thứ hai là suy từ nguyên lý nhân quả phổ quát trong thế giới hiện tượng đến bản chất sâu xa của vũ trụ, cõi đời [1]

Sự suy diễn thứ ba liên quan đến vấn đề Thượng đế. Để chứng minh sự hiện hũu của Thượng đế, lý trí thường căn cứ trên ba chứng cớ: vũ trụ chứng (preuve cosmologique), cứu cánh chứng (preuve téléologique) và thực thể chứng (preuve ontologique). Nhưng Kant nhận thấy rằng hai chứng cớ đầu tiên lại được xây dựng dựa trên chứng cớ thứ ba. Nếu thực thể chứng vững vàng thì cả ba đều đứng vững. Ngược lại, nếu thực thể chứng sai lầm thì tất cả đều sụp đổ.

Vũ trụ chứng dựa vào thực thể chứng, đó là một điều rõ rệt. Vũ trụ chứng vạch cho ta biết rằng Trời sinh ra vũ trụ, bởi vì mọi vật hiện hữu đều có một căn do sinh ra nó, vậy căn do của vũ trụ chỉ có thể là Thượng đế. Nhưng Kant hỏi: thí dụ ta tin rằng vũ trụ có một căn do sinh ra nó, ta cũng chưa được kết luận ngay rằng đó là Thượng đế. Bởi vì, như vậy ta đã gián tiếp bảo rằng Thượng đế là một đấng vạn năng có quyền tạo hóa và tự tạo nên tất hữu. Vũ trụ chứng mới vạch ra một điều: vũ trụ có một căn do chứ chưa chứng minh được sự hiện hữu của Thượng đế. Chứng minh được ý kiến Thượng đế có tài tạo hóa và tự tạo nên tất hữu là điều mà thực thể chứng muốn vạch ra. Nên vũ trụ chứng phải tùy thuộc vào chứng cớ sau này vậy.

Cứu cánh chứng cũng rơi vào khuyết điểm đó. Chứng cớ đó cho rằng: một sự kiện được tạo thành vì một cứu cánh nào đó, tức là phải có một người thợ khôn khéo làm việc tạo thành đó. Và vũ trụ ta thấy rằng như được tạo thành nhằm một cứu cánh nào đó. Vậy tất nhiên phải có một người thợ  khéo. Đó là Tạo hóa, Thượng đế. Nhưng nhiều câu hỏi được đặt ra: có thật chắc chắn rằng vũ trụ được tạo thành nhằm  một cứu cánh nào đó không? Và nếu có thì có thật chắc chắn rằng người thợ khéo đó phải là Thượng đế hay không?  Và khi ta nói rằng có một người thợ khéo tạo nên vũ trụ để hướng nó về một cứu cánh nào đó, ta đã đưa vào một ý kiến: chỉ có một đấng hoàn toàn mới tổ chức được vũ trụ và tự tạo nên tất hữu. Như vậy, cũng lại căn cứ trên thực thể chứng rồi.

Nhưng giá trị của thực thể chứng rằng sao? Kant trả lời: không có giá trị gì cả.

Chứng cớ đó vạch ra rằng: Thượng đế là một đấng vạn năng, hoàn toàn. Mà sự hiện hữu là một điều hoàn hảo. Thượng đế toàn thiện, toàn mỹ, vạn năng, vậy phải có hiện- hữu-tính. Ắt phải có Thượng đế, cũng như những tính chất của tam giác đã nằm trong khái niệm tam giác. Nhưng hiện hữu, Kant bảo rằng không phải là một sự kiện toàn. Một ngườí điêu khắc hình dung một bức tượng. Hình dung từng chi tiết, không thiếu sót một tí gì. Hình dung đó là một hình ảnh tuyệt đẹp. Khi bức tượng được tạo thành, nó có đẹp hơn hình ảnh bức tượng trong đầu nhà điêu khắc hay không? Tất nhiên là không. Vậy thì sự hiện hữu của bức tượng làm cho nó hoàn toàn hơn hay kém cũng không sinh ra tính chất hoàn toàn. Cũng vậy, ta không thể bảo rằng Thượng đế hoàn toàn, vậy có Thượng đế vì hiện hữu là một sự hoàn toàn. 

