Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

Tô Thùy Yên (1938 - 2019)

 













Tô Thùy Yên

Đinh Thành Tiên
(20.10.1938 Sài Gòn - 21.5.2019 Houston)
Hưởng thọ 81 tuổi
Nhà thơ, nhà văn













Bao giờ, cho đến bao giờ nữa
Em gánh vui về họp chợ đông?

Sài Gòn 15.4.2014










Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên

Thuở nhỏ học Trung học Pétrus Ký
Có thời gian học Văn chương Pháp tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. 
Có thơ đăng báo từ những năm 50 thế kỷ trước, khi còn rất trẻ.
Là một nhà văn, nhà thơ nòng cốt trong nhóm Sáng Tạo, cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm TuyềnDuy Thanh, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Trần Thanh Hiệp khai sinh phong trào "Thơ Tự Do" tại nam Việt vào thập niên 60. 
Ông cũng là người gốc miền Nam duy nhất trong nhóm Sáng Tạo.
Nhập ngũ năm 1963 và phục vụ trong ngành Chiến tranh Chính trị của Việt Nam Cộng Hòa.
Sau 1975, bị bắt ở tù gần 13 năm với cấp bậc Thiếu tá Tâm Lý Chiến.
Cuối năm 1993 Tô Thùy Yên cùng gia đình đã sang định cư tại Hoa kỳ, sống tại Houston, Texas.
Và qua đời ngày 21.5.2019 tại đây









Thắp tạ càn khôn một vô ích
Thắp tạ nhân quần một luyến thương

Tô Thùy Yên
















Mượn Dấu Thời Gian
xin giới thiệu đến độc giả vài bài thơ ít người biết 
của nhà thơ Tô Thùy Yên,
lần đâu tiên được phổ biến trên E.E

Sài Gòn  07/05/2014

















Lời Hẹn Ước 



Anh nghe như có quanh đây muôn nghìn cánh cửa

Nhanh thật nhanh
Mở toang cùng một lúc.
Ánh sáng ùa tràn
Ánh sáng âm vang
Như đến tự thiên đường nghe nói có.
Em bổi hổi nhận ra anh, sững lặng hồi lâu và rồi khóc rạng rỡ.
Thế giới bặt im
Hướng nhìn em ngưỡng mộ.
Thời gian loang loáng vào ra cửa kiếng múi xoay tròn
Thời gian tất bật lên xuống cầu thang xoáy mải miết
Thời gian ...
Thời gian lặng thầm khuân đặt giữa đôi ta
Tấm bảng đồng chói rạng
Vỗ sâu lời hẹn ước thốt lên từ một kiếp xa xăm
Em bổi hổi nhận ra anh ...
Bao giờ người nữ cũng chờ đợi,
Bao giờ người nam cũng quay về,
Chuyện tự ngàn xưa ...
Hãy đinh ninh có một tình yêu đủ với một đời người,
Một tình yêu thay được mọi thiếu thốn
Dù qua bao nhiêu lần dời đổi tủ giường,
Bao nhiêu lần chết đi và tái sinh.
Em đã chẳng từng nghe
Cát bụi òa lên thăm thẳm nỗi buồn thương không định tính
Khi giữa dòng đời tán tụ ngược xuôi
Chợt có tiếng một người gọi vội một người
Không biết phải mình chăng?
Em khóc một thời cách biệt,
Em khóc một lần trùng phùng,
Khóc rạng rỡ ...
Khóc như để dỗ mình
Khóc cho rã tan đời không hối tiếc
Khóc chừng rung động cả thiêng liêng ...
Khóc trong phòng, khóc ngoài phố,
Khóc nơi đây hay khóc nơi nao,
Em cần chi lý tới
Khi mà em phải khóc, khóc không ngờ
Những dòng lệ chừng chẳng của riêng em ...
Ta gặp nhau, gặp lại nhau rồi ...
Cũng có lúc thời gian thật khả ái
Mang trả ta chút ít những hao mòn
Lâu đời quá đến không còn dám nhớ.
Em nhận ra anh, anh nhận ra em
Giữa bao nhiêu khuôn mặt nhạt nhòa hiện biến hiện,
Công việc rộn ràng,
Điện thoại tới tấp ...
Em nhận ra anh, anh nhận ra em,
Bàng hoàng hai hạt cát
Từng rời xa bay giạt suốt thiên thu
Mịt mùng vô vọng.
Em nhận ra anh, anh nhận ra em,
Ta không còn thường nhật nữa ...
Những đóa hoa vờn bay nhởn nhơ,
Những trang giấy thành chim, thành bướm
Ô đủ bốn mùa rộn rã dung nhan em
Như một cõi đất trời không giới hạn
Mà anh đã một mình ủ rũ đi qua
Mong tìm gặp chân hình anh thất lạc.
Ôi dung nhan em, khuôn mặt khác của hồn anh,
Một khuôn mặt không ai ngoài biết được,
Anh nhìn vào, nước mắt đột nhiên tuôn,
Vỡ tất cả những gì không tiết lộ.
Em yêu anh đằm thắm xót xa
Như bàn tay ( ......... ) của người em gai nhỏ
Mơn phủi ngực áo anh bám thảm bụi đường xa,
Vuốt gỡ mặt mày anh dính buồn gió cõi lộng.
Em yêu anh đằm thắm xót xa
Tưởng tượng anh còm cõi vác âm thầm
Từng ấy nhục nhằn
Đi chân đất băng qua miền đá chởm.
Em yêu anh đằm thắm xót xa
Như lượn sóng vỗ về bãi cát cháy
Như đầu cây quặn gió đêm trăng suông
Như hạnh phúc của những người tình gặp gỡ muộn.
Anh yêu em dịu dàng buồn bã
Luyến tiếc cho em từng mất mát khôn nguôi,
Từng mất mát giữa muôn trùng gió cát
Thủa em còn lặn lội kiếm tìm anh.
Anh yêu em dịu dàng buồn bã
Như chỉ cốt đền bù
Những gì em thiếu vắng
Đền bù cho kịp trước ngày mai.
Anh yêu em dịu dàng buồn bã
Như hoặc anh hoặc em không còn nữa trên đời ...
Biển bất định,
Gió suy kiệt ngoài quãng trống xa xôi.
Anh hối hả đốt hực tim anh
Như đốt củi còn xanh
Cháy rên rỉ và ứa ràn nước mắt.
Đôi khi ta phải đốt tim mình
Để biết ta còn một thứ gì cũng đáng kể,
Bằng vào nỗi đớn đau
Sừng sững khí phách.
Đôi khi ta phải vượt những vành đai trắng của thường tình
Vây chật đời người
Đến một miền không thuộc đất
Như những cặp tình nhân của Chagall.
Đôi khi ta phải tin
Không cần hỏi đúng sai
Rằng mỗi người yêu chỉ một lần
Như sống chết.
Nhớ hôm trước anh ra ngoài bãi sụp
Nhìn dòng sông đã chuyển lòng xưa
Tiện mắt, nhìn luôn con nước mới,
Khóc mê man mong hả nhục nhằn
Không hả được.
Sao em còn ra đó tìm anh
Lay anh dậy
Rủ anh về
Đạp vô thường đổ nát mà đi
Ngắt cho em một cành bông cỏ ngoài tầm,
Ứa nước mắt
Tiên cảm ngày chiếc võng treo không,
Ấm trà để nguội
Lối đi rêu
Hoa mận rụng rồi đến trái mận rụng.
Trang sách nào anh đọc cho em nghe,
Trang sách đó thuộc về em
Dẫu có như chiếc áo lỗi thời
Quẳng bỏ được,
Cũng mong em gấp đó để dành
Mai kia còn giở lại
Đọc một mình bên ánh lửa tàn đông
Nghe như chính thiên thu nào nhắc nhở
Về đôi điều em chẳng nỡ quên đi.
Anh yêu em thuần khiết than thở
Như đứa bé hồn vần vụ mộng
Yêu qua truyền thuyết một khu rừng
Suốt tuổi nhỏ hằng mơ ước đến ...
Khi lớn lên, có dịp lại không vào
E chỉ gặp toàn cây lá lan man
Như quyển sách mà mình quá tuổi đọc.
Anh yêu em, đứng cách khoảng mà yêu,
Yêu mãi mãi
và chân hình ãnh mãi mãi ở đằng xa
Thấy loáng thoáng như tiền thân mang máng nhớ.
Anh yêu em không màng đến chia lìa ...
Đây hay đó cũng đều như thế cả
Gần chẳng gần hơn, xa chẳng xa hơn.
Thời gian ...
Chúng ta chỉ còn cần một chút nữa kiên trì,
Tấm bảng đồng kia sẽ được cất về một kiếp khác.


















Những Mẩu Giấy Rời 


Rồi anh sẽ phải cố quên đi

Tất cả những gì anh bỏ lại ...
Hành lý của anh đơn giản nhẹ nhàng
Nhưng anh biết rõ ràng không phải vậy.
Ôi nội xác thân tàn rạc này thôi
Cũng đã khó lòng mang chuyển xuể
Trên những nẻo đường biết trước sẽ chông chênh ...
Ờ, để phỉnh mình, anh sẽ hát,
Em yên tâm.
Anh sẽ hát
Dẫu có là ngây dại thế nào,
Anh cũng hát
Để mình còn nghe thấy tiếng mình
May đỡ lẻ loi chăng?
Anh sẽ hát
Cho những niềm tấm tức
Xô lớn cửa đi ra.
Và anh tán thưởng anh
Bằng những dòng nước mắt khôn cầm
Khô cứng máu mình như máu đọng.
Anh sẽ hát
Trên đường đi, ở những trạm dừng ... 
Hát đến tan hồn,
Đến kiệt máu
Chừng cũng còn tiếng hát nuối môi xanh
Như một nỗi ta thừa không đành siêu tán trọn
Ờ, anh sẽ phải cố quên đi
Bao nhiêu là hận tủi trong đời
Để còn sống sót nốt
Như cỏ buồn cầm cự tiết trời đông.
Anh phải cố quên đi
Tất cả những gì anh bỏ lại...
Xứ sở tang thương nghiệt ngã đói nghèo
Người sống nhẹ dần
Rớt rớt bớt những gì đáng kể nhất.
Ôi đứa bé bơ vơ lạc giữa ngã tư đường
Xe cộ băng băng,
Khóc khiếp sợ,
Không thấy ai dừng lại hỏi han.
Và quá khứ rữa tan sinh sôi dòi bọ,
Lịch sử bần thần mệt mỏi đợi chờ ...
Không còn ai làm gì được nữa cho ai,
Không còn ai làm gì được nữa cho mình,
Và em thảm sầu tóc rũ rượi
Xõa rộng buổi chiều nhanh.
Anh ngồi đó tưởng như mình chẳng có
Nghe mơ hồ mấy tiếng gằn khan
Có lẽ của thời gian đi ngang màn cửa sổ.
Anh đứng lên
Như núi nhấc mình
Chẳng thốt được cả lời nghiêm trọng cổ:
Anh yêu em.
Anh phải cố quên đi
Những gì anh bỏ lại ...
Nào chiến tranh,
Tù rạc,
Lưu vong,
Nào những lần trượt ngã,
Nào những cuộc tình duyên ...
Từng ấy thứ
Chất lên một đời người
Kể cũng là quá đáng.
Một đời người như vệt sao băng
Không kịp thốt lên lời ước nguyện.
Anh phải cố quên đi
Những ám ảnh oan cừu quần quẫy
Như những hỗn mang sông rạch vòng vo
Trong một đầm lầy vô vọng thoát.
Ai cố cựu ngồi bên giếng sụp,
Đỏ mắt chờ trông
Nghe đời cũng cạn.
Ai trầm luân mộng nẻo hương quan,
Lửa tàn gió thốc,
Dở giấc hoang mang.
Trời đất, sao đời đến nỗi vậy?
Ta xót thương người hẳn cũng như ta
Căng kéo dài đêm không ngủ được,
Nằm bẻ đốt tay suông
Nghe gió xé về những mảng rách rạt rào
Tiếng gọi xa xăm
Ngoài khung cửa tối tăm thiên cổ.
Ta xót thương người cũng cố quên đi
Biết mấy nỗi niềm vẫn nhớ dính.
Ô, con tắc kè chợt tỉnh giấc tiền sinh
Kêu mấy tiếng u minh buồn bã.
Cứ gì đến bây giờ, mãi đến bây giờ,
Đời mới muộn màng ư?
Rồi anh sẽ phải cố quên đi
Tất cả những gì anh bỏ lại ...
Ôi những mẩu giấy rời
Rứt ra từ nhiều quyển sách cũ
Khác tên nhau
Như câu chuyện quàng xiên của một người lú lẫn.
Rồi anh sẽ phải cố quên đi,
Quên đi như giấc ngủ nào đen tuyền
Không hề lợn cợn mộng.


















Và những bài thơ hay được nhiều người biết đến







Chiều Trên Phá Tam Giang


phá Tam Giang ngày rày đã cạn

(ca dao)








1.

Chiếc trực thăng bay là mặt nước
Như cơn mộng nhanh
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Bờ bãi hỗn mang, dòng bát ngát
Cát hôn mê, nước miệt mài trôi
Ngó xuống cảm thương người lỡ bước
Trời nước mông mênh, thân nhỏ nhoi
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Nhớ câu ca dao sầu vạn cổ
Chiều dòn tan, nắng đong nứt ran ran
Trời thơm nước, thơm cây, thơm xác rạ
Thơm cả thiết tha đời
Rào rào trận gió nhám mặt mũi
Rào rào trận buồn ngây chân tay
Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ
Từng đoàn như trẻ nhỏ ghê ma
Ta ngó thấy thùy dương gẫy rủ
Từng cây như nỗi bất an già
Ta ngó thấy rào chà cản nước
Từng hàng như nỗ lực lao đao
Ta ngó thấy nhà cửa trốc nóc
Từng ngôi như mặt đất đang gào
Vì sao ngươi tới đây?
Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói
Xích lời nguyền sinh Bắc, tử Nam
Vì sao ta tới đây?
Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn
Dưới mắt người làm tên lính ngụy
Ví dầu ngươi bắn rụng ta
Như tiếng hét
Xé hư không bắt im
Chuyện cũng thành vô ích
Ví dầu ngươi gục
Vì bom đạn bất dung
Thi thể chẳng ai thâu
Nào có chi đáng kể
Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại
Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?
Ngươi há chẳng thấy sao
Phá Tam Giang, phá Tam Giang ngày rày đâu đã cạn?
Ta phá lên cười, ta phá lên cười
Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ
Ở cõi âm nào ngươi vốn không tin
Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa:
Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...?
Các việc ngươi làm
Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm
Các việc ta làm
Ta xét thấy chẳng ra chi
Nên ngươi hăng điên, còn ta ảm đạm
Khi cùng làm những việc như nhau
Ta tự hỏi vì sao
(Còn ngươi, có bao giờ ngươi tự hỏi)
Và ta tự trả lời
(Có bao giờ ngươi tự trả lời)
Chúng ta khác nào cánh quạt phi cơ
Phải quạt, phải quạt
Chỉ vì nó phải quạt
Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử
Cùng mê sa một con đĩ thập thành
Chiều trên phá Tam Giang rộn ràng tiếng chiến trận
Chiều trên phá Tam Giang im lìm âm cảm thông





















2.

