Thứ Ba, 22 tháng 11, 2016

Dương Thụ














Dương Thụ

(10/2/1943 - .....) Hà Nội
Nhạc sĩ

Thể loại Nhạc nhẹ, Pop, Soul
Ca khúc tiêu biểu:
Cho em một ngày, Vẫn hát lời tình yêu, Mặt trời dịu êm, Hơi thở mùa xuân, Tháng tư về, Phố mùa đông, Họa mi hót trong mưa, Nghe mưa, Gọi anh, Lời tôi ru, Em đi qua tôi







“ "Tôi giấu các bài hát của mình nhưng giấu mãi không được.
Có người nói âm nhạc của tôi có chút gì đó giống Phạm Duy mà Phạm Duy thì chỉ có một nên tôi xấu hổ lắm. Mọi người cứ hỏi tôi viết nhạc theo phong cách gì, tôi nói mình chẳng có phong cách gì. Nhạc của tôi có chút gần với cổ điển, một chút gần với dân gian và một chút gần với nhạc nhẹ.
Vì thế, giới trẻ có thể thích, nông dân cũng nghe và những người có học vẫn thưởng thức. Tôi có một chút trong 3 thứ đó nhưng không phải là cả 3. Tôi gọi nó là kiềng 3 chân để tạo nên một Dương Thụ." ”









Dương Thụ lúc trẻ



Dương Thụ sinh ngày 10 tháng 2 năm 1943, là một nhạc sĩ đã đi vào đời sống của âm nhạc Việt Nam đương đại với những tình khúc êm ái, nhẹ nhàng, ca từ tinh tế và tình cảm. Những sáng tác của Dương Thụ khúc chiết, trữ tình, có phong cách riêng độc đáo không thể lẫn lộn, mang hơi thở của âm nhạc hiện đại nhưng vẫn phảng phất âm hưởng của âm nhạc truyền thống dân tộc và những sáng tác ấy đã trở nên vô cùng quen thuộc với khán giả Việt Nam từ những thập niên 80 - 90 trở lại đây. Ông còn có các bút danh khác: Trần Xuân Nam, Vân Đình, Ái Nhạc.

Những nhạc phẩm của Dương Thụ luôn đón nhận được sự yêu thích của khán giả và tạo được dấu ấn riêng. Có nhiều ca sĩ đã từng thể hiện những sáng tác của ông nhưng nhiều nhất và nổi tiếng nhất vẫn là Thanh Lam và Hồng Nhung.






Tiểu sử

Dương Thụ sinh năm 1943 tại thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội, thuộc gia tộc họ Dương danh giá có hai cụ cố đỗ tiến sĩ triều Nguyễn và làm quan nhà Nguyễn: Dương Khuê và Dương Lâm tức 'cụ Thiếu Vân đình'. Ông là cháu họ nhạc sĩ của Dương Thiệu Tước và Giáo sư Tiến sĩ Dương Thiệu Tống. Do sinh ra trong gia đình địa chủ, nên trong cuộc cải cách ruộng đất, gia đình ông đã li tán, do đó ông phải tự mình kiếm sống để đi học.

Trong những năm cấp 3, ông học piano với gia đình nghệ sĩ Thái Thị Sâm tại trường âm nhạc tư thục của cụ Lưu Quang Duyệt ở Hà Nội. Năm 1965, ông tốt nghiệp Khoa Văn - Đại học Sư phạm Hà Nội, sau đó đi lên dạy học cấp 3 ở Tuyên Quang. Sáng tác đầu tiên của ông được biết tới là Nhớ làng xưa, được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1962.[1]

Năm 1972, ông thi đỗ vào Khoa Sáng tác của Nhạc viện Hà Nội (cùng đợt với Nguyễn Cường và Trần Tiến), tuy nhiên do những rắc rối về hành chính nên năm thứ hai Đại học ông phải trở về Tuyên Quang làm giáo viên dạy Văn tại trường Thanh niên Lao động XHCN Tuyên Quang (Nay là trường THPT ATK Tân Trào thuộc huyện Sơn Dương)

Năm 1978, ông chuyển vào miền Nam, làm Giảng viên khoa lí luận Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 1982, ông chuyển sang hoạt động âm nhạc chính thức, vừa sáng tác vừa chỉ đạo nghệ thuật cho nhiều đoàn biểu diễn, rồi làm biên tập cho Nhà xuất bản Âm nhạc và Ðĩa hát Việt Nam, Tạp chí Âm nhạc của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

Vào thập niên 1990, những sáng tác của ông bắt đầu được công chúng biết đến và đón nhận. Hàng loạt ca khúc của ông được phát trên sóng phát thanh truyền hình, xuất hiện trong nhiều chương trình, băng đĩa, được rất nhiều ca sĩ thể hiện như Lệ Quyên, Thanh Lam, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Bằng Kiều,... Tháng 6 năm 2005. Theo ông chia sẻ: "Hồng Nhung là người hát nhạc của tôi hay nhất (Album Bài hát ru cho anh, Ngày không mưa, Khu vườn yên tĩnh)", sau đó là Mỹ Linh. Nhiều ca sĩ trẻ được ông kỳ vọng là Khánh Linh, Nguyên Thảo,... Chương trình "Con đường âm nhạc số 2" mang tên "Im lặng" đã được tổ chức để vinh danh ông.

Người bạn đời của ông là Phạm Thị Thu Thủy, nữ phóng viên Báo Thể thao & Văn hóa.







