Dương Bích Liên
(17/7/1924 – 12/12/1988)
Hưởng thọ 64 tuổi
Hưởng thọ 64 tuổi
Hoạ sĩ
Dương Bích Liên là một trong nhóm tứ kiệt của làng hội hoạ Việt Nam (Hà Nội) Nghiêm, Liên, Sáng, Phái.
Tiểu sử
Xuất thân
Dương Bích Liên sinh tại Hà Nội trong một gia đình trí thức quan lại. Ông là con trai duy nhất của một quan tri phủ. Quê gốc của ông ở làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, phủ Khoái Châu (nay là thôn Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Dòng họ Dương của ông ở Khoái Châu có truyền thống hiếu học, thời nào cũng có văn nhân khoa bảng và những người đỗ đạt cao.
Bước ngoặt
Xuất thân trong một gia đình quyền thế và giàu có, nhưng năm 17 tuổi, ông trở nên yêu thích nghệ thuật, nảy ra ý muốn từ bỏ cảnh sống giàu sang để chạy theo cuộc đời gió bụi.
Năm 1941, Dương Bích Liên gặp họa sĩ Hoàng Lập Ngôn. Khi đó Hoàng Lập Ngôn vừa thiết kế xong chiếc xe ngựa và đặt tên cho chiếc xe tự chế của mình là Nhà Lăn Mê Ly, hoạ sĩ dùng chiếc xe ngựa kéo này làm phương tiện giao thông để đi vẽ người và trực cảnh khắp đó đây. Dương Bích Liên được họa sĩ Hoàng Lập Ngôn nhập hội, lên xe lăn xuyên Việt.
Chiếc xe "Nhà Lăn Mê Ly" tưởng sẽ phiêu du đất trời dài lâu nhưng chỉ lăn được đến Thanh Hoá thì quan phủ sai người đi truy tìm. Người nhà quan phủ tìm ra "Nhà Lăn Mê Ly" và áp giải cậu công tử về nhà.
Sau chuyến lãng du mang tính chất số mệnh đó, Dương Bích Liên quyết định ghi tên theo học Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Từ đây, Dương Bích Liên bắt đầu sự nghiệp hội họa.
Thời kì sáng tác
Dương Bích Liên là một trong những học trò cuối cùng của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ông học khoa Hội họa, khóa XVIII (1944-1945).
Năm 1946, Dương Bích Liên và nhiều trí thức văn nghệ sĩ Hà Nội tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông hoạt động ở đoàn kịch của Phạm Văn Khoa, Đoàn văn công của Nguyễn Xuân Khoát, vào Đoàn Văn hóa kháng chiến cùng với họa sỹ Tô Ngọc Vân, Thế Lữ..., làm báo " Vệ quốc đoàn".
Năm 1949, ông là một trong những hoạ sỹ đầu tiên được kết nạp Đảng tại vùng kháng chiến cùng một ngày với hoạ sỹ Mai Văn Hiến và nhà văn Trần Đăng.
Năm 1952, ông được giao trọng trách lên chiến khu sống gần và vẽ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác phẩm Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc đoạt giải nhất Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 1980 và hiện được bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc, 100x180cm, sơn mài, 1980
Năm 1954, Dương Bích Liên trở về tiếp quản thủ đô. Được tổ chức biên chế vào "tổ sáng tác" cùng các họa sỹ Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng...
Năm 1968, ông đi thực tế ở mỏ than Quảng Ninh cùng các họa sỹ: Nguyễn Tiến Chung, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Huỳnh Văn Gấm...
Giai đoạn sáng tác sung sức nhất của Dương Bích Liên là vào thập niên 70. Trong thời gian này, ông đã gửi các tác phẩm của mình tham dự triển lãm nhưng chúng sớm bị loại, như bức Hào và bức Bác Hồ nói chuyện với Vệ Quốc Quân. Riêng bức thứ 2, sau khi bị loại, người ta không còn thấy tăm tích tác phẩm này nữa. Bức tranh mô tả cảnh Hồ Chí Minh đang nói chuyện với người lính Vệ Quốc Quân ở trong Chiến khuViệt Bắc. Lý do bức tranh bị loại là họa sĩ đã vẽ người lính nhắm mắt trong khi vị lãnh tụ đang nói chuyện. Theo cách thanh minh của Dương Bích Liên, chỉ khi nào người ta extreme (cực sướng) thì người ta thường nhắm mắt. Nhưng vào thời đó, không ai dám nghe theo cách diễn giải của hoạ sĩ.
Người ta cho rằng ông đã tự ái và đau buồn vì sự lạnh nhạt của nhân thế đối với những tác phẩm của mình, thế nên về cuối đời ông đã gần như không có hứng thú sáng tác nữa.
Năm 1984, Nhà nước chính thức mời bộ tứ Nghiêm, Liên, Sáng, Phái tổ chức triển lãm cá nhân. Riêng Dương Bích Liên từ chối. Do vậy, lúc sinh thời, ông là một họa sĩ không có cuộc triển lãm nào cho riêng mình.
Những ngày cuối đời
Trước khi mất vài chục ngày, Dương Bích Liên bảo bạn ông là Nguyễn Hào Hải mang ông trở về 55 Bà Triệu. Ông muốn được chết ở nhà của mình. Dương Bích Liên lựa chọn một cái chết lặng lẽ, không bệnh tật, không đau ốm mà tịch cốc không ăn chỉ uống rượu.
Trong 20 ngày sau cùng của họa sỹ, Nguyễn Hào Hải là người duy nhất thường xuyên qua lại thăm nom bên cạnh họa sỹ. Sau khi Dương Bích Liên mất, Hào Hải đã có bài viết về 20 ngày cuối cùng của họa sỹ Dương Bích Liên đăng trên tạp chí Mỹ thuật.
Trước khi chết, Dương Bích Liên có một ước nguyện: "Sau này, trong cái ngày tiễn đưa tôi về bên kia thế giới, tôi không muốn có ai là người lớn, tôi muốn đưa tiễn tôi là một đứa bé ăn mặc thật đúng điệu. Chỉ có đứa bé ấy, đi lững thững bên chiếc xe ngựa chở cái xác không hồn của tôi ra nghĩa trang".
Dương Bích Liên mất khoảng 9h sáng ngày 12 tháng 12 năm 1988. Tối hôm trước đó, Nguyễn Hào Hải trò chuyện với họa sỹ gần 2h đêm mới trở về nhà. Phan Kế Bảo, người hàng xóm của họa sỹ lên gọi cửa không còn nghe thấy tiếng họa sỹ trả lời, nhòm qua khe cửa thấy cánh tay của họa sỹ buông thõng xuống giường. Ông vội vã lên Viện Triết học báo tin cho Nguyễn Hào Hải.
Đám tang của Dương Bích Liên người ta không thể làm theo ý nguyện của ông. Vài tháng sau khi họa sỹ mất, các nhà làm phim dựng lại toàn bộ đám tang của người bạn tri âm tri kỷ mà họ yêu mến. Trong phim, có một bé trai ăn mặc điệu theo kiểu châu Âu, lững thững sau xe ngựa chở cỗ quan tài, vừa đi vừa rắc những cánh hoa xuống hai ven đường, trong khung cảnh của trời chiều mùa thu.
Dương Bích Liên & Bùi Xuân Phái
Con người
Trong nhóm tứ kiệt Nghiêm, Liên, Sáng, Phái, Dương Bích Liên ít được nhiều người biết đến bởi ông đã "tự nguyện chọn tiếng im lặng của hội họa làm bản thân". Ông sống cô đơn, thu mình lặng lẽ, trốn chạy chính mình và trốn chạy những khát vọng.
Dương Bích Liên sống không gia đình, không vợ con, không họ hàng, và ít bạn hữu. Căn nhà nhỏ ở 55 Bà Triệu của ông trống không, đồ đạc chỉ một chiếc giường nhỏ quanh năm phủ ga trắng muốt, một chiếc võng và một bàn một ghế độc nhất. Sinh thời, ông có rất ít bạn thân ngoại trừ Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng.
