Thứ Năm, 19 tháng 3, 2015

Tương Phố (1900 - 1973)









Tương Phố

Tên thật Đỗ Thị Đàm
(1900 - 1973)
Nhà thơ










Tương Phố tên thật: Đỗ Thị Đàm (1900 - 1973), là nhà thơ nữ, thuộc thế hệ văn học 1913 - 1932.
Tên tuổi của Tương Phố gắn liền với phong trào "Nữ lưu và văn học", và bà đã có những tác phẩm được đánh giá cao như "Giọt lệ thu", "Tái tiếu sầu ngâm", "Khúc thu hận"...





Cuộc đời


Tương Phố sinh tại đồn Đầm, tỉnh Bắc Giang, nhưng nguyên quán của bà ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Bà là con của ông Đỗ Duy Phiên và bà Nguyễn Thị Yểm. Vừa lớn lên, bà ra Hà Nội học ở trường Nữ hộ sinh, sau bỏ dở, để theo học Trường Nữ Sư phạm, nhưng khi tốt nghiệp, bà không đi dạy. Bà có một cô em gái tên là Đỗ Song Khê, chính là người đã viết bài "Muốn ăn rau sắng chùa Hương" dưới bút danh Đỗ Tang Nữ nhắn gửi thi sĩ Tản Đà năm 1923.
Trong khoảng thời gian ở Hà Nội, bà gặp Thái Văn Du (em ruột Thượng thư Thái Văn Toản), một sinh viên trường thuốc, rồi họ thành vợ chồng năm 1915.
Một năm sau (1916), Tương Phố sinh con trai là Thái Văn Châu, thì chồng bà (khi ấy đã là Y sĩ Đông Dương) phải qua Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh Pháp-Đức (1914-1918). Khoảng cuối năm 1919, chồng bà bị bệnh phổi phải trở về Huế, rồi mất vào mùa thu năm 1920 (ngày 25 tháng 7) khi bà còn đang học ở trường Nữ Sư phạm Hà Nội.
Tương Phố thuộc hàng nữ lưu tân tiến những năm 20 của thế kỷ 20. Bà bắt đầu làm thơ vào khoảng những năm ông Du phải đi xa, và số thơ này đều có chủ đề chung là nỗi nhớ mong chồng.
Sau khi chồng mất, năm 1923 (hoặc 1922) bà viết một bài văn xuôi có xen 8 đoạn thơ lục bát và song thất lục bát, mang tên là "Giọt lệ thu", được đăng báo năm 1928. Đây là tác phẩm gây được tiếng vang trên văn đàn thời bấy giờ và cũng đã khơi dòng văn chương lãng mạn sầu não trong văn học Việt Nam hiện đại. Bởi nội dung bài là tiếng khóc thê thiết của một người vợ trẻ (Tương Phố) chờ chồng suốt ba năm, nhưng khi chồng (Thái Văn Du) về tới Huế, chẳng bao lâu thì mất. Đầu những năm 30, bài văn này đã được một nữ dịch giả người Pháp dịch ra tiếng Pháp, được một số nhà phê bình Pháp chú ý.
Sau đó bà tiếp tục viết những bài văn thơ cùng loại, đăng báo Nam Phong, về sau được tập hợp thành các tập: Giọt lệ thu, Mưa gió sông Tương, Trúc mai... Bà cũng từng làm thơ xướng họa với nhà chí sĩ Phan Bội Châu, thi sĩ Đông Hồ.
Năm Ất Sửu (1925), bà tái giá với Tuần phủ Phạm Khắc Khánh ở Phúc Yên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc).
Sau năm 1945, Tương Phố vào sống ở Nha Trang rồi mất ở Đà Lạt vào ngày 8 tháng 11 năm 1973, thọ 77 tuổi. Bà được an táng tại đồi Tương Sơn, TP. Đà Lạt. Hiện nay, ở thành phố cao nguyên này có một đường phố mang tên bà.









Tác phẩm

Tương Phố chính thức bước vào làng văn từ những năm 1927, 1928 và nổi tiếng qua bài "Giọt lệ thu" đang trên tạp chí Nam Phong số 131 (tháng 7 năm 1928).










Tác phẩm đã xuất bản 
(chưa được thống kê đầy đủ)







Giọt lệ thu
(tập thơ, 1952)



Mưa gió sông Tương
(tập thơ, xuất bản thời Việt Nam Cộng hòa năm 1960)



Trúc Mai
(truyện dài bằng thơ)







Ngoài ra, bà còn viết một số tác phẩm, như:



Nhờ rừng xanh (?)



Tình quê (?)



Chia phôi (?)



Liên xóm Bàng 
(truyện, ?)



Một giấc mộng 
(truyện, tạp chí Nam Phong số 133, tháng 9, 1928)



Mối thương tâm của người bạn gái 
(truyện, tạp chí Nam Phong số 135, tháng 11, 1928)



Bức thư rơi 
(truyện, 1929)



Tặng bạn chán đời 
(truyện, 1929)







 Và một số bài tiểu luận cũng đăng trên tạp chí Nam Phong












Thơ




Giọt lệ thu 
Bao giờ quên được mối tình xưa
Sinh tử còn đau mãi đến giờ
Giấc mộng tìm nhau tìm chẳng thấy
Mênh mang biển hận, hận không bờ. 
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em
Trăng thu bóng ngả bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng. 
Sầu thu nặng lệ thu đầy
Vì lau san sát hơi may lạnh lùng
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Ai đem thu cảnh họa cùng thu tâm.
(1923) 