Đánh giá về Dương Thụ
“ Dương Thụ là nhạc sĩ có cảm xúc trước, có nhạc lý sau. Hình như một ngày nào đó, anh phát hiện ra có thể dùng âm nhạc làm công cụ. Chỉ đơn thuần công cụ thôi, anh không tha thiết với việc lau chùi và đánh bóng nó, khác hẳn với kẻ keo kiệt lau chùi sợi dây chuyền vàng. ”

— Lê Hoàng [2]

“ Ưu điểm lớn nhất của Thụ, cũng theo tôi, là anh có cái nhìn trẻ thơ trong sự vật. Anh mở mắt to tròn nhìn Chim họa mi trong khi kẻ khác ở thế hệ anh giương mắt nhìn đại bàng hay nhìn quạ. ”

— Lê Hoàng [2]

“ Và cũng là Hà Nội cho ông một con người của... vỉa hè. Dương Thụ yêu vỉa hè Hà Nội, yêu cuộc sống bình dị của Hà Nội. Mỗi khi trở về, việc đầu tiên Dương Thụ làm sau khi xuống khỏi máy bay là đến một quán nước vỉa hè để ngồi, uống nước và hút thuốc lào. Dương Thụ khoe, ông biết nhiều người bán nước vỉa hè và nhiều chủ quán vỉa hè cũng không còn lạ mặt nhạc sĩ. Và những sáng tác của Dương Thụ về Hà Nội đều là những gì bình dị, của gió sông Hồng thổi, của áo len cài vội, của cánh hoa đào vội phai... ”

— Gia Vũ [3]



“ Lý giải về sự yêu mến của công chúng dành cho âm nhạc của mình, nhạc sĩ Dương Thụ cho biết: "Âm nhạc của tôi có bóng dáng của âm nhạc dân gian, nhạc trẻ và cả nhạc thính phòng. Nhưng cuối cùng không là dòng nào trong số đó. Mỗi người yêu âm nhạc của tôi vì tìm thấy một thể loại người ta thích. Nông dân thích nhạc của Dương Thụ vì chất dân gian, người trẻ thích nhạc của Dương Thụ vì nó trẻ trung, có tiết tấu và trí thức thích nhạc của Dương Thụ vì có chất thính phòng". ”

— Dương Thụ


Hà Nội rất đời thường trong Dương Thụ:
“ "Tôi yêu Hà Nội vỉa hè. Mỗi lần ra đây tôi thích được sà vào hàng nước, uống nước trà, nói chuyện với những người bán nước, bán hoa quả. Hà Nội cứ tự nhiên vào trong tôi như thế. Tôi không có cái hào hoa của người Hà Nội mà có chút chân thành, bình dị của người lao động." ”

— Dương Thụ















Tác phẩm




















Nhạc




Bài ca tuổi hai mươi

Bài hát buồn

Bài hát ru cho anh

Bài hát ru mùa đông

Bài hát ru mùa hè

Bài hát ru mùa thu

Bài hát ru mùa xuân

Bài hát ru ngày nắng

Bây giờ biển mùa đông

Bay vào ngày xanh

Biển ngày mưa

Bóng tối ly café

Ca dao đêm Giáng Sinh

Cầm tay mùa hè

Cho em một ngày 

Có thấy tôi tuổi 15

Cửa sổ mùa đông

Ðánh thức tầm xuân

Để tôi lắng nghe

Ðưa mưa trở về

Điều còn mãi

Đi về cuối biển

Em đi qua tôi

Giọt sương

Gọi anh

Gửi mùa đông

Hầm sâu đưa võng ru con

Họa mi hót trong mưa

Hương cau

Hy vọng 

Hơi thở mùa xuân

Im lặng

Lại gần bên em

Lắng nghe mùa xuân về

Lời tôi ru

Mặt trời êm dịu

Mây trắng bay về

Mơ về mẹ

Mong về Hà Nội

Ngày mưa hãy đến với em

Nghe mưa

Nhớ làng xưa

Ô kìa nắng

Ở lại mùa đông

Phố mùa đông

Ru trưa

Suối và cỏ

Tìm em 36 phố phường Hà Nội

Tiếng mưa để lại

Tiếng nước róc rách

Tiếng sóng

(Ru em bằng tiếng sóng)

Ước muốn

Tháng tư về

Vẫn hát lời tình yêu

Vườn gió

Trở về

Tiếng võng

Xa xăm






















Văn


Cà phê... mưa




CÀ PHÊ … MƯA

Tản văn của Cà phê và Sách

Viết nhân đọc tập tản văn “Cà phê … mưa” của Nhạc sĩ Dương Thụ

Cà phê – Mưa – Dương Thụ, với tôi, nếu cộng gộp lại sẽ tạo thành một lời mời gọi vô cùng tự nhiên và quyến rũ. Vì thế, tôi hoàn toàn “fall in love” tập tản văn này ngay khi gặp trong nhà sách. Và, như bao lần “ôm” được cuốn sách đúng gu, tôi say sưa nhấm nháp từng trang, từng trang suốt đêm qua.

Trời ơi, không thể nào diễn tả được đâu. Cảm giác cuộn mình trong chăn đọc “Cà phê … mưa” vào một đêm mưa giữa mùa mưa Sài Gòn sao mà giống hệt cảm giác được ngồi thưởng thức một tách cà phê nâu đậm – sóng sánh – nồng nàn bên người đàn ông mình yêu thương và tin cậy trong đêm Giáng Sinh ở Đà Lạt. Sự ngây ngất ấy chiếm lĩnh mình một cách dịu dàng và xao xuyến lạ, từ từ, từng chút một, làm mình khép mắt lại và thả lỏng bản thân, rồi êm đềm trôi vào cơn mơ nào đó trong tiếng mưa tí tách, rì rào. Và … lại thấy tâm hồn mình bỗng như một mảnh đất khô cằn cựa mình hồi sinh sau cơn mưa. Và … những nỗi nhớ nhung biến thành hạt mầm đồng loạt đâm chồi nảy lộc trên mảnh đất hồi sinh ấy.

Nhưng, “Cà phê … mưa” cũng như mọi cốc cà phê khác trên đời này, đều để lại vị đắng thật lâu khiến tôi phải nghĩ ngợi, và day dứt.

Tôi nghĩ ngợi, vì liệu tôi có thực sự đang sống và được sống một cách đúng nghĩa trong cái thời đại mà theo cách nói của Dương Thụ là “tất thảy mọi người như đang tham gia vào một cuộc đua 100m đến cái đích THÀNH ĐẠT”?

