Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

Lê An Thế












Lê An Thế

tên thật Hoàng Chính Nghĩa
các bút hiệu khác:
 Lê Tôn, Hoàng Đông Quải, Lê Bi...
(1949 - .......) Thái Bình.
Nhà thơ, nhà văn




Viết và sinh hoạt văn nghệ, xuất bản từ giai đoạn đầu của văn học hải ngoại: đầu năm 1976 làm thư ký toà soạn cho báo Quê Hương. Cùng Hoàng Khởi Phong thành lập nhà xuất bản Bố Cái năm 1977 và từng cộng tác với một số các tạp chí như Văn Học, Hợp Lưu, Thơ, Việt Nam Hải Ngoại, Thế Kỷ 21, Người Dân, Đối Thoại và các trang web Diễn Đàn, talawas, Da Màu, Tiền Vệ. Hiện sinh sống giữa Việt Nam và Mỹ.








NGOẠI CẢM THI

Nhỏ nước mắt vào thơ
tôi đã tìm ra, đúng
mộ mình.






8/2014
Bên giòng sông Viêt Nam
với vợ chồng Nguyễn Hữu Liêm,
Phan Nguyên và Phạm Việt Cường

Hoàng Chính Nghĩa
(Lê An Thế)
Nhà thơ












Thi phẩm đã xuất bản




1
Thơ Tình Cùng Trời Đất
(ký Hoàng Đông Quải; Bố Cái, 1978)





2
Thơ Trích
(Người Dân, 1990)





3
Địa Chỉ Của Một Người
(Tân Thư, 1996; TGXB, 2022)





4
Thơ Lê An Thế
(California: TGXB, 2022)





5
Một Mình
(2015)





6
Nơi Tôi Tới Đêm Qua
(2015)





7
Vòng Không
(2022)





8
Bản Thảo Từ Những Khoảng Trống
(2025)





9
Ngẩng Mặt Nhìn Trăng Sáng
(Bố Cái, 1978. 153 tr.),
in chung với Hoàng Khởi Phong
tập truyện







10
Tuyển Tập Thi Ca 1975-1977
(nhiều tác giả, Bố Cái, 1977)





11
Thi Ca và Lưu Đày
(Quê Hương, 1976; Tân Thư 1996).
in chung với Thục Ngạn, Trần Mộng Tú Du Tử Lê
tập thơ song ngữ



*

Thi ca với ông “là chuyện mơ màng. Là cánh cửa. Là khoảng trống. Không cần rõ ràng. Thượng đế là một con đường vô tận. Nhưng thơ và thượng đế đều không phải là tôn giáo của tôi” (1) và lúc khác được ông định nghĩa: “Mỗi ngày có thể là một bài thơ / đi qua đi lại / Mỗi ngày có thể là một bài thơ / đứng lên ngồi xuống / Cứ nhìn quanh / tôi cũng như bạn / mỗi ngày / mất rất nhiều thơ” (Định Nghĩa Thơ. Một Mình, tr. 41).
Hoàng Chính Nghĩa trước hết là một nhà thơ với nhiều bút hiệu và thơ ông đã để lại ít nhiều dấu ấn trong sinh hoạt văn học hải ngoại. Những bài thơ đầu ở ngoải nước, ông dụng những thể thơ đã quen, đầy ước lệ, nhạc tính như bài năm chữ Thuở Theo Nhau, 1977:


“Theo sông vào trăm sóng
Sóng như ta bạc đầu
Người năm xưa cũng vội
Theo bụi bước qua mau
Theo mây vào bóng núi
Ta chia núi quạnh hiu
Mỗi năm lòng mỗi nhuốm
Nỗi trời rộng tiêu điều (…)
Hoặc lục bát trong Sầu Ta, 1979:
“Sầu ta ở mấy dặm mây
Ngậm ngùi nhân ảnh vơi đầy lòng trăng
Nửa đường nằm xuống phân vân
Hồn trong tiếng hạc mà thân chưa về…”


Từ thập niên 1990, ông dụng thể thơ tự do và sáng tác, xuất bản thơ liên tục, sung mãn, phải chăng để thích ứng với tâm tình thời đại cũng như của chính ông? Thơ trở nên phương tiện sống, với chính mình, với tha nhân và ngoáy sâu vào những vấn đề của thời đại, của con dân Việt và của di dân lưu vong. Trước hết, thi nhân thường được nhân thế xem họ như cư dân của Ốc Đảo:

“Thơ lùa tôi vào một ốc đảo / khi tất cả đang băng rã
Thơ đã dọn tôi phần sa mạc / tôi lớn theo tóc bạc lan dần
tôi đã mất sự bình thường
thèm điều đơn giản là kèm thêm ly rượu
Đôi mắt cá ươn / tôi dán chặt trần nhà
thơ đã đưa tôi về già / nằm nhớ biển
thơ đã làm tôi khóc mướn
thèm cơn mưa có thật như bản thời tiết sáng nay
qua những ngón tay
sao tôi vẫn bâng khuâng cùng tia nắng muộn”

(NTTĐQ, tr 28)


Đôi khi cũng có những biện minh, như trong Đằng Sau Người Làm Thơ:“May mà thời đại này không mấy ai muốn thi sĩ phải là chiến sĩ

Vậy mà thơ vẫn cứ phải xông vào đánh với những nỗi đau
Thế giới chung quanh vẫn còn bao nhiêu điều nghịch lý.
Kẻ thù ư? Lúc nó rõ ràng như hận thù, đói khát, chiến tranh
Anh có thể đứng hẳn ở một lằn ranh
Để thơ thành tên đạn xông ra đằng trước.
Lúc quay về, đối diện mình anh, lại thấy nó mơ hồ
Có thể là muôn ngàn khoảng trống
Bởi từng cơn gió, trăng sao, hạt mưa như kẻ địch
Nó phục kích anh ngay những lúc không ngờ.
Nên có những bài thơ đau như muôn mảnh
Những người làm thơ phải tự cắt mình ra

Mà đời này chắc gì còn mãi cỏ hoa” (ĐCCMN, tr. 182-183)


Ông có cách đọc thơ của riêng ông: “Với thơ / tôi đều đọc trong cô độc / với kẻ làm thơ / đôi khi tôi nhìn thấy / họ nằm trên trang giấy / chờ tôi” (NTTĐQ tr. 159, vì khi ông đọc Thơ Họ thì:


“Đọc thơ người khác / là đeo sợi dây căng
không cùng địa chỉ
không cùng thời / không thấy mặt
ngàn cái không tôi tìm cái một / là cửa mở
(không bức tường nào giữa tôi
và trang giấy)

là tôi thường gặp / những nỗi đau
những mùi vị / họ bỏ lại
tôi làm thơ / là chuyển ngữ điều còn sót
(phần lớn thiếu và sai)
lúc gấp thơ lại
khoảng trống ùn lên / là tổ mối
tác giả chết trên trang giấy / mà không nhắm mắt
họ bỏ lại giấc mơ / để tôi tìm cái thật
họ bỏ lại cái roi / để tôi quất vào khoảng trống
cứ loanh quanh giữa 4 bức tường
nhờ thơ họ / tôi căng buồm

giữa dòng thơ chưa ráo mực” (NTTĐQ tr. 5-6)


Con chữ đã là ám ảnh nghệ thuật tiên thiên, vì Nếu Tôi Là Chữ: “Chữ / dạy tôi sự bao la / Nó nằm với tất cả / mà vẫn tự do” (NTTĐQ, tr. 94). Ngôn ngữ hành hạ nhà thơ, kiểu Còng Đầu:


“Ngôn ngữ dễ sợ hơn bàn tay ánh mắt dễ sợ hơn mũi tên hòn đạn
nó xuất hiện
tôi bị đuổi không ngừng
mỗi đêm tôi căng lên hoặc xẹp xuống
thành những mặt phẳng
tôi như bệnh từ bao giờ
bệnh từ bao giờ
vùi tôi xuống đẩy tôi lên
ngày kéo dài đêm kéo dài / tôi bị bắt
ngôn ngữ còng đầu tôi lại / không biết tội gì

và dẫn vào một thế giới khác” (Một Mình, tr. 101)


Làm thơ cũng là một Cách Khóc: “Tôi dồn chữ / thành chiếc thuyền giấy / để tiếng khóc trôi tới chân trời” (Vòng Không, tr. 11). Phải chăng, vì “Có thể thơ / Chỉ là chổ nứt của tâm hồn?” (VK, tr. 23).


Vậy có cách nào Sửa Thơ?
“dòng thơ vừa khỏi tay đã chết
Xơ cứng như những triều đình
tìm mình / phải bước qua điều vừa viết …
đời cần sửa / nói chi thơ
nát cả chiều sâu / cũng sửa …
ngôn ngữ dính vào đời / hơn máu thịt
sửa thơ như tự cắt mình / để mang ơn cái chết …
cứ sửa / sửa màu trăng / thành nỗi nhớ
sửa mưa rơi / thành tiếng nhạc trời
sửa cả những niềm tin / khi cuộc đời không đứng lại
bài thơ ta chảy tự vô hình
người đọc cứ dẫm lên
những thế hệ khác dẫm lên / quên cả xác mình
tưởng thơ là cuộc đời / cứ sửa
sửa một dòng sông / thơ không bao giờ theo được”


(ĐCCMN, tr. 164, 166)


Nhà thơ canh cánh bị ám ảnh con chữ cùng những hình thức chuyển tải, như Dấu Chấm:


“Đi theo một dọc mấy bài thơ
Tôi không tìm được con số đúng

Mình
Tôi là hình. Lơ lửng
Không nguyên do. Chưa kết luận
Meo méo cong cong lằng nhằng thăng thẳng
Tôi đi hay tôi đứng
Bóng tôi cứ nằng nặng

Giữa đời

Đi theo một dọc mấy bài thơ
Tôi không tìm ra địa chỉ

Chỗ nằm
Tôi bông bổng bồng bềnh

Trên cạn
Tôi cụ thể trong yêu
Mà lại ngồi trên từng cánh bướm
Cứ loanh quanh định trộm

Nắng chiều

Đi theo một dọc mấy bài thơ
Suốt đường dài tôi vẫn là thằng

Trốn học

Tôi bỏ lớp

Nam hoa
Mà cứ mang mang chép lại đời

Ảo ảo
Cho đến lúc tôi tìm ra

Dấu chấm.” (NTTĐQ, tr. 120)


Có những thất vọng xảy đến trong khi luôn khao khát tìm Chân Thiện Mỹ qua ngôn ngữ:


“Lúc ngôn ngữ bị đuổi khỏi vườn địa đàng
là bắt đầu dối trá

ai soạn kinh thánh?
ai chỉ ra đường cách mạng?

chúng tôi suốt đời lòng vòng

tìm nơi đến
khi các giáo đường dinh thự đền đài cung điện
chứa toàn dị bản” (NTTĐQ, tr. 117)


Và “thơ tôi đang mất dần ngôn ngữ” trên sự thật đành phải nhìn nhận Cái Chết Thời Gian:


“Chỉ mấy ngày sau những bông hoa đã để lại cái chết trên mặt bàn / ánh sáng nhảy qua khung cửa sổ
là lời đối thoại thầm thì / ngắn hơn ngón tay của em

nghiêng theo bóng của các quyển sách cũ
những tác giả đều để cho chúng ta / những công thức khác
vật chất là thời gian là màu sắc / là ánh sáng là sóng là hạt
là thơ tôi / đang mất dần ngôn ngữ

trong bóng tối của ngọn hải đăng bỏ hoang
tôi nghe tiếng kêu loài hải âu / đã bỏ xa thế kỷ 20
nơi những đoàn tàu trước
vẫn chạy song song với thế giới khác
nơi những tiếng sóng / thanh bình hơn thế kỷ này
tôi học được / cái chết của muối
đã vùi trong những chớp mắt của em” (NTTĐQ, tr. 110-111)

Biến cố ngày 30-4 lại đến, “1975, hàng triệu người bỗng dưng bị cắt như tôi / hàng triệu người vào thành phố / hàng triệu người ra biển / tôi bị cắt quá khứ / tôi là hai và là triệu mảnh … Có đêm tôi thì thầm / như hát / tôi không để ai cắt tôi khỏi chữ / cắt chữ khỏi thơ / tôi sẽ nói với Mỵ Châu / tôi còn yêu tức tôi hiện hữu / như chưa từng bị cắt” (Cắt. MM, tr. 33)

Làm nhà thơ ta ở xứ người, quô hương mới, không có nghĩa là đã yên phận, là đã thoát thân phận di dân và cả thân phận da màu:

“Sự đổi màu của tóc

chỉ khác nhau ở dạng thể hoặc bảng giá tiền

tôi có thế nhuộm / thành một người già mới lớn

tôi có thế vẽ / hình thể và màu cờ

tôi có thế đổi / tên

tôi có thế tìm / một thượng đế mới

lúc qua đường vào quán cà phê Starbucks

tôi vẫn không hòa nhập được

màu da / nớ vẫn trơ / lì lợm trên vỉa hè” (NTTĐQ, tr. 53)


Nhà thơ đảm đương thời của mình, đấu tranh cho quyền làm người, đòi phá đổ bất công, rõ nét hơn với Chống Cưỡng Bức Hồi Hương Ở Hồng Kông:


“Bắn vào trại cấm này 40 trái đạn cay

Hàng trăm cảnh sát Hồng Kông lôi ra những người liều mình ở lại

Kẻ có quê hương, sao thà sống trong trại tù khóa trái

Những giọt lệ cay chắc gì vì khói đạn cay”


(ĐCCMN, tr. 121)


Năm 1989 đánh dấu thời của những xáo trộn lịch sử và xã hội: biến cố Bức Tường Bá Linh đã xảy ra, bức tường ô nhục đã thực sự bị đập nát. Đây là biến cố lịch sử lớn đẩy chủ nghĩa vô vọng vào thùng rác nhân loại. Nhà thơ đã canh thức theo dõi, đã nhìn thấy, đã nhận ra nhiều điều:


“1.

Bức tường Bá Linh có thật / Rất thật
Nhưng khi vỡ, nó vỡ như mơ / Rất mơ
28 năm lõa lồ trên mặt đất
Mất hôm qua hay tự bao giờ.

Đừng gởi về Việt Nam bất cứ viên gạch nào
của bức tường Bá Linh
Nó có thể làm tủi cả dòng sông Bến Hải
Đừng để lịch sử phải khóc
dù thời gian không thể quay đầu lại
Và mỗi người Việt Nam sẽ biết thêm
cái giá thống nhất nước mình.


2.

Có những người đập phá bức tường
bằng tất cả niềm vui
Mà không kinh ngạc
Cũng chẳng ai thấy điều gì mất mát
Để chúng ta hiểu đó chỉ là chuyện bình thường
Khi con người bắt đầu đứng lên
đòi quyền sống thật
Ngay cả những giấc mơ cũng có thể bước ra đường
Mọc lên trăm ngàn ngọn nến
Những ngọn nến lung linh
Cả nước Đức phải thức / bước tới tương lai
Và trời sao cúi thấp / Chen lấn với người
Tôi cũng thức
Những cơn gió mùa thu 1989 làm rộn ràng nước Đức
Và tôi vội vàng dấu đi nước mắt
Những giọt nước mắt nuốt ngược ruột gan
Tôi ngoài Việt Nam ngoài nước Đức
Những cơn gió rộn ràng thổi ngoài Việt Nam
Gió ngoài Việt Nam / Rất ngoài Việt Nam (…)

Những bản tin trên màn ảnh nhỏ
như những ngọn đèn không thể ngủ
Tôi không thể ngủ
Khi những ngọn đèn vẫn mọc ngoài Việt Nam
Chiếu sâu vào quá khứ / Tra tấn Việt Nam. (…)

Đừng, đừng nói với Việt Nam bất cứ một tin tức gì
về bức tường Bá Linh
Nó có thể làm Trường Sơn vùng lên tức tưởi
Những bà mẹ không thấy xác đàn con
Những oan hồn / không chiều dài chiều cao chứa nổi.

Hãy cứ để nó sần sùi
Ôi những tảng gạch vô tri vô giác
Đã thành não trạng của những niềm vui

Vừa tự vỡ.


5.

28 năm cuộn tròn / 28 năm không ngẩng mặt
Không dài hơn sông Bến Hải
Không cao hơn Trường Sơn
Hạnh phúc cho nước Đức
Đã dạy bao người bước qua ô nhục
Mà không phải hận thù / bạo lực
Và dạy tôi phải nuốt những giọt nước mắt
Giữa những niềm vui.

Nước Đức ở quá xa / Mưa tháng 11 quá xa
Tôi không ở gần được ôm được khóc
Hạnh phúc cho nước Đức
Đã dạy chúng tôi chiến thắng cao cả nhất
Là trận chiến không tốn máu xương
Và tất cả được sống bình thường
Hạnh phúc cho những bông hoa
Có thể chuyền tay cho bất cứ ai xa lạ
Những bông hoa may mắn hơn chán vạn hoa
Trong chốc lát bỗng nhiên thành cột mốc
Đón sự thật ùa ra

6. Bức tường Bá Linh có thật
Nó có thật tự bao giờ?” - 11/1989


(Bức Tường Bá Linh Có Thật. Thơ Trích)


Bản thân làm người di trú phải hội nhập, nhưng lại vừa làm thơ, làm báo, suy nghĩ về những vấn để của cộng đồng, của thân di trú, dễ lâm vào tình cảnh “một nửa” vì đã bị phân thân:


“Có những trang thư như phản ánh chiếc gương
Nó soi bóng hình ta sâu hơn nữa
Giữa Mỹ Châu chợt thấy mình là một nửa
Một nửa mất rồi là bóng quê hương.