Chiều trên phá Tam giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận
Giờ nay thương xá sắp đóng cửa
Người lao động quét dọn hành lang
Những tủ kính tối om
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm
Sài gòn không còn buổi tối nữa)
Giờ này có thể trời đang nắng
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới đôi vòm cây ủ yên tĩnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi
Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối
Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn
Quyển sách mở sâu đêm
Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỷ
Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường
Mà cô gái nào cũng nghĩ tới
Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Một cách tự nhiên và khốn khổ
Giờ này có thể trời đang mưa
Em đi nép hàng hiên sướt mướt
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè
Như những đóa hoa nở gấp rút
Rồi có thể em vào một quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ
Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nổi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
 Nhớ bất tận
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi
Như những mặt trời con thật dễ thương
Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi
Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích
Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng
Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân
Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại!





















3.

Chiều trên phá Tam giang
Mày nhìn con nước xiết
Chảy băng bờ bãi ngổn ngang câm
Nghĩ tới, nghĩ tới những công trình mày có thể hoàn thành
Mà rồi mày bỏ dở
Nghĩ tới kiếp người đang lỡ độ đường
Trên mịt mùng nghi hoặc
Nghĩ tới thanh xuân mất tích tự đời nào
Còn lưu hậu chua cay hoài vọng
Nghĩ tới khu vườn ẩn cư cỏ cây khuất lấp
Căn nhà ma ám chầy ngày gió thổi miên man
Đụt tuổi già bình an vô tích sự
Như lau lách bờm sờm trên mặt sông nhăn
Cùng cái chết
Cái chết lâu như nỗi héo hon dần
Làm chính mình bực bội
Gió muôn ngàn năm thổi lẽ tuần hoàn
Cho cỏ cây thay đời đổi kiếp
Và mày kinh sợ nghe nhắc điều vượt sức bình sinh
Bởi mày không đủ dạn dầy trình diễn tới lui cơn thất chí
Như gã hề cuồng mưu sinh giữa chốn đông người
Với từng ấy tấn tuồng bần tiện
Rút ra từ lịch sử u mê
Gió thổi thêm đi, gió thổi thêm đi
Cho cỏ cây mau chết, mau hồi sinh
Mày mặc kệ
Chiều trên phá Tam Giang
Có gã hề cuồng buông tiếng cười lanh rợn
Khiến bầy ác thú mà lịch sử sanh cầm cũng chợt hãi hùng
Dớn dác ngó


6-1972



















Chiều Trên Phá Tam Giang

Nhạc: Trần Thiện Thanh
Thơ: Tô Thùy Yên
Tiếng hát: Lê Uyên, Thiên Kim





















Ta Về




Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay


Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ


Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay


Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu


Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ


Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi


Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi


Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng


Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này


Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa


Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi


Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời


Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can


Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta


Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền


Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa


Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi


Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?


Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu


Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên


Ta về như tiếng kêu đồng vọng 
Rau mác lên bờ đã trổ bông 
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng 
Chờ anh như biển vẫn chờ sông 


Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau


Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm


Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa


Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi


Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen


Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa


Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao


Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh


Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi


Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta
















Cánh Đồng Con Ngựa Chuyến Tàu



Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến độ
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt
Gò nông cao rồi thung lũng sâu
Ngựa thở hảo hển, thở hảo hển
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau
Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu
Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết
Tàu chạy mau, càng mau, càng mau
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ
Chấm giữa nền nhung một vết nâu









Ngựa phi đường xa



Tô Thùy Yên đến với văn học trên “Cánh đồng Con ngựa Chuyến tàu”, bài thơ làm năm 1956, đăng trên báo Sáng Tạo thời đó và được độc giả hoan nghênh ngay, nhất là trong giới thanh niên, học sinh. Thời ấy sinh viên chưa nhiều, quần chúng văn chương còn thưa thớt, một thế hệ độc giả mới đang chớm thành hình. Với thời gian nhìn lại, bài thơ có thể xem là một sự kiện văn học vì lời thơ tân kỳ, ý thơ mới lạ, không giống một bài thơ nào khác trước kia mà đã được người đọc không chuyên môn văn học yêu thích ngay. Chuyện hiếm, vì công chúng Việt Nam nói chung là thủ cựu.

Chuyện đẹp, vì bài thơ của tác giả 18 tuổi đi thẳng đến độc giả 18 tuổi.

Ngày nay Tô Thùy Yên là tác giả danh tiếng. Bài thơ thanh xuân được những lớp phù sa bồi thêm nhiều ý nghĩa mới.


Trên cánh đồng hoang thuần một màu,
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu.
(…) Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
(…) Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.


(Tô Thùy Yên, Thơ Tuyển, tr 13)



Cánh đồng, con ngựa ở đây khác với những hình ảnh trong thơ cổ, tranh Đường, tranh Tống, ngược lại phần nào đó, gợi lên nền “văn hóa đồng hoang” của Nga La Tư thời cổ đại. Chuyến tàu – nôm na là xe lửa – là biểu tượng văn minh cơ khí và hiện đại. Cuộc va chạm lớn lao giữa hai nền văn minh đông phương thảo mộc và tây phương cơ giới đã được nhà văn Phạm Văn Ký, 1910- 1992, vẽ lại trong tiểu thuyết Mất nơi trú ẩn (Perdre la Demeure, Gallimard, 1961, giải thuởng Hàn Lâm Viện Pháp), mô tả cảnh xây dựng con đường sắt tại Nhật Bản vào thế kỷ XIX. Ngày nay, với tậpTHƠ TUYỂN (1) ghi tắt TT, của Tô Thùy Yên, con tàu còn mang nhiều ý nghĩa khác, như hình ảnh của lịch sử, dân tộc và loài người, tàn khốc và vô tâm:


Tàu đi, khoan xoáy sâu đêm thép,
Tiếng nghiến ghê người, thác lửa sa.
Lịch sử dường như rất vội vã,
Tàu không đỗ lại các ga qua.


(Tàu Đêm, 1980 , TT, tr 122)



Bài thơ làm trong thời gian học tập cải tạo miệt Nghệ Tĩnh; con tàu chở những người tù lưu xứ (tr 121), từ một sự vật cụ thể, mang thêm nội hàm tượng trưng rộng lớn trong thế giới Tô Thùy Yên:


Thời đại đang đi từng mảng lớn
Rào rào những cụm khói miên man

( TT, tr 125)


"Trên đường lịch sử sắt tuôn mau” (tr 120) con tàu đối lập với ngựa; ngựa là hình ảnh loài người trong thân phận cá nhân, trong một thế hệ, một dân tộc hay thời đại trước tiến hóa. Sức người có hạn rượt theo bánh xe lịch sử, vô hạn và vô định, vì lý tưởng chính đáng, vì những say mê cuồng nhiệt và mù quáng, vì “duy ý chí”, vì hoang tưởng hay chỉ là nạn nhân trong một hoàn cảnh. Cho đến khi “ gục đầu, gục đầu’

Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.

Ngựa nâu là màu ngựa thường, có khi là ngựa thồ, không phải là bạch câu, ô truy hay xích thố. Ngựa của Kim Trọng trắng tựa “tuyết in”, chấm trên nền cỏ thanh minh như một đóa hoa lê; ngựa của chinh phu cũng"tuyết in" nổi bật dưới chiến bào “đỏ tựa ráng pha”. Ngựa của Vân Tiên đen tuyền, lấp lánh dưới kim khôi và siêu bạc rạng ngời giữa trận tiền. Ngựa của Tô Lang chỉ có “lớp áo” nâu sòng, màu của số phận dân quê, nói được là màu “dân tộc” cày sâu cuốc bẫm, hay cửa chùa vắng lặng. Khi thua cuộc, con ngựa -con người- chỉ để lại một “vết nâu”.

Nâu như một giọt máu khô.

Thơ, và nghệ thuật nói rộng ra, là những giọt máu đang khô, hay đã khô, trên nền mãi mãi non xanh của ngôn ngữ loài người.

Cuộc đời như thế đấy.

THƠ TUYỂN của Tô Thùy Yên bắt đầu bằng một câu trần trụi, trong bài nhan đề Thi Sĩ làm năm 1960, có thể xem như là tuyên ngôn. Thơ, thơ ai cũng vậy, bao giờ cũng vậy, là Lời, lẫn với Đời. Khác nhau ở tỷ lệ: đời ít lời nhiều, hay ngược lại. Ở Tô Thùy Yên đời và lời cân phân.

Câu thơ dù bay bổng, nợ đời, tình đời vẫn nặng chĩu.

Thơ nhẹ cánh, mà đời nặng gánh. Nói “đời” là mơ hồ, thậm chí hàm hồ. Đời nào, đời ai, đời những ai? Đời tênh hênh thì thơ cũng tô hô. Ngày xưa Xuân Diệu tự xem như con chim “ngứa cổ hát chơi”, lại thêm “hát vô ích thế mà chim vỡ cổ”. Tô Thùy Yên không làm thơ để mà chơi.

Tôi giành giựt đổ máu với tôi
Từng chữ một

(Thi sĩ, TT, tr 9)


Người xưa kể lại giai thoại “thôi xao”, nhẹ nhàng như việc "đẩy cửa dưới trăng, tăng xao nguyệt hạ môn", ( chuyện nhà thơ Giả Đảo đời Đường ) không “đổ máu” như Tô Thùy Yên. Lê Đạt nói về nỗi vất vả trong lao động chữ nghĩa có dùng hình ảnh "phu chữ”; Tô Hoài, trong bài viết đùa thân mật, diễn nôm là “cu ly chữ”. Tôi có dịp hỏi ý kiến Lê Đạt, anh trả lời: hiểu như thế không sai, nhưng cục bộ, “phu” còn có nghĩa là "đại phu", hay "đại trượng phu" theo Mạnh Tử. Đây là lời nói riêng, không phải là ý kiến.

Tô Lang không chơi chữ nước đôi kiểu ấy: "đổ máu" là đổ máu, chỉ có một nghĩa, dĩ nhiên là nghĩa bóng. Đọc thơ Tô Thùy Yên, cũng không nên đọc để mà chơi. Tác giả kén chọn người đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng báo, anh mới cho xuất bản một tập THƠ TUYỂN. Viết về anh có phần khó; không phải ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm. Tôi viết bài này là do yêu cầu của độc giả, chủ yếu vì lí do tâm cảm và đồng cảm, xem từng chữ của Tô Thùy Yên như những giọt máu. Ví dụ con ngựa nâu là giọt máu mới đông. Cũng trong bài tuyên ngôn Thi sĩ:

Bài thơ lọt vào người như kẻ trộm
Âm thầm
Vơ vét sạch vô tư

( TT, tr 10)


Như vậy đơn vị thơ Tô Thùy Yên không phải ở câu thơ, như thường lệ, mà là bài thơ có khi khá dài, thường trên một trăm câu, và từng bài thơ một, phải đặt lại vào toàn thể tập thơ mới đúng vị trí và ý nghĩa của nó. Trích dẫn từng câu, từng đoạn, dù tiêu biểu, là việc cực chẳng đã. Đọc toàn tập, chúng ta nhận thấy thơ của Tô Thùy Yên không có tuổi, cho dù mang nhiều âm vang của lịch sử, trong một giai đoạn chiến tranh, đổi đời và tù đày khốc liệt.

Bây giờ ta đã già như tuyết
Già vô âm vọng
Già thâm u
Bây giờ ta trẻ như hừng đông
Trẻ như tiếng reo
Trẻ bất tử.
Ta ca ngợi những điều vô ích nhất,
Như tình yêu, cuộc đời, sợi tóc cỏ.

(Chim Bay Biển Bắc, 1972, TT, tr 69)


Chàng thanh niên 18 tuổi, khi kể chuyện Con ngựa Chuyến tàu đã là một tâm hồn già; con người ngũ tuần vừa ra khỏi trại cải tạo sau nhiều năm lưu xứ với “mái đầu sương điểm”.

Ta về một bóng trên đường lớn,
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai

(Câu mở đầu bài Ta về, 1985, TT, tr 126)


Bài tuyên ngôn “Thi sĩ” làm 1960 đã có những câu:

Những tên cai ngục
Ngôn ngữ bất đồng.
Với thứ linh hồn quốc cấm,
Tôi tù tội chung thân

( TT, tr 9)


Trong một bài thơ đề tặng Thụy Vũ, ghi 7-1972 đăng báo Văn (Sài Gòn) số 208 ngày 15-8-1972:

Ôi những rặng cao su thẳng lối ngay hàng
Ôi những rặng cây mang án tử hình treo
(Bất tận nỗi đời hung hãn đó, tr 58)

Lại còn bài này nữa cùng thời 1972:

Sống trên đời chuyện ghê gớm quá,
Vậy mà ta sống, có kỳ không ?
Nước mắt ta tuôn khi nghĩ tới
Những người đã chết, chết như rơm..
...

Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian hòn đá tuột
Lăn dài kinh động cả hư vô

...

Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ
Ngày qua ngày, cho hết đời ta ...