Tái tiếu sầu ngâm

Đàn xưa, ai dứt dây đàn?
Đứt dây từ đấy, chứa chan mạch sầu!
Ngày lạnh chi dở dang nhau,
Tuổi xanh nghi buổi bạc đầu mà thương.
Vóc mai gầy gò tuyệt sương,
Mấy thu chiếc bách cánh buồm bơ vơ.
E dè buổi gió chiều mưa,
Con côi, mẹ góa, dễ nhờ nương đâu?
Bước đi, âu cũng thương nhau,
Dừng chân đứng lại cơ màu dở dang.
Dây loan chắp nối đoạn trường,
Ngâm câu tái tiếu hai hàng lệ sa!
Dễ âu duyên mới du mà,
Còn tình chăng nữa, cũng là lụy thôi.
Trăm năm danh tiết lỡ rồi,
Dẫu thân chung đỉnh cũng đời bỏ đi.
Đào tơ sen ngó từ khi,
Ngây thơ đôi lứa ngờ chi nỗi này.
Uyên ương chia rẽ bấy nay,
Lạc bầy chắp cánh, thẹn ngày giao hoan.
Tình xưa lai láng khôn hàn,
Bến xưa ngoảnh lại muôn vàn thương tâm!.
Thuyền ai, não khách ôm cầm,
Dây tơ dìu dặt, âm thầm tiếng tơ.
Khúc thành, lệ ứa như mưa,
Cảm xoang điệu cũ bao giờ cho thôi.
Thân này, đôi dẫu đủ đôi,
Lòng này, riêng vẫn lẻ loi tấm lòng!
Theo duyên ân ái đèo bòng,
Trăm năm vẫn một khúc lòng bi thương.
Trông về lối cũ Bình Hương
Sông quanh chín khúc đoạn trường quặn đau!
Non cao, thẳm ngất non sầu,
Cảnh xưa ai vẽ nên mầu thê lương.
Tình xưa càng nghĩ càng thương,
Biết bao khoảng vắng đêm trường khóc nhau.
Gối nghiêng tầm tã tuôn châu,
Màn hoa chăn gấm giọt sầu chứa chan.
Cửa hầu, gửi áng xuân tàn,
Chén vinh hoa, nhấp muôn vàn đắng cay.
Nỗi lòng chua xót ai hay,
Tấm thân bồ liễu võ gầy riêng thương.
Vì chàng tâm sự dở dang,
Vì con, thôi mấy đoạn trường cũng cam.
Nghĩ vui đuốc tuệ hoa đàm,
Cha già, con dạy dễ làm sao đây?
Chàng từ cười hạc chơi mây,
Bụi hồng, nào biết những ngày gió mưa.
Đau lòng thiếp, nỗi sau xưa,
Cửa nhà, non nước như tơ rối bời.
Lòng nào lòng tưởng vui cười,
Cũng thân nghiêng ngửa với trời đa đoan.
Nỗi đời nếm hết tân toan,
Khôn ngoan chi mấy mà oan trái nhiều!
Nước non duyên nợ nghĩ liều,
Cầm như con trẻ chơi diều đã xong.
Nỗi riêng lệ ứa đôi dòng,
Trăm năm để một tấm lòng từ đây!
(1925)
Đăng trên tạp chí Nam Phong số 147, tháng 2 năm 1930







Chàng đi buổi thu sơ năm ấy
Thu năm về, nào thấy chàng về
Chàng đi, đi chẳng trở về
Thu về, thiếp những tê mê dạ sầu

Làng mây nước biết đâu nhắn gửi
Khoảnh đất trời để mãi nhớ thương
Vì chàng, chín khúc đoạn trường
Vì chàng, trăm mối sầu vương tháng ngày

Thu xưa khóc, thu này lại khóc
Năm năm thu, mảng khóc mà già
Người xưa khuất, cảnh cũ qua
Non buồn, nước lạnh, cỏ hoa tiêu điều

Nỗi ly hận mây chiều gió sớm
Tình tương tư khoảng vắng đêm trường
Gió mưa tâm sự thê lương
Chỉ kim ai vá đoạn trường nhau đây!

Sầu ngây ngất những ngày thu lại
Giọt ngâu tuôn lệ lại chan hoà...
Ngàn xanh sắc úa vàng pha
Bông lau lả lướt là đà ngọn may

Non nước với cỏ cây hiu hắt
Khói mây tuôn, mặt đất chân trời
Vời trông muôn dặm đường đời
Bước trăm năm, luống ngậm ngùi cho thân

Kể từ độ phong trần lạc bước
Mười lăm năm mặt nước cánh bèo
Gieo lòng theo ngọn thuỷ triều
Lênh đênh thôi cũng mặc chiều nước sa!

Con măng sữa nay đà mười sáu
Chốn hầu môn nương náu đức dầy
Sách đèn cơm áo bấy nay
Vì con, nuốt hết chua cay nỗi đời!

Phong lưu để ngậm ngùi tấc dạ
Chén vinh hoa, lã chã giọt hồng!
Khóc than khôn xiết sự lòng
Bèo xuôi sóng ngược cho lòng xót xa

Khăn lệ cũ, chan hòa lệ mới
Mối sầu xưa, chắp nối sầu nay
Tân sầu cựu hận bao khuây
Nắng sương, một vóc mai gầy thảm thương

Thu năm về, thê lương dạ cũ
Nước dòng thu khôn rũ tâm sầu
Bi ca một khúc bên lầu
Trăng thu dãi bóng, gió thu lạnh lùng



Lầu Cao, Bịnh viện Nam Thành mùa thu năm 1931
Nguồn: Nam phong tạp chí, số 164, 1931









Tim Em

Tim em tan nát từ năm ấy
Những vết thương đau mãi chẳng lành,
Tuổi trẻ dễ tin, em những chắc,
Duyên sau chắp lại mối tơ mành.

Hạnh phúc đời em, ai cướp cả ?
Em theo ân ái chẳng may gì,
Hờn duyên, em lại nhìn cha khóc,
Ứa lệ, cha em ngoảnh mặt đi!

Từ đấy thương cha em nín khóc,
Cha em thường thấy mặt em vui
Người đời cũng tưởng em sung sướng
Em biết tim em đã nát rồi!

Em cười phong kín hai hàng lệ,
Lệ ứa thương em lỡ cuộc đời,
Thổn thức canh dài em dẫu khóc,
Nhưng mai, son phấn lại tươi rồi!

Vì đứa con côi, em phải sống,
Nuôi con rỏ lệ máu tim hòa,
Muôn vàn hạnh phúc hy sinh hết,
Tim nát, thời gian lặng lẽ qua!...

1933

Trích từ Mưa gió sông Tương, 1960.