Tôi day dứt, vì hình như không chỉ Dương Thụ biết đừng nghĩ suy quá vội, đừng sống quá vội, vẫn còn đó những ước mơ đẹp đẽ khác để ta theo đuổi chứ không chỉ có “cuộc đua 100 mét” kia. Tôi cũng biết điều đó. Và nhiều người khác cũng biết điều đó. Vậy tại sao tất cả những xói mòn về niềm tin, những mất mát về tình yêu, những giá trị về đạo đức cứ “chết dần khi còn đang sống” vẫn đang ngày ngày diễn ra trong sự thở than, nuối tiếc nhưng thờ ơ và bất lực?


VIẾT TRONG MƯA

Trích “Cà phê … mưa” – Dương Thụ

Tôi không có áo mưa, nên trốn mưa trong một quán nhỏ.

Cà phê mưa, chỉ có mình tôi cùng dãy bàn im lặng, và có lẽ cả hàng triệu giọt mưa nữa, ngoài kia. Chúng đang rơi để tạo nên tiếng đàn mưa, trên mái phố nghèo.

Cô bán quán ngán ngẩm vì trời mưa, nên tắt nhạc. Thế là thoát nạn. Bây giờ chỉ còn thứ âm nhạc thật sự, thứ âm nhạc tinh khiết của trời đất: nhạc mưa.

Nhạc mưa có nhiều bè. Tiếng mưa gần xối bên hiên quán dào dạt, tiếng mưa xa ầm ào mơ hồ, và tiếng mưa rỏ giọt xen vào đếm nhịp trong chiếc xô nhôm cô chủ quán vừa đem ra hứng nước…

Cả ngày bị cầm tù trong nhạc máy (thứ nhạc được chế tạo từ các phòng thu tối tân ở Hoa Kỳ mang nhãn hiệu hải ngoại, uốn éo, rên rỉ, giả vờ yêu, giả vờ đau khổ). Thoát ra khỏi nó không phải là chuyện dễ. Hàng xóm, hễ cứ mở mắt là mở nhạc, nghe. Nhào ra ngoài đường đâu cũng có nhạc, nghe. Chui vào quán để làm việc, nghe. Đến nhà bạn, chị vợ tức tốc bật nhạc để khoe dàn máy xịn, phải nghe! Ôi… cho nên tôi phải thầm cảm ơn mưa. Cái im lặng tuyệt đỉnh do âm thanh dữ dội của mưa rơi mang lại đã trả cho tôi phút được trở về mình, được đọng lại cái nội-tâm-người hiếm hoi, vâng, thật hiếm hoi trong thời buổi khuấy động của âm thanh mưu sinh thường nhật.

Tôi sống một mình và hay nhớ những cái vớ vẩn trong những lúc mưa như thế này. Nỗi nhớ ấy có tên là Mưa, nó như một bài hát không lời. Làm sao chuyển dịch được những hạt mưa bé tí vào cái không cùng của tâm tưởng. Làm sao…?


Có lẽ Paul Mauriat đã làm được khi ông soạn cho dàn nhạc bản Transparent.

Và “Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi…” của Đặng Thế Phong, có lẽ…

Ta nghe trong những nhạc phẩm ấy nỗi u hoài xa rộng của kiếp người mang tên Mưa và cái cảm hoài về một thời người tủi nhục mang tên Mưa…

Vẫn mưa.

Cơn mưa kéo dài làm lạnh cả buổi chiều, khiến tôi phải thu mình lại trong chiếc áo gió sờn cũ

Mùa thu đến rồi chăng? Kỷ niệm…

Thuở ấy, bạn bè dăm ba người cùng lứa tụ tập trong quán nước đầu phố. Miếng ni lông che quán không đủ cho cả lũ nên mưa thấm ướt vai áo, bắn vào mặt mát lạnh, tỉnh người. Chén chè nóng bốc khỏi ủ trong lòng bàn tay. Khói thuốc lá Tam Đảo bay vào trong mưa, thơm mùi năm tháng cũ. Đãi đằng nhau một chén nước năm xu, một bài hát ru mới làm, vài câu thơ nhặt nhạnh được đâu đó. Chia nhau từng mẩu thuốc đen và cả khát vọng dâng hiến cho nghệ thuật.

Kỷ niệm …

Mưa thì bao giờ cũng thế, không có tuổi, không diện mạo, không lời lẽ. Còn chúng ta, có được những cái để mà nhớ nhung, để mà nhìn ngắm, để mà nói, chúng ta già đi mỗi ngày, có khi già đi chỉ sau một cơn mưa như thế này.

Cô chủ quán lặng lẽ thay chiếc xô đầy nước bằng một chiếc chậu thật lớn.

Nhưng cơn mưa đã tạnh.

Vậy mà nhạc mưa vẫn còn đó trong tiếng nước mái hiên rỏ giọt tí tách …

Mưa đi rồi.

Đi xa rồi.

Mưa để tiếng lại … 

























Chú thích



^ N.H (17 tháng 7 năm 2010). “Nhạc sĩ Dương Thụ ra mắt…tản văn”. Báo điện tử Dân trí. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011.

^ a ă Lê Hoàng (Theo Đẹp) (11 tháng 3 năm 2009). “Lê Hoàng 'bàn' về Dương Thụ”. Ngoisao.net. Bản gốclưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011. Theo Đẹp

^ a ă Gia Vũ (25 tháng 4 năm 2010). “Liveshow Dương Thụ: Bùi ngùi một vỉa hè Hà Nội”. Báo điện tử VTC News. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011.

^ a ă Lương Trần (25 tháng 4 năm 2010). “Sâu lắng đêm nhạc Dương Thụ”. Ngoisao.net. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011.



Tham khảo

Liên kết ngoài
Mỹ Hiền (thực hiện), Nhạc sĩ Dương Thụ: Không ai học được chữ ngờ, Báo Công An Nhân dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và Văn nghệ Công An, cập nhật ngày 06/02/2011, truy cập ngày 13/2/2011.















Những Sáng Tác Hay Nhất Của Nhạc sĩ Dương Thụ

















Với Ca sĩ Mỹ Linh










Với ca sĩ Hồng Nhung









































(Nguồn: tổng hợp internet)











Trở về








MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua. 