( Bài: Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, TT, tr 43- 45-46)


"Tử tội mừng ơn lịch sử tha"! Bài thơ ghi thời điểm sáng tác: tháng 7-1972. Tôi ngờ ngợ tác giả nhớ nhầm, thơ in nhầm ngày tháng chăng? Tôi (vớ vẩn) đi kiểm soát lại thì thấy đúng, bài thơ đăng trên báo Văn, Sài Gòn số 208 đã dẫn, thời đó, có ghi rõ: làm ngày 11-7-1972.

Cùng với bài Tưởng tượng ta về nơi bản trạch, lời thơ bi tráng tuyệt diễm:

Ta bằng lòng phận que diêm tắt,
Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông.
Thôi nói, bởi còn chi để nói,
Núi xa, chim giục giã hoàng hôn.

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,
Áo phơi xanh phới nhánh đào hồng.
Mùa xuân bay múa trên trời biếc,
Ta búng văng tàn thuốc xuống sông

(Báo Văn, tr 61, Thơ Tuyển tr 51)


Que diêm tắt mà vẫn phơi phới đào hồng, trên cõi đời này, chỉ có Tô Thùy Yên! Niềm hạo nhiên đó, Tô Quân còn gọi là: “cái có nơi ta” trong bàiChim Bay Biển Bắc đã dẫn, làm ngày 4.8.1972.

Đừng loạn tâm, đừng loạn tâm
Cuối chặng hành trình quay đảo nhất
Cả thảy sẽ an nhiên
Trong trật tự hằng hằng của vũ trụ
A! Loài người thăng tiến được bao xa?
Trời đất phồng lên cơn giận dữ
Thổi trận mưa rơm, Cõi Tạm mù

(Văn số 208, tr 91, Thơ Tuyển tr 70)

Trước đó, bài Đãng Tử,1971 có ghi tiền đề: (epigraphe)

Ngày kia trở lại Ngôi Nhà Lớn
Lòng những bằng lòng một kiếp chơi.

( Báo Văn, số 190, TT, tr 23)


Mười năm lưu đày, thêm những lần bị bắt đi bắt lại, âu cũng chỉ là một kiếp chơi! Nắm bắt được điều đó, mới hiểu thấu bài Ta về (1985) nổi tiếng về sau, được nhiều người trích dẫn, không phải lúc nào cũng với hảo ý văn nghệ.

Gần đây và hiện nay, về mặt văn hóa, trong nước đang thảo luận dài dòng về đề tài: truyền thống và hiện đại; dân tộc và thế giới; cái riêng trong cõi chung… Ý hướng tốt: muốn liên minh cái nọ với cái kia, điều hòa cuộc sống dân tộc trong một thế giới đang bước đi những bước khổng lồ.

Thực tế văn hóa, nghệ thuật không rắc rối như vậy. Người nghệ sĩ làm thơ, vẽ tranh một cách hồn nhiên muốn sao làm vậy, rồi tác phẩm của họ nó ra sao còn tùy; dân tộc hay hiện đại là do người xem người đọc. Nếu rung cảm chân thành và sâu sắc thì phải mang đủ hai yếu tố, với phần liều lượng khác nhau.

Nói rằng điều hòa truyền thống với hịện đại, ngày nay trở thành một khẩu hiệu, một cách chào hàng trong thị trường văn hóa. Trong thâm tâm người sản xuất đã có hậu ý đối lập: làm sao cho có bản sắc dân tộc mà vẫn hiện đại; làm sao theo kịp các trào lưu của thế giới mà vẫn giữ truyền thống. Hai chữ “mà vẫn” có tính cách lãnh đạo và tham lam. Mà lãnh đạo và tham lam là phi văn hóa. Người nghệ sĩ chân chính, dù cho bề ngoài phải chịu ức thúc, nhưng trong đáy tâm hồn, trong cõi thâm sâu của sáng tạo, họ là những cá nhân tự do sống và sáng tác với "cái có trong ta" như chữ nghĩa Tô Thùy Yên.

Con người nô lệ, vụ lợi và xu thời, giỏi lắm là nghệ nhân hay văn công. Trong thực tế sáng tạo, dân tộc và hiện đại là một đơn vị bất khả phân. Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, trong một tác phẩm mới in, đã nói chí lí và dũng cảm: “cái khẩu hiệu Dân tộc Hiện đại của văn nghệ chúng ta trong nhiều năm nay là một mệnh đề thiếu chính xác và hoàn chỉnh ngay ở mặt tu từ (…) khẩu hiệu này thiếu cái hàm ý nhân loại trong truyền thống” (tr 58). Trong một bài khác, anh nói thêm “ Cũng vậy đối với nghệ thuật bản sắc dân tộc và tính toàn cầu phải được hiểu là một”.(tr 73).

Cần nêu lên tiền đề này trước khi đề cập đến đề tài cục bộ: Tô Thùy Yên, dân tộc và hiện đại, đặt một trường hợp riêng lẻ trong cuộc thảo luận chung của đất nước - dù rằng cuộc thảo luận khập khiểng. Nói khác đi, vấn đề không đặt ra với tôi; với tôi chỉ có thân xác những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch; nó là thơ Tô Thùy Yên thế thôi, không dân tộc hiện đại gì ráo. Nhưng với người đọc – người đọc báo chẳng hạn, người viết có nhiệm vụ (và hạnh phúc) phải cập nhật hóa bài viết, trong bối cảnh lý luận rộng lớn hơn, hiện hành trên đất nước.

Tô Thùy Yên đến với văn học Việt Nam ở một giai đọan mới, mở ra tại miền Nam khoảng 1955-1956. Anh là thanh niên trí thức, đọc nhiều sách báo nước ngoài, trên một mảnh đất mở vào “Thế giới tự do” thì dĩ nhiên tâm hồn và trước tác cũng phải hiện đại: câu thơ, nhịp thơ, hình ảnh, ý tứ trong thơ Tô Thùy Yên minh chứng điều đó, chúng ta không cần đồ họa lôi thôi. Cái chính là làm nổi bật tính dân tộc trong thơ Tô Thùy Yên, đã đưa thơ anh đến với một nhân loại muôn đời,vượt qua hàng rào “hiện đại”.

Trong số những nhà thơ đương thời, có lẽ Tô Thùy Yên là người sử dụng nhiều ca dao nhất. Lưu Trọng Lư, một trong những người phát động thơ mới, thuộc nhiều ca dao, hay nhắc đến những màu sắc dân tộc, nhưng ít khi đưa ca dao vào thơ. Thanh Thâm Tuyền sành ca dao, nhưng không sử dụng, thậm chí có thể nói thơ Thanh Thâm Tuyền là một thi loại phản-ca-dao. Tô Thùy Yên, ngược lại ưa dùng lời ăn tiếng nói dân gian; nếu không thuộc tục ngữ, ca dao, người đọc có khi không hiểu anh nói gì. Ví dụ bài thơ mới làm cuối 1993, để Giã Biệt, “từ bỏ căn nhà, từ bỏ quê hương” lên phi cơ biệt xứ:

Anh ra đi
Bứt ruột mà đi (a)
Như đã một lần cũng bứt ruột
Đi những mười năm tưởng chẳng còn về
Máu chảy không cầm như nước theo sông
Thành phố của anh
Nhục nhằn duyên cưỡng ép (b)
Cay đắng phận rau răm (c)
Tim lay lắt chập chờn nỗi đợi
Mòn mỏi nén nhang khuya (d)
Buổi trở lại, trèo lên cây bưởi cũ (e)
Trông thấy nhau, thương chỉ để mà thương (f)
Đôi bông đó thôi thì em hãy giữ (g)
Tưởng tình xưa
Xin bỏ lỗi cho anh
Anh ra đi
Một lần nữa ra đi
Một lần nữa bứt ruột
Thương người ở lại
Thương như mưa (h)

( TT, tr 203)

………………………..

a. Đưa tay mà bứt ngọn ngò
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ
b. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên
c. Cay đắng phận nghèo (mùi đời)

(thành ngữ).

Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
d. Anh buồn còn chỗ thở than
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya
e. Trèo lên cây bưởi hái hoa
f. Cây cao bóng ngã qua rào
Trông cho thấy mặt không chào cũng thương.
g. Một mai thiếp có xa chàng
Đôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin.
h. Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.


Dĩ nhiên là còn nhiều câu khác mà tôi không biết, như “máu chảy không cầm” tôi nhớ mang máng đâu đó, không tường tận. Muốn tìm ra nhiều điển cố dân gian trong một bài thơ như vậy, phải lần lên đến Quốc âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, thế kỷ thứ XV.

Có những giao hưởng tài hoa và thi vị, trong lời hẹn một ngày về Vườn hạ

Ăn trái chín cây mùa hạ trước
Thấy nhành ớt động bóng chim quen

( TT , tr 91)

Muốn đi vào tâm tư tác giả, ta cần biết:

- Chim chuyền bụi ớt líu lo
Tình thương quân tử ốm o gầy mòn

- Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi

Trong bài Ta về , 1985:

Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao
Khóc người, ta khóc ta rơi rụng

( TT, tr 135)


Câu trên gợi lên cảnh “ đêm khuya ra đứng bờ ao” mà ai cũng nhận ra, nhưng không gian bờ ao kết hợp với “rụng” nhắc lại một câu ca dao khác và gợi ra tâm trạng hờn tủi của người về

Thiếu chi cam rim hường rim anh không chuộng
Anh đi tìm trái khế rụng bờ ao.


Một bài khác còn nhắc tới cây khế dung dị nhưng tuyệt đẹp:


Ta nhớ lắm
Khu vườn xưa, cây khế tím mùa hoa



Có khi Tô Thùy Yên sử dụng nguyên si một câu ca dao:


Thôi, em tiếc thêm chi cái sợi dây dài
Để đến nỗi ngồi hoài bên giếng cạn ?

( TT, tr 150)


Nguyên câu văn ca dao, hóm mà sâu :

Tưởng giếng sâu em(anh) nối sợi dây dài,
Ai ngờ giếng cạn em(anh) tiếc hoài sợi dây.

Bài Mùa Hạ làm trong trại học tập Nghệ Tĩnh, trực tiếp nhắc nhở nội dung dân gian của một hình ảnh.

Ngày nghỉ về vườn thăm họ ngoại
Lòng như con sáo trong ca dao

( TT, tr 108)


Con sáo là hình tượng tự do: "con sáo sổ lồng sáo bay”. Vương vấn đâu đó ít nhiều cay đắng, khi nhớ đến câu trước: "Ai đem con sáo sang sông," so với tình huống của người dân miền Nam đi học tập cải tạo “ bên kia sông”. Cùng trong trang đó:

Em mặc bà ba ra bến nước,
Đưa tay khỏa nhẹ nhớ thương nào,
Đến nay lòng ấy còn xao gợn…
Mùa trái cây nào hái tặng nhau .

(TT, tr 108)

Ngoài “mùa trái cây” gợi nhớ đời sống Miệt Vườn, chữ “bà ba” là đặc tính của Nam Bộ , nhưng không xuất hiện nhiều trong thơ. Thường thường ta chỉ thấy “áo lụa Hà Đông” hay là:

Yêu nhau gói trọn hồn trong áo
Nhớ nhau từ trong tà lụa bay

Đinh Hùng


Võ Phiến thời đó (1972) đã nhiều lần luận về cái áo dài tha thướt; sau này, ra nước ngoài, anh mới nhớ đến cái áo bà ba. Tô Thùy Yên trong những câu thơ uyên bác, không ngại dùng những từ dân dã, Nam Bộ như cười bung (tr 59), lá bung phơi (tr 111), bung nở (tr 212), tiếng hò mời dzô dzô (tr 47), quên ngang (tr 119). Những lời lẻ dân gian được sử dụng uyên bác:

Tôi gầy yên lặng với âm thanh (TT, tr 10)

Ngọn cây, ô, đã giát hoàng hôn ( TT,tr 43)


Ngoài ra còn có một số hình ảnh lấy từ ở đời sống hàng ngày, ở tuổi thơ nông thôn, từ tàu chuối lưa thưa đến hoa khế tím, con còng, con dế, đến chim bói cá, cá thia lia, những trò chơi trẻ con như cút bắt, "xu thảy hết... đồng cái thua buồn cũng liệng sông" (tr 95) ; với những kỷ niệm sắc bén:

Ai ngắt dùm anh cây cỏ sướt
Làm đôi gà đá, đá ăn cười

(TT, tr 92)

Gà đá, ở đây là những chùm cỏ cú, làm trò chơi của trẻ nghèo ở nông thôn.
Kỷ niệm thơ ngây, lần xen vào những câu thơ hào hoa

Con chim lạc bạn kêu trời rộng,
Hồn chết trôi miền dạ lý hương.

(TT, tr 94)

Trong từ vựng, đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Việt là giá trị những hư từ, như liên từ, giới từ, những công cụ cú pháp không có nội dung riêng, trái với thơ chữ Hán nặng về thực tế và né tránh hư từ. Thơ Tô Thùy Yên cô đúc và có phong thái cổ thi nên cũng ưu đãi thực từ, nhưng hư từ trong thơ anh lại rất đắc vị:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

(Ta Về, TT, tr128)

Đọan thơ này thường được trích dẫn vì nội dung lịch sử và nhân đạo, triết học. "Hoa đã vì ta nở" nhắc đến câu thơ vua Trần Thánh Tông,1240-1290, trong bài Vườn xuân nhớ người cũ:

Vạn tử thiên hồng không lạn mạn,
Xuân hoa như hứa, vị thùy khai ?.

ĐT tạm dịch :

Muôn hồng ngàn tía suông đua sắc,
Hoa nở, vì ai vẫn nở nhiều ?

Nhưng đừng quên giá trị của nó về mặt thi pháp, cách sử dụng các hư từ “vì”, “từ”, và cách ngắt nhịp huê dạng “ từ mỗi” trong câu thơ.

Nói chuyện thơ, chúng tôi nghĩ nên ưu tiên cho các vấn đề về thi pháp, từ pháp, âm pháp, nói chung là ngôn ngữ. Dĩ nhiên nội dung của tác phẩm là quan trọng. Trong thời Tô Thùy Yên, lịch sử dân tộc để lại nhiều hình ảnh sâu đậm, quá khuôn khổ của một bài báo.

Vậy xin khất độc giả đến một dịp khác.