Nữ sĩ Tương Phố - cuộc đời và tâm hồn thơ đậm đà tình nghĩa
NGUYỄN HỒNG TRÂN


Nữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973 tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Nữ sĩ Tương Phố - cuộc đời và tâm hồn thơ đậm đà tình nghĩa
Nữ sĩ Tương Phố


Về năm sinh của bà có vài sách ghi khác nhau như trong “Từ điển Văn học” (T2 Nxb KHXH, 1984, tr.491) đã ghi năm sinh của bà là năm 1896; Sách “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” (Nxb, KHXH, 1992, tr.203) thì ghi bà sinh năm Mậu Tuất 1898. Trên lăng mộ bà tại đồi Tương Sơn, Đà Lạt đã ghi trên tấm bia mộ bà năm sinh là 1900 và năm mất là 1973. Như vậy, năm nay 2010, tính từ năm sinh của bà thì đã tròn 110 năm (1900 -1973).
Đỗ Thị Đàm là một nữ sĩ hiện đại, bút danh Tương Phố. Vì bà chào đời tại Đồn Đầm, tỉnh Bắc Giang, nơi thân sinh của bà làm việc, nên đặt tên bà là Đàm để ghi dấu tích làm kỷ niệm. (Đàm chữ Hán có nghĩa là Đầm). Bà sinh ra trong một gia đình nho học, thân sinh của bà là một nhà nho thanh bần là Đỗ Duy Phiên và bà Nguyễn Thị Yêm. Thân mẫu bà hiếm hoi, chỉ sinh được hai người con gái là Tương Phố và Song Khê. Song Khê - Đỗ Thị Quế cũng là một nữ sĩ có tiếng lúc bấy giờ. Hai chị em lúc nhỏ học chữ Hán với thân phụ, và học tiếng Pháp tại trường công lập ở tỉnh nhà Hưng Yên. Sau đó, bà Đỗ Thị Đàm lên học tại trường nữ Sư phạm Hà Nội. Thời kỳ đó, bà gặp anh chàng sinh viên trường thuốc Thái Văn Du (em ruột cụ Thái Văn Toản - Thượng thư Bộ Lại, triều Nguyễn thời Bảo Đại), người làng Quy Thiện, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị rồi thành vợ chồng và sống tại Hà Nội.

Đỗ Thị Đàm được hưởng hạnh phúc cùng chồng chưa đầy một năm thì chồng bà phải sang Pháp để học tiếp lấy bằng Y Khoa Thuộc địa năm 1916. Sau đó bà sinh con trai mới 6 ngày thì chồng bà là Y sĩ Đông Dương nên Pháp điều đi tham chiến trong chiến tranh Pháp - Đức (1914-1918). Lúc bấy giờ bà mới có con trai đầu lòng tên là Thái Văn Châu. Sang Pháp được ba năm, ông Du không chịu nổi giá rét mùa đông nên bị bệnh lao phổi rất nặng phải đưa về Huế điều trị năm 1919. Hồi này, nữ sĩ đang bận bịu con thơ tại Hà Nội. Vả lại, đường sá xa xôi cách trở, nên không vào thăm chồng được. Không bao lâu thì bà được điện tín báo cho biết chồng bà đã tạ thế và đã đưa đám tang rồi (mùa thu 1920).

Sau khi chồng qua đời, bà đem con về nương nhờ cha già. Đoạn tang, vì cảnh cha già con dại và cũng thương cha cứ khuyên con gái mình tuổi còn quá trẻ mới gần đôi mươi mà goá bụa nên đi thêm bước nữa cho đời đỡ trống trải, cô đơn, vất vả. Bà đành lòng phải tái giá (làm vợ bé) với quan Tuần Vũ Phạm Khắc Chánh ở tỉnh Phúc Yên năm bà 25 tuổi (1925). Nhưng sau cũng chẳng rõ bà có thêm con cái với ông Chánh nữa hay không?

Năm 1954, bà di cư vào Nam, đi cùng với gia đình người con trai của bà với ông Thái Văn Du vào sinh sống tại thành phố Đà Lạt. Người con trai của bà là giáo sư Thái Văn Châu đã từng làm Giám đốc sở Thủy Lâm Đà Lạt. Bà Tương Phố đã sống gắn bó với Đà Lạt gần 20 năm cùng gia đình con trai và 10 người cháu nội của bà. Nhiều lần bà muốn cùng con trai Thái Văn Châu ra Huế thăm lăng mộ của người chồng cũ Thái Văn Du nhưng vì thời chiến tranh đi lại khó khăn và mất liên lạc bà con, người thân ngày xưa ở quê chồng nên không biết đâu mà tìm. Năm tháng trôi qua, bà buồn rầu chưa tìm được lăng mộ cha cho đứa con trai duy nhất của bà. Bà cứ canh cánh bên lòng một nỗi niềm thương nhớ, day dứt... Nhưng sau khi nước nhà hòa bình thống nhất, GS Thái Văn Châu đã ra Huế tìm thăm được ngôi mộ của cha mình trên đồi sát chùa Từ Hiếu do một người bà con ở Huế giúp đỡ. Về sau này các con của ông Châu có ra Huế và nhờ cô ni sư Diệu Thành dẫn đến thăm lăng ông nội Thái Văn Du.

Năm 1972, sau khi nghe tin đứa cháu đích tôn của bà là Thái Kim Đăng đã hy sinh vì Tổ quốc (liệt sĩ), bà vô cùng thương tiếc rồi dần dần lâm bệnh nặng và qua đời tại Đà Lạt vào ngày 14 tháng 10 năm Quý Sửu (tức ngày 8/11/1973).

Đỗ Thị Đàm rất yêu thích văn thơ từ thuở nhỏ, cũng do được thụ hưởng ở người cha những áng thơ văn đẹp và buồn trong văn chương trung đại của Trung Quốc và Việt Nam. Và nhất là trong thời gian bà ở Hà Nội đã quen thân làm bạn với một chàng trai từ Huế ra học trường Y rồi trở thành vợ chồng. Chồng của bà - Thái Văn Du - một chàng trai rất yêu văn thơ lại vừa có vốn cựu học và tân học ở kinh đô Huế, và đôi vợ chồng trẻ thường cùng nhau đàm đạo về văn thơ. Và nhất là khi vào học trường nữ Sư phạm Hà Nội (1918 - 1920) có dịp làm phong phú thêm vốn văn chương Đông - Tây, bà rất đam mê việc đọc văn thơ của các tác gia thi văn có tiếng trong và ngoài nước rồi sáng tác thơ văn với nhiều đề tài khác nhau nhưng đều toát lên một nội dung trữ tình sâu lắng tâm hồn man mác, thăm thẳm...