Thứ Hai, 14 tháng 11, 2016

Lê Văn Đệ (1906 - 1966)











Lê Văn Đệ

Tên khai sinh: Lê Văn Đệ
Nghệ danh Celso-Léon Lê văn Đệ
(24/8/1906 Bến Tre - 16/3/1966 Sài Gòn)
Hưởng dương 59 tuổi

Họa sĩ


Đào tạo:
Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
École Nationale Supérieure des Beaux Arts (Pháp)
Trào lưu Tân cổ điển

Tác phẩm:
Bà thầy bói, Trên sân ga Montparnasse, Thiếu nữ điểm trang, Trong gia đình, Thánh mẫu nhân từ, Thánh nữ Madeleine dưới chân thánh giá, Thiếu nữ ngủ ngày


Giải thưởng Giải nhì Hội họa của Hội Nghệ sĩ quốc gia Pháp 1933
Giải nhất Hội họa Triển lãm Báo chí Công giáo Thế giới 1936

Ông là thủ khoa khóa I trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1930 và cũng là Giám đốc đầu tiên của trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn (1954-1966). Ông là người chịu trách nhiệm trang trí cho lễ đài tại Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945.







Thân thế

Họa sĩ Lê Văn Đệ sinh ngày 24 tháng 8 năm 1906, tại Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình khá giả. Cha của ông là ông Lê Quang Hòe, cai tổng Minh Đạt, hàm Tri huyện, xuất thân là một nhà nho và là một nhà Đông y có tiếng. Lê Văn Đệ là người con thứ 10 trong gia đình 13 anh chị em.

Xuất thân từ gia đình Nho giáo. Lúc nhỏ, ông học trường tiểu học ở quê nhà. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông được cho lên Sài Gòn, theo học tại trường Trung học Lasan Taberd.

Ông ham thích nghệ thuật hội họa từ nhỏ. Thời học trung học, ông đã được bạn bè ngợi ca về tài vẽ nhanh và đẹp. Mỗi ngày sau khi tan học, ông đến học vẽ với họa sĩ Huỳnh Đình Tựu.

Sau khi đậu bằng Cao đẳng Sơ học (Brevet Élementaire), gia đình khuyến khích ông ra Hà Nội học trường Luật hoặc trường Thuốc như phong trào thời bấy giờ, tuy nhiên ông thể hiện ý nguyện theo học ngành Mỹ thuật. Năm 1925, ông thi vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (École Supérieure des Beaux Arts de l'Indochine) tại Hà Nội và là một trong số 8 học sinh nhập học khóa đầu tiên của trường.[1]

Trong những năm theo học ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ông luôn được xếp vào hạng sinh viên xuất sắc của trường. Năm 1930, ông tốt nghiệp thủ khoa. Sở trường của ông là tranh lụa, tranh sơn dầu và bích họa với khuynh hướng tân cổ điển. 

Năm 1931, ông nhận được học bổng của hội SAMPIC[2] sang Pháp theo học trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Pháp (École Nationale Supérieure des Beaux Arts) tại Paris, dưới sự hướng dẫn của giáo sư J.Pierre Laurence về vẽ tranh sơn dầu. Trong thời gian học tại Paris, nhiều tác phẩm của ông đã gây được sự chú ý trong giới nghệ thuật. Năm 1933, ông đoạt được giải nhì cho hội họa do Hội Nghệ sĩ quốc gia Pháp tổ chức với 3 tác phẩm Bà thầy bói, Trên sân ga Montparnasse, Thiếu nữ điểm trang. Tranh ông được chọn triển lãm tại phòng số 1 - một gian phòng dành cho những tài năng xuất sắc chọn từ 5.000 họa sĩ các nước. Có hơn 40 tờ báo Pháp lúc bấy giờ đã đề cập đến tác phẩm của ông (theo Đông Dương tuần báo). Trong cuộc triển lãm Nghệ sĩ quốc gia Pháp năm 1934, Bộ Văn hóa Pháp đã chọn mua ngay một bức tranh "Trong gia đình" của ông để treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg.

Với thành tích này, ông được nhận tiếp một học bổng đi tu nghiệp thêm về hội họa tại Roma (Ý) và Athena (Hy Lạp). Năm 1936, ông được Giám mục Celso-Costantins, Thư ký Bộ Truyền giáo Vatican rửa tội với tên thánh Celso-Léon Lê văn Đệ. Cũng trong năm này, tại cuộc Triển lãm Báo chí Công giáo Thế giới (World Catholic Press Exhibition) được tổ chức tại Rome, với sự tham gia của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của 30 quốc gia trên thế giới, cùng với danh họa Bouleau (Pháp), tác phẩm của Lê Văn Đệ được tặng giải nhất (1st prize). Hai bức bích họa (fresco) tựa là Thánh mẫu nhân từ (Mater amabilis) và Thánh nữ Madeleine dưới chân thánh giá được đưa vào lưu trữ viện Bảo tàng Vatican. Ông được Tòa Thánh La Mã bổ làm họa sĩ cho Tòa Thánh và được mời phụ trách một nhóm 11 kỹ sư và 20 họa sĩ làm nhiệm vụ vẽ, chạm trổ, trang hoàng trong điện Vatican. Công trình do ông chỉ đạo thực hiện đã được báo chí Ý và nhiều nước đánh giá cao.

Năm 1938, ông trở về nước, vừa sáng tác vừa tiếp tục nghiên cứu hội họa dân tộc và các nền hội họa phương Đông. Bức tranh "Thiếu nữ ngủ ngày" của ông là một tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ 
Năm 1942, ông quy tụ các họa sĩ tài danh lúc bấy giờ, lập ra nhóm Nghệ thuật An Nam (F.A.R.T.A - Foyer de l'Art Annamites), tổ chức nhiều triển lãm gây tiếng vang lớn, với những tác phẩm đi vào lòng người như: bức tranh lụa "Rèm thưa", "Mẫu Tử"… tại Hội chợ Triển lãm Mỹ thuật Quốc tế lần I ở vườn Tao Đàn Sài Gòn. Nhiều họa sĩ đàn em của ông cũng sinh hoạt tại đây như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông về Sài Gòn sinh hoạt với Trung tâm Nghệ thuật Việt Nam, mà tiền thân chính là Nhóm Nghệ thuật An Nam do ông sáng lập. Ông cũng là người vẽ lại cờ vàng ba sọc đỏ trình lên quốc trưởng Bảo Đại để chọn trong mấy mẫu cờ làm quốc kỳ Quốc gia Việt Nam. Lá cờ này được chính phủ Nguyễn Văn Xuân công bố ngày 2 tháng 6 năm 1948.



