Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Trần Thị NgH

 

















Trần Thị NgH

Trần Thị Nguyệt Hồng
(1949 - ......) Cà Mau
Nhà văn . Họa sĩ 













 Nhớ m mệt nhoài 
Sầu lả xuống vai
Buồn rụng lóng tay
Nụ hôn dẫu thôi vẫn rất mềm một góc môi,





Bắt đầu viết văn năm mười lăm tuổi, truyện ngắn đầu tiên đăng báo người lớn năm 18 tuổi. 
Các truyện ngắn của TT NgH đăng trên các tạp chí: Văn, Vấn Đề, Thời Tập, Thời Văn sau chọn thành một tập mang tên Những Ngày Rất Thong Thả in năm 1975 nhưng chưa kịp phát hành thì gặp biến cố 30/4. 
Sau hai mươi năm im lặng, TT NgH đã trở lại trên văn đàn với những truyện ngắn mới...









Tác phẩm mới















Nghệ sĩ Dương cầm Mitsuko Uchida








Nghệ sĩ Dương cầm Dana Ciocarlie









Nhà thơ Paul Christiansen







Nghệ sĩ Dương cầm Felix Benati











Tác phẩm mới






Phát hành năm 2019









Phim Độc Lập Kinh Phí Thấp




Tuyệt tác - chín biến khúc




Magic Korea A45




Alois, đóa hoa vô thường





Cửa Phật




Trổ Đồi Mồi















Trần Thị NgH


Đầu thu, trời trút một cơn mưa to bên ngoài thư viện Sorbier mà tôi không biết cho đến lúc ôm mớ sách vừa mượn ra tới cửa mới thấy lênh láng nhòe nhẹt. Có mang theo dù nhưng gió quá thôi đành quay trở vô chờ chút coi sao. Lại leo lên tầng một rà lại mấy kệ sách ban nãy, chợt thấy cô ấy đứng khoanh tay nghiêm nghị trong khu tiểu thuyết, lưng dựa vào dãy tác giả có vần M. Một thiếu nữ vừa qua tuổi thanh xuân với khuôn mặt dài thông minh, mũi to, mắt nâu, ánh nhìn bộc trực, tóc ngắn màu nâu đỏ, dáng cao ráo thanh mảnh, vai ngang, trang phục thập niên 40 của thế kỷ trước: váy tông sậm ngang gối, áo sa-tanh màu kem, vai khoác khăn choàng hình tam giác có tua, cùng chất vải áo. Trông cô như đi lạc nhưng thần thái tuyệt nhiên không vướng chút chi lo âu hay hoảng hốt; mắt không buồn đảo quanh, trái lại hướng thẳng về một điểm vô hình nào đó phía trước mặt. Có một sức hút đặc biệt kỳ lạ lôi tôi về phía ấy. Lượn qua lượn lại những N, O, P, Q, R… cuối cùng quay trở lại M. McCall, M.J. McGrath, Karen Maitland, Marcus Malte, Henning Mankel, Miyabe Miyuki, A. Munoz Molina, Alice Munro… Tôi mon men đến gần bắt chuyện, hạ giọng thì thầm theo đúng nội quy thư viện:
-Bên ngoài mưa lớn quá trời.
Mí mắt viền hàng mi rậm chợt cụp xuống rồi nhướng lên, y hệt con búp-bê nhắm mắt mở mắt bị bỏ quên đã rất lâu, ngồi một mình chong ngóc trong kho chứa đồ cũ trên rầm thượng mắt mở trừng trừng. Như vừa bị lay tỉnh, cô rời mắt khỏi điểm tập trung, nghiêng đầu về phía tôi trong khi tay vẫn khoanh trước ngực:
-Mưa này không dai đâu.
-Nếu không phải ôm mớ sách này thì chạy ào một cái là về tới nhà.
Có vẻ như cuộc trò chuyện sẽ bí tịt sau câu nói có phần vu vơ lẫn vô duyên của tôi, nhưng không, cô gái cười thân thiện, khoe hàm răng trắng và đều:
-Cô ở gần đây? Tôi đang chờ một người đến đón về… nhà của người ấy. Tên tôi là Frances.
Có nhanh quá không? Thôi kệ. Chính tôi bày đầu mà.
-Tôi tên Em.
-Emma? Emmanuelle?
-Không, chỉ là Em thôi. Trong ngôn ngữ xứ tôi, em dành cho người lớn tuổi hơn xưng hô với người nhỏ tuổi hơn bất chấp giới tính, hoặc người đàn ông sẽ gọi người đàn bà của mình là em…ư…bất chấp tuổi tác. John Lenon có thể gọi Yoko Ono là em dù trẻ hơn cô ấy bảy tuổi. Người tình mới của cô ấy hiện nay trẻ hơn 50 tuổi, nếu ở xứ tôi ông ta vẫn cứ gọi Yoko là em. Tôi tên Em nhưng nếu tôi có em thì vẫn phải xưng em với em tôi thôi…
Thấy coi bộ hơi lòng thòng, tôi đột ngột im bặt, đưa mắt lang thang qua Nisbel, Norek, Nunn, Oliver, Ourednik, Qiu Xiaolong… rồi lơ đãng rút ra quyển Thảm Đỏ, truyện trinh thám của James Patterson, đọc lướt quảng cáo tóm lược ở bìa sau: những vụ giết người đẫm máu làm đỏ thêm tấm thảm đỏ của thế giới điện ảnh. Thấy Frances im ru, tưởng đã ớn trò chuyện, không ngờ cô ấy chợt rì rầm sau một hồi trầm ngâm:
-Hay nhỉ. Cái vụ xưng hô ở xứ Em đó.
-Ồ, bàn thêm thì rắc rối lắm chị. Cứ như mê trận.
Ngước nhìn lên ô cửa kính lắp chót vót trên đầu tường thấy màu trời đã giảm đục, làm ra vẻ dứt khoát, tôi nói:
-Thôi tôi đi về đây, chị có đi không tôi cho quá giang một góc dù.
Nói cho có nói thôi, thực ra tôi gần như lớ ngớ chẳng biết làm gì hay nói gì để kéo dài cuộc trò chuyện. Thâm tâm tôi còn muốn biết thêm chút nữa về cái vẻ lạc loài của cô gái chỉ đứng khoanh tay nghiêm nghị trong một góc thư viện, hoàn toàn không giống như một thủ thư, một độc giả, hay thậm chí một kẻ rỗi việc lãng đãng vào thư viện địa phương một chiều cuối tuần rút đại một quyển trinh thám để giết thì giờ bằng cách vừa đọc vừa đoán mò xem ai là thủ phạm. Thật bất ngờ, cô ấy vui vẻ nói:
-Vậy em cho tôi quá giang đi. Đứng đây chờ không biết đến chừng nào.
-Chị về đâu? Gần đây không? Chỉ cần điện thoại báo cho ai đó khỏi phải đến. Tôi đưa chị về bằng…dù. Hưỡn mà!
Frances khịt mũi nhẹ thay cho một cái cười nhạt, đoạn đổi giọng tâm sự:
-Tôi làm gì có điện thoại di động, cũng không biết cái chỗ tôi sẽ đến là đâu hay người đón tôi là ai.
Tôi lật đật trả quyển Thảm Đỏ về chỗ cũ. Chà chà, hấp dẫn. Ngôi sao màn bạc bị hạ sát trong lúc đang diễn, nhà sản xuất điện ảnh bị đâm chết ngay trong tư dinh, an ninh thắt chặt vào những ngày có Liên Hoan Phim để bảo vệ sinh mạng của những người làm nghệ thuật thứ 7 vì một tên sát nhân tâm thần đang tung hoành…gì gì thì cũng chỉ là tiểu thuyết giải trí. Nhìn đây, tôi sắp sửa che dù đưa một nhân vật bí ẩn về chỗ ở của mình, cách thư viện Sorbier chỉ 15 phút đi bộ dưới trời mưa lâm râm, ly kỳ không?


000


Tôi pha Nestcafe bằng cái máy Dolce Gusto. Tẹt tẹt tẹt. Cạch. Đùng. Trong nháy mắt chúng tôi đã có thể áp tay vào hai ly cà-phê hôi hổi, không phải chờ nhỏ giọt đến nguội ngắt như phin, rồi lại phải đun nước sôi để pha thêm vô cho nóng. Dĩ nhiên không đậm đà bằng Arabica, Robusta hay Cứt Chồn Ban Mê, chỉ làng nhàng đỡ ghiền như Viennois, Cappuccino hay xây-chừng ở các quán cóc bến xe Lục Tỉnh. Nhưng vậy là ngon rồi, với một buổi chiều ua úa buồn ly hương như hôm nay. Ngồi ở cái bàn nhỏ kê nép trong góc nhà bếp bốn mét vuông, chúng tôi im lặng nhìn ra hàng cây bên ngoài nơi từng sợi nắng mỏng sau mưa đang thả xuống một gam màu rất chớm, rất man mác xanh hè và vàng thu. Như để nói tiếp câu chuyện đang kể, mà thực ra là chẳng có chi đã được kể trước đó cả, Frances thủ thỉ:
-…rốt cuộc thì tôi dùng bút chì vẽ một dãy phím đen trắng lên bệ cửa sổ để tập đàn. Chúng tôi sống trong căn phòng bé tẹo nằm phía trên một tiệm đồng nát nơi mẹ tôi làm thuê với lương 35 xu mỗi tuần, thật vất vả cho một bà góa với 2 con nhỏ là tôi và em trai tôi, đặc biệt vào những năm chiến tranh thế giới thứ hai đang diễn ra khốc liệt. Thành ra cây piano duy nhất mà tôi biết là của thầy giáo ở trường. Đã có lúc tôi nghĩ, nếu lỡ mai tôi trở thành nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng, dàn phím vẽ trên bệ cửa sổ chắc chắn sẽ đi vào huyền thoại. Như ông gì nhỉ, Haendel đó. Ông ta đã trốn trên tầng áp mái, đóng kín cửa, tự mày mò chế ra cho mình cây đàn harpe rồi cứ vậy mà âm thầm tập dượt. Không huyền thoại không thiên tài thì là gì chứ?
-Không ngờ lại có sự trùng hợp thú vị: tuổi thơ tôi gần giống như một bản sao của chị nửa thế kỷ sau. Gia đình tôi không đến nỗi nghèo nhưng cha mẹ tôi quan niệm xướng ca vô loài, đàn địch từng tưng chỉ là trò vớ vẩn của kẻ ăn chơi, không mang lại cơm áo gạo tiền. Tôi bí mật nhịn ăn sáng để trả học phí cho ma-sơ trong một tu viện gần nhà và cũng tập đàn trên phím vẽ như chị. Thật truân chuyên khi phải vận dụng tất cả giác quan để lắng nghe âm thanh của các nốt nhạc vô hình đồng thời đu dây theo từng tiết điệu. Sau này khi xem phim The Pianist của Roman Polanski tôi đã chết điếng khi thấy Wladyslaw Szpilman ngồi trong căn nhà hoang đánh đàn câm giữa một Warsaw đổ nát, mười ngón tay lơ lửng bên trên 88 vạch đen trắng bám đầy bụi của cây đàn vô chủ. Chập chùng, trôi, lướt, chần chừ và dứt khoát. Những nốt nhạc nổ ra trong đầu, vọng lên, bung ra, len lỏi qua những bức tường đổ, những lỗ đạn, những con đường ảm đạm không có lấy một bóng người của một thành phố chết….
-Kẻ sống sót trong cuộc bố ráp Reinhardt! Szpilman - nghệ sĩ dương cầm Do Thái người Ba Lan, để toàn mạng đã phải trốn chui trốn nhủi nhiều nơi trong 2 năm cho đến khi gặp được…cây đàn; thèm chảy dãi nhưng đành phải đánh điếc để không bị quân Đức phát giác. Ở một nghĩa nào đó chính nó đã cứu mạng anh ấy, nhưng gia đình thì ly tán cả. Trong chiến tranh ai mà chẳng mất mát. Còn sống chưa hẳn đã là may. Như Primo Levi đó. Ông ta lóp ngóp bò về từ trại tập trung Auschwitz nhưng thực sự là đã chết ngắc từ trước khi tự sát năm 1987. Ted Makkavala đã không phải tòng quân vào những năm ấy.
-Ted Makkavala?
-Anh ấy là đồng nghiệp cùng trường, phụ trách môn khoa học, đã có vợ và 3 con, một trai hai gái. Tôi theo học nhạc viện 4 năm rồi về trường trung học Hanratty dạy hợp xướng, đồng thời đàn cho nhà thờ. Chúng tôi thường mặt lơ mày láo hẹn hò ở kho chứa đồ phía sau phòng thí nghiệm của trường, làm tình trong mùi hóa chất, giữa những chai lọ dễ vỡ, những bộ xương cách trí của người lẫn của chó mèo và những hũ formol ngâm nội tạng. Có lần sau một trận tình người ngợm chúng tôi dính đầy nước sơn còn ướt do các vách gỗ của căn phòng vừa được phết lại nhân lúc học sinh nghỉ hè. Trời, tôi vẫn còn nhớ như in cái cách anh ấy chậm rãi trải áo khoác lên sàn nhà ẩm, vuốt vuốt cho phẳng trước khi tỉ mẩn mở từng chiếc nút nhỏ ở cửa tay áo sơ-mi của tôi. Trầm tĩnh và đơn sơ, khiến tôi cảm động muốn khóc.
-Không phải tôi muốn vuốt đuôi chị để đươc nghe tiếp câu chuyện, nhưng thật kỳ lạ, tôi cũng là cô giáo dạy nhạc tuy huyền thoại thiên tài chỉ xần quần trong hẻm nhỏ. Cũng đã đâm đầu vào vài người đàn ông vợ con đùm đề, cũng lén lút hẹn hò, cũng hoang mang trộn lộn với hoan lạc. Cũng ngùi nhớ mùi mồ hôi trong nách, nốt ruồi quen thuộc ở một bên hông, những nụ hôn nhão nhoẹt nước bọt và nước mắt. Nhưng khác với chị, tôi luôn luôn tháo chạy thục mạng khi thấy thấp thoáng bóng tối hay mây mù; thường thì chết nhát tìm cách chui tọt vào trong mắt bão ngồi tùm hum cho an toàn. Rượt theo hạnh phúc là một việc nguy hiểm đòi hỏi nhiều tiêu tốn thể chất lẫn tinh thần. Nhưng mà, quỷ thần ơi, tình yêu sao muôn đời cứ thế? Mấy mươi năm sau nữa hay bao nhiêu thế kỷ nữa thì vẫn có những mối tình chung chạ khắc khoải tương tự, phải vậy không chị?


Có vẻ như tôi sắp mếu đến nơi. Frances không nói gì. Cô gái vừa bước qua tuổi thanh xuân mà tôi đã nhìn thấy trong góc thư viện Sorbier bỗng trở nên già khằn chỉ sau vài tiếng đồng hồ. Nắng tàn ngay trên màu tóc nâu đỏ, một vạt xơ xác rớt xuống trán, vài cọng lạc loài vắt trên hai vành tai. Ánh nhìn đã thôi sắc sảo và giọng nói trong trẻo thoáng chốc như bị thời gian cào cho trầy xước. Ây da, sao giống chuyện ma quá; hóa ra cơn mưa đầu thu đã đẩy tôi trở lui lên tầng trên của thư viện là để gặp một người đang đứng chờ một người. Thất kinh với ý nghĩ này, tôi sỗ sàng chồm dậy ghé sát mặt vào hình nhân đối diện: cuộc hạnh ngộ giữa hai chúng tôi là có thật, vì rõ ràng hai ly cà-phê dở ẹc trước mặt đã cạn tới đáy và bàn tay của người phụ nữ mà tôi vừa cố tình chạm phải đã rất ấm.


Níu lại mảnh khăn choàng vừa tuột xuống vai, Frances thủng thẳng trả lời cho câu hỏi tưởng đâu đã bị bỏ lơ:
-Đúng. Muôn đời vẫn cứ thế. Nhưng em nghe đây, tôi rất có thể đã khô xơ co cứng trong cô đơn như em đang, thắt tha thắt thỏm như em đã, chui vô xó tối nằm liếm hoài vết thương từ cuộc tình bất toại như em vẫn luôn luôn, nhưng cũng có thể đã yêu một người đàn ông khác nếu Ted không bỏ tất cả để cưới tôi. Sau khi Bobby, đứa con trai duy nhất của anh ấy chết vì bị xe tông lúc 12 tuổi, từ những mâu thuẫn với đại gia đình bên vợ và với chính người vợ anh đã cưới không do chọn lựa của chính mình, Ted trở nên dứt khoát hơn trong mối quan hệ. Sau tai nạn đó, chúng tôi lấy nhau rồi có hai con. Nghĩ mà coi, tôi đã thập thò mây mưa với anh ấy không biết bao nhiêu lần trong cái hốc chứa đồ phía sau phòng thí nghiệm, ở lớp dạy giáo lý của nhà thờ, trên bãi đất một khu rừng đầu xuân còn trụi lủi lá, trên chiếc Plymouth đời 1936 những ngày mưa như trút, đã gây ra một xì-căng-đan tỉnh nhỏ, đã ôm rịt đúng mối tình khao khát, rồi cuối cùng giành giật được người đàn ông của đời mình; nhưng trời hỡi, giờ nghe ngóng lại tôi nhận ra sau từng ấy năm, bên trong ngực vẫn là trái tim đó đang đập, vẫn là Frances, một mình như đã từng một mình trước khi tất cả những việc đó xảy ra. Ý tôi là, chẳng có gì khác nhau cả. Ở một âm lượng rất nhỏ, nó vẫn đang đập một mình. Khẽ thôi, nhưng vẫn đập.


Tôi bỗng òa khóc hu hu, ngất ngất. Frances đặt nhẹ bàn tay rất ấm lên lưng tôi, phía bên vai trái đang xệ xuống.
-Em. Buồn khẽ thôi.







Trần Thị NgH
Sorbier, tháng 9.2017

Chú thích của tác giả: Frances là nhân vật ở truyện ngắn Một Tai Nạn nằm trong tuyển tập gồm 11 sáng tác có tựa chung Những Mặt Trăng Của Sao Mộc - Les Lunes De Jupiter của Alice Munro, bản tiếng Pháp do Colette Tonge chuyển ngữ, Editions Points xuất bản 2013. Một số chi tiết về nhân thân của Frances trong Pianissimo được lấy từ Un Accident.






















SERETIDE
Trần Thị NgH








1.
Da bụng bên dưới hai be sườn bùng nhùng, đùn xuống phía rún rồi bị ép, gấp không biết bao nhiêu là nếp ở bẹn. Vài năm trước khi qua đời ba tôi hay ở trần mặc xà-lỏn ngồi bó gối kiểu đó ở góc phản, thở khò khè, lâu lâu khạc đờm vô cái lon sữa bò để gần đấy. Chiều tối về nhà, việc đầu tiên tôi làm là dựng xe gắn máy sát vô vách rồi đi ngang góc phản ghé lấy cái lon mang đi đổ trong bồn cầu. Đờm đặc queo, có khi không chịu nhúc nhích, phải pha thêm nước hoặc dùng que khều khều cho nó trôi xuống đánh tọt. Tưởng tượng ông già đã vất vả thở như thế nào với mớ đờm đặc luôn khi nghẹn trong cổ họng. Đưa đi bệnh viện khám bệnh hút đờm thì ông bỗng mạnh như thần, vùng vẫy chống cự kịch liệt như đỉa phải vôi.


Từ thập niên 50 tôi đã được biết đến Walt Disney với vịt Donald và chuột Mickey. Ông già thường sai người chèo ghe từ Vàm Mương Điều lên chợ tỉnh để lấy báo và các tạp chí đặt mua dài hạn, trong đó có các tập truyện tranh với vô số nhân vật hoạt họa hấp dẫn. Chiếc xuồng cũ có mui được ba tôi biến thành mai rùa, kéo lên bờ lạch đút khuất giữa các lùm bụi ở cuối vườn là thế giới kỳ bí, nơi hai cha con tối tối lại bê ngọn đèn măng-xông chui vào mai rùa để cùng trải qua không biết bao nhiêu cuộc phiêu lưu tưởng tượng. Kích-Tôn-Sơn Bá Tước (Monte Cristo), Lỗ-Bình-Sơn (Robinson Crusoe) và Ngàn Lẻ Một Đêm dạo đó được dịch ra tiếng Việt mỗi đợt vài chương, xuất bản từng tập nhỏ khiến người đọc hào hứng, nôn nóng muốn biết phần tiếp theo của câu chuyện. Thỉnh thoảng ông đổi đề tài, kể chuyện nhà nghèo của Hồ Biểu Chánh, những phận người từ Không Gia Đình và Trong Gia Đình của Hector Malot, Những Kẻ Khốn Khổ của Victor Hugo. Má tôi thường giăng mùng réo vô ngủ khi chúng tôi đang ở đúng chặng gây cấn nhất của cuộc rong chơi.


Ban ngày ba tôi là ông chủ đất thong dong cưỡi ngựa đi thăm ruộng, đặc biệt vào các mùa cấy gặt và vê lúa. Đi đến đâu cũng được tá điền cúi rạp người chào hỏi. Thời gian rảnh ban đêm ông đọc sách làm thơ lấy bút hiệu Trường Xuân, biến phòng làm việc thành Hoàng Hạc Lâu. Má tôi thường kiếm chuyện đi ngang ngó chằm chằm vô mặt thi nhân chì chiết, hứ, ra cái điều nho nhã, đẻ ra cả đống con mà không nhớ tên đứa nào. Khi đã giỏi đọc và viết, tôi rà theo các kệ sách trong lầu Hoàng Hạc điểm thấy Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, Sử Ký Tư Mã Thiên, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Cái Dũng Của Thánh Nhân cùng rất nhiều sách thuộc loại Học Làm Người. Thấy con gái út có chút hoa tay, ông già nhờ vẽ trên vách gác thơ một con hạc vàng đang xoãi cánh trong ánh hoàng hôn. Ông giải thích chiều tà thì chiều cứ tà còn mùa xuân trong ta thì vẫn cứ trường cửu. Bà già tuy khinh ra mặt nhưng ngày nào cũng phất chổi lông gà quét bụi các kệ sách. Khi bậc trí giả nhậu say, đái vãi ra giữa nhà, má tôi mừng húm triệu tập:
- Tụi bây ra đây coi cái vũng của thánh nhân nè.


Thời cuộc làm cho nhiều gia đình chẳng những ly tán mà còn tán gia bại sản, từ phú nông miệt vườn nháy mắt đã biến thành bần dân đô thị. Trí giả đến mấy cũng nằm trong số đó. Người hùng của tôi bây giờ chỉ còn là một kẻ bất đắc chí, ngồi chờ chết. Trong tư thế đó ông có thể vòng tay quanh gối, ngủ hàng giờ, vững bàn thạch không thua gì cư sĩ ngồi kiết già. Vừa ngủ vừa kéo đờm nghe sốt ruột, y như phần solo của một cây đại hồ cầm thiếu dây trong giàn nhạc toàn các nhạc công hết thời ở một quán bar sắp đóng cửa dẹp tiệm. Cứ nhìn ông như vậy, tôi lại nhớ đến Toàn và những buổi tối hai chúng tôi lang thang hết phòng trà này đến quán rượu nọ, đuổi theo bè trầm của đêm để chờ sáng. Thực ra chẳng có chi liên quan giữa hai người đàn ông này. Chỉ là kiểu kéo đờm trong cổ họng của ông già làm liên tưởng đến các hộp đêm có chơi nhạc về khuya. Đêm đã đi qua rất chậm và nặng vào dạo ấy. Toàn viện cớ phải làm đêm, trốn vợ để ầu ơ ví dầu với tôi. Lê lết theo gã nhạc sĩ lỡ vận, tôi ho lẹt khẹt thở hụt hơi, xanh lè ốm nhách. Toàn thì mặt mũi thất thần, tay chân lẩy bẩy với điếu thuốc luôn khi kẹp giữa hai ngón trỏ và giữa, hốc mắt ngày càng lõm.


Chúng tôi cười ngất ngư, quàng vai bá cổ hát tình yêu như trái phá, con tim mù lòa, một mai thức dậy… Ai da, có ngủ đâu mà thức! Bác sĩ Tạo nói tôi bị nám phổi, còn ông Phiên mò mẫm cho ra một cái toa kết hợp đủ thứ trụ sinh kháng sinh hiện có trên thị trường, thêm cả món Valium 5 khiến đôi lúc tôi muốn nhân tiện tự tử cho rồi. Thuở còn bé tôi đã quặt quẹo lẹt khẹt, bị lang vườn chích strepto đều đều như thuốc bổ, lúc nào cũng phải mặc thêm cái yếm hình tam giác lót bên trong ngực cho ấm phổi trước khi mặc chồng thêm áo ngoài. Có yêu đương gì ai ở tuổi nhi đồng mà cũng ho thôi là ho.


Một tối tôi nói với Toàn, thôi em mệt rồi, phải về nhà uống thuốc, thở và ngủ. Chúng tôi chia tay.


Tôi lủi thủi đi làm, nuôi người hùng. Tính ra trong nhà có đến hai cây đàn dây: một đại hồ cầm và một đề cầm. Tôi kéo bè cao hơn một tẹo, tuy không kém phần hổn hển. Không chỉ đờm nhớt, kẻ bất đắc chí còn bất lực trong việc kiểm soát bài tiết khiến con gái rượu phải trả hiếu mệt nghỉ. Mớ thuốc của ông Phiên chỉ nhồi cho người thêm mệt, không thấy chút chi tác dụng. Ban đêm phải ngủ ngồi cho dễ thở. Trong bóng nhá nhem của ngọn đèn chong, hai thiền sư cùng bó gối, song tấu nhịp nhàng tâm đắc. Ở chỗ làm, thỉnh thoảng dăm ba lần trong ngày tôi phải đứng dậy gằm đầu cong lưng lấy hết sức lực hít thật sâu cho đầy lồng ngực rồi từ từ nhả ra. Chắc là hen suyễn rồi. Có khi di truyền mà không biết. Chẳng phải sưng phổi nám phổi lòi phèo gì đâu. Tại chưa gặp đúng quí nhân thôi. Mấy ông lang băm đặt ống nghe xong hồn nhiên phán lung tung không phân biệt được âm thanh tiết tấu chi cả. Đọc phim phổi thì mắt nhắm mắt mở. Nghe nói phụ nữ sau khi sinh nở máu huyết thay đổi, sức khỏe tốt hơn vậy sao không lấy chồng đẻ con đi cho rồi, đồng nghiệp khuyên.