Một nửa kia làm vàng ố bức thư nhà
Nó rất mỏng để vượt qua ngàn tiếng sóng
Nó sát nhập ta vào trời cao biển rộng
Những chữ nhét đầy thành sóng lòng ta.
Có những trang thư nghẹn ngào giữa cổ
Cái cột đèn ở lại cũng thành hòn đá vọng phu
Những bà mẹ lạc giữa hai miền lịch sử
Một trăm con, trăm ngã rẽ hoả mù.
Một nửa kia ào ra như lời mẹ kể
Ta vẫn lang thang ngàn truyện hoang đường
Có những đêm lén nhìn ra cửa sổ
Ta muốn thành trăng nối cả Thái Bình Dương.
Có những trang thư sắc như vết cắt
Ta đọc bàng hoàng như Âu Cơ vừa bỏ Lạc Long Quân
Đế nhớ nhau ở hai đầu trái đất
Những chia lìa này từ mây ngàn năm.
Một nửa kia bỗng nặng nề như quá khứ
Một nửa này trách mình sao vẫn còn mê
Có những dòng thơ bỗng như thác đổ
Mà bóng hình ta một nửa chưa về” (Một Nửa)

“Thành phố này tôi không cần thêm một cái tên khó đọc …
tôi hội nhập / bằng cách bỏ rác vào thùng
tôi trật tự / bằng cách chờ những ngọn đèn xanh đỏ
tôi nhập tịch / như đổi chỗ thuê nhà
tôi đổi đời / học thêm những bài học lạ
tôi làm thơ / như chỗ đổi hình (…)
ở căn hộ này tôi là một di dân
phản bội cái là mình

ấy

tôi vẫn chung tình với những chùm sao
đêm nay tôi leo lên leo lên mãi

trời

nơi những vì sao

cũng đang thành ngoại ngữ” (NTTĐQ, tr. 65, 67)

Cuối Cùng - đó là điểm đến!
Thân phận “di dân” đưa đến tình cảnh “ghetto”:

“Tôi lưu vong giữa trái đất
tôi lưu vong giữa quê hương
tôi lưu vong giữa thành phố
tôi lưu vong giữa những bàn nhậu
rồi / căn phòng này / cũng là một ghetto
tôi đặt một cái gối / chui vào
và tôi lưu vong khi ngủ” 
(Ghetto. MM, tr. 124)


Bận tâm và cố gắng làm người Việt - như ông đã trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Trinh tháng 11-1996: “Tôi trở thành một con người Việt Nam, đơn giản, phổ quát và thế thôi” (2). Ông cập nhật nhân sinh quan và văn nghệ quan?


Và ông trở về Sàigòn:

“Khi trở về
thành phố này đã là một chiếc giường
của kẻ khác
Có kẻ nói lịch sử đã chết
có kẻ nói cách mạng đã chết
có kẻ nói thành phố này đã chết
tôi chui vào giọt nước mắt mình
rồi nằm xuống” 
(Saigon. VK, tr. 107)


Sàigòn Vẫn Mọc Lên, Bước Ở Trên Trời Sàigòn, Mưa Tháng 5 Sàigòn, Tháng 8-2021 ở Saigon, … là những bản thơ khác về thành phố đã mất tên nhưng luôn tồn tại, luôn hữu hình trong tâm thức người Sài Gòn hoặc đã từng ớ đó:

“ở với saigon không thấy saigon
ở với saigon vẫn nhớ saigon
nắng và mưa, trước và sau, trên và dưới, đêm và ngày
saigon vẫn saigon / không thấy saigon trong em
không thấy saigon trong tôi
không thấy kẻ saigon sống sót hậu saigon
saigon tôi và saigon chiếm đóng
lẩn quẩn thế
tôi vẫn không thoát saigon”

(Hậu Saigon. VK, tr. 55)


Sài Gòn cộng với tháng Tư làm khó những người như nhà thơ vào Tháng Tư 2019:


“Có người nói Saigon không nên xuất hiện lúc này
tháng tư năm nay rất nóng
tôi nhớ saigon như nhớ thịt da
tôi nhớ năm nào tôi hẹn uống với tháng tư
bây giờ tháng tư
giữa một thành phố không có cái tên nào đúng chỗ
tôi chỉ muốn say và ngã xuống / giống tháng tư” (VK, tr. 118)


Nhà thơ luôn đa mang với cái bọc lịch sử kè kè theo mình:


“Chỉ một con trăng, mà anh đã đếm bao lần
Lịch sử có bao người nhìn trăng mà nhớ nước?
Những con trăng soi giùm anh tổ quốc
Hỏi sau này, còn bao kẻ phải nhìn trăng” (Sau Này)


Lúc khác, ông khẳng định:


“Có người nói lịch sử viết chỉ là một nửa
Cần gì lịch sử
Thế giới quanh tôi cũng chỉ là một nửa
Tôi đón bình minh tôi nhớ bên kia là bóng tối
Tôi ngồi trong bóng tối tôi nhớ mặt trời
Tôi nhìn tượng anh hùng tôi nghĩ tới máu xương người chiến bại
Tôi yêu thơ tôi thèm tiểu thuyết
Nửa của tôi/ Không cần bằng chứng”

(Một Nửa. Trích talawas, 2007)

Nhà thơ nhận ra mình bị lừa, như cả dân tộc này:


“Tôi không muốn mình bị mặt trăng lừa một lần nữa
tôi không muốn buổi tối lừa mình một lần nữa
tôi không muốn tôi tự lừa một lần nữa …
tôi nhảy vào những con số
những con số lừa tôi
tôi nhảy vào những ly rượu / cơn say lừa tôi
tôi chạy theo đàn bà / cuộc tình đánh lừa tôi
tôi theo quyển lịch còn lại / thời gian lừa tôi
tôi theo tổ quốc / lá cờ đang lừa tôi” (Lừa. NTTĐQ, tr. 63)


Và những Mạo Nhận đáng vạch mặt:


“Thượng đế chưa chết
đã bị cắt tươi từng mảng / thành miếng bánh
mạo nhận / từ ngôn ngữ thánh kinh đến tiếng chửi thề
người chính thống, kẻ ngoài lề / mạo nhận ráo.
thành phố tôi / cái tên cũng mạo nhận
đất nước này / tôi đố mọi cây đuốc
tìm được một người cộng sản
Ê, lúc Karl Marx bước vào nền kinh tế thị trường
hoá ra là thằng đúng nhất” (NTTĐQ, tr. 166)


Phần đầu của Địa Chỉ Của Một Người mở ra với Nếu Phải Tìm Mình mà tựa đề dùng đặt cho toàn phần:


“Nếu dân tộc mình cực đoan trong tinh thần độc lập
chắc xưa Lý Thường Kiệt không thể vừa đánh quân Tàu vừa làm thơ bằng chữ Hán
nay con cháu ông quên cả chữ Hán chữ Nôm
họ viết tuyên ngôn và làm thơ tình
bằng mẫu tự La Tinh từ các ông Cố Đạo.

Nếu không đi sứ qua Tàu

chắc Nguyễn Du không được nghe ra tiếng sóng Tiền Đường
ta cũng không biết những lục bát đoạn trường
chảy theo đời của Thúy.

Nếu ông cha ta khép kín
chắc không thể dựng tượng Khổng tử để trong Văn Miếu
tượng đá này ngàn năm / đã đậm đà như sông núi.

Xưa huyền thoại mẹ cha đã có trăm con
này trăm con không còn là huyền thoại
đứa vô thần đứa theo Chúa Phật
thậm chí, mặc dầu, những kẻ gì đâu
có chia năm xẻ bảy / tôi cũng thấy bình thường
họ cũng là thịt xươngtừ mẹ cha mình đấy.

Nếu đất đai mình thuần nhất
sao vẫn ướt dòng lệ Đồ Bàn
dòng máu ta có thể phát nguyên từ sông Cửu Long hay sông Dương Tử
chảy tới những hòn đảo Thái Bình Dương
ta có thể là mảnh Bách Việt, mảnh Thượng, mảnh Kinh, mảnh Thái, mảnh Chàm, mảnh Kampuchia, mảnh Mã

Tôi sinh ra là người Việt, sống như người Việt
và sẽ chết như người Việt
nhưng Việt là gì / thì tôi không biết.

Nếu mai này được hôn vào đất
hôn mẹ cha đã mở mọi đường
tôi sẽ yêu những con đường đi những con đường ở
đất đã ôm hết thảy mọi nhà / đất của dân là khung cửa mở
để cho đời có thể trăm hoa” (tr. 7-9)

Bài Đến Khi khép lại phần 2-Đến Khi của tập Địa Chỉ Của Một Người:

“Đến khi thơ anh chẳng chở được gì
là lúc trời sao cộng lại.
Nên thơ anh không ở lại
nó bỏ anh thành con ve
hùa theo những ngọn gió hè
nó bỏ anh thành hạt cát
vùi thân vào sa mạc
nó bỏ anh làm ngọn cỏ
thế kỷ này bận bịu dẫm lên
anh ở lại anh biết trời sao có ích
giữa cuộc đời anh phải nhìn lên
quên cả phận mình.
Đến khi không phải làm thơ nữa
là không tự xé mình ra.
Nên thơ anh là đốm lửa
hóa kiếp từ sao xa
kẻ đọc thơ chỉ thấy niềm đau quá chậm
điều thấy hôm nay đã chết tự bao giờ.
nó bỏ anh thành hạt muối
biến hình giữa biển xanh
anh còn bao giấc mộng không thành
vác trên vai người mang tội
anh còn bao niềm đau chưa viết
bị từng biến cố bước qua
thôi thì cũng cầu cho những điều anh chưa biết
sẽ mọc mầm hoa.
Đến khi thơ anh không cần anh nữa
là biết trời sao kia đã bớt đơn côi”


(ĐCCMN, tr. 217, 218)






Chú-thích
1- Nguyễn Mạnh Trinh. “Nói chuyện với Lê Bi, tác giả tập thơ Địa Chỉ Của Một Người”.
2- Bđd.
[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Trung, tr. 318-331]

Bài viết trong
VĂN-HỌC VIỆT NAM 50 NĂM HẢI-NGOẠI - Nguyễn Vy Khanh
NXB Nguyễn (Toronto), 2025. 3 tập










Phỏng vấn cua Npb Nguyễn Manh Trinh / Lê An Thế


Trong năm nay, các bộ môn của văn học Việt Nam hải ngoại đều có nhiều khởi sắc. Chúng ta có những cuốn biên khảo khá tốt, có những cuốn truyện ngắn, truyện dài đặc sắc. Và, nhất là ở bộ môn thơ, đã có nhiều tập thơ được trình làng. Có lẽ, ở mốc thời điểm hai chục năm văn học Việt hải ngoại, những người cầm bút đã xác định rõ rệt tấm lòng đam mê văn chương chữ nghĩa của mình.

Bây giờ, mời bạn đọc đi vào cuộc nói chuyện với tác giả Địa Chỉ Của Một Người, nhà Tân Thư xuất bản tháng 9-1996 California, về thơ, với thơ và cùng thơ…

NMT (11-1996)

Phụ chú của Da Màu: Người có bút hiệu Lê Bi bây giờ làm thơ ký tên là Lê An Thế.





1

NMT: Sau khi xuất bản Thơ Trích năm 1990, Lê Bi tiếp tục xuất hiện khá đều trên một số các tạp chí ở hải ngoại. Trước hết, có lẽ đây cũng là một tò mò thông lệ, xin anh tự giới thiệu về mình?

LB: Tên thật tôi là Hoàng Chính Nghĩa, sinh năm 1949 tại Thái Bình, di cư vào Nam 1954, đi lính Việt Nam Cộng Hòa lúc 19 tuổi, cấp bậc cuối cùng trung úy. Ở lại với đơn vị cho đến lúc đầu hàng. Chiều 30-4, tôi vượt biển, đến Mỹ tháng 7-1975, sống tại California từ 1976 cho đến nay.

2

NMT: Thế còn sinh hoạt chữ nghĩa? Xin anh cho thêm chi tiết? Về mặt này, hình như anh thuộc về “diện” những người viết sau năm 1975?

LB: Tháng 9-1975, từ trại tị nạn, Camp Pendleton, California, tôi được một nhà thờ Tin Lành bảo trợ về sống ở Fargo, tiểu bang North Dakota. Đến phi trường vào chiều thứ sáu, không một đồng xu, không biết tiếng Mỹ, ngay tối chủ nhật, người trong nhà thờ đã giúp tìm sẵn việc janitor cho tôi tại đài truyền hình thành phố. Lương tối thiểu, nhưng đủ sống. Tôi làm ca đêm, gồm những công việc như đổ rác, hút bụi, giặt thảm, lau chùi, rửa cầu tiêu. Quê hương bị cắt đứt hoàn toàn. Không nói, không nghe được tiếng Việt lẫn tiếng Mỹ. Ngọng, điếc và nhếch nhác là đặc điểm của hầu hết người Việt thời đó. Giờ rảnh, tôi chỉ uống rượu, nhớ nhà và thỉnh thoảng, khóc. Vài tháng sau, liên lạc được với Hoàng Quốc Bảo, bạn cũ từ Sàigòn, sống ở tiểu bang Illinois, tôi có viết một bức thư dông dài kể về mấy ngày cuối trong đơn vị lính (nằm ngửa nhìn trời đếm tiếng pháo) và cuộc vượt biển của mình. Hoàng Quốc Bảo sau đó dọn về California, có đem bức thư đó cho Du Tử Lê xem, và cả hai rủ tôi về tiểu bang này cho ấm áp, cho gần nhà, nhưng thật ra là để làm báo, vì họ tin tôi có khả năng làm báo… chùa. Sau những cơn mưa tuyết cuối năm đó, vừa có bằng lái xe, mua được chiếc xe cũ 300 đô, tôi đi ngay.

Về Nam California đầu 1976, tôi làm thư ký tòa soạn cho báo Quê Hương của Du Tử Lê. Bắt đầu có thơ đăng báo từ đó. Sau đó có in chung một tuyển tập thơ gồm 4 người là Thục Ngạn, Trần Mộng Tú, Du Tử Lê và tôi, nhan đề Thi Ca và Lưu Đày, có cả phần dịch qua tiếng Mỹ. Cuối năm 1976, tôi đi học ở San Diego, có làm tờ báo Việt Hội, là một đặc san của hội sinh viên Việt Nam trong trường. Cũng ở đây, tôi cộng tác với Đinh Thạch Bích làm tờ Việt Nam Hải Ngoại. Cũng xin kể một chuyện ngoài lề, là có lần, trong một cuộc thuyết trình về cuộc sống của công đồng tị nạn, tôi mang đầy một ba lô gần 100 tờ báo Việt ngữ xuẩt bản khắp nơi trên thế giới, từ vài trang trở lên, in ấn xấu xí, nội dung sơ sài. Cả lớp thầy và trò, hầu hết là Mỹ, họ đều ngạc nhiên, nhưng chúng tôi hiểu, ngay từ thời đó, 1976-77, mỗi người Việt Nam đều có thể là một… tờ báo.

Đầu năm 1977, tôi cùng Hoàng Khởi Phong, Hoàng Quốc Bảo chủ trương nhà xuất bản Bố Cái, có ấn hành được Tuyển Tập Thi Ca 1975-77, gồm 8 người là Trần Mộng Tú, Thi Thạch, Giang Hữu Tuyên, Hoàng Phú Hoan, Nguyễn Nam An, Cao Tần và tôi, có cả phụ bản nhạc của Hoàng Quốc Bảo, rồi tuyển tập tùy bút Ngẩng Mặt Nhìn Trăng Sáng với Hoàng Khởi Phong, rồi tập thơ Thơ Tình Cùng Trời Đất ký tên Hoàng Đông Quải. Nhà xuất bản cạn tiền, tôi chán nản, bỏ hết, vì lúc bấy giờ, văn chương lưu vong của chúng tôi chỉ gắn chặt với quá khứ, than vãn, u uất. Cho tới khi có những biến động của công nhân Ba Lan từ thập niên 80, đã làm sự suy nghĩ của tôi thay đổi rất nhiều. Đây là một cuộc đấu tranh chống lại chính quyền xã hội chủ nghĩa, mà lực lượng chính lại là giai cấp công nhân, với sự ủng hộ của trí thức văn nghệ sĩ và giáo hội Công Giáo. Từ trước cho đến lúc ấy, các cuộc nổi dậy, đòi hỏi tại các quốc gia cộng sản, đều bị đàn áp thẳng tay. Một mặt, ở các nước Đông Âu, cả quần chúng lẫn nhà nước, đều sợ sự can thiệp trực tiếp bằng xe tăng Liên Xô như ở Ba Lan năm 1956, ở Tiệp năm 1968. Nhưng những mục tiêu của những người đấu tranh đã tự giới hạn lại, kiên nhẫn, khả thi và từng bước. Tóm tắt, đây là một cuộc đấu tranh xây dựng xã hội dân sự (civil society), tách chính quyền ra khỏi những sinh hoạt bình thường văn hóa, xã hội, tôn giáo, báo chí của… quần chúng. Liên Đoàn Công Nhân Liên Đới Ba Lan được chính thức công nhận, rồi, liên tiếp sau đó, 1989, một năm có những biến cố sững sờ, như Liên Đoàn Công Nhân Liên Đới Ba Lan nắm chính quyền qua bầu cử, các biến cố ở Thiên An Môn, rồi sự sụp đổ bất ngờ của bức tường Bá Linh… tôi bắt đầu có lại niềm tin.