Sự nghiệp đào tạo

Với sự thành lập Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn năm 1954, ông được chính phủ Việt Nam Cộng hòa bổ làm giám đốc trường cho đến năm 1966 khi ông mất. Trường này đã đào tạo nhiều họa sĩ danh tiếng ở Miền Nam như Lê Thành NhơnĐỗ Quang Em.

Ông qua đời ngày 16 tháng 3 năm 1966 tại Sài Gòn. Để vinh danh và tưởng nhớ đóng góp của ông, năm 1973, trường Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn cho dựng bức tượng chân dung đặt ở sân trường do điêu khắc gia Lê Thành Nhơn thực hiện. Sau năm 1975, bức tượng đã bị dỡ đi, tuy nhiên vẫn được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho đến ngày nay.



Chú thích

1/ Trong đợt thi tuyển đầu tiên này có tất cả 400 người dự tuyển và chỉ lấy tuyển 8 người. Ngoài Lê Văn Đệ, còn có Nguyễn Tường Tam, Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Lê Ang Phan, Công Văn Trung và George Khánh. Trong số này, trừ Nguyễn Tường Tam và Lê Ang Phan bỏ dở việc học, 6 người còn lại đều tốt nghiệp.
2/ SAMPIC - Société d'Amélioration Morale, Intellectuelle et Physique des Indigènes de Cochinchine: Hội Đức Dục, Trí Dục và Thể dục của người bản xứ Nam Kỳ






Tác phẩm tiêu biểu







Tác phẩm “Trưa Hè”
rất nổi tiếng của ông được vẽ năm 1954 tại Hà Nội









Tác phẩm "Thiếu nữ bên cầu ao"





































































 "Ba cậu bé" 









Tác phẩm “Trong Gia Đình” (1934) cũng có bố cục mẹ bồng con nằm võng và thêm nhiều nhân vật, đã triển lãm tại Milan (Ý) và được Bộ Trưởng Thương Mại Pháp Lamoureux mua về để treo tại Viện Bảo Tàng Luxembourg










Tác phẩm "Thánh nữ bồng Thánh trẻ hài nhi" 











Tưởng Nhớ Họa Sĩ Lê Văn Đệ (1906-1966)
họa sĩ Đinh Cường


Lê Văn Đệ là Giám Đốc đầu tiên của trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Sau khi trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương thành lập tại Hà Nội năm 1925 dưới quyền Giám Đốc của Victor Tardieu. Trường này hoạt động cho đến năm 1945 thì đóng cửa.

1954, Hiệp định Genève chia đôi đất nước; do đó một số giáo sư và sinh viên di cư vào Nam đã tổ chức một Hội Nghị Tối Cao Toàn Quốc họp tại Gia Định, thỉnh nguyện lên chính phủ thành lập một trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật. Do theo bản thỉnh nguyện ấy, ngày 31 tháng 12 năm 1954, Thủ tướng Chính Phủ đã ký nghị cho phép thiết lập trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định và bắt đầu hoạt động.

Ông là một họa sĩ tài danh, tốt nghiệp thủ khoa khoá I trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dươngvào năm 1930. Khóa I gồm tám sinh viên trong số bốn trăm thí sinh của các xứ Đông Dương thuộc Pháp (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Lào và Campuchia), Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ, George Khánh, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Công Văn Trung, Nguyễn Tường Tam và Lê Ang Phạm. Sau đó, dù chỉ có sáu người theo đuổi đến cùng, còn Nguyễn Tường Tam (nhà văn Nhất Linh) và Lê Ang Phan thì bỏ dở không theo học hết khoá.

Lê Văn Đệ sinh ngày 24 tháng 8 năm 1906 tại Mỏ Cày, Bến Tre, trong một gia đình phú hào. Thân sinh là cụ Hàm Tri Huyện Lê Quang Hòe, nguyên cai tổng Minh Đạt (Bến tre). Thân sinh ông vốn là cựu học và là một nhà đông y có tiếng. Gia đình có mười ba người con. Lê văn Đệ thứ mười, nên ở nhà có tên là Dix (Mười).

Học trung học tại trường Taberd, Saigon và đậu bằng Cao Đẳng Sơ Học (Brevet Élementaire), gia đình khuyến khích ra Hà Nội học trường Luật hoặc trường Thuốc, ông đều không thích. Chỉ thích thi vào Mỹ Thuật. Ông có năng khiếu hội họa từ nhỏ. Sau khi rời trường Taberd, mỗi ngày ông đến học vẽ với họa sĩ Huỳnh Đình Tựu.

Sau năm năm học tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương Hà Nội với các giáo sư Victor Tardieu, Joseph Inguivaberty. Ra trường được học bổng của hộâi SAMPIC (Société d'Améloration Morale, Intellectuelle et Physique des Indegènes de Cochinchine: Hội Đức Dục, Trí Dục và Thể Dục của người bản xứ Nam Kỳ) ông tiếp tục theo học trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Pháp (École Nationale Supérieure des Beaux Arts). Đáng lẽ phải vào học lại từ lớp Dự Bị, nhưng nhờ có thư giới thiệu của Victor Tardieu và một số tranh của ông đem theo từ Việt Nam qua nên được nhận vào học vào năm thứ nhất ngay. LạÏi thêm được giáo sư Viện Sĩ Jeans Pierre Laurens (Membre de l'Institut) nhận dạy riêng ở xưởng vẽ về tranh sơn dầu. Nên buổi sáng học ở trường; buổi chiều về lại làm việc ở xưởng vẽ của họa sĩ J.P. Laurens. Ông tiến bộ quá nhanh, nhiều tranh giá trị ra đời lúc này. Gởi tranh dự thi nhiều nơi, được rất nhiều giải thưởng. Lần tiếng tăm vang dội nhiều nhất là đoạt giải nhì cuộc triển lãm lớn do Hội Nghệ Sĩ Quốc Gia Pháp tổ chức tại Paris, ngày 1 tháng 5 năm 1932. Ông đã gởi dự ba (3) bức: "Mụ Thày Bói", "Bến Ga Monparnasse" và "Người Đàn Bà Cài Đầu".