Tôi lấy chồng đẻ con. Tưởng gì, cũng dễ, do sẵn trong sở có một ông bấy lâu kiên trì đeo đuổi. Lúc cầm lấy thiệp báo hỉ từ tay tôi, Toàn nín thinh, khóe môi giựt giựt hồi lâu nhưng không thể kéo nhằng ra thành nụ cười. Tay cầm cái thiệp, anh quay lưng lững thững trở vào Đài Phát Thanh viện cớ đang chuẩn bị thu âm một tình khúc mới. Đám cưới nhanh gọn như chạy tang. Má thì qui tiên rồi, các ông anh bà chị nghèo kiết xác, lại ở quá xa, ai lo phận nấy. Chỉ có bạn bè trong sở, vài họ hàng gần. Ông già chủ hôn đám cưới con gái, mặc đồ vét xám thắt cà vạt đỏ sọc đen ngồi cười cười, ngực phình ra thóp vào chập chùng khiến miếng vải sọc lòng thòng từ cổ đến bụng chuyển động mạnh và đều, lên xuống theo nhịp hai. Ông phải tự bơm hơi để cầm cự cho qua cái đám.


Tất nhiên không phải tôi lấy chồng cho khỏe, mệt hơn thì có. Cũng không phải để máu huyết thay đổi. Tôi đã ngán nghêu ngao những bản tuyệt tình ca. Chàng ở rể vì cô dâu không chịu về nhà chồng. Nhưng rồi mọi thứ cuối cùng vượt quá sức chịu đựng. Những lần chăn gối làm tức thở, bầu bì khiến người thêm ì ạch hào hển, cho con bú đêm vắt kiệt sức lực, cơm nước giặt giũ, vệ sinh con vệ sinh cha vệ sinh nhà cửa. Tất cả những thứ này cộng lại gọi là hôn nhân. Lấy chồng rồi ra chỉ là một động từ có qui tắc, được chia ở thì quá khứ. Còn cái bóng của hôn nhân thì ngày càng rợp, dày và rậm, che khuất mất ảnh thật. Gần như không còn sự hiện diện của người đàn ông mà tôi tưởng là để nương dựa. Kinh hoàng là từ hai tháng tuổi con bé đã bắt đầu có hơi thở rít, khẽ nhưng dồn dập. Giờ đây thêm một cây vĩ cầm, bộ ba chúng tôi hàng đêm tam tấu trong ánh đèn chong hình trái ớt màu đỏ cắm trong ổ điện đầu giường.


Ba tôi qua đời vì tắc đường thở không lâu sau đó, để lại gia tài cho đề cầm và vĩ cầm những tấu khúc hụt hơi. Để con nhỏ ngủ yên, ban đêm vác nó lên vai đi điệu slow vòng vòng trong nhà là chuyện cơm bữa, đặc biệt những đêm rằm. Ban đầu chẳng để ý, sau thấy không có cái Tết Trung Thu nào mà con bé thông thoáng hô hấp để chơi lồng đèn cho trọn, tôi bắt đầu tìm hiểu thêm về bệnh hen suyễn mà bấy lâu nay cứ ngu si cho là lao phổi vì…nghèo đói, thỉnh thoảng canh lịch âm, nhìn trời, rủa trăng. Strepto của thập niên 50, Vecenol, Chymocycline, Dilar, Franol, Periactin, Suprazid, Nicoscorbine, Bronco Piritisma, Sa sâm, Bản hạ, Bạch trì, Thúc sát… đầu thập niên 70, xuyên tâm liên dập viên và sâm đại hành xắt lát phơi khô những năm 80… tôi tọng vào người hằm-pà-lằng độc dược, tân dược, thảo dược, tiếp tục khò khè qua dăm trận tình nữa, vậy nhưng vẫn sống nhăn để nuôi con theo kiểu mình sống. Mười tám tuổi nó vẫn xẹp lép xanh dờn. Cuộc sống thiếu thốn khiến hai mẹ con xụi lơ, chẳng những trong nỗ lực chăm sóc sức khỏe mà cả trong nhu cầu vun bón tình cảm.


2.
Trong thang máy chỉ có hai người. Tôi ấn số 18, liếc thấy người kia bấm số 12. Chung cư Parkland được xây dựng từ những năm 90 của thế kỷ trước, gần như đồng thời với sự có mặt của trường quốc tế đầu tiên ở thành phố; so với các công trình cao cấp hiện nay thì nó đã có tuổi. Không riêng gì quận 2, khắp nơi trong nội thành cũng như ngoại vi người ta đua nhau xây cao ốc rao bán căn hộ ồn ào náo nhiệt như rau quả hay thức ăn nhanh. Tôi đã bỏ việc ở sở, đi dạy kèm tư gia, lê la từ nhà này sang nhà khác. Các gia đình trung lưu thành phố bắt đầu có khuynh hướng sính kiểu sống thực dụng theo phong trào. Họ gửi con cái học trường quốc tế, mướn gia sư, mua căn hộ trả góp tùy nhu cầu diện tích, tận dụng các dịch vụ tiện lợi mà một chung cư có thể cung cấp: nhà để xe, hồ bơi, phòng tập thể dục, siêu thị mini, sân chơi cho trẻ. Mỗi tuần tôi có hơn 20 giờ dạy cho con em các gia đình trong tòa nhà Parkland, học sinh trường IGS. Hai trò ở tầng 18, một trò ở tầng 12 và ba trò còn lại ở tầng 2. Giỏ xách máng một bên vai, hai tay chắp trước bụng, mắt ngó đăm đăm cánh cửa thang máy, tôi nghe ông ta phì phò ngay sau lưng, hơi thở phả mạnh vào gáy. Cái bóng phản chiếu từ cánh cửa hợp kim cho thấy người đồng hành tuổi xồn xồn, trang phục chỉnh tề, mắt hấp háy sau hai tròng kính dày, thần thái không tiết lộ nét chi đặc biệt.


Thang máy lên đến tầng 9 bất thình lình khựng lại nghe đánh phụp. Điện tắt ngúm tối đen. Tôi kêu:
-Á…a….
Ông ta gầm gừ trong cổ họng:
-Hừ…ừ…!
Mò mẫm trong túi xách, tôi móc ra cái điện thoại Nokia cùi bắp sắp hết pin, rị mọ một lúc mới bấm được nút đèn, xong ngoái lại nhìn người đàn ông. Trong hoạn nạn, cùng cảnh ngộ ai cũng là bạn mà. Vệt sáng yếu xìu vừa đủ cho hai người nhìn thấy nhau, nhòa nhòa như hình chụp lâu năm bị phai nước ảnh. Ông ta đưa mắt ngó tôi một lúc không nói gì. Ánh nhìn không chút hoảng loạn, trái lại nguội tanh vô hồn làm lạnh xương sống. Tôi tắt điện thoại để tiết kiệm pin, phòng khi hữu sự. Hai người đứng sựng không trao đổi thêm lời nào trong khối bóng tối đậm đặc hình chữ nhật. Bên ngoài không nghe động tĩnh. Định bấm số gọi tiếp tân nhưng rồi nghĩ có lẽ không cần thiết. Họ có máy phát điện nội bộ, và cũng thừa hiểu thang máy tòa nhà thường xuyên có người sử dụng. Ngoài ra, điện thoại thường mất sóng trong hộp kim loại kín.


Không trông thấy gì nhưng tôi đồ rằng người đàn ông đang bồn chồn không yên, sột soạt mò tìm thứ chi không biết. Lát sau ông ta thở gấp một cách bất thường. Không thiếu những kẻ sát nhân bỗng mất bình tĩnh trước khi ra tay. Ý nghĩ này làm tôi hoảng vía, lật đật bật đèn lên. Ánh sáng lu câm cho thấy ông ta đang lăm lăm trong tay một vật trông cưng cứng, có nòng. Gì đây? Án mạng trong thang máy? Muốn giết người thì cần chi chờ đến lúc cúp điện, bắn sao trúng? Trong một sát-na tôi đánh giá nhanh tình hình. Hăm dọa. Hãm hiếp. Bắt cóc. Cướp có vũ khi. Mấy thứ này phim Mỹ đã khai thác cạn tàu ráo máng, logic nằm ở chỗ vì sao nạn nhân lại là mình chứ? Nhưng không, ông ta đang lẩy bẩy kê nòng súng vào họng. Chán đời. Tự sát? Thang máy là chỗ thích hợp để tự kết liễu? Logic nằm ở chỗ vì sao biết trước nó sẽ ngưng đột ngột? Vì sao không tự sát khi nó đang hoạt động ngon lành; chỉ cần một khẩu Makarov thì ở đâu cũng được mà. Vì sao chọn mình làm nhân chứng chứ? Tôi la thất thanh:
-Á…a… bác làm gì vậy?


Spotlight hấp hối từ Nokia soi mờ mờ một hình nhân đang đứng im, lưng dựa vào mặt kính lắp trong thang máy, mắt nhắm nghiền, tay cầm báng súng tư thế lẫy cò ngược, miệng ngậm nòng súng, đầu ngửa trật ra phía sau, toàn thân rướn lên gom hết sức bình sinh hít vô thật sâu. Đinh ninh sẽ nghe một tiếng nổ chát chúa, tôi nhắm tịt mắt chờ, mọi giác quan phút chốc bỗng tê liệt, sau một lúc không nghe thấy gì bèn he hé mở mắt ra, tay run run giơ cao cái điện thoại cùi bắp soi thẳng bóng đèn nhỏ xíu vào mặt ông ta không chút nể nang. Vừa lúc đó vệt sáng chuyển sang leo lét rồi chết ngắc. Trong bóng tối chợt nghe giọng ông ta đứt khúc:
- Se…re…ti…de.
Mật khẩu gì đây? Giống nhân vật trong tiểu thuyết Dan Brown, thều thào...Il… lu… mi… na… ti …rồi tắt thở. Ông ta không tắt thở, trái lại, dăm phút sau đã bớt phì phò, phả hơi đều. Giọng phân trần, ông ta nói:
-Tụi này làm gì lâu lắc quá. Tôi mà bị nhốt bí hơi trong đây thêm 30 phút nữa là nguy. May có mang theo vũ khí, không thôi đứt bóng.
Rồi như sợ người nghe không hiểu mình nói gì, ông ta giải thích:
-Tôi bị suyễn kinh niên, Seretide như thần dược, đi đâu cũng mang theo kè kè. Vừa cảm thấy có dấu hiệu khó thở liền hít một liều thật sâu, nín hơi cho kín sau vài ba phút sẽ thấy hiệu nghiệm.
Tôi tẽn tò, e dè hỏi:
- Dạ, tên thuốc đó viết sao bác?
- Chà, cô giáo mà không biết tiếng Tây sao? Cô dạy con bé Kim ở tầng 12 chứ đâu. Tới chơi thấy cô hoài. Tôi là ông ngoại nó. Mẹ nó lấy chồng Hàn….
Cuộc trò chuyện trong bóng tối đến đây bị ngắt ngang bởi ánh đèn huỳnh quang vừa phựt lên. Thang máy rùng rùng vài cái rồi trượt nhẹ lên tầng 12. Ông già bước ra cửa còn ngoái lại, tay vẫy vẫy, thật hoàn toàn khác hẳn cái lão ngậm tăm mặt mũi lạnh tanh khi nãy. Giờ mới hiểu trước đó lão bị ngộp hơi nên chẳng thể nói năng chi, giống mình y đúc mỗi khi lên cơn. Thần dược đã khiến ông ta thân thiện, hoạt bát, thậm chí lắm lời.



Con gái được học bổng ở Anh. Xa nhà, nó viết thư kể huyên thuyên đủ thứ chuyện:….Con bê gia tài khò khè của ông Ngoại sang đây coi như hoàn toàn tương thích thiên thời địa lợi, của thừa tự tha hồ phát huy: lạnh, ẩm, mù mịt sương. Đi khám bệnh bác sĩ ra toa cho trúng phóc thứ vũ khí ở vụ án Seretide. Tên sát nhân trong thang máy năm nào không ai khác hơn là Kẻ Khai Sáng mà hai mẹ con mình không biết để kịp thời tung hô vạn tuế: Illuminati!!!!...


Trần Thị NgH
Gambetta, 08.2017














218
























thứ thất

Trần Thị NgH



– Không định ngoại tình đâu. Chính thất nền nã, nề nếp, hơi hoài cổ nhưng do cha mẹ chọn, vì chữ hiếu bỏ không được. Còn lấy chữ tình mà nói, tôi đã trải qua thời thơ ấu cùng với người này, tính cho đến ngày chính thức hợp hôn là ba mươi bốn năm, sinh con đẻ cái dây dưa phu thê vị chi là năm mươi ba năm. Sau khi phụ mẫu lần lượt qua đời, đúng vào thời gian gia đình lăn tăn sóng gió khiến phải ví dầu tình bậu muốn thôi, do trong số anh em cốt nhục tình thâm có kẻ muốn chiếm đoạt vợ mình, phận em út sinh sau đẻ muộn lại quen coi trọng cái tôn ti nên không dám rõ ràng thái độ, tôi chán nản nhân đó bỏ đi rồi sinh ra mây mưa với một em tuổi đời còn trẻ, tuy không xinh đẹp nhưng duyên, chỉ phải cái người hơi thấp, ngực nở mông to trông kém thanh tao hẳn so với nàng chính thất cao ráo thon thả lại có tính khí ẩn nhẫn, thường âm thầm niềm riêng.

Rõ ràng ngoài nghĩa tào khang chi thê, lia thia quen chậu, trong lòng tôi vẫn một mực yêu kính người xưa, lúc nào cũng đau đáu ngày về. Thì đó, sau vài năm lui tới mà không thể hợp thức hóa chủ quyền do vi phạm luật hôn nhân gia đình, kẻ thủ ác rút lui bỏ lại hoa tàn nguyệt tận. Tôi quay về dọn dẹp chiến trường, hốt rác, bón phân, tưới nước, bắt sâu, tỉa cành. Nàng cũ sì đi rồi. Bèo nhèo bạc nhược, nhưng cái hạnh vẫn thế. Đối với tôi nàng không chỉ đầu gối tay ấp mà còn đầm đìa một thứ tình khó tả, một hợp âm trầm bổng những mẫu tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu.

Đại tu rồi thì nàng như hồi sinh. Bạn bè người quen ai có dịp ghé thăm cũng khen thần sắc chị nhà ấm áp, tuy có hơi thô, mộc, do không son phấn màu mè nhưng vẫn toát lên cái vẻ ưa nhìn. Đấy cũng do hồn vía của những tháng năm gắn bó, lại phảng phất thêm phước đức từ cha mẹ ban cho. Vậy còn người con gái kia? Em vẫn vò võ. Không thể một kiểng hai quê, tôi phó thác em cho người tâm phúc nhờ sớm hôm bầu bạn, thỉnh thoảng ghé qua vun vén sự này việc nọ, thủ thỉ xin em độ lượng. Người tâm phúc hứa hẹn đủ điều khiến tôi yên chí em gặp quí nhân, do vậy mà lui tới thưa thớt dần đến mức gần như bặt tăm biệt dạng.

Vui vầy duyên cũ, tôi gần như quên mất sự hiện hữu của ái thiếp, cho đến một ngày kẻ tâm phúc sinh lòng tà. Hắn vùi hoa dập liễu rồi quất ngựa truy phong. Khi biết chuyện, ngó ngoái giật mình thấy đã bảy năm. Tôi gần như mất trắng, chỉ còn biết ôm cái xác ngắc ngư của người em gái nhỏ bị chính mình bỏ rơi; chậc, thật không khác chi thứ phi thất sủng trong truyện ngôn tình…

– Ấy da, sốt ruột! Chị kể chuyện hai cái nhà của chị mà réo rắt mùi rệu như ca cải lương. Mọi khi ngắn gọn sao dạo này sinh tật cà kê? Thấy chị thường xuyên sống với vợ lớn, vậy bà vợ bé sao rồi? Nghe chị tả ngực nở mông to chắc bề ngang căn nhà rộng hơn 4 mét, còn bề dài ngắn hơn 16 mét – ý là tôi so sánh với bà chính thất nhà ống thon thả, tính khí ẩn nhẫn, âm thầm niềm riêng, cái tổ ấm trong hẻm nhỏ yên tĩnh mà tôi đang ngồi với chị đây.

– Bà chị nói đúng quá. Bề ngang 5 mét rưỡi, bề dài 9 mét. Hồi huynh đệ tương tàn tranh chấp tài sản thừa kế, tôi sầu đời bỏ ra ngoài thuê nhà ở riêng. Gặp trúng em này, xinh nhưng…lùn. Đúng ra thì không đến nỗi cụt ngủn nhưng do chính quyền chủ trương mở rộng hẻm xắn mất đi cái sân, lúc đó có cây lão mai sừng sững ngay mặt tiền coi nghiêm lắm. Hẻm nở sáu mét thành ra xe cộ ngày đêm rần rần, làm sao ẩn nhẫn âm thầm niềm riêng? Thuê được hai năm thì chủ nhà cần tiền đòi lại cơ ngơi để bán tháo bán đổ nên tôi nhân tiện mua đứt cho rồi, do cũng hết muốn rày đây mai đó cơm đường cháo chợ.

-Thằng cha sở khanh mà chị “bán cái” con vợ bé để quay về với vợ lớn là tay nào mà đoảng vậy?

– Là cha thuê nhà. Mới ở được nửa năm thì phu nhân có bầu hạ sinh được một hoàng nam, mừng húm, bảo ở nhà này hên, đẻ được con trai mà làm ăn cũng khá ra, vậy nên xin mua luôn căn nhà nhưng kẹt chưa có tiền, thôi để thủng thẳng gom đủ sẽ mua; trong thời gian dành dụm vẫn xin được đóng tiền nhà đều đặn. Nghe vậy cũng được nên cứ để vậy, thậm chí không thèm dòm ngó hay hối thúc, nghĩ trước sau gì thằng chả cũng là người sở hữu.

– Rồi sao bỗng dưng quất ngựa truy phong? Quỵt tiền nhà hả?

– Không phải. Thấy dành dụm gì mà 7 năm vẫn chưa đủ nên một hôm tôi tạt qua hỏi thăm. Thường khi tháng nào hắn cũng đến tận nơi tôi ở, nộp tiền nhà đúng hẹn, thỉnh thoảng lại tự ý lên giá thấy thương luôn. Đúng là tâm phúc. Nhưng eo ơi, bữa đó thình lình ghé đại nhìn lại bồ nhí thấy ái nương tang hoang bắt tội: góc nhà nào cũng thấm nước loang lỗ, trần ván ép bị mối ăn ngoằn ngoèo ngó như bản đồ chuyên đề sông rạch, đồ đạc để lại cho vợ chồng con cái hắn dùng, cái sứt ngoe cái gẫy gọng, điêu tàn như hậu chiến….Lại còn nghẹn ngào tức tưởi, thôi bây giờ xin thưa thật với chị tụi em không mua nhà nữa vì gom hoài không xiết, muốn bứt cả gân.

– Thứ đó phản phúc chứ tâm phúc gì! Kinh nghiệm dân gian cho thấy người thuê nhà nào cũng phá nhà thuê là lẽ thường tình. Vậy rồi chị đuổi cổ quí nhân hay tự hắn hổ thẹn cuốn gói ra đi?

– Thật ra tôi tế nhị tạo điều kiện cho vợ chồng hắn… sải ngựa bắt gió. Xong rồi rao bán, chứ cho thuê thì tôi tởn tới già. Nhưng cái tạng không thích mặc cả bán buôn nên sau vài mối kèng cựa cù cưa tôi nổi xung thiên cho đập toàn bộ, xây mới.

– Giờ chị ở với bà nào là chính?

– Chính thất thì vẫn cứ là chính, nhà của cha mẹ cho nên thỉnh thoảng lại bùi ngùi nghĩ đến chuyện có lúc đến nước phải gom về một mối. Lúc đó chắc sẽ phụ rẫy bớt một nương. Hiện giờ hở ra là tôi lẻn đến thăm em út. Cảm giác kỳ lạ lắm, vừa hèn hèn vừa ngài ngại vừa thông thống hoan lạc. Khoảnh khắc tận tụy với em này cũng là lúc lương tâm dày vò bởi thiếu sót với em kia. Adrenaline trồi lên tuột xuống dìu dặt lúc nhặt lúc khoan. Nay mới hiểu vì sao đàn ông sính có vợ bé, khoái lập phòng nhì. Đây, ngó qua vài tấm chân dung ắt biết.

– Chao, thứ thất của chị không yêu không được. Vừa trẻ đẹp vừa được chăm chút từng cọng tóc sợi lông. Nét nào cũng gợi, làm mê mẩn. Xiêm y áo xống cây cảnh xanh rì đâu có thua gì chính thất.

– Bởi vậy, mưa thì thôi, hôm nào chỉ mới nắng hườm hườm là tôi đã nhấp nha nhấp nhổm. Có khi sáng thấy chang chang bèn hớt hơ hớt hải nhào tới xịt cho tụi nó một trận bí tỉ, chiều mưa rầm rầm thế là quắc cần câu, úng thúi cả đám.

– Tự mình bày ra lu bu ráng chịu, chớ than. Hỏi thật, chị ôm thêm một em để làm gì khi mà đang sống đoàn viên với người chị đã thâm niên khắng khít?

– Thì như nãy giờ tôi tỉ tê đó; hoàn cảnh đưa đẩy mới ra nông nỗi. Tuy lu bu lắng quắng tình tẹo tay ba nhưng vui vầy hết biết. Mốt bây giờ người ta có nhà thành phố để đi làm đi học, cuối tuần về biệt thự ngoại ô nghỉ ngơi thư giãn; còn tôi chỉ cần đi bộ 10 phút là gặp vợ bé, cùng quận cùng phường.

Trước đây trong thứ thất này tôi có mối tình tan nát với một thằng cắc ké trẻ hơn tôi 18 tuổi. Nó như thợ đào giếng khui trúng mạch nước ngầm làm tôi trào xịt lênh láng. Dạo ấy đã tâm niệm về sau một trong những điều phải làm trước khi chết là biến căn nhà thành đài tưởng niệm, nhà truyền thống, cung văn hóa hoặc bảo tàng viện chiến tranh để tưởng nhớ mùi hương, nghe lại dư âm. Cho thuê hay rao bán thực ra chỉ là tiềm thức hoãn binh. Giờ coi như mãn nguyện. Đây, xem ảnh này bà chị sẽ thấy tầng áp mái đã được thiết kế như một tịch cốc, nơi không còn nghe tiếng xe chạy hay tiếng rao hàng. Tĩnh lặng tuyệt đối; có khi ban đêm còn nghe trầm trầm vọng ra từ trong tường gạch giọng nó mùi mẫn hát tình ca. Hôm nào mời bạn hiền ghé chơi tệ xá, tự khắc sẽ hiểu vì sao mà tôi đắm đuối ngoại tình.



Trần Thị NgH





















con con một mẩu bánh mì.

Chuyển ngữ từ truyện ngắn 
Un petit morceau de pain của Agnès Ledig.

















bob dylan vs nobel

Trần Thị NgH
5.12.2016













Ở tuổi 55, Nobel – nhà vật lý, kỹ sư, nhà phát minh người Thụy Điển – đang sống phây phây với số tài sản kếch sù nhờ 355 bằng sáng chế trong đó cộm cán nhất có món thuốc nổ. Một buổi sáng bình thường của năm 1888, ngài đang tà tà vừa uống cà-phê vừa đọc nhật trình, đùng một cái đọc thấy cáo phó mang tên mình trên báo với cái tựa làm hết hồn: Kẻ kinh doanh cái chết đã chết. Tin giật gân được phát tán 8 năm sớm hơn thời điểm Nobel thực sự qua đời.

Trong 8 năm này Nobel trăn qua trở lại, ngủ không yên ăn không ngon. Mẩu cáo phó đã làm thay đổi cái nhìn của ông về bản thân và về tha nhân, đồng thời khiến ông băn khoăn nghĩ đến cái cách mình sẽ được người đời tưởng nhớ sau khi cưỡi hạc qui tiên. Một năm trước khi qua đời ở tuổi 63 Nobel ngồi rị mọ viết đi viết lại di chúc, bản sau cùng đã được ký ở Swedish-Norwegian Club, Paris ngày 27 tháng 11 năm 1895, với ước nguyện dành 94% tài sản của mình cho các giải thưởng được trân trọng trao cho đoàn thể hoặc cá nhân nào có đóng góp lớn cho lợi ích nhân loại. Từ năm 1901 đến 2015, đã có 573 lần trao giải cho 23 tổ chức và 870 cá nhân trong đó có 48 phụ nữ.

Chào đời năm 1941 khi thế chiến thứ hai đang tơi bời máu đổ thịt rơi với xe tăng, tàu bay và bom nguyên tử, Bob Dylan nhỏ xíu đâu có biết trời trăng gì về cái giải này. Chiến tranh kết thúc khi chàng chỉ mới 4 tuổi, học mẫu giáo, thậm chí còn chưa biết đánh vần. Chàng lơn tơn lớn, lang thang hát dạo, đàn từng tưng, thổi khẩu cầm dặt dìu, nghêu ngao cùng Joan Baez. Rồi đùng một cái tuổi thanh niên bỗng rần rần nhiệt huyết, bỗng nổi dóa vì những viên đạn hãy còn bay lạc vào đầu những người vô tội. Rải rác khắp nơi trên thế giới người ta vẫn nghèo khổ, vẫn đau đớn vì mất mát, vẫn chạy thục mạng tìm chỗ dung thân ở cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vẫn hoang mang về lý tưởng sống và tương lai gần. Ngoái nhìn lại bọn đầu têu, kẻ chủ mưu, bọn kinh doanh cái chết, chàng điên tiết, phẫn nộ, đay nghiến:







Come you masters of war
You that build all the guns
You that build the death planes

You that build all the bombs
You that hide behind the walls
You that hide behind the desks
I just want you to know
I can see through your masks

You that never done nothing
But build to destroy
You play with my world
Like it’s your little toy
You put a gun in my hand
And you hide from my eyes
And your turn and run farther
When the fast bullets fly.