Bà vào làng văn thơ Việt Nam từ những năm cuối thập kỷ 20 (1927-1928). Từ đó, bà làm nhiều bài thơ và nhiều áng văn xuôi đậm đà chất thơ đã tuôn chảy dưới ngòi bút của bà. Những tác phẩm chính của bà là:

- Giọt lệ thu (được bà viết ở sông Thương năm 1923 và lần đầu tiên được in trên “Nam phong tạp chí” năm 1928).

- Trúc Mai (truyện dài bằng thơ),

- Một giấc mộng (truyện, 1928),

- Mối thương tâm của người bạn gái (văn xuôi, 1928),

- Bức thư rơi (văn xuôi, 1929),

- Tặng bạn chán đời (thơ 1929),

- Tái tiếu sầu ngâm (thơ lục bát, 1930),

- Khúc thu hận (thơ song thất lục bát, 1931),

- Đời đáng chán (thơ song thất lục bát, 1932),...

Trong những tác phẩm văn thơ của Tương Phố, về văn xuôi thì chẳng có tác phẩm nào gây được ấn tượng xúc động sâu sắc như tác phẩm thơ văn giao thoa Giọt lệ thu. Có lẽ do bao nỗi đau buồn dồn dập riêng tư và xã hội đã đè nặng lên vai bà, tâm trí bà lúc đương thời đã tạo nên tâm điểm sáng tác của bà một cách sâu sắc, hiện thực.

Một điều đặc biệt là sau khi bài Giọt lệ thu ra đời trên báo Nam Phong (số 131 tháng 7 năm 1928) đã làm cho nhiều người trong xã hội nước ta lúc bấy giờ vô cùng xúc động và ngưỡng mộ tài năng văn thơ của bà đã tạo nên được những nỗi niềm rung động trái tim thân thiết với bao người. Cho đến ngày nay, có nhiều cụ già xứ Huế tuổi gần 90 mà vẫn còn thuộc lòng nhiều đoạn thơ của bà Tương Phố.

Chẳng hạn như bài Khóc chồng:

Ngoảnh lại trời Nam lệ chứa chan,

Lửa hương thôi đã lỗi muôn vàn./ Thương chàng vỡ lỡ đường danh vọng,/ Tủi thiếp bơ vơ lỗi đoạn tràng./ Chiếc bách dòng sâu e sóng cả./ Nửa chăn bụi lấp lửa canh tàn./ ừ đây non nước người xa vắng,/ Chi xiết lòng em nỗi dở dang...

Có thể nói rằng bài Giọt lệ thu là bài nổi tiếng nhất của Tương Phố vì nó rất hay trên nhiều mặt mà rất nhiều người khác nhau về lứa tuổi và học vấn đều cảm nhận được một cách thấm thía trong tâm hồn. Nó có một cái gì đó vừa chân thực, vừa huyền ảo; vừa gần gũi lại vừa xa xôi; vừa tủi thân lại vừa thương nhớ.

Bao giờ quên được mối tình xưa,/ Sinh tử còn đâu mãi tới giờ!/ Giấc mộng tìm nhau, tìm chẳng thấy/ Mênh mang biển hận, hận không bờ!...

Có đoạn bà tự sự phận mình một cách đau buồn, tủi phận:

“Duyên chẳng hẹn trăm năm, tình còn ghi muôn kiếp. Anh chàng Thái Văn Du mất ở Huế ngày 25 thánh 7 năm Canh Thân (1920). Đôi lứa trẻ trung, kẻ Nam người Bắc. Khi sống đã xa nhau, lúc mất không gặp mặt. Lòng em thương xót bao giờ cho nguôi!...”

Trời thu ảm đạm muôn màu,/ Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em./ Trăng thu bóng ngả bên thềm/ Tình thu ai để duyên em bẽ bàng...

(Bốn câu thơ này sau khi Tương Phố qua đời đã được ghi lên bia lăng mộ của bà tại đồi Tương Sơn, Đà Lạt).

Chúng ta thấy rằng, tác phẩm này tác giả không chỉ thể hiện bằng thơ mà cả văn xuôi xen lẫn giao thoa với nhau rất ăn ý và tạo thành một dòng chảy tình cảm đậm đà sâu lắng, thiết tha tình người.

“Anh ơi! thu về như gợi mối thương tâm. Mỗi độ thu sang, em lại vò lòng than khóc. Nghĩ năm có một lần thu, nhưng thu năm nay đi, năm sau còn trở lại. Hỏi ba sinh hương lửa, thời ái ân kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau? Chẳng hay cơ trời dâu bể vì đâu, xui nên chăn gối vừa êm, lửa hương mới bén, sắc cầm dìu dặt ngón đàn, bỗng ai xô lộn tình tan, gương vỡ cho người lỡ duyên!

Than ôi! Hình dung đôi ngả, gió mây hồi ấy, anh đi mãi năm tháng thường về, người không dấu vết. Em muốn tìm anh tìm chẳng thấy! Hôm sớm bâng khuâng buồn lại nhớ. Thương nhau gầy gò khóc vì nhau. Anh vui non nước bấy lâu, bụi hồng khuất nẻo dứt đường cá chim. Trông bốn phía trời mây vơ vẩn, em còn biết đâu là lối phía bay mà tìm? Chốn phòng loan từ thuở vắng anh, lệch làn chăn gối đượm sầu. Gương xưa chiếu cũ nghiêng xiêu. Thu Đông đến chẳng cùng em ái ân nữa. Giấc cô miên trằn trọc một canh dài. Mắt muốn nhắm đi lòng nào có ngủ. Đường kia nỗi nọ, trăm năm tâm sự, khôn đem hồn mộng gửi chiêm bao! Ngày tới đêm lui, hôm mai lần nữa, những ngậm ngùi than xót cho thân”.


Những dòng tâm sự của bà cứ liên tục tuôn trào ra từ những mạch ngầm thương yêu, tình nghĩa rồi cứ suy nghĩ liên miên chuyện thiên nhiên trời đất có hiểu cho chăng tâm trạng của mình trong nững ngày tháng cô đơn, lạnh lẽo, tê tái lòng sầu...