Nhà phê bình Phan Cẩm Thượng viết về Dương Bích Liên:
"Nếu cùng thời với các danh hoạ hàng đầu Trường Đông Dương, chắc ông còn mơ mộng hơn họ, bởi phẩm chất mơ mộng chiếm toàn bộ nghệ thuật của ông, dù đôi lúc trược trình bày dưới vẻ khắc nghiệt. Ông không bám vào một cảnh trí như Bùi Xuân Phái, không trầm kha vào các ý tưởng số phận như Nguyễn Sáng, mà tinh tế đứng bên ngoài cái mình vẽ ra vừa như là một sự kiện hiện hữu có thực, vừa như chuyện bịa, cảnh nằm mơ".
Sự nghiệp
Dương Bích Liên là một họa sĩ cách mạng đầu tiên trong làng hội hoạ Việt Nam. Là một hoạ sĩ tài ba, tâm huyết, Dương Bích Liên rất say mê vẽ, ngay cả trong những ngày chiến tranh diễn ra ác liệt nhất, ông cũng không rời giá vẽ. Sự nghiệp hội hoạ của Dương Bích Liên là một tài sản quý của kho tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Năm 2000, họa sỹ Dương Bích Liên được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt II).
Quan điểm nghệ thuật
Dương Bích Liên không có ý dày công cất giữ những sáng tạo của mình. Khi chết, ông muốn được đốt hết những bức tranh đã vẽ. Tác phẩm của ông còn lại ngày hôm nay là hàng trăm bức tranh, chủ yếu là do bạn bè quý mến ông và nâng niu cất giữ.
Trường phái hội hoạ
Dương Bích Liên dày công nghiên cứu các phong cách, trào lưu nghệ thuật thế giới. Ông thiên về vẽ chân dung, rất nổi tiếng với đề tài thiếu nữ. Mọi chất liệu đều được ông thể hiện nhuần nhuyễn, độc đáo, siêu thoát đặc biệt là các thể loại sơn mài, sơn dầu, phấn dầu và chì than.
Đề tài
Nhìn vào sự nghiệp sáng tác của ông có đến 2/3 tác phẩm về đề tài phụ nữ, trong đó có những tác phẩm là tuyệt tác của hội hoạ Việt Nam hiện đại, với thành ngữ của giới mộ điệu: " Phố Phái, Gái Liên". Dương Bích Liên dành nhiều sáng tác cho đề tài thiếu nữ với bao tình cảm ưu ái, say mê và trìu mến nhất. Các nhân vật nữ luôn là những nguồn cảm hứng, những hình ảnh trung tâm của những biểu cảm thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ. Chân dung thiếu nữ của ông rất đa dạng, là những cô gái đẹp ông nhận ra và bắt gặp trong cuộc sống đời thường, mang một ánh sáng dung dị, thánh thiện trong trẻo.
Tác phẩm nổi tiếng
Đi học đêm.
(sơn dầu)
Ngày mùa.
(sơn dầu)
Chiều vàng.
(sơn mài)
Chiều biên giới.
Lều hoang.
Dĩ vãng.
Hai em bé bên sông Hồng.
Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc
Hào.
Đi cấy sau mùa lũ.
Chân dung Thiếu nữ
Thiếu nữ và hoa phong lan.
Thiếu nữ bên hồ.
Thiếu phụ.
Chân dung.
Tuyết Mai.
Gửi lời chào Jacqueline Picasso.
Cuộc đời thầm lặng của danh họa Dương Bích Liên
Họa sĩ Dương Bích Liên của bộ tứ ''Nghiêm, Liên, Sáng, Phái'' nhiều lần từ chối Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức triển lãm cho ông.
Danh họa sống không vợ con, ít bạn bè. Ông thân thiết hai họa sĩ Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng. Trong căn nhà ở số 55 Bà Triệu, Hà Nội, đồ đạc của ông chỉ có một chiếc giường nhỏ luôn phủ ga trắng, chiếc võng, bàn và một chiếc ghế. Sinh thời, ông nói: ''Cô đơn là số phận của đời tôi''.
Câu chuyện về danh họa được giới mỹ thuật đúc kết trong chương trình Họa sĩ Dương Bích Liên - Ánh chớp thầm lặng tổ chức hôm 13/7, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông (1924-2024). Ông qua đời tháng 12/1988, ở tuổi 64.

Danh họa Dương Bích Liên.
Họa sĩ Lương Xuân Đoàn - chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam - cho biết sau Đổi mới, hội nỗ lực tổ chức triển lãm cho nhóm tứ kiệt hội họa nhưng không thuyết phục được ông Dương Bích Liên. Hai lần được hội ngỏ lời mời, ông chỉ im lặng hoặc cười trừ. Khi qua đời, danh họa chưa từng có một triển lãm cá nhân. Tới nay, tranh của ông không còn nhiều, bị phân tán khắp nơi.
Ở đời thường, danh họa thường giữ khoảng cách trong giao tiếp, khiến người đối diện cảm giác ông là người khó tính. Trong ký ức của ông Dương Hồng Quân - một người cháu, ông Dương Bích Liên sống giản dị, thường im lặng. Do vậy, với con cháu, ông vừa thân quen lại xa lạ. Trong 20 ngày cuối đời, họa sĩ chọn cách uống rượu, nhịn ăn. Trước lúc mất, ông chỉ thông báo cho một người bạn thân để nhờ lo hậu sự.
Nhiều năm gần gũi với ông, họa sĩ Đặng Thị Khuê - từng là Ủy viên Ban Thư ký Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam, nhận xét ông có lối sống ẩn dật và nhẫn nhịn. Vì vậy, ông dồn hết năng lượng, nhiệt huyết cho nghệ thuật.
Bạn yêu hội họa biết đến họa sĩ Dương Bích Liên qua những tác phẩm Chiều vàng, Mùa gặt, Hào, Hồ Chủ tịch qua suối. Bức sơn mài Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc của ông được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2017, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Sinh thời, họa sĩ từng có thời gian được ở gần Hồ Chủ tịch, nhờ đó ông mô tả được chân thực dáng vẻ, cử chỉ của lãnh tụ. Danh họa Tô Ngọc Vân từng nhận định họa sĩ Dương Bích Liên là người có khả năng vẽ chính xác thần thái của Hồ Chủ tịch. Bà Đặng Thị Khuê cho biết trước khi mất ba ngày, ông vẫn kể lại cặn kẽ những kỷ niệm với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tranh "Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc'' được ông Dương Bích Liên sáng tác năm 1980, lấy cảm hứng từ những ngày gần gũi Hồ Chủ tịch năm 1952. Ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Bên cạnh đó, ông thành công trong loạt tác phẩm chân dung thiếu nữ, với những nét vẽ đầy tình cảm và sự trân trọng dành cho phái đẹp. Giới mỹ thuật thường nói "Phố Phái, gái Liên'', cho thấy một trường phái tranh nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của danh họa Dương Bích Liên.
Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam nhớ một lần gặp họa sĩ ở tư gia của ông Nguyễn Tư Nghiêm. Khi thấy áo của ông Dương Bích Liên đứt cúc, một cô người mẫu đã giúp ông đơm lại. Ánh mắt biết ơn, trìu mến mà họa sĩ dành cho cô gái khiến ông Lương Xuân Đoàn không thể nào quên.
Xuyên suốt sự nghiệp, ông chỉ khắc họa hình ảnh những cô gái Hà Thành. Bà Hải Yến - nguyên mẫu bức Chân dung cô Yến của danh họa - nhớ mãi câu chuyện ông cứ vẽ xong lại xé giấy vì chưa ưng ý. Bà Yến từng có chút tự ái, nói: ''Nếu bác thấy cháu xấu quá, không xứng đáng để bác vẽ thì bác cứ nói thẳng với cháu''. Hai tháng sau, bà lại được họa sĩ gọi đến gặp. Khi ấy, bà không sửa soạn nhiều nhưng chỉ sau khoảng hai tiếng, ông Dương Bích Liên đã hoàn thành bức chân dung bà.