Like Judas of old
You lie and deceive
A world war can be won
You want me to believe
But I see through your eyes
I see through your brain
Like I see through the water
That runs down my drain
You fasten all the triggers
For the others to fire
Then you set back and watch
When the death count gets higher
You hide in your mansion’
As young people’s blood
Flows out of their bodies
And is buried in the mud.

You’ve thrown the worst fear
That can ever be hurled
Fear to bring children
Into the world
For threatening my baby
Unborn and unnamed
You ain’t worth the blood
That runs in your veins.

How much do I know
To talk out of turn
You might say that I’m young
You might say I’m unlearned
But there’s one thing I know
Though I’m younger than you
That even Jesus would never


Forgive what you do.

Let me ask you one question
Is your money that good
Will it buy you forgiveness
Do you think that it could
I think you would find
When your death takes its toll
All the money you made
Will never buy back your soul.

And I hope that you die
And your death’ll come soon
I will follow your casket
In the pale afternoon
And I’ll watch you while you’re lowered
Down to your deathbed
And I’ll stand over your grave
‘Til I’m sure that you’re dead.






Này bọn đầu têu chiến tranh
Các người chế ra súng đạn
Phi cơ giết người

Bom mìn
Các người núp sau những bức tường
Các người ẩn sau bàn giấy
Nói cho mà biết
Ta có thể nhìn thấu các bộ mặt giả trá

Các người chẳng được trò trống gì
Ngoài việc làm ra những thứ để tàn phá
Các người đùa giỡn với thế giới của ta
Như một món đồ chơi
Các người ấn vũ khí vào tay ta
Tránh nhìn thẳng vào mắt ta
Rồi quay lưng và bỏ chạy đi xa
Khi những viên đạn lướt bay.

Giống Judas thuở xưa
Các người láo khoét và lừa lọc
Các người muốn ta tin rằng
Chiến tranh thế giới có thể thắng
Nhưng ta nhìn thấu trong mắt các người
Ta nhìn thấu ý nghĩ các người
Như ta nhìn thấu dòng nước
Đang chảy xuống mương rãnh
Các người cài cò súng
Để cho người khác bắn
Rồi ngồi dựa ngửa chờ xem
Khi số thương vong ngày càng tăng
Các người trú trong nhà cao cửa rộng
Trong khi máu những người trẻ tuổi
Tuôn khỏi cơ thể
Chìm trong bùn lầy.

Các người đã gieo rắc sợ hãi
Tồi tệ chưa từng có
Nỗi sợ hãi phải cho chào đời
Những đứa trẻ
Các người đã làm khiếp đảm đứa con
Ta chưa sinh ra và chưa đặt tên
Các người không xứng đáng với
Dòng máu luân lưu trong huyết quản.

Làm sao ta biết được
Nói bao nhiêu cho vừa
Các người có thể cho ta còn trẻ dại
Các người có thể cho ta vô học
Nhưng dù non kém hơn các người
Ta vẫn biết chắc một điều
Rằng thậm chí Chúa Giê-su
Cũng sẽ chẳng bao giờ
Tha thứ cho hành động của các người.

Cho ta hỏi một câu
Tiền bạc các người nhiều đến thế
Có mua được chăng sự tha thứ
Có mua được không chứ
Rồi các người sẽ ngộ ra thôi
Khi thần chết gọi tên
Tất cả của cải các người làm ra
Sẽ chẳng mua lại được sự sống.

Ta mong cho các người chết đi
Và chết mau mau đi
Ta sẽ đi sau quan tài các người
Trong buổi chiều nhợt nhạt
Nhìn các người
Được hạ xuống mộ phẩn
Ta sẽ đứng trên lỗ huyệt
Cho đến khi cầm bằng các người đã chết.



Trên đây là Masters of War, bằng ghi-ta mộc quàu quàu theo giọng rè rè dạy đời, chàng càm ràm, hằn hộc, tức tối. Tức cành hông như vậy thì mặt mũi đâu mà đứng trên bục danh dự xòe tay ra nhận một triệu đô từ cái kẻ đầu sỏ chiến tranh, dù là qua trung gian các vị thừa hành – trừ phi bây giờ chàng đã nguôi giận rồi, vì già và mệt rồi. Thôi bàn mà chi văn chương là gì, ranh giới giữa ca từ và thi ca nằm ở đâu, đường chân trời của giải Nobel gạch ngang ở chỗ nào, hay kinh độ vĩ độ của hàn lâm là mấy.


Trần Thị NgH
11.2016








Chuyện ma














Phần mềm


Sau khi mua lại khu đất mênh mông ôm trọn một góc ngã tư, nhà thầu xây dựng FS đã đền lại cho các chủ nhà, vốn là dân thường trú kỳ cựu của khu vực, những căn hộ tương đương về diện tích lẫn tiện nghi, đối xứng với vị trí trước đây, chỉ cần đứng chờ đèn đỏ để băng qua đường. Với dự án chung cư 4 tầng gồm 56 căn hộ cao cấp có hai ba mặt bằng thương điểm, người ta đã đập tan tành khu nhà cũ, trong đó có vài biệt thự cổ với vườn tược um tùm dây leo, hoa trái, bóng mát tilleul và vân vân. Thật là uổng nhưng mà… Tất nhiên lợi nhuận phải được cân nhắc và chia đều cho hai bên đối tác.



Nhằm mục đích phát triển kinh tế ngoại vi Paris, đây là chương trình đô thị hóa xóm Petit Châtenay, thị xã Châtenay-Malabry, biến các ngôi nhà vườn bình dân của nửa thế kỷ trước thành những ô chuồng bê-tông cốt sắt. Chủ nhà là các cụ cổ lai hy không trông mong gì bọn hậu duệ thời đại thực tiễn sẽ hăm hở thừa kế di sản ông bà cha mẹ, hiểu ở nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, đành phải lui cui cuốn gói vô viện dưỡng lão hoặc đến ở chỗ thích hợp hơn với tuổi tác cho con cháu hưởng gia tài mỗi đứa một miếng từ hợp đồng đổi đất.

Từ nhà mới, nếu mở cửa kính cách âm bước ra ban-công có thể nhìn thấy rõ rành rành công trình tái thiết bên kia đường, máy móc vận hành rầm rầm từ sáng đến chiều trừ hai ngày cuối tuần; thợ thuyền làm việc đúng giờ, không thấy ai lãng công đùn việc hay đứng lóng ngóng hút thuốc lá, râm ran chửi thề hoặc bất thình lình ré lên ca vọng cổ hát nhạc tạp như nhóm nề, mộc, hồ, điện, nước ở cái nhà đang được xây mới của hàng xóm trong hẻm Nguyễn Kiệm, khởi công từ 3 tháng trước, hiện còn chàm nhàm. Đúng là chạy ô mồ mắc ô mả. Nhưng chủ quan lẫn chủ bại mà nói, bụi thực dân hình như sạch hơn bụi tư bản đỏ và nghèo. Gửi điện thư về hỏi thăm người nhà nghe báo họ đã đổ xong tấm thứ ba, đang trong thời kỳ tô trét; nhân công vẫn tụ tập đánh bài trong giờ giải lao và nhậu dô, dô mỗi cuối tuần. Như thường lệ, nhà thầu phải cắt người canh giữ gạch đá máy cắt tay quay sợ trộm ban đêm, tuy chính bản thân nhà thầu gian trá vật tư ban ngày. Hy vọng trong 3 tháng nữa nạn nhân từ 34 hộ gia đình của tổ dân phố 2 sẽ không còn phải hứng vôi vữa hay nghe gõ đập chan chát do xây hỏng xây lại, điều chỉnh thiết kế, thay đổi lực lượng lao động, ngưng trệ do sai bản vẽ, vi phạm chiếm lấn lòng hẻm chung, thiếu sót nghĩa vụ chung chi cán bộ quản lý đô thị.

Châtenay-Malabry, ven đô, đúng là biệt đãi.

Năm phút bus 379 đến ga La Croix de Berny, 30 phút ngồi RER để ra Paris. Cần mua lặt vặt đã có 8 à HuiT bên kia đường; hoặc siêu thị Lidl của Đức cách chỗ ở 4 trạm bus 195, đi bộ tà tà 20 phút; hoặc siêu thị Casino 2 trạm bus 195 ở hướng ngược lại, đi bộ lững thửng 10 phút. Tàng tàng 15 phút về phía Sceaux sẽ gặp công viên bao la, nơi khách nhàn du có thể xoải ngửa trên cỏ buông toàn thân cho chìm chìm đến mê. Từ chỗ này lang thang hành hương về Antony sẽ gặp công viên Heller, hoa lá cây cối được tỉa tót uốn éo như hàng thêu tay.

Một mình trong 70 mét vuông đầy đủ nồi niêu soong chảo bình nấu nước sôi nồi cơm điện lò nướng lò vi ba, gạo Thái Lan, mì Tàu ăn liền, bún khô các loại, bánh xếp bánh bột lọc bánh khọt đông lạnh, nước mắm Phú Quốc nhập từ Việt Nam. Tường phòng khách treo oằn hai bức bột màu trên gỗ, trấn 3 góc là tượng thạch cao khỏa thân, đầu kệ sách một bức sơn dầu rất Đỗ Quang Em nhưng hóa ra không phải. Phòng đọc nhồi trùng điệp sách tây sách ta cổ điển lẫn hiện đại. Collection CD nhạc hòa tấu cổ điển bất thình lình chen chúc Marilyn Monroe, Pavarotti, Celine Dion, Eliane Elias, ca trù nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc, độc tấu piano Trịnh Thị Nhàn, tài năng trẻ đang lên Lê Cát Trọng Lý. Với khối lượng đồ sộ các loại thực phẩm vật chất lẫn tinh thần này, khách trọ có thể sống hùng sống mạnh chẳng những trọn mùa hè mà còn leo qua thêm ba mùa nữa. Tạ ơn Trời, chẳng biết có phải ở hiền gặp lành?

Quả báo nhãn tiền là, trong khi cây cối ở nhà đang được người khác tưới bón chăm sóc hộ, khoảng hơn chục chậu hoa lá các loại ngoài ban-công cơ ngơi này sống chết là do trách nhiệm của người ở trọ. Mỗi ngày rình đúng giờ mặt trời mọc qua khe cửa sổ phòng ngủ phía Đông Bắc, choàng dậy xuống bếp bấm cái cạch bình nấu nước sôi. Tưới cây trong khi chờ nước reo lục bục.

Ngồi vào bàn ăn không biết ngó gì bèn ngó ra cửa kính quan sát từng chi tiết công trình xây dựng bên kia đường: lẩn thẩn đếm tới đếm lui sảng hồn thấy chỉ có 13 công nhân cho một dự án đồ sộ trong khi một căn phố hộp chưa đến 60 mét vuông trong hẻm nhỏ Phú Nhuận tấp nập đến 10 thợ chưa tính cai; cần cẩu tòn teng dây xích móc sắt chưa thấy gẫy sập gây thương vong; đảo mắt vòng vòng không phát hiện băng-rôn in to khẩu hiệu AN TOÀN LAO ĐỘNG LÀ TRÊN HẾT. Bọn này ẩu thật, vậy mà tiến độ nhanh đều từng ngày. Nhoáng một cái đã thấy đè trên tấm bê-tông thứ nhất, mới đây còn lỉa chỉa cọc sắt, hơn một ngàn mét vuông sắc sảo tinh tươm của tấm thứ nhì; tự nhủ phải chi mình ở trong nghề, chắc chắn sẽ chụp giựt học lóm vài bài mang về lên lớp mấy ông cai thầu ở nhà cho bõ ghét.

Cà-phê tan nhanh là để uống nhanh cùng bánh mì xắt lát trét bơ nhanh nhanh. Điểm tâm không có nhẩn nha bánh cuốn chả lụa, hủ tiếu Nam Vang, phở bò phở gà, xôi gấc thịt quay, rồi vắt vẻo cọng tăm ở một góc mép với một vuông hành lá còn vương đâu đó trên răng, cứ vậy mà lăn tà tà đến nơi làm việc. Nhai nuốt theo kim dài chỉ phút để còn kịp đón xe bus ra ga. Thời dụng biểu và lộ trình các phương tiện công cộng ở đây không chịu uyển chuyển theo lịch kẹt xe hay lịch đua xe về bến. Thắng cái kịt! Thế là trúng phóc vô mặt đồng hồ. Vô cùng trật tự, từng người đút vé vào máy cho chạy tẹt tẹt. Ngay trên màn hình bên ngoài đầu xe có chạy chữ: tôi lên xe, tôi bấm vé; vào bên trong xe lại thấy rải rác lời nhắc nhở: tôi bấm vé rồi, bạn làm chưa? Thỉnh thoảng gặp một câu y như tục ngữ dạy đời: một lộ trình thú vị, một lương tâm yên ổn, y chang một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện. Gây áp lực kiểu này ai không đút vé vào máy trong người thấy nhấp nha nhấp nhổm, cảm tưởng như tất cả hành khách trên xe đều đang chăm chú nhìn soi bói cái kẻ đi lậu. Không ai bán vé soát vé, chỉ có mình với ta, với cái gọi là lương tri. Mình với ta ở đâu cũng có, nhưng cái còn lại thì nơi có nơi không.

Cuối tuần đẹp trời, sau những ngày làm việc mờ hai con mắt, do phải thắt lưng buộc bụng theo ngân sách eo hẹp, thay vì cà phê cà pháo shopping siêu thị hẹn hò ăn nhậu, khách trọ buồn tình bỏ căn hộ ấm cúng ra ngoài ngồi lớ ngớ trên một băng ghế ven đường ngó ông đi qua bà đi lại, chân bắt tréo, tay thọc túi áo khoác trong thời tiết man mác 18 độ, không làm gì ăn gì nghĩ gì nhớ gì nên rất đã đời. Bên phải là 8 à HuiT theo mô hình 7-Eleven của Mỹ, nơi dân chúng lười đi chợ có thể mua đại khái nhu yếu phẩm các loại từ 8 giờ sáng đến 8 giờ tối; hơi xa xa bên trái là tiệm bán quần áo trẻ con Du pareil au même – từ giông giống đến đung đúng; chuyển ngữ cà rỡn cho vui thôi, chủ quan suy diễn có lẽ người chọn tên hiệu tự tin nghĩ rằng với nhãn mác của chúng tôi người tiêu dùng sẽ tìm thấy nếu không đúng thứ mình muốn thì cũng có được một cái gì gần gần như thế. Ở trạm bus gần đấy, áp-phích quảng cáo nước trái cây Tropicana in hình một người đẹp đang cười rạng rỡ tay cầm cái chai trong veo sóng sánh chất nước vàng hực: gorgée de soleil – một ngụm mặt trời, nghe thật thanh lịch, văn học, lãng mạn. Trời đang nắng chang chang bỗng thấy đã khát vì được ực một ngụm ảo giác màu ánh dương. Không thấy khẩu trang găng tay vớ cao váy trùm đùi mũ bảo hiểm, không nghe tiếng còi xe hối hả tức tối hung hãn trong nắng nhiệt đới, không ngửi thấy mùi xăng mùi mồ hôi mùi thức ăn mùi cống bí thoát. Chỉ thấy đùi dài, chỉ nghe xin lỗi cám ơn đầu môi chót lưỡi, chỉ hít no phổi hương trời đất cỏ hoa trộn lộn Chanel, ngào ngạt trái chín từ Burberry, gừng quýt lài mơ từ Lancôme, lê bưởi mộc lan từ Tommy Hilfiger.

Mơ màng cho cố chỉ để tỉnh ngộ sau đó không lâu. Thèm đồ châu Á thử đi chợ quận 13 sẽ biết đá biết vàng. Rau muống năm bảy chục ngàn/bó nửa ký; phở hai trăm năm chục ngàn/tô; gạo thơm bốn trăm năm chục ngàn/5 ký; chuối sáu chục ngàn/5 trái; phí chung cư bảy triệu/tháng cho căn hộ 1 phòng khách, 2 phòng ngủ, bếp, phòng tắm, nhà cầu; studio 20 mét vuông thuê trọ mười lăm triệu/tháng, mua đứt giá hai tỉ rưỡi chưa tính công chứng thuế má; quả tang vứt đuôi thuốc lá nơi công cộng trả phạt một triệu bảy trăm; đậu xe chỗ cấm đóng phạt năm triệu… Lương tối thiểu phải bốn chục triệu/tháng mới lây lất nổi nếu biết giật gấu vá vai; nhưng ai sẽ mướn nếu không phải là dân thường trú, ở đó mà ngây ngất với văn minh thanh lịch! Làm công quả ở chùa ăn cơm Phật, cho dù quy y trốn lính, cũng phải có thẻ cư trú, thẻ an sinh xã hội, thẻ bảo hiểm, thẻ y tế, sổ sức khỏe, thẻ giảm giá các phương tiện công cộng dành cho sinh viên, người cao tuổi, tàn tật hoặc đông con…Để có được các thứ giấy thông hành này, xin mời ra Sở Cảnh Sát Đô Thành rút số ngồi gục mặt chầu chực chờ đến lúc trúng số để xin làm công dân lương thiện. Thôi xong việc thì xách va-li bay về nhà cho rồi. Phí tuổi xuân làm chi cho cái ổ cứng thuộc hành chính pháp lý? Lãng mạn tính sau đi.



Trần Thị NgH
Châtenay-Malabry, 07.2015




Trần Thị NgH










ác tính

Trần Thị NgH





Sam Kurger đóng quyển sổ tay Moleskine của mình lại và cài đánh tách sợi dây cao-su bọc ngoài cái bìa da mềm. Không có gì đáng ghi chú về Monica. Anh không hiểu sao cô này cứ ngoan cố tìm đến anh để tư vấn. Có thể là có cái chi đó, anh cũng không chắc lắm, nhưng do anh sơ suất đến mức sai phạm trầm trọng trong chuyên môn chăng? Với tư cách một nhà điều trị tâm lý, nhiệm vụ của anh là làm cho cô ấy hiểu rằng cô chẳng có gì phải cần đến anh, rằng cô đã trả tiền cho một tiếng đồng hồ chỉ để mua sự quan tâm của anh về các vấn đề mỹ phẩm, một tiếng đồng hồ để trả tiền cho việc phó thác tâm sự, không có thứ gì trong những điều được bộc bạch phải cần đến một chuyên gia cả. Monica cần một bạn gái thân thiết để lắng nghe cô ấy mà không ngắt lời, thế thôi, và Sam được trả tiền để làm cái người bạn thiết đó, để cổ võ và để giúp cô ấy thỏa thuê bày tỏ.

Kurger lắc đầu. Đối với anh, đó là một buổi tư vấn nhẹ nhàng với đồng tiền dễ kiếm, điều không lấy gì làm đẹp đẽ cho bản thân anh. Nghĩ cho cùng, trong vụ này chẳng ai gian dối lừa lọc chi, kể cả Monica…

Anh xem lại sổ tay và thấy đã đến giờ hẹn với một bệnh nhân mới, Patrick Hores. Qua điện thoại ông này nghe giọng có vẻ lạ vì cứ khăng khăng xin được gặp khẩn. “Đây là vấn đề sống chết”, ông ta nói. Kurger không có thói quen giải quyết gấp các vấn đề tâm lý kiểu này, nhưng trước giọng nài nỉ tha thiết, anh đồng ý dành cho ông ta 2 giờ trống của một cái hẹn đã dược hủy trước đó. Dù gì đi nữa, nếu ca bệnh không nằm trong khả năng giải quyết của mình, anh có thể chuyển cho một trong những đồng nghiệp cùng chuyên môn. Nhưng theo kinh nghiệm, anh thấy phần lớn các bệnh nhân mới chớm bệnh thường tự thấy mình “bệnh” nặng hơn chính họ thật sự bệnh. Con người luôn tưởng tượng ra những điều tệ hại.

Kurger đứng dậy ra khỏi phòng để tìm Patrick Hores trong phòng đợi không lấy gì làm rộng rãi ở cuối hành lang. Khi mở cửa, Kurger làm một bước lùi nhưng rồi cố kiềm chế không để lộ sự ngạc nhiên.

Patrick Hores đang đứng hướng ra cửa, trán đẫm mồ hôi. Ông ta choán mất nửa căn phòng. Đúng ra là chiếm cả nửa diện tích phòng đợi. Cơ thể Hores bề thế, kích thước đồ sộ đến mức Kurger ngẩn người ra tự hỏi cái ông này, mập đến như vậy làm sao mà lọt người qua cửa được. Ông ta đã vào bằng cách nào?

– Ông Hores?

– Cám ơn bác sĩ, cám ơn đã nhanh chóng đồng ý tiếp tôi…

– Về chuyên môn, tôi không phải bác sĩ.

– Có gì khác đâu! Tôi đến gặp anh để được nghe anh nói cho biết liệu tôi có mất trí không; theo lời một người bạn đáng tin cậy, anh là người rất có năng lực.

– Rất vui được khen ngợi. Xin vui lòng theo tôi, tốt hơn ta nên vào phòng làm việc trong kia.

Trên đường đi, Kurger tự hỏi sẽ để cho ông này ngồi đâu, rồi thì anh chọn chiếc ghế dài lưng chếch. Ông ta không thể ngồi lọt vào cái ghế bành có lưng tựa được. Nhà điều trị tâm lý nhẹ nhàng bước vào căn phòng mát dịu, những tia nắng xuyên nghiêng, ánh sáng bị chẻ sọc qua các lá sách bằng gỗ ốp trên các cánh cửa sổ kiểu Ý; anh quan sát Hores bứt người ra khỏi hành lang để ấn toàn thân vào phòng làm việc của anh. Cứ như ép xác. Ông ta đẩy một chân tới trước để giúp cho một phần thể tích đồ sộ của cơ thể lọt vào, trong khi chân kia lôi thêm phần còn lại, cái bụng khổng lồ bị cạ nghiến vào lối đi như một bịch cát bị nén. Hores có kỹ thuật riêng, như đã rất quen với việc này.

– Xin mời ngồi đây, vừa nói Kurger vừa ngồi vào chiếc ghế bọc nhung của mình, và xin vui lòng cho biết điều gì đã khiến ông nghĩ rằng mình có thể bị loạn trí.

– Có hai cách lý giải vấn đề của tôi, anh Kurger. Gọi anh là Kurger có tiện cho anh không?

Bằng một động tác tay, Sam Kurger mời ông ta nói tiếp. Hores buông lún người xuống ghế dài, tất cả lò xo rên lên.

– Hoặc tôi là một thằng điên, hoặc…

Hores nhìn xuống, bối rối, sau đó ánh mắt rơi chìm mất tăm dưới tấm thảm trải sàn.

– Hoặc …? Kurger kiên định.

– Hoặc là tôi bị quỷ nhập.

Nghe đến đây Kurger nhướng mày, đặt khuỷu tay lên thanh dựa, tì nọng cằm của mình vào giữa ngón cái và ngón trỏ.

– Ông có thể cho tôi biết cụ thể ý ông muốn nói gì khi cho rằng mình bị “quỷ nhập”?

– Tôi…tôi nghĩ tôi bị ám bởi chuyện ăn uống của chính mình, thưa bác sĩ.

Kurger khó chịu. Ông ta không chịu bỏ đi hai chữ “bác sĩ”, thôi kệ, lỗi này cũng phổ biến thôi, nhưng việc bị chính các thứ mình ăn uống ám vận vào người thì quả là chưa từng thấy.

– Ý ông là sao khi dùng từ “ám”? Kurger muốn cụ thể hóa vấn đề để hiểu đúng điều mà họ đang bàn bạc.

– À…ám như một căn nhà cũ bị ám bởi những con ma của quá khứ. Ám như trong các phim kinh dị đó.

– Ông muốn nói: bởi một sức mạnh siêu nhiên?

Kurger nhấn mạnh từ siêu nhiên để xác quyết điều anh muốn ám chỉ. Hores mím môi, gần như xấu hổ, trước khi e dè thừa nhận. Một lớp mồ hôi rỉ ra lấp lánh trên trán ông ta.

Kurger hơi thụng sâu người xuống ghế, miệng méo xệch đi bên dưới nắm tay đang chống vào một bên má. Anh ngại đi sâu hơn hoặc phải chuyển ca đặc biệt này đến một địa chỉ thích hợp hơn và chuyên môn hơn. Mình sẽ cho ông ta một giờ, đó là hiệp ước song phương kể từ lúc ông ta bước chân vào đây. Vai trò của mình là lắng nghe và giúp ông ta chốt lại vấn đề.

– Điều gì khiến ông có ý tưởng…bị quỷ ám?

Hores không tìm cách giấu đi sự khó chịu. Chuyện này làm cho chính ông ta mệt mỏi. Thường thì không ai trong trường hợp tương tự lại tìm đến các nhà điều trị tâm lý. Ông hít một hơi sâu để lấy thêm can đảm rồi đi thẳng vào đề:

– Anh biết không, tôi chưa bao giờ theo đạo này hay đạo nọ, ba cái vụ thánh thần không hợp tạng của tôi. Tôi cũng chưa bao giờ cổ xúy hay mù quáng tin vào những điều không bình thường, không hề. Nhưng chuyện này…

– Có những sự kiện gì mà ông còn nhớ có thể giải thích được việc ông thay đổi đức tin?

Hores nhìn thẳng vào người đối diện và gật đầu.

– Nếu không có thì bản thân tôi đã không tin.

Kuger làm cử chỉ ra hiệu cho ông ta nói tiếp.

– Cách đây một năm rưỡi tôi cân nặng chưa quá chín mươi bảy ký.

Nghe đến đây Kurger nhướng một bên lông mày, không giấu được sự ngạc nhiên. Hores vội lục bên trong túi áo vét lôi ra từ trong ví một tấm ảnh.

– Anh xem đây, tôi đó, chỉ mới cách đây 18 tháng.

Kurger rướn người tới để cầm lấy bức ảnh. Anh vẫn nhận ra Hores, nhưng sự biến thái thật ngoạn mục. Người đàn ông trên chiếc ghế dài kia đang mặc một bộ đồ quá khổ, một lớp mỡ bọc kinh khủng làm ông ta phồng trương lên quá nhiều so với con người cách đây 18 tháng. Nếu trọng lượng làm cho ông ta trẻ ra và xóa mờ các nếp nhăn trên mặt, ngược lại nó cũng nuốt chửng đi vẻ khả ái của một anh chàng tươi tắn có ánh mắt sinh động trong ảnh.