Tranh của ông không nhiều, số lớn nằm trong các sưu tập ở Pháp, ở Ý. Một số chân dung vẽ rất tinh tế (các nhà phê bình thuờng ví nét vẽ chân dung của Lê Văn Đệ với Foujita; nhưng Lê Văn Đệ còn giữ được nét Á Đông hơn) . Các nhân vật trong tòa thánh Vatican như "Chân Dung Đức Giáo Hòang Pie XI", "Chân Dung Đức Hồng Y Verdier", ... một số chân dung các thiếu nữ người Ý, Pháp như "Mỹ Nhân Ở Capri" và "Chân Dung Tự Họa". Một số tranh nghiêng về đề tài tôn giáo như: "Thánh Mẫu Nhân Từ", "Thánh Mẫu Kiểu Á Đông", "Thánh Mẫu Madeleine" là những bức tiêu biểu. 
Rất nhiều báo chí trong lúc bấy giờ viết bài khen ngợi ông hết lòng. Bức "Bến Ga Montparnasse" được in vào sách và ông được nhận vào Hội Nghệ Sĩ Quốc Gia Pháp. Là nguời Á Đông đầu tiên vào hội cũng nhờ tài năng và tiếng tăm lừng lẫy đó, người họa sĩ trẻ Việt Nam, lúc ấy hai mươi lăm (25) tuổi, được một học bổng qua La Mã va Hy Lạp khảo sát và nghiên cứu. 
Xin được trích sau đây một đọan trong chương "Vào Vatican" trong quyển "Một Nhà Họa Sĩ Ta: Lê Văn Đệ" do Nguyễn văn Hanh viết và xuất bản tại Saigon năm 1939, cũng để đọc lại lối hành văn lúc ấy: 
"Năm 1936, Lê Văn Đệ được vào đền Vatican xếp đặt các gian phòng Đông-Pháp và luôn cả Á Châu. Từ Tiểu Á Châu, Thiên Trước, Mã Lai, Xiêm La, Nam Dương quần đảo, Trung Hoa, Nhật Bản đến Úc Châu trong cuộc Đấu Xảo báo chí toàn cầu sẽ mở ra năm ấy. 
Lê Văn Đệ chỉ huy kiến trúc, điêu khắc, trang sức, hội họa, gia cụ. Dưới quyền họa sĩ da vàng có một (1) nhà kiến trúc, một (1) nhà điêu khắc, ba (3) họa sĩ, một (1) kỹ sư, năm (5) tay trang sức và hai mươi (20) phu; cả thảy là người mũi cao da trắng!

... Cuộc Đấu Xảo này có trên ba mươi (30) nước dự. Sau ban trị sự định mỗi xứ gửi tài tử mình đến. Pháp sai qua nhà kiến trúc đại danh Hilt, có phần thưởng thành Rome, và nhà đại họa sĩ Bouleau.

Lê Văn Đệ được lãnh công việc trong tòa thánh, còn nhiều tài tử rành nghề lại không có, thật đáng phục tài. Xưa nay các tài tử có phần thưởng thành Rome chỉ mong ước được tòa thánh mướn mà thôi. Biết bao nhiêu người không được đắc vọng! Nay một họa sĩ ta vào được thì biết Lê Văn Đệ có tài quán chúng dường nào! Thầy của Lê Văn Đệ, ông Victor Tardieu, chưa được Vatican giao việc lần nào! Dầu vậy, lúc hay tin học trò mình làm công việc trong Vatican cũng như Raphael, Micheal Angelo, chắc ông cũng tự đắc lắm!

Làm trong Vatican bốn (4) tháng trường, từ chín giờ mai đến mười hai giờ khuya, chỉ xả hơi ba giờ để ăn uống. 
Khi làm xong, phần việc Lê Văn Đệ đẹp nhứt. Đáng để ý hết là bức tranh "Thánh Nữ Bồng Thánh Trẻ Hài Nhi" ... Đức Giáo Hòang bằng lòng đến đỗi Ngài cho vào yết kiến và cho hôn nhẫn. Được vào bệ kiến Đức Phalpha không phải dễ. Lại hôn nhẫn, trong đạo, cũng là một danh dự tối trọng ..." (Sách đã dẫn, trang 53) 
Sau gần mười năm ở Âu Châu, năm 1939, ông từ Paris về thăm gia đình và ở lại luôn, muốn đóng góp sức mình cho nghệ thuật đất nước. Cùng trong năm trở về này ông đứng ra thành lập hội Hội F.A.R.T.A (Foyer de l'Art Annamites: Nhóm Nghệ Thuật Annam) quy tụ các họa sĩ tài danh lúc bấy giờ như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Văn Tị ... Tổ chức triển lãm gây tiếng vang lớn, với nhiều tác phẩm giá trị.

Ngoài bột, màu, sơn dầu. Lê văn Đệ nổi tiếng nhất là lụa, cũng như Nguyễn Phan Chánh, người bạn đồng khóa với ông. Nhưng hai tính chất của hai bực thầy về tranh lụa Việt Nam khác nhau. Tranh Lê Văn Đệ óng chuốt, có tính đài các, quí phái, ngược lại tranh Nguyễn Phan Chánh tạo mặt phẳng dẹt, giữa một gam màu nâu cố hữu, bình dị, mộc mạc, mang đầy âm sắc quê hương. Tranh lụa của hai ông này rất hiếm, khó tìm thấy.