Tác phẩm ''Chân dung cô Yến''. Ảnh: Tư liệu
Họa sĩ Dương Bích Liên lớn lên trong gia đình có cha là quan tri phủ, họ hàng có nhiều người là trí thức, bác ruột là giáo sư Dương Quảng Hàm. Ông là sinh viên khóa cuối cùng của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Danh họa từng đoạt giải nhất triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1980 với sáng tác Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, nghệ thuật. Theo nhận định của họa sĩ Đặng Thị Khuê, tranh Dương Bích Liên dù chất liệu gì đều mang vẻ đẹp huyền ảo, bí ẩn, chứa nhiều khoảng trống khiến người xem ám ảnh, phải chiêm nghiệm.
Họa sĩ Dương Bích Liên : "Cô đơn là số phận đời tôi"
Họa sĩ Dương Bích Liên lúc cuối đời hay nhắc đến Van Gốc, họa sĩ người Hà Lan, người viết ra những dòng chữ cảm động: “Trong cuộc đời và trong cả hội họa, rất có thể anh bỏ qua không cần Thượng đế, nhưng anh, kẻ khổ đau, anh không thể bỏ qua không cần tới một điều cao xa hơn anh, chính là đời anh: Quyền năng sáng tạo” (9/1888).
Họa sĩ Dương Bích Liên lúc cuối đời hay nhắc đến Van Gốc, họa sĩ người Hà Lan, người viết ra những dòng chữ cảm động: “Trong cuộc đời và trong cả hội họa, rất có thể anh bỏ qua không cần Thượng đế, nhưng anh, kẻ khổ đau, anh không thể bỏ qua không cần tới một điều cao xa hơn anh, chính là đời anh: Quyền năng sáng tạo” (9/1888). Tôi không dám so sánh Dương Bích Liên với thiên tài Van Gốc, bởi danh họa này là của nền văn hóa nhân loại, hàng ngàn cuốn sách viết về ông ta và biết bao người đã khóc trước nét sơn quằn quại, đau thương như chính cuộc đời ngắn ngủi và bất hạnh ấy. Dương Bích Liên của chúng ta cô đơn, khắc khoải trong suốt cuộc đời vất vả, tuy nhiên ông đã sống 64 tuổi đời và nổi tiếng từ rất sớm.
Dương Bích Liên, Cô Mai, sơn dầu
Họa sĩ Dương Bích Liên là một họa sĩ người Hà Nội đã dẹp bỏ nhiều ham muốn dành cho một ham muốn sáng tạo: không vợ con, không say sưa vật chất, không tiền gửi tiết kiệm, không địa vị chính quyền, chưa một lần ra nước ngoài hoặc triển lãm riêng trong nước. Giữa một phố lớn đông vui mà cuộc sống của ông vẫn xa cách, ẩn dật, lặng lẽ trong đời sống và tư duy sáng tạo nghệ thuật. Trong căn gác nhỏ hẹp nơi ông ở chỉ là những tiện nghi tận cùng để sống: một chiếc giá vẽ sơn dầu, một bát sơn cánh gián, một chiếc giường cá nhân, một hai chiếc xoong nồi tối thiểu và một vài cuốn sách nước ngoài nguyên bản. Trong căn gác lúc nào cũng yên tĩnh, có cửa sổ lớn nhìn thẳng vào trời xanh, không quét vôi tường lại bao giờ, ngày tết không hoa cắm và cửa thường xuyên không khóa lúc ông đi bộ ra quán rượu ông quen, lúc ông đi vẽ xa … cứ thế ông sống đơn độc, xa lạ với những nơi tụ họp, những lễ nghi gặp mặt. “Cô đơn là số phận của đời tôi” ông nói vậy. “Tôi là kẻ bộ hành trên sa mạc, chẳng hiểu tôi sẽ vẽ ra sao những tác phẩm sắp tới”ông nói vậy.
Tôi là người trong số ít người quen ông, do yêu tranh ông, do tò mò và ngược với những lời đồn về tính cách, nói chuyện với ông thật thú vị. Dưới vầng trán cao là đôi mắt rất sáng và nụ cười hóm hỉnh. Một tài năng đích thực, một nhân cách lớn, mạnh mẽ không chịu được ngang trái. Ông bàn về nghệ thuật sắc sảo và sôi nổi, không né tránh: “Tôi không quan tâm đến ai cả. Khi buồn tôi chỉ nghĩ đến hai người: Nguyễn Sáng và Nguyễn Tư Nghiêm” Ông nói vậy. Bàn về một họa sĩ thời thượng được báo chí ca tụng, ông nói “Cách vẽ ấy là một cách bịp bợm”.
Dương Bích Liên, Hào, phấn màu
Dương Bích Liên là họa sĩ tham gia kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc, từng được giải nhất triển lãm toàn quốc 1980 với tác phẩm Bác Hồ qua suối ông còn vẽ các bức sơn dầu nổi tiếng Hành quân đêm, Hào, Khi mùa lúa chín, những bức sơn mài Chiều vàng, Sông Hồng, Hai thiếu nữ tuyệt đẹp.
Những năm tháng cuối đời, ông vẽ những thiếu nữ Hà Nội và ở mảng tranh chân dung sơn mài, sơn dầu này ông gửi gắm nhiều tình cảm đượm buồn, bởi thế nó sâu lắng và xúc động. Dương Bích Liên không vẽ con vật, ít vẽ phong cảnh nhưng một số tranh ông vẽ phong cảnh lại rất lớn, phần cây cỏ đất trời, sông nước bao la ẩn dấu những tương tư tình cảm của riêng ông.
Từ trái sang: Dương Bích Liên, Đặng Đình Hưng,
Trần Dần, Nguyễn Sáng
Dương Bích Liên là họa sĩ có tư tưởng, không thời thượng nên những tác phẩm độc đáo của ông lúc ra đời, số phận thật long đong, nhiều người khen chê, có kẻ la ó, người ta từng không treo tranh ông ở phòng chính thống. Bức Khi mùa lúa chín là cả cánh đồng lúa vàng với hai em bé gái và bà già gánh lúa vui tươi, ông bị chê về quan niệm người lao động. Bức sơn dầu khổ lớn Hào Dương Bích Liên vẽ trong 12 ngày đêm bom dội Hà Nội, ông không sơ tán, xưởng vẽ mất điện, vẽ trong ánh lửa củi đốt trên nền nhà “Một cuộc chiến tranh đất đối không khủng khiếp quá” - người ta lên án ông. Trên mặt đất khô cằn nứt ra đường chiến hào, có người núp và tên lửa chuẩn bị rời bệ phóng. Đây là bức tranh ông yêu quý nhất trong cuộc đời sáng tạo của mình, một tác phẩm chân thực tuyệt đẹp về chiến tranh cách mạng của hội họa hiện đại. Họa sĩ Dương Bích Liên luôn nhìn thẳng vào sự vật, phản ánh được phần bản chất vững bền của nó theo những quy luật của cái đẹp. Loạt tranh ông vẽ về tình yêu qua hai em bé trai gái ngồi bên dòng sông dáng gầy gò, xơ xác, làm nghẹn nơi tim ta tình yêu thương với quê hương đất nước.

Dương Bích Liên, Bác Hồ qua suối, sơn mài
Có người nói Dương Bích Liên là tài năng cổ điển cuối cùng sau Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân. Sáng tạo của ông dựa trên cơ sở hình họa hàn lâm chuẩn mực với màu sắc trang nhã duy cảm, duy mỹ. Tôi còn thấy ông sử dụng những thủ pháp của hội họa hiện đại trong bố cục và biến hình, trong màu sắc ước lệ và khái quát. Ông nổi tiếng về những bức chân dung thiếu nữ Hà Nội nhiều tâm trạng: xinh đẹp, thanh thản và mơ mộng.