Paris, 22.10.1998. Điều chỉnh, 6-12-2009.




--------------

(1) Tô Thùy Yên, THƠ TUYỂN. Tác giả xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ 1995. Thơ trích từ đấy.

(2) Thái Bá Vân, TIẾP XÚC VỚI HỘI HỌA, nxb VIỆN MỸ THUẬT, Hà nội, 1998, chỉ in 400 cuốn, ai đọc ai không? Đến hôm nay, 2009, chưa thấy tái bản. 











Trường Sa Hành












Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi



Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ



Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lện xác thân người mãi đứng yên



Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh



Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời



Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?



Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh



Mặt trời chiếu rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động trời đất như cháy đảo
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân



Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi



Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu



Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê




Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức, âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng



Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc
Con chim động giấc gào cô đơn




Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên



Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh



San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm người







3 - 1974



















Người Du Ca Chính Hiệu

Tô Thùy Yên



Trịnh Công Sơn là một người du ca. Thế nào là người du ca?

Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.

Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong nhựng thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cường chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tướt đoạt và ước vọng con người bị bao vây.

Đó là một nghệ sĩ hơn tất cả các nghệ sĩ, thong dong như gió bão, thoát vượt ra ngoài mọi ước lệ thường tình của xã hội.

Ngao du từ làng thôn đến thị trấn, lang thanh nơi cỏ hoa và trăng sao, len lõi trong các tầng lớp quần chúng, trình diễn lấy những sáng tác của mình.

Ở những sân khấu bất chợt, trong ngõ hẻm, ngoài phố chợ, nơi sân đình, giữa đám vây của những đám đông được kết hợp liên lạc bằng những đau khổ chung và những ước vọng chung.

Với một nhạc khí mộc mạc, những âm thanh đạm bạc và những lời lẽ hồn nhiên, người du ca là người tình của đám đông thua thiệt, là nỗi lòng của quần chúng uất ức: một biến cố sát cận, một bất bằng bên đường đập mạnh vào vào tâm não người du ca và trở thành nhúng tác phẩm, nhanh chóng và dễ dàng như nắng mưa đổi thay nơi miền nhiệt đới.

Người du ca là gã bán rong âm nhạc cho những người tiêu thụ nghèo hèn nên ý tưởng trong du ca phải diễn đạt qua những ngôn từ dân ca với những hình ảnh nhan nhãn hàng ngày, nhận ngay và hiểu ngay, nên âm nhạc trong du ca cũng phải là những phản phất của những âm điệu dân ca, với những nhạc đồ giản dị mong manh, dễ hát và dễ nhớ.

Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoảng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế.

Quan niệm về người du ca tuy đã biến đổi rất nhiều qua mỗi thời đại, nhưng tựu trung, tinh thần du ca vẫn vậy.

Du ca vẫn là những thể hiện sống động vì là những thể hiện đầu tiên của tâm tình một quần chúng đông đảo trong một xã hội bi đát, tang thương.

Trong tinh thần này, Trịnh Công Sơn là một người du ca chính hiệu.

















Thơ Tuyển
 Tô Thùy Yên


1994








Thắp Tạ


Tập thơ 
Nxb An Tiêm Hoa Kỳ 2004








Thắp Tạ 

Tặng Huỳnh Diệu Bích


Một mình nàng lên núi chan chứa
Hỏi tìm cho gặp đá tiên tri
Về sau, đời có ra sao nữa
Cũng đã đành tâm sẵn một bề


Đá, chẳng đá nào lên tiếng với...
Nàng đi thôi đã nát chân hồng
Nghe con vượn ẩn thân khóc hối
Một lần lỡ bỏ chuyến lìa non


Một mai nàng vô rừng u ẩn
Nhặt trái nưa về nhuộm dạ sầu
Thấy trăm họ cỏ cây chen quấn
Nương náu nhau mà tội nợ nhau


Con loan, con phượng bay đâu lạc
Đến nỗi nào, sao chẳng gọi bầy?
Nếu như hoa biết chiều nay rụng
Âu cũng vui mà nở sáng nay


Một mai nàng qua cầu cam mặc
Mưa nắng gì thôi cũng một thì...
Rau hạnh, rau vi từ lúc có
Chưa từng nguôi biếc bãi Kinh Thi


Cửa đẫy lầm, vô lường cuộc diện...
Ba ngàn thế giời đã nhà chưa?
Lâu ngày, thân thế rách như gió
Thấy lại mình như kẻ đáng ngờ...


Một mai nàng đến thành hoa gấm
Hát một chiều, tiền thưởng ngập chân
Vui nốn náo trời, thốc tới biển
Một lần, thử đổi bỏ chân thân


Gà nửa khuya gáy xô trăng muộn
Ai hồ nghi lộn kiếp bên này?
Con chó khóc tru ngoài địa giới
Ngờ ngợ người góc biển chân mây


Một mai nàng ra bãi vô định
Nhìn sông đổi lòng, nhìn núi chuyển chân
Mây bay bay như những vẫy biệt
Nàng đứng cho tàn một nén nhang


Thắp tạ càn khôn một vô ích
Thắp tạ nhân quần một luyến thương
Biển Đông đã một ngày xe cát...
Đắm giạt, mơ lai kiếp dã tràng

























Lễ Tấn Phong Tình Yêu





Tôi ôm lấy thây dòng suối tắt.
Thối tha cành lá mục.
Mà nước mắt tôi, không đủ sức hồi sinh.



2



Tôi phô bày từng cử động của đời tôi, tôi cư trú trong ngôi nhà tường kính.

Thiên hạ quan sát tôi như loài thú hiếm. Nhưng ai là kẻ hiểu tôi và gọi đúng tên tôi?



3



Thường tôi vùi đầu trong những ngón tay xương, làm con chuột chù chui nhủi dưới hồn mình và đào xới nó.
Tìm thấy trên những đá gạch tàn phế vận nhung rêu nỗi thất vọng của các thời đại trước. Trên những dòng phún xuất thạch gân guốc, cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Ở những hành lang thạch nhũ, sự kiên nhẫn truyền đời của ý chí đổi thay quá sức.
Ở những ngọn cỏ mảnh mai luộc nắng thủy ngân, sự can trường của hiện hữu.
Nhưng tìm thấy ở tôi điều gì làm sao tôi biết được.


4


Cũng kiếp ngựa nhưng là ngựa rằn nên không để cưỡi, tôi mở con đường máu cho tâm khảm thoát thân.
Khỏi bề mặt của cuộc đời bình lặng.
Tôi trang bị hoài nghi mà thám hiểm tương lai, ngày một lạc sâu thêm vào hoang địa ¾ nỗi chán chường cứ trải rộng ra.
Và vòm trời như nắp áo quan bằng cẩm thạch.


5


Ôi giá được dừng chân, tôi sẽ dựng lều nghỉ già trong tuổi nhỏ. Trái tim tôi chín héo, quắp co như đầu lâu chiến tích treo trên giàn khói giống mọi xanh mun miền đảo san hô. Giận cho tôi đã băng qua thiếu thời với đôi giày vạn dặm.


6


Đêm khuya, tôi mở cửa sổ ra, ngưỡng mộ dự thính cuộc hòa tấu âm thầm của các tinh cầu trong khoảng không.
Và quên đi những điều đã nghe thấy ban ngày dưới phố.


7


Tôi đến đặt dưới chân tượng đau buồn cao vọi bóng áng cả đời tôi, một đóa lời ca ngợi tình yêu kết bằng những cành hoa héo rũ.


8


Tôi vốn nặng đầu như chiếc nấm. Chiếc nấm ấy, sáng hôm nào, trời rất bình minh, trông thấy một con sơn ca buồn rầu lẻ bạn. Thế là chiếc nấm đột nhiên biến thành một con sơn ca nhẹ nhàng cất cánh liệng bay theo.


9


Anh chôn sâu trong nghĩa địa lãng quên cây đàn đãng tử và thanh kiếm giang hồ, theo chân em thầm lặng trở về, nghe chừng thần thánh hát trong anh, tưng bừng như một cây tàng rậm làm lồng cho các loài chim vừa thức dậy.


10


Em cho anh chiếc chìa khóa cửa.
Anh tự tay cất một ngôi nhà.
Trong đó trang hoàng bằng tất cả em.
Còn cỏ hoa không trồng cũng mọc.
Có nhau rồi, ta có cả thiên nhiên.


11


Suốt con đường đưa đến nhà em, anh bước khoan thai không ngó xuống kẻ thù. Khi tới nơi, anh đã là vô địch, trên đầu rạng rỡ hào quang chỉ mình em ngó thấy.


12


Những mũi lao đỏ ối của bình minh phóng vào thân thể đêm bỏ chạy. Cây chứng kiến thè lưỡi lá tươi xanh thốt lên niềm phấn khởi mừng vui.
Anh lật giở vầng trán móc meo ra nhận sự chúc lành đầu tiên của kiếp sống.


13


Mạch gió nhảy phập phồng trong những cánh tay cành cây rực hồng ánh sáng. Em có thấy, tình yêu anh làm xúc động cả thiên nhiên.


14


Với thân thể lân tinh, em sáng lên trong bóng tối, hạt kim cương rạng ngời trong mỏ than đêm, anh trông thấy em không nhầm lẫn được.
Với thịt da gỗ quý, giọt mật tinh khôi nạm giữa đài hoa thơm nức, em dâng hương anh, gã du mục lạc loài trong nhớp nhúa.
Với dung nhan bắt được tài tình của hy vọng, em leo mọc khắp tường thành nứt đổ đời anh, trổ bát ngát những nụ cười mời đón.


15


Em là chiếc thuyền thời thượng cổ chở đến anh hoa trái tốt tươi ngọt ngào của miền đất anh biết qua thần thoại.
Em là dòng suối trong veo nhí nhảnh chảy mang theo nhan sắc của bầu trời, dòng suối đưa chân anh vào hứa địa.


16


Đêm đông phương, đêm xanh xao, thơm tho và ấm áp. Anh nằm thiêm thiếp bên em dưới tàng cây thả buông tâm trí lan man cho thiên nhiên mát rượi mặc tình len vào anh tận tủy xương buồn ngủ. Cả khu vườn tráng men trăng bạc và trên trời tinh tú xum xuê. Hồn anh cũng tráng men buồn thiu và âm u chất sáng. Anh sung sướng hoàn toàn, trong đầu ngủ say các côn trùng ý nghĩ, anh bồng bềnh trên đê mê. Thỉnh thoảng ánh sáng mỏng mảnh lại rung rinh, hình như hoa cỏ trở mình. Hay hồn ma hiện về tuần rảo. Gió thật mạnh luồn qua kẽ lá chăng tơ. Em lặng thinh không nói năng gì, vậy mà anh nghe cả hồn em. Tự bao giờ anh đã biến thành hoa cỏ.


17


Tháp đôi thân thể vào nhau, anh nhân lên với em thành vô vàn khoái cảm.
Với linh hồn xao xuyến của rừng thu, anh trút sạch lá vàng đau khổ cũ.


18


Khi con chim nào đó hối hả đến đưa tin, anh bước ra khu vườn chĩu mái còn ủ kín hương đêm, đón rước mặt trời, rửa đôi chân trần trong vũng cỏ. Anh nghe trên vầng trán ngất ngây hơi thở ướt của ban mai. Cấy cối ứa chồi, xao xác liếc khua lá quý kim mà mưa khuya vừa đánh bóng. Con sông căng nước nằm im như con thú no kềnh. Ngày chảy lan như một dòng mật ngọt. Không khí nồng hương rượu mới cất làm say. Anh sống, sống để yêu và yêu để sống. Với nhẫn nại nông dân, anh lái đẩy tim anh cày xẻ đời em.
Cho đến xế chiều khi anh khép cửa phòng trở vào giấc ngủ thì vựa kho anh đã chất đầy những cọng nắng no.


19


Đó là kỳ nghỉ hè của trí não. Anh rời khỏi căn nhà anh ẩm mốc về ở một nơi mà ngoại trừ em, không một ai biết tin. ở đấy, nghe tiếng ru im lìm êm ả của hồn em, anh ngủ muồi cho hết tháng ngày trên nhung nệm tình yêu như con gấu xù về mùa đông trong thạch động. Đêm lụa là, anh trở giấc, cây nến thức kia đã bị gọt mòn, còn nghe thấy tiếng ru.


20


Và bài thơ này coi như lời lẽ của một người đánh đồng thiếp nói với đời trong đó có em như để tạ ơn và tạ lỗi.




Tạp chí Văn Nghệ
số 8, tháng 9 & 10, Saigon, 1961.


Nguồn: Tiền Vệ














Hôn Thụy

(?)
Tiểu thuyết









Sách dịch





Phận Người
(La condition humaine)
(?)
André Malraux


















Tham khảo thêm về tác giả Tô Thùy Yên














Trần Hữu Thục:
Thơ Tô Thùy Yên, chênh vênh siêu hình / hiện thực












một mình cầm cự Thi Ca
giữa cánh đồng,

đọc thơ "Thắp Tạ" của Tô Thùy Yên





Tưởng tượng một bóng đàn ông đêm khuya lẻn ra ngoài, khinh công lướt nhẹ đến trước một Cánh Cửa Lớn giữa trời không. Người đàn ông mở cánh cửa thấy hiện ra một cánh đồng. Giữa cánh đồng có một phiến đá cổ thụ. Ông bước đến bên phiến đá, phiến đá biến thành cái bàn. Trên mặt bàn có một tờ giấy trắng lớn, một cây bút bề thế , và một ngọn đèn trời cực sáng. Người đàn ông ngồi xuống bàn. Cầm cây bút. Nhìn cây bút. Rồi cúi xuống trên mặt bàn và viết.

Nhìn đá, ta định chừng đá ngủ
Phải chăng đá giú mộng trong lòng?
Tại đây, đá sống lâu đời nhất,
Đá rõ điều ta muốn rõ không ?

(Đá Mộng)

Đất xa đuối, trời sâu vọng
Đất trời còn chịu đựng bao lâu ?