Trong thời gian đó, tôi có cơ hội đọc sách báo rất nhiều từ trong nước. Tôi thu mua được khá nhiều, từ Tạp Chí Cộng Sản, Sông Hương, Văn Nghệ cho đến các sách chính trị, văn học. Sau kỳ Đại hội 5 của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nghị Quyết 5, 1986-89, đã nở rộ những sáng tác mới, văn học trong nước đã không còn là một khu vườn đầy hoa cúc nữa. Những người phía “bên kia,” họ vẫn còn đầy khát vọng về tự do, hạnh phúc. Con đường “độc lập, tự do, hạnh phúc” mới đi được một phần ba. Họ cũng có những bức xúc như tôi. Không khác. Câu hỏi, là tại sao có một thời, xem nhau hơn cả kẻ thù.

Tôi như kẻ đầu thai lại. Thành người Việt. Không còn vướng bận bên này hay bên sông Bến Hải nữa.

Không còn là người quốc gia cũng chẳng là người cộng sản. Tôi trở thành một con người Việt Nam, đơn giản, phổ quát và thế thôi.

Ngay sau đó, tôi tham dự vào việc thực hiện quyển Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương (1990), nhà xuất bản Trăm Hoa 1991, tạp chí Hợp Lưu cuối năm 1991, rồi năm 1992, tạp chí Đối Thoại. Nhưng tôi chưa hề gia nhập một đoàn thể, tổ chức hoặc đảng phái nào. Tôi vẫn còn quan tâm đến chuyện xã hội, nên gắn bó với tờ Đối Thoại hơn vì đây cũng là trách nhiệm chính trị của mình. Đây là một tờ báo có chủ trương rõ ràng về mục tiêu cũng như phương pháp. Mục tiêu là dân chủ và phát triển Việt Nam. Phương pháp là bất bạo động, đối thoại và tôn trọng tất cả các khuynh hướng chính trị khác nhau.

3

NMT: Như vậy, anh vừa chủ trương xuất bản, vừa thực hiện tạp chí, vừa biên khảo, vừa viết đoản văn, vừa làm thơ. Rồi việc kiếm sống nữa chứ! Và, công việc nào anh thích nhất?

LB: Cho đến giờ phút này, tôi chưa hề được trả một đồng nào cho ngòi bút, kể cả những chuyện như đánh máy, trình bày, thực hiện, gởi báo bưu điện hoặc gởi báo ngoài chợ vân vân. Tất cả đều làm chùa, và thường thì phải bỏ thêm tiền túi ra ủng hộ. Tôi vẫn đi làm nuôi thân, giúp bố mẹ ở Việt Nam, và một gia đình 2 con nhỏ. Tôi không thích làm báo, vì cần nhiều nỗ lực, giao tế, kiên nhẫn, là những đặc điểm tôi rất kém. Biên khảo và văn xuôi mất nhiều công sức. Nên tôi thích làm thơ. Tự do và ít tốn thời giờ. Một mình một thế giới. Tờ giấy trắng là vương quốc mới của mình. Rồi bỏ đi. Đó là những lúc gần thượng đế hơn cả.

4

NMT: Tại sao, với anh, làm thơ là có thể gần thượng đế? Hình như anh có lúc nhận mình là vô thần?

LB: Thơ là chuyện mơ màng. Là cánh cửa. Là khoảng trống. Không cần rõ ràng. Thượng đế là một con đường vô tận. Nhưng thơ và thượng đế đều không phải là tôn giáo của tôi.

5

NMT: Thế còn việc nhà xuất bản Trăm Hoa, rồi từ Hợp Lưu, nhảy qua Đối Thoại mà anh vừa nói là gắn bó nhất? Tôi nghe Đối Thoại đã gây tiếng vang về với trong nước, và được chính quyền xếp vào hạng âm mưu “diễn biến hòa bình” của đế quốc vân vân và vân vân.

LB: Sau khi quyển Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương xuất hiện, chúng tôi bị chống đối và được ủng hộ rất nhiều. Hầu như mọi người tham dự đều bị chửi bới, từ ngây thơ, trở cờ, thân cộng cho đến tay sai cộng sản. Đôi khi bị cả hăm dọa bằng võ lực. Tôi cũng bị một người bạn đồng ngũ của mình trước đây, có đi học tập cải tạo một thời gian, vượt biển, có đến tìm và chỉ thẳng vào mặt tôi: “Nếu tao có bằng chứng mày theo cộng sản, thì chính tay tao sẽ bắn mày.” Tôi thông cảm, hiểu và ngay cả thương sự suy nghĩ đó. Cũng vì tình bạn cũ, tôi chỉ trả lời: “Nếu trước 1975, tôi đã không là cộng sản, thì sau 1975 tôi lại càng không thể là cộng sản. Còn nếu có bằng chứng rõ ràng, thì cứ bắn.” Còn những chuyện như chửi bới trên báo của cộng đồng, hoặc thậm chí, tổ chức đốt hoặc kéo lê sách “hoa hồng xám” khắp Bolsa, kiểu… Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém đi khắp miền Nam, thì không đủ để tôi sợ.

Sau đó, khoảng giữa 1991, tôi tiếp tục, và chủ trương nhà xuất bản Trăm Hoa. Có in được một tuyển tập nhiều người trong và ngoài nước về xã hội, văn hóa, chính trị Những Vấn Đề Việt Nam, rồi Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, Việt Nam, Khủng Hoảng và Lối Ra của Nguyễn Kiến Giang, một tuyển tập gồm những bài viết của Đoàn Viết Hoạt… vân vân. Lúc đó, một người tôi vừa quen vài năm qua các quán café và bàn nhậu, là Khánh Trường, có viết một quyển sách, ký tên Tống Ngọc, cấm trẻ em dưới 18 tuổi, kiểu 3 chữ XXX, bán rất chạy, tái bản nhiều lần. Khánh Trường là cựu lính Nhảy Dù, đã bị thương nhiều lần ngoài mặt trận, trong người vẫn còn mảnh đạn, chịu uống, chịu chơi và dám trả tiền cho người khác, được một số tiền lớn, chừng vài ngàn, quyết định bỏ hết số tiền này để thực hiện một tờ tạp chí văn học, cho cả trong và ngoài nước, không kiêng kỵ quá khứ. Khánh Trường có rủ một số người trong vùng như Nhật Tiến, Phan Tấn Hải, Đỗ Hữu Tài, Lê Thứ và tôi để bàn về tờ báo. Khánh Trường chỉ yêu cầu là chúng tôi ủng hộ về tinh thần và vật chất, mổi số mỗi người đóng 200 đôla, chỉ cần từ một đến hai năm, những chuyện còn lại, Khánh Trường sẽ lo tất cả. Chúng tôi đồng ý ngay, rồi họp hành liên miên, hàng tuần, ban đầu mọi người đều đồng ý lấy tên là Giao Lưu, nhưng ngay trước khi báo ra, Nhật Tiến, giữa đêm, có điện thoại đề nghị lại, lấy tên là Hợp Lưu, theo ý của người em Nhật Tiến là Nhật Tuấn, còn ở trong nước. Chúng tôi thấy hợp lý hơn, hay hơn và bớt khiêu khích hơn, nên cái tên Hợp Lưu phát sinh từ đó. Sau đó, một số các thân hữu ở xa, như Lê Thị ThấmVân, Thụy Khuê, Trần Vũ, Trương Vũ… cũng cộng tác đóng góp bài vở và tiền bạc như thế. Khánh Trường là chủ nhiệm kiêm chủ biên, có Phan Tấn Hải và Phạm Việt Cường phụ tá, Hoàng Sử Mai và Đỗ Hữu Tài phụ trách nghiên cứu lý luận, với một số cộng tác có thể đầy hơn một trang báo.

Nhưng Hợp Lưu ra đời, mỗi số chỉ có một bài biên khảo, thiên về văn và triết hơn là các bài xã hội, chính trị, nên sau một vài số, tôi thấy có một nhu cầu một tờ tạp chí chuyên, tập họp nhiều khuynh hướng khác nhau (Khánh Trường hay chọc là… nghiêm và buồn), viết một bức thư ngỏ gởi đi, và được sự hưởng ứng trực tiếp của 15 người. Tờ Đối Thoại ra đời, tôi được bầu làm chủ biên, thực sự đó chỉ là công việc chọn bài, thực hiện, đánh máy, sửa chữa chính tả, liên lạc, đứng tên trước pháp luật, phát hành báo vân vân, đôi khi rất lặt vặt và tốn nhiều thời giờ. Đây cũng là một nỗ lực về mặt nội dung và kinh tế của rất nhiều người. Vừa ra được hai số, phấn khởi thì có chuyện Đặng Phong, phó tổng biên tập báo Giá Cả và Thị Trường ở Hà Nội, qua ngõ giới thiệu của bè bạn bên Pháp qua chơi. Chúng tôi đón tiếp niềm nở. Đặng Phong có tài ăn nói, thuộc nhiều chi tiết cung đình và các nhân vật văn học dưới xã hội chủ nghĩa, và có sức thuyết phục về chuyện đổi mới ở Việt Nam. Tôi mời ông về nhà chơi vài ngày, có đưa đi chơi cả Disneyland lẫn Las Vegas chung với gia đình. Rồi có thể, một lý do nào khác nữa, tôi bất ngờ bị một người trong nhóm viết thư tố cáo tôi đã theo phe “cộng sản bảo thủ.” Tôi không có bằng chứng để cãi lại, phản ứng giận dữ, rút ra khỏi tờ báo, xin trả lại tiền quỹ, môn bài, danh sách độc giả và bài vở, thì những người còn lại không ai đứng ra nhận đi tiếp. Lúc ấy, Trương Vũ, ở Washington DC, nhảy vào nhận chức chủ biên, với điều kiện tôi tiếp tục hoạt động cho đến số 5. Tôi nhận lời, và Đối Thoại đến số 5 thì chết. Tôi chỉ là người sinh hoạt bằng cảm tính, hoặc theo bằng hữu, nên vụ đổ vỡ này, là một khủng hoảng lớn nhất của tôi về mặt bạn bè. Đối Thoại thành hình từ sự tự phát, không có một cơ cấu tổ chức nào cả, tình bằng hữu vỡ, nó rất khó tồn tại. Tôi chán nản, ít giao du và sống trong tình trạng trầm cảm. Chỉ ân hận một điều, là rất nhiều người trong và ngoài nước, đã điện thoại, gởi thư, nhắn tin khuyên tôi bằng mọi giá phải để tờ Đối Thoại sống. Nhưng tôi không khả năng gì hơn được. Cho đến nay, tôi vẫn thấy mình mắc nợ tinh thần với họ. Tôi luôn luôn mắc nợ. Nợ nhà,nợ xe, nợ tín dụng, nợ đàn bà, nợ cơm áo, nợ bè bạn cho đến bây giờ là những món nợ tinh thần. Không bao giờ trả hết.

6

NMT: Thế ngoài ra anh còn nợ những… cái tên khác hay không? Anh có nhiều bút hiệu: Lê Tôn, Hoàng Chính Nghĩa, Hoàng Sử Mai, Hoàng Đông Quải… Tại sao lại bị nợ nhiều thế?

LB: Cái tên chỉ là một biểu tượng, không bao giờ là cái thật. Thế mà con đường thơ là con đường đi tìm cái khác, thật hơn, thiên đường hơn. Tôi nghĩ là không bao giờ tới. Cho đến khi nằm xuống. Mãi mãi chĩ là cuộc kiếm tìm. Tôi lại mau chán, kể cả cái tên do chính cha mẹ đặt ra. Tôi hay bị Khánh Trường chọc ghẹo bởi bút hiệu… Lê Bi. Có lần, Mai Thảo, một người tôi rất trọng về nhân cách và phong thái uống rượu, tới nhà tôi chơi, uống rượu, đông người, có cầm thơ tôi lên đọc rồi vất xuống, lắc đầu: “Thơ được, nhưng tên hỏng.” Cao Xuân Huy, một người hay uống rượu nhưng ít đùa, bạn cùng trường trung học Nguyễn Trãi , cũng chọc: “Lê Bi là tên thật, còn Hoàng Chính Nghĩa mới là bút hiệu.” Tôi không giận, vì chỉ thấy tên gì đi nữa, không bao giờ là mình cả.

7

NMT: Bây giờ nói chuyện với Lê Bi, một thi sĩ. Đầu tiên, tại sao anh làm thơ? Để làm gì: vị nghệ thuật hay vị nhân sinh, hay vì một lý do nào khác?

LB: Tôi không thể nghĩ ra là mình vị cái gì, vì đây chỉ là một câu hỏi sau khi làm thơ xong. Tôi chỉ thấy thơ trong tôi, là một nhu cầu, là một khẩn cấp, đôi khi chỉ xuất hiện tình cờ, ngẫu tính. Như lúc mình sinh ra, không có chủ đích gì cả. Sau đó, mọi người, kể cả tác giả, tha hồ diễn giải. Nói theo lối “hậu hiện đại” của tây phương, tác giả đã mất chủ quyền khi sáng tác vừa xuất hiện, và có thể bị cả thực dân hóa nếu các nhà phê bình đụng đến. Văn chương thời nay không nói đến một thế giới thiên đường đồng nhất cho tất cả nữa. Sự hứa hẹn vẫn chỉ dành cho các bản diễn văn và tuyên ngôn chính trị. Trong văn bản của văn chương không còn thông điệp. Nhưng chúng ta vẫn có quyền thốt lên, hoặc lắng nghe những tín hiệu trong chữ nghĩa.

8

NMT: Dù thơ với anh là một tình cờ, ngẫu tính, nhưng có điều gì trăn trở trước khi cầm bút không? Hoặc một tâm sự, hoặc nói với người này, hoặc ai đó về ý nghĩ của mình?

LB: Cần gì phải cầm bút mới trăn trở. Ngay cả đứa bé Việt Nam lên 9 lên 10, cho đến những người già, ai không có những thèm khát, những suy nghĩ riêng, lúc rõ, lúc mờ, khi ẩn, khi hiện. Thậm chí, khi nhìn những con khỉ cha, khỉ mẹ, khỉ con, tôi cũng tưởng tượng đến những băn khoăn nguyên thủy của loài người cách đây cả triệu năm. Nhưng từ bức xúc, cảm hứng, ra thơ, lại là chuyện khác. Có thể là một khoảng cách, chuyên môn hơn. Nếu may mắn nhảy qua được khoảng cách đó, ra thơ, thì tôi cũng không nghĩ đến chuyện thơ từ ai cho ai và bởi ai.

9

NMT: Nói đến tính chuyên môn, khi… nhảy qua mà làm thơ, anh có những ý định tiền chế nào về thể loại cũng như nội dung của bài thơ sắp làm?

LB: Không và có.

Không là khi làm thơ, chữ tìm chữ trên trang giấy, ý tưởng này đẻ ra ý tưởng kia, đôi khi chỉ là cuộc rượt đuổi bất tận. Chỉ cần một hình ảnh, một cảm xúc, một nốt nhạc, một chữ, một bóng hồng… là tưởng tượng bắt đầu, có thể thơ xuất hiện, đôi khi gây cả bất ngờ cho người viết.

Có là tôi vẫn mơ màng ra thể loại, ý tứ, ngắn dài. Nhưng chắc chắn không chuẩn bị rõ ràng như một trận đồ quân sự.

10

NMT: Mơ màng như thế, nhưng khoảng thời gian trước đây, anh hay làm thơ lục bát, hoặc 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ… Bây giờ những bài thơ của anh đều theo thể tự do. Tại sao anh có sự thay đổi như vậy. Có phải là một trận đồ, hình như khá rõ ràng, có chủ đích?

LB: Sau 1975, lúc mới bắt đầu đọc và viết, tôi thấy sự hiểu biết của mình về mọi mặt rất yếu kém. Nên có thể, lúc bắt đầu tôi phải dựa khá nhiều vào khuôn mẫu, niêm luật. Nhưng càng về sau, tương đối làm chủ được sự suy nghĩ cũng như ngôn ngữ, nên tôi cần tự do hơn, cần những khoảng trống hơn, nên một cách tự nhiên, tôi làm thơ tự do. Dù là tự do đấy, thơ vẫn có một số quy luật riêng, nhạc tính riêng. Nhưng, biết đâu sau này, tôi lại quay về với thơ cũ. Rất cũ. Nhìn trăng sau Lý Bạch cả ngàn năm. Nhưng trăng vẫn mới. Vẫn đẹp. Chúng ta chỉ gọi trăng là trăng, nhưng Trịnh Công Sơn lại hát: “từ khi trăng là… nguyệt.” Rất khó chọn một, vì chúng ta vẫn còn quá khứ và vẫn còn phải sử dụng chữ… là.

11

NMT: Anh có băn khoăn nào về thơ mới và thơ cũ?

LB: Xin anh phân biệt cho tôi thế nào là thơ mới và thơ cũ? Thơ của cá nhân hoặc một cái nhìn chung cả văn học?

12

NMT: Câu hỏi của tôi khá rõ ràng, nhưng nếu muốn, xin anh nói về cả hai.