Trong những tài năng của hội họa hiện đại Việt Nam, có Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng độc đáo ở nét bút run rẩy hay táo bạo ngang tàng. Bùi Xuân Phái nổi tiếng ở màu trắng, màu ghi phố cổ rêu phong thì Dương Bích Liên lại làm ta nao lòng ở màu vàng miên man, xao động. Chiều vàng là một nguyên bản vàng mười của sơn mài trên nền trời buổi hoàng hôn ở thôn quê. Màu vàng Khi mùa lúa chín no nê trù phú. Màu vàng trong tranh sơn dầu lớn Ba thiếu nữ trong lành, mát mẻ mà sang trọng thanh cao, bảng lảng như trong vườn địa đàng nhớ mong một chân trời xưa cũ.
Dương Bích Liên là bậc thầy về hình họa cổ điển. Hình của ông không táo bạo quả quyết như Nguyễn Sáng, không xô lệch như Bùi Xuân Phái, nó mực thước, ổn định mà không thô cứng, nó nhẹ nhõm mà vững chắc, siêu thoát bởi bên trong nét vẽ dụng công là tình cảm yêu mến thực sự của ông với đề tài. Nhiều bức ông xóa bỏ hàng chục lần, xé đi bao nhiêu phác thảo, vạch lên tranh đã xong những nét dao lúc không vừa ý. Ông vẽ sơn dầu giỏi, màu của ông trong trẻo, vang động. Sơn mài của ông với bút pháp nghiêng về hiện đại, chỉ trung thành với năm màu cơ bản truyền thống như sơn then, vàng bạc, son và cánh dán nên nó đậm đà bản sắc cổ kính, tạo ra phong cách rất Dương Bích Liên.
Dương Bích Liên đã mất, những tác phẩm của ông còn ở lại cùng với năm tháng, công chúng và dư luận, cho dù cuộc đời ông còn nhiều đắng cay, bí ẩn, nhiều những phiền muộn âm u, sẽ còn nhiều bài viết về ông rạch ròi hơn. Chỉ có điều ông ra đi thật thanh thản, chấp nhận, vì ông đã thực hiện được mục đích của đời mình: Một họa sĩ lặng lẽ dâng đời mình cho nghệ thuật, lặng lẽ sáng tạo cho cuộc đời những tác phẩm đẹp, gửi gắm nhiều suy tư về số phận của một đời nghệ sĩ.
H.Đ.T
(Bài đăng trên Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số 12/2013)
Với tất cả sự chênh lệch tuổi tác và sự khác biệt về nghề nghiệp, cha tôi và họa sĩ Dương Bích Liên, có thể nói, là những người bạn tương liên, tương hợp nhất. Cha tôi sinh năm 1912, tuổi Tí. Họa sĩ Dương Bích Liên sinh năm 1924, cũng tuổi Tí, nhưng là chênh nhau một giáp!
Nguyễn Huy Thắng
Mặc dù là một trong bộ tứ "Sáng - Nghiêm - Liêm - Phái" danh giá vào bậc nhất làng hội họa Việt Nam, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000, họa sĩ Dương Bích Liên cho đến gần đây vẫn cứ là một ẩn số. Bộ phim Sắc vàng lặng lẽ rất hay và cảm động về họa sĩ, với những thước phim thiên về gợi cảm hơn là tả chân, dường như càng làm tăng vẻ bí ẩn của ẩn số này. Dễ hiểu là những mối quan hệ của ông với các văn nghệ sĩ, trong đó có cha tôi - nhà văn Nguyễn Huy Tưởng - cũng chưa mấy được biết đến. Bài viết này chính là nhằm bổ khuyết vào sự thiếu hụt đó. Sự thiếu hụt mà nếu không biết đến cũng chả sao, nhưng nếu biết, chắc chắn sẽ đem lại nhiều cảm nhận thú vị không chỉ về hai ông, mà rộng hơn, về tình bạn giữa các văn nghệ sĩ một thời.
Với tất cả sự chênh lệch tuổi tác và sự khác biệt về nghề nghiệp, cha tôi và họa sĩ Dương Bích Liên, có thể nói, là những người bạn tương liên, tương hợp nhất. Cha tôi sinh năm 1912, tuổi Tí. Họa sĩ Dương Bích Liên sinh năm 1924, cũng tuổi Tí, nhưng là chênh nhau một giáp! Cả hai ông đều là người cầm bút, nhưng một người cầm bút sắt, người kia cầm cọ. Ấy là chưa kể đến sự khác nhau về "địa vị" mà bình thường ra rất dễ trở thành vật cản của tình bạn: Cha tôi thuộc số những người lãnh đạo văn nghệ cấp khá cao. Còn họa sĩ Dương Bích Liên, tôi vẫn nghĩ, đó là một kiểu người nghệ sĩ "thuần túy" nhất. Đến khi xảy ra vụ "Nhân văn Giai phẩm", cha tôi thôi công tác lãnh đạo, nhưng vẫn ở trong Ban chấp hành Hội Nhà văn và vẫn có vị thế nhất định. Còn họa sĩ Dương Bích Liên không biết có dính dấp đến đâu, nhưng như tôi được biết, hình như sau đó cũng chịu nhiều vất vả lắm. Song tất cả điều đó không hề ảnh hưởng đến tình bạn giữa hai ông, một tình bạn trước sau như nhất, thắm thiết, khắc khoải, mặc dầu cái vẻ ngoài lặng lẽ.
Không biết về phía họa sĩ Dương Bích Liên thì thế nào, còn với cha tôi, xem ra ấn tượng ban đầu về người bạn họa sĩ tương lai của mình không được tốt, nếu không muốn nói là xấu nữa. Hai ông bắt đầu biết nhau trong chiến dịch Biên giới cuối năm 1950, khi cùng được cử đi tham gia phục vụ chiến dịch - cha tôi với tư cách đại diện Hội Văn nghệ trung ương, họa sĩ Dương Bích Liên là người của báo Vệ quốc đoàn, tiền thân của báo Quân đội nhân dân sau này. Khi ấy cha tôi 38 tuổi, chưa thể gọi là già để đâm khắt khe với lớp trẻ, còn họa sĩ Dương Bích Liên cũng đã 24 tuổi, cái tuổi có thể coi là già dặn vào thời bấy giờ. Vậy mà không hiểu sao, cha tôi lại có những nhận xét như sau về họa sĩ: "Đuổi theo pháo binh. Cùng đi với Liên: khó chịu vì cái lầm lì, hơi ích kỷ của anh họa sĩ trẻ tuổi này. Giữa hai thế hệ, có cái gì thật là cách biệt." (nhật ký ngày 22/8/1950). Cha tôi khó tính, hay ở họa sĩ Dương Bích Liên có cái gì đó khó gần thật? Cha tôi bất công, hay ông đã có cái lý của ông?
Những ai từng được biết họa sĩ Dương Bích Liên, dù chỉ qua ảnh, chắc khó có thể quên vẻ mặt của ông. Khuôn mặt ông không có nhiều yếu tố tạo hình như các ông Nguyễn Tuân, Văn Cao, Nguyễn Xuân Khoát, nhưng cũng rất gây ấn tượng. Đó là một khuôn mặt trầm lặng mà biểu cảm, hài hòa thanh thoát nhưng cũng nặng trĩu ưu tư. Vẻ mặt ấy, bảo rằng đăm chiêu cũng được, mà bảo là lầm lì cũng chẳng sai!
Những ai từng đọc nhật ký cha tôi, hẳn đều biết ông thường hay khổ tâm về cái vẻ mặt của mình. Mặc dù không hề muốn, đôi khi mặt ông "thuỗn" ra (chữ dùng của nhà văn Nguyên Hồng), trông khá ư là nặng nề, và bản thân ông những lúc ấy vẫn tự trách mình là "mặt nặng" khiến anh em ngại. Những ai từng đọc Nam Cao, hẳn không thể không nhớ "cái mặt không chơi được" của nhân vật Tri, cái mặt ấy chẳng có lỗi gì, nhưng nó vẫn cứ là không chơi được! Cha tôi cũng biết thế lắm về mình, và rất muốn "cải tạo" cái bản mặt đôi lúc khó coi của ông. Lên đường đi chiến dịch, cha tôi muốn sống thật hồ hởi, hòa mình vào với bộ đội, dân công, những con người đơn giản chẳng bao giờ phải bận tâm về mình. Nào ngờ, ghét của nào trời trao của nấy, ông lại gặp phải anh bạn nghệ sĩ đồng hành lầm lì, có lẽ hay băn khoăn về việc sáng tác của cá nhân mình khiến ông đã cho ngay là ích kỷ.