Ngàn, ngàn dặm không bóng người, dạng mộ ...
Hú, không nghe động tĩnh cả hồn thiêng
Chỉ những cuộn cỏ gai lăn giỡn

Chim bay thóat ra chăng ?
Qua đây, gió kiệt tàn
Chung thân, thiên cổ bị cầm giữ,
Mỏi nản cùng mặt nhật im trơ
Đá cũng làm thinh, không có chuyện

(Đại Bình Nguyên)

Khuôn mặt người đàn ông sắc, sáng, lạnh, và cực kỳ chăm chú cúi viết những chữ lên trang giấỵ Trong khi viết ông có thể nhìn ra hằng hà những bãi tha ma, những cánh đồng đước, những con phá quê chảy xiết trong một bối cảnh hết sức hiu quạnh. Im Lặng Lớn và những bóng ma đang gằm ghè bay lượn chung quanh. Im Lặng Lớn và những bóng ma chỉ chực nhào vô bàn nuốt chửng những con chữ mà người đàn ông vừa viết xuống.


Một hồn bất phụ thể
Lạc từ dâu biển xưa
Tới trước, đợi nơi mồ,
Nghe mòn bia chửa dựng

(Hồn Lạc)


Nhớ xưa thiên địa dậy hồng thủy
Núi sụp, rừng trôi, đời sảng hoàng
May nhiều, còn đứa con vơ vội ...
May ít, còn tiếng nói tùy thân ...
Mưa như trời sập, mưa không tận ...
Bốn biển dâng thành một biển thôi.
Hạt cây, mầm lửa truyền nhau giữ,
Nhân loại còn đâu được mấy người ....

( Lão Trượng)

Người đàn ông là một thi sĩ. Người đàn ông không cá cược chữ. Không thảy chữ xuống. Người đàn ông viết.

Đứa nhỏ sảng chạy trong đêm trời rực trận giông sao ...
Mãi một đời còn nghe nà tiếng đuổi ẩn hình
Đầu gò, cuối bãi .

Giặc bố ráp, kẻ chỉ điểm trùm bao bố mặt đầu
Bác bặt tin ngoài đảo tù, chú mất xác nơi vàm sông,
Nhà lấy ngày đi làm giỗ cúng .
Cha sống sót về phế liệt cả thân tâm

Ngoài đồng lộng khuya, có người bị thọc giết,
Tiếng rú hãi dung nham lũ đọng trong chàng một vùng sẹo bất an .
Chiến tranh, mãi chiến tranh rời rã ....
(Nhà Xưa, Lửa Cất Ủ)


Người đàn ông biết những chữ ông viết xuống là những tạ canh dưỡng sinh. Chúng là những con chữ nặng nghìn tạ ơn nghĩa nhân gian trổ mã ra cánh đồng và bàn viết dành riêng cho ông. Ông đến đây một mình và ông một mình cầm cự với những con chữ để Im Lặng Lớn và những oan hồn kia phải chấp nhận ông vào đẳng cấp của họ. Thứ đẳng cấp xuất thần của ma và thơ, của Im Lặng và thần chữ. Im Lặng Lớn và những bóng ma đã phải thần phục người đàn ông thi sĩ này một điều: Ông còn sống được một kiếp người.


Ôi đứa bé xưa kia háo hức lẻn nhà đi
Vượt lên trước đời mình,
Nhìn cõi thế,
Tung tích vùi chôn tận địa đầu nào ?
...

Ở chốn mệnh danh là chốn cũ
Dân gian thay mới những truyền kỳ
Đất trời ủ lứa chiêm bao khác,
Dâu biển làm mưa nắng lạ đi
Bụi rác mỗi thời, một dạng loại,
Chồng sâu thêm những địa tầng quên
Người về không biết có đúng chỗ
Lịch sử qua đường đã cải trang

(Nỗi Mình Lần Giở)


Qủy có thể xướng thi. Thượng đế có thể xoá tất cả ván cờ và làm lại. Nhưng người đàn ông thi sĩ lững lơ viết xuống tuyên bố là mình đang hiện hữu. Một sự hiện hữu tưởng là vô duyên vô nghĩa và vô tình; nhưng là một kỳ lạ nhân ảnh. Một bí mật vô thường.

Lão trượng chiều nay về bản qúan
Thong dong đường tre trúc hắt hiu
Nghe, nghe trời đất hát xa lộng,
Những tưởng tâm mình đang hát theo
Mừng linh thụ tóc râu khang kiện
Đông đúc chim về ấm cúng đêm .
Mừng cổ đình tường mái phục chế,
Đời trùng tu từ thịt xương rêm

(Lão Trượng)


Tô Thùy Yên biết ông là một thi sĩ sống và làm được những điều mà bọn âm binh qủy sứ cùng Im Lặng Lớn kia không làm được. Ông có trong tay một mớ Tiếng Việt và ông đã trở về từ những nhà tù khổng lồ của xứ sở Việt Nam. Ông đã đi qua bao nhiêu là xác người. Ông đã đạp phải bao nhiêu bóng ma. Ông đã bị Niềm Im Lặng Lớn kia rượt đuổi đến những cuộc giao đấu trong nhiều đêm khuya giữa những đồng không mông quạnh.

Tạt vào, giũ phủi bóng đêm bám,
Xoa nhận lại mặt, ngồi định hình,
Nghe trong đầu chưa ngớt tán loạn,
Gió lền vung lưới chụp mông mênh.

Nhen nuôi một điểm lửa cô quạnh,
Cầu những hồn dâu biển ghé qua .
Lưới bứt rã, mông mênh sổng thoát,
Gió lại thần săn riết chẳng tha

Bất giác nghe đâu đó khuất thẳm,
Tiếng hỏi: Vì sao đến nỗi này?
Dặm cát phỏng dăm lần ngoảnh lại,
Ngỡ ngàng ai khác đã qua thayGối đầu lên một chỗ không lý,
Ráp lại xương từng thỏi rã rời .
Giờ này da khuya khoắt thiên cổ,
Chớp hiện mình soi dội lẻ loi.

Cố ngủ, mong thay được mộng mới,
Đỡ thiu hồn rữa những tiền sinh .
Mai nữa, lại đi cùng gió quẩn,
Mịt mờ theo đuổi tiếp mông mênh.



(Đêm Quan Ngoại)

Giữa cánh đồng, Tô Thùy Yên làm thơ. Giữa cánh đồng ông tuốt những con chữ ra thách đấu cùng Im Lặng Lớn, về sự im lặng khủng khiếp của nhân gian, về những cái chết thê thảm trong chiến tranh, về nỗi hiu quạnh của đời sống, về sự cô đơn của những kiếp người. Thi sĩ ngồi giữa cánh đồng đối thoại với Im Lặng Lớn. Thi sĩ ý thức chung quanh mình ma nhiều hơn người. Thi sĩ là kẻ đại diện thi ca để tra hỏi sự trống rỗng và hoang vu của mặt đất.

Thả trôi hồn theo một tấu khúc chừng quen
Dềnh giạt về những qúa khứ bỗng ngoi nổi
Nhớ lại , cố nhớ lại những người bạn bặt tin, những người thân tứ tán ...
Ngày tháng rùng rùng nối rượt nhau
Máng rớt thất thần
Những âm bóng tàn vong ngờ chưa từng có thực ...

Vầng, còn đâu được mấy người. Sau chiến tranh những người đàn ông HO còn được mấy người. Vô tù rồi đi Mỹ. Không ai làm được thơ nữa. Thanh Tâm Tuyền im. Nhã Ca mất giọng. Phan Nhật Nam lạc lối về. Chỉ một mình Tô Thùy Yên ngồi xuống giữa cánh đồng với một chiếc bàn, một ngọn đèn, viết ra thi. Thi sĩ này tính toán từng con chữ. Chữ của Tô Thùy Yên thường là chữ xuất quân từ ban đêm.

Ghé lại một trạm xăng, một hàng fast food hay một rest area
Đây là đâu ?
Đây cũng là đâu đó vậy
Dấp nước đầu, cổ, mặt,
Tỉnh tỉnh lại với đời ...
Và trong những khoảnh đèn khoét đọng lẻ quạnh,
Nhìn chút đỉnh những con người,
Nhìn cuộc sống còn nửa thức, nửa ngủ .
Hỏi lại mình: Lòng ngất tạnh khuya,
Tìm đâu một chốn ấm hơi đời ?

(Đường Trường Đêm)






(bấm vào đây đọc những tác giả khác giới thiệu Thắp Tạ)

Tập thơ có tên là "Thắp Tạ"

Tô Thùy Yên đã nổi tiếng thi sĩ cùng thời với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền …, nhóm Sáng Tạo của Miền Nam. Nhưng Tô Thuỳ Yên không có tác phẩm nào xuất bản trong nước trước năm 1975.

Rồi ông đi tù Cọng Sản 13 năm.


Mười ba niên ở tù, sống qua một cuộc nội chiến. Bây giờ lưu vong tàn lạnh trên xứ Mỹ. Người đàn ông thi sĩ không biết nhờ sức gì mà sống sót giỏi thế. Khác với thi sĩ ông bạn là Thanh Tâm Tuyền ở Việt Nam hồi đó xuất bản trong nước, nổi um sùm. Kể từ ngày lưu đày biệt xứ trên đất Mỹ, không thấy thơ văn Thanh Tâm Tuyền đâu nữa. Nhưng Tô Thùy Yên thì ra được đến hai quyển thơ mới . Thắp Tạ là thi tập thứ hai của Tô Thùy Yên. Tập thứ nhất Thơ Tuyển xuất bản năm 1995. Cả hai đều xuất bản ở Mỹ.


Mới thấy Tô Thùy Yên là một thi sĩ cứng cựa và mạnh mẽ đẹp như một con gà trống đứng trên thềm hoàng hôn của thi ca. Gáy lên sướng tai nhân loại.

Đằng sau bìa sách có tấm hình thi sĩ tựa lên hoàng hôn chiều Minnesota, chiều Houston, hay chiều Cali. Không biết là chiều nào. Nhưng hoàng hôn phía sau và khuôn mặt phía trước thi sĩ làm cho tôi liên tưởng đến con gà trống đẹp đưa mỏ sắc nhất đưa mắt tinh anh trầm lắng u hoài gáy lên một tiếng ác liệt nhất của hơi hống mình:

"Thắp tạ càn khôn một vô ích.
Thắp tạ nhân quần một luyến thương."

Từ chàng thi sĩ lặng tịch sáng láng sáng tác giữa cánh đồng đến biến thân thành con gà trống gáy hống giữa buổi hoàng hôn.

Tại thơ anh làm cho tôi liên tưởng như vậy.

Có một đại bi kịch cực kỳ đáng yêu trong tập thơ Thắp Tạ là Tô Thuỳ Yên lượn qua lượn lại trong đống chữ của ông và chơi toàn hàng chục, hàng trăm năm. Thế sự mười năm đã nhiễu nhương. Thế sự trăm năm biết bao lịch sử kinh hoàng vật đổi sao dời. Tô Thùy Yên đeo thời gian vào câu thơ dễ dàng như người tình đeo nhẫn cưới thi ca lên đời sống. Ông là thi sĩ rất hào sảng với thời gian. Ông biến chữ pha màu thời gian thành những câu thơ rất nhẹ. Đọc kỹ sẽ thấy lịch sử tuy đầy biến động kinh hoàng nhưng rất thơ. Đời sống tràn trề những u uất kinh khủng nhưng rất gần:

Ông lão khô quắt như thanh đước,
Cổ vương oan khuất, tay u hồn ...
Tình ý theo người đi một đỗi.
Một đỗi, dài hơn bốn chục năm

"Một đỗi, dài hơn bốn chục năm". Từ chữ "đỗi" người đọc bị gửi cho cái bị "bốn chục năm", thật đúng là bị đánh tráo ký ức thời gian nhanh như chớp!

Như trong mấy câu thơ sau:

Chỉ một bước, bước trờ,
Mà rồi từ đó tới giờ biệt tăm.
Bao lần chạy vạy hỏi thăm,
Hỏi chưa ra, đã trăm năm, sững sờ.

Chỉ "một bước" mà lại là "bước trờ". Bước trờ là cái bước quái gì? Chưa kịp đong thóc với tác giả thì đã bị tác giả xay nhuyễn thành gạo thời gian rồi: "Hỏi chưa ra, đã trăm năm, sững sờ". Thời gian trong thơ Tô Thùy Yên là một chủ đề đáng chú ý. Ông xử dụng chữ nghĩa về thời gian rất trù phú và rất "rộng". Ông cho thời gian ướt đẫm mầu bi ai rờn rợn nhưng lại khâu vào đấy những cảm nhận về thời gian rất mạnh và gần. Những chữ "cổ" và "rộng" về thời gian trong thơ Tô Thùy Yên phát ra thứ luồng lực của thần chữ.

Có ba điều vĩ đại trong thơ Tô Thùy Yên. Điều vĩ đại thứ nhất, thơ Tô Thuỳ Yên có những câu hỏi lớn về hiện hữu và vô hình. Điều vĩ đại thứ hai, thơ Tô Thuỳ Yên cưu mang được sự vĩnh cửu của thi ca. Sự vĩnh cửu trong tư thế sống sót. Sống sót trong thân thế của chính thi sĩ và trong những nốt thơ ông nhả ra. Thơ Tô Thùy Yên váng chút Hán chút Đường cổ điển rất hay, nhưng cũng có khi Tự Do rất phởn. Điều bộc bạch hiển lộ nhất của thơ Tô Thùy Yên là cho dù chữ cũ hay thơ mới gì đi nữa thì thơ phải hay và thơ thì phải kiệm chữ. Điều vĩ đại cuối cùng là tài dụng ngôn của Tô Thùy Yên. Ông là một tay chơi chữ cừ khôi. Một thi sĩ xào chữ tuyệt vời đã để lại cho đời những câu thơ lừng lẫy.

Dưới chân ta, đất nào chẳng đất võng.
Đời quẫy gây chao đảo thất thần.
Thôi hãy mừng còn đứng được trên đó.
Cố sức giữ thăng bằng.
Lắm lần, trán rịn đẫm.

(Nỗi Mình Lần Giở)

lê thị huệ
















Tô Thùy Yên, một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam

(09/09/2012)



Tô Thùy Yên, theo tôi, là một trong những nhà thơ của 20 năm văn học miền Nam, có ảnh hưởng rộng, lớn. Cái ảnh hưởng rộng, lớn ông có được, không phải vì ông cùng với Thanh Tâm Tuyền là hai “mũi nhọn xung kích” thổi bùng ngọn lửa thơ tự do ở miền Nam, như một số người ngộ nhận.