LB: Tập thơ, của tôi thôi, vừa in ra, mùi mực còn nồng, tôi đã thấy nó cũ. Quá cũ. Tôi chỉ muốn bỏ đó mà đi tiếp. Thơ mới của cá nhân tôi, thì chỉ là những điều tôi chưa gặp. Còn về phương diện văn học sử, tôi chỉ là người đọc sau này, thơ mới Việt Nam có thể bắt đầu bằng bài “Tình Già” của Phan Khôi, xuất hiện năm 1932. Một cái tôi lồ lộ, chễm chệ. Già đấy, nhưng vẫn có quyền tình, bây giờ vẫn còn đáng yêu và đáng phục. Tôi xin nhắc là hai năm trước đó, thực dân Pháp đã đàn áp đẫm máu Việt Nam Quốc Dân Đảng và Xô Viết Nghệ Tĩnh, thì cảm tính thơ chăng, nhu cầu giải phóng đất nước phải đi đôi với nhu cầu giải phóng con người. Có nghĩa là giải phóng con người ra khỏi cái cũ, cái truyền thống, cái đặc sản đặc thù, đôi khi chính trị chỉ sử dụng để chèn ép văn hóa và đời thường. Rất tiếc là vấn đề giải phóng đất nước đã xong, nhưng vấn đề của con người vẫn còn đó. Theo tôi, thơ luôn cần mới, mới và mới. Không ngừng được. Nhưng nếu hiểu theo văn học sử, thì từ trước đến nay, thơ chỉ có một dòng, dù đó là thơ văn Lý Trần, thơ tiền chiến, thơ lãng mạn, thơ kiểu Xuân Thu Nhã Tập, thơ yêu nước, thơ hiện thực, thơ miền Bắc, thơ miền Nam, thơ hải ngoại… đều nằm trong đó cả. Chưa đi ra ngoài và cũng không hề vượt qua. Đôi khi đọc thơ thiền Lý Trần, lục bát Nguyễn Du, hoặc thơ nôm Nguyễn Trãi, tôi thấy rất mới, hoặc thấy ngược lại, một số thơ gần đây, dù thể thơ rất tự do. Không biết nên ngừng ở chỗ nào.

13

NMT: Như vậy, mới lạ có phải là yếu tố tiên quyết để thành một bài thơ hay?

LB: Một bài thơ, hay bất cứ một sáng tác nào, cần phải mới lạ, và nếu cần, phải khác cả cái cũ của mình. Nhưng mới lạ chỉ là một trong nhiều yếu tố thôi. Tôi nghĩ là tất cả mọi người đều không thể “nhất trí” về vấn đề này.

14

NMT: Anh chú trọng đến yếu tố nào khi làm thơ: ngôn ngữ, vần điệu, hình ảnh, ý tưởng, chuyên chở…?

LB: Tất cả những điều kể trên, và cả những điều anh chưa nêu ra. Nghĩa là tôi không chú trọng vào các khuôn mẫu có sẵn.

15

NMT: Anh có hay đọc thơ của các thi sĩ Việt Nam và ngoại quốc không?

LB: Tôi thích đọc thơ, thường khi có một tạp chí, tôi thường tìm đọc những bài thơ trước. Đọc thơ Việt, đọc thơ dịch, đọc thơ hay, đọc thơ dở. Những người lãnh đạo miền Nam như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh, không viết sách và không làm thơ nên tôi ít tốn thời giờ với họ. Trừ trường hợp Trần Văn Hương, tổng thống kế chót của miền Nam, tôi nghe kể, có làm câu “Ngồi ruồi, gãi dái dái lăn tăn” hồi mất chức thủ tướng thập niên 60, tôi thấy táo bạo, tìm mãi nhưng không thấy văn bản. Những người lãnh đạo xã hội chủ nghĩa, không những họ hay viết sách chính trị, mà còn làm thơ nữa. Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Trường Chinh đều có làm thơ. Thơ kiểu “Ta nhất định thắng, Địch nhất định thua…” tôi còn đọc đủ 4 câu nữa mà. Tôi còn thích cả… mua thơ. Có lần Nguyễn Duy, tới nhà tôi chơi, đông đảo, đọc thơ. Tôi có mang tập Cát Trắng, đầu tay của anh, in hồi 1973 ở Hà Nội cho anh xem, thật ra là định xin chữ ký. Nguyễn Duy bất ngờ, nói là chính mình cũng không còn tập này, tìm lại khắp nơi mà không có. Tôi bèn tặng lại tác giả ngay.

Không những đọc thơ trên giấy, tôi lại còn thích nghe người khác đọc thơ. Một lần, khi nghe bài thơ “Tĩnh Dạ Tư” của Lý Bạch, bằng tiếng quan thoại, tôi thấy bài thơ này hay hơn hẳn dù không hiểu gì tiếng Tàu. Thanh âm của thơ, đôi khi có thể xuyên qua khắp người. Có những lúc mình thoát ra ngoài biên giới như vậy. Đối với thơ tây phương, đọc qua các bài dịch, cảm hứng đã giảm, có thể vì những khoảng cách văn hóa, xã hội còn lớn. Ngay cả khi có đủ khả năng đọc trực tiếp bằng tiếng Mỹ, tôi cũng không có nhiều cảm xúc như khi đọc thơ tiếng Việt, kể cả các nhà thơ lớn được các giải văn chương nổi tiếng. Tôi thích thơ của e.e. cummings vì ngữ ảnh đẹp, thơ Carl Sandburg vì tính xã hội, thơ Sylvia Plath vì sự dữ dội, thơ Charles Bukowski vì tính dung tục, thơ Charles Wright, Gary Snider vì chất cô đọng đông phương. Tôi có đọc đầy đủ thơ của Neruda (qua các bản dịch Việt và Mỹ), thấy cũng vậy vậy, nhưng sau khi xem phim The Postman, tôi lại thấy thơ ông này hay thật, được giải Nobel là đúng. Tôi thắc mắc mãi vì chuyện này. Vì trước đây mình chậm hiểu, tâm hồn nhỏ, hay vì màu sắc, âm thanh, cốt truyện, tài tử trong phim tác động. Nhưng thế nào đi nữa, tôi vẫn chịu phép, đứng lại trong biên giới và sự cô độc của một người làm thơ Việt Nam.

16

NMT: Và anh chịu ảnh hưởng từ thi sĩ nào nhất?

LB: Tôi mau chán, hay thay đổi, không có khả năng giữ được cái gì là của riêng mình, nên hay ảnh hưởng tại chỗ những gì vừa đọc. Nhưng có gì của nhân loại không ảnh hưởng từ một cái khác đâu. Đạo Phật chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Ấn Độ Giáo. Công Giáo xuất xứ từ đạo Do Thái. Ngay cả về đời sống thường ngày, chúng ta cũng đã rất tây phương từ cách ăn mặc, suy nghĩ, tổ chức giáo dục, kinh tế, xã hội, quân sự vân vân. Một tay cầm, một đoạn phim, một khúc nhạc, một trang giấy cũng đều ảnh hưởng trực tiếp đến tôi. Một số người cho thơ tôi, gần đây, có một số bài giống Chế Lan Viên. Nguyễn Mộng Giác hay trêu chọc tôi là Chế Lan… Bi. Điều này khá đúng. Tôi thích thơ ông này, gần như toàn bộ, kể cả những bài thơ… cúng cụ, nhưng đặc biệt là thơ ở giai đoạn sau, vài năm trước khi Chế Lan Viên mất. Khi vừa có được hai tập thơ Di Cảo, tôi đọc một mạch, trang trọng, từ đầu đến cuối. Trong khi đó, mặc dù đọc Kiều hoặc Chinh Phụ Ngâm nhiều lần, tôi chưa bao giờ đọc một mạch.

17

NMT: Tập Địa Chỉ Của Một Người anh hoàn thành trong trường hợp nào và trong thời gian bao lâu?

LB: Sau khi nhà xuất bản Trăm Hoa và báo Đối Thoại chết, tôi quay về làm thơ. Nhưng in thơ bây giờ rất khó. Không ai mua. Các chợ và nhà sách đều từ chối không chịu nhận bán hộ. Tôi chỉ in con số tối thiểu là 500 cuốn. Một người bạn gái hẹn sẽ mua 20 tập nếu tôi chịu in, nên tôi xếp đặt lại thơ mình, từ năm 1990 đến nay. Tôi lại không bao giờ chịu nhờ ai viết tựa, điểm sách, giới thiệu, phê bình, quảng cáo hoặc tổ chức ra mắt sách, nên số 480 cuốn còn lại cho không biếu không cũng không thể hết. Có thể tôi sẽ tự bỏ thơ mình vào thùng rác recycle. Thơ tôi cần kiếp luân hồi.

18

NMT: Tập thơ này có hai phần “Nếu phải tìm mình” và “Đến khi,” tại sao anh bố cục như vậy và có dụng ý gì?

LB: Chỉ là một mở và một đóng của cả tập thơ. Nếu có thể, tôi tạm chia ra làm hai phần, một con người cộng đồng và một con người riêng. Nhưng vẫn không đủ. Vì thật ra, như anh, như tôi, như tất cả chúng ta, đều có nhiều mặt khác nữa.

19

NMT: Có phải hai phần là phần thời thế và phần thơ tình?

LB: Tại sao phải chia lằn ranh như thế? Hai yếu tố này có thể đan kẽ với nhau. Những viên đá ném từ đám trẻ Palestine, những cánh tay của công nhân Ba Lan, những chiếc loa, và lều, của sinh viên Trung quốc ở Thiên An Môn, những nước mắt và máu của đồng bào vượt biển trước hải tặc Thái Lan, những viên gạch đổ xuống của bức tường Bá Linh, hoặc mùi lựu đan từ Hồng Kông, theo tôi cũng đầy cảm xúc, có thể thành tình. Và trong thơ tình, cũng có thể đầy yếu tố thời thế.

20

NMT: Anh có nghĩ là khi làm thơ thời thế, chúng ta có mục đích ở thời điểm ngắn hạn? Còn thơ tình, thì dài hơn, muôn thuở, bởi chúng ta sống là còn phải yêu và còn đọc thơ tình?

LB: Ai dám bảo bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt chỉ nằm ở một thời điểm ngắn hạn, dù đã xuất hiện cách đây cả ngàn năm. Lý Thường Kiệt là một con người văn hóa, một tướng anh hùng và một quan thái giám, có làm thơ tình đâu. Tôi nghĩ đó là tính phổ quát của tác phẩm. Nghĩa là có những cái chung.

21

NMT: Có rất nhiều biến cố chính trị của thế giới tạo thành chất xúc tác cho thơ anh. Anh có còn là thi sĩ Việt Nam hay một con người làm thơ nói chung?

LB: Thế giới đang càng biến thành một cái làng. Những biến động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, di dân đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ lẫn nhau. Việt Nam, vẫn còn là một nước nhược tiểu về nhiều mặt, hầu như khó làm chủ được các biến động cho chính số phận mình, mà nhà nước vẫn chỉ mở cửa he hé thôi, nên quê hương vẫn tiếp tục là một cái làng… khác, đôi khi rất Vũ Đại. Tôi cảm thấy rất gần với các cuộc tranh đấu cho nhân quyền, cho dân chủ, cho đổi mới, cho công bằng xã hội ở bất cứ chỗ nào trên mặt đất. Tôi cảm phục Mandela, Walesa, Havel, Gorbachev hơn bất cứ một lãnh tụ chính trị nào của Việt Nam hiện đại. Đó là mặt công dân thế giới của mình. Mặt kia, tôi vẫn Việt Nam, mãi mãi Việt Nam. Tôi không thấy mình mâu thuẫn ở điểm này, mà chỉ sợ hãi tinh thần dân tộc cực đoan, một hiện tượng nghịch lý ở cuối thế kỷ 20.

22

NMT: Có phải thơ trí tuệ hợp với sự chuyên chở những suy tư về thời thế?

LB: Không nhất thiết. Thời thế cũng phải gây cho ta những cảm xúc, những tứ, những tình. Theo tôi, thơ trí tuệ là thơ của cô đọng, có dẫn giải, có quan sát, có phản đề, có so sánh, rồi cuối cùng đúc kết bất ngờ. Nhưng cần gì phải thời thế, đôi khi chiếc lá vàng, tiếng mưa rơi, con chim bói cá, một hạt sương vỡ cũng có thể làm ta triết lý vụn về đời sống. Người đọc chạy theo tấm bảng chỉ đường của thi sĩ, dù nhiều khi, một tấm bảng chỉ đường… trật lất. Còn nếu thơ chỉ thuần suy tư về thời thế, nếu không có ý, tứ, tình trong đó, nó lại dễ thành biểu ngữ. Khi người làm thơ vẫn còn dính vào những tranh chấp và áp đặt chính trị, thì chắc, biểu ngữ nhiều không kém thơ.

23

NMT: Một số người cho rằng anh có một số bài thơ trí tuệ. Anh có đồng ý với điều trên không? Và anh dùng kỹ thuật nào?

LB: Tôi không thể tự phê bình thơ mình được. Nội dung lẫn kỹ thuật. Chỉ là những dòng chữ ngẫu tính.

24

NMT: Cũng có người nói anh làm thơ khác với dòng thơ Việt hải ngoại, nhưng lại có nhiều điểm giống với dòng thơ trong nước. Anh suy nghĩ sao về nhận xét này?

LB: Tôi không sợ hãi, không quan tâm đến chuyện thơ mình vị ai như hồi nhiều thập niên trước, hoặc thơ mình ở đâu, từ đâu như kiểu Neruda. Tôi đồng ý với Lại Nguyên Ân, ở Hà Nội, cũng có tới nhà tôi chơi vài ngày, là văn học Việt Nam chỉ có một dòng, kéo từ hồi lập quốc, mà trong đó thơ văn Lý Trần, văn học phong kiến, văn học tiền chiến, văn học xã hội chủ nghĩa, văn học miền Nam 1954-1975, văn học người Việt nước ngoài chỉ là những nhánh của mẹ. Không ai có thể tự nhận mình là chính thống mãi được. Một bài thơ hay có thể sống lâu hơn một triều đại lớn. Nguyễn Trãi đã bị triều Lê, Cao Bá Quát đã bị triều Nguyễn tru di tam tộc, thế mà chúng ta, cả trong lẫn ngoài nước bây giờ đều nhận đó là hai nhân vật văn học kiệt xuất. Nếu bảo thơ tôi giống như dòng thơ trong nước cũng tốt thôi. Tôi vẫn mang được quê hương theo mình.

25

NMT: Anh có làm thơ tình nhiều không? Lúc trước năm 1978, anh có in một tập thơ Thơ Tình Cùng Trời Đất ký tên Hoàng Đông Quải. Còn bây giờ?

LB: Làm thơ đã là tình rồi. Một trang giấy cũng đã đầy tình trắng toát. Nhất thiết gì mà phải dành cho ai.

Và anh cũng làm tôi ngạc nhiên, vì đây là người thứ hai nhắc đến tên Hoàng Đông Quải. Người thứ nhất là Nguyễn Tất Nhiên, tôi chỉ quen những năm cuối thập niên 80 (cũng qua các bàn rượu). Những lúc ngà ngà, say say Nhiên hát và đọc thơ rất hào sảng. Thường thì Nhiên chỉ đọc thơ của mình, nhưng một lần Nhiên đọc vài câu thơ, thấy quen quen ngờ ngợ, tôi hỏi thơ ai vậy. Nhiên nói thơ của… Hoàng Đông Quải. Số là sau 1975, Nguyễn Tất Nhiên thấy không còn thơ thẩn gì được, tuyệt vọng, mấy năm sau, lúc vượt biên, ở trại tị nạn, tình cờ đọc được vài bài thơ trên báo của Hoàng Đông Quải. Nhiên kể là rất mừng vì vẫn còn người tiếp tục làm thơ, dù có Nhiên hay không, nên vẫn còn nhớ cái tên đó. Một người trong buổi rượu mới chỉ Hoàng Đông Quải là tôi, Nhiên đứng dậy vỗ tay tôi (Oh! Man, give me five). Càng về sau này Nguyễn Tất Nhiên càng hoang tưởng, ngoài gia đình ra, có lẽ người nhịn và chịu đựng nhất là Khánh Trường, và có lẽ Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất được Hợp Lưu trả tiền nhuận bút… thơ. Có lần, Khánh Trường trả 10 đôla cho một bài thơ của Nhiên, Nhiên chê ít. Khánh Trường phải xùy ra 20 đôla rồi (dĩ nhiên) chửi thề: “Đụ mẹ, đủ rồi, chịu không?” Tôi thấy mình nợ Nguyễn Tất Nhiên từ những bài thơ phổ nhạc nghe khắp các quán café Việt Nam thập niên 70, cho đến những tháng cuối cùng gặp đôi lần, Nguyễn Tất Nhiên đã gần như hóa dại, lang thang không nhà cửa, mà không cách nào làm khác hơn.

Bây giờ, Nguyễn Tất Nhiên đã chết.

26

NMT: Thế còn bài “Giao Thừa” thì sao? Nó nằm trong phần thơ tình đấy. Anh không nhắc đến tên một người, chữ người viết hoa đó ư?