Nhưng chưa đầy nửa tháng sau, giữa hai ông đã thiết lập một mối giao cảm đặc biệt. Mặc dù khác chuyên môn, lại kém cha tôi nhiều tuổi, họa sĩ Dương Bích Liên không hiểu sao rất hay tâm sự với cha tôi về đủ mọi chuyện - chuyện mình và chuyện người, chuyện sáng tác và chuyện công tác, chuyện về cuộc sống và chuyện về nhân cách con người. Khi thì họa sĩ góp ý với cha tôi về bút pháp, như khuyên ông nên viết một truyện épique [có tính cách sử thi], để rồi cha tôi đáp lại rằng ông thiên về những truyện có tính cách lyrico-épique [sử thi trữ tình]; khi thì hai ông cùng bàn về cái chết của một nhà thơ, mà họa sĩ thẳng thừng nói rằng "chết mà không tiếc", vì đó là một người "giả dối, thích địa vị"; khi hai ông cùng đứng ngắm một bãi tập kết của quân ta chỉ cách vị trí địch 6 cây số, bộ đội nổi lửa nấu cơm trước khi bước vào trận đánh một mất một còn với giặc, con mắt của họa sĩ và nhà văn cùng rung cảm trước cảnh trời thu bảng lảng, khói tỏa đầy bãi như chiều ba mươi, và họa sĩ đã xúc động thốt lên và nhà văn đã ghi lại: "Mình thấy ấm cả người. Sức con người thật lớn"...
Kháng chiến thành công, hai ông trở về Hà Nội giải phóng và lại có dịp đi bên nhau ngắm người ngắm cảnh. Ngày Quốc tế Lao động đầu tiên sau Giải phóng Thủ đô chắc phải tưng bừng lắm. Người người đổ ra đường, chỗ này một đám, chỗ kia một đám, hòa thành những dòng người tíu tít, nhộn nhịp đặc hữu của Thủ đô. Hai ông thích thú ngắm nhìn những thiếu nữ Hà Nội mặc áo dài, tha thướt ngay cả khi đạp xe sóng hàng đôi, hàng ba trên đường. Nhưng rồi con mắt hai ông bỗng vấp phải hình ảnh mấy chị nữ cán bộ; các chị có lẽ mặc áo đại cán, loại áo có bốn túi ngang bằng sổ thẳng và thường được may ngắn cho gọn; hình ảnh ấy lẽ ra phải rất thân quen mới phải, nếu là trong khung cảnh kháng chiến đơn sơ, giản tiện, nhưng nay đã về với Hà thành hoa lệ, mọi sự không thể úi xùi như trước nữa. Và cha tôi đã ngao ngán thốt lên, hay ông ghi lại lời người bạn họa sĩ của ông thì cũng vậy: "Những chị cán bộ áo cũn cỡn trông rất buồn, làm xấu thành phố".
Xin được đặc biệt lưu ý, cha tôi có sự nhận xét này chính là vào ngày Quốc tế Lao động 1/5/1955. Bấy giờ vừa mới giải phóng Thủ đô được nửa năm, người dân Hà Nội có thể đã hết bỡ ngỡ với những bộ đội, cán bộ về tiếp quản, nhưng vinh dự của kháng chiến thì còn nguyên, giá trị của những người đi kháng chiến về vẫn còn ngời ngời trong con mắt người Hà Nội. Hôm ấy, đài báo chắc chắn nói rất nhiều về người lao động, tôn vinh người lao động và ca ngợi vẻ đẹp (tinh thần) của người lao động, đặc biệt người lao động trong các cơ quan, xí nghiệp công càng được đề cao. Song, tất cả điều đó không ngăn trở cha tôi và họa sĩ Dương Bích Liên bức xúc về những bộ áo "cũn cỡn, làm xấu thành phố" của mấy chị cán bộ! Số người mặc bộ áo cán bộ đó chắc cũng ít thôi, vì bấy giờ số cán bộ nhà nước, nhất lại là nữ, còn ít lắm; họ có chăng cũng lọt thỏm trong bể người Hà Nội đổ ra đường mừng ngày đại lễ mùng 1 tháng Năm; nhưng cũng như một nét vẽ vụng trên bức tranh lộng lẫy hài hòa, nó đã làm hỏng toàn cảnh!
Với tất cả những gì tôi biết về cha tôi và họa sĩ Dương Bích Liên, tôi dám khẳng định hai ông là những người rất trân trọng con người, hơn nữa, với phụ nữ lại càng nâng niu quý trọng. Ở đây cũng vậy, hai ông không hề có ý dè bỉu các chị nữ cán bộ, những người cũng như hai ông vừa trực tiếp góp phần vào công cuộc kháng chiến thắng lợi, và đang gánh vác trọng trách xây dựng một xã hội mới, xã hội mà người dân, không phân biệt sang hèn, đều được tôn trọng. Điều ẩn sau sự bức xúc nói trên, tôi đọc thấy, chính là mong muốn cho mọi người, trước hết là người nữ cán bộ thủ đô, phải biết, và được, mặc đẹp!
Cũng xin lưu ý thêm, thời điểm cha tôi chia sẻ cùng họa sĩ Dương Bích Liên quan niệm về cái xấu cái đẹp ấy, diễn ra gần một năm trước khi có phong trào "trăm hoa đua nở" đòi hỏi mọi người, không cứ là nghệ sĩ, phải được tự do phát triển cá tính của mình, từ việc sáng tạo nghệ thuật đến cái ăn, cái ở của mỗi con người...
Những năm đầu sau hòa bình hóa ra không diễn ra suôn sẻ như mọi người mong đợi. Sai lầm trong cải cách ruộng đất; hiệp thương không thành do sự phá hoại tổng tuyển cử của chính quyền Ngô Đình Diệm; những đợt học tập, kiểm thảo liên miên trong phong trào chỉnh huấn nói chung và cuộc đấu tranh tư tưởng trong giới văn nghệ nói riêng, kể từ khi xuất hiện phong trào "Nhân văn Giai phẩm"..., tất cả những cái đó đã tác động sâu sắc đến giới văn nghệ và xáo động nhiều mối quan hệ bạn bè giữa các văn nghệ sĩ với nhau. Người ta ngại bộc lộ chính kiến, những điều gan ruột nhiều khi cũng chỉ biết giữ riêng cho mình, sợ nói ra lại có lúc bị đem ra liên hệ.