“Than ôi! lênh đênh sóng nước một con thuyền. Phong ba cuộc thế mấy phen dập vùi. Nghĩ cánh buồm bạt gió, bể hận không bờ. Con chèo tuyệt vọng khôn giò bến, em nay còn biết buông theo ngả nào? Trên cầu đoạn trường bể khóc như nắm vỏ gầy thảm thiết thương anh. Trăm mối tơ lòng không tung mà rối. Xuân qua hạ lại, cảm tình đã chẳng khác chi Đông. Thu sang tâm sự lại dạt dào, thương tâm gió buổi mây chiều, lòng em lai láng biết bao sầu tình...

Anh ơi! phòng Thu vò võ một mình, mỗi khi nhớ anh em lại ngừng tay kim chỉ, muốn bước chân hiên xa trông non nước mà hồi tưởng đường xưa lối trước đi về có nhau thì muôn ngàn tâm sự lúc bấy giờ lại như xô lùi em về canh đời dĩ vãng, mà rồi ngọn trào trong dạ cũng mênh mông cồn sóng lệ. Em nhiều khi nghĩ thương nước mắt, muốn thôi đi không khóc nữa nhưng hai hàng châu lệ vẫn cứ chan hoà như mưa. Nước non ngao ngán tình xưa, gối chăn ngấm lệ lòng sầu đến nay...”

Có những đoạn bà tâm sự nỗi lòng mình như đang thầm nói bên bàn thờ chồng thật cảm động và khi đọc lên cũng như những dòng thơ cuộn vào dòng chảy tâm tư của người góa bụa trẻ trung:

“Anh ơi! non nước còn đó mà anh vội đi đâu? Ngày Xuân sao chẳng ở cùng nhau? Duyên thắm nỡ nào chia rẽ lứa. Ngoài nội uyên kia cùng chắp cánh, trên nương én nọ chẳng lìa đôi. Trong mây kết bạn liệng ngang trời. Nghĩ chim ríu rít, tủi người lẻ loi. Ôi chim có đôi, người sao lẻ bạn. Chăn đơn gối chiếc em biết cùng ai than thở chuyện trăm năm? Đời em phận mộc cánh chuồn, tóc tơ ngắn ngủi cùng anh không có phúc nối duyên lâu dài. Nhưng gieo chanh, rắc ớt chua cay lòng trẻ, để rày chếch mác dở dang... Cũng bởi tại khuôn xanh kia đã quá say lừa lọc. Trời ơi! ba sinh hương lửa đã có duyên kiếp ái ân bạn đời. Ví dầu chẳng để trăm năm nữa, cũng cho xuân thu đắp đổi độ vài mươi năm cho cam tấm lòng trẻ thì khăn túi. Nỡ nào chắt chiu em mới một xuân quân đã đem sinh ly tử biệt chia phôi bước đường. Con còn trong cữ chưa ra rốn, rộ qua bể cạn chưa hoàn hồn, anh đã vội vàng dứt áo ra đi. Ôi! ra đi nào phải đi gần, dặm đường Âu Mỹ ngàn trùng nước non. Buổi tiễn đưa, nhìn anh rồi lại nhìn con. Chén quan hà những uống lệ mà cay!...

Gió mưa chim chẳng lìa đôi,/ Giữa đường ân ái nào người lẻ duyên./ Lai sinh nguyện chuyển cánh uyên,/ Cao bay chẳng để khôn thiêng lọc lừa.

Anh ơi! một năm qua mấy thời xuân, bốn mùa trăng để mấy rằm trong thu? Trăng đẹp khi tròn, hoa thơm khi úa. Đời xuân xanh ai trẻ mãi ru mà! người yêu hoa đem lòng luyến ái khách. Say trăng chén rượu vui mời, nhưng thêm 3 vạn 6 nghìn ngày, sinh thư cõi trần ai không hơn gì mộng cảnh. Cho nên thương hoa xuân ta cảm trắng thu tàn. Đã mang tấc dạ yên say, khách chung tình không nỡ để vì mình mà trăng sầu hoa tủi. Em nay vì anh mà đến nỗi nửa chừng xuân. Tơ liễu còn xanh mà nửa lần tâm sự, đã sang thu rồi...

Than ôi! anh đi chẳng lại, đã đành rằng duyên kia dang dở. Những ngày xanh quãng vắng em đợi chờ ai?

Ngày xanh luyến tiếc xuân dài,/ Oanh đưa liễu đón duyên ai đi về./ Xuân vui đôi lứa đề huề,/ Sầu xuân say tỉnh tê mê một thời./ Xuân xanh duyên đã phai rồi,/ Đời xuân thôi cũng là đời bỏ đi...

Anh ơi! hờn xuân em lại hận trời. Trời đa đoan phũ phàng con trẻ. Nơi dở dang này em biết than thở với ai đây? Theo duyên những ước duyên may, em có ngờ đâu giữa đường đứt gánh chung tình. Anh đi để lại cho em những ngày mưa sầu gió thảm! Con anh măng sữa, em còn thơ ngây. Cuộc đời trăm đắng ngàn cay. Trông vào ai, cậy vào ai? Thấy gian nan chân chồn bước ngại. Tới lui đã dở, nắng mưa dễ biết lánh vào đâu? Đường mây vỗ cánh, chiều bóng mát cây cao. Chim kia còn hơn em có tổ, hôm mai đi về. Buông con mắt trông bốn phía trời, em chỉ biết ngậm ngùi rưng rưng nước mắt mà không biết đâu là nơi hy vọng được tháng ngày ấm no. Năm theo anh, em mười bảy thơ ngây, đào tơ sen gió, ái ân thuở đó, đem ngày xanh hẹn tuổi bạc đầu”.

Thực ra trong lòng bà Tương Phố, tuy thời gian xa cách chồng và chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi nhưng bà vẫn có niềm tin và hy vọng đến ngày vợ chồng hội ngộ vinh quang. Bà Tương Phố như muốn phân trần với chồng là người vợ hiền bao giờ cũng luôn luôn nghĩ tới chồng và muốn cho chồng mình được công thành danh toại. Vì vậy nên gian nan khổ cực mấy cũng gắng chịu đựng:

“Em những chắc cùng nhau đôi lứa thiếu niên. Bắc Nam dù cách trở, hương lửa vẫn nồng nàn thì nay dầu xa xôi, mai rồi lại gặp gỡ, và nước non còn đó, đâu hết cơ duyên. Nên chi con thơ măng sữa em chăm chút, chẳng phiền cha mẹ, chẳng phiền anh, rắp mong để yên lòng khoa danh gặp hội, anh đua bước. Một mai nam nhi toại chí. Dưới bóng tùng quân, em cũng được nở nang mày mặt”.