Năm 1942, công chúng yêu nghệ thuật ở miền Nam lần đầu tiên được xem tận mắt bức tranh lụa "Rèm Thưa" của ông tại Hội Chợ Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế lần thứ nhất năm 1962, to chức tại vườn Tao Đàn, Sài Gòn. được thưởng lãm bức "Nắng Hè" rất nổi tiếng của ông. Bức tranh lụa này ông vẽ năm 1954 tại Hà Nội. Năm 1959, Sở Văn Hóa Thông Tin Hoa Kỳ đã in trang đầu quyển lịch Tết để tặng bạn đọc. Tấm tranh này làm nhớ lại bức sơn dầu của ông vẽ năm 1934: "Trong Gia Đình" cũng bố cục mẹ bồng con nằm võng và thêm nhiều nhân vật, đã triển lãm tại Milan (Ý) và đã được Bộ Trưởng Thương Mại Pháp Lamoureux mua về để treo tại Viện Bảo Tàng Luxembourg.

Ông là một họa sĩ Á Châu đầu tiên có tranh ở đó. Cùng thời với ông, lúc ấy, tên tuổi họa sĩ Nhật Fujita đã lẫy lừng khắp nơi, cũng chưa có cái vinh dự ấy.

Tưởng nhớ họa sĩ bậc thầy Lê Văn Đệ, mong sao có một quyển sách riêng về ông, cũng như họa sĩ lỗi lạc Nguyễn Gia Trí, hai tên tuổi lớn ở miền Nam, chưa được nghiên cứu và phồ biến nhiều ...

Trong "Các Họa Sĩ Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương" do Nhà Xuất bản Mỹ Thuật Hà Nội in năm 1993. Tác giả Nhuyễn Quang Phòng, đã không công bằng khi nhắc đến các họa sĩ đã từng tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương ở miền Nam. Nhất là hai vị Giám Đốc của hai trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định và Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế: Lê Văn Đệ và Tôn Thất Đào, chỉ nhắc qua vài dòng về Lê Văn Đệ và không thấy in tranh của hai ông. Còn nhiều họa sĩ, giáo sư như: Nguyễn Văn Long, Lưu Đình Khải, Lê Yên, U Văn An ... đều tốt nghiệp ở Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương tuyệt nhiên bị quên lãng ... 
Bà Lê Văn Đệ nghe nói hiện cũng đang ở Mỹ, và những họa sĩ trong các khóa đầu tiên tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định do vị thầy khả kính Lê Văn Đệ hướng dẫn hiện sống tại Mỹ, có thể kể: Nữ Họa Sĩ Trương thị Thịnh, Vũ thị Ngà ... ở Bắc California, Nguyễn Thanh Thu, Nguyễn Trung; ở Nam California , Thái Bá (đã về sống tại Huế), Nguyễn Văn Minh (Virginia), Nguyễn Tánh Đệ (Hiếu Đệ) ở Michigan ... và nhiều khóa kế tiếp xuất thân từ "Lò Lê Văn Đệ"rất nổi tiếng hiện nay như: nhà điêu khắc Lê Thành Nhơn (vừa mất tại Úc ngày 1 tháng mười một năm 2002), Đỗ Quang Em, Nguyễn Trung, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Lâm ... (Việt Nam). Nguyễn Phước (Minesota), Nguyễn Khai, Nguyễn thị Hợp ... (Nam California và nhiều họa sĩ nổi tiếng khác nữa ...

Chúng ta còn giữ được những kỷ niệm gì về Thầy? Tôi không xuất thân từ trường Mỹ Thuật Gia Định, nhưng có hai năm trong hai giai đoạn ngắn học ở đó: năm Dự Bị và năm Sư Phạm . Còn nhớ, năm 1959 vào học lớp Dự Bị, tại dãy nhà sau trại gia binh, giờ trang trí ngồi bàn với Hồ Hữu Thủ, Mai Chững ... Những người vẽ Hình Họa khá, được lên vẽ cùng năm thứ nhất, vào tuần lễ tập vẽ than (fusain). Cuối tuần được thầy Lê Văn Đệ vào sửa bài. Làm Giám Đốc nhưng đích thân dạy lớp căn bản nhất, tôi nhớ mãi. Đó là một người thầy sửa bài hay nhất. Chỉ cần một nét quệt, ngón tay của Thầy vào bài thấy ngay chỗ sai, nét than bay bớt đi, nét nhấn khối đậm thêm, hình vẽ mới được chắc, độ đậm nhạt cũng rõ ràng ...

¨Là một họa sư bậc thầy về tranh lụa Việt Nam. Am hiểu sâu rộng nghệ thuật phương Tây cũng như phương Đông. Luôn để tâm trí và tấm lòng mình trong việc giáo dục , đào tạo lớp môn sinh nối tiếp. Có công lớn sáng lập lại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định, đặt nền móng vững chắc cho Nghệ Thuật Hiện Đại Miền Nam. Có thể mượn lời của nhà viết lịch sử hội họa nghiêm túc là Huỳnh Hữu Uỷ để kết luận:

"Sự đóng góp của ông quả là khá lớn. Đối với thế giới, ông đã làm vẻ vang cho giống nòi, đối với trong nước thì ông đã xây dựng được một đội ngũ nghệ sĩ tài năng để nhân lên mãi cuộc sống phong phú, đa dạng, có gốc gác và rất hiện đại."

Virginia, Tháng Hai, 2003 
Đinh Cường

Ghi Chú Thêm: 
- Lê Văn Đệ, là một người công giáo thuần thành, từ năm 1939, ông đã được Đức Cha Celso - Costantins, thư ký toà truyền giáo Vatican làm lễ rửa tội, ông có tên thánh là Celso - Léon. 
-Những báo và sách có viết về Lê Văn Đệ: 
Pháp: 
·Le Journal des Débats (29 Avril 1932) bài của Pierrens 
·L'oeuvre ( 3 Mai 1932) bài của Tabarrant 
·Les Artistes d'Aujourd'hui ( 15 juin 1932) bài của A. Pascal Lévis 
·La Revue Moderne Illustrée des Arts et De La Vie (15 Sept. 1932) bài của Clement Morro 
·Le Temps ( 29 Avril 1931) bài của Th. Sisson 
·Gallaria Pesario - Milano - Esposizione del Pittore Indocenese Le Vande (1934) tác giả: Anselmo Bucci 
Việt Nam: 
·Báo Đồng Nai số 14 (ngày 1 tháng 9 năm 1932) bài phê bình triển lãm Lê Văn Đệ của Cử Nhân Đoàn Quan Tuấn