Trong điều kiện đó, thật may giữa cha tôi và họa sĩ Dương Bích Liên vẫn có thể cởi mở với nhau mọi chuyện, bởi, như họa sĩ nói trong một bức thư gửi cha tôi, quan hệ giữa hai ông "cái chính bao giờ cũng lại là quan hệ với nghệ thuật, thành ra dễ chịu biết bao!". Một ngày giữa tháng 7 năm 1956, cha tôi có cuộc nói chuyện rất tâm can với họa sĩ Dương Bích Liên. Nhật ký của cha tôi thời gian này có không ít những trang trăn trở đầy tâm huyết về nhiều vấn đề của cuộc sống và nghệ thuật, nhưng ít có ở đâu giàu tính nhân văn và giàu chất nghệ sĩ như trường đoạn ông ghi lại cuộc nói chuyện đó. Hai ông lo ngại tâm sự với nhau những cái bất cập của đời sống thành phố: "Cuộc sống mới có một cái gì giả tạo. Tình bạn, tình yêu không còn thắm thiết. Tất cả đều tạm bợ. Không có cái cơ sở để xây dựng, vì cuộc đời bấp bênh". Hai ông nhìn ra cái bất bình thường trong cái tưởng như bình thường vẫn diễn ra quanh hồ Gươm vào mỗi chủ nhật, khi người ta "gặp nhau, nói chuyện, rồi trở về với tập thể, một thứ tập thể lạnh lùng, khó tính, chưa phải là nơi người ta gửi gắm", bởi một lí do đơn giản nhưng bấy giờ không phải đã dễ gì nói thẳng ra: "gửi gắm cái hay có thể được, nhưng gửi gắm cái dở, ai đã dám làm?". Rồi từ chuyện riêng - chung trong cuộc sống thường nhật, hai ông chua chát luận về công việc sáng tác của nhiều đồng nghiệp: "Họ sáng tác cái gì? Những đề tài đã có sẵn, vô thưởng vô phạt, mà nhất định được hoan nghênh: anh công nhân, người đàn bà cắm thẻ nhận ruộng. Có sẵn hết. Thế thì anh ấy đóng góp cái gì. Anh nêu được vấn đề gì khi anh chẳng tìm thấy vấn đề gì nêu cả. Vẽ xong, anh yên tâm là đã phục vụ. Nhưng có phải như thế là người nghệ sĩ không? Hay chỉ là một công chức?".
Nhiều chục năm sau, đến thời Đổi mới cuối thế kỷ 20, các nhà lý luận sẽ tìm ra nhiều từ xác đáng, gây ấn tượng để chỉ thứ văn học một thời lúc nào cũng tỏ ra mẫn cán để phản ánh thực tế kịp thời, rằng đó là "văn học quan phương", "văn học cán bộ"... Vào thời điểm giữa những năm năm mươi đang được nói tới trong bài, cha tôi và họa sĩ Dương Bích Liên vốn không phải là những nhà lý luận ưa tìm tòi thuật ngữ có tính khái quát cao, chỉ đơn giản gọi những người làm thứ nghệ thuật đó là công chức. Mà cũng chỉ là nói riêng với nhau, hoặc cùng lắm ghi vào nhật ký, chứ cũng chẳng lớn tiếng đăng đàn diễn thuyết với ai. Song có điều chắc chắn, cha tôi và họa sĩ Dương Bích Liên đã cương quyết chống sự "công chức hóa" đó, ít nhất là về phần mình: cha tôi xin thôi công tác lãnh đạo văn nghệ để được chuyên tâm sáng tác, còn họa sĩ Dương Bích Liên vào tổ sáng tác của ngành họa, nơi ông được phép lĩnh lương chỉ để làm có một việc vẽ. Sau vụ "Nhân văn Giai phẩm", các văn nghệ sĩ nhất loạt đi thực tế lao động sản xuất, cha tôi lên nông trường Điện Biên, họa sĩ Dương Bích Liên đi Cẩm Phả. Từ đây, ông viết cho cha tôi một bức thư bày tỏ nỗi nhớ mong, còn cha tôi thì nhờ nhà thơ Xuân Sanh chuyển hộ lá thư viết cho ông mà cha tôi gọi là "người bạn họa sĩ thân thiết của mình". Trở về Hà Nội sau nhiều tháng giời xa cách, cha tôi và họa sĩ Dương Bích Liên dường như càng cảm thấy thấm thía về tình bạn mà mình có được. Cả hai cái Tết cuối cùng của đời mình, cha tôi đều đến ăn Tết với người bạn họa sĩ độc thân. Tết Kỷ Hợi 1959, cha tôi cùng mẹ tôi cho đứa con trai duy nhất của ông bà là tôi, khi ấy chưa đầy bốn tuổi đón giao thừa ở nhà họa sĩ Dương Bích Liên. Mùng Một Tết năm sau, Tết Canh Tý 1960, cha tôi cũng lại đến với họa sĩ. Đêm hôm ấy, hai ông ngồi uống rượu tây rất khuya, rồi vặn máy hát, nghe những đĩa cô đầu, và dậy lên trong cha tôi nỗi nhớ những ngày hội mùa, những cảnh đình đám khi xưa, như ông đã ghi lại trong nhật ký.
Tôi không khỏi nao lòng mỗi khi nghĩ đến cha tôi ra đi quá sớm, không được hưởng nhiều hơn những cái tết cổ truyền mà riêng với ông, như luôn có men say. Nhưng tôi cũng an tâm phần nào khi biết rằng, với cái tết cuối cùng trong cuộc đời ngắn ngủi chỉ vừa trọn bốn con giáp của ông, cha tôi đã có được những khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong một khung cảnh tuyệt vời nhất mà một người nghệ sĩ như ông có thể có được: một người bạn tâm giao, một chai rượu tây ngon, những khoảng lặng thả hồn cho suy tưởng, và giữa cảnh trời đất giao hòa náo nức, xốn xang, bỗng vẳng lên những giai điệu rộn ràng, óng ả như đưa ông trở về với tuổi xuân, ông cùng trai gái trong làng rình rịch ra đình tìm kiếm cuộc vui mỗi khi làng vào đám...
Mùa hè năm ấy, cha tôi qua đời. Mặc dù không còn làm công tác lãnh đạo văn nghệ, lễ tang cha tôi được tổ chức rất trọng thể, nhờ sự quan tâm chu đáo của Hội Nhà văn Việt Nam và đặc biệt, nhờ sự chăm lo của các bác các chú bạn với cha tôi. Linh cữu ông được quàn tại trụ sở Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Lễ tang có ban tổ chức, có người túc trực, có người đón khách đến viếng và cám ơn... Còn họa sĩ Dương Bích Liên thì vừa mất một người thân mà nghe nói, ông đã không đi viếng. Không phải ông không thương tiếc, nhưng ông có một nguyên tắc: không đi viếng đám tang, vì đi viếng chỉ thêm buồn. Đấy là nghe ông nói thế, còn thực hư thế nào không rõ, bạn đọc có thể cho là giai thoại cũng được. Có điều chắc chắn, sau vụ việc "Nhân văn Giai phẩm", mặc dù không phải người tham gia trực tiếp, họa sĩ Dương Bích Liên bị không ít chuyện phiền hà; vốn người lặng lẽ, ông lại càng lặng lẽ hơn - người ta hầu như không còn thấy ông xuất hiện trước đám đông. Thế nhưng với cha tôi, ông đã phá bỏ nguyên tắc của mình. Nhà văn Kim Lân kể lại, hôm ấy bác đang đứng túc trực ngoài cửa để đón khách đến viếng thì họa sĩ Dương Bích Liên bỗng từ đâu tới hỏi: "Tôi có thể vào viếng Tưởng được không?" Bác Kim Lân hoảng quá, nghĩ bụng: "Mình là cái thá gì mà họa sĩ Dương Bích Liên lại phải hỏi đến mình cơ chứ!". Bác vội vội vàng vàng chuyển hương cho họa sĩ mời vào viếng cha tôi. Họa sĩ vào, lặng lẽ đến trước linh cữu, cắm hương, vái dài một cái rồi lại lặng lẽ đi ra, khiến bác Kim Lân sững sờ quên cả cám ơn...