Rồi bà không ngờ niềm tin và hy vọng của bà đã tiêu tan hết khi nghe tin người chồng thân yêu của mình không còn nữa. Bà quay cuồng than khóc đau đớn, thương tiếc cho số phận của chồng và của mình rồi oán trách sự đời quá bạc bẽo:

“Than ôi! những cậy mình tuổi trẻ khinh li biệt. Em nào có học đến chữ “ngờ” mà biết trước sinh ly tử biệt đoạn trường dồn nhau. Sự duyên càng nói càng đau....

Nhưng cũng tưởng đầu xanh tuổi trẻ ái ân còn dài thì rồi đây sum họp âu sẽ có ngày cùng nhau hàn huyên kể lại mối sầu chia phôi. Nào hay đâu ông tạo hoá cơ cầu, xui nên vật đổi sao dời trong phút chốc. Đương đau đớn xa nhau, bỗng lại khóc mất nhau!...

Ôi, tin đâu xé ruột, xé lòng!... Mảnh giấy xanh đưa đến tận nơi: Ngày hai mươi nhăm tháng bảy năm Canh Thân (1920) là ngày anh tạ đất tạ trời, cướp công cha mẹ, dứt tình vợ con, lìa rẽ anh em, chia đường kim cổ. Một gánh nợ đời trút cả cho người còn lại!

Chao ôi! lưng trời sét đánh, em thật đã chết cả đời người. Thôi thế thì thôi! một dải khăn ngang, năm thân gấu xổ, trăm năm tâm sự còn nói năng gì! Con anh nào biết mặt cha, thân côi cút trái đào 3 tuổi, từ nay em dạy, em nuôi. Khoảng trời đất không mong gì thấy bố! Nghĩ mà thương xót cho con... nhà không nóc, mưa gió mai ngày, cuộc đời xoay xở biết toan sao? Đoạn trường em lại biết bao nhiêu giăng mắc. Con còn trẻ thơ, lo ăn, lo mặc, lo học, lo hành... Khi con khôn lớn lại phải lo sao cho thành danh phận để chen vai nối gót với đời. Nghĩ như thân em sức vóc liễu bồ, cánh vây không có, hai bàn tay trắng, đức tài cũng không, một mình mẹ goá nuôi con, em biết lo liệu sao cho tròn phận ấy?”.

Trong niềm xót xa, tuyệt vọng đó, bà vẫn có lúc liên hệ so sánh chuyện tình trong trời đất như để than vãn với linh hồn của người chồng quá cố với những lời đầy chân thành tình nghĩa nặng sâu:

“Anh ơi! anh mất đi để lại cho em bao nhiêu nỗi dở dang ở đời. Dầu em có nghĩ liều: mặc đời cua máy, cáy đào, nỗi dở dang âu đành chẳng bận. Nhưng tình nhớ thương khuây khoả sao đây! Ra về vắng vẻ, tháng ngày khăn áo cũ còn hình dung bóng dáng anh. Khoảng trời đất non buồn, nước lạnh. Người đi biền biệt, kiếp này còn gặp nhau đâu nữa mà mong!

Trên mây kia là Ngưu Chức chia phôi cũng đoạn trường, những khóc nhau rồi lại có ngày thấy nhau. Em khóc anh mấy thu nay lệ đã đắm lòng, người đành không lại, mộng sao chẳng về?... Nghĩ đau duyên ấy lại hờn với Ngâu!

Thu về đẹp lứa duyên Ngâu,/ Trăm năm Ô Thước bắc cầu Ngân giang./ Đôi ta ân ái lỡ làng,/ Giữa đường sinh tử, đoạn tràng chia hai./ Anh vui non nước tuyền đài,/ Cõi trần hương lửa riêng ai lạnh lùng./ Nhân gian khuất nẻo non bồng,/ Trăm năm nào thiếp tấm lòng bơ vơ...”

Tuy tâm trạng của bà trong thời đoạn này rất buồn bã, hoang mang không biết lo liệu cuộc đời ra sao, nhưng bà không gục ngã trước hoàn cảnh và số phận của mình. Bà cố bình tâm nhìn cảnh vật thiên nhiên để khuây khỏa nỗi lòng nhớ thương và tự an ủi cho mình mà gắng sức để sống nuôi con khôn lớn trưởng thành nhằm giữ lại một kỷ niệm thương yêu duy nhất huyết nhục của người chồng quá cố.

“Anh ơi! chung cảnh thu này, Đông Tây Nam Bắc biết bao người cảm thu. Nhưng lòng ai thu hẳn như em! mà mây chiều vấn dạ, gió mai lạnh lùng. Như em, mỗi khi hạt sương giao là lệ thẳm, một lần lá rụng là một mảnh tình sầu. Thu càng thảm, sầu càng tăng. Anh ơi! em nghĩ đến về với anh mùa thu. Mất anh cũng lại mùa thu. Cho nên năm lại năm, cứ độ thu sang thì em lại bồi hồi nhớ trước, tưởng xưa mà lòng thu một tấm cũng ngây ngất sầu!

Anh ơi, giọt lệ khóc thu, em chỉ vì anh mà năm năm lai láng... Than ôi, thu sang thu não lòng người biết bao!

Sầu thu nặng, lệ thu đầy,/ Vi lau san sát, hơi may lạnh lùng./ Ngổn ngang trăm mối bên lòng,/ Ai đem thu cảnh hoạ cùng thu tâm”

Chúng ta có thể nói rằng, bài Giọt lệ thu của nữ sĩ Tương Phố đã nổi tiếng vang xa và thấm sâu lâu dài trong lòng bạn đọc của nhiều thế hệ, nhiều tầng lớp của xã hội. Như vậy thật là đáng quý đáng trân trọng! Giọt lệ thu của Tương phố là lối văn thơ giao thoa uyển chuyển thật độc đáo, mới mẻ. Mặc dầu nó không nổi bật về ý nghĩa lịch sử và văn hóa lắm nhưng nó có một giá trị về xã hội nhân văn rất cao. Đó là được nhiều người trong xã hội lúc bấy giờ đã tìm thấy sự đồng cảm của tâm hồn và tình nghĩa con người.