Ở khía cạnh này ít ra câu chuyện là có thật, Patrick Hores đã mập ra trong một thời gian ngắn. Nói mập là còn nhân nhượng. Béo phì đúng hơn. Ông ta đã giãn nở hết cỡ. Một vụ big-bang ở người.

Kurger không muốn vội nhận định dễ dãi nhưng anh không thể không nghĩ rằng một ca như vậy chắc chắn phải được lý giải do chấn thương tâm lý, hoặc do bộc phát tuôn trào từ những dồn nén bị ém giấu đi từ thời thơ ấu. Anh không tin những chuyện ma quỷ truyền kiếp vốn rất thịnh hành trong lĩnh vực hoạt động của anh những năm gần đây, mà sử dụng lại các nguyên tắc trị liệu căn bản xưa cũ vốn cho hiệu quả tốt hơn và đã được thử nghiệm nhiều rồi.

– Chuyện đã xảy ra như thế nào? Ông còn nhớ khởi điểm chứ? Về việc lên cân ấy? Trạng thái tinh thần của ông lúc đó ra sao?

– Trước khi quay trở lại những điểm này, tôi muốn kể cho anh nghe về những gì diễn tiến tiếp theo đó, tôi tin anh sẽ không xem nhẹ giả thuyết của tôi.

– Tùy ông thôi, Patrick. Tôi gọi ông là Patrick được chứ?

Hores không trả lời câu hỏi, nói tiếp:

– Khi tôi lên 20 ký trong hai tháng đầu, tôi bắt đầu hoảng. Lúc nào tôi cũng ăn và ăn. Nó mạnh hơn tôi. Đây thực sự là một ám ảnh. Tất cả thứ gì có thể nhìn thấy trước mắt, tôi phải ngốn lấy. Thậm chí ban đêm tôi cũng thức dậy để tọng vào họng bánh ngọt, kem, đậu phộng, bất cứ thứ gì, tôi phải làm đầy bụng mới được!

Kurger ngầm ghi chép trong trí. Cụm từ “phải làm đầy” quan trọng. Ông ta mập ra có lẽ không phải để tạo khoảng cách giữa mình và mọi người nhằm mục đích tự vệ, mà để lấp đầy một sự thiếu hụt. Sam, đừng vội dễ dãi quá thế, nghe tiếp đi.

– Có những buổi tối tôi không thể chợp mắt được khi biết rằng vẫn còn bánh ngọt trong tủ, phải ăn thôi. Có khi tôi dọn sạch cái bếp không còn tí tẹo gì trước khi đi nằm! Nhưng lắm lúc còn tệ hơn vậy, 2 giờ sáng tôi đã phải lái xe đi vòng vòng để tìm xem hàng quán nào còn mở cửa…Không thể cưỡng lại được, phải ăn, không thôi thì…Tôi hoàn toàn mất kiểm soát, cứ như thằng điên! Anh biết mà, khi đột nhiên lưng anh phát ngứa, anh phải gãi ngay lập tức, đối với tôi đó là chuyện ăn uống, phải đáp ứng ngay, mười lần một ngày! Có khi 20 lần! Xung năng trí tuệ chỉ thôi sa sút một khi bao tử được dồn đầy. Không thể làm khác đi. Và cái thứ quái quỷ ấy thậm chí ngấu nghiến càng lúc càng nhanh hơn.

Hores đổ mồ hôi dầm dề làm thành những quầng ướt ở tay áo và thân áo.

– Thế rồi, ông ta nói, tôi đi gặp một ông bác sĩ. Ông này đặt những câu hỏi về nhân thân tôi, về đời tư, nghề nghiệp, căng thẳng trong công việc…vân vân. Trước khi chứng ăn vô độ xuất hiện mọi cái ở tôi đã rất tốt đẹp! Để cho chắc ăn, ông bác sĩ gửi tôi đến bệnh viện để làm đủ loại xét nghiệm. Và rồi người ta đã phát hiện ra nó.

– Nó là cái gì thế? Rối loạn nội tiết tố?

– Không phải. Một loại ung bướu. Các bác sĩ liền nghĩ ngay đến ung thư dạ dầy. Đó là một vệt đen nằm sát thành bao tử, không to lắm nhưng cũng ra gì. Kỳ lạ là các kết quả thử máu đều tốt, trong khi đó kết quả nội soi lại khẳng định có một khối nhầy trong dạ dầy. Trong vòng chưa đầy một năm tôi đã trải qua 3 cuộc giải phẫu. Lần đầu tiên người ta không tìm thấy gì nên cho rằng nó đã tự bóc tách hoặc tự tiêu đúng trước khi tôi được đưa lên bàn mổ. Nhưng một tháng sau đó nó lại hiện ra trên màn hình. Lần thứ nhì cũng giống như thế, không thấy gì sất, khi mọi thứ được phanh ra dưới những ngọn đèn của phòng mổ.

– Thế còn lần thứ ba?

– Cắt bỏ dạ dầy. Đúng ra là một phần dạ dầy, phía có khối nhầy. Tôi đã hết chịu nổi. Phải làm sao trục nó ra khỏi người tôi. Chuyện xảy ra 4 tháng trước.

– Rồi từ dạo ấy đến nay?

– Không có gì thay đổi. Tôi vẫn ăn nhiều, không, đúng ra là ăn nhiều hơn trước. Chắc tôi chết mất bác sĩ. Có thứ gì đó trong người tôi đang rút tỉa dần sự sống của tôi!

– Gần đây ông có đi soi chụp lại không?

– Có, nó vẫn còn đấy. Làm gì thì làm, cái thứ bẩn thỉu đó vẫn trồi ra. Y như một con ác quỷ! Nó ẩn úp, nó chống trả!

– Các xét nghiệm máu không phát hiện gì sao? Kurger sửng sốt hỏi. Không ung thư, không vấn đề nội tiết, không gì cả sao?

– Trừ chứng cao mỡ máu với tiểu đường, và trừ việc toàn bộ nội tạng của tôi đều bị trục trặc do chính cái thói háu ăn ôn dịch, thì không, không có bệnh nào giải thích được về sự hiện diện của cái bướu đó.

Kurger nhìn trân trối bệnh nhân mới của mình. Không thể phủ nhận đây là một ca đặc biệt. Thậm chí rất thú vị so với những gì anh đã nghĩ lúc ban đầu. Tất nhiên nếu câu chuyện của ông ta là có thật…Anh đề nghị:

– Chúng ta trở lại khởi điểm đi. Ông còn nhớ mọi việc đã bắt đầu như thế nào không?

– Hẳn anh cho rằng tôi dư thì giờ để suy nghĩ về nó chắc. Tôi đã có tua lại cuộc đời mình trong giai đoạn đó.

– Giai đoạn đó ra sao?

– Không có gì đặc biệt, kế toán, ly dị được 2 năm, không con, sau khi chia tay tôi có một quan hệ tình cảm nghiêm chỉnh nhưng rồi không thành….

– Lúc chứng háu ăn bắt đầu, ông vẫn sống một mình chứ?

– Vâng. Tôi có phiêu lưu tí chút với một em quen trên mạng 3 tuần trước đó, nhưng chỉ một đêm thôi. Không, không phải khởi sự từ đó đâu; có thể nói với anh: lúc ấy tôi đang sống một cuộc đời không thể tầm thường vô vị hơn nhưng rồi một hôm…

Mắt Patrick Hores rực lên, ký ức bên trong ông ta đang được thắp sáng. Kurger chăm chú quan sát từng cử chỉ nhỏ của thân chủ.

– Một buổi trưa nọ, viên kế toán nói tiếp, tôi vừa đổ đầy bình xăng và rồi tôi trông thấy một gói kẹo trên quầy thu ngân. Lúc ấy tôi không đói chút nào vì 2 tiếng trước đó đã ăn một bữa thịnh soạn, không phải loại kẹo tôi ưa thích, dù vậy tôi rất muốn mua nó. Chẳng hiểu tại sao. Màu sắc, cách bày biện trên quầy trông vui mắt và ngon miệng, tôi đã muốn ngậm ngay một viên. Tôi nhớ rõ như thể chuyện mới xảy ra hôm qua thôi, tôi đã tự nhủ mình vừa ăn xong đây mà, lại không thấy thèm thuồng gì, vậy mà tôi không thể cưỡng lại được. Tôi mua một bịch, rồi khi đã an vị trong xe tôi vẫn còn tranh đấu tư tưởng thêm 5 phút nữa nghĩ rằng mình có thể bỏ mặc nó ở đấy chừng nào muốn ăn thì ăn, vậy mà không, tôi đã phải mở bịch kẹo ra và phải ăn nó ngay. Chẳng biết tại sao nữa. Tôi thấy thích thú thỏa thuê.

– Chứng thèm ăn phải không? Ông… – xin lỗi, trước khi tình trạng ăn uống của ông bị rối loạn – ông có hay thèm ăn?

– Thỉnh thoảng cũng có, nhưng không mất lý trí đến thế, anh thấy trong ảnh đó, tôi đã có một vài mảnh tình vắt vai, một tí bụng mỡ nhưng đối với một gã đàn ông xấp xỉ tứ tuần thì thú thật tôi chưa làm điều chi đáng xấu hổ!

– Nhưng vào cái ngày hôm ấy ông đã “suy sụp”?

– Có thể nói như thế. Tôi không biết tại sao. Thật bậy bạ quá.

Đột nhiên mặt Hores đanh lại. Mồ hôi đẫm trán và cổ họng dập dềnh. Kurger muốn mời ông ta một ly nước nhưng chần chừ và cũng không muốn cắt đứt dòng tự sự. Người đàn ông béo phì nuốt nước bọt như thể hành động này làm cho ông ta đau đớn, đoạn nói tiếp:

– Từ đó viên kẹo bắt đầu ám lấy tôi. Nó hiện diện trong người tôi không chịu buông, nó ra lệnh cho tôi ăn, ăn, ăn nữa đi, ăn đến khi nào chết thì thôi.

– Ông thật lòng tin rằng viên kẹo đó luôn nằm trong người ông? Có phải ông dùng hình ảnh này để ví von điều gì chăng?

– Không, chính là con quỷ đó, tôi tin chắc như thế. Chính cái cục nhầy nhầy deo dẻo màu đỏ đó đong đưa khi tôi cho nó vào miệng. Nó buộc tôi phải trả giá cho thói hư của mình. Con quỷ ở đó, trốn trong người tôi, nhập vào tôi. Anh có muốn biết điều oái oăm trong vụ này không? Hình dạng của nó ư: nó có dáng dấp của một con quỷ nhỏ! Xin thề với anh!

Một tiếng cười khan, gần như điên loạn, Hores lắc đầu và rồi toàn thân ông ta nhúc nha nhúc nhích trên ghế mất một lúc trước khi ngồi yên.

– Coi bộ anh cho là tôi loạn óc?

Kurger tì cả hai cùi chỏ lên thanh tựa ghế ngồi rồi đan các ngón tay vào nhau.

– Loạn óc thì không. Nhưng rõ ràng có gì đó đang hoành hành trong người ông, có gì đó thuộc về tâm lý.

Cái nhếch môi của Hores làm miệng ông ta méo xệch.

– Cám ơn, bác sĩ. Tôi biết chắc là tôi không điên, nhưng tôi muốn nghe điều đó được nói ra.

– Patrick, điều đó có nghĩa là chúng ta phải xem xét lại vấn đề ngay để tìm cách làm sáng tỏ nó.

– Tôi chỉ cần được nghe anh xác nhận là tôi không điên. Tại vì, anh biết không, tôi đã có kế hoạch rồi. Chắc hơi cực đoan đấy, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể làm. Nếu tôi không hành động ngay bây giờ có thể sẽ quá muộn. Thứ quái quỷ đó đang giết chết tôi. Những gì còn lại của dạ dầy đang trương phình ra, toàn thân tôi sẽ bung, tôi sẽ tiêu tùng thưa bác sĩ, tôi sẽ banh thây như một cái bong bóng nhựa bị bơm đầy, mà rồi bị bơm thêm một nhát cuối, để xem liệu nó…

– Không nên áp dụng biện pháp quá mạnh tay Patrick, do ông định bắt đầu một phương pháp điều trị nên tôi cho rằng…

– Tối nay về nhà tôi sẽ tự giam mình trong một thời gian cần thiết, Hores ngắt lời. Trong một căn phòng có tường vây quanh, không có gì để ăn ngoại trừ nước uống. Trong năm ngày nữa ông gác-dan sẽ đến mở cửa cho tôi. Tôi nghĩ 5 ngày là đủ.

– Đủ cho cái gì? Kurger lo lắng hỏi.

– Đủ để làm cho con quỷ cái nó mệt, tin tôi đi, chỉ 2 ngày là nó đã không chịu nổi. Giờ tôi biết nó rõ quá mà! Tôi cho nó 2 ngày!

Kurger hít một hơi sâu.

– Còn ông, ông chờ đợi điều gì?

– Trời đất, thì chờ cho nó bị trục ra khỏi người tôi!

– Nghe có vẻ như một loài…ký sinh? Ông biết không, phương pháp của ông giống như một cuộc thử nghiệm cai sữa tàn nhẫn, kiểu người ta thường áp dụng cho dân nghiện ma túy. Dù gì cũng còn nhiều cách thức khác ít tàn bạo hơn…

– Không! Sẽ không có tác dụng chi cả! Con này ranh ma lắm! Nó bám dính lấy tôi như thể mạng sống của nó tùy thuộc vào tôi! Nó chỉ buông tha tôi nếu tôi buộc nó phải làm thế, khi nó không còn chọn lựa nào khác.

– Thế ông nghĩ sau 5 ngày hoàn toàn nhịn ăn, ông sẽ…khỏi bệnh?

– Đúng ra thì …tôi đã bỏ qua một chi tiết: cùng với tôi còn có một con mèo.

Kurger nghiêng đầu bắn cái nhìn ngược lên người bệnh.

– Chi vậy?

– Tôi đã tự nhủ con quỷ cái này sẽ không ra khỏi tôi nếu nó không có một vật chủ khác thế mạng. Khi đói lả nó sẽ vỡ lẽ ra nó không khống chế tôi được nữa, thế là nó nhắm vào con mèo!

– Khi dùng cụm từ “con quái”, ông có thể cho biết cụ thể ông đang nghĩ đến thứ gì không?

– À…thứ đồ quỷ trong người tôi á, là cái bướu ác tính chứ là gì nữa!

– Cách ông nói về nó giống như thể ông đang nói về một người nào đó, ông có nhận ra điều ấy không?

– À tại vì con này nó biết suy nghĩ! Nó khôn lỏi! Đâu có phải vô cớ mà người ta nói nó ác… Nhưng mà tôi sẽ quái quỷ hơn nó tinh ranh hơn nó! Vậy đó! Tôi sẽ hạ nó trong trò chơi do chính nó bày ra.

Kurger đưa tay lên vuốt trán. Ngày rồi sẽ dài đây.

– Patrick, ông có nghĩ kỹ về tình huống đó chưa? Ông cùng con mèo tự nhốt kín trong 5 ngày? Nếu ông có ý muốn trừng phạt mình bằng một phương pháp điều trị như vậy, sẽ không ai ngăn cản ông đâu, nhưng đối với con vật thì tàn bạo quá.

– Tôi đã chọn một con mèo mập ú, nó sẽ cảm nhận được việc gì đang xảy ra, chắc chắn như thế, nhưng nó sẽ phục hồi. À mà…, chỉ là một cách nói.

Hores bấu lấy gờ chiếc ghế dài rồi bằng một nỗ lực kinh hồn ông ta chồm dậy, choán trọn khoảng trống giữa cái ghế bành và nhà điều trị tâm lý.

– Tôi đã quyết định rồi, bác sĩ, nếu không tôi sẽ tiêu. Cám ơn đã đồng ý tiếp một ca khẩn.

000

Patrick Hores đeo bám trong tâm trí Kurger suốt 3 ngày. Anh tiếc không còn gặp ông ta. Đây quả là một ca khác lạ. Hụt hẫng, vô độ, hoặc tất cả các dạng chấn thương tâm lý khác đang vận hành trong đầu Hores, những thứ này lôi cuốn anh. Anh muốn gặp lại Hores, xác định nguyên nhân và giúp ông ta hiểu rõ vấn đề. Về chuyên môn, Kurger hành nghề đã nhiều năm, anh biết giữ khoảng cách tốt nhất để không “sống chung với người bệnh”. Biểu đồ tư duy của anh đi từ điểm mơ hồ trong tâm hồn của người bị sang chấn tâm lý đến bờ vực của suy sụp, nhưng nhìn chung, nếu mỗi con người là một thực thể độc nhất, phải nói rằng tất cả bọn họ đều quây quần trong các tổ hợp giống nhau. Hores thì khác. Khác không chỉ về bệnh lý mà còn trong cách thức ông ta mắc phải căn bệnh. Quá bạo liệt, vô cùng toàn bộ, cực kỳ …thâm nhập. Rất có thể vì thế mà ông ta choán nhiều chỗ trong cuộc đời hơn trong tâm trí của Kurger.

Nhà điều trị tâm lý do dự trong việc liên hệ với các đơn vị tâm thần khác để chuyển giao ca bệnh; nhưng anh đã xem xét vấn đề ở nhiều khía cạnh, về phương diện pháp lý, không có gì buộc anh phải làm thế. Không nhất thiết phải áp đặt một chế độ ăn kiêng, dù là triệt để. Lại còn chuyện con mèo, việc này đòi hỏi phải lằng nhằng với một hội bảo vệ động vật, rồi mất thì giờ kêu gọi những tổ chức có thẩm quyền khác, ăn thua đủ với hệ thống hành chính trì trệ, thế là một tuần lễ sẽ vèo trôi đi, nghĩa là sẽ quá muộn. Nhưng có đáng để ra tay không chứ? Vượt quá vai trò, quyền hạn của mình để can thiệp vào cuộc đời của một người mà anh chỉ mới gặp ít phút thôi?

Bị cuốn xiết vào các buổi tư vấn và cuộc sống, Sam Kurger dần dần buông lơi ca bệnh. Anh gần như quên hẳn thân chủ kỳ quặc của mình cho đến khi nghe chuông điện thoại reo vào cuối buổi sáng thứ năm một tuần sau đó. Cảnh sát. Ngay khi nghe đến tên Patrick Hores, Kurger nhắm mắt lại và buông người xuống ghế. Cảnh sát muốn nói chuyện với anh. Rõ ràng anh là người sau cùng đã gặp Hores căn cứ vào ghi chú bằng mực đỏ có gạch dưới trong sổ tay của đương sự. Kurger hiểu ngay sự việc, hỏi xem phải gặp họ ở đâu và ghi địa chỉ trước khi nhảy vào một chiếc taxi.

Patrick Hores sống trong một tòa chung cư cổ, tường đá dày điểm xuyết dăm cái máng nước thấy ớn, cổng kêu ken két, cửa sổ hình vòm. Các cảnh sát mặc sắc phục chiếm trọn cả khoảng chiếu nghỉ của tầng thứ năm, họ đang cố ngăn không cho mấy người láng giềng tò mò đến gần. Kurger trình giấy tờ cá nhân rồi chen vào đại sảnh nơi phảng phất một không khí hăng hắc trộn lộn mùi mồ hôi, mùi ngột ngạt lẫn mùi kim loại khiến cho muốn ói. Một tay trạc tứ tuần, tóc tai bù xù, quần jean áo khoác da cũ sờn, tiến đến chào Kurger.

– Tôi là thanh tra Dean. Không cần phải vào trong. Tin tôi đi, anh không muốn thấy cảnh này đâu.

– Anh ta ra sao? Kurger hỏi.

– Theo ý anh thì sao?

Kurger như bị bão hòa bởi lượng thông tin nạp vào đầu. Lối vào căn hộ có vẻ lỏng lẻo, anh thoáng nhìn thấy ở một phần của phòng khách hàng đống sách nghệ thuật, những khung tranh treo trên tường, rồi toàn bộ hoạt cảnh xung quanh, cảnh sát, y sĩ, chuyên gia khoa học…Giữa tất cả những cái này, Kurger cầm chắc về cái chết của Patrick Hores, bệnh nhân khác thường vừa tìm đến anh để xin sự giúp đỡ và anh đã không biết lắng nghe như lẽ ra anh đã phải làm. Kurger không hề gian dối chi, anh biết chắc anh chẳng mảy may có lỗi, nhưng từ nay xin chừa hẳn thói dửng dưng và sơ suất chuyên môn. Dù gì đi nữa cái chết của Patrick cũng sớm xảy ra thôi. Về thời điểm, nó đã hiện hữu sẵn đâu đó trong không khí mà ông ta hít thở.

– Cái mùi này là từ cơ thể của ông ấy? Kurger mạo muội hỏi.

Dean do dự một chút trước khi gật đầu xác nhận.

– Anh có thể nói gì với tôi về vụ này? Vì sao ông ta đến gặp anh?

Nhưng Kurger có quá nhiều thắc mắc để có thể trả lời câu hỏi này hay câu hỏi khác.

– Ông ta tự sát ư?

Bằng giọng hòa nhã viên thanh tra trả lời:

– Tôi mong là thế.

Kurger nhíu mày, nhận thấy trong giọng nói của người đối diện có gì đó không ổn khiến anh ngạc nhiên.

– Sao lại thế? Sao lại mong một việc như thế?

– À…viên thanh tra cảnh sát thở dài. Cửa sổ bế chặt bằng đá tường, ông ta đã cẩn thận tháo bỏ tay nắm phía trong cánh cửa duy nhất để không thể ra được trừ phi có sự giúp đỡ từ bên ngoài. Chính lão gác-dan đã đến mở cửa sáng nay, như ông Hores đã dặn dò trước đó. Anh có biết mấy chi tiết này không?

Cẩn thận không để cho ánh mắt ngó xuống hay đầu cúi thấp, Kurger xác nhận:

– Có. Ông ấy đã có ý muốn tuyệt thực.

Dean nhăn mặt ngạc nhiên.

– Có thể nói ông ta đã toại nguyện. Chúng tôi không tìm thấy gì khác ngoài chút nước uống. Ông ta đã tự giam mình trong đó, hoàn toàn trần truồng. Điều tôi hoang mang là thời gian sự việc diễn biến. Ông ta đã đến gặp anh cách đây 5 ngày, đúng không?

– Đúng vậy.

– Người ta không chết vì đói nhanh đến thế, 5 ngày thì không, vả lại có nước sẵn đó mà.

– Vậy nguyên nhân tử vong là gì?

Viên thanh tra lại nhăn mặt, lần này có vẻ ngượng nghịu.

– Tùy, muốn nói sao thì nói.

– Nghĩa là sao?

Hai người nhìn nhau khinh khỉnh một lúc trước khi viên thanh tra cảnh sát quyết định bộc toẹt:

– Patrick Hores đã đói đến mức tự …xơi cả bản thân.

Kurger ghìm chặt xương quai hàm.

– Ông nói sao?

– Trong căn phòng đàng kia ở cuối hành lang là một người đàn ông mắc bệnh béo phì nằm dài trên sàn của gian phòng đã từng có tường sơn trắng. Ông ta đã ngoạm lấy bàn tay mình, cánh tay mình và tất cả thứ gì mà ông ta có thể tự với tới được cho đến khi chết vì mất máu. Trước đó ông ta đã bắt đầu tấn công mấy chai nước bằng nhựa rồi chuyển sang chính cái ghế của mình. Tôi nghĩ ông ta ăn bất kể thứ gì tìm thấy quanh đó.

Căn hộ chao nghiêng quanh Sam Kurger. Bất thình lình anh sực nhớ lại cái kế hoạch tàn độc của thân chủ mình và những lời ông ta nói chợt vang lên xa xa trong hành lang, thật ra thì chúng dội lại từ đâu đó trong ký ức của anh: “khi đói lả, con quỷ cái sẽ vỡ lẽ ra là nó không thể khống chế tôi được nữa, thế là nó nhắm vào con mèo!”

– Thế còn con mèo? Anh hỏi bằng một giọng uể oải.

– Con mèo nào? Khi chúng tôi đến thì chẳng thấy có con mèo nào cả.

– Lão gác-dan, khi mở cửa, lão không nhìn thấy nó sao?

– Tôi chẳng biết nữa, nhưng căn cứ vào những gì tôi nhìn thấy trong gian phòng đàng kia, nếu ông Hores đã có ý định tự giam mình cùng với một con mèo thì tôi nghĩ người ta sẽ tìm thấy nó thôi, anh chớ lo, khi giải phẫu tử thi, lúc phanh dạ dầy của ông ta ra.

Kurger chụp lấy mép một băng ghế rồi gieo mình lên những chiếc gối dựa mềm. Dean vẫn trong tư thế đứng, nhìn xuống Kurger:

– Tôi muốn biết vì sao ông ta đã đến gặp anh? Theo như tôi biết, không ai đói tới mức tự ăn thịt mình, không bao giờ. Anh có thể cho tôi biết liệu ông Hores có vấn đề về…đại khái là…về tâm thần không?

Mất một lúc Kurger mới gật đầu.

– Có, có thể nói như thế.

Lần thứ nhất viên thanh tra cảnh sát mỉm cười, đúng ra chỉ nhếch mép. Kurger biết rằng nếu ông ta khiến một nhà điều trị tâm lý sẵn sàng xác nhận người quá cố là một tay thần kinh bệnh hoạn, cuộc điều tra coi như kết thúc nội trong ngày. Xếp hồ sơ vụ án. Xin mời người kế tiếp!

Viên thanh tra tiếp tục đặt câu hỏi, và Kurger cố trả lời bằng cách tốt nhất anh có thể, trong khi đó cách đấy không xa người ta đang bàn bạc làm thể nào để di dời cái xác quá cồng kềnh.