Cha tôi mất đi, để lại không được nhiều nhưng cũng không phải ít di vật: Những bức thư bạn bè gửi cho. Những cuốn sách bạn bè đề tặng. Những bức ảnh chụp chung hoặc của riêng các văn nghệ sĩ, bộ đội, người thân. Những bức ký họa vẽ ông hoặc tranh của các họa sĩ đem tặng... Họa sĩ Dương Bích Liên không ký họa cha tôi bức nào, cũng không tặng ông tranh. Thứ duy nhất của họa sĩ được lưu giữ trong gia đình tôi là một bức thư ông gửi cha tôi từ Cẩm Phả, khi ông đi thực tế vùng mỏ viết cho cha tôi đi thực tế ở Điện Biên. Bấy giờ là cuối năm 1958, họa sĩ 34 tuổi, còn cha tôi 46 tuổi. Tôi đã đọc đi đọc lại bức thư ấy, và vẫn thường xuyên đọc lại. Mỗi lần đọc lại có thêm những cảm xúc mới, nhưng lần nào tôi cũng bâng khuâng tự hỏi, làm sao họa sĩ Dương Bích Liên lại có thể đằm thắm đến thế, làm sao một họa sĩ trẻ 34 tuổi như ông lại có thể viết một bức thư phi thời gian, phi tuổi tác như thế! Không biết cha tôi nếu vẽ thì có đẹp không, nhưng tôi tin chắc, họa sĩ Dương Bích Liên nếu chuyển sang viết văn thì sẽ viết nên những trang tinh tế, gợi cảm gợi tình như những nét vẽ của ông. Vài lời dông dài như vậy cũng là để xin phép họa sĩ Dương Bích Liên, xin phép cha tôi được đăng kèm bức thư ở bài viết này. Bức thư ấy, tôi dám cho là một mẫu mực mà các văn nghệ sĩ Việt Nam từng viết cho nhau. Đó cũng chính là cái cớ, là điểm tựa để tôi mạnh dạn viết bài này, mà với nó, bài viết mới có hy vọng lọt vào mắt xanh của bạn đọc yêu văn chương và hội họa.
Cẩm Phả 25-11-58
Anh Tưởng!
Tôi nhận được thư anh đã lâu nhưng viết cho anh thì lại muốn nói đến những chuyện tâm sự, muốn gặp anh hơn là viết, mà thơ tôi lâu lắm, bao giờ mới lại tới Điện Biên... Lúc này, nếu tôi đi bên anh, chúng ta không cần nói với nhau câu gì có lẽ vẫn còn thấy đầy đủ hơn. Có nhiều lần tôi đã đi với anh như thế mà sao vẫn thấy gần gụi lạ! Đã bốn tháng. Tôi cũng thấy thời gian đằng đẵng, nhưng lại nghĩ có lẽ thời gian đang để dành cho chúng ta những lúc sung sướng được gặp lại nhau khi chúng ta cùng trở về Hà Nội. Thật có đi xa mới thấy nhớ nhà, nhớ bạn, anh Tưởng nhỉ! Và nói chuyện nhớ thì nhiều lắm chuyện phải nhớ... Nhưng anh đừng tưởng tôi buồn đâu nhé! Công việc hàng ngày tôi vẫn làm đầy đủ, những công việc ấy, từ khi đi cho đến mấy lúc này, vẫn gợi cho tôi suy nghĩ về cuộc sống của bản thân mình một cách nghiêm chỉnh hơn, cả đối với công việc sáng tạo nghệ thuật sau này của tôi nữa. Tôi vẫn đọc Guerre et Paix (Chiến tranh và Hòa bình) và tất cả những gì nói về Tolstoi [ 1]. Thật là bổ ích và tuy chưa làm gì cả nhưng đọc một cuốn tiểu thuyết lớn vẫn có thể an tâm. Tiếc không có anh ở đây để lại đọc lên với nhau như buổi nào. Thiếu những lúc như thế tôi vẫn thấy như thiếu rất nhiều. Thật là yên lành, đến bây giờ mà tôi vẫn chỉ ước mong có thế và được thế mãi mãi. Từ trước đến nay, khác với một số bạn khác của chúng ta, quan hệ giữa anh và tôi cái chính bao giờ cũng lại là quan hệ với nghệ thuật, thành ra dễ chịu biết bao!
Điện Biên chắc dạo này đẹp lắm vì đã hết những ngày mưa? Cứ nghĩ đến những vùng ấy là lại gợi cho tôi những sentiment refuge [ 2] tuy tôi chưa hề mệt mỏi giữa đường đi bao giờ... Tây Bắc thật là reposant [ 3], tôi đã biết, nếu sau này muốn yên nghỉ một chỗ, có lẽ thể nào tôi cũng về đấy. Dù cho thay đổi thế nào đi nữa, tình, cảnh thiên nhiên ở đó vẫn cứ như ru người ta, lặng lẽ... Có đúng phần nào không, anh Tưởng? Còn ở đây, luôn luôn ồn ào tiếng máy, tiếng người rất cần thiết cho tôi và tôi còn muốn hơn thế nữa. Một thực tế tương đối ardent [náo nhiệt] và populaire [dân dã]. À mà anh cũng đã ra đây rồi nhỉ, vậy tôi không kể nhiều nữa.
Sáng [ 4] nó về rồi. Một phần vì yếu, một phần sốt ruột thấy mình đang độ có thể làm nhiều thành thử không chờ đợi được nữa... Chắc anh đã biết, nó đang cần thì giờ và điều kiện để thực hiện những dự định về sáng tác, từ lâu không được như ý muốn nên nó đâm ra bức bối... Tôi không ngạc nhiên hay tưởng lầm nó đã mệt mỏi, trái lại. Chỉ có một điều, có lẽ nó nghĩ những đoạn đường đi như thế này thường dài hơn cuộc đời? Hay cảm thấy mình cần phải hối hả? Rõ ràng thực tế ở đây không déplaire [ 5] nó một chút nào, tôi tin như thế...
Từ nay đến khi về có lẽ còn thì giờ để anh viết thêm một thư nữa cho tôi, tôi rất mong được đọc. Mà bao giờ anh về? Còn tổ tôi nghe nói có lẽ đến cuối janvier [tháng Giêng] 59. Gặp nhau thể nào chúng ta cũng phải có một buổi tối như ở Trịnh Tây [ 6], nhưng đối với tôi, ấm cúng hơn cả vẫn là ở trong khung cảnh gia đình thân yêu của anh!
Bạn yêu Tưởng
Dương Bích Liên
(Nguồn: Tạp chí Văn Học, 20/1/2008)
VnExpress Newsletters
Chú thích
Họa sĩ nổi tiếng tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Bùi Trang Chước • Bùi Xuân Phái • Cát Tường • Công Văn Trung • Diệp Minh Châu • Dương Bích Liên • Hoàng Lập Ngôn • Hoàng Tích Chù • Huỳnh Văn Gấm • Lê Phổ • Lê Thị Lựu • Lê Văn Đệ • Lương Xuân Nhị • Mai Trung Thứ • Nam Sơn (hoạ sĩ) • Nguyễn Đỗ Cung • Nguyễn Gia Trí • Nguyễn Khang • Nguyễn Phan Chánh • Nguyễn Sáng • Nguyễn Thị Kim • Nguyễn Tư Nghiêm • Nguyễn Tường Lân • Nguyễn Văn Tỵ • Phan Kế An • Tạ Tỵ • Tô Ngọc Vân • Trần Đình Thọ • Trần Văn Cẩn • Vũ Cao Đàm
Chuyện chưa biết về "Hào" - tác phẩm có số phận ly kỳ
Tranh cũng như người, như người vẽ ra nó. Dương Bích Liên và Hào đều chìm nổi, bổng trầm, âu cũng là cái số của người tài, người đẹp. Nghiệp của Dương Bích Liên là thế và Hào cũng có số phận của riêng mình.
Hào là tác phẩm duy nhất của cố họa sĩ Dương Bích Liên trong triển lãm này, Hào là tác phẩm lớn nhất cả về nghệ thuật và kích thước của ông (147 x 200cm), là tác phẩm tiêu biểu gắn với tên tuổi của ông. Nói đến Dương Bích Liên là phải nói đến Hào và ngược lại. Có một số ý kiến trái chiều về Dương Bích Liên trong bộ tứ nghiêm – liên – sáng – phái nhưng chỉ cần một bức duy nhất, Hào cũng đủ để những lời qua tiếng lại về Dương Bích Liên phải im bặt.