Xin trích một đoạn trong cuốn “Từ điển Văn học” (T2 Nxb, KHXH, 1984, tr.491) về nhận xét đánh giá chung văn thơ của Tương Phố mà tiêu biểu là Giọt lệ thu như sau:

“Tương Phố đã góp vào bộ phận văn chương hợp pháp 30 năm đầu thế kỷ XX một tiếng khóc ảo não. Ít nhiều bà có làm sống lại tâm trạng người chinh phụ trong văn học quá khứ. Bà cũng tiếp nhận âm hưởng tiếng khóc của bao nhiêu văn nhân thi sĩ qua nhiều bài văn tế, văn điếu, bài vãn của nhiều đời. Nhưng nỗi đau xót bất hạnh của bà có nhiều sầu thảm, vô vọng hơn, cũng nhuốm màu sắc hiện đại hơn, vì trong đó không chỉ có nỗi đau riêng mà còn gói cả “Trời sầu” của thế hệ thanh niên tiểu tư sản thành thị Việt Nam trong những năm sau Đại chiến I...”.

Như vậy, vai trò của nữ sĩ Tương Phố trong văn chương dân tộc chủ yếu gắn với tác phẩm Giọt lệ thu - một trong những dấu ấn khó phai mờ trong lịch sử văn chương ở thập niên thứ ba của thế kỷ 20 như là tiếng than kêu xót xa, da diết của con người hòa trong không khí buồn đau chung của thời đại. Khi đọc những đoạn văn tâm tình than vãn của bà xen lẫn trong Giọt lệ thu cũng chứa đầy âm điệu hồn thơ. Chính vì thế mà nó có khởi sắc một lối thi pháp khá mới mẻ cho việc phát triển phong trào thơ mới sau này “Một thời đại mới trong thi ca” dân tộc - thời đại của thơ mới lãng mạn với sự xuất hiện những gương mặt các thi nhân tiếng tăm như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Cù Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Thế Lữ v.v.

Phủ Cam, Huế tháng 5 năm 2010
N.H.T
(262/12-10)











Trở về 




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả. 
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua. 












Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015

Dạ Ngân













Dạ Ngân

Tên thật: Lê Hồng Nga
(1952 - .......) Hậu Giang
Bút danh khác: Lê Long Mỹ, Dạ Hương
Nhà văn

















"Tôi ngồi giữa Sài gòn mà vẫn nhớ Sài gòn"
19/1/2013












Tiểu sử



Họ và tên thật: Lê Hồng Nga. Sinh ngày 6-2-1952. Quê quán: Vĩnh Viễn, Long Mỹ, Hậu Giang. 

Năm 1966 (14 tuổi) vào Cứ bắt đầu viết tin, làm báo. 

Khi vào Cứ mới học xong cấp hai, sau hòa bình (4/1975) tiếp tục học bổ túc văn hóa, tự học, tự đọc.

Mãi năm 1993 (41 tuổi) mới đi học đại học (trường Viết văn Nguyễn Du)

 Làm việc cho báo Văn nghệ từ 1995 .

 Trưởng Ban văn xuôi của tuần báo Văn Nghệ từ năm 2005 đến năm 2008. 

Hiện nghỉ hưu tại cư xá Thanh Đa - TP. Hồ Chí Minh.








Văn học theo như tôi nghĩ:

Văn chương, đó không chỉ là nghề như mọi nghề mà còn là con đường khổ ải cho những người đàn bà cầm bút. Dù vậy, vẫn hơn, vì con đường ấy cho người ta sự cô độc tối cao, niềm tin dai dẳng và có thể khóc cười thoải mái một mình.

Văn chương hoàn toàn xứng đáng được coi như đạo, vì sứ mệnh giải bày và cứu rỗi của nó. Tôi mộ Đốt, đó là tác giả người ta có thể đọc ở mọi thời kỳ, mọi giai đoạn của cuộc đời. Có lẽ vì vậy mà tôi không dung hoà được với những gì nhè nhẹ, thoang thoáng, đèm đẹp. Tận cùng, đó là phương châm sống, phương châm viết của tôi và tôi không lùi bước khi phải trả giá. Nhưng tôi có sự ôn hoà của người miệt vườn và thích được ứng xử ôn hoà, để được yên tĩnh và thanh thản mà tận cùng với văn chương.


Dạ Ngân










Tác phẩm mới nhất








Nxb Phụ Nử  2016









Một vài nét về bản thân Dạ Ngân




Dạ Ngân 20 tuổi



Tự thuật tiểu sử văn học 

Tôi tuổi Nhâm Thìn, 6 tháng 2 năm 1952. " Trai Đinh, Nhâm, Quý thì tài. Gái Đinh, Nhâm, Quý thì hai lần đò". Quê gốc tôi ở miệt vườn cổ Cao Lãnh sông Tiền nhưng vì ông nội tôi thích thi thố nên đưa tất cả anh em giạt xuống tận Cần Thơ để phỉ chí nghề vườn. Tôi là phụ nữ miệt vườn chính cống và tôi luôn tự hào về điều đó.

Tuổi thơ tôi được bảo bọc bằng nghề vườn, cây vườn và nhà nội, trong đó vai trò quyết định thuộc cô tôi, người đàn bà goá đã ở vậy đến già để chăm nuôi bầy cháu cho ba tôi đi kháng chiến. Cho đến khi ba tôi bị tù, án khổ sai Côn Đảo rồi chết trong xà lim thì tôi thuộc về cô tôi hoàn toàn, tâm hồn và tính cách ấy đã quyết định tư chất tôi. ở vào vùng hành lang giữa căn cứ kháng chiến tỉnh với căn cứ kháng chiến Khu Chín, gia đình tôi không có sự lựa chọn nào khác cho các chị em gái nhà tôi : tất cả phải đi vào Cứ tham gia đánh giặc, con đường của cha tôi. Lý tưởng đã được đơn giản hoá thành thù nhà rồi sau mới là nghĩa nước.