LB: Tôi đã qua giai đoạn làm thơ cho một ai đó rồi. Nếu bắt buộc phải nói, thì bài “Giao Thừa” cũng đầy sự cố, đánh dấu một giai đoạn riêng tư. Đây là thời gian Trần Vũ từ Pháp qua Mỹ chơi, có ở nhà tôi vài tuần. Chúng tôi tập họp, nhậu nhẹt, đùa giờn, ca hát. Có Mai Thảo, Khánh Trường, Cao Xuân Huy, Hoàng Xuân Giang… khá đông. Hoàng Xuân Giang, nhạc sĩ, tôi mới gặp đôi lần, thấy dễ mến, nên rủ về nhà chơi. Giang đàn hay, hát khỏe, nhớ nhiều bài của cả hai miền, có thể hát liên tục nhiều tiếng. Chúng tôi hát, từ bài “Cờ Bay,” “Lính Mà Em” cho tới “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,” “Bác Cùng Chúng Cháu Hành Quân”… Đến nửa đêm, Cao Xuân Huy đứng dậy bỏ về… sớm. Huy kéo tôi ra ngoài nói: “Nếu không nể vì nhà này của… vợ ông, thì tôi đã đánh thằng này (Giang) rồi.” Tôi hỏi tại sao. Huy trả lời: “Mình hát nhạc miền Nam thì đùa giỡn thôi, còn khi hát bài miền Bắc thì nó hát thật quá. Nghe một số thì còn chịu được, nhưng đến ‘Bác Cùng Chúng Cháu…’ Tôi phải điên tiết lên chứ!” Huy vốn sắn máu du côn từ thời trung học, có thời gian chung đơn vị lính với tôi vài tháng 1970 ở Pleiku, chống cộng nhưng không cực đoan, và cũng là người đánh máy trình bày quyển Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, tôi hơi bất ngờ, nhưng cũng không ngán: “Tôi cũng nể… bà chủ nhà lắm, nên ông muốn thì cứ đánh, tôi hứa sẽ… không can.” Sau những lúc ồn ào như thế, bè bạn về hết, tôi và Hương, người… chủ nhà, vẫn thức, uống rượu tiếp. Cho đến sáng. Trong sự im lặng kỳ lạ, ngổn ngang của chai lọ chén dĩa ghế bàn.

Bây giờ Hoàng Xuân Giang đã chết.

27

NMT: Trong Địa chỉ Của Một Người, anh thích bài nào nhất? Và ngược lại?

LB: Tôi xin đi ngược trước. Tôi không thích khi đọc lại thơ mình. Tôi cũng không thuộc nó. Ngay cả thơ của tôi đã từng in trên sách báo, tôi cũng không giữ lại một cuốn nào. Luôn luôn tôi cảm giác thơ mình thừa, sáo, đôi khi xấu hổ. Về phần thích, thì chỉ lúc lấy tập thơ vừa ở nhà in ra, tôi thích 2 bài kế chót nhan đề “Tưởng Tượng Không Có Ngôn Ngữ” và “Thức Giấc.” Lý do là khi đánh máy và trình bày, tôi có điện thoại hỏi Chân Thuần, chủ nhà in Kim, họ in khổ lớn, gấp lại thành 16 trang, thành thử tôi phải thêm vài trang trống cho đủ số 224. Tôi bèn đánh máy làm thơ tại chỗ cho đủ số. Sau quên khuấy. Cả tháng sau, lúc lấy sách ra, đọc lại, thấy như hai bài thơ mới. Tôi thú vị vì tưởng tượng ra Lê Bi đã là một người khác.

28

NMT: Anh có tên trong ban chủ trương tạp chí Thơ. Anh nghĩ thế nào về sự cổ động một phong trào làm mới thơ? Thơ hậu hiện đại? rồi đặc biệt là thơ “tân hình thức”? Và anh có nghĩ rằng đã có sự hăng say quá mức trong vấn đề này?

LB: (cười) Anh đặt tôi vào một việc khó nói. Anh cũng là một người làm thơ, xin trả lại câu hỏi cho anh.

29

NMT: Nhưng tôi là người phỏng vấn?

LB: Sau khi nhà xuất bản Trăm Hoa và tạp chí Đối Thoại chết, tôi khá rảnh, thì Khế Iêm có rủ tôi vào tạp chí Thơ, tôi vào ngay vì vẫn còn tính ham vui và cả nể. Tôi góp bài và đóng tiền ủng hộ. Tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện chọn lựa và biên tập. Lúc báo ra, tôi mới biết nội dung. Khế Iêm đã đóng góp rất dũng cảm, tối thiểu là cho dòng văn học hải ngoại, vì so ra, ở trong nước, với cả một Hội Nhà Văn đông đảo hội viên dường ấy, cho đến nay, tôi chưa thấy có một tạp chí nào chuyên về thơ cả. Tôi vẫn nghĩ tạp chí Thơ là của Khế Iêm như Hợp Lưu của Khánh Trường, tạp chí Văn của Mai Thảo, tạp chí Triết của Nguyễn Hữu Liêm, tạp chí Văn Học của Nguyễn Mộng Giác.

Còn làm mới thơ là một chuyện luôn cần thiết, là bức xúc thường trực của thơ và của các bộ môn sáng tạo khác. Có đi quá đà cũng không sao, thời gian sẽ chọn lại. Thơ dada, siêu thực, tương lai (futurism bên Ý hồi thập niên 1910), thơ mới vân vân đều đã xuất hiện từ đầu thế kỷ. Nhóm Xuân Thu Nhã Tập cũng đã thử nghiệm ở Việt Nam cách đây nửa thế kỷ. Ở Mỹ, các nhà thơ được xếp vào “hậu hiện đại” (post-modernist) đã bắt đầu từ thập niên 50. Không theo một quy luật nào cả. Một rừng hoa bằng… chữ, đủ kiểu và màu. Một số thơ của Hannah Weiner, chữ hoa, chữ thường, chữ nghiêng, chữ thẳng đứng cứ rối cả lên. Hoặc thơ của Clayton Eshleman, Ed Sanders có vẽ cả hình. Hoặc thơ của John Cage, như một bản mục lục. Nhiều bài thơ khác, như của Gertrude Stein chứa nhiều chữ lập đi lập lại, ngắt ra liên tục. Tôi cảm phục, tôi tò mò, dù nhiều lúc không thích và không hiểu. Theo tôi hiểu, “hậu hiện đại” chỉ để giải thích tình trạng đã và đang xảy ra, chứ không phải là chủ trương đường lối. Những người Việt Nam, cả trong lẫn ngoài nước, tôi ít thấy ai nhắc đến chữ “hậu hiện đại,” ngoại trừ một bài viết công phu của Nguyễn Văn Khoa, đăng trong tạp chí Triết số 2, xuất bản ở San Jose, về vấn đề Phật Giáo. Nhưng dù là thơ hậu hiện đại, tôi chưa thấy thơ tìm cách bỏ được chữ. Bài thơ “Bàn Cờ Tướng” của Nguyễn Hoàng Nam, chỉ là một tấm hình chụp nguyên một bàn cờ tướng, tôi vẫn đọc được một số chữ… Hán, vì hồi nhỏ mê chơi cờ tướng, vẫn còn nhớ được một số mặt cờ. Tôi nghĩ đó là một bài thơ… hóm hỉnh. Theo tôi, trong thơ phải có chữ. Dù chúng ta có nói trong thơ có nhạc, trong thơ có họa, thì thơ vẫn là thế giới của ngôn ngữ. Thơ mà bỏ chữ, chẳng khác họa bỏ hình thể màu sắc, nhạc bỏ âm thanh. Nghĩa là có thể dẫn tới một thứ hư vô chủ nghĩa hình thức. Trong tạp chí Thơ, có người tình nguyện ra đi về nơi sóng gió như kiểu con tàu say của Rimbaud, nhưng đó vẫn nằm ở thời hiện đại, nghĩa là vẫn còn tìm một thế giới hứa hẹn hơn. Thế giới hậu hiện đại không còn ra đi nữa, không nhất quán, nhiều chiều, lắm tầng, ngẫu tính, phi lịch sử, cắt thời gian, đôi khi chủ thể và bên ngoài đều gẫy vụn. Ở tạp chí Thơ số 7, tôi thấy Trần Như Mai có nói được nội dung của hậu hiện đại, nhưng không hiểu sao, lại cho đó là hiện đại. Tôi rất ấn tượng về bài “Bức Bưu Thiếp” của Nguyễn Đăng Thường, là bài thơ gợi được sự tưởng tượng về thời gian và nơi chốn khác, những thứ mà không ít thì nhiều, tôi sống cho.

Còn về thơ “tân hình thức,” là một văn xuôi, ngắt câu nửa chừng, xuống hàng, xếp thành từng đoạn đều. Nhưng hình thức của loại thơ này đã có từ nhiều thập niên trước ở Mỹ. Trong một số các tạp chí văn học hiện đại, vẫn có một số bài dùng kỹ thuật này. Hoặc một bài dài, thỉnh thoảng có một đoạn, hoặc đôi đoạn ngắt câu như thế. Nhưng tôi không thấy họ gọi là tân hình thức, hoặc là mới hoặc là duy nhất. Ngoại trừ một số bài của Lưu Hy Lạc, mạnh, gợi hình và liên tục, tôi vẫn thấy mình không thích hợp, vì đã tự sức mọc cánh rồi, không thể chui đầu vào một hình thức trại lính như thế. Nhưng trên phương diện thơ, mới và can đảm, theo tôi tạp chí Thơ đã là thành công trên mặt tiếng vang rồi.

30

NMT: Ở hải ngoại còn rất nhiều người viết nữa chứ, cả thơ lẫn văn, anh có ý nghĩ gì về văn học Việt hải ngoại cũng như trong nước?

LB: Văn học hải ngoại có rất nhiều tiềm lực. Cuộc sống lưu vong và vấn đề cơm áo cũng đầy u uất. Có thua gì ai. Những người làm văn chương hải ngoại có nhiều cơ hội tiếp cận với văn chương thế giới hơn, lại có nhiều… tự do hơn. Như anh thừa biết, ở đây chúng ta hầu như muốn viết gì thì… viết, có tiền thì cứ việc in. Chẳng sợ ai và chẳng cần ai. Đã không bị kiểm duyệt, chèn ép như văn chương trong nước, họ lại còn thoải mái hơn cả những người viết bằng tiếng Mỹ. Những nhà xuất bản, tạp chí lớn ở Mỹ rất khắt khe trong vấn đề biên tập, về cả chất lượng lẫn thị trường. Ngay cả những người đã nổi tiếng như Ernest Hemingway, Raymond Carver… hoặc như sách vật lý của Stephen Hawking đều bị biên tập cắt xén, sửa chữa nhiều lần, thậm chí nhiều chục lần. Còn những văn nghệ sĩ, trí thức trong nước, rất khó được sáng tạo tự do hoàn toàn. Ngay cả vấn đề tiếp cận cũng thiếu thốn. Việt Nam đã có sự đổi mới trong thời gian qua, khá giống Trung Quốc, nhưng lại đi sau. Ngay từ đầu thập niên 80, ở Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình, họ đã chủ trương “Không cấm kỵ trong vấn đề đọc.” Nên những sách vở kinh điển tinh hoa của thế giới đều được dịch và phổ biến. Tôi có về Việt Nam vài lần, thấy sự thiếu thốn về thông tin và sáng tạo rất đáng lo ngại. Nếu tình trạng này kéo dài, Việt Nam sẽ không bao giờ phát triển hết tiềm lực của mình. Sự giải phóng con người vẫn là một vấn đề còn nguyên từ gần một thế kỷ qua.

31

NMT: Anh có dự trù trong tương lai nào về thi ca? Về các bộ môn khác?

LB: Tôi đang nghỉ làm thơ. Trầm uất và không có dự tính gì, ngoại trừ việc quay về đọc tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết, tôi thấy tác giả có thể tạo một thế giới hư cấu, tự cắt mình ra, hoặc có thể xuất hiện nhiều mặt khác nhau cùng một lúc.

32

NMT: Cuối cùng, anh có điều gì muốn nói thêm với độc giả?

LB: Không, ngoại trừ sự cám ơn, nếu độc giả có thực.

NMT: Xin cám ơn anh Lê Bi.


(11-1996, California)





Hai bài thơ trích trong Địa Chỉ Của Một Người


Nếu phải tìm mình

Nếu dân tộc mình cực đoan trong tinh thần độc lập
chắc xưa Lý Thường Kiệt không thể vừa đánh quân Tàu vừa làm thơ
bằng chữ Hán
nay con cháu ông quên cả chữ Hán chữ Nôm
họ viết tuyên ngôn
hoặc làm thơ tình
bằng mẫu tự La-tinh từ các ông cố Đạo.

Nếu không ra ngoài biên giới
chắc Nguyễn Du không thể nghe ra tiếng sóng Tiền Đường
ta cũng đâu biết có những câu lục bát đoạn trường
chảy theo đời Thúy.

Nếu ông cha ta khép kín tâm hồn
chắc Khổng tử đã không thể vào trong Văn miếu
thành tượng đá sống lâu ngàn tuổi
đã đậm đà màu sông núi.

Xưa huyền thoại mẹ cha có trăm con
Nay trăm con không còn là huyền thoại
Đứa vô thần đứa thấm đầy Chúa Phật
Thậm chí, mặc dầu, những kẻ gì đâu
Có chia năm xẻ bảy
Tôi thấy bình thường
Họ cũng là thịt xương mẹ cha mình đấy.

Nếu đất đai mình thuần nhất
Sao vẫn ướt dòng lệ Đồ bàn
Dóng máu ta có thể phát nguyên từ sông Cửu Long sông Hồng Hà
hay sông Dương Tử
chảy tới những hòn đảo Thái Bình Dương
ta có thể là mảnh Việt, mảnh Thượng, mảnh Kinh, mảnh Thái, mảnh Chàm,
mảnh Kampuchia, mảnh Mã

Tôi sinh ra là người Việt, sống như người Việt
và mong được chết như người Việt
nhưng căn cước của mình
chẳng bao giờ rõ nét.

Nếu mai này tôi về được hôn vào đất
hôn mẹ cha đã mở mọi đường
tôi sẽ hôn những con đường đi những con đường ở
đất đã ôm hết thảy mọi nhà
đất của lòng dân là khung cửa mở
để cho đời có thể trăm hoa.






Đến khi

Đến khi thơ anh chẳng chở được gì
là lúc trời sao cộng lại.

Nên thơ anh sẽ không ở lại
nó bỏ anh thành con ve
hùa theo những ngọn gió hè
nó bỏ anh thành hạt cát
vùi thân vào sa mạc
nó bỏ anh làm ngọn cỏ
thế kỷ này bận bịu dẫm lên
để anh biết trời sao có ích
giữa cuộc đời anh phải nhìn lên
quên cả phận mình.

Đến khi không phải làm thơ nữa
là cũng không tự xé mình ra.

Nên thơ anh đã là đốm lửa
hóa kiếp từ những sao xa
kẻ đọc thơ chỉ thấy niềm đau quá chậm
điều thấy hôm nay đã chết tự bao giờ.
nó bỏ anh thành hạt muối
biến hình giữa biển xanh
anh còn bao giấc mộng không thành
vác trên vai người mang tội
anh còn bao niềm đau chưa viết
bị từng biến cố bước qua
thôi thì cũng cầu cho những điều anh chưa biết
sẽ mọc mầm hoa.

Đến khi thơ anh không cần anh nữa
là biết trời sao kia đã bớt đơn côi.










Đọc Thơ Lê An Thế






CẦU THANG LÊN MỘT BỨC TRANH



Như vết than chì

để lại trong một bức tranh

chiếc cầu thang của em dựng lên một thế giới khác



chiếc cầu thang biết nghe giọng hát khàn khàn của

Mariana Faithfull

nơi em trốn mặt đất

chiếc cầu thang đứng thẳng

em vẽ thêm 2 cái cánh

chiếc cầu thang giữa trời

có thể dấu những cái bánh

những bài thơ

những bức tranh trên nóc nhà của thành phố này

chiếc cầu thang dành cho những người từ chối

những mặt phẳng

em cứ chui qua những bức tường

chiếc cầu thang như một tháp gãy

(rất trơ trọi ở Houston)

giữa nửa đêm và chiếc điện thoại là một khoảng trống

giữa chiếc điện thoại và lòng bàn tay là một khoảng trống khác

giữa lòng bàn tay và em là một khoảng trống khác nữa




những khoảng trống lập thể

nơi tôi có thể đụng hàng mùi cà phê buổi sáng

nơi tôi có thể đụng hàng màu rượu hồng buổi tối

nơi tôi bỏ trốn thế giới bên trong

nơi em mở cửa đón những người bạn

những quyển sách

những chai rượu

những món ăn

những mẩu vụn

những màu da những ngôn ngữ

trước một thế giới ngày càng không thể đoán trước

tôi giữ lại một khoảng trống nhỏ của căn nhà lập thể này

để nghe

một trái tim đập khẽ

khi chân em đang bước xuống.



Fountain Valley, California, 3-2025







MÂY TRẮNG


Chờ đêm ở phi trường

vẫn không biết

chuyến bay nào

đưa tôi về mây trắng.

(2024)








NẾU PHẢI TÌM MÌNH


Nếu dân tộc mình cực đoan trong tinh thần độc lập
chắc xưa Lý Thường Kiệt không thể

vừa đánh quân Tàu vừa làm thơ bằng chữ Hán

nay con cháu ông quên cả chữ Hán chữ Nôm
họ viết tuyên ngôn và làm thơ tình
bằng mẫu tự La Tinh từ các ông Cố Đạo.


Nếu không đi sứ qua Tàu

chắc Nguyễn Du không nghe tiếng sóng Tiền Đường
ta cũng không biết những lục bát đoạn trường
chảy theo đời của Thúy.



Nếu ông cha ta khép kín
chắc không dựng tượng Khổng tử

trong Văn Miếu

tượng đá này ngàn năm

đậm đà như sông núi.