Sự thực, cùng với Thanh Tâm Tuyền, những người tận hiến tâm huyết mình, cho mục đích xiển dương thơ tự do ở miền Nam (giới hạn trong phạm vi tạp chí Sáng Tạo,) là Quách ThoạiTrần Dạ Từ, Trần Lê Nguyễn, Đỗ Quý Toàn, Ngọc Dũng, Người Sông Thương (bút hiệu của Nguyễn Sĩ Tế)…chứ không phải là Tô Thùy Yên. Những bài thơ của ông, được yêu thích nhất, cũng không phải là những bài thơ Tự Do mà, lại là thơ vần, điệu. Hoặc những bài ông dung hoà được đặc tính của thơ tự do và thơ cũ (như một số tác giả cùng thời khác đã thành công. Điển hình, như cố thi sĩ Nguyên Sa.)

Duyệt lại hành trình thi ca Tô Thùy Yên, 20 năm văn chương miền Nam, căn cứ trên mấy chục số tạp chí Sáng Tạo, từ bộ cũ đến bộ mới; bên cạnh những bài thơ tự do, Tô Thùy Yên còn có nhiều, khá nhiều, những bài thơ có vần, điệu. Đôi khi vần, điệu của ông, nơi những bài thơ ấy, còn chặt chẽ hơn cả những thi sĩ thời tiền chiến nữa. Trong thể loại này, Tô Thùy Yên trội, bật nhất là thể thơ 7 chữ.

Bài thơ đầu tiên (?) của Tô Thùy Yên được giới thiệu trên Sáng Tạo, gây tiếng vang lớn và, dư âm của nó, kéo dài nhiều năm sau, là “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” viết tháng 4 năm 1956. Một bài thơ 7 chữ.

Bài thơ này có tất cả 15 câu, toàn vần “au.” Rất chặt chẽ. Bài thơ đó, nguyên văn như sau: 

“Trên cánh đồng hoang thuần một mầu
“Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
“Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
“Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.
“Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
“Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.
“Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
“Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
"Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
“Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
“Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
“Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.
“Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
“Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
“Chấm giữa nền nhung một vết nâu.” (1) 

Tôi nghĩ, có thể vì tính liên tục của cuộc rượt, đuổi giữa con ngựa và, chuyến tàu, nên tác giả đã cố tình không phân đoạn bài thơ của mình (?)

Nếu phân đoạn bài thơ trên với 4 câu cho mỗi khổ thơ, chúng ta sẽ có tất cả 4 khổ, mà khổ thơ chót, chỉ có 3 câu (Như thể đánh dấu sự bỏ cuộc, gục ngã bất ngờ, phút chót của con ngựa?!.)

Dựa trên việc phân đoạn, để sự tìm hiểu bài thơ dễ dàng hơn; ghi nhận đầu tiên của tôi là, Tô Thùy Yên đã dùng âm “trắc” cho chữ cuối cùng của câu thứ hai - - Nhưng không phải để hiệp vần “trắc” với chữ cuối cùng của câu thứ thư - - Mà, nó chỉ là sự chuyển đổi vị trí. Bởi vì, ông vẫn cho hiệp vần “bằng” của các chữ cuối, ở những câu thứ nhất với các câu thứ ba và, thứ tư.

Nói về thơ 7 chữ, cũng như nói về thơ lục bát, những người có kinh nghiệm với cuộc chơi “chọn vần, lựa chữ,” đều hiểu rằng, ngoài luật định hiệp vần, còn có luật định về nhịp điệu riêng của thể thơ này nữa.

Nhìn lại những nhà thơ tiền chiến, từng được mô tả là thành công với thể thơ 7 chữ, tôi nghĩ, chúng ta có thể nhắc tới Huy Cận, với bài “Tràng giang.”

Khổ thơ thứ nhất của bài “Tràng giang,” nguyên văn như sau: 

“Sóng gợn tràng giang / buồn điệp điệp,
“Con thuyền xuôi mái / nước song song.
“Thuyền về nước lại, / sầu trăm ngả;
“Củi một cành khô / lạc mấy dòng.” (2) 

Tôi dùng dấu gạch chéo / slash để phân nhịp cho mỗi câu thơ. Kết quả, tất cả 4 câu thơ này, đều có nhịp 4/3.

Bước qua một bài thơ 7 chữ khác, cũng của Huy Cận, ta thấy, chúng cũng có chung một nhịp 4/3 như thế. Như bài “Vạn lý tình.” Cũng đoạn thứ nhất: 

“Người ở bên trời, / ta ở đây;
“chờ mong phương nọ, / ngóng phương nầy.
“Tương tư đôi chốn / tình ngàn dặm,
“Vạn lý sầu lên / núi tiếp mây.” (3) 

Nhịp 4/3 cũng là nhịp của hầu hết những bài thơ 7 chữ của Lưu Trọng Lư. Tôi xin chọn bài 7 chữ của ông, quen thuộc nhất với chúng ta. Bài “Nắng mới”: 

“Mỗi lần nắng mới / hắt bên song,
“Xao xác gà trưa / gáy não nùng;
“Lòng rượi buồn theo / thời dĩ vãng,
“Chập chờn sống lại / những ngày không.” (4) 

Ngay Xuân Diệu (người được coi là luôn có những đổi mới đáng kể về hình thức, cũng như tu từ,) cũng dùng nhịp 4/3 cho thơ 7 chữ của ông: 

“Tôi nhớ Rimbaud / với Verlaine
“Hai chàng thi sĩ / choáng hơi men
“Say thơ xa lạ, / mê tình bạn,
“Khinh rẻ khuôn mòn, / bỏ lối quen.” 
(Trích Tình trai.) (5) 

Nhưng Tô Thùy Yên đã cho thơ 7 chữ của ông một nhịp, điệu khác.
Trừ 2 câu đầu, và câu số 10, với nhịp 4/3 - - Tất cả những câu còn lại của bài “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” đều ở nhịp 3/4 ở những câu số 3, 4. Nhịp 3/2/2, ở những câu số 5, 9, 11, 13. Hoặc nhịp 2/5, ở những câu số 6, 14. Thậm chí ông còn cho câu số 12 của ông, một nhịp lạ hơn nữa. Đó là nhịp 2/1/4: “Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.” 

Tuy nhiên, bài thơ không chỉ tạo được sự chú ý chỉ bởi nhịp đi mới mẻ của nó!

Sâu xa hơn, theo tôi, lại là những gì nằm sâu, sau phần hình thức này.

Tôi nghĩ, hình ảnh con ngựa rượt, đuổi chuyến tàu, với phông nền là những cánh đồng nối nhau, hút mắt; là một bức tranh sống động vẽ bằng…ngôn ngữ. Sức sống động mạnh mẽ tới độ, chúng cho ta cảm tưởng tác giả đã chụp được một bức ảnh thời gian…Bằng tài năng đặc biệt của mình.

Lại nữa, sự đuối sức, đầu hàng, từ giã cuộc đua của con ngựa, vẫn theo tôi, là một ẩn dụ, nhắc nhở rằng: Ý chí, sức mạnh của con người, dù kiên quyết, lớn lao tới đâu, cũng vẫn bị lưỡi dao hữu hạn, đời người, chém đứt!.!

Nói cách khác, bất lực trước, sau, vẫn là thuộc tính của con người, khi con người phải đối diện với chiều dài thời gian. Vô tận.

Đọc lại bài thơ, một lần nữa, về phương diện nhịp, điệu, tôi chợt có cảm nhận rằng, khi Tô Thùy Yên chọn cho bài 7 chữ này của ông, những nhịp đi gập ghềnh, có dễ ông cũng muốn cho người đọc liên tưởng tới những hơi thở không đều của chuyến tàu, con ngựa trong cuộc rượt. Một cuộc rượt, đuổi với tốc độ “tàu chạy mau mà qua rất lâu,” hay “tàu chạy mau, tàu chạy rất mau”… dẫn tới kết quả là những hơi thở “hào hển” hoặc, “cúi đầu”…

Mọi ẩn dụ, liên tưởng mà, bài thơ đem được, đến cho người đọc, theo tôi là những chiếc chìa khoá quý giá, để độc giả được quyền thênh thang bay bổng, phiêu hốt trong đất, trời rất tư, riêng, của bài thơ ấy - - Dù cho (cũng dễ hiểu thôi,) nếu những cảm nhận của độc giả, thường…xa lạ, không ăn nhằm, chẳng liên hệ gì, tới tình, ý (mơ hồ?) của tác giả, khi sáng tác!.

Nhưng, điều đó, cũng chỉ có thể xẩy đến cho những bài thơ hay, đi ra từ những tài thơ lớn. Mà, “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” là một thí dụ cụ thể vậy. 

Một nét đặc thù khác trong thơ Tô Thùy Yên là chủ tâm sử dụng khá nhiều ngôn ngữ Nam…rặc. Chủ tâm này rất đáng kể; nếu người đọc nhớ lại rằng, đó là những câu thơ được viết trong khoảng thời gian 1956 tới 1975, trên một diễn đàn cổ suý văn chương…mới. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều ngôn ngữ đặc biệt kia, trong Tô Thùy Yên Thơ Tuyển (TTY/TT) in năm 1995, tại Hoa Kỳ. Như trong bài “Anh hùng tận,” ông viết: 

“Dựng súng trường, cởi nón sắt
“Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều.
“Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt,
“Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất nhiều.
(……) 

“Thiệt tình, tên bạn ta không nhớ
“Nhưng mà trông mặt thấy quen quen.”
(……)

“Tiếng hò mời dzô, dzô tở mở,
“Muỗi thuỷ triều chừng cũng giạt ra…”

(Trích TTY/TT.) 

Hay một số chữ trong bài “Mòn gót chân sương nắng tháng năm”: 

“Vụt đuốc đi thầm đến mãn kiếp,
“Lèm bèm ú ớ chuyện nhân gian,”

(……)

“Sáng ngày, đời giật mình ngơ ngác,
“Mường tượng đôi ba chuyện bắt quàng.” 

(……)

“Ta lại trồi lên dương thế rộn,
“Ngày ngày ra bãi vắng vời trông…” 

Hoặc: 

“Ra đi như nước ao lền đặc”
(Trong bài “Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai,” TTY/TT.) 

“Thế giới làm sàm điếc lác nặng”
(Trong bài “Bất tận nỗi đời hung hãn đó,” TTY/TT.” 

Như đã nói, 7 chữ là đường kiếm lấp lánh nhất, trong cõi thơ Tô Thùy Yên, 20 năm, miền Nam. (Ngay bài thơ nổi tiếng “Ta về” Tô Thùy Yên viết tháng 7 năm 1985, hơn mười năm sau thời điểm vừa kể, cũng là thơ 7 chữ.)

Căn cứ vào tập TTY / TT, do chính tác giả xuất bản, tính riêng số thơ sáng tác trước tháng 4 năm 1975 của ông, có tất cả 21 bài; thì hết 14 bài viết theo thể 7 chữ. Bảy bài còn lại, dành cho tất cả những thể thơ khác. 

Hầu hết thơ 7 chữ của Tô Thùy Yên đều đậm tính “khẩu khí!” Rõ hơn, ông mượn loại thơ này, để bày tỏ tâm sự mình trước thế sự. Cái tâm sự kẻ sĩ ngao ngán, bất mãn trước thời cuộc và, kiếp người. Khi viết loại này, các thi sĩ thường chọn thể loại “Hành.”

Chỉ có thể loại này, mới giúp tác giả hiển lộ tính cảm-thán của mình. Đồng thời, nó cũng dễ gợi, khêu trong tâm hồn người đọc, cái phong vị hoài cổ. Chính vì thế mà, khi chọn thể loại “Hành,” ngoài yếu tố thơ 7 chữ, các tác giả thường xưng “ta với ngươi,” hoặc “ta với người.” Dường như các thi sĩ không bao giờ dùng nhân xưng đại danh tự “tôi!” Có dễ vì nó không thích hợp với phong cách ngang tàng, chán chường, bất cần đời mà, dạng thơ này, cung ứng. 

Nói về những bài “Hành” nổi tiếng từ thời tiền chiến, người ta thường nghĩ Thâm Tâm (6) với “Tống biệt hành;” và Nguyễn Bính (7) với “Hành phương nam.”

“Tống biệt hành” của Thâm Tâm ngắn hơn “Hành phương nam” của Nguyễn Bính. Nhưng bù lại, bài “hành” của Thâm Tâm không dùng một điển tích nào, trong khi Nguyễn Bính thì có.

Bài “Tống biệt hành” của Thâm Tâm có những câu như: 

“Đưa người ta chỉ đưa người ấy
“Một giã gia đình, một dửng dưng...
“- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
“Chí nhớn chưa về, bàn tay không,
“Thì không bao giờ nói trở lại!
“Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.”

(……)

“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
“Chị thà coi như là hạt bụi,
“Em thà coi như hơi rượu say.”
(Trích “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân; nhà Văn Học Hà Nội, 1988.) 

Và bài “Hành phương nam’ của Nguyễn Bính, có những câu như: 

“Ngươi ơi buồn lắm mà không khóc
“Mà vẫn cười qua chén rượu này
“Vẫn dám ăn tiêu cho đến hết
“Ngày mai ra sao rồi sẽ hay.
“Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?
“Cốt nhất cười vui trọn tối nay.
“Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
“Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay.
(……)

“Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
“Đã dấy phong yên khắp bốn trời 
“Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ 
“Uống say mà gọi thế nhân ơi!
“Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
“Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
“Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
“Hát rằng phương Nam ta với ngươi
“Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề! Ngươi ơi!...”
Nguyễn Bính, Đa kao 1943.
(Theo dactrung.com) 

Qua tới Tô Thùy Yên, tất cả những chữ “ngươi,” được thay thế bằng “bạn”: 

“Tới đây toàn những tay hào sĩ
“Sống chết không làm thắt ruột gan.
“Cũng không ai nhắc gì thân thế
“Có vợ con mà như độc thân.
“Bạn hỏi thăm ta cho có lệ”

(……)

“Người thuở trước tìm vàng khẩn đất
“Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
“Đất thì không khẩn, vàng không tìm…
“Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó
“Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm…” 
(TTY/TT.) 