Có nhiều chuyện quanh cuộc đời của Dương Bích Liên, ông sống một mình và tránh xa vòng danh lợi. “Cuộc đời” của Hào cũng nhiều chuyện ly kỳ. Hào trải qua một cuộc bể dâu gần nửa thế kỷ từ lúc sinh ra (1972) và mãi gần đây mới dừng bước. Có lúc người yêu tranh của ông đã tưởng hết có cơ hội ngắm nhìn Hào khi nó “vượt biên” sang Singapore. Cuộc hành trình của Hào, theo lời kể của nhà nghiên cứu triết học Nguyễn Hào Hải, bạn vong niên của họa sĩ Dương Bích Liên và một số người khác, như sau.
Chặng 1, Hào đi bằng xe commăngca của hội Mỹ thuật từ nhà của Dương Bích Liên, 55 Bà Triệu đến đại học Mỹ thuật, 42 Yết Kiêu. Vì Hào bị hội đồng duyệt nhận định là ủy mị, thiếu tính chiến đấu nên Hào đã không được treo trong triển lãm thường niên của hội Mỹ thuật tổ chức năm 1973.
Hào là tác phẩm duy nhất của cố họa sĩ Dương Bích Liên trong triển lãm này, Hào là tác phẩm lớn nhất cả về nghệ thuật và kích thước của ông (147 x 200cm), là tác phẩm tiêu biểu gắn với tên tuổi của ông.
Chặng 2: nhà sưu tập Phạm Văn Bổng cảm tâm trạng chán nản của Dương Bích Liên đã ngỏ ý mượn tạm Hào. Chắc là bần cùng bất đắc dĩ, ông gật đầu đồng ý vụ “mượn tranh” này. Hình ảnh chặng 2 của Hào khá thú vị, ông Bổng cầm càng, vợ con ông đẩy, Hào nằm ngửa trên xe ba gác (một loại xe bò nhưng nhỏ do người kéo), từ Yết Kiêu về phố Hàng Buồm. Ông Bổng là một người sưu tầm tranh và bản thảo viết tay của các nhà văn có tiếng của Hà Nội. Nhà ông ở gác 2, chật chội, cầu thang gỗ ọp ẹp, tối và rất hẹp nên Hào phải vào nhà bằng đường bancông. Ông Bổng nhoài người ra lan can kéo Hào, vợ con ông đứng dưới đẩy, Hào bị buộc bằng dây thừng, lơ lửng mãi mới lọt được vào phòng khách.
Sau vài tháng, vì nhiều lý do tế nhị, Hào từ nhà ông Bổng đến nhà của Tô Hoài nhưng số kiếp lênh đênh làm cho nó không ở đó được lâu mà đi tiếp lên Nhã Nam, nhà của nhà văn Nguyên Hồng. Chặng này Hào khá oai vì được đi nhờ bằng xe quân sự của một đơn vị bộ đội hàng xóm của Nguyên Hồng. Nhà của Tô Hoài ở cuối ngõ Đoàn Nhữ Hài, các chú bộ đội phải dừng xe ở đầu Trần Quốc Toản và “bế” Hào ra, tác giả của Dế mèn phiêu lưu ký đi bộ theo tiễn, vẫy tay, bịn rịn, chờ xe đi khuất mới quay về, chẳng biết lúc đó ông có nghĩ về câu chuyện Hào phiêu lưu ký không? Từ Hà Nội đi Bắc Giang xe nghỉ mấy bận, các anh bộ đội đùa nhau “xe mình chở súng đạn lại chở thêm cả tên lửa nữa”, ý nói hai quả tên lửa trong góc trên của bức tranh.
Ông Hào Hải kể lại, hai tên lửa này vẽ thêm theo gợi ý của Nguyễn Tuân “cho thêm phần khí thế cách mạng” chứ không có trong phác thảo ban đầu. Ấy thế mà Hào vẫn bị loại…
Ở Nhã Nam được một thời gian Hào bắt đầu mốc và nứt mặt sơn do nhà Nguyên Hồng lợp tranh và tường chình đất ẩm thấp. Chính vì yêu Hào nên Nguyên Hồng đành chia tay Hào. Nó về lại 55 Bà Triệu để Dương Bích Liên “chăm sóc, điều trị”.
Khi hay tin Hào đã khỏi bệnh, đã khỏe mạnh, ông Ngô Luân, giám đốc công ty xuất nhập khẩu sách báo (Xunhasaba) đến hỏi mua. Ngã giá xong, Hào lại từ biệt Dương Bích Liên lần 2 lên đường làm một cuộc viễn du mới. Số Hào lận đận, một phần vì kích thước ngoại cỡ của mình. Thoạt đầu khi về nhà ông Ngô Luân, Hào phải đóng hai vai, vừa là tranh vừa là bức vách tạm để ngăn phòng.
Ông Ngô Luân không phải là nhà sưu tầm nghệ thuật, trong thời gian ở nhà ông, Hào “chứng kiến” nhiều cuộc trao đổi, dạm hỏi, gạ gẫm. Nghe nói võ sư T nổi tiếng ở Sài Gòn cũng bay ra vài bận mặc cả nhưng không thành. Suýt nữa thì Hào đã phiêu du sang tận đất nước của Fidel Castro. Chuyện kể rằng ngài tùy viên văn hóa sứ quán Cuba ở Hà Nội lúc ấy, nhân một lần được chiêm ngưỡng Hào đã có ý định mua Hào cho bảo tàng Mỹ thuật La Habana nhưng vì không có đủ tiền. Cuối cùng thì Hào về tay nhà sưu tầm nghệ thuật Hà Thúc Cần, một Việt kiều ở Singapore. Ông Cần yêu quý Hào, ông bày Hào trang trọng trong phòng khách nhiều năm nhưng thật không may, cuối đời ông mắc trọng bệnh và buộc phải chia tay Hào.
Cuộc phiêu lưu cuối cùng của Hào, hy vọng vậy, tạm dừng khi ông Cần để lại Hào cho một người chơi tranh ở Hà Nội. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, thế là Hào đã xa Hà Nội mười mấy năm trời.
Lúc thì Hào đi ba gác, lúc thì quá giang bằng xe tải quân sự, lúc thì tàu biển (chuyến đi từ Hà Nội đến Singapore) và chuyến hồi hương thì bằng máy bay (Singapore – Hà Nội).
Hào chìm nổi lênh đênh nhưng bù lại đó là một số phận huy hoàng, ngay khi vừa ra đời Hào đã được các nghệ sĩ tên tuổi của Hà thành lúc đó là đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa, nhà văn Nguyễn Tuân, nhà thơ Hoàng Trung Thông, nhạc sĩ Văn Cao… đến xem. Hào đã từng được “ở cùng” những bậc thầy văn chương như Tô Hoài, Nguyên Hồng.
Tranh cũng như người, như người vẽ ra nó. Dương Bích Liên và Hào đều chìm nổi, bổng trầm, âu cũng là cái số của người tài, người đẹp. Nghiệp của Dương Bích Liên là thế và Hào cũng có số phận của riêng mình.
Thêm một tin vui nữa, một cái kết có hậu cho Hào và cho những người yêu hội họa Hà Nội, đó là giờ đây Hào đã được ở cùng nhà với một tác phẩm thuộc dạng hoa hậu của Mỹ thuật Việt Nam, bức Thiếu nữ bên hoa huệ của danh họa Tô Ngọc Vân.
(Theo Baomoi.com)
Họa sĩ nổi tiếng tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Bùi Trang Chước • Bùi Xuân Phái • Cát Tường • Công Văn Trung • Diệp Minh Châu • Dương Bích Liên • Hoàng Lập Ngôn • Hoàng Tích Chù • Huỳnh Văn Gấm • Lê Phổ • Lê Văn Đệ • Lương Xuân Nhị • Mai Trung Thứ • Nam Sơn (hoạ sĩ) • Nguyễn Đỗ Cung • Nguyễn Gia Trí • Nguyễn Khang • Nguyễn Phan Chánh • Nguyễn Sáng • Nguyễn Thị Kim • Nguyễn Tư Nghiêm • Nguyễn Tường Lân • Nguyễn Văn Tỵ • Phan Kế An • Tạ Tỵ • Tô Ngọc Vân • Trần Đình Thọ • Trần Văn Cẩn • Vũ Cao Đàm
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.