Xưa huyền thoại có trăm con
nay trăm con không là huyền thoại
đứa vô thần, đứa theo Chúa Phật
thậm chí, mặc dầu, những kẻ gì đâu
chia năm xẻ bảy

tôi cũng thấy bình thường
họ cũng là thịt xương từ mẹ cha mình đấy.



Nếu đất đai mình thuần nhất
sao vẫn ướt dòng lệ Đồ Bàn
dòng máu ta có thể phát nguyên từ

sông Hồng Hà sông Cửu Long hay sông Dương Tử
chảy tới những hòn đảo Thái Bình Dương
ta có thể là mảnh Bách Việt, mảnh Thượng, mảnh Kinh,

mảnh Thái, mảnh Chàm, mảnh Kampuchia, mảnh Mã


Tôi sinh ra là người Việt

sống như người Việt
và sẽ chết như người Việt
nhưng Việt là gì

thì tôi không biết.


Nếu mai này được hôn vào đất
hôn mẹ cha đã mở mọi đường
những con đường đi những con đường ở
đất đã ôm hết mọi nhà

đất của dân là khung cửa mở
để đời vẫn mọc trăm hoa.



(1991)
(trích trong Địa Chỉ Của Một Người, nxb Tân Thư, California, 1996)







Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Manh Trinh, Lê An Thế








nhìn tranh, nhớ Khánh Trường
Lê An Thế


trái qua phải: Phan Nhật Nam, Khánh Trường (ngồi xe lăn), Lê An Thế, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, ảnh chụp do Ngô Thế Vinh, 2004, California

trái qua phải: Phan Nhật Nam, Khánh Trường (ngồi xe lăn), Lê An Thế, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, ảnh chụp do Ngô Thế Vinh, 2004, California
trái qua phải: Phan Nhật Nam, Khánh Trường (ngồi xe lăn), Lê An Thế, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, ảnh chụp do Ngô Thế Vinh, 2004, California

năm 2004, một buổi tiệc tại nhà Khánh Trường, ở thành phố Westminster, nam Callifornia, toàn bằng hữu, nhân dịp Khánh Trường vừa xuất viện sau một cơn tai biến. Vài ngày sau, khi đem in cuộn phim, tôi có tặng Khánh Trường một tấm hình. Anh nhìn rồi cười sặc. Cả 5 người, quen biết trước sau chồng chéo. Đều biết cầm súng lẫn cầm bút. Khánh Trường nói, “mấy ông thua tôi, vì tôi còn biết cầm… cọ”.
Ở một chỗ vắng. Lộ ra. Một Khánh Trường họa sĩ. Phía sau là một bức tranh Khánh Trường hoàn tất trước khi bị tai biến lần hai, 2004. Bức tranh đó không tên. Tôi từng có 2 bức tranh sơn dầu của anh. Đều không tên. Vẽ xong một bức và đặt tên, là một khoảng cách. Anhchẳng màng. Tôi không hỏi. Hình như, anh chỉ đặt tên tranh khi có triển lãm,
hoặc in thành sách. Một dịp triển lãm riêng, khi vừa hồi sức, anh tập trung hoàn tất trong vòng vài thángvới 40 bức tranh ngay năm 2005. Cũng để kỷ niệm việc trở lại với cây cọ của mình, anh đặt tên loạt tranh này là Phục Sinh. Phục Sinh 1, Phục Sinh 2, Phục Sinh 3. Những con số theo nhau. Cho đến cuối. Vẽ. Là tạo ra vùng mới. Viết. Là mở cuộc phiêu lưu. Màu sắc và con chữ luân chuyển. Là một hành trình vô tận.
Trong một bài viết, tặng Rừng, một họa sĩ, một nhà văn, một lính cũ và một bạn rượu, Khánh Trường viết về những khát khao của anh, nhan đề: “Bức Tranh Không Bao Giờ Vẽ”. Tác phẩm ưng ý nhất là tác phẩm sắp tới, không bao giờ vẽ nổi. Có ấp ủ cả đời người. Vẫn vậy. Nghệ sĩ chỉ là kẻ đuổi bắt. Một giấc mộng không thành.
Không hiểu sao anh phục sinh mau đến thế. Hình như có hai sư cô đến thăm và khuyên anh vẽ lại. Vẽ cần sự tập trung cao độ, không thể để tay run. Một thời gian ngắn, anh đã có thể ngồi trước giá vẽ hàng giờ. Rồi hàng buổi. Vẽ là thiền. Vẽ là yoga. Vẽ là chánh niệm. Là thể lý trị liệu tâm hồn. Là biến vào bức tranh. Là một vũ trụ hình thành. Khoảnh khắc đó, cái một cái không hợp nhất. Người nghệ sĩ có thể rũ bỏ cái tôi. Biến mất. Giữa một vòng không. Lời khuyên của sư, là một ân huệ. Anh đã tổ chức triển lãm tranh vừa vẽ của mình tại ngôi chùa của hai sư cô đó, cùng thành phố Garden Grove. Tôi có tham dự buổi triển lãm này, nhưng không nhớ tên chùa và thời điểm. Nhưng vẫn còn cảm giác ngồ ngộ khi tôn giáo đụng hàng nghệ thuật. Khánh Trường, một con ngựa bất kham, có lúc cúi đầu với tiếng chuông kinh kệ. Những bức tranh của anh đứng cùng đạo pháp. Năm 2011, một cuộc triển lãm khác, anh gọi là Đáo Bỉ Ngạn. Có nghĩa qua bờ bên kia. Qua bờ bên kia là một thực chứng. Không ai biết được. Không dấu vết. Những kẻ còn đứng bên này, như tôi, thấy trong chiều kích nào đó. Một Khánh Trường khác. Tâm nguyện lúc về chiều. Phảng phất hồn Bát Nhã.
Bức tranh được treo tại phòng khách, ngay trên ghế sofa. Khổ khá lớn, 40 in X 50 in. Sự tĩnh lặngcủa màu xanh trên diện rộng. Tràn ra khỏi khung. Có thể đây là lần đầu tiên anh xử dụng bột thạch cao với sơn dầu. Nhẹ. Như những giải cồn cát trên sông. Trên biển. Hoặc là hai giải ngân hà vắt ngang trời. Phía trên và khoảng giữa là một trăng, trắng đục, lợn cợn bột thạch cao, chung quanh là một vành đen nhỏ. Nhưng vẫn là một màu xanh chiếm ngự. Xanh cũ. Rất năm xưa. Trăng cô độc. Như ta. Như thuở thơ Đường, Khánh Trường vẽ rất nhiều trăng. Từ trăng, nhìn xuống trái đất này, nhiều tỷ người này, nhiều hỉ nộ ái ố này, chỉ be bé một hòn bi xanh như lời một bản nhạc. Với những người vượt biển, màu xanh đó có khi là ác mộng lớn. Xa quê hương 10 ngàn dặm chiều ngang, đứng ở Thái Bình Dương bên này nhìn qua, bát ngát xanh. Mỗi khi trăng phản chiếu. Là kỷ niệm về cố quận. Trăng cũ vẫn theo ta. 2011, Khánh Trường vẽ một bức tên Lệ Trăng, khổ nhỏ. Một trăng trắng đục. Những dòng trăng đổ xuống. Cả chục dòng. Có khi giữa nửa trời đã chia nhánh. Trăng khóc. Như thác đổ. Khóc trời đất hay khóc nhân gian? Không che dấu. Cảm giác đầu của một người xem tranh là im lặng. Là chánh niệm. Là đọc tranh. Rồi cảm tranh. Khung quá nhỏ. Xanh quá lớn. Vẫn lâng lâng. Không thể nắm bắt.


Đối diện với tranh trừu tượng. Nghe một khúc nhạc cổ điển. Hãy rũ bỏ thực tế. Và tưởng tượng. Tôi thích bức tranh này. Vì lạ. Vì màu xanh của nó. Vì cảm nhận được một thế giới khác cô độc, ôi cảm nhận sự cô độc chính mình. Tôi hỏi mua ngay trong bữa tiệc đó. Không có tiền, tôi giao hẹn, trả góp. Mỗi tháng 500 đô la. Khánh Trường chỉ gật đầu. “Lấy đi”. Không giấy tờ. Bức tranh ra khỏi nhà vẫn không tên. Nghệ sĩ không cần giải thích tác phẩm của mình. Chỉ làm mất đi những phiêu bồng nghệ thuật. Tôi hẹn, nếu sau, sống ở Việt Nam, tôi sẽ mang bức tranh này về.
Vài năm sau, tôi không nhớ rõ chính xác thời gian, một cuộc triển lãm của hội họa Việt Nam toàncầu ở quận Cam, California. Mỗi họa sĩ một bức. Khánh Trường đã mượn lại bức này để trưng bày. Khi chở đến nơi triển lãm, ngẫu hứng, tôi đặt tên cho bức tranh này: “Nơi tôi tới đêm qua”. Sau tai biến lần thứ nhất 2001, thì 2004 là tai biến thứ hai. Cho đến lúc này, Khánh Trường thoát chết 5 lần. Hai lần bị thương ngoài mặt trận, một lần vượt biển, hai lần tai biến. Cũng có thể, còn những lần khác tôi không biết, hoặc Khánh Trường không kể, hoặc chỉ là con số lẻ. Những và những. Chuyện nhỏ dọc đời. Hai lần bị thương, dấu vết là những mảnh đạn thời chiến vẫn còn trong thân thể. Hai lần tai biến, kỷ niệm là chiếc xe lăn. Một lần vượt biển, là một duyên phận khác, gặp và sống với chị Oanh trên trại tị nạn 1987. Suốt 37 năm, cho đến giờ cuối. Tôi biết Khánh Trường khoảng năm 1990, lúc đó, anh và chị Oanh đã thành vợ chồng chính thức, sống ở một căn hộ nhỏ, cùng thành phố Garden Grove, cách tôi chừng vài phút lái xe. Lúc đầu là gặp ở quán cà phê, rồi bàn nhậu. Khánh Trường chịu nhậu cũng như chịu chi, sẵn sàng ồn ào, văng tục chửi thề và nếu cần cũng rất du côn, gây sự với cả những đàn anh lớn tuổi. Tôi biết loáng thoáng, anh sống bằng nghề trình bày sách báo băng nhạc. Lúc đó người Việt đã tập họp khá đông ở California. Những người tị
nạn vừa chân ướt chân ráo đến một xứ sở tự do, họ thích viết, thích hát hơn bình thường. Kết quả là, sách báo và băng nhạc lan tràn, bày đầy chợ búa. Khánh Trường, một người ngăn nắp, sạch sẽ, hiệu quả.Tiêu chuẩn nhanh, đẹp, rẻ. Cả chiều tối đi nhậu, nhưng chỉ một đêm, anh có thể trình bày xong cả hai dĩa nhạc, mỗi dĩa như vậy, hơn một tuần lương của người lao động. Ở nửa cuối thập niên 1980s, bắt đầu có những chuyển động tại các nước xã hội chủ nghĩa. 1985, Gorbachev lên làm Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Liên Xô, bắt đầu những chương trình mở cửa và tái cấu trúc. Ở Trung quốc cuối xuân 1989 đã có những đoàn thanh niên sinh viên biểu tình tràn ngập quảng trường Thiên An Môn. Thậm chí họ còn làm một mô hình tượng cỡ nhỏ Nữ Thần Tự Do của Mỹ diễu hành chung quanh quảng trường. Ở thành phố Leipzig, Đông Đức, trước khi bức tường Bá Linh sụp đổ, cả 50 ngàn người đã thắp nến ngoài công trường trong đêm. Ở Việt Nam, từ 1986, đã có những cánh cửa mở cho kinh tế tư nhân và cởi trói văn nghệ, với khẩu hiệu, rất khẩn cấp là: “Đổi mới hay là chết”.
Một loạt những tác phẩm và tác giả tài năng mới ở Việt Nam xuất hiện. Cái bóng của Nhân Văn Giai Phẩm đầu thai. Nhìn từ xa, Việt Nam hoa vẫn nở.
Từ 1975 cho đến lúc đó, tôi đã sưu tập một số lượng khá lớn sách báo từ Hà Nội, cả trước và sau1975. Kể cả tạp chí Học Tập, tạp chí Cộng Sản. Kể cả quyển “Đường Kách Mệnh”, một tập sách mỏng hơn 20 tranh viết tay của ông Hồ Chí Minh. Kể cả những quyển sách bàn về “Chủ Nghĩa Bành Trướng Của Bọn Bá Quyền Bắc Kinh”. Nhưng từ 1986-1989, là một sự chuyển mình. Tôi có được những tác phẩm của Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, những số tuần báo Văn Nghệ giấy úa vàng, như trái tim của văn học trong nước lúc bấy giờ. Cũng từ khoảng thời gian đó, tôi có tiếp được tại nhà, những nhân vật văn hóa nổi tiếng từ trong nước. Như Trần Quốc Vượng, Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Phong, Huệ Chi… và khá nhiều văn nghệ sĩ khác, mà người cuối cùng tôi hân hạnh tiếp tại nhà là anh Bùi Ngọc Tấn. Có người ghé qua một buổi, nhưng đa phần đều ở lại vài ngày, một tuần, đôi khi cả tháng. Tôi nghe và học nhiều từ họ. Tôi đóng góp tất cả những điều có thể cho nhóm thực hiện tuyển tập “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương”, tài liệu, thời gian, địa điểm, bài vở. Những buổi họp liên lục kéo dài từ nhà này sang nhà khác. Tháng 9-1990, tuyển tập này ra đời. Dày 800 trang, khổ lớn. 27 tác giả ngoài nước. 79 tác giả trong nước.
Tuyển tập gây được tiếng vang rất lớn. Nó cố gắng xóa bỏ lằn ranh cũ quốc cộng, trong ngoài. Trong nước, tôi không biết. Nhưng ở bên ngoài, có những người vượt xa hơn sự phản biện, thành vu khống và chụp mũ. Thậm chí họ biểu tình, kéo lê quyển sách này quanh phố Bolsa, và cuối cùng đốt sách. Đốt lửa giữa ban ngày. 1990, suốt 15 năm ấy, một bi kịch hòa bình của Việt Nam. Hàng triệu người bỏ nước tìm tự do, đường bộ, đường biển. Hàng trăm ngàn người bỏ xác dọc đường, trên biển. Những người chết vì bão, vì tàu chìm, vì đói bệnh, vì hải tặc. Chắc chắn không rõ con số là bao nhiêu. Nhưng đã có những ước lượng lên cả nửa triệu người. Hầu hết những người lên đến bờ, đều biết, đều quen hoặc chính họ, là nạn nhân hải tặc. Một cái giá rất lớn. Tôi có một số thơ về chuyện này, lúc ấy bút hiệu là Lê
Bi, “đứa con hoang trong trại tị nạn, mà mẹ chỉ biết cha nó là từng đoàn hải tặc Thái Lan” . Có thể hiểu, thậm chí thông cảm với những cực đoan của người chống cộng, nhưng chỉ khác ý kiến, đã dơ bóng ma Tần Thủy Hoàng lên dọa. Tuyển tập này, chuẩn bị rất công phu, tâm huyết, hầu hết mọi người đều bỏ thêm tiền túi vào làm, nhiều đêm ngày mới xong. Khánh Trường lúc ấy, đứng ngoài, nhưng rất ủng hộ việc làm này. Chúng tôi không sợ, thì Khánh Trường, với tính ngang tàng, càng không sợ.
Một thời gian ngắn sau, Khánh Trường gặp mặt vài cây bút sáng tác trong vùng, anh nói vừa cómột số tiền chừng 6 ngàn đô, anh muốn ra một tạp chí văn học như tinh thần của tuyển tập Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, anh cần sự ủng hộ về tinh thần, bài vở, và đặc biệt là tài chánh. Vì số vốn khởi đầu khá lớn, và báo phải trụ lâu. Một tạp chí 2 tháng mỗi số, khổ khỏ. Anh chỉ cần 6 người cam kết ủng hộ, 200 đô cho mỗi số báo, không điều kiện, đủ một năm, nếu báo không sống nổi thì thôi. Rồi Khánh Trường đi Pháp, lên Washington DC, tới San Jose vận động, được rất nhiều ủng hộ. Riêng ở quận Cam,
tôi chỉ biết sau một số cuộc họp ở nhà Nhật Tiến, hoặc nhà tôi, có 3 người là Nhật Tiến, Lê Thứ và tôi cam kết ủng hộ giúp tiền đủ 6 số. Những người khác tôi không rõ, không ai nói và cũng không ai hỏi.
Chính Khánh Trường cũng không bao giờ nói ra hoặc làm sổ sách, hoặc thông báo về điều này. Không một ai thắc mắc. Đóng tiền ủng hộ chỉ là một chuyện vác ngà voi nhẹ nhất. Chỉ một thời gian ngắn sau, tôi tình cờ biết, số tiền Khánh Trường kiếm được là nhuận bút một quyển dâm thư “Qua Khe Hở”, ký tên Tống Ngọc. Người chủ nhà xuất bản, cũng là một tiệm sách ở Bolsa, là nơi quen biết cả. Sách cháy hàng, tục bản. Sách tục bản, cháy hàng. Họ đốc thúc Tống Ngọc tiếp tục. Có thể, thập niên 1990, hai quyển sách bán chạy nhất ở cộng đồng Việt Nam hải ngoại, một là “Qua Khe Hở” của Tống Ngọc, và hai là “Tháng Ba Gãy Súng” của Cao Xuân Huy. Khánh Trường chỉ cười hặc, rất Tống Ngọc, không vậy thì tiền
đâu làm báo.Thoạt đầu, theo ý Khánh Trường, tên báo là Giao Lưu, một cái tên đầy thách thức. Nhưng Khánh Trường bấp chấp. Thực sự, đây là một tờ báo một mình Khánh Trường thực hiện. Trong nhóm, anh là người duy nhất không bận đi làm hãng xưởng. Chọn bài, đánh máy, trình bày, bìa, sổ sách, bưu điện, danh sách độc giả đều một tay anh. Công việc tôi hay làm, là thỉnh thoảng tới nhà anh, đọc lại, và sửa chữa chính tả, phần Khánh Trường yếu nhất. Ngay trước khi số ra mắt, anh làm xong tất cả, chuẩn bị đem in, thì anh Nhật Tiến gọi điện thoại, theo đề nghị của Nhật Tuấn, một nhà văn trong nước, em ruột Nhật Tiến, và là người ủng hộ đổi mới, đổi tên báo là Hợp Lưu. Những giòng chảy hợp lại, về một phía.
Nhiều ý nghĩa hơn. Và ít khiêu khích hơn. Khánh Trường đồng ý ngay, và cũng nhờ Nhật Tiến đêm đó gọi điện thoại hội ý nhóm chủ trương. Không ai phản đối.
Tháng 10-1991. Hợp Lưu số 1.
Tháng 12-1991. Liên Xô sụp đổ.
Một chấn động lớn của các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Nhưng những tia sáng cuối đường hầm đã không đến với tất cả. Lá cờ của chủ nghĩa cộng sản rất kêu gọi, thậm chí là cao cả. Nhưng khi chiếm được quyền hành, thì xã hội chủ nghĩa chỉ là những thí dụ đau lòng và rất đắt. Chủ nghĩa dân chủ đã thắng. Nhưng cho đến bây giờ không phải làm một chiến thắng toàn diện. Lịch sử đã không kết thúc nóng vội như sự tiên đoán của Fukuyama. Thế giới này vừa đa cực, vừa đầy hỗn độn. Ở Trung quốc, “chú lùn ở Bắc Kinh”, Đặng Tiểu Bình, đã ra lệnh cho chiến xa và quân đội thẳng tay giày xé đàn áp những thanh niên tại Thiên An Môn đầu tháng 6-1989. Cả chục ngàn thanh niên sinh viên Trung quốc bị giết, bị thương, bị bắt. Đủ ác, đủ nhẫn tâm, nhưng lại tạo ra sự trật tự cho Trung quốc. Cụm từ “chú lùn ở Bắc Kinh”, không mới mẻ, mà có từ cuộc chiến Đông Dương lần 3, người anh em phương nam đã gọi Đặng Tiểu Bình một cái tên khá đúng chiều kích, khi ông này công khai đòi dạy Việt Nam một bài học. Những nước anh em xã hội chủ nghĩa, hay giương cao ngọn cờ cách mạng, thách thức chủ nghĩa tư bản “ai thắng ai”, đã chuyển ra đối xử với nhau, thành ai dạy ai, và kết quả là ai học ai. Không rõ mèo nào cắn mèo nào, nhưng mỗi bên cả trăm ngàn lính thương vong. Về mặt quân sự, rõ ràng Trung quốc thất bại. Nhưng Đặng Tiểu Bình đã mau chóng học ra điều này. Ông đã cải cách kinh tế và hiện đại hóa quân đội. Và mở cửa với Mỹ. Việt Nam vẫn cô lập trong những ngạo mạn của chiến tranh. “Ta đã đánh cả 3 thằng đế quốc” . Mấy năm sau, lần này Việt Nam mới len lén ngẩng lên, học lại chú lùn phương bắc. Bài học mở cửa, nhưng cũng chỉ he hé, từ từ. Và vẫn giữ chặt quyền lực.
Như vậy, trong cái cõi nhân gian bé tí của người Việt ở nước ngoài, Hợp Lưu càng đúng hơn nữa. Bài vở ngày mỗi nhiều. Số độc giả cũng tăng. Sau này, một số tác giả gởi bài từ Việt Nam, dĩ nhiên là lén lút, không hề biết Hợp Lưu có đăng hay không. Có khi, tình cờ, cả nhiều năm sau mới thấy bài viết của mình có trên Hợp Lưu.
Ở Hợp Lưu số 1, Khánh Trường đứng tên chủ biên. Sang số 5, tháng 6-1992, có thêm Phan Tấn Hải, Phạm Việt Cường phụ tá, tôi (bút hiệu Hoàng Sử Mai), phụ trách nghiên cứu lý luận. Nhưng, Khánh Trường là người chỉ thích văn nghệ, nếu có nghiên cứu, thì chỉ là nghiên cứu bình luận văn học, hoặc sử học, hoặc triết học. Còn những thứ khác, như chính trị, kinh tế… thì anh không thích. Anh thường nhạo “nghiêm và buồn” quá, mất vui. Bài vở càng nhiều, đủ dày hơn 2 số báo bình thường. Được thêm vài số, tôi đề nghị với anh em, tôi tách ra phụ trách tạp chí Đối Thoại và sau đó, nhà xuất bản Trăm Hoa, chuyên trị các chuyện “nghiêm và buồn”. Thế là rộng chỗ, ổn với mọi người.
Trước khi bị tai biến 2001, Khánh Trường đã mang nhiều bệnh. Cao máu, yếu thận. Anh hút
thuốc nhiều, suốt ngày cà phê và rượu. Một chỗ yếu và cũng đáng yêu, là Khánh Trường không có khả năng từ chối các buổi bạn bè có rượu. Có khi rủ anh đến nhà, anh kẹt đi với chỗ khác. Tôi tiếp tục rượu tại nhà, với những bạn khác. Nửa đêm, có tiếng chuông gọi cửa, tưởng cảnh sát, hóa ra là Khánh Trường, theo sau là cái bóng gầy khum của Mai Thảo, một người không biết lái xe, Khánh Trường rất thương. Anh nói đi qua, thấy trước cửa nhà tôi vẫn còn nhiều xe đậu, đèn vẫn sáng, nên dừng lại. Cả hai vào uống tiếp.
Vì sức khỏe, luôn ngồi xe lăn, từ số Hợp Lưu 68, tháng 12-2002, Phùng Nguyễn làm chủ bút. Được một thời gian, Hợp Lưu số 76, tháng 4-2004, chủ biên là Trần Vũ. Đến số Hợp Lưu 84, giữa năm 2005, theo dự định, là số chuyên đề về “Da Màu”, do Nguyễn Hương và Đặng Thơ Thơ cùng chủ biên. Lúc đó người Việt, sau 30 năm tập họp đông đảo ở nước ngoài, đã có những vươn lên, ổn định về kinh tế, văn hóa. Doãn Quốc Sỹ có nhận xét, 2 biến cố quan trọng nhất thế kỷ 20 của Việt Nam, một là, việc xử dụng mẫu tự La tinh cho chữ Việt, và hai là, có cả 2 triệu người du học ở các quốc gia tiền tiến nhất. Hiệu ứng phụ của thực dân Pháp (cộng với truyền giáo) và thành công trong việc thắng Pháp, Mỹ, Tàu và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhưng dù có du học, hoặc “du sống” của đông đảo người Việt, thì
tập họp của họ vẫn có một màu da quá vàng. Cạnh một nền kinh tế, chính trị, văn hóa, màu da quá trắng. Dù có thành công, hoặc sinh ra tại đó, nhưng vẫn là một màu da vàng. Khác. Những câu hỏi về Da Màu, là một cần thiết, phải có những cái nhìn cả chiều sâu, chiều rộng.
Nhưng Hợp Lưu 84 là một rẽ ngoặt. Bất ngờ. Vỡ nội bộ. Nguyễn Hương, Đặng Thơ Thơ và một số những người cộng tác công khai từ nay không hợp tác với Hợp Lưu nữa. Khánh Trường cũng thế. Anh cắt đứt, hoàn toàn. Không nhìn. Xem như tờ báo mình gầy dựng, Hợp Lưu đã chết. Từ số 84, Hợp Lưu chỉ là một “da hàng thịt”, cái logo, chữ bìa y hệt như vậy, nhưng bên trong chỉ là một Hợp Lưu với những người cộng tác… từ xa.