*

Như vậy, siêu hình học không thể là một khoa học. Những chủ trương cho rằng ta có thể biết một cách khoa học bản thể sâu xa của con người, bản chất sâu xa của vũ trụ, và chứng minh được về sự hiện hữu của Thượng đế như những chứng minh toán học đều được xây dựng trên ảo tưởng. Ảo tưởng về giá trị của phương pháp và lý luận siêu hình. Cái tuyệt đối ở ngoài phạm vi hiểu biết của ta. Những thể tiên nghiệm của cảm quan và những nguyên lý của tri năng giúp ta biết được một cách chắc chắn, khoa học những hiện tượng bởi vì hiện tượng vốn biết được, có đưa điều kiện để biết được. Nhưng nếu vượt ra ngoài biên giới của hiện tượng, đi sâu vào thế giới của bóng tối của ẩn tượng, những hình thể, những nguyên lý đó sẽ hoàn toàn thất bại.

Giải đáp cho câu hỏi đầu tiên «ta biết được gì» của Kant thật là rành mạch, rõ ràng. Ta xây dựng được một lâu đài toán học nhờ những phê phán tổng hợp và tiên nghiệm, những thể tiên nghiệm của cảm quan. Ta biết được một khoa vật lý cũng nhờ những thể tiên nghiệm đó và cũng nhờ những nguyên lý của tri năng. Đó là những kiến thức chắc chắn - nhìn vào kết quả ta thấy không thể rơi vào hoài nghi chủ nghĩa được. Nhưng ta cũng không được quên rằng tuyệt đối, ẩn tượng ở ngoài phạm vi hiểu biết của ta. Ta không có đủ lý luận, kinh nghiệm hay một phương tiện nào giúp ta đạt tới cả. Muốn thành thật, ta phải nhận rằng ta chưa biết gì cả.

*

Không biết gì về những điều tuyệt đối, con người có vì thế mà trở nên bơ vơ, lạc lõng hay không? Kant trả lời: không. Không biết một cách khoa học những vấn đề siêu hình, ta vẫn được quyền tín ngưỡng. Thế giới hiện tượng ta biết được, và ta biết rằng hiện tượng bị chi phối bởi định luật, bởi quy luật chặt chẽ của quy định thuyết (déterminisme). Nhưng, ở thế giới ẩn tượng những định luật đó sẽ vô hiệu. Ta có thể không bị chi phối bởi định luật nào cả. Tự do của ta được bảo vệ tuyệt đối. Không chứng minh một cách khoa học được những vấn đề siêu hình, ta có quyền chọn lựa, có quyền tin tưởng. Có những tin tưởng có xây dựng và đáng được truyền giảng hơn những tin tưởng khác. Cũng vì thế, trong những sách vở về luân lý học và tôn giáo của Kant, nhà triết học Đức đã nói lên tính cách khả kính của những bổn phận đạo đức và sự hiện hữu cần thiết của Trời [2].                                                                                 

 

NGUYÊN SA






[1] Sự suy diễn thứ hai cũng như những quan niệm luân lý, tôn giáo của Kant, chúng tôi sẽ trình bày trong một dịp khác. 
[2] Xem chú thích trên.  














THÁNG TƯ NHỚ NGUYÊN SA
Chuyện cùng “Nga buồn như con chớ ốm”
(theo Vũ Đình Trọng – Người Việt)



Mười chín năm qua, từ ngày nhà thơ Nguyên Sa qua đời (18 Tháng Tư 1998), những đóa cúc vàng trên mộ ông trong nghĩa trang ở thành phố Westminster vẫn vàng rực, nhờ sự chăm sóc ân cần từ người vợ thủy chung.

Vợ nhà thơ Nguyên Sa, bà Trịnh Thúy Nga, người đi vào cõi thơ Nguyên Sa với những câu mở đầu “tếu táo” :

“Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Ðể anh giận sao chả là nước biển !…”

Trên đời, chắc chỉ có mình ông, nhà thơ Nguyên Sa, viết thư thông báo đám cưới của mình bằng thơ. Cũng chẳng có ai đặt tựa cho bài thơ báo hỷ “cộc lốc” như ông – chỉ vỏn vẹn một chữ “Nga,” tên người con gái ông lấy làm vợ. Thế mà người ta nhớ ! Có ai mà không nhớ thơ tình Nguyên Sa ! Và bà Nguyên Sa -Trịnh Thúy Nga, luôn nhớ một câu chuyện chẳng thể nào cũ.