·Lục Tỉnh Tân Văn (ngày 19 tháng 10 năm 1934) 
·Nam Kỳ Điạ Phận số 1411 (ngày 16 tháng 7 năn 1936) 
Sách: 
·Nguyễn Văn Hanh: Một Nhà Họa Sĩ Ta: Lê Văn Đệ (xuất bản năm 1939. Saigon) 
·Nguyễn Văn Phương: Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại (Nha Mỹ Thuật Học Vụ Bộ Giáo Dục Việt nam Cộng Hòa ấn hành năm 1962) 
·Huỳnh Hữu Uỷ: Địa Chí Văn Hóa TP Hồ Chí Minh (nhà xuất bản TP. HCM.1990) 











Giáo Sư Lê Văn Đệ và họa sĩ Trương Thị Thịnh












Giáo Sư Lê Văn Đệ và các sinh viên Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định










QUỐC KỲ QUỐC GIA VIỆT NAM VÀ VIỆT NAM CỘNG HOÀ.

Kế thừa quốc kỳ triều Nguyễn dựa trên quẻ ly, sọc đứt nằm giữa hai sọc liền; thời kỳ Quốc gia Việt Nam đứng đầu là quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim, đã tiến hành vẽ lại quốc kỳ Việt Nam.

Công việc đó được giao cho hoạ sĩ Lê văn Đệ, một hoạ sĩ trứ danh thời bấy giờ và cũng là người tham gia vào việc dựng lễ đài Ba Đình cho ông Hồ Chí Minh trong dịp 2 tháng 9, 1945. Ông Đệ, xuất thân là gia đình quý tộc trí thức, cha là cai tổng Lê văn Hoè đồng thời cũng là thầy lang có tiếng, gia đình khá giả. Ông học trung cấp ở Saigon, trường dòng danh tiếng thời bấy giờ cho học sinh khá giả, La San Taberd (nay là trường Trần Đại Nghĩa); tốt nghiệp xuất sắc, ông ra Hà Nội thi vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (École Supérieure des Beaux Arts de l'Indochine) và thuộc 8 sinh viên đầu tiên của trường; tốt nghiệp, Đệ đỗ thủ khoa năm 1930. Vì quá xuất sắc, ông có học bổng du học Pháp ngay sau đó, năm 1933 ông nổi danh trong giới hoạ sĩ tại Pháp khi đoạt giải nhì do Hội nghệ sĩ quốc gia Pháp tổ chức. Tranh của ông treo danh dự ở phòng triển lãm số 1, là phòng duy nhất dành cho những tài năng thời đó trên tổng số 5000 hoạ sĩ. Gần 40 tờ báo Pháp phải nhắc về ông Đệ cùng tranh của ông. Danh tiếng đến mức, Bộ văn hoá Pháp phải mua một bức tranh về treo tại phòng làm việc. Danh tiếng ông Đệ chưa dừng ở Pháp mà lan tận sang Roma, ông có học bổng tiếp tục việc học ở Roma. Ở đây, ông gia nhập hội thánh với tên thánh là Celso-Léon Lê văn Đệ. Cùng năm đó, ông Đệ đoạt giải nhứt cuộc thi Triển lãm Báo chí Công giáo Thế giới (World Catholic Press Exhibition) ngang hàng với danh hoạ Pháp là Bouleau. Ông được toà thánh mời làm hoạ sĩ riêng cho toà thánh, danh dự đó chỉ dành cho 20 người.

Bảy năm sau, ông Đệ về nước, năm 1938. Ông thường xuyên nghiên cứu văn hoá nghệ thuật nước nhà, lập nên nhóm nhóm Nghệ thuật An Nam (F.A.R.T.A - Foyer de l'Art Annamites) để nâng đỡ đám hoạ sĩ đàn em, trong đó có cả Tô ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Trần văn Cẩn v.v. 

Chính quyền Bảo Đại mời ông Đệ vẽ lại quốc kỳ, ông đã sử dụng hai màu căn bản của quốc kỳ trước đó. Tránh không quẻ Ly, ông sử dụng quẻ càn. Dường như ông Đệ đã lồng ghép vào đó nhiều ý nghĩa: Quẻ càn tượng trưng cho trời, đại diện cho người cha, mang ý nghĩa sáng tạo và còn có biểu tượng là cái đầu, hàm ý nhắc đến lý trí; đồng thời, ba nét màu đỏ tượng trưng cho 3 miền; màu sắc vàng-đỏ, ý nghĩa da vàng máu đỏ. Nhưng đồng thời là người Công giáo, ba vạch còn hàm nghĩa Chúa ba ngôi. Quốc kỳ này được Việt Nam Cộng Hoà kế thừa nhưng ba nét liền được làm dầy hơn.
.
Năm 1945, ông Đệ bị quân Việt Minh bắt và phục vụ cho chính quyền ông Minh. Khi đào thoát khỏi miền Bắc, ông vào Saigon và trở thành giám đốc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn cho đến năm 1966, ông mất. Hoạ sĩ Lê Thành Nhơn tạc tượng ông đặt ở khuôn viên trường năm 1973 để ghi nhớ công lao. Sau 1975, chính quyền gỡ nó mang đi, cùng chung số phận với pho tượng nhà bác học Trương Vĩnh Ký, ngày nay vẫn còn trong khuôn viên nhà chú Hoả, tức Bảo tàng Mỹ thuật.

Kết quả, toàn bộ di sản của ông Đệ dành cho Việt Nam bị xoá sạch, kể cả quốc kỳ miền Nam. Cho đến ngày nay, dường như giới hoạ sĩ trẻ biết rất ít về danh hoạ Lê văn Đệ.

Chắc cũng ít người biết, bìa sách Chính đề Việt Nam dựa trên nền tảng màu sắc Da vàng-Máu đỏ mà ông Đệ đã sử dụng cho quốc kỳ Quốc gia Việt Nam. 


NXB Vô Danh

































Trở về






MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.