Đầu giờ trưa Kurger hủy tất cả các cuộc hẹn và trở về nhà. Anh không thể bảo đảm chất lượng các buổi tư vấn trong một tâm trạng như vậy, anh cần nghỉ ngơi, cần suy nghĩ, cần lùi lại để hồi phục tinh thần, để lý giải rằng anh không dính líu chi đến vụ này, đã không thể làm gì để ngăn chận thảm kịch. Anh chào thua ngay từ đầu. Patrick Hores trách nhiệm hoàn toàn về cái chết của mình bằng cách tuyên chiến với ma quỷ, những con quỷ này núp dưới dạng ám ảnh tự hủy diệt. Có thực sự ông ta đã mắc bệnh ung thư dạ dầy? Có thể …nhưng trước tiên chính tâm lý bệnh hoạn đã gặm nhấm ông ta. Đằng nào thì cũng vậy thôi, phải không? Kurger phát biểu cao giọng với chính mình trong lúc ra khỏi thang máy:

– Phải ung bướu không đấy? Cái thứ tởm lợm mà các cơ quan trong người chúng ta không thể hấp thụ được, khởi điểm từ cái đầu, thế là nó chuyển sang ngấu nghiến chúng ta từng chút, ngày này qua ngày khác….

Kurger tin như thế. Các chứng ung thư không gì khác hơn là kết quả từ những đau đớn trong tâm hồn. Cái người ta dồn nén lại, cái người ta phủ nhận đi. Tất cả tích tụ lại. Quay mặt giả lơ với ưu phiền không làm nó biến đi, trái lại còn làm cho nó thối rữa thêm trong góc riêng. Rồi một hôm nó bung lên xì ra, và thế là ta lãnh đủ.

Kurger vừa đẩy cửa căn hộ vừa thở dài đánh thượt. Còn mình thì sao? Từ bao nhiêu năm nay mớ thối rữa gì đang dồn đống trong người mình đây?

Anh lắc đầu. Anh muốn được một mình. Một đĩa nhạc jazz hay, một ly trà lạnh và có lẽ một gói bánh ngọt loại anh ưa thích. Anh cần vô cùng một sự tiếp sức.

Anh bước vào căn hộ, ném áo khoác lên thành ghế, không để ý đến một cái bóng nhỏ đang lặng lẽ lẻn vào giữa hai chân anh.

Một sinh vật đói lả đang hau háu nhìn Kurger bước vào bếp. Một con mèo đen hai bên mép lòng thòng rớt rãi.



2.

Truyện ngắn trên đây do tôi chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Pháp Maligne của Maxime Chattam, một trong 13 tác giả ngồi cùng bàn trong tập truyện 13 à table! Do nhà Pocket xuất bản năm 2014 nhằm hô hào đóng góp cho Quán Ăn Từ Thiện (Les Restaurants Du Coeur) với lời kêu gọi: “Một quyển sách bán ra = 3 bữa ăn trao đi” (1 livre acheté = 3 repas distribués).

Đó là một tập sách mỏng với 13 truyện ngắn chiếm chưa đầy 300 trang, khổ bỏ túi 11cm x 18cm, in trên loại giấy thân thiện môi trường, do một người bạn giúi vào hành lý xách tay gọi là làm quà đi đường. Đọc xong rồi quên béng nó đi, vớ lấy quyển khác trên đường rong ruổi. Chữ nghĩa thông tin chồng chéo dồn đống lên nhau; những thứ nằm bên dưới dần hóa thạch, những thứ nằm tênh hênh bên trên lâu ngày cũng ẩm, mục, hóa mùn nhuyễn mùn thô. Maligne lẩn trong đó.

Khoảng vài tháng sau chuyến du khảo gần nhất tôi cảm thấy có gì đó trục trặc với hai quả thận do tần suất đi vệ sinh ngày càng dồn dập. Trước đây khi phải cầm cự những chuyến bay đường dài, tôi thường chọn chỗ ngồi sát cửa sổ để yên thân đánh một giấc đã đời không cần ăn ba cái thứ linh tinh phục vụ trên máy bay vốn đã dở ẹc mà còn làm đầy bụng; nhưng dạo sau này ghế ngồi sát lối đi là ưu tiên hàng đầu nhằm dễ bề lộn tới lộn lui nhà vệ sinh mà không làm phiền hành khách bên cạnh. Đi đến đâu cũng lơ láo tìm chỗ để giải quyết cái tồn tại. Ở nhà thì khỏi nói, đến không đếm xuể số lần đi trong ngày. Tôi cũng bỏ hẳn thói quen mặc những chiếc áo hơi ôm do cảm thấy vòng eo như phình ra. Một hôm thức giấc nửa đêm để ngồi dậy đi vệ sinh lần thứ n như thường lệ, tôi bỗng nhận ra sự hiện diện của nó.

Nó nằm phía dưới rốn, hơi chếch sang phải, dài dài cưng cứng như trái chuối già chưa chín. Thật oan ức cho hai quả thận, hẳn bàng quang đã bị chuối chèn. Ấn mạnh không thấy đau nhưng giở vạt áo lên soi gương thì thấy một bên bụng cộm lên như có giấu của quý bên trong. Gì đây? Câu chuyện đã đọc trong quyển sách nhỏ bỗng được nhớ lại mồn một từng chi tiết. Phải nó không đó, con quỷ cái? Thay vì đi khám, tôi lừng khừng thêm một thời gian để rình. Quái đản, sao trước đó mình không cảm thấy có vật lạ xuất hiện trong cơ thể, hay là nó đã phát triển nhanh trong một thời gian kỷ lục đủ gây sửng sốt? Nó thần tốc, đồ quỷ sứ. Chỉ sau một tuần đã to ra thấy rõ. Theo Sam Kurger, nó không gì khác hơn là kết quả từ những đau đớn trong tâm hồn. Cái người ta dồn nén lại, cái người ta phủ nhận đi. Tất cả tích tụ lại. Quay mặt giả lơ với ưu phiền không làm nó biến đi, trái lại còn làm nó thối rữa thêm trong góc riêng. Rồi một hôm nó bung lên xì ra, và thế là ta lãnh đủ. Tôi bắt đầu tua lại đời mình.

Thời thơ ấu có thảm kịch gì không? Có, nếu cho việc sống chung với một người điên, một kẻ nghiện rượu và một bệnh nhân tâm thần là thảm kịch đối với một đứa trẻ vừa mới phát triển trí tuệ. Sảng hoàng trong giấc ngủ, hoang mang cô độc trốn chui nhủi trong hốc tối, mặc cảm tàn tật thể chất lẫn tinh thần, tất cả đeo bám đứa nhỏ đến tận tuổi thanh xuân. Giai đoạn này có gì trắc trở? Có. Không mối quan hệ tình cảm nào bình thường hiểu theo nghĩa đơn giản nhất. Không hẹn hò, không nhìn nhau tha thiết, không ôm ấp mộng tưởng. Toàn là mấy tay cáo già lão luyện mặt mũi dáo dác đùm đề vợ con, những người lính trẻ chưa kịp yêu đã chết trận, vài đợt lăn tăn công sở, một cuộc hôn nhân đòi đoạn chỉ đủ lâu để kịp mang một mầm sống. Lạ là kể từ sau thời điểm này cuộc đời đã rất bình yên. Vì sao nó cộm lên đúng cái lúc tôi vô cùng phẳng phiu, thân an tâm lạc, viên mãn về tiền tài lẫn sự nghiệp với một nhịp sống khoan thai đều đặn, chính xác như Big Ben?

Theo hình ảnh nhìn thấy qua siêu âm, đó là một mô dạng nang nằm ở vùng dưới rốn sau bàng quang cạnh tử cung, kích cỡ 132mm x 105mm x 86mm, to hơn trái chuối già, có thể qua mặt cả trái chuối hột musa balbisiana.






Trước ngày lên bàn mổ tôi sắp xếp tất cả các loại giấy tờ quan trọng có dính líu đến chủ quyền nhà, tài khoản ngân hàng và quyền thừa kế. Tất cả được bày hàng trên bàn viết, chỗ dễ thấy nhất trong phòng riêng. Lại còn cẩn thận đặt lên trên cùng giấy khai sinh và bản sao giấy chứng minh nhân dân đã ố cũ của con gái bỏ lại khi đi lấy chồng xa xứ; hi vọng nó sẽ không gặp rắc rối do quan liêu hành chính, đồng thời đề phòng rủi ro ê-kíp giải phẫu bờ chờ bợt chợt bỏ quên dao kéo, ba chớp ba sáng lỡ tay cắt nhầm nội tạng, sốc thuốc mê, băng huyết, hoặc các sự cố đại loại. Tôi cúp cầu dao, vặn xuôi đồng hồ nước, bế ống dẫn gas, khóa kỹ mọi cửa nẻo, ngoái ngó căn nhà đầy hồn vía của quá khứ, nơi bình yên chim hót của hơn nửa đời lao động rồi băng qua đường.

Ở bệnh viện người ta đòi hỏi phải có số điện thoại của người thân để liên lạc trong trường hợp khẩn cấp. Tôi nhìn Kh’Hơ. Cô gái trẻ này là người bạn thiết đã luôn khi kề cận trong mọi sinh hoạt lớn nhỏ của cuộc sống. Em chăm sóc nhà cửa khi tôi đi vắng, bưng bê hộ đồ nặng, giao dịch mua bán, giải quyết mọi sự vụ. Em là người đang ôm giùm chìa khóa các loại, giấy tờ tùy thân, hồ sơ bệnh lý và mấy chục triệu đồng chờ thanh toán viện phí. Em đã xin phép nghỉ việc không lương để làm y tá lẫn y công túc trực suốt những ngày tôi nằm viện thậm chí cả thời gian dưỡng thương. Con gái ở xa không biết mẹ đã phải ghi xuống số điện thoại của một người dưng. Thầy bói nói: Số cô cô quả nhưng cung giao hữu vượng.

Tác phong hảo hớn kiếm hiệp, bác sĩ xồn xồn phụ trách ca mổ hỏi ý kiến bệnh nhân bằng giọng dợt lớt không chút biểu cảm:

– Trong quá trình bóc tách khối u rất có thể chúng tôi sẽ đoạn hẳn một bên nhánh để trừ hậu hoạ, nếu có sự đồng ý?

000

Tôi mở mắt ra trong một cái hộp hình chữ nhật mà tôi lạc quan đoán là phòng hồi sức, toàn thân run lập cập từng chặp. Cửa kính đục nhìn ra không thấy màu trời. Ánh sáng nhòa nhòa nhay nháy từ đèn huỳnh quang sáu tấc mắc tòn teng trong một góc phòng. Đồng hồ treo meo méo trên bức tường trước mặt như nhúc nhích theo mỗi tiếng tích tắc của chiếc kim giây. 4.40. Sắp hừng đông hay gần chạng vạng? Tính từ lúc vào phòng mổ 10.25 sáng ngày 2 tháng 8 tôi đã mê man bao lâu? Tay chân vẫn còn bị khóa rịt vào giường, toàn thân không cảm giác đau đớn, chỉ có những đợt lũ lạnh như băng trườn lên người, ào qua, rút đi rồi lại trườn lên. Giường bên trái có một ông da thâm thâm như người Cao Mên đang nằm thẳng cẳng mắt mở trừng trừng ngó lên trần nhà. Còn sống không đó, sao không thấy chớp mắt? Phóng tầm nhìn xa thêm một quãng thấy khoảng nửa tá giường dàn hàng như trong trại lính, trên đó xếp ngay ngắn những thây ma bất động. Bên phải là một giường trống, rồi bất thình lình chần vần một mảng tường tối hình bình hành màu xam xám khiến căn phòng nhìn chung trông giống cái kho xiêu vẹo chứa đồ phế thải. Có gì đó trong võng mạc đã méo đi, tái định dạng mọi thứ trước khi tải hình ảnh lên não.

Musa balbisiana, musa balbisiana. Con quỷ chuối hột. Thì thầm như đọc thần chú, tôi tự hỏi nó đã được trục ra khỏi vật chủ chưa, đã nhanh chân đi tìm kẻ thế thân hay vẫn nằm chung giường đây? Còn chăng vài cuộc giải phẫu nữa như nhân vật trong Maligne của Maxime Chattam đã phải trải nghiệm? Hores từng ca cẩm: Nó ẩn núp. Nó chống trả. Nó ranh ma, khôn lỏi và biết suy nghĩ. Nó phát triển. Nó di động. Không phải vô cớ mà người ta nói nó ác. Thứ gì trong đầu mình và từ hồi nào đã tích tụ thành con quỷ cái? Trong khối nhầy nhụa đó phải chăng rùng rùng dư chấn tuổi thơ, tình bất toại, mộng tan tành – tất cả hợp thành bó, xoắn vặn? Nó đeo theo đứa nhỏ, ăn hớt tuổi thanh xuân, đuổi bén gót những năm tháng trung niên, trì trì ở bụng dưới ngay đúng cái nhánh đã từng có hoa trái. Nó cộm lên do dị ứng với hạnh phúc phẳng.


Nó đi rồi, liệu vật chủ có sẽ nghiêng hẳn một bên vì đã lệch?







Trần Thị NgH
Uma, tháng 10.2016

















Phỏng vấn:
Nếu đã khác



Trần Thị NgH


Lưu Diệu Vân: Dù muốn dù không, chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng biến cố 30 tháng Tư đã tạo nên những ranh giới vô hình: ranh giới thời gian giữa văn chương trước và sau 1975, cũng như ranh giới không gian trong và ngoài nước. Theo ý riêng của tác giả, biến cố này đã (và đang) đem lại những ràng buộc hay tháo gỡ nào trên nền văn học Việt Nam. Và nếu không có biến cố này, văn phong/đề tài/ý thức trong sáng tác của tác giả sẽ khác với bây giờ không, và nếu có, khác như thế nào?






Nếu đã khác

thì mình sẽ lấy Mario Catania rồi cuốn gói theo chồng về ở trên cái đảo nhỏ xíu nằm ở phía đông Sicily giáp biển Ionia, đẻ ra một đứa con lai đặt tên Luna Tran-Catania, mỗi ngày i i a a o o với nó, đợi nó bú xong ngủ khò mình sẽ tiếp tục viết. Có khi đề tài sẽ là Mafia, nhân vật không ai khác hơn tên trùm Matteo Messina Denaro hay khắc tinh của hắn – nữ công tố viên Teresa Principato. Rồi sẽ ăn đứt The Godfather của Mario Puzzo. Nhưng mình đã lấy một thằng cha cùng nòi giống Tiên-Rồng, đẻ ra một nhóc con An-nam và viết về chuyện làm dâu ở vựa nước nắm giữa miền Trung gió cát.


Nếu đã khác


mình sẽ vẫn luôn khi kiếm chuyện đi thật xa cái hẻm nhỏ Phú Nhuận để viết về những nơi lắc lơ thay vì lui cui giải phẫu tử thi, phanh phui lục phủ ngũ tạng của các nhân vật đang ngo ngoe ngáp ngáp trong lòng dân tộc thuộc phường 3, tổ dân phố 2.



Nếu đã khác



mình đã không thèm thử vượt biên theo ghe taxi chở mắm để bị nhốt ở Nhà Bè rồi ôm con lội bộ đi chân mất dép ra bến xe đò xin tiền ông đi qua bà đi lại cho đến khi đủ mua cái vé trở lui. Mình đã không viết về nghèo đói bệnh tật dốt nát, không kể chuyện con bị giật lồng đèn đêm Trung Thu hay chồng có nuôi rận trong người. Mình sẽ viết về bình minh Starbucks hoặc hoàng hôn Beverly Hills. Cũng có khi mình lùng sục cho ra Alejandro Gonzáles Inárritu xin làm lon-ton ở phim trường để có dịp đu theo ê-kíp biệt mù đến tận sa mạc Ma-rốc với Babel, ngao du Calgary hay Montana với The Revenant, hoặc ít nhất được kề cận Javier Bardem trong Biutiful. Ui, mình sẽ viết về điện ảnh và mặt sau mặt dưới lẫn mặt trong của nó.



Nếu đã khác



mình đã không cung cúc chức thư ký quèn ở phòng Kế Hoạch Sở Y Tế rồi ngồi tùm hum trong khu kiểm kê trang thiết bị y khoa để viết Nhật Ký Trong Kho. Mình sẽ không thỉnh thoảng bỏ quên con ở Nhà Trẻ 2 tháng 9, không phải xin nghỉ việc 3 ngày để ở nhà xử cái đầu chí dòi của con nhỏ 4 tuổi, không phải vác nó chạy vòng vòng các bệnh viện khi nó bị sốt xuất huyết đến trào máu mũi. Mình sẽ viết về Disneyland và tuổi thần tiên và tuổi hoa niên và tuổi thanh xuân bằng một gam màu phơn phớt ngọt sớt chứ không đậm ri tối hù đắng nghét chua lè.



Nếu đã khác



mình đã không ém chữ vô hộc tủ hơn 20 năm chờ định mệnh đưa đẩy – cái ngày mà Phạm Việt Cường do ai đó dẫn đến nhậu ở nhà mình rồi nửa mê nửa tỉnh hỏi vu vơ trước khi lịm: dạo này NgH còn viết lách gì không – để cuối cùng bán tín bán nghi ngó trước ngó sau lấm la lấm lét nhét vô túi quần hắn bản thảo viết tay hai truyện ngắn Người Thuận Tai Trái và Lexomil. Mình đã không tuồn chữ ra ngoài như dân buôn lậu ôm hàng xách tay, đã không ngóng chờ báo biếu để có thể theo dõi cánh tay văn học nối dài ở hải ngoại. Đã không lấy buôn gian bán lận văn chương làm lối thoát hiểm. Đã đi mây về gió thay vì ngó vô từ ngoài hay nhìn ra ngoài từ trong.



Nếu đã khác



mình không phải ăn nằm với chữ nghĩa mà không có hôn thú; con cái đẻ ra phải cho vượt biên lênh đênh tá túc các trại tập trung Hợp Lưu, Văn, Văn Nghệ, Thời Mới. Ngang trái vậy sao ngu quá không chịu đặt vòng xoắn, thắt ống dẫn tinh hay ứng dụng phương pháp tránh thai Ogino-Knauss; thay vì thế lại tiếp tục đẻ đái, điên khùng quyết tâm không cho tuyệt tự? Trại tập trung giải thể, lũ trẻ được chuyển sang các viện mồ côi Da màu, Du Tử Lê, Tiền Vệ…, nơi chúng được chăm sóc tập thể theo diện tị nạn chính trị; mà chính trị là cái gì mới được chớ, hỡi Trời? Lại nữa, muốn thập thò thăm con cái mình hay cháu chắt người quen, đôi khi phải hì hục đào tường khoét vách, mượn tay môi giới Proxy, hello, GO!



Nếu đã khác


mình chắc hẳn cũng chẳng ra gì như đã và đang chẳng, lại không có cơ tâm đắc với nhà thơ Nguyễn Văn Đôn*, do nghiệm Phật mà ngộ ra:

……………

nhị phân hệ đếm cội là sắc, không
Tự nhiên liên tưởng ngang hông
văn mạng hải ngoại nhị phân… Hì hì
Vậy thì bị chặn oan gì
Mày phi lợi nhuận lấy gì sắc, không!





Nếu đã khác



thì đâu đã phải ngoái lại phía sau muốn trẹo cổ để tự vấn nếu đã khác.



Tháng 4.2016


* Phật Tử Nhị Phân, một trong 4 bài lục bát của nhà thơ Nguyễn Văn Đôn đã đăng trên Da Màu (2015).








Lệch một khấc














Hậu Duệ

















Kuh-REE-uh

 ♦ 6.10.2015
 
 
clip_image002
Vào một ngày bình thường của tháng 6 năm 1993 cô Y Nhu nhận được một bức thư có tem đóng dấu nhà bưu điện thành phố vốn chỉ cách nhà cô 10 phút đường xe gắn máy. Góc trái bì thư có tiêu đề DAEWOO Motors – VIDAMCO. Dạy học thì có liên quan chi đến xe hơi; hục hặc mùa mưa với cái Chaly cũng đã đủ buồn vui lẫn lộn. Thư viết bằng tiếng Việt ký tên Hàn, một ông Kang nào đó như các quý ông Lee, Park, Chung, Kim với những Hankook, Hyundai, Samsung, Dongsung dạo ấy tràn lan đầy đường và đầy màn hình tiểu vĩ tuyến lẫn đại vĩ tuyến.
Nội dung thư thật bất ngờ. Thì ra là chuyện cá nhân. Ông Kang, giám đốc nghiệp đoàn Daewoo chi nhánh Sài Gòn muốn mời cô giáo đến kèm tư gia cho con gái duy nhất là Kang Hee-Eun 11 tuổi mới qua từ Hàn Quốc, chưa biết tiếng Anh nhưng đang chuẩn bị nhập học lớp 6 ở trường IGS (International Grammar School) sắp khai giảng niên học đầu tiên tại thành phố. Thư được viết bởi thư ký người Việt. Ông Kang xin một cái hẹn lúc 3 giờ chiều ngày 18 tháng 6 tại trụ sở văn phòng Daewoo nằm trên đường Hai Bà Trưng.
Cô Y Nhu thu xếp đến đúng hẹn, vì tò mò hơn vì cần việc làm. Cô đang chật cứng trong cái thời dụng biểu ở Đại Học Tổng Hợp và các lớp dạy thêm tại nhà. Thật tiêu biểu: ông Kang trung niên, mắt hí, da nhờn lấm tấm tàn nhang, hơi có bụng, nói tiếng Anh theo giọng Hàn. Ông nói cười vui vẻ, giải thích nhờ đâu mà biết đến cô giáo và xin ngay 3 buổi dạy trong tuần với lương khởi điểm 3 đô-la/giờ. Lúc cô thư ký mang nước mời khách cô mới nhận ra em học trò cũ tên Trang trông đã rất chững so với thời sinh viên chỉ mới dăm ba năm trước đó thôi. Lại còn hum húp một tí bụng bầu.
Chưa có kinh nghiệm dạy trẻ con, học sinh đầu tiên người nước ngoài chưa hề biết tiếng Anh, cô Y Nhu cho đây là những thách thức thú vị, trong óc hoàn toàn không có ý niệm gì về 3 đô-la gợi ý. Hai ngày sau cô đâm sầm Chaly vào cổng một biệt thự đồ sộ, quần áo tóc tai chèm nhẹp nước mưa. Hình ảnh này về sau cô trò nhỏ Hee-Eun thỉnh thoảng lại nhắc, coi như ấn tượng khó phai buổi ban đầu.
Học trò Hàn cô giáo Việt với tiếng Anh là ngôn ngữ duy nhất để trao đổi, cô Y Nhu phải vận dụng sáng tạo vẽ minh họa cho bài học đầu tiên về ngày tháng và mùa màng. Đây là mùa xuân, S-P-R-I-N-G, cô cong mỏ uốn lưỡi xì gió phát âm thật rõ, dùng tay chỉ bướm vàng hoa đỏ cỏ xanh mây trắng rồi hít hà, wow, thơm quá, đẹp quá, mát quá. Con bé nhìn cô trân trối như xem phim hài vô duyên. Nó không cười, trái lại còn đứng dậy bỏ đi, không biết đi đâu nhưng lát sau bị mẹ áp giải trở lại chỗ ngồi. Bà Kang kể líu lo bằng một thứ tiếng Anh nhiều âm lết cuối: con bé méc cô giáo tóc tai rũ rượi như ma, lại còn ngửi mùa xuân trên giấy rồi khen mát khen thơm.
Aaaa…, vậy ra nó hiểu trò khỉ, lại có óc khôi hài đen. Cô tiếp tục diễn dở, kỳ diệu là chỉ sau vài tuần lễ kết quả thật đáng khích lệ cho cả phe ta lẫn phe địch. Đầu tháng 9 phụ huynh cùng học sinh cắc ca cắc củm mang quà cáp đến tận nhà cô giáo để cám ơn đồng thời xin phép tăng lương từ 3 đồng/giờ lên 5 đồng/giờ. Hee-Eun nhậy cảm, thông minh, chăm ngoan, có vẻ rất quyết tâm trong chuyện học hành, gần như ăn thua đủ trong mọi cạnh tranh. Tình thầy trò khắn khít 6 năm, và còn kéo dài thêm nhiều năm nữa; ngoái lại thật không thể không sửng sốt trước độ bền lẫn độ sâu của mối quan hệ.
Trong 6 năm này, nhi đồng Hee-Eun 11 tuổi dần trở thành thiếu nữ. Sau bài học đầu tiên về ngày tháng và mùa màng, hai cô trò đã đi qua nhiều học kỳ thú vị, từ những mảng tế bào thực vật và động vật đến các trận địa chấn, hiện tượng xâm thực, hai cuộc chiến tranh thế giới, Đại Cách Mạng Văn Hóa, Mao Trạch Đông, Hội Quốc Liên (League of Nations), Liên Hiệp Quốc (United Nations), Macbeth của Shakespeare, Tartuffe của Molière, My Kampf của Hitler, Animal Farm của George Orwell, The Stranger của Albert Camus, Waiting for Godot của Samuel Beckett. À, có cả Lời Xưng Tội Của Đứa Học Trò (thơ Lê Thanh Xuân), làm cô sảng hồn hoang mang không hiểu vì sao mà một bài thơ bi phẫn thời chiến ở chế độ cũ lại rơi vào chương trình giảng dạy văn thời bình ở một trường quốc tế, lại còn được dịch ra tiếng Anh cho học sinh nước ngoài phân tích: nếu đôi lúc thầy giảng bài con ngủ gục/hoặc hò reo như một chỗ không người/thầy tha thứ cho con đừng gắt gỏng/vì bây giờ không còn chỗ vui chơi […] cuộc chém giết chưa đến hồi ngã ngũ/nên máu xương nhuộm đỏ mối thù hằn/nên giới tuyến người lui về cố thủ/và bày trò đánh lén ở sau lưng…
Lương lậu từ 3 đồng đã lên ba chục, còn học sinh Hàn Quốc thì cô đã có một danh sách dài qua giới thiệu dây chuyền: Hae-Lim, Dae-ai, Dong-su, Jae Young, Donam, Kae-Eun, Sang-Eun, Sung-su, Jae-Min…đếm lại thấy xấp xỉ 20 mạng, mỗi mạng chiếm ít nhất 2 tiếng của thời dụng biểu hàng tuần. Để dễ dàng cho việc chạy show từ nhà này sang nhà khác, cô tập trung giờ dạy theo vị trí địa lý phù hợp với 15 phút di chuyển cho mỗi nhà trong cùng khu vực, đa phần ở quận 2, quận 7 và Thanh Đa.
Cuối cùng, chẳng phải vì chênh lệch bổng lộc, cô đành đoạn nộp đơn xin thôi việc ở Đại Học Tổng Hợp – nơi cô phụ trách môn văn chương Anh-Mỹ đã nhiều năm; gì mà cả hai học kỳ trong niên học chỉ phải dạy lõm bõm vài trang trích dẫn cho mỗi tác giả dù là Jane Austen, Emily Bronte, Somerset Maugham, Mark Twain hay Edith Wharton. Giáo trình trung học quốc tế hấp dẫn và thực dụng hơn đại học nội địa, học sinh nước ngoài năng động và có kiến thức hơn sinh viên tại chỗ. Nghe thì kỳ nhưng cô thực tình và chủ quan nghĩ vậy.
Do khủng hoảng kinh tế năm 1997, Daewoo kiệt quệ vì nợ, gia đình Kang ngắc ngứ cầm cự thêm 2 năm. Khi cô bé vừa tốt nghiệp lớp 12 với điểm A+ cho các môn, cả nhà lập tức thu vén sang Mỹ định cư. Em và ba mẹ vẫn giữ liên lạc với cô giáo qua điện thư, cập nhật thông tin đều đặn. Họ nhận xét với giọng phàn nàn nửa đùa nửa thật rằng em chịu ảnh hưởng cô giáo chẳng những nét chữ viết mà cả cách suy nghĩ. Bằng chứng là em đã chọn học ngành văn chương Pháp và lấy thêm bằng thạc sĩ báo chí, hiện là phóng viên và phát thanh viên cho CNN. Họ để lại trong căn nhà nhỏ của cô rất nhiều kỷ vật được biếu tặng nhân các dịp lễ lạt; có cả tủ quần áo bằng mây và thảm lát sàn; đặc biệt, họ phó thác cho cô một tiểu đội thiếu nhi thiếu niên Hàn Quốc con em của bạn bè đồng nghiệp đồng hương để cô tha hồ đánh nam dẹp bắc. Nghĩ cho cùng, Hee-Eun cũng đã thay đổi đời cô biết mấy.
Đã có cơ man bài báo viết về các doanh nghiệp Hàn Quốc Namyang, Young Poong Vina, Buwon Vina, Dong Sung Vina, Kum Kang Vina, Tae Kwang Vina, Shin Kwang, Happy Cook, Sunjin Vina, Han Kook chuyên trị cao su, nhựa, sắt thép, giày da, may mặc, thức ăn gia súc, đồ gia dụng, cần trục, băng tải. Vô số các địa chỉ ẩm thực ưa chuộng được giới thiệu qua truyền thông như Hanuri, Bibimbap, Tokbokki, Dae Jang Geum, Yashi Yashi… Quảng cáo mỹ phẩm nhan nhãn những Face Shop, Laneige, Iope, Skinfood, Ohui, Sulwhasoo…Tiệm bánh rất tây Tous Les Jours từ cửa vô sảnh từ sảnh ra cửa rân rộ chào khách bằng tiếng Hàn: An-nyong-ha-sê-yo, an-nyơng-higa-se-gô, gam-sa-ham-ni-da…
clip_image004
Photo internet
Các chủ doanh nghiệp mang gia đình sang Việt Nam được công ty trả tiền nhà và một phần học phí cho con em. Cứ thế, họ ồ ạt đổ bộ y như thời kỳ Gold Rush thế kỷ 19, thiết lập cộng đồng riêng với sinh hoạt chợ búa, siêu thị, nhà thờ, có cả trường mẫu giáo tiểu học trung học dạy bằng tiếng Hàn. Họ ở biệt thự của BP Compound hoặc chung cư cao cấp Parkland, Somerset Chancellor Court, Sherwood Residence, Skygarden Phú Mỹ Hưng…, có tài xế, người giúp việc, gác-dan, quản gia, người làm vườn. Lính đánh thuê các bộ môn nhạc, họa, toán, lý, hóa, sinh, văn, ngoại ngữ luân phiên ra vào nườm nượp chào nhau cười giao ca ngay trên chiến tuyến, biến mỗi căn hộ thành một mặt trận văn hóa sôi động. Nói tóm lại họ chọn tạm cư ở một đất nước chưa phát triển để khôn ngoan hưởng thụ một cuộc sống thượng lưu với giá hời khiến dân bản địa chảy nước miếng lẫn nước mắt. Đấy là chưa kể đến các thú vui dễ dãi ban đêm dành cho quý ông và tiệc tùng dập dềnh dành cho quý bà.
Cô Y Nhu lắm lúc tự coi mình thuộc hàng ngũ tập đoàn gia nhân phục vụ lực lượng viễn chinh, có điều cô được đối xử với rất nhiều ưu ái do truyền thống người Hàn tôn sư trọng đạo. Lê la từ gia đình này sang gia đình khác, cô bắt đầu giết giặc từng tên từ 3 giờ chiều. Ngay sau khi tan trường về nhà, trên người còn đồng phục, bọn nhỏ đã phải ngồi vào bàn học nhồi hết môn này đến môn khác, thường khi qua cả giờ ăn tối. Cô có dịp được mời nếm đủ thứ đặc sản rặt Hàn: tteokgalbi, gogi mandu, bokkeumbap, chapagetti, mantu tak…., chứng kiến cách hành xử giữa vợ chồng cha mẹ con cái, cách họ quyết tâm đầu tư cho hậu duệ, tôn vinh tinh thần ái quốc, củng cố niềm tin tôn giáo, hun đúc tham vọng thành đạt, kêu gọi đoàn kết trong cộng đồng Hàn kiều. Cô cũng tìm hiểu thêm về các ban nhạc thần tượng của giới trẻ như Fin.K.L, H.O.T, T-ara, Big Bang; các diễn viên được yêu thích Won Bin, Song Hye Kyo, Kim Sun Ah, Lee Young Jae xuất hiện trong các phim nhiều tập làm nghiêng ngửa các bà nội trợ Việt Nam thậm chí các cô cậu mới lớn qua Ngôi Nhà Hạnh Phúc, Trái Tim Mùa Thu, Nấc Thang Lên Thiên Đường, Tôi Là Kim Sum Soon, My Girl….
clip_image006
T-ara, photo internet