Tháng Giêng Mai Thảo đã qua
Tháng Tư chợt nhớ Nguyên Sa, lại buồn.
(thơ Ngọc Hoài Phương)

“Năm 1952, sau khi hồi cư về Hà Nội, tôi được gia đình cho sang Pháp du học cùng với người anh họ. Ông Lan (tên nhà thơ Nguyên Sa: Trần Bích Lan) qua trước hai năm. Ông thân sinh của ông ấy buôn bán lớn, sợ Việt Minh làm phiền nên cho ba người con lớn sang Pháp du học. Tôi quen em gái ông ấy ở Paris, tình cờ đến nhà chơi nên quen ông”.

Quen nhau Tháng Mười Hai năm 1952, đến mùa Hè năm 1953, ông làm bài thơ tỏ tình tặng bà. Cho đến giờ, chưa ai biết nội dung bài thơ đó như thế nào, vì bà muốn giữ kín, cho riêng bà. Chỉ biết rằng, trái tim của cô nữ sinh tên Nga từ đó có một hình bóng, mà cô luôn trân trọng nhớ về, từ mùa Hè năm đó.

Bà hồi tưởng lại : “Hồi đó tôi còn trẻ, cũng chẳng suy nghĩ gì cả, chỉ lo học thi đậu xong rồi về. Phải lo học xong cho sớm chứ đời sống bên Pháp đắt đỏ lắm. Cũng trong năm 1953, cụ thân sinh ông Lan mất ở Hà Nội, ông ấy phải ngưng học, về nước để giúp đỡ gia đình. Lúc đó chúng tôi yêu nhau rồi, ông ấy cũng muốn dỗ dành tôi về Việt Nam chung, nhưng tôi còn ham học cao lên. Tuổi trẻ mà, ai cũng có giấc mơ lớn, và tôi cũng muốn thực hiện ước mơ của mình.”

Cuộc chia tay này là nguyên nhân bài thơ “Paris có gì lạ không em ?” ra đời trong nỗi nhớ khắc khoải của ông.

“Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim


Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen?…”

Câu hỏi cuối ông gởi lại bà trong sự chờ đợi, thay cho câu hỏi “Em có bằng lòng làm vợ anh không ?” Để rồi hai năm sau gặp lại nhau ở Paris, khi bà khẽ gật đầu ưng thuận “làm lá sen” suốt đời cho ông, thì ông mới viết bài thơ đính hôn thay cho thiệp báo hỷ gởi cho gia đình, bằng hữu, trong niềm vui sướng tột độ.

“Chúng mình lấy nhau
Cần gì phải ai hỏi…
Cả anh cũng không cần phải hỏi anh
‘Có bằng lòng lấy em ?…’
Vì anh đã trả lời anh
Cũng như em trả lời em
Và cũng nghẹn ngào nước mắt !…”
(Nga – Nguyên Sa)

Bà Nga nhớ lại : “Sinh viên tụi tôi ở lại Pháp sau Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, gia đình lo tản cư vào Nam nên đâu có gởi tiền qua được. Chúng tôi ra Tòa Đốc Lý Paris ký giấy hôn thú, bạn bè theo đông lắm. Xong kéo nhau ra quán cà phê đối diện uống cà phê, ăn bánh. Bạn bè chung tiền trả tiền cho cô dâu, chú rể. Thế thôi.”

Đám cưới sinh viên Việt Nam nghèo ở kinh đô ánh sáng diễn ra như thế. Chú rể chẳng mặc lễ phục, cô dâu không có áo cưới, mà ngay cả nhẫn cưới họ cũng chẳng mua được. Nhưng có sao đâu, vì ông trao cho bà những thứ quý hơn nhẫn cưới.

“Người ta làm thế nào cấm được chúng mình yêu nhau
Nếu anh không có tiền mua nhẫn đeo tay
Anh sẽ hôn đền em
Và anh bảo em soi gương
Môi anh tròn lắm cơ
Tròn hơn cả chữ O
Tròn hơn cả chiếc nhẫn
Tròn hơn cả hai chiếc nhẫn đeo tay!…”
(Nga – Nguyên Sa)

oOo

Mười chín năm ông ra đi, chữ O tròn trên má vẫn chẳng phai nhòa, vì với bà, ông chẳng bao giờ đi xa cả, mà chỉ chuyển chỗ từ ngôi nhà ở thành phố Irvine đến nơi đầy nắng và gió ở thành phố Westminster.