Một lần, Khánh Trường thổ lộ với tôi, đây là một thất vọng, đau đớn nhất đời anh.
Đặng Thơ Thơ, khoảng 2006, có đến nhà tôi, nói về dự định về một tờ báo mạng mang tên Da Màu, mà cô trong nhóm chủ trương. Lúc đó, vì lý do trầm cảm cá nhân, tôi đã ngừng sáng tác nhiều năm, có nói với Thơ Thơ là nếu làm văn nghệ, cứ làm hay, đẹp và nghiêm túc trước đã. Những dị biệt, xung khắc tạm qua một bên. Cái đẹp sẽ cứu vãn thế giới, như Dostoevsky trong tác phẩm Thằng Khờ. Hoặc ít ra, chúng ta có quyền sống, quyền tin như vậy.

Khoảng vài ngày sau, tôi làm được một số thơ. Gởi Da Màu. Phút cuối cùng trước khi gởi đi, tôi bất chợt lấy một bút hiệu khác. Không biết tại sao. Thế thôi. Một lần, 2015, khi về Việt Nam, Phùng Nguyễn có lên nhà tôi ở Đà Lạt một đêm. Nghe tâm sự, mới biết anh cũng là người tình nguyện đi lính 1968 như tôi, bị thương rất nặng ở Quân khu 1, vì đạp mìn chống cá nhân ở chân phải, vết thương chằng chịt đến bây giờ. Tôi đùa với Phùng Nguyễn: Da Màu và Đặng Thơ Thơ đã đẻ ra Lê An Thế.
Cũng đúng thôi. Phải không Nguyễn?
Chỉ hơn tuần sau, khi về lại Mỹ, Phùng Nguyễn đột tử.

Vào một đêm ngay đầu năm 2025, con gái tôi từ Mỹ gởi cho tôi ở Việt Nam một tin nhắn:
“Khánh Trường cha của Annie vừa chết”. Con gái Khánh Trường tên An. Trường An, mà mọi người gọi là Annie. Con gái tôi cũng tên An. Thế An. Cả hai, sinh ra cách nhau vài tháng năm 1991, quen và thân nhau lúc bé. Lúc chập chững biết đi và biết nói. Cả hai có thể quấn quít nhiều giờ, không bao giờ lớn tiếng cãi cọ, giành giựt, khóc nhè. Tin nhắn gọn. Đến Việt Nam lúc nửa đêm. Tôi biết ngay một điều có thật. 2001, khi Khánh Trường từ phòng cấp cứu ra ngoài, một bệnh viện ở thành phố Fountain Valley, anh nằm lịm trên tấm khăn trải giường đẫm máu. Chắc ít ai trong đời phải nằm trên vũng máu của mình nhiều lần. Những tình huống khác nhau. Ở những chốn xa nửa vòng trái đất như thế. Hầu hết mọi người, dù không nói ra, đều tin Khánh Trường chắc không còn nhiều thời gian nữa. Anh uống thuốc, khám bác sĩ, đi bệnh viện như chuyện thường ngày ở huyện. Từ 2011, thận của anh đã đến chỗ tệ nhất, mỗi tuần phải đi bệnh viện lọc máu 3 lần. Mỗi lần cả buổi. Bạn bè đến thăm phải dè chừng, anh nói năng rất khó.
Thỉnh thoảng tổ chức một buổi ăn tại nhà anh, mời vài người bạn, những người bạn bè trong vùng, như Rừng, Ngô Thế Vinh, Cung Tích Biền, Phan Tấn Hải, Thân Trọng Mẫn, tôi… đều có mặt. Đầu năm 2023, từ Việt Nam, tôi có ghé qua, anh đã rất yếu, xanh, gầy, nói không ra hơi. Và có nói cũng chỉ thều thào, muốn chết quá.
Muốn chết quá. Nhưng anh vẫn sáng tác. Bàn làm việc computer, ngay cạnh cửa ra vào, của anh vẫn ngăn nắp. Một ngạc nhiên khác, là anh vẫn viết và in được nhiều tiểu thuyết. Lúc đó tôi có 3 quyển, in năm 2022, đều trên 200 trang, in và trình bày rất chuyên nghiệp. Hóa ra đó là lần chót. Lần này Khánh Trường chết thật.
Rất thật.

*

Tôi hay thức giấc lúc khuya, uống rượu một mình. Ngay phòng khách treo bức tranh của Khánh Trường, đã 21 năm như vậy. Từ Garden Grove, đến Vũng Tàu, rồi Đà Lạt và bây giờ, tại Saigon. Đơn giản và trân trọng. Nhờ vào quyển Khánh Trường Paintings, nhà xuất bản Nhân Ảnh, 2018, tôi mới biết, anh đặt tên bức tranh này là “Giang Nguyệt”. Vẫn là một màu xanh rộng. Lan dần. Và vành đen nhỏ quanh trăng, hiện thành một vành tang đen. Trong tĩnh mịch khác thường ngày đêm đầu năm 2025, tôi thức thêm một chút, say thêm một chút. Một chút xanh trong bóng tối. Tôi đã giữ được lời hẹn của mình với Khánh Trường là đem bức tranh này về Việt Nam. Và hơn một chút, hy vọng là đúng ý, như những dòng cuối trong bài viết Bức Tranh Không Bao Giờ Vẽ của Khánh Trường: “…tôi là một họa sĩ Việt Nam, vẽ vớisự rung động của một trái tim Việt Nam, bằng trùng trùng những kỷ niệm phát sinh từ một đất nước mang tên Việt Nam”.


Giang Nguyệt, tranh Khánh Trường, California 2004, 40 in X 52 in


Lê An Thế
Saigon 1-2025









Lê An Thế

TRỪU TƯỢNG


Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản,sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó. Nhưng, choáng ngợp hơn, vì khi đứng trướctranh, tôi thấy ngay như đứng trước một chiếc gương ma lực.
Nếu có triết gia nào đó cho rằng nghệ thuật là mô phỏng, thì bức tranh này, tác giả đã chết
trước đó nhiều năm, đang mô phỏng chính bản thân tôi.
Những giọt màu, hình như chỉ là sơn tường, được nhỏ xuống, trải rộng ngang dọc, khá đều,
hàng ngàn, hàng ngàn giọt. Càng nhìn, tôi thấy ngay tôi đang vỡ ra hàng ngàn, hàng ngàn giọt như thế. Những nét cong, sắc nét, như ngàn ngàn cung nữ Trung Quốc múa lụa, hoặc ngàn ngàn thanh kiếm, hoặc nét chữ thảo Ả Rập, đủ màu rực rỡ. Càng cảm nhận, tôi càng giống ngàn ngàn sợi chỉ rối, luôn quay cuồng chuyển động. Chính lúc này, tôi có đủ 3 chiều, cao rộng sâu, hoặc hơn thế nữa. Qua Mỹ được một số năm, tôi vẫn nửa ngọng, nửa điếc, nửa mù (chữ). Nửa người nửa ngợm nửa đười ươi. Tôi là một con người chính trị, hay một con người kinh tế? Vẫn còn một tôi khác. Tôi là ai? Câu hỏi đơn giả này, vẫn ám ảnh cho đến nay. Tôi ư? Thấy vậy mà không phải vậy.
Thế là bức tranh như một tiếng sét đánh. Bản lai chân diện mục. Nhìn ra cái thực của mình.
Càng nhìn càng rõ. Tôi có thể biến mất vào bức tranh, và trong đó, không có thời gian.
Tôi là chính bức tranh. Hoặc ngược lại. Trước đó, chắc vài năm, một lần lái xe một mình qua miền tây nước Mỹ, tôi dừng lại giữa sa mạc, và nằm ngửa trên mui xe, nửa đêm, bầu trời chỉ là một bức tranh khổng lồ chi chít những vì sao, hoặc ngàn triệu giải ngân hà, những vệt sáng sao chổi chụp xuống. Bản vẽ của vô cùng.
Tôi cũng có cảm giác mình nhỏ bé, và biến mất giữa vũ trụ. Chỉ là tấm Gương Trong, như trang kinh thiền Trúc Lâm, nhìn vào, hay nhìn lên, đều trong suốt. Không có ta và cũng không có cái không ta. Tôi đã giữ kín những điều này, không kể lại với ai. Ngoại trừ giải thích lý do với cô bạn gái, tôi qua New York chỉ để xem bức tượng Nữ Thần Tự Do cầm đuốc cao cả trăm mét ngay sát bờ biển Đại Tây Dương. Suốt tháng 5-1989, cứ khi rảnh, tôi xem trực tiếp truyền hình, ngày và đêm, cảnh tượng hàng ngàn hàng ngàn thanh niên Trung Quốc biểu tình đòi tự do ở quảng trường Thiên An Môn, trong đó họ đã dựng lại một tượng Nữ Thần Tự Do thu nhỏ, đẩy vòng quanh quảng trường. Như một bó đuốc cháy bỏng trong tim. Đầu tháng 6 năm đó, truyền hình trực tiếp bất ngờ bị tắt. Khi đọc báo, thì tôi biết là xe tăng và quân đội Trung Quốc đã tràn vào, cán bẹp cuộc biểu tình này. Có thể hàng ngàn người chết, bị thương bị bắt giữ. Tôi vừa không thích chuyện chém giết, vừa thương, vừa ngưỡng mộ những người thanh niên Trung Quốc, làm một chuyến sang New York (rất tốn) chỉ để xem tự do là cái gì, mà sao có quá nhiều người hy sinh vì nó.