   PHÁ ÁN
   Trần Thị NgH

1.
Đang ngồi lừng khừng trên băng ghế gần cổng số 20 chờ giờ lên tàu bỗng một giọng nữ cao the thé qua máy phóng thanh xướng tên hành khách nghe quen quen, hóa ra là mình. Ui, hành lý có vấn đề khi đi qua màn hình kiểm tra? Đại lý vé máy bay bán hàng giả? 30kg cho phép chỉ toàn quần áo con nít, Vinacafe, cơm cháy chà bông, gạo lứt rong biển sấy khô, nước tương kho quẹt, vài ký giò chả, đồ chơi bằng gỗ của Wiwin Toys, không có ma túy hay hàng quốc cấm. Trong túi chỉ có 320 euros và 733.000 đồng tiền Việt Nam. Cứ ra khỏi nhà liền nơm nớp sợ tai nạn hoặc phạm pháp là sao? Nhưng thật bất ngờ: cơ trưởng chuyến bay VN 2107 SG-CDG, vốn là phụ huynh 2 trò nhỏ học thêm trong các nhóm ngoại ngữ tư gia, có nhã ý đổi thẻ lên tàu chuyển chỗ ngồi cho cô giáo từ hạng cá kèo lên hạng sang. Hú vía.

Đi mây về gió bao nhiêu năm nay cô giáo mới tường tận sự khác nhau giữa cá kèo và cá mập. Ghế hành khách hạng thương gia mênh mông như ghế nhổ răng hoặc giường sản phụ. Khoảng cách giữa hai hàng ghế đủ rộng để kê thêm một giường đơn. Chả bù ngồi hạng bét vẹo cổ trật be sườn, phía trước không đủ chỗ duỗi chân, người ngồi phía sau đạp tới đạp lui vào lưng không khoan nhượng, người ngồi cạnh giang chân khuỳnh tay nhúc nha nhúc nhích đi ra đi vô nườm nượp như bị suy thận. Có khi xui tận mạng ngồi kế bên con nít khóc ằng ặc vì kẹt bó rọ trong hành trình dài, coi như bí lối thoát hiểm.

Xung quanh toàn cá mập, bề thế nhưng nho nhã. Người phàm chân tướng cá kèo cứ việc  giả lơ trùm mền mang vớ làm một giấc 12 tiếng lãng quên đời, choàng mắt dậy sẽ thấy mình ở múi giờ khác của trái đất, cách Phú Nhuận năm tiếng đồng hồ. Nhưng không đơn giản: các em tiếp viên trong khoang này, quả tiếng đồn không sai, chẳng những xinh đẹp bội phần so với các em dưới kia mà còn lưu loát ngoại ngữ, phục vụ hết lòng từng hành khách với thực đơn tự chọn, khăn trải bàn khăn ăn thêu thùa diêm dúa, ly tách chén đĩa dao muỗng tuyệt không món nào bằng nhựa. Được chăm sóc chu đáo, khách khó lòng ngủ thẳng cẳng sợ lỡ mất cơ hội hưởng thụ ngàn năm một thuở. Trước khi máy bay hạ cánh đích thân cơ trưởng còn trao tận tay hành khách ngồi lậu hạng sang một túi quà cây nhà lá vườn Vietnam Airlines.

2.
Quay lại với thời dụng biểu cũ sau 3 tháng hè ngưng chiến, thầy bỗng đâm ra tận tụy đặc biệt với hai trò, một thằng cu tục danh Lôm Côm 11 tuổi, một cái đĩ 16 có nick Lô Lô đang lồ lộ phát triển. Chả là phụ huynh chẳng những thường khi cung phụng miếng ngon vật lạ mà còn hứa hẹn hè sau cô giáo có hợp tác lao động Châu Âu theo chương trình giữ trẻ thường niên xin cho biết trước ngày đi để cơ trưởng bố các cháu xếp lịch bay sao cho linh nghiệm như lần trước. Hừ, ai bảo nghề giáo bạc bẽo?

Mỗi đầu tháng các nhóm học thêm Anh văn tư gia, ngoài một vài học sinh phổ thông, đa phần là công tư chức có địa vị xã hội ra gì với trình độ đại học thuộc nhiều khoa ngành khác nhau, đóng hụi chết cho trưởng nhóm để nộp cô giáo. Vài trưởng nhóm tế nhị xếp toàn tiền mới mệnh giá lớn cho vào một bao thư thơm phức ghi rõ bên ngoài học phí tháng …, lớp….kèm theo lời cám ơn và chúc sức khỏe. Ai bảo thế hệ trẻ hời hợt chứ?

Đã 40 năm cô giáo gắn bó với nghề, tất nhiên chẳng phải vì nó không bạc bẽo, hoa trái phủ phê, bay lượn hạng sang, tiền hô hậu ứng, mà vì …ái da…khó nói ghê. Đám học trò chung tình luôn chấp nhận tan hàng khi cô đi vắng 3 tháng mỗi năm vì việc riêng rồi lại có mặt đông đủ lúc cô quay về. Không ít các em miệt mài lui tới từ thuở son giá đến hồi thành nhân chi mỹ, lập gia đình sinh con đẻ cái xong chờ cho lũ con nít vừa kịp đủ lớn liền mang đến giao trứng cho ác – trong số này, nhiều trứng nở ra gà vịt ngan ngỗng công phụng thiên nga lông mượt đuôi đẹp chân khỏe. Một tương quan lâu bền, lành mạnh, lương thiện, đầy ân tình từ cả hai phía – đây mới là chất dính cần và đủ cho sự ràng buộc.

Thứ hai đầu tuần đầu tháng 6, đùng một cái cô giáo mất bao thư đựng học phí vừa nhận của lớp A 1. Có tuổi rồi, lú lẫn quên trước quên sau, kiếm đồ để lạc, mất chìa khóa cửa, bỏ quên mắt kính, chưa tắt quạt máy, bê nón bảo hiểm cất vô tủ lạnh… là chuyện xảy ra hàng ngày như cơm bữa. Trong tương lai gần có thể bị Alzheimer - quên hết mấy trăm động từ bất qui tắc, hoặc Parkinson – lẩy bẩy quệt không xong một nét sổ nói chi một nét ngang.

Lật từng trang giáo trình của hai lớp vừa dạy xong, quét lau kỹ từng góc lớp, kiểm tra mớ sách báo tạp chí trên bàn viết, kệ tủ, cô lẩm bẩm lầu bầu quái, quái. Mọi giả định đều có thể xúc phạm kẻ bị tình nghi. Thôi mất thì thôi. Cô vẫn quan niệm không có thì không mất, mất thì không có. Nhưng mà vụ này kỳ. Không người lạ ra vào, trong nhà chẳng còn thành viên nào khác ngoài chính cô, các học viên không thể sinh lòng tà trong một môi trường …ư…hướng thiện như lớp học thêm ban đêm, nơi ai cũng tự nguyện và chân thành muốn học hỏi. Học viên đứng tuổi, chín chắn, thâm niên không ai làm thế; khoanh vùng chỉ còn hai đứa con nít đang học lớp 10 có khi lỡ dại.... Lý tưởng và lý thuyết mà nghĩ, trọn một tháng lao động không lương hẳn sẽ không ảnh hưởng chi đến năng suất lao động hay nhiệt tình giảng dạy, tuy nhiên sẽ thật khó ngủ với một vụ án treo. Cô bốc điện thoại gọi trưởng nhóm lớp A 2.
-          Cô lia phong bì học phí của lớp A 1 trên ghế, chỗ kê tấm bảng. Sau lớp 7.00-8.30 của em, cô dọn hàng đóng cửa tiệm thì không thấy nó nữa trong khi phong bì của lớp A 2 em mới nộp vẫn còn y nguyên. He…he…Em hỏi các bạn xem cô có lơ tơ mơ kẹp nó trong số bài đã phát cho lớp em lúc nãy không nhe.
-          Dạ, dạ!
Mười lăm phút sau.
-          Cô ơi, em điện thư điện thoại hỏi vòng vòng 12 bạn có đi học hôm nay, không ai thấy gì hết cô ơi! Chết cha, kỳ quá! Cô xem lại kỹ trong nhà. Em thấy cô rất hay …lia phong bì mỗi đầu tháng. Em cũng có báo với chị trưởng nhóm lớp A 1 rồi.
Năm phút sau. Trưởng nhóm lớp A 1:
-          A-lô, a-lô! Gì kỳ vậy cô?
-          Nộp học phí cho cô rồi, em tiếc lấy lại phải không, nói thật đi!
-          Ặc…ặc…Chắc có kẻ gian trong thời điểm …giao ca rồi! Hoặc người sau cùng của lớp em – hình như là em đó, hoặc người đầu tiên của lớp sau – là trưởng nhóm A 2. Bạn ấy nói chết rồi chắc cô nghi…Ư mà em thấy cô rất hay…
-          …lia phong bì mỗi đầu tháng lãnh lương?
-          Chậc, kỳ quá kỳ quá…Cô xem lại kỹ trong nhà; mai em đi làm sớm ghé qua kiếm tiếp cô.

Trằn trọc, không phải vì tiếc của. Còn khỏe mạnh minh mẫn, còn có thể làm ra của cải; lỡ may tìm ra thủ phạm trong số học viên, lúc ấy mới là tiếc hùi hụi cái mối thâm tình thầy trò. Vậy thôi truy tầm làm chi, ngủ đi, cô tự nhủ. Có khi mai mốt lau quét tổng vệ sinh ăn Tết bỗng lòi ra lộc Alzheimer. Nghĩ thế nhưng cô lẩn thẩn ngồi vẽ lại sơ đồ chỗ ngồi của từng người trong hai lớp vừa dạy, dùng bút đỏ đánh dấu thập vị trí chiếc ghế trên đó đã từng có cái bao thư để cạnh tấm bảng, y như Sherlock Holmes ngứa nghề. Vẽ chơi thôi, thâm tâm cô đã quyết cho vụ này qua phà.

Cú điện thoại 10 giờ đêm thứ ba từ một học viên, có lẽ đã được trưởng nhóm phát tán tin giựt gân, làm cô giáo từ chưng hửng đến xây xẩm bởi lượng thông tin bất ngờ. Chính xác bao nhiêu phần trăm? Thật vô lý nếu chỉ căn cứ vào những điều nghe thấy, cho dù từ một người có đạo đức tốt, mà buộc tội kẻ cắp khi thiếu hẳn bằng chứng vì không bắt quả tang! Gián điệp dè dặt nói đi nói lại, em biết sao nói vậy, không khẳng định đối tượng đề cập là thủ phạm nhe cô. Chà, tính sao đây? Cho chìm xuồng hay trực diện nghi can làm cho ra lẽ để giải tỏa nghi kỵ giữa hơn 20 học viên của hai lớp? Có phải nghĩa vụ nhà giáo là luôn hợp tác chặt chẽ với phụ huynh để giúp bọn trẻ tiến bộ? Nửa thế kỷ đọc truyện trinh thám xem phim điều tra của Mỹ lẽ nào không gặt hái được thứ chi đắc dụng ngoài mục đích giải trí, khác chi nhai kẹo cao su cho ngọt miệng the lưỡi rồi nhả xác?

Sáng thứ tư trước giờ dạy lớp thằng Lôm Côm, cô loay hoay lắp vào thanh chắn cầu thang, phần chiếu nghỉ giữa tầng trệt và tầng một, cái đèn pin trị giá 20 ngàn đồng made in China mua đã lâu ở siêu thị Co-opmart. Ngó lên từ phòng khách, nay đã được biến thành phòng học, cái đèn được ngụy trang máng vắt vẻo trên cao trông nhấp nhóa như màn hình nhỏ của camera an ninh. Khi phụ huynh đến đón thằng nhóc lúc 11.30, cô giáo nói:
-          Lôm Côm, con ra ngoài đứng trông xe cho mẹ, cô có chút chuyện cần bàn với phụ huynh.
Phụ huynh ào vào, hớt hơ hớt hải:
-          Có chuyện gì cô? Thằng cu hư hả cô?
-          Không, thằng cu ngoan. Con gái em đó, em hiểu nó đến đâu?
-          Dạ, Lô Lô hả cô? Dạ em biết nó học không giỏi nhưng cũng chịu khó lắm cô. Tính nó ít nói, hiếm khi tâm sự với mẹ. Dạo này lại còn thêm tật trả treo cãi lý với em nữa…
-          Ý cô muốn hỏi là em biết đến đâu về thành tích ăn cắp của con em trong suốt những năm cấp một cho đến bây giờ?
Im lặng 12 giây.
-          Dạ, em có biết đại khái. Từ hồi mẫu giáo nó đã bắt đầu mang về nhà những thứ không phải của nó….
-          Vậy là bệnh thâm căn hơn 10 năm rồi!
Tập họp thông tin nhận được qua cú điện thoại tối thứ ba, cô bắt đầu nói dối, đánh cú phủ đầu:
      -    Một số bạn của Lô Lô học rải rác các lớp của cô cho biết con bé đã ăn cắp đến nổi danh. Quả tang có, không quả tang có, nhưng lúc nào cũng khóc lóc kêu oan với các thầy cô, riết rồi bạn bè ngao ngán trò diễn kịch, cạch mặt không thèm chơi, đến nước phải tìm cách kết thân với học sinh lớp khác. Hình như em đã từng kẹt vào dăm ba vụ kiện tụng với không ít các phụ huynh, phải nhờ ban giám hiệu phân xử, có lúc phải xin chuyển trường cho con bé? Nghe đâu từ bút thước lặt vặt, máy tính bỏ túi, nay đã chuyển sang các thứ có giá trị, và tiền.
Im lặng 20 giây, phụ huynh chợt mếu máo:
-          Vậy là sao cô?
-          Hôm nay thứ tư, em về nói với Lô Lô chiều nay 4.30 mang trả cho cô giáo cái bao thư đựng 7 triệu học phí của trưởng lớp đóng hôm tối thứ hai, kèm theo lời xin lỗi. Thứ sáu bảo con bé đi học bình thường như thời dụng biểu. Cô sẽ giữ kín và cố quên chuyện này. Tuy nhiên em thì không được quên. Đây là chuyện lớn, nếu không tìm cách điều trị sẽ còn khổ dài dài, đặc biệt là chính…bệnh nhân.
Thảng thốt, bối rối, xấu hổ, bà mẹ trẻ vừa rên vừa nấc cụt:
-          Em biết nó có tật xấu nhưng không ngờ … Hạch hỏi lỡ nó chối thì sao cô?
-          Tất nhiên nó sẽ chối. Ăn thua là em biết cách thuyết phục; nếu cần, kín đáo quan sát và lục soát. Dễ mà, đâu có phải trọng án, mặc dù…quan trọng.
Đưa phụ huynh ra cửa, cô giáo vừa làm bộ thờ ơ chỉ tay về phía cái đèn pin trên thanh chắn cầu thang vừa cố giữ giọng tỉnh:
     -     Nó sẽ chối. Nhưng không sao, nhà cô có gắn camera.
Một thoáng hoảng loạn trong mắt, rồi hai mí dầy nặng cụp xuống sa sầm. Sắp mưa. Giọng nhão như bị nhúng nước, phụ huynh nói:
-          Dạ để trưa ăn cơm xong em dụ nó ra ngoài nói chuyện, sợ thằng Lôm Côm nghe.
-          Rồi. Chiều nay nhe. Đừng đến trễ hơn, sau giờ đó cô có lớp.

4.30 chiều thứ tư, y án, hai mẹ con đến nhưng phụ huynh để con bé đứng ngoài, lụp chụp  vô một mình hấp ta hấp tấp báo:
     -     Em chưa nói gì làm gì với nó hết cô ơi. Em không biết tính sao. Em sợ nó làm dữ.
     -     Được, kêu nó vô đây cô xử giùm cho. Em ngồi dự thính.

Lô Lô 16 tuổi, da bánh mật, đùi dài, cao 1 mét 67, nặng 58kg, khuôn mặt thanh tú, mắt đẹp mũi đẹp miệng đẹp, nụ cười hút hồn. Cô giáo nghĩ, uổng gì đâu! Nhưng có chắc người đẹp là thủ phạm? Hoa hậu, diễn viên, ca sĩ thế giới giàu có vẫn ăn cắp như thường. Hàn quốc có Choi Yoon Yeong, Kim Choo Ri; Nga có Anna Malova; Singapore có Ris Low; Mỹ có Winona Ryder, Megan Fox, Britney Spears; Việt có xướng ngôn viên đài truyền hình quốc gia phụ trách chương trình Văn Hóa Dân Tộc Vũ Kiều Trinh, và nhiều người Việt khác, đẹp hoặc không đẹp, nổi danh hoặc ẩn danh. Còn đây là ái nữ con nhà. Bệnh thật không? Kích thích đầy mê hoặc của cám dỗ, cảm giác hồi hộp khi phạm tội, khoái lạc khi sở hữu một thứ gì đó không phải của mình – ba thứ này khiến người bệnh không thể tự kiểm soát hành vi, rồi liều lượng ngày càng tăng như con nghiện? Cái này phải leo lên Google tra cứu lại.

Nghi can và phụ huynh an tọa. Bà mẹ trẻ, giọng e dè, nói với con gái:
     -    Cô muốn gặp con vì có chuyện muốn nói.
Nghi phạm nhìn cô giáo, cười ngây thơ, hàm răng trắng đều như bắp:
     -    Chuyện gì cô?
Không thấy dấu hiệu lúng túng của một kẻ cắp. Vô tội hay bản lĩnh? Dù gì phải đánh thẳng, trúng trật tính sau.
-          Con mang trả lại cho cô phong bì đựng học phí của lớp. Hôm thứ hai con là người sau cùng rời lớp; học viên đầu tiên của lớp A 2 nhìn thấy con lấy phong bì trắng trên ghế bỏ vào cặp lúc cô quay lưng ra nhà sau uống nước trước khi bắt đầu dạy lớp tiếp theo. Tất nhiên chị ấy không biết đó là học phí của lớp A 1. Sẽ không ai biết tháng này cô dạy không ăn lương vì con đang giữ 7 triệu của các cô chú anh chị trong lớp đóng góp. Dạy chùa, có thể cô sẽ dạy rất dở, ráng chịu.
Chi tiết trên đây hư cấu, thuật ngữ điều tra gọi là nghiệp vụ chuyên môn. Báo chí vẫn thường rao: bằng nghiệp vụ chuyên môn, công an quận X đã phá án trong thời gian kỷ lục, hung thủ cuối cùng cúi đầu thừa nhận mọi tội lỗi. Chêm thêm một câu khôi hài vô duyên về việc dạy học không lương chất lượng kém, cô đã cố gắng làm cho cuộc thẩm tra bớt trầm trọng đi. Không thấy ai cười.
Đôi lông mày đẹp cong lên sửng sốt:
     -    Tiền gì cô? Con đâu có lấy! Con ra sau cùng vì còn đang phải mang vớ.
Ha, ghi một bàn thắng. Nghi phạm thú nhận mình là người ra sau cùng, không phải trưởng lớp A 1 như bạn ấy đã cà rỡn. Phừng chí, cô đánh tiếp – nỉ non như ca vọng cổ, tuy có hơi thiếu tự tin:
     -    Nghe đây! Con đã ăn cắp mà còn nói dối, coi như mắc đến hai tội. Con gái xinh đẹp, sao lại ra nông nỗi? Cứ kiểu này mai mốt ra đời đi làm ăn cắp của đồng nghiệp, biển thủ cơ quan, vướng vòng lao lý, mọi người khinh rẻ, gia đình tan nát…
Rưng rức ấm ứ rồi nức nở, giọng uất nghẹn, mắt bồ câu tuyệt vọng nhìn mẹ như phân trần cầu cứu:
     -    Con không biết cô đang nói gì. Con không có lấy tiền của cô đâu mẹ. Chắc cô để lạc đâu đó. Con lấy 7 triệu của cô làm gì?