Đôi khi, nhân vật thứ hai trong những bài “Hành” của Tô Thùy Yên, là kẻ vắng mặt. Kẻ “vắng mặt” ở đây, khi là thiên, địa; lúc là lẽ tử, sinh: 

“Nên ta phó mặc cho trời đất
“Trời đất vô ngôn lại bất nhân.
“Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
“Trong lãng quên xanh hút thời gian.

(……)

“Trăng, bạn hiền xưa giờ tái ngộ
“Ta thức đêm nay chơi với trăng, 
“Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
“Quanh mồ ta, trăng phải lang thang.” 

Hay: 

“Những người thuở trước bây giờ lạc
“Trong dã sử nào như bóng mây,
“Trong trí nhớ nào như giọng hát.
“Hỡi ôi, trời đất lạnh tình thay!” 
(TTY/TT.) 

Có lần, “nhân vật vắng mặt” kia, được ông mệnh danh là “Hiu Quạnh lớn”: 

“Mùa đông Bắc, gió miên man thổi
“Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
“Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
“Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ…”
(TTY/TT.) 

Ai làm ngơ? Thiên, địa; lẽ tử, sinh hay, tự thân cuộc đời đã vốn là một lãng quên, lớn? 

Về phương diện ngữ pháp, tôi nghĩ, trước Tô Thùy Yên (vẫn với thể thơ 7 chữ,) ít tác giả có những câu thơ như:

“Mưa lâu, trời mốc buồn hôi xưa.
“Con đường đáo nhậm xa như nhớ…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)

Hay:

“Đôi bàn tay vỗ nháng âm thanh.

(……)

“Cỏ cây lưu gió khóc mơ màng…

(……)

“Gió thổi chai người đứng lặng thinh.”
(Trong “Mòn gót chân sương nắng tháng năm,” TTY/TT.)

Hoặc:

“Ta dậy khi gà truyền nhiễm gáy,
“Chân trời rách đỏ vết thương dài.

(……)
“Còn lại chăng chút u hoài mốc.

(……)

“Ngọn cây, ô! đã giát hoàng hôn.
(Trong “Hề, ta trở lại căn nhà cỏ,” TTY/TT.)

Tô Thuỳ Yên cũng như nhiều tác giả khác, từ đông qua tây, thường đối diện với những câu hỏi lớn mang tính siêu hình. Khi đề cập tới những vấn đề này, ông cho thấy sự dứt khoát đi tới một cách quyết liệt, không khoan nhượng. Ông không chỉ đặt vấn đề về ý nghĩa rốt ráo của thân phận con người; như con người được sinh ra từ đâu? Để làm gì? Rồi, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Hay sự thực cuối cùng, thảm hại thay, tất cả cũng chỉ là hư không:

“Con chim nhào chết khô trên cửa,
“Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
“Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
“Sao người khai giải chưa về thăm?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)

Hay:

“Ta thấy mặt tinh cầu xếp nếp
“Như lằn nhăn tuổi tác hư không…”

(Trong “Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai,” TTY/TT.)

Với thơ Tô Thùy Yên, tôi không biết có một tương quan hữu cơ nào chăng, giữa con người, sự chết và, Thượng đế:

“Vì bom đạn bất dung,
“Thi thể chẳng ai thâu,
“Nào có chi đáng kể…”
(Trong chiều trên phá tam Giang,” TTY/TT.)

Hay:

“Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
“Thắp trắng thời gian mái tóc em.”
(Trong Goá phụ, TTY/TT.)

Hoặc:

“Ta bằng lòng phận que diêm tắt,
“Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông.
(Trong “Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,” TTY/TT.)

Chưa kể, ông luôn cho người đọc như tôi, cảm nhận, với ông, chiến tranh cũng là một thứ thuộc tính của nhân loại, kiếp người:

“Tiếp tế khó - đôi lần phải lục
“Trên người bạn gục đạn mươi viên.
“Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
“Trong vết thương người bạn nín rên.
“Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
“Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)

Hoặc:

“Cỏ cây sống chết không ta than.
“Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)

Phải chăng, Tô Thùy Yên chọn lựa sự có mặt của mình, như một đối đầu sống, mái trước Thượng đế; dù có thể ông những hiểu rằng, cách gì, con người, cuối cùng cũng chỉ là một thứ con tin, trong vòng tay gai độc của định mệnh. Ông viết:

“Có đọc thuộc thánh thư,
“Linh hồn tôi vẫn vậy.
“Tôi vẫn không thể lạy
“Dù đứng trước hư vô.

(……)

“Đầu tôi cứng và trơn,
“Thượng đế làm sao ngự?”
(Trong “Thân phận của thi sĩ,” TTY/TT.)

Dù đứng ở góc độ nhân sinh, chủ quan nào, chấp nhận hay, ruồng rẫy tiếng thơ Tô Thùy Yên (8), tôi vẫn trân trọng kính mời quý độc giả, cùng tôi đọc lại bài “Trường sa hành,” của ông - - Mà, theo tôi, là một trong dăm bài Hành hay nhất, của văn học, nghệ thuật miền Nam, 20 năm: 

Trường Sa Hành

Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi. 

Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ. 

Đảo hoang vắng cả hồn ma quỷ.
Thảo mộc thời nguyên thuỷ lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh 
Lên xác thân người mãi đứng yên. 

Bốn trăm hải lý nhớ không tới.
Ta khóc cười như tự bạo hành,
Dập giận vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh. 

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời. 

Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Dăm cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi? 

Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng,
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh. 

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển.
Vầng khói chim đen thảng thốt quần.
Kinh động đất trời như cháy đảo.
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân. 

Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi. 

Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ,
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu. 

Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya,
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê. 

Ta nói với từng tinh tú một,
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng.
Bãi lân tinh thức, âm u sáng.
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng. 

Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn. 

Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên. 

Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh. 

San hô mọc tủa thêm cành nhánh.
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai.
Thời gian kết đá mốc u tịch,
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
3-1974. 
(Theo TTY/TT.)


Chú thích:
(1)Trích “Tô Thùy Yên / Thơ Tuyển.” Tác giả xuất bản, 1995, Hoa Kỳ. Tr. 13.
(2,) (3,) (4,) (5): Nhà xuất bản Đồng Nai, tủ sách thơ Việt Nam. 
(6) Nhà thơ Thâm Tâm tên thật Nguyễn Tuấn Trình. Ông sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917, tỉnh Hải Dương; mất ngày 18 tháng 8 năm 1950 ở gần Việt Bắc. 
(7) Nhà thơ Nguyễn Bính, tên thật Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh năm 1918 tại Vụ Bản, tỉnh Nam Định; mất ngày 20 tháng 1 năm 1966 ở nhà một người bạn, thuộc tỉnh Hà Nam.
(8) Tên thật Đinh Thành Tiên, Tô Thùy Yên sinh ngày 20 tháng 10 năm 1938 tại Gia Định. Ông có thơ đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950,) trước khi xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo. Sau 30-4-1975, ông bị nhà cầm quyền CS cầm tù 3 lần; tổng cộng gần 13 năm. Cùng gia đình, Tô Thùy Yên hiện cư ngụ tại thành phố Houston, Texas.












Phan Lạc Phúc:
Con đường bè bạn











Thụy Khuê:
Tô Thùy Yên, thời gian, tồn tại, cô đơn và đá http://www.hocxa.com/VanHoc/ToThuyYen/TTY_ThoigianTontaiCodon_ThuyKhue.php















Bùi Vĩnh Phúc:
Tô Thùy Yên: Thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người 










Tâm thức khuất dạng của thơ

Tô Thuỳ Yên

I.

Năm đó, giặc Trung Quốc bất thần mở mặt trận ồ ạt tấn công vào 8 tỉnh miền Bắc nước ta. Nửa khuya, Công an Cộng sản Việt Nam lùa tất cả những người tù đày của chế độ miền Nam từ những vùng thượng du và trung du lên những chiếc xe đò khẩn cấp trưng dụng, chạy bán mạng về vùng Thanh Nghệ Tỉnh, tức Liên Khu Tư cũ, đất ẩn trú một thời của những Nguyễn Đức Quỳnh, Đào Duy Anh, Hữu Loan, Phạm Duy và ban hợp ca Thăng Long, của những ngày toàn dân kháng chiến chống Pháp cũ. Tại một trại giam ở Nghệ Tĩnh, ẩn khuất trong Trường Sơn, tôi gặp lại người bạn vong niên là nhà thơ lão thành Hà Thượng Nhân, giữa đông đảo những bằng hữu thất tán khác. Trong một lần trò chuyện, nhà thơ Hà Thượng Nhân ngỏ ý khát khao được đọc thơ. Tôi hoàn toàn thông hiểu nỗi khát khao đó của Hà tiền bối.

Bởi tôi cũng hằng khát khao ngày đêm như vậy. Nên một hôm, tôi nỗ lực vận dụng trí nhớ đã nhiều hao kiệt của mình ghi lại toàn bộ một kiệt tác khá dài của thi hào Đỗ Phủ. Đó là bài Đồng Cốc Huyện Chung Cư Thất Ca, gồm bảy khúc ca viết theo lối cổ phong, trong đó thi hào mô tả thời thế loạn ly, người phải rời bỏ quê nhà, thất lạc vô âm tín đám em trai, em gái, nay lê tấm thân tàn bệnh tật, đói kém nơi chướng khí sơn lam, chỉ còn trò chuyện cùng con rắn lớn nơi đầm hoang. Bài thơ đó, tôi ghi lại hoàn toàn bằng Hán tự. Cụ Hà đọc lại bài thơ đó, xúc động, cố gắng chuyển dịch thành thơ Việt Nam để cho nhiều bạn khác không am tường chữ Hán cùng được thưởng thức. Rủi ro cho cụ là có một tên chỉ điểm nào đó đi thóc mách, đồ đạc của cụ bị lục soát, bài thơ tang chứng bị tịch thu nên cụ bị Ban An Ninh trại liên tiếp mấy ngày gọi lên làm việc.

Theo quan điểm của trại, rõ ràng là tên Đỗ Phủ này hoàn toàn không chịu an tâm phấn khởi cải tạo, oán thán chính sách, bôi bác chế độ, tên Đỗ Phủ này quả là một tên phản động bẩm sinh, cho đến thời điểm ồ ạt của ba dòng thác cách mạng thế giới toàn thắng mà vẫn còn ngoan cố chưa chịu giác ngộ, hối cải. Cán bộ lãnh đạo yêu cầu cụ Hà phải thành khẩn khai báo tên Đổ Phủ là bí danh của ai, thuộc đội nào, lán nào, liên hệ như thế nào với cụ. Mãi sau này nhớ lại câu chuyện đó, tôi vẫn còn thử nghĩ nếu ở vào trường hợp của cụ Hà, tôi sẽ phải trả lời như thế nào để hương hồn của thi hào Đỗ Phủ khỏi tủi hổ. Có thể tôi sẽ trả lời: Đổ Phủ là danh hiệu của một con người xứng đáng, ông hiện diện ở mọi đội, mọi lán, một nơi chốn của nhân loại lầm than, ông là người rất đỗi thân thiết của một số khá đông chúng tôi.

II.

Đối với đa số người đời, thông thường, thơ nói riêng, văn học nghệ thuật nói chung là một thứ gì đó rất ư phù phiếm, chẳng hề mang lại ích lợi cụ thể thực tiễn nào cho cuộc sống hằng ngày đầy dẫy những vật vã, tất bật. Chắc chắn Platon không phải là người đầu tiên cũng không phải là người cuối cùng trong lịch sử muốn tống xuất nhà thơ ra khỏi cộng đồng loài người dù cho rằng Plato cũng còn một chút ưu ái là choàng cho lấy có lên đầu nhà thơ một vòng hoa tưởng thưởng. Do đó, dường như chẳng có mấy người làm văn học nghệ thuật nào, nhất là nhà thơ lại chẳng mang sẵn không nhiều thì ít cái mặc cảm mình là kẻ thừa thãi, là kẻ ăn bám trong xã hội loài người quần quật đầu tắt mặt tối. Rõ ràng lao động nghệ thuật, nhất là lao động thi ca, gần như chẳng được xã hội lưu tâm bao nhiêu và đánh giá đúng mức. Và cũng vì cái mặc cảm về sự vô bổ đó của thơ nên đã có một số không ít những người làm thơ đã muốn dĩ thi tải đạo, làm những bài thơ giáo huấn tuyên truyền luận giải thuyết phục, để thấy mình cũng như thơ có được một mục đích lợi ích xã hội thiết thực.

Tất nhiên cũng không hiếm những chế độ chính trị đã tận lực góp thêm phần tạo thành dầy đặc cái mặc cảm vô dụng đó nơi người làm thơ để dễ dàng sử dụng hắn như một công cụ khá cần thiết cho chúng, và khi đã ưng chịu như vậy thì người làm thơ một cách mặc nhiên đã làm một công việc hoàn toàn khác biệt với công việc làm thơ, đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ.

Một chế độ chính trị bao giờ cũng bắt buộc phải chứng minh bằng cách này hoặc cách khác. Còn thơ tự bản thân nó chẳng cần chứng minh nó là thơ, một thế giới cảm xúc thế thôi. Sự thiết thân gắn bó của thơ đối với con người, cái lý do tồn tại chính đáng cao cả đó của thơ sẽ phải chỉ tìm thấy được ở một nơi chốn nào khác, và nơi chốn đó là hồn thơ của chính người đọc. Do đó, đã xảy ra điều nghịch lý là khi nhà thơ tự đặt trước cho mình một mục đích lợi ích thực tiễn xã hội nào đó, thì đó cũng là lúc nhà thơ chẳng còn lấy chút lợi ích nào nữa cho đời sống. Tuy rằng, trên thực tế, một thực tế mà người đời ít có dịp nhận ra một cách phân minh, chính xác là thơ, cho dù có bị khước bỏ, hắt hủi, lãng qưên đến đâu đi nữa, vẫn luôn luôn hiện hữu, kết liền một cách thiết thân hình bóng với con người, với cuộc đời như một người tình cực kỳ bất hạnh của định mệnh ràng buộc, chẳng thể để dễ dàng xa lìa, để bỏ.