Ngay từ hồi ở Cứ, lúc tôi che đèn lén đọc "Sông Đông êm đềm", cuốn sách thời đó bị coi là “có vấn đề chính trị và đạo đức”, những người lớn tuổi trong toà báo bảo sớm muộn gì tôi cũng viết văn. Tôi để ngoài tai những lời tiên tri, chiến tranh khiến người ta chỉ ước mình thoát chết mỗi ngày, sau đó cái gì chả được! Và tôi thường xuyên xấu hổ vì bị phê bình chính thức hoặc không chính thức rằng tôi lãng mạn, tôi đa sầu đa cảm và có kiểu sinh hoạt tiểu tư sản !

Năm 1978, vì nhiều nguyên do nội tâm, tôi thấy mình phải viết. Còn nhớ, hôm ấy là một buổi trưa, căn hộ tập thể vắng tanh, tôi ngồi trước trang giấy mà tay kia vẫn nắm dây đưa võng cho con, đó là đứa con thứ hai của cuộc hôn nhân do chiến tranh thu xếp. Tôi hết sức tin mình - chắc ai cũng phải có niềm tin thiêng liêng như vậy mới viết được - tin vào sự thúc bách lương thiện của trái tim mình. Tạp chí Văn Nghệ tỉnh in truyện ấy vào số Tết, giờ tôi không dám đọc lại nó nhưng quả tình, lúc nhìn thấy cái truyện đầu tay của mình trên mặt báo, tôi tưởng mình vừa uống cả dòng sông rượu, ngây ngất và có thể làm được mọi điều tốt đẹp trên đời.

Từ bộ phận làm tin thuộc Sở văn hoá thông tin tỉnh Hậu Giang, tôi được chuyển sang Hội văn nghệ tỉnh sau truyện ngắn ấy. Đầu năm 1982, lần đầu một truyện ngắn của tôi được in trên tuần báo Văn Nghệ của Hội nhà văn và tháng tư năm đó tôi được mời đi dự Trại sáng tác của Hội ở Vũng Tàu. Tại đây, giữa mấy thế hệ nhà văn tên tuổi Nguyên Ngọc, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Quang Thân, Nhật Tuấn, Nguyễn Mạnh Tuấn...tôi như người được vỡ hoang, tôi tin vào văn chương và cũng tin hơn vào bản thân mình. Cũng tại đây, cuộc đời rồng rắn đưa tôi bước xuống một con đò khác. Đời tư của tôi đóng vai trò rất lớn trong công việc của tôi, ngược lại văn chương cũng không rời tôi trong mọi chặng đường do chính tôi thiết kế và xả thân cho nó. Tôi viết nhiều, viết đều đặn trong tâm trạng bị người đời đàm tiếu kỳ thị, nhiều lúc, dư luận chính giới xem tôi như cô Anna trong mắt họ, đó là lúc tôi thấy rõ giá trị của cô đơn và niềm đau khổ đích thực của nghệ sĩ. "Quãng đời ấm áp", "Con chó và vụ ly hôn"... tôi viết trong tâm thế chênh vênh quyết liệt của nhà tiểu thuyết bị xã hội con người đối xử bất công, oan ức.

Năm 1987, tôi được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam và con đò thứ hai đã đưa tôi đi thật xa miệt vườn của mình, nhưng đó là hành trình thuận theo nhiều nghĩa. Cuối cùng tôi cũng được tu nghiệp bốn năm ở Trường viết văn Nguyễn Du, cũng được sống trong bầu không khí của văn hoá cội nguồn, giữa Hà Nội từng cưu mang chúng tôi, hai nhà văn hai con người khốn khó trong thời kỳ đi tìm một chỗ dừng chân để tồn tại cùng với văn chương.






















TUYÊN BỐ TỪ BỎ HỘI TỊCH HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
Tôi, DẠ NGÂN, sinh ngày 6/02/1952, tham gia Hội Nhà Văn năm 1987 xin tuyên bố: TỪ BỎ HỘI TỊCH HỘI NHÀ VĂN VN từ hôm nay 09/05/2015 vì thấy HỘI NHÀ VĂN VN không còn là tổ chức tin cậy với hội viên nữa..

TPHCM 09/05/2015
Dạ Ngân 















Danh mục tác phẩm đã xuất bản





Truyện ngắn:



1
Quãng đời ấm áp
tập truyện - Nxb Phụ Nữ 1986



2
Con chó và vụ ly hôn
tập truyện - Nxb Hội Nhà văn 1990



3
Cõi nhà
tập truyện - Nxb Thanh Niên 1993



4
Dạ Ngân truyện ngắn chọn lọc
Nxb Văn Học 1995



5
Dạ Ngân & Nguyễn Quang Thân
tập truyện - Nxb Phụ Nữ 1997



6
Nhìn từ phía khác
tập truyện - Nxb Hà Nội 2002



7
Tản mạn hồn quê
Tạp văn - NXB Phụ nữ 2007



8
Nước nguồn xuôi mãi
Tập truyện - NXB Phụ nữ 2008 








Tiểu thuyết:


9
Ngày của một đời
tiểu thuyết - Nxb Văn Nghệ tp Hồ Chí Minh 1989.



10
Mẹ Mèo
tiểu thuyết (cho thiếu nhi) - Nxb Kim Đồng 1992. 



11
Miệt vườn xa lắm
truyện dài - Nxb Kim Đồng 1992. (In lần thứ ba tính đến tháng 6/2006). Giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam 2004.



12
Gia đình bé mọn
tiểu thuyết – Nxb Phụ Nữ tháng 7/2005. (In lần thư 4 năm tính đến tháng 3/2008). Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2005.








Kịch bản phim:




13
Chuyến đi của mẹ
kịch bản phim nhựa sản xuất 1988.



14
Chân trời nơi ấy
kịch bản phim nhựa 2 tập sản xuất 1995.






















Dạ Ngân 1970


















Dạ Ngân & nhà văn Nguyễn Quang Thân










Hs Phan Nguyên, Gs Nguyễn Đăng Mạnh, Gs Hồ Quốc Hùng, 
Nv Trương Văn Dân, Nv Itala Pucillo, Nv Dạ Ngân 
(Nv Nguyễn Quang Thân bấm máy)
Sài Gòn 2013




















Trở về










MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.