Đúng rồi, 16 tuổi lấy 7 triệu làm gì? Đi học có mẹ đưa đón, gia cảnh sung túc, quần áo tư trang toàn hàng hiệu. Chưa chi cô giáo đã bắt đầu cảm thấy dưới cơ. Không thể nào một học sinh lớp 10 lại có khả năng diễn xuất nhập vai, nói dối không lạc giọng, đối phó nhanh nhậy đến vậy trước cú đánh phủ đầu của cán bộ điều tra - tuy nghiệp dư nhưng mặt mũi thường khi nghiêm nghị, làm việc nguyên tắc, lại xém xém bằng tuổi bà ngoại ở nhà. Nao núng, cô tự nhủ chắc mình sai rồi. Thông tin cung cấp có thể hoặc chủ quan hoặc thất thiệt hoặc chụp mũ do xuất phát từ mâu thuẫn cá nhân hoặc gì gì biết đâu được, cho dù tình báo là học viên hạnh kiểm A+, nghĩa rất nặng tình rất sâu.
-          Thôi được. Nếu cô nói sai cho cô xin lỗi, vô cùng xin lỗi. Còn nếu con có lỡ làm bậy thì về nhà suy nghĩ lại. Vẫn còn tối nay và trọn ngày thứ năm cho con sửa sai. Cô chờ. Trong trường hợp con thấy mình vô tội cứ việc thanh thản ra về ăn ngon ngủ yên, thứ sáu đi học bình thường. Tuy nhiên cô cũng nói trước, thứ sáu này mình không học bài mới vì cô sẽ cho cả lớp xem đoạn ghi hình hôm tối thứ hai của camera (cô làm cử chỉ hất đầu về hướng cái đèn pin trên thanh chắn cầu thang); sẽ có sự tham dự của công an khu vực, ba và mẹ con cũng được mời. Sau đó là một bài thảo luận về đề tài tác dụng của máy quay an ninh.
Không thấy chao đảo, dù một thoáng. Ra đến cổng, mặc dù nước mắt nước mũi chèm nhẹp, người đẹp Lô Lô còn quay lại nhắc nhở bà ngoại lẩm cẩm:
-          Cô xem lại kỹ, có khi cô đánh rơi đâu đó hoặc vô ý kẹp trong mấy quyển sách.
-          Rồi, cô sẽ xem lại.

Mê mẩn trước hoạt cảnh không biết diễn hay thật, cô giáo quên phứt sự có mặt của phụ huynh, lỡ mất dịp quan sát phản ứng từ một người mẹ có con bị vạch mặt. Nếu là vu khống, chắc chắn vụ này sẽ gây thảm kịch cho cả ba người. Cô tự hỏi, ở cùng hoàn cảnh bản thân mình sẽ hành xử ra sao? Giờ nhớ lại mới nhận ra có một sự im lặng tuyệt đối về phía người dự thính trong suốt cuộc …đàm phán giữa điều tra viên và nghi can.
                  
3.
Không biết đêm thứ tư và gần trọn ngày thứ năm đã biến động như thế nào đối với Lô Lô, riêng với cô giáo đây là khoảng thời gian bão tố. Cô tự hỏi mình đã làm gì một đứa con nít? Rồi đây suốt đời cô sẽ bị giày vò bởi trò chơi thám tử tai hại nếu phạm sai lầm khó tha thứ. Nghĩ vậy nhưng cô vẫn cứ quanh quẩn lập luận:
- Nếu vô tội, nó sẽ vô tư đi học tối thứ sáu để chứng minh mình trong sạch.
- Nếu đã lỡ làm bậy nhưng không dám trực tiếp thừa nhận, nó sẽ viện đủ cớ để vắng mặt nhằm tránh phải xem phim, và có thể không bao giờ trở lại lớp nữa.
- Nhờ chiến tranh tâm lý, công tác dân vận từ phụ huynh cùng chứng cứ được tìm thấy đâu đó trong giỏ xách hay tủ quần áo, kèm thêm hiệu ứng máy quay giả hiệu, nó sẽ qui hàng vì không còn chọn lựa nào khác, do đó sẽ giao nộp “hung khí gây án” trễ nhất là chiều thứ năm để thứ sáu được đi học bình thường như cô đã hứa sẽ giữ kín và sẽ quên.
- Nếu lì lợm và cao cơ nó sẽ nhơn nhơn xuất hiện đúng ngày giờ đi học như thời dụng biểu vì biết tỏng cô giáo làm quái gì có phim được ghi hình bằng cái đèn pin để chiếu cho cả lớp thảo luận.

Nghĩ cho cùng, dẫu thật sự sở hữu đoạn phim từ máy quay giám sát, liệu cô có đủ can đảm và ác tâm làm nhục một đứa trẻ trước mặt đám đông chỉ vì 7 triệu đồng?

4 giờ 20 phút chiều thứ năm, cô tuyệt vọng thiếu điều muốn …bói hoa - tất nhiên không phải vì nghĩ rằng thôi rồi, đã toi một tháng học phí. Trong tưởng tượng, cô thấy mình ngắt bỏ từng cánh hoa lả tả: nó đến, nó không đến, nó đến, nó không đến, nó đến nó không nó nó….Mỗi cánh hoa rụng xuống cho cảm tưởng toàn thân bị đè nặng gẫy gập, càng lúc càng cụp vẹo, cong vòng. Chịu hết xiết cô vô nhà tắm xả nước gội đầu, tự nhắn nhủ hoa có rụng mới biết đời dâu bể tình có xa rượu uống mới nồng (*), quên béng chẳng biết thơ ai mà thuộc lòng từ thuở tròn trăng. Alzheimer mà!

Chuông cửa kíng kong hai lần khi đầu tóc còn đầy bọt thuốc gội, cô khựng lại nghe ngóng. Chắc ông đổ rác đòi tiền tháng trước chủ nhà đi vắng còn nợ. Kíng kong. Nhịp chuông dồn dập khác thường thể hiện ý chí ngoan cường quyết tâm đòi cho được nợ. Cô quơ vội cái khăn lông lớn trùm lên đầu.

Nó, tay cầm cái bao thư trắng bên ngoài có ghi nắn nót Học phí tháng sáu 2015 lớp A 1. Thank you; đi cùng là một thiếu phụ trung trung được giới thiệu dì ruột, em gái của mẹ. Không cần biết Lô Lô sẽ phân trần giải thích ra sao, cô nghe các túi khí trong hai lá phổi phồng lên xẹp xuống theo nhịp hai, rất đều rất mạnh; toàn thân bỗng dựng thẳng như chiến sĩ trọng thương đang lấy hết sức bình sinh đứng phắt dậy cho địch biết ta đây còn sống. Sống nhưng không đủ đạn để bắn trả vài phát cuối cùng dù chỉ muốn thị uy.


Trần Thị NgH
Châtenay-Malabry, 07.2015


(*) Khúc tiễn Thérèse Kh
Thơ Phạm Cao Hoàng

Ta đưa em qua đò tháng Chạp
Chiều nay hoa trắng rụng bên sông
Hoa có rụng mới biết đời dâu bể
Tình có xa rượu uống mới nồng
…………………………………………….
















27/2/2015


Đĩ Đực













JOHN STEINBECK (1902 – 1968)
THE PASTURES OF HEAVEN

ĐỒNG CỎ THIÊN THAI
Trần Thị NgH chuyển ngữ




Khi The Pastures Of Heaven, tập sách nhỏ 200 trang khổ 12.50cm X 19.50cm được Penguin Books xuất bản vào năm 1932, John Steinbeck chưa là nhà văn, chưa là tác giả nổi tiếng của Chùm Nho Uất Hận (The Grapes Of Wrath), chưa đoạt giải Nobel văn học (1962).
     
John Steinbeck có cha là người Đức, mẹ Á Nhĩ Lan; cả hai di cư từ Đức sang Jerusalem rồi Florida, cuối cùng dừng lại California. Họ chọn Salinas, một thung lũng màu mỡ nằm giữa rặng Galiban phía đông và Santa Lucia phía Tây. Đây là nơi John Steinbeck đã được sinh ra, trải qua thời niên thiếu và thanh xuân, về sau trở thành bối cảnh cho rất nhiều tác phẩm xuất sắc của ông trong đó có Of Mice And Men, The Red Pony và The Grapes Of Wrath.
     
The Pastures Of Heaven là một quyển tiểu thuyết không đồ sộ gồm 12 chương mỏng (Penguin Classics in lại năm 2001) kể về những con người sống trong cùng một khu xóm thuộc thung lũng có tên Đồng Cỏ Thiên Thai cách Monterey 12 dặm. Các nhân vật mắc xích với nhau qua các chương nhưng vẫn có thể tách ra thành từng mẩu chuyện rời; riêng chương VI được giới thiệu dưới đây là câu chuyện về Junius Maltby, người đã đem lòng yêu say đắm thung lũng Salinas, “cưới” lấy nó và vui sống ở đấy, nhàn cư với thứ hạnh phúc của một kẻ cầu bơ cầu bất, hoàn toàn lãng đãng trong cái cộng đồng mà anh quên mất là mình phải thuộc về.

John Steinbeck yêu câu chuyện này đến nỗi đã rứt Junius Maltby ra khỏi The Pastures Of Heaven để in riêng một tập vào năm 1936; thay cho chương VI là một cái tựa hẳn hoi: Nothing So Monstrous.



Junius Maltby là một người đàn ông nhỏ thó xuất thân từ gia đình đàng hoàng có văn hóa, với trình độ học vấn đâu ra đấy. Cha anh qua đời tán gia bại sản. Junius mắc cứng luôn trong cái chân thư ký mà anh bải hoải cầm cự đến 10 năm.
         
Đi làm về Junius rút vào căn phòng được trang bị đầy đủ đồ đạc của mình, vỗ vỗ mấy cái gối dựa trên ghế tràng kỷ rồi trải qua buổi tối đọc sách ở đấy. Anh cho rằng những bài tiểu luận của Stevenson là những thứ đẹp đẽ nhất trong tiếng Anh; anh đã đọc rất nhiều lần tác phẩm Du Hành Với Một Chú Lừa.
         
Một buổi tối không bao lâu sau sinh nhật 35 của mình, Junius bị ngất ngay trên bậc tam cấp ngôi nhà anh đang ở. Khi tỉnh dậy, lần đầu trong đời anh nhận ra mình khó thở. Anh tự hỏi không biết nó bị như vậy từ bao lâu rồi. Vị bác sĩ mà anh tư vấn rất tử tế và tỏ ra hi vọng. “Rồi anh sẽ sớm khỏi thôi”, ông ta nói. “Nhưng nói thật là anh phải bê hai cái lá phổi của anh ra khỏi San Francisco mới được. Anh mà cứ ở chung với sương mù thì sẽ không sống nỗi đến một năm. Nên dọn đến chỗ nào có khí hậu ấm và khô.”
          
Tai nạn xảy ra cho sức khỏe của Junius đã khiến anh quá sức vui, vì nó bứt anh đã khỏi những sợi dây chằng chịt mà bản thân anh không có khả năng dứt bỏ. Anh hiện có năm trăm đô-la, chẳng phải vì anh chắt bóp dành dụm; đơn giản là anh quên tiêu nó đấy thôi. Anh tự nhủ, “với một số tiền nhiều như vậy, hoặc là ta bình phục và bắt đầu lại mới mẻ, hoặc là ta chầu trời và thế là xong cái sự đời.”
         
Một ông trong chỗ làm của Junius kể cho anh nghe về một thung lũng ấm áp và an bình, Pastures of Heaven – Đồng Cỏ Thiên Thai, và thế là Junius đi ngay đến đấy. Cái tên làm anh thích. Anh nghĩ, “có thể là một điềm gở báo trước mình sẽ không qua khỏi, hoặc là một biểu tượng đẹp đẽ thay cho cái chết.” Anh cảm thấy cái tên mang ý nghĩa rất riêng đối với anh, và anh lấy làm thích thú, bởi vì trong 10 năm qua đối với anh đã chẳng có gì gọi là riêng cả.
         
Ở Đồng Cỏ Thiên Thai, một vài gia đình có nhận cho ở trọ. Junius nghiên cứu từng nhà, cuối cùng đến sống ở nông trang của bà góa Quaker. Bà ta đang cần tiền, ngoài ra anh có thể ngủ ở lán trại cách xa hẳn nhà trại. Bà Quaker sống với hai đứa con trai nhỏ và có thuê một ông để làm việc nông.
         
Khí hậu ấm áp tác động dần lên hai lá phổi của Junius. Trong vòng một năm da dẻ anh trở nên hồng hào và anh có lên cân. Anh êm đềm hạnh phúc ở nông trang, cái làm anh vui sướng hơn hết, đó là anh đã dứt bỏ sau lưng 10 năm cặm cụi văn phòng và đã hóa ra lười chảy. Mái tóc vàng thưa của Junius nay rối bù, kính mắt tuột xệ trên hai cánh mũi to, thị lực anh giờ đã tốt hơn, chỉ là thói quen có kính mà anh phải mang nó thôi. Suốt ngày miệng anh luôn có một cọng gì nho nhỏ thò ra, cái thói quen mà bất cứ tay đàn ông nào lười nhất và trầm tư nhất cũng có. Kỳ nghỉ dưỡng này xảy ra vào năm 1910.
         
Vào năm 1911, bà Quaker bắt đầu lo ngại về điều tiếng dèm pha từ những người hàng xóm. Nghĩ đến những lời bóng gió về việc có một gã đàn ông độc thân sống ngay trong nhà mình, bà cảm thấy áy náy bất an. Ngay khi Junius đã rõ rành rành là bình phục, bà góa lập tức thổ lộ những ưu tư của mình. Anh hân hoan cưới bà liền tay. Giờ thì anh có một mái nhà và một tương lai rực rỡ, vì tân phu nhân Maltby sở hữu 200 mẫu đồi cỏ và dưới lũng là 5 mẫu vườn trồng rau quả. Junius cho chuyển đến sách vở, cái tràng kỷ có thể điều chỉnh lưng tựa, một bản sao bức tranh Lễ Hội của Velasquez. Tương lai đối với anh thật giống như một buổi trưa rôm rả nắng.
         
Bà Maltby sa thải người làm công ngay tức thì và bắt ông chồng làm việc; nhưng trong chuyện này bà gặp phải sự kháng cự, càng đáng kinh ngạc bởi vì nó cho thấy chẳng có gì vất vả phải đương đầu. Trong suốt thời kỳ dưỡng bệnh, Junius đã hóa ra yêu thích sự lười biếng. Anh thích thung lũng và đồng ruộng, nhưng chúng như thế nào thì anh thích chúng như thế ấy; anh không muốn trồng thêm cái gì mới, cũng chẳng tha thiết việc phải nhổ bỏ đi cái cũ. Khi bà Maltby ấn vào tay chồng cái cuốc và bắt chàng làm việc ở vười rau, khoảng vài giờ sau nàng bắt gặp chàng ngồi đong đưa chân trong dòng suối đọc một quyển sách bỏ túi có tựa Bắt Cóc. Anh lấy làm ân hận; anh không hiểu vì sao mà chuyện lại xảy ra như thế. Và đó là sự thật.
         
Lúc đầu bà ta cằn nhằn anh dữ dội về thói lười biếng và áo quần luộm thuộm, nhưng rồi chẳng bao lâu sau anh đâm ra có khả năng không lắng nghe vợ mình nữa. Anh suy luận, thật thất lễ khi để ý đến nàng vào cái lúc nàng chẳng còn gì là một phụ nữ. Chẳng khác nào nhìn chằm chằm vào một người què. Thế rồi phu nhân Maltby, sau một thời gian cự nự ông chồng cà lơ phất phơ, chỉ còn biết rên rỉ thở than, bỏ bê cả việc chăm chút tóc tai của chính mình.
         
Giữa năm 1911 và 1917. gia đình Maltby nghèo xác xơ. Đơn giản vì Junius không ngó ngàng chi đến nông trại. Họ thậm chí bán đi vài mẫu đất để có tiền cho cơm ăn áo mặc. Vậy mà chẳng bao giờ đủ. Cái nghèo ngồi bắt tréo chân ngay trên nông trại, và cả nhà Maltby rách rưới thê thảm. Họ chẳng bao giờ có quần áo mới, nhưng Junius khám phá ra những bài tiểu luận của David Grayson. Anh mặc quần có dải yếm ngồi bên dưới tàng cây sung mọc dọc theo bờ suối. Đôi khi anh đọc cho vợ anh và hai thằng nhỏ nghe Phiêu Lưu và Lạc Thú.
         
Đầu năm 1917, bà Maltby phát hiện ra mình sắp có em bé, và cuối năm đó dịch cúm thời chiến hoành hành cả gia đình không khoan nhượng. Có lẽ vì suy dinh dưỡng mà hai thằng bé đổ sập ngay. Trong 3 ngày căn nhà như ngập ngụa không khí bệnh tật, hai đứa nhỏ nóng sốt mê sảng bắt chim chim, những ngón tay chúng quờ bấu miếng vải trải giường, cố níu lấy sự sống. Ba ngày chiến đấu yếu ớt, đến ngày thứ tư thì cả hai đều không qua khỏi. Bà mẹ không biết gì vì bị giữ ở nơi khác, những người hàng xóm đến giúp không có đủ can đảm nói cho bà biết. Cơn sốt đen dịch hạch chụp  lấy bà đúng cái lúc bà đang vượt cạn, người mẹ chết mà chưa kịp thấy đứa nhỏ.
         
Các bà láng giềng đến đỡ đẻ đã đồn khắp thung lũng là Maltby ngồi đọc sách bên bờ suối trong khi vợ con qua đời. Nhưng chuyện này chỉ đúng phần nào thôi. Vào cái ngày ngặt nghèo, anh có đong đưa chân dưới dòng nước thật, chỉ vì anh không biết vợ con anh ốm, nhưng rồi sau đó anh đã lẩn thẩn đi tới đi lui quanh hai đứa trẻ đang hấp hối nói những điều vô nghĩa với chúng. Anh kể cho thằng lớn nghe người ta đã làm kim cương như thế nào. Bên giường của thằng nhỏ, anh giải thích về cái đẹp, về đồ cổ và về biểu tượng của chữ VẠN. Một linh hồn lìa khỏi xác trong khi anh đang đọc to chương hai của Đảo Châu Báu, và anh thậm chí còn không biết nó chết cho đến khi anh đọc hết chương sách và ngẩng lên. Trong suốt những ngày đó anh hoàn toàn ngơ ngác. Anh mang ra cho bọn nhỏ tất cả những gì anh có, nhưng với cái chết cận kề chúng đâu còn mấy tí sức lực. Anh thừa biết chúng yếu oặt yếu oại, và điều này làm cho anh cảm thấy mọi thứ càng kinh khiếp hơn.
         
Khi mấy cái xác được mang đi, Junius trở lại bờ suối đọc vài trang trong quyển Du Hành Cùng Chú Lừa. Anh cười thầm trước sự bướng bỉnh của Modestine. Ngoài Stevenson ra, ai lại có thể đặt tên cho một con lừa là “Modestine” chứ?
         
Một trong các bà hàng xóm gọi anh vào mắng té tát cho một trận ra gì khiến anh bối rối đến không chú ý lắng nghe. Bà ta chống nạnh, nhìn anh chằm chằm với sự khinh bỉ. Sau đó bà mang đứa trẻ đến, một thằng cu, ấn nó vào tay anh. Từ ngoài cổng nhìn ngoái lại, bà ta thấy anh vẫn còn đứng đó với cái sinh vật bé nhỏ đang khóc gào trên tay. Do không thấy có chỗ nào để đặt đứa nhỏ xuống, anh cứ bế nó như thế một lúc lâu.
          
Dân trong thung lũng kể rất nhiều chuyện về Junius. Đôi khi họ ghét anh theo cái kiểu những người bận rộn ghét kẻ ăn không ngồi rồi, đôi khi họ ganh tỵ với sự biếng nhác của anh; thường khi thì họ thương hại anh chỉ vì anh ngớ ngẩn. Không ai trong thung lũng nhận ra anh đang hạnh phúc.
         
Họ kể, theo lời khuyên của một bác sĩ, Junius đã mua một con dê để lấy sữa cho đứa bé. Anh không hề hỏi gì về giới tính của con vật cũng không cho biết lý do vì sao anh cần có một con dê. Khi nó được giao đến anh nhìn phía dưới bụng con vật rồi nghiêm nghị hỏi, “Con dê này có bình thường không?”
          “Tất nhiên”, người chủ nói.
          “Nhưng lẽ ra phải có một cái túi hay một cái gì đó ở đúng   giữa hai chân sau chứ? – ý tôi là, để đựng sữa ấy.”
         
Dân chúng trong thung lũng bàn tán rân rộ về chuyện này. Sau đó khi một con dê khác được mang đến, Junius vật lộn với nó hai ngày mà chẳng thể vắt ra lấy một giọt sữa. Anh đang định trả lại con dê không đạt yêu cầu thì người chủ bày cho anh cách vắt sữa. Một số người đồn rằng anh bế đứa bé đưa xuống dưới bụng con dê cho nó tự bú, nhưng sự thật không phải thế. Dân trong thung lũng bảo nhau là họ không biết làm sao mà anh có thể nuôi đứa nhỏ được.
         
Một ngày nọ Junius đi Monterey mướn một ông già người Đức về giúp anh làm nông. Anh trả công cho lão người làm 5 đô-la, rồi thôi chẳng bao giờ trả nữa. Trong vòng 2 tuần lão mắc chứng lười chảy đến nỗi không làm việc nhiều nhỉnh gì hơn so với ông chủ. Hai người ngồi quây quần thảo luận về những đề tài thú vị vốn thường làm họ hoang mang – sao mà hoa lại có màu chứ - có cái gọi là biểu tượng học trong thiên nhiên chăng – thành phố Atlantis nằm ở đâu  - người Incas táng người chết như thế nào.
         
Vào mùa xuân họ trồng khoai tây, luôn khi muộn, và chẳng ủ tro cho chúng nẩy mầm gì cả. Họ gieo hạt, trồng bắp và đậu Hà Lan, canh chừng được một lúc rồi quên béng. Cỏ dại mọc tràn lan che khuất mọi thứ. Không có gì lạ khi thấy Junius chui vô bụi rậm rối nùi cây cẩm quỳ rồi ngoi ra mang theo một trái dưa chuột tái me tái mét. Anh đã thôi mang giày vì thích cái cảm giác đất ấm dưới lòng bàn chân, và vì anh chẳng có giày nữa.
         
Junius thường hàn huyên rất nhiều với lão Jacob Stutz vào buổi trưa. “Lão biết không,” anh nói, “khi mấy đứa nhỏ không qua khỏi, tôi nghĩ tôi đã đạt đến đỉnh điểm kỳ quặc của sợ hãi, nhưng rồi sự hãi hùng biến thành sầu muộn rồi sầu muộn thu nhỏ lại thành buồn bã. Tôi cho là mình đã không biết rõ vợ con. Có lẽ vì họ quá kề cận. Thật kỳ quái, cái sự biết ấy. Nó chẳng là gì ngoại trừ cái biết về các chi tiết. Có những bộ óc có thể nhìn thấy viễn cảnh và có những kẻ chỉ có thể nhìn gần. Tôi chưa bao giờ có thể thấy được những thứ ở sát bên mình. Thí dụ như tôi biết rất rõ về Parthenon hơn chính căn nhà của tôi ở đàng kia.” Đột nhiên mặt Junius có vẻ như rưng rưng cảm xúc, hai mắt sáng rực lên. “Jacob,” anh nói, “lão có thấy hình tác phẩm chạm nổi ở gờ tường ngôi đền Parthenon chưa?”
          “Rồi, đẹp quá trời,” Jacob nói.

Junius đặt tay lên đầu gối của lão làm công. “Những con ngựa đó,” anh nói, “những con ngựa diễm ảo trên đồng cỏ thiên thai. Những chàng kỵ sĩ sôi sục nhiệt huyết uy nghiêm trên yên cương phi ngựa về hướng lễ hội đang tưng bừng ở phía góc kia của mái gờ. Tôi tự hỏi làm sao mà một con người lại có thể biết một con ngựa sẽ cảm thấy như thế nào khi nó vui; nhà điêu khắc hẳn phải biết rõ, không thôi thì ông ta đã không thể làm ra được một kiệt tác như thế.”

        
Đó là cách diễn biến của các cuộc thảo luận. Junius không thể trụ lâu ở một đề tài. Thường khi hai người đàn ông đói meo vì đến giờ ăn tối mà họ không tìm ra cái ổ gà trong đám cỏ.

Thằng bé con của Junius được đặt tên là Robert Louis, Junius gọi nó như thế vì đã nghĩ ra như thế, nhưng Jacob Stutz chống đối những gì lão cho là giá trị của văn chương. “Con trai phải được đặt tên như chó,” lão khăng khăng. “Một âm là đủ rồi. Thậm chí Robert cũng là quá dài. Nó lẽ ra phải được gọi là Bob.” Jacob gần như đạt được ý nguyện.
          “Thỏa thuận với lão như thế này nhé,” Junius nói. “Chúng ta sẽ gọi thằng bé là Robbie. Robbie rõ ràng là ngắn hơn Robert, lão không thấy vậy sao?”
         
Anh thường khi nhượng bộ Jacob vì lão này cứ phải giải quyết mớ mạng nhện đang bủa giăng tứ tung. Năm khi mười họa, anh nổi giận, một cơn giận đầy vẻ phẩm hạnh, anh đã tự làm vệ sinh căn nhà.
         
Robbie nhọc nhằn lớn. Nó lẽo đẽo theo hai người đàn ông, lắng nghe những cuộc thảo luận của họ. Junius không bao giờ đối xử với nó như một đứa trẻ bởi anh có biết trẻ con được đối xử như thế nào đâu. Nếu Robbie nhận định về một cái gì đó, hai ông trân trọng lắng nghe và đưa ý tưởng ấy vào câu chuyện của họ, thậm chí sử dụng nó như một chủ đề cho việc điều nghiên. Chỉ nội trong một buổi chiều họ có thể truy nguyên ra được rất nhiều thứ. Mỗi ngày đều có những đợt tấn công vào pho Bách Khoa Toàn Thư của Junius.
         
Một cây sung to có nhánh de ngang một con suối, và chính nơi đó hai người đàn ông ngồi ngâm chân dưới nước, ngón chân di di những hòn sỏi trong khi Robbie cố hết sức để bắt chước họ. Chạm chân tới mặt nước là một trong những điều nó quyết phải làm được trong đời. Dạo này Jacob cũng đã bỏ giày; Robbie thì chưa hề mang giày bao giờ.
         
Các cuộc thảo luận của họ rất thông thái hàn lâm. Robbie không thể có ngôn ngữ trẻ con vì nó chưa bao giờ được nghe qua. Họ không trò chuyện; đúng ra họ để cho một hạt tư tưởng tự đâm chồi nẩy lộc rồi kinh ngạc quan sát những nhánh cành tự chúng đâm vươn. Họ sửng sốt trước trái cây kỳ lạ đậu ra từ câu chuyện của họ vì họ nào có điều khiển tư duy, cũng chẳng bắt giàn cho nó leo hay tỉa tót nó theo cái kiểu người ta thường làm.
         