“Đối với tôi thì lúc nào ông cũng quanh quẩn đâu đây, trong cái nhà này. Tôi ở trong nhà, hay đi bất cứ con đường nào, đều thấy hình bóng ông ở bên cạnh tôi hết.” Bà Nga nói.

Nhà thơ Ngọc Hoài Phương cho biết, lúc sinh thời Nguyên Sa rất thích hoa cúc vàng – như câu thơ trong bài “Áo lụa Hà Đông” của ông : Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc – nên bà Nga chỉ mang hoa cúc ra mộ ông thôi. “Nếu để ý sẽ thấy, hoa cúc vàng trên mộ nhà thơ Nguyên Sa không bao giờ tàn hay héo cả vì được bà Nga chăm sóc rất kỹ. Hoa sắp héo sẽ được bà thay bằng hoa mới.” Nhà thơ Ngọc Hoài Phương cho biết.

Hôm gặp bà ở mộ ông, bà cho hay : “Ông ấy không bao giờ nghĩ đến cái chết, hay mình được chôn cất ở đâu cả. Khi ông ấy mất, tôi ra đây xem rồi chọn cho ông chỗ này. Nó gần hồ nước, lại dưới một bóng cây. Lúc trước trông vắng vẻ, giờ trông ấm cúng vì chung quanh ông có rất nhiều bạn bè.”

“Hồi nhà tôi mới mất, ngày nào tôi cũng ra đây, sửa bông, cắt cỏ. Giờ thì lớn tuổi rồi, thì một tuần tôi ra thăm ông ấy 2 lần. Nhiều khi bực mình với ông ấy cũng ra đây nói cho ông ấy biết.”

“Hồi ông Lan còn sống, tôi rất ít tiếp xúc với bạn ông ấy lắm, nhưng từ hồi ông ra đây, tôi được gặp nhiều người thăm ông, an ủi nâng đỡ tôi. Tôi nhớ ông Đỗ Ngọc Yến (nhà báo, sáng lập nhật báo Người Việt), hồi đó, cứ có ai từ xa đến Little Saigon, muốn gặp tôi thì ông ấy cứ nói cứ ra thăm mộ Nguyên Sa thì gặp bà Nga. Cho nên ở đây tôi được gặp nhiều người lắm, kể cả bạn cũ ở Việt Nam sang chơi. Cuối năm còn có người hẹn tôi ra đây cho cá kho, dưa chua nữa.”

Điều trùng hợp là sự lựa chọn nơi yên nghỉ cho ông, lại chính là nơi ông từng mơ ước được về qua câu thơ của ông, được bà khắc trên mộ.

“Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?”

Và trong bài Tân Ước trong tập thơ cuối cùng, hình như lời “năn nỉ” của ông cũng được bà chiều theo.

“…Anh vẫn nhận ra em, em khác biệt mà vẫn đồng nhất, giấc mơ gián đoạn bao nhiêu, em vẫn trở lại, giấc mơ phi lý, em khắng khít bằng những liên tục vuốt ve, liên tục hiền dịu, liên tục chăm sóc. Em liên tục không gian em, liên tục luận lý em. Tân ước nói có thế giới ở ngoài thế giới, khác biệt và bao trùm thế giới. Em có phải là giấc mơ ở trong giấc mơ và phủ kín giấc mơ?”

Chẳng biết như thế nào, nhưng trong thế giới thật này, “Nga buồn như con chó ốm” tiếp tục dùng đôi tay “làm lá sen” phủ kín “hương cốm” Nguyên Sa cho đến tận cùng.

(theo Vũ Đình Trọng – Người Việt)
















(hàng ngồi) Nguyên Sa, Mai Thảo, Võ Phiến
(hàng đứng) Nguyễn Mộng Giác, Thụy Khuê, Đỗ Ngọc Yến, 









Mộ nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan







Như một nén hương muộn thắp cho nhà thơ Nguyên Sa, cũng là thầy Trần Bích Lan dạy Triết lớp Đệ nhất C của tôi tại Sài Gòn



Phan Nguyên

(14/12/2013)

















MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.