Bởi lẽ con người nào cũng đều tàng chứa trong tâm thức sâu thẳm của mình cái hồn thơ bàng bạc, chung đồng và vĩnh viễn. Cái hồn thơ đó trường kỳ nghi phục, bất động đâu đó, khó thể nhận biệt trong những lúc bình thường của cuộc sống, để rồi trong những thoáng cơ duyên nào bất chợt nhất, nó lại xuất đầu lộ diện ngự trị, điều động con người theo những luật tắc riêng biệt vừa rộng rãi mà cũng vừa nghiêm nhặt của nó. Và kinh qua những lần chứng nghiệm thơ như vậy, con người bỗng nhận thức được như một đốn ngộ về một nghịch lý: thơ, với tất cả những gì mà người đời cho là những khuyết phế vốn dĩ của thơ, lại cũng là một phương thức nhận thức đặc biệt cùng với những phương thức nhận thức khác của con người triền miên theo đuổi công cuộc tìm kiếm những sự thật lẩn khuất chung quanh mình, ở trong mình.

Và thơ, tội nghiệp thay, cũng là đứa con nhờ vả được đã dẫn dắt người cha mù lòa đi sâu vào những cõi u uẩn huyền nhiệm tuyệt vời và chính những đứa con sáng sủa hằng được trọng vọng khác của trí tuệ con người chẳng tài nào tiếp cận.

III.

Phải, ở những lằn ranh cuối cùng mà tôn giáo, triết học, khoa học đã phải đứng lại, thơ, vâng, chỉ có thơ, vẫn nhẹ nhàng tiến bước, xông pha, bay lượn, vùng vẫy. Lúc đó, những lúc đó, con người chợt cảm nhận rằng mình phơi phới nhẹ nhàng như đã được giải phóng khỏi những nặng nề đè ép thường nhật, rằng mình đã thật sự hòa nhập vào một đời sống có khi còn chính đáng hơn cả cái đời sống mà mình vẫn thường lầm tưởng là duy nhất chính đáng, một đời sống khác nữa không hẳn là không xác thực, một đời sống khác nữa ở ngay trong cõi sâu cùng thăm thẳm nhất của chính đời sống. Những lúc đó, con người nương thả theo thơ, sống trọn vẹn là con người với đầy đủ các tính cách kỳ diệu lạ lùng mà bình thường chưa từng nghe thấy có, tưởng chừng chẳng thể có. Bởi lẽ hồn thơ chính là cái phần u ẩn lẩn khuất mênh mông tuyệt đối của hồn người, nó chính thị là hồn người trong ý thức sau cùng hết của con người.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng khó lòng tưởng tượng một con người còn có thể là con người nếu như con người đó, một cách giả tưởng, tự mình hoàn toàn tước bỏ cái hồn thơ của mình, tự mình hoàn toàn tước bỏ khả năng, tư duy xúc cảm nhân loại của chính mình. Bởi lẽ, thơ, những lúc đó, mặc nhiên trở thành thi sĩ theo định nghĩa cao cấp nhất của danh xưng: Kẻ tạo dựng một thi cảm, một cách thức nhìn thấy độc đáo về cái thế giới vừa ngoại quan và cũng vừa nội quan mà chính mình đang sống.

Thơ chính là một thị cảm dù được thể hiện theo kỷ luật riêng biệt của bất kỳ trường phái hay khuynh hướng thi ca nào, và nếu như bài thơ nào không truyền đạt được những khêu gợi phải có nhằm đánh thức thôi thúc được một cách mãnh liệt cái hồn thơ ẩn náu bất động nơi người đọc để hình thành một thi cảm nào đó, chắc chắn bài thơ đó đương nhiên không phải là thơ.

Tất nhiên, khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung đồng của cả đôi bên. Đó chính là chỗ lớn lao đích thực của thơ. Đó chính là lẽ tồn tại xứng đánh của thơ. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, người làm thơ mới có thể ngẩng mặt với đời, nhận lấy danh xưng thi sĩ, không hổ thẹn về những đóng góp độc đáo của mình đối với xã hội, đối với lịch sử.

Đặc biệt, trong những tình huống cực kỳ chông chênh, nghiệt ngã, sinh tử mà chính con người đã bị đày đọa dìm đắm vào đó, bị đặt để trước nguy cơ thường trực của sự trấn lột chính cái nhân phẩm còn sót lại của mình, thơ, hơn bao giờ hết, đã chứng tỏ một cách mãnh liệt cái khả năng siêu tuyệt gần như là tôn giáo của thơ. Trong những tình huống đó, rất nhiều người đã nương tựa vào thơ, để mà gìn giữ lấy mình, để mà sống sót với tư cách là con người, gầy dựng cho chính mình và cho cả bằng hữu cùng cảnh ngộ một thế giới ánh sáng, một thế giới niềm tin giữa một thế giới tối tăm, cùng mạt và hủy diệt.

Ở đây, tôi không hề muốn nói thêm qua về cái bản chất của thế giới tù đầy đó. Trong thế giới đó, nhiều con người thất trận của một cuộc chiến đã tạm thời phải ngã ngũ như vậy từ đất đứng, danh vị, thậm chí đến cả sinh mạng của mình, chỉ còn lại mỗi một phần duy nhất tạm thời chưa thể bị tước đoạt hoàn toàn, đó là nhân phẩm, và niềm tin của chính mình.

Chúng tôi, mỗi người một cách, đều phải ý thức một cách rõ ràng rằng đó mới chính là nỗi sinh tử cốt tủy, đích thực của chính mình, rằng không thể để cho con người trong chúng tôi bị bức tử, ô nhục, rằng đó chính là cái phần mà chúng tôi bắt buộc phải gìn giữ bảo vệ bằng mọi giá, kể cả bằng mạng sống của mình. Lúc đó, một số không nhỏ chúng tôi đã tìm thấy được một sự trợ lực thần thánh. Lúc đó, tôi nghiệm rõ một điều hết sức thông thường như một sự thật cổ lỗ mà bình thường chẳng bao giờ mình để ý đến về thơ.

Thơ là hình loại văn nghệ đầu tìên của con người, khi con người không có gì cả trong tay, và thơ chắc chắn cũng là loại văn nghệ cuối cùng của con người khi con người chẳng còn gì cả trong tay. Thơ sẽ còn hiển hiện tồn tại rạng rỡ với con người, nếu mà con người còn ngôn ngữ, còn tấm lòng, còn ký ức, còn là con người trong cái ý niệm cực kỳ cao cả đầu tiên và cuối cùng của mình.

Thơ, một cách mãnh liệt, đã trở thành sự sống không thể bị hủy diệt của cái ý niệm đó. Thơ còn con người còn. Tự bản thân, tôi vẫn quan niệm rằng văn nghệ cũng y như mọi thứ khác trên đều phải có những cấp độ cao thấp, lớn nhỏ của nó. Có những thứ văn nghệ ở cấp độ thấp nhất là văn nghệ giải oan, giải thoát. Chắc chắn không cần phải nói thêm, chúng ta đều thấy hiểu rằng trong hoàn cảnh lúc đó của chúng tôi, chúng tôi đã nhận chân ra cấp độ cao nhất của văn nghệ.

Lúc đó, thơ đã trở thành một thế giới bất khả xâm phạm, bất khả hủy diệt để con người chúng tôi được nuôi dưỡng tồn tại. Đó là một thế giới vô hình nhưng có thật, thật như một thế giới hữu hình nào. Cám ơn ngôn ngữ của loài người, cám ơn thơ của loài người.

Thế giới của chúng ta không chỉ hẳn là một thế giới có mặt của những con người thân quen, từng gặp gỡ ngoài đời, mà còn là một thế giới có mặt những con người chưa từng gặp gỡ ngoài đời nhưng rất đỗi quen thân. Chắc chắn trong thế giới của chúng ta vẫn hằng lui tới hình bóng của một Khuất Nguyên tiều tụy lang thang bên dòng sông Mịch La, một Lý Bạch tiêu sái nơi một quán rượu của Hàng Châu, một Holderlin quằn quại trong thư phòng khuya khoắt ở Horburg, một Nguyễn Du não nề trở lại Thăng Long trong một ngày đông rét mướt, một Nguyễn Gia Thiều héo hắt ngồi bất động nơi Hồ Tây, một Nguyễn Trãi đạt ngộ giữa vùng cây cỏ Côn Sơn ... Những con người đó đã một lần đi khuất dạng trong lòng ta ...

Cám ơn những con người đó đã đến trong thế giới riêng tư của chúng ta, ở lại đó, bầu bạn thắm thiết cùng chúng ta để chúng ta được đỡ xót xa thương lấy mình hơn nữa, để con người chúng ta còn được tồn vinh xứng đáng.

Tô Thùy Yên

Bài nói tại Seattle Public Library ngày 26 tháng 7 năm 1997. Nhan đề và phân đoạn do Khởi Hành đặt. (Khởi Hành số 22 tháng 8 năm 1998












Tô Thùy yên
Ảnh Cao Lĩnh








Tô Thùy Yên









Nt Tô Thùy Yên & Hs Đinh Cường








Tô Thùy Yên & Đinh Cường







Nv Song Thao, Nv Doãn Quốc Sỹ, Nt Tô Thùy yên










































Phan Nguyên & Tô Thùy Yên 
Sài Gòn 15/04/2014







QUÊN SAO ĐƯỢC MÀ QUÊN

Cô Trang


Lần đầu tiên anh Tô Thùy Yên đọc bài thơ TA VỀ trước cử tọa mấy chục người là ở nhà của chúng tôi trong một buổi họp mặt, thật ra bữa ăn giỗ. Đó những năm gần cuối thập niên 1980 và anh Yên mới từ nhiều trại “cải tạo” trong Nam ngoài Bắc trở về. Ngoài người lớn trong gia đình như anh Chánh, anh Cường và chị Nhung, vợ chồng tôi cùng các bạn như anh Đoàn Tường, anh Tâm, Anh Yên và chị Bích, còn có thêm một đám thiếu niên là các con cháu trong nhà. Chừng ấy người, già trẻ lớn bé, lắng nghe bài thơ dài 124 dòng được đọc liên tục bằng giọng miền Nam hào sảng và chậm rãi của tác giả.
Để nói về tuyệt bút của bài thơ thì muôn vạn lời vẫn chưa đủ, chỉ biết chắc một điều là người nghe như uống từng câu, từng chữ.

Theo anh Cường đây là bài hành hay nhất. Anh Tâm đặc biệt thích câu: “Ta về như bóng chim qua trễ/ Cho vội vàng thêm gió cuối mùa.” Nghiễm thích nhất câu: “Ta gọi thời gian sau cánh cửa”.
Bầu không khí lúc ấy tôi không biết phải diễn tả thế nào. Lũ trẻ không chắc hiểu đươc bao nhiêu nhưng cứ tròn mắt và há miệng nghe các chú bác, các cô dì và cha mẹ chúng trao đổi với nhau.
Trong 31 khổ thơ, có ít nhất 3 khổ tác giả dành trọn vẹn cho người vợ, cũng là người bạn thanh mai trúc mã, chị Bích. Chị có mặt ở đó, ngay bên cạnh anh, nở nụ cười hiền dịu mà không nói câu nào trong khi mọi ánh mắt đều đổ dồn về chị:

Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm

Có thắc mắc rau mác là rau gì? Anh Yên bảo nó giống lục bình, nhưng lục bình trôi nổi trên mặt sông, còn rau mác thì mọc cố định ở chỗ ngập nước. Anh nhắc câu ca dao miền Nam: “Chờ nhau cho đáng kiếp chờ/ Chờ cho rau mác lên bờ trổ bông.”
Quả thật âm hưởng ca dao trong toàn bài như “Thơ đề vạt áo, núi lở sông bồi, ngựa đá qua sông, ruột mềm như đá, tinh đẩu nhạt mờ…” cứ thế trôi đi tự nhiên và nhuần nhuyễn. Với hình ảnh từ CHINH PHỤ NGÂM, “nơi gió cát” (Chàng từ đi vào nơi gió cát) và “thềm nhà bụi chuối” (Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên) dành cho người vợ chờ chồng trong bài thơ TA VỀ nghe càng thấm thía vô cùng!
Sau đó, có lẽ nhằm phần nào xua đi không khí nghiêm trang và cảm động, tác giả bắt đầu pha trò: Thơ tôi: “Mười năm mặt sạm soi khe nước/ Ta hóa thân thành vượn cổ sơ” thế mà mấy đứa con tôi đòi sửa lại “ …Ta hóa thân thành vượn Darwin”. Tiếng cười vang lên, nhất là từ đám thiếu niên. Phản ứng từ phía người lớn cũng giãn ra. Anh Tâm không chịu từ “thương khó” trong đoạn:

"Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương khó quá, sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa"

Anh Tâm bảo từ “thương khó” nghe ra Ki-tô quá. Anh Yên đáp lời ngay: “Đúng, đâu có mấy ai dùng! Mấy đứa con tôi (Tôi sực hiểu té ra các con anh là những độc giả đầu tiên của thơ anh) nói: Ba hay ghê, ở tuốt nơi xa xôi mà ba cũng biết ở đây, bây giờ, nhà thương nó khó lắm. Có bệnh dễ gì được vào nhà thương!” Thế là, ôi thôi, một trận cười vỡ nhà bùng lên không dứt.
Đến câu: “Ta về dẫu phải đi chân đất/ Khắp thế gian này để gặp em” thì anh Chánh, ông anh lớn của tôi, môt người rất hài hước, nói: “Ối giào! đi chân đất có gì là ghê gớm! Dân mình trước đây làm gì có guốc dép mà đi. Trước khi lên giường ngủ chỉ hai xoa ba đập là xong!” Và lại một trận cười vỡ nhà nữa!
Buổi đọc thơ và bình thơ hôm ấy có sững sờ thán phục, có cảm động rưng rưng, có hài hước tếu táo như vậy thì … quên sao được mà quên!



Chú thích: Bản thảo với thủ bút của tác giả. Đinh Thạch Trung là một bút hiệu khác của Tô Thùy Yên



















Trở về 










MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.