Thế là chuyện này đẩy sang chuyện khác, trước New York, tôi chưa từng xem tranh triển lãm, càng không hề biết đến tranh trừu tượng. Bỗng nhiên, nhờ vào một bức tranh, nhìn được bản thân, nhìn được cái gì đánh mất. Sau đó mỗi ngày soi gương, tôi hay nhớ bức tranh này đang được bảo vệ ở New York. Tôi chỉ là một bức tranh trừu tượng. Tôi chỉ là một bản vẽ. Hoặc tôi chỉ là một chuyện bịa. Nếu là một chuyện bịa, cũng là bình thường, vì nó phản ánh con người luôn mặc cảm và che đậy của tôi. Nếu cứ lập đi lập lại, bất cứ điều gì cũng có thể thành sự thực, như ở dưới chế độ phát-xít hay cộng sản thế kỷ trước, hoặc trên chính trường Mỹ bây giờ. Tôi
hay lập đi lập lại điều này. Và, cho đến nay, tôi vẫn chỉ là một chuyện bịa có thực.










NHỮNG MẶT PHỐ

gởi Phạm Tường Vân, Giang Trang, Nguyễn Viện



Chữ có thể là thí dụ của sự thực
Chữ có thể là thí dụ của thơ
Nhưng tôi không biết
em là thí dụ của một điều khác
hay ngược lại.


Em nói những mặt phố
Em hát những vườn xưa
Em nói và em hát
Những âm thanh từ tầng tháp cổ là thí dụ
của một thời chiến tranh quê hương tình yêu.


Chúng ta ném thí dụ vào cơn say
Chúng ta ném cơn say vào bóng tối
Chúng ta ném bóng tối ra ngoài.


Đêm ấy tôi giữ cơn say ở lại
Đêm ấy tôi giữ bóng tối ở lại
Đêm ấy tôi bơi giữa dòng sông cũ.


Em nói những dự định
Em hát những ru ta
Những Saigon những Hà Nội
những Paris những California
Tôi không ngờ thành phố này có nhiều tên mới
nhưng em lại mang về ngậm ngùi rất cũ
Tôi không ngờ
những quán xá những vỉa hè
những thế hệ sau có thực
Tôi không ngờ
những mặt phố có thực.


Đêm ấy thí dụ của em thành những dòng thơ
những nốt nhạc những khoảnh khắc của lửa
Đêm ấy
những thí dụ rất xa.


Em nói
và em hát
những đâu đây.


Đôi khi một lời hát
Đôi khi một nốt nhạc
Đôi khi một cơn say
đều thành thác đổ.


Đêm ấy chúng ta là biển là sông là trăng là nhịp đập
của thành phố này.


Ai đã ném chiếc đồng hồ qua cửa sổ
Ai đã rời bỏ quê hương hay quê hương từ bỏ
Ai đã vất cuốn lịch vào thùng rác
Ai đã từ chối mặt trời
Ai đã xé vòng không thành nhiều mảnh
Ai đã đọc một thiền sư Tây Tạng để luyện thành mây trắng
Ai đã hất chữ ra khỏi bàn tay
Ai
Ai đã chia tay với cả thơ mình.


Đêm ấy tôi trèo khỏi cổ
Đêm ấy tôi chạy khỏi cầu thang
Đêm ấy có chút trăng
có chút khói và trăng đêm ấy
lại thành trăng cũ
Để thí dụ
bài thơ đang hiện.


đêm Saigon, 31-1-2024














Lê An Thế
1976, những điều tôi biết



Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây.

Tôi muốn nhìn thấy Thái Bình Dương. Tôi muốn được nhúng chân xuống biển.

Sau nhiều ngày đêm, nhiều ngàn cây số, tôi tới San Francisco, nơi tôi không quen biết bất cứ ai.

San Francisco đẹp như những tấm bưu thiếp du lịch. Có những tòa nhà rất cao, có rừng thông, có biển rất xanh, có cây cầu treo Golden Gate màu vàng rực.

San Francisco thơ mộng như lời những bài hát. Bạn sẽ thấy thành phố này có những người cài hoa trên tóc, những hippies, có những người đọc thơ hoặc giảng đạo ngoài đường, hoặc những con đường dốc như nửa đường leo tới mặt trăng.

1976, tôi vẫn yêu Liên ở Việt Nam.

1976, tôi yêu Leslie ở California. Cô đã dạy tôi yêu Vivaldi yêu Louis Armstrong yêu Nina Simone. Tôi yêu giọng xướng âm tiếng Mỹ hoàn hảo của cô. Tôi yêu cả cần sa, yêu Whiskey, yêu cuồng nhiệt trong chiếc xe cà tàng con cóc nhỏ bé của cô.

Lúc ấy, tôi không biết Leslie là một thiên thần, đã dạy tôi cách quên, cách sống, cách bay bổng, cách lao vào thế giới khác.

Lúc ấy, tôi chỉ là một tên vô gia cư ngủ bụi, ngủ xe, ngủ sofa, ngủ sàn nơi những người quen dọc đường. Tôi chỉ có mấy bộ đồ cũ và một ít tiền mặt.

Tôi vẫn nửa ngọng nửa điếc. Gần Leslie, da tôi vẫn vàng bên cạnh một màu da trắng. Rất trắng.

Trắng như mưa. Như sữa.

Tôi yêu những nhún nhảy tự tin của cô, những bữa ăn trưa thức ăn nhanh ngoài công viên, những kiên nhẫn của cô đưa tôi vào thư viện Berkeley với một khu đầy sách Việt, những tò mò vì cô nghe những người lính Mỹ tham chiến khi về nước kể lại Việt Nam chỉ là một nước không có cầu tiêu lẫn Ice cream.

Tôi yêu chuyến xe nhiều ngày dọc những rừng thông khổng lồ lên phía Oregon. Đi trên một đất nước quá rộng quá giàu, tài sản lớn nhất của tôi lúc đó chỉ là sự ngây ngô của một di dân mới tới: tôi chưa biết sợ.

Nhưng chỉ chưa đầy 2 tháng, chúng tôi chia tay. Hình như giữa tôi và cô vẫn có những khoảng cách. Khoảng cách ngôn ngữ là một thứ có thể rất gần mà cũng rất xa. Lúc ấy và bây giờ, không giải thích nổi. Chúng tôi chưa một lần cãi cọ.

Nhiều thập niên sau, tôi mới biết lúc ấy tôi đã có những ngày trăng mật.

1976, tôi vẫn nhớ Việt Nam điên cuồng. Một quê hương mờ mịt tin tức. Tôi sống trong những tin đồn. Tôi bám vào sự tưởng tượng. Rõ ràng mở mắt, còn ngờ chiêm bao. Một bức màn sắt đã phủ xuống, đầy rẫy hận thù từ hai phía.

Tôi không nghĩ mình có ngày quay lại quê hương.

Tôi nhớ người Việt, thèm món ăn Việt, thèm nói tiếng Việt. Một người bạn cũ, từ tiểu bang khác, về sống ở nam Cali vài tháng trước, viết thư: “về đây ấm áp, nhiều việc làm, nhiều người Việt, có quán ăn Việt, gần Saigon nhất, lại có thể tán gái bằng tiếng mẹ đẻ, thích vô cùng”.

Tôi hay cả tin, lại thích chiều bạn. Thế là vài ngày sau tôi đã có mặt ở Orange County.

Nơi sau này mọi người gọi thân mật một cách Việt hóa là quận Cam, lúc đó, chắc đã tập họp khoảng hơn chục ngàn người gốc Việt, nhà cửa còn rẻ, đất đai còn rộng, còn đầy những vườn bắp, vườn cam, vườn dâu. Bắt đầu đã có quán cà phê Việt, quán ăn Việt. Việt 100%, không cần đặt tên Mỹ.

Cho tới khoảng cuối tháng 11-1975, chương trình định cư hơn 130 ngàn người Việt hoàn tất. Nhưng, kinh nghiệm với người tị nạn Cuba tập trung hầu hết ở Florida, chính quyền Mỹ đã phân tán người Việt sống trên đủ 50 tiểu bang nước Mỹ. Những người trẻ, độc thân, không nghề nghiệp, không quen biết ai ở nước mới này, bị đưa đi những nơi xa nhất. Tôi được đi đến Fargo, một thành phố chưa từng nghe nói tới. Vừa xuống mấy ngày, chung quanh đã toàn tuyết. Thế là, sáng mai thức dậy, như đang sống ở Tây Bá Lợi Á. Đi làm hoặc ở nhà, vẫn như một thằng câm. Chỉ xem lịch, xem giờ và xem nhiệt độ hàn thử biểu. Tôi chỉ trụ được ở đó lúc hết mùa tuyết.

Tôi đi thẳng về phía Tây. Không hề có ý định quay lại chỗ này. Như “phía tây mặt trời”, một câu truyện mà nhà văn Murakami kể lại về một người nông dân Nga, sống giữa những cánh đồng tuyết Seberia, một hôm nào đó bỗng dưng bỏ hết đi bộ thẳng về phía tây rồi biến mất mà tôi đã đọc sau này. Tôi chỉ khác, tôi biết chỗ đến là Thái Bình Dương. Tôi cũng hơn anh nông dân Nga kia là tôi đi bằng xe 4 bánh.

Ở nam Calilfornia, tôi gặp lại một số bạn cũ, và quen thêm nhiều bạn mới.

Nhờ giới thiệu của Hoàng Quốc Bảo, tôi tới share một phòng (bây giờ trong nước gọi là ghép phòng), trong căn hộ của nhà thơ Du Tử Lê. Lúc đó Du Tử Lê vừa đi làm kiếm sống, vừa có cô vợ trẻ và một cậu con trai nhỏ mới sinh, vừa làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Quê Hương, khổ cỡ tuần báo Time, vài chục trang, trong đó có đủ thơ văn tin tức bình luận. Rất bận rộn.

Tòa soạn cũng ở căn hộ nhỏ, 2 phòng. Bàn đánh máy cũng là bàn ăn. Tạp chí nghe xôm tụ như vậy, nhưng thực ra chỉ có một mình Du Tử Lê bao thầu từ A đến Z. Lê rủ tôi vào làm báo chung cho tiện, trước mua vui, sau là việc… nghĩa. Tôi không hề học trường báo chí, chưa từng viết được một câu văn. Nhưng ngoài giờ đi làm, rất rảnh, nên tôi giúp một tay. Lúc ấy cả tòa soạn chỉ có một cái máy chữ cũ của hãng IBM, đánh bài xong, chữ không có dấu, phải tự dùng bút bỏ từng dấu chấm phẩy hỏi ngã. Sau đó cắt dán, cho vừa vặn khổ báo, rồi đem tới nhà in. Tôi đặt đại một cái tên hiệu mình là Lê Tôn (dựa vào họ tên cha mẹ), chức Thư ký tòa soạn. Tôi còn làm thêm việc bỏ báo bán ngoài chợ, quán cà phê, gởi bưu điện cho các độc giả ở xa. Tôi không có kinh nghiệm sống dưới khẩu hiệu “mỗi người làm việc bằng hai”, nhưng ở giai đoạn này, mỗi ngày của tôi có hơn 24 tiếng.

Bài vở gởi đến nhiều, dĩ nhiên đăng không xuể. Tôi không có quyền động đến bài vở, nhưng cũng có đọc bên lề. Tôi không nhớ lý do đột biến nào, thời điểm này, tôi làm thơ. Du Tử Lê đã đồng ý đăng ngay. Nóng hổi. Tôi tiếp tục làm thêm một số thơ nữa. Chắc khoảng 6 bài.

Vài tháng sau, nhà xuất bản Quê Hương đã in một tuyển tập thơ Việt Nam, trong đó có 4 người là Trần Mộng Tú, Thục Ngạn (vợ Du Tử Lê lúc đó), Du Tử Lê và tôi. Tất cả bài trong tập đều được dịch ra tiếng Mỹ, và bán (hoặc tặng) hết ngay, nhan đề “Quê Hương và Lưu Đày”. Tôi không còn giữ được một ấn bản nào. Và, cũng không nhớ mình đã viết thứ gì trong đó.

So với những cộng đồng Á Châu khác ở Mỹ, cộng đồng Việt Nam có một đặc điểm nổi bật là một cộng đồng chính trị. Họ đến đây bằng cách vượt biên. Họ được tiếp nhận như những người tị nạn chính trị. Vừa nhục nhã, vừa uất hận, nhưng khi tới Mỹ, họ có ngay một kho tàng vô báu: tự do. Họ đã xử dụng tối đa quyền tự do ở xứ sở mới này.

Thế là hiện tượng báo bằng Việt ngữ ra đời ồ ạt. Nếu bạn có tiền, có sức lao động cứ ra báo, không cần xin phép, không lo kiểm duyệt, không sợ tuyên giáo. Bạn có thể tốn tiền, tốn công, đôi khi rất tốn, vì viết lách và làm báo, chứ không bao giờ bị bỏ tù vì những chuyện này.

Sau vài tháng ở đây, tôi đã thu thập được khoảng 100 tờ báo khác nhau bằng tiếng Việt, từ Pháp, Đức, từ Texas, Washington DC, tới Washsington State, nhưng đa số vẫn tập trung ở California. Có tờ chỉ vỏn vẹn 2 trang. Có tờ chỉ in bằng máy photocopy. Có tờ vừa chữ đánh máy, vừa chữ viết tay. Ít tờ nào dày hơn vài chục trang. Đa số nhếch nhác, cẩu thả, cả hình thức lẫn nội dung. Và hầu như chỉ là báo biếu. Chỉ có vài người có nghề sẵn từ miền Nam qua như ký giả Việt Định Phương (báo Trắng Đen), hoặc Nguyễn Hoàng Đoan (tạp chí Hồn Việt) qua đây làm báo. Còn lại đều là tay ngang. Hoặc như tôi, thợ vịn.

Mỗi người Việt Nam tị nạn khi mới tới đều là một tờ báo. Nếu không làm báo giấy, họ có thể là báo nói.

Tôi quen Hoàng Khởi Phong vào thời điểm đó, một người tôi từng nghe tiếng từ trước 1975 là một tay giang hồ. Khi có quyền lực, anh bao che và thông cảm với những người bụi đời, nghệ sĩ, thất thế. Phong cũng trải qua một mùa đông trên tiểu bang Maine.

Anh từng sinh hoạt văn nghệ trước 1975, và đã có 2 tập thơ xuất bản ở Việt Nam trước đây. Anh quen biết rộng trong giới văn nghệ. Tôi chơi thân với Phong từ ấy.

1976, nước Mỹ rầm rộ tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày dành độc lập, Hoàng Khởi Phong có làm một bài thơ tự do, nhan đề “Chào Mừng 200 Năm Độc Lập Nước Mỹ”. Anh đã đọc bài thơ này trong một đêm thơ nhạc cho người Việt trong vùng. Miễn phí. Rạp chật kín người. Tôi nghĩ cả ngàn khán thính giả, nếu tính cả người già, em bé. Giọng anh vang, ấm, uy lực:

“cái bóng của Abraham Lincoln vẫn còn nghiêng xuống thế kỷ này…”

Tôi nhớ và chỉ nhớ câu thơ này. Hình như, chúng tôi đã cảm giác được màu da, văn hóa, ngôn ngữ lạc lõng của mình. Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ, Abraham Lincoln, chiến thắng trong trận nội chiến bắc nam, bãi bỏ chế độ nô lệ, mở đường cho những đấu tranh đòi tự do bình đẳng của người da đen tiếp đó, đã tạo sự dễ dàng hơn cho những người da màu khác đến sau như chúng tôi. Tôi vẫn nhớ và nghiêng mình trước những người da đen như Martin Luther King Jr., Rosa Park… Và riêng với người vừa chứng kiến chiến tranh Việt Nam kết thúc bằng mắt thường, tôi càng ngưỡng mộ Abraham Lincoln, với bài diễn văn của ông đọc tại Gettysburg, một trận đánh đẫm máu, chết và bị thương khoảng 50 ngàn người, và cũng là nơi trở thành nghĩa trang chôn chung cả lính hai miền nam bắc. Bài diễn văn ngắn, tôi nghĩ là một bài diễn văn hay nhất mà tôi biết được, dài 272 chữ, đọc khoảng 3 phút. Không hiểu sao mấy năm sau, tôi đã học thuộc.

Cho đến hôm nay, tôi chưa hề có một đồng lương hoặc nhuận bút nào qua việc làm báo hoặc làm thơ. Tôi không thấy đó là điều dại dột. Và cũng không thấy đó là điều hy sinh, mất mát.

Tôi không nghĩ thơ cứu vãn thế giới, cứu vãn tôi hoặc bất cứ ai. Nhưng, hình như, gần 50 năm qua, nếu bảo quay lại từ đầu, một điều tôi biết, tôi biết hầu như chắc chắn, là tôi vẫn làm thơ.

Saigon 8-2025










Lê An Thế, Phạm Kim Khải, Phạm Việt Cường










Đỗ Hồng Ngọc, Lữ Kiều, Trương Vũ, Lê An Thế, Thân Trọng Mẫn





Thân Trọng Mẫn, Đỗ Hông Ngọc, 1 bạn hữu, Từ Hoài Tấn, Lê An Thế, 

Sài gòn 10/25






PN's Studio Thủ Đức 







PN & LAT
Ngày sinh nhật LAT 












Trở về









MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.