Đấy, ba người cứ thế mà ngồi trên nhánh cây de ngang suối. Quần áo rách rưới, tóc tai chỉ có vén ra một tí để chừa hai con mắt. Hai ông người lớn râu ria xồm xoàm. Họ quan sát những con nhện nước trên mặt ao bên dưới, vũng nước đã được làm sâu thêm bởi những ngón chân nhàn rỗi của họ. Cây sung to đùng phía trên đầu họ xào xạc trong gió và đôi khi thả xuống một chiếc lá như một cái khăn tay màu nâu. Robbie năm tuổi.
          “Tôi cho sung là một loại cây lành,” Junius xem xét một chiếc lá rơi trên đùi. Jacob nhặt nó lên rồi tước phần thân lá ra khỏi gân lá.
          “Vâng,” lão đồng ý, “chúng mọc cạnh sông nước. Những thứ tốt lành ưa thích nước. Những thứ xấu xa luôn khô khốc quắt queo.”
          “Sung to lớn và lành,” Junius nói. “Dường như thứ gì tốt lành đều phải to lớn để sinh tồn. Nhỏ mà tốt luôn luôn bị tiêu diệt  bởi những cái nhỏ mà xấu. Những thứ to lớn hiếm khi độc địa gian ác. Vì lý do này mà trong suy nghĩ của con người cái lớn lao là kết quả của cái tốt, còn cái nhỏ nhoi là do cái xấu xa mà ra. Con có hiểu không, Robbie?”
          “Có ạ,” Robbie nói. “Con hiểu chứ. Như voi đó.”
          “Voi thường xấu xa, nhưng nhìn chúng, ta lại nghĩ chúng hiền lành.”
          “Còn nước thì sao,” Jacob chen lời. “Nước có vậy không?”
          “Không. Nước thì không.”
          “Nhưng tôi hiều rồi,” Junius nói thêm. “Ý lão muốn nói nước là hạt giống của đời sống chứ gì. Trong 3 thành tố thì nước là mầm, đất thai nghén và ánh mặt trời tạo hình cho sự tăng trưởng.”
         
Theo cách thức đó, họ dạy cho Robbie toàn thứ vớ vẩn.
Dân trong đồng cỏ né xa Junius Maltby sau khi vợ con anh qua đời. Những câu chuyện kể về sự nhẫn tâm của anh trong suốt thời kỳ bệnh dịch hoành hành bị thổi phồng đến nỗi chính cái sức nặng của sự phóng đại đã đè bẹp những lời đồn đãi và hầu như rốt cuộc chúng bị lãng quên đi. Nhưng mặc dù những người láng giềng có cho qua đi việc Junius đọc sách trong khi con cái hấp hối, họ vẫn không quên cái vấn đề đang hình thành nơi anh. Thung lũng mầu mỡ mà anh sống nghèo đến khiếp. Trong khi những gia đình khác tạo dựng được tài sản nho nhỏ, mua xe Ford và máy phát thanh, bắc điện đóm và mỗi tuần đi xem phim hai lần ở Monterey hoặc Salinas thì Junius suy sụp và trở nên te tua hoang dã. Cánh đàn ông trong thung lũng bực tức vì phần đất dưới lũng tốt đến vậy mà bây giờ cỏ dại tràn lan, vườn cây ăn trái không chăm bón, rào giậu ngả nghiêng. Cánh đàn bà căm ghét anh khi nghĩ đến căn nhà bẩn thỉu rác rưởi đầy sân cửa sổ dơ dáy. Cả đàn ông lẫn đàn bà đều không ưa nơi anh sự nhàn rỗi và sự thiếu tự trọng. Đã có một dạo họ ghé thăm anh với hi vọng kéo anh ra khỏi sự lười biếng nhờ nhìn thấy nơi họ những tấm gương gần kề. Nhưng anh đón tiếp họ tự nhiên thân thiện và bình đẳng. Anh chẳng xấu hổ tí tẹo về tình trạng nghèo khổ rách rưới của mình. Dần dần láng giềng của Junius đến nước phải nghĩ về anh như một kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Họ loại anh ra khỏi cái cộng đồng đã đâu vào đấy và quyết không tiếp anh lỡ có khi nào anh ghé qua họ.
         
Junius không biết gì về việc anh bị hàng xóm khinh ghét. Anh vẫn cứ hân hoan vui đời. Một cuộc đời mà theo anh nghĩ, nó mơ mộng, lãng mạn và rất không có chi là quan trọng. Anh hài lòng ngồi trong nắng đong đưa chân dưới dòng suối nhỏ. Nếu anh không có quần áo đàng hoàng để mặc thì nghĩ cho cùng anh đâu có nơi nào để đi mà phải khăn áo bệ vệ chứ.
         
Mặc dù dân chúng hầu như ai cũng không ưa Junius, họ lại thấy thương tội cho nhóc Robbie. Các bà hành tỏi với nhau, thật là kinh khủng để cho một đứa nhỏ lớn lên trong nhớp nhúa như vậy. Nhưng vì là những người tốt, họ buộc lòng không can dự vào việc nhà của Junius.
          “Hãy chờ cho tới lúc thằng nhỏ đến tuổi đi học,” trong phòng khách nhà mình, bà Banks nói với một nhóm các bà. “Giờ chúng ta muốn làm gì cũng không được. Nó thuộc quyền sở hữu của cha nó. Nhưng ngay khi thằng nhỏ được 6 tuổi, tôi nói cho các bà biết nhé, rồi hội đồng làng xã sẽ lên tiếng cho mà xem.”
          Bà Allen gật đầu và nhắm mắt lại nghiêm túc nói, “chúng ta quên mất rằng thằng nhỏ cũng là con của bà Quaker chứ đâu chỉ của mỗi Maltby. Tôi nghĩ lẽ ra mình phải can thiệp lâu rồi. Giờ chờ cho nó đi học mình sẽ cho thằng nhỏ đáng thương một vài thứ mà nó chưa bao giờ có.”
          “Điều tối thiểu mình có thể làm là xem xét coi nó có đủ quần áo để che thân không,” một bà khác tán thành.
         
Có vẻ như cả làng xã đang ngồi co cụm lại rình chờ cái lúc Robbie đi học. Vào ngày khai trường, khi Robbie không xuất hiện  sau sinh nhật sáu tuổi, John Whiteside, thư ký ban giám hiệu, viết  thư cho Junius Maltby.
          Sau khi đọc lá thư Junius nói, “Bố đã không nghĩ đến chuyện này. E là con sẽ phải đi học thôi.”
          “Con không muốn đi học,” Robbie nói.
          “Bố biết. Chính bố cũng không muốn con đi. Nhưng chúng ta có luật pháp. Luật có thêm phần phụ gọi là chế tài. Chúng ta phải cân nhắc chọn lựa giữa niềm vui phạm luật và sự trừng phạt. Người Carthaginian trừng phạt cả những kẻ bất hạnh. Nếu một vị tướng vì rủi ro mà thua trận, ông ta sẽ bị hành quyết. Ngày nay chúng ta trừng phạt những người gặp nạn trong sinh sản và do hoàn cảnh cũng bằng cách thức y như thế.”
          Trong cuộc thảo luận diễn tiến sau đó, họ quên đi lá thư.  John Whiteside gửi thêm một thư  ngắn gọn.
          Khi nhận được, Junius nói, “thôi nào Robbie, bố nghĩ con phải đi học thôi. Dĩ nhiên người ta sẽ dạy cho con nhiều thứ bổ ích.”
          Robbie van nài, “chứ sao bố không dạy con?”
          “Ồ, bố không dạy được. Con thấy đấy, bố quên những thứ người ta dạy rồi.”
          “Con chẳng muốn đi chút nào. Con không muốn biết này biết nọ.”
          “Bố biết con không muốn, nhưng cũng không thấy có cách giải quyết nào khác.”
         
Và thế là một buổi sáng Robbie lê bước đến trường. Nó mặc một cái quần có dải yếm cũ nát lòi cả đầu gối và mông, ngoài phủ một áo sơ-mi xanh da trời đã mất cổ, chấm hết. Mái tóc dài của nó vắt ngang đôi mắt xám tro, y như bờm ngựa.
          
Trong sân trường, bọn trẻ quay tròn xung quanh thằng bé và im lặng ngó nó trân trân. Chúng đã có nghe nói về gia đình Maltby nghèo rớt mồng tơi và ông bố lười chảy. Chúng mong ngóng cái lúc được hành hạ Robbie. Thì cái lúc đó đã tới; nó đứng đó trong vòng tròn, còn bọn chúng thì chỉ có nhìm chăm bẳm. Chẳng đứa nào nói, “Kiếm đâu ra bộ quần áo đó vậy.” hay “ngó tóc nó kìa.” Như chúng đã dự tính. Bọn trẻ bối rối vì không thể làm cho thằng nhỏ  xấc bấc xang bang.
          
Về phần Robbie, nó nhìn cái vòng tròn bằng con mắt tò mò, chẳng một chút sợ hãi. “Các cậu có chơi trò chơi không?” nó hỏi. “Bố tớ nói các cậu có chơi trò chơi mà.”
Thế là cái vòng tròn đứt ra, rân rộ tiếng la hét. “Nó không biết chơi gì cả.” – “Bày cho nó chơi bóng chày đi.” - “Thôi, trò em bé da đen đi.” “Nghe này! Nghe này! Chơi trò căn cứ tù binh trước cái đã.” – “Á, nó không biết chơi gì sất!”
Và mặc dù chúng không hiểu vì sao, chúng lại nghĩ rằng không biết chơi trò gì cũng là một điều hay. Khuôn mặt gầy gò của Robbie lộ vẻ háo hức. “Mình sẽ chơi bóng chày trước,” nó quyết định. Nó vụng về với những trò chơi mới, nhưng những người chỉ vẻ cho nó vẫn không thổi còi phạt thua. Thay vì thế chúng cãi cọ dành nhau cái quyền được bày cho nó cách cầm chày. Với môn chơi này có một vài trường phái. Robbie đứng sang một bên lắng nghe một lúc, cuối cùng nó chọn riêng cho mình một sư phụ.
         
Ảnh hưởng của Robbie tác động tức thì lên toàn trường. Những đứa lớn hơn hoàn toàn để yên cho nó, những đứa nhỏ hơn bắt chước y hệt nó trong mọi cách thức, thậm chí xé rách quần ở gối. Khi chúng ngồi ngoài trời tựa lưng vào tường ăn trưa, Robbie kể cho chúng nghe về bố của nó và về cây sung. Chúng chăm chú lắng nghe và ước chi bố chúng cũng lười biếng và hiền lành như vậy.
          
Đôi khi vài cu cậu cãi lời cha mẹ, lẻn đến chỗ của nhà Maltby vào ngày thứ bảy. Junius hồn nhiên rủ chúng đến nhánh cây sung, và trong khi bọn nhóc ngồi dàn hai bên, anh đọc Đảo Châu Báu cho chúng nghe, hoặc mô tả những cuộc chiến của Gallic hoặc trận Trafalgar. Chẳng mấy chốc, với sự hỗ trợ của bố, Robbie trở thành thủ lĩnh trong sân trường. Điều này được chứng minh qua việc nó không có bạn thân, không có bí danh, và nó làm trọng tài phân xử mọi cuộc cãi vã. Nó được tâng bốc tán dương đến mức chẳng có mống nào muốn thử đánh nhau với nó.
         
Mãi sau Robbie mới dần dần nhận ra nó cầm đầu bọn nhỏ tuổi hơn trong trường. Có một cái gì đó điềm tĩnh và chín chắn nơi con người nó khiến cả lũ phong cho nó làm lãnh tụ. Chẳng bao lâu nó trở thành người quyết định trò chơi. Với món bóng chày, nó là trọng tài vì bất cứ đứa nào ra luật cũng gây ra rắc rối. Trong khi bản thân nó chơi dở ẹ, những câu hỏi về lề luật bao giờ cũng dành riêng cho nó giải đáp.
         
Sau một buổi thảo luận rõ lâu cùng với Junius và Jacob, Robbie phát minh ra hai trò chơi rất được ưa thích, một là Chó Sói Rình Mồi, một kiểu chơi địa phương nhại theo Thỏ và Sói, trò kia là Thọt Chân, một dạng đuổi bắt. Đối với cả hai món này nó lập ra một số qui luật cần thiết.
         
Cô Morgan cực kỳ quan tâm đến Robbie vì nó là đứa gây ngạc nhiên ở cả lớp học lẫn sân chơi. Nó đọc giỏi và sử dụng ngôn từ của người lớn nhưng lại không biết viết. Nó quen thuộc với những con số dù lớn đến mấy, tuy nhiện nó không chịu học, thậm chí bài số học đơn giản nhất. Robbie vật vã với môn tập viết. Nó quều quào những con chữ quái đản trên giấy vở. Cô Morgan rốt cuộc phải cố giúp nó.
          “Chọn lấy một câu gì đó rồi viết đi viết lại cho đến khi nào em làm được một cách hoàn chỉnh,” cô gợi ý. “Cẩn thận với từng chữ cái.”
          Robbie lục lọi trong trí để tìm cái câu nó thích. Sau cùng nó viết, “Không có gì là quá kỳ vĩ nhưng chúng ta có thể tinh tưởn điều đó ở chín chún ta.” Nó thích cái từ “kỳ vĩ”, nghe rất có âm sắc và sâu lắng. Nếu có những từ mà qua sức mạnh âm sắc, có thể lôi bật ra được các thiên tài không chịu xuất đầu lộ diện thì đây là một. Nó chép tới chép lui, đặt hết tâm trí vào việc tô vẽ chữ “kỳ vĩ”. Sau một giờ cô Morgan đến xem nó làm được đến đâu.
          “Gì đây Robert, thiên địa ơi em nghe câu này ở đâu thế?”
        “Thưa cô, là của Stevenson. Bố em thuộc gần như nằm lòng trọn tác phẩm.”
          Tất nhiên cô Morgan đã nghe tất cả những câu chuyện không ra gì về Junius, dù vậy cô vẫn ủng hộ anh. Còn bây giờ thì cô có một khao khát mãnh liệt muốn gặp anh.
          
Các trò chơi trong trường bắt đầu hết lực hấp dẫn. Một buổi sáng trước khi đi học Robbie mang chuyện này ra than thở với Junius. Anh gãi râu và nghĩ ngợi. Cuối cùng anh nói, “Dọ thám là một trò chơi thú vị. Bố nhớ là trước đây bố từng rất thích trò chơi dọ thám.”
          “Nhưng mà tụi con dọ thám ai mới được chứ?”
          “Ồ, ai cũng được mà. Không thành vấn đề. Hồi đó bọn bố dọ thám tụi Ý.”
         
Robbie hào hứng chạy ù đến trường, và trưa hôm đó, sau khi dò tìm tự điển nhà trường một lúc lâu, nó thành lập tổ chức N.M.V.T.N.H.T.T.B.B.N dịch ra là Nhóm Mật Vụ Thiếu Nhi Hỗ Trợ Tình Báo Bài Nhật. Nếu không vì lý do nào khác, cái tên vĩ đại  này sẽ biến tổ chức thành một lực lượng đáng kể. Robbie đưa từng đứa đến chỗ bóng râm của cây liễu trong sân trường, bắt phải bảo mật bằng một lời thề kinh thiên động địa. Sau đó nó cho cả bọn gặp nhau. Robbie giải thích cho cả bọn biết rằng chắc chắn một ngày nào đó chúng ta sẽ có chiến tranh với Nhật.
          “Tốt hơn là nên sẵn sàng,” nó nói. “Biết càng rõ về những hành tung tàn độc của bọn gian ác, chúng ta có thể cung cấp cho đất nước càng nhiều thông tin tình báo một khi chiến tranh xảy ra.”
         
Bài diễn từ quá hớp đối với những ai có tên trong tổ chức. Chúng đâm hoảng trước sự nghiêm trọng của tình hình qua những lời như thế. Vì bây giờ dọ thám là việc của toàn trường, cu cậu  Takashi Kato, học sinh lớp ba, kể từ nay sẽ không còn phút giây nào gọi là yên ổn. Nếu Takashi giơ hai ngón tay lên ở trường, Robbie đưa một cái nhìn ngụ ý về phía một trong những tên thuộc nhóm Mật Vụ Hỗ Trợ, và rồi một cánh tay thứ nhì hung hăng vung lên không. Khi Takashi đi bộ về sau giờ học, ít nhất năm đứa rình mò trong các bụi cây ven đường cái. Cuối cùng, ông Kato, một đêm nọ đã nã súng hú họa vào bóng tối sau khi trông thấy một khuôn mặt da trắng nhìn vào cửa sổ nhà ông. Robbie buộc lòng triệu tập bọn thiếu nhi Mật Vụ Hỗ Trợ và ra lệnh ngưng việc dọ thám buổi tối. “Ban đêm thì chúng không thể làm được điều chi thực sự quan trọng,” nó giải thích.
          
Về sau Takashi không còn bị khốn khổ bởi việc rình mò chĩa mũi dùi vào nó nữa, vì kể từ khi nhóm Thiếu Nhi Hỗ Trợ có nhiệm vụ canh chừng nó, không có chuyến đi chơi quan trọng nào mà bọn này không dắt nó theo, bởi chẳng đứa nào chịu bị bỏ lại để ở nhà canh gác thằng nhỏ.
         
Bọn Thiếu Nhi Hỗ Trợ bị một cú choáng váng khi Takashi, bằng cách nào đó, đã biết được tổ chức của chúng và xin được kết nạp.
          “Tớ không có lý do gì cho cậu gia nhập,” Robbie nhã nhặn giải thích. “cậu là người Nhật mà bọn tớ thì ghét Nhật.”
          Takashi gần như phát khóc. “Tớ sinh ra ở đây mà, cũng giống như mấy cậu,” nó nức nở. Tớ cũng là người Mỹ tốt như các cậu, đúng không?’
          Robbie suy nghĩ rất lung. Nó không muốn tàn nhẫn với thằng bé. Rồi mặt nó dãn ra. “Nè, cậu có biết nói tiếng Nhật không?” nó hỏi.
          “Tất nhiên, khá tốt.”
          “Được, vậy cậu làm thông ngôn cho bọn tớ và giải mã những tin mật.”
          Takashi mừng ra mặt. “Chắc chắn tớ làm được,” nó kêu lên đầy nhiệt tình. “Và nếu các cậu muốn, tớ sẽ dọ thám chính ông già của tớ.”
Nhưng việc này không xong. Không còn ai để dọ thám ngoài ông Kato, mà ông Kato thì có súng.
         
Lễ Các Thánh đi qua rồi đến Lễ Tạ Ơn. Trong thời gian này ảnh hưởng của Robbie lộ rõ nét qua sự phát triển từ vựng trong bọn nhỏ, và qua cái việc cả bọn đâm ra ghét mang giày hoặc ghét khoác lên người cái gì có vẻ tươm tất. Vô tình Robbie đã hình thành một phong cách, có lẽ không mới mẻ gì, nhưng lại qui tắc hơn trước đây. Mặc quần áo đẹp là không xứng đẳng cấp đàn ông, hoặc tệ hơn, bị coi là một điều xúc phạm đối với Robbie.
         
Một trưa thứ sáu Robbie viết 14 tin nhắn và bí mật chuyển cho 14 đứa trong sân trường. Tất cả các tin nhắn đều có cùng nội dung. “Dân da đỏ sắp sửa thiêu sống Tổng Thống Mỹ ngày mai lúc 10 giờ tại giàn thiêu đặt ở nhà tớ. Hãy lẻn đến đấy, khi đi tới cánh đồng dưới lũng, tru lên như cáo. Tớ sẽ có mặt để đưa các cậu đi cứu mạng cái kẻ đáng thương.”
         
Đã nhiều tháng qua cô Morgan có ý định ghé thăm Junius Maltby. Những câu chuyện kể về anh và việc tiếp xúc với Robbie đã đẩy sự tò mò của cô lên đến cực điểm. Thỉnh thoảng trong lớp học lại có một đứa tung tin giựt gân. Thí dụ cái đứa nổi tiếng ngu nhất lớp bỗng bảo cho cô biết là Hengest và Horsa xâm lược nước Anh. Khi bị ép khai, nó thú nhận thông tin này có được từ Junius Maltby và là nguồn tin mật. Chuyện về con dê đã làm cô giáo thích thú đến mức viết ra thành truyện rồi gửi đến cho một tạp chí, nhưng người ta không chịu đăng. Cô đã chọn đi chọn lại một ngày thuận tiện để đi bộ đến nông trang Maltby.
         
Vào một sáng thứ bảy của tháng 12, cô thức dậy và cảm nhận được cái giá rét trong không khí, lại có nắng rực rỡ. Sau điểm tâm cô mặc một váy nhung mang ủng rồi rời nhà. Ra đến sân, cô cố dụ mấy con chó đi cùng nhưng chúng chỉ cụp đuôi quay lại ngủ tiếp trong nắng sớm.

Chỗ của nhà Maltby cách một hẻm núi nhỏ có tên Gato Amarillo khoảng hai dặm. Một dòng suối bên đường cái, cỏ lưỡi kiếm mọc rậm rạp bên dưới những cây tổng quán sủi. Khu hẻm núi rất lạnh vì mặt trời chưa qua đến đỉnh. Trong khi đang đi, có lúc cô Morgan nghe tiếng bước chân và tiếng nói ở phía trước, nhưng khi cô đi vội lên chỗ cua quẹo thì chẳng thấy ai. Tuy thế, những bụi cây bên vệ đường cứ lao xao lác xác một cách bí ẩn.
         
Dù chưa bao giờ đặt chân đến vùng này, cô Morgan nhận ra nó ngay khi đến nơi. Rào giậu ngả nghiêng nằm rã rượi bên dưới những bụi gai. Cây ăn trái thò cành đâm xuyên qua rừng cỏ dại. Dây dâu rừng bò lên những cây táo; sóc, thỏ quấn vướng dưới chân, chim câu rù rì vỗ cánh bay huýt. Ở một cây lê mọc dại cao to bọn chim giẻ cùi lam kêu quang quác chói tai trong một cuộc tranh cãi. Thế rồi bên cạnh một cây du chằng chịt dây bìm bìm bị đông cứng lại vì giá rét, cô Morgan nhìn thấy mái nhà Maltby với những tấm ván lợp cong vẹo phủ đầy rêu. Chỗ này, trong sự tĩnh lặng, giống như bị bỏ hoang đã một trăm năm. Cô nghĩ, “Ôi sao mà tàn tạ nhếch nhác đến như thế. Sao mà đẹp và bệ rạc đến như thế!” Cô tự cho phép mình vào sân qua một cái cửa nhỏ cạnh cổng, nó vẫn còn bám lay lắt vào một thanh sắt duy nhất. Nhà trại xám xịt vì mưa gió, trên các bức tường bên hông nhà dây leo tha hồ vươn ra những ngón tay dài. Cô Morgan quẹo quanh góc nhà rồi dừng lại trên lối đi; cô há hốc mồm lạnh cả sống lưng. Ở giữa sân có dựng một cây cột, một ông già rách rưới bị cột vào đấy bằng nhiều vòng dây thừng. Một người đàn ông khác trẻ hơn và nhỏ thó hơn, nhưng thậm chí còn tang thương hơn đang chất củi quanh chân tên tù binh. Cô Morgan rùng mình bước lui lại phía sau góc nhà. Cô tự nhủ, “Chuyện như thế này không thể xảy ra được. Mình đang mơ. Chuyện này làm sao xảy ra được chứ!” Và rồi cô nghe được cuộc trò chuyện dễ thương giữa hai người đàn ông.
          “Gần 10 giờ rồi,” kẻ tra tấn nói.
          Tù binh đáp. “Vâng, mà ông phải cẩn thận khi châm lửa vô mớ cành khô đấy. Khi nào thấy bọn chúng đến rồi mới châm lửa.”
         
Cô Morgan suýt rú lên mừng hết vía. Cô bước hơi liêu xiêu về phía giàn thiêu. Người không bị trói quay lại và nhìn thấy cô. Trong một khắc anh có vẻ ngạc nhiên, nhưng ngay lập tức trở lại như thường và cúi chào. Cái cúi chào từ một người ăn mặc rách rưới râu tóc bện cả vào nhau trông thật kỳ quặc và đáng yêu.
          “Tôi là cô giáo,” cô Morgan hổn hển giải thích. “Tôi chỉ ra ngoài đi dạo một lát và rồi thấy cái nhà này. Trong một phút tôi đã tưởng cuộc hành quyết hỏa thiêu này là nghiêm chỉnh.”
          Junius mỉm cười. “Nhưng nó nghiêm chỉnh mà. Còn hơn là cô nghĩ nữa. Trong một phút tôi đã tưởng cô là người đến cứu. Giải thoát tù binh được dự kiến vào lúc 10 giờ, cô biết đấy.”
         
Trong những rặng liễu phía dưới kia của ngôi nhà, tiếng chồn cáo bỗng rân rộ. “Chắc là nhóm giải cứu,” Junius nói tiếp. “Xin lỗi có phải cô là cô Morgan? Tôi là Junius Maltby, còn quí ông đây ngày thường tên là Jacob Stutz. Tuy nhiên hôm nay ngài là Tổng Thống của nước Mỹ sắp bị thiêu sống bởi dân da đỏ. Có lúc chúng tôi định cho lão ấy làm Guinevere, nhưng mặt mày hốc hỏm thế kia thì làm tổng thống có vẻ hợp hơn, cô có nghĩ vậy không? Ngoài ra lão lại còn không chịu mặc váy.”
          “Tào lao,” ngài Tổng Thống nói với vẻ câng câng tự mãn.
          Cô Morgan phá ra cười. “ Cho phép tôi xem cuộc giải cứu tù binh nhé, ông Maltby?”
          “Tôi không phải Maltby, tôi là 300 tên da đỏ.”
         
Tiếng chồn cáo lại rộ lên. “Cô đến chỗ bậc tam cấp mà ngồi,” 300 tên da đỏ nói. “Ở đấy cô sẽ không bị nhầm là một tên da đỏ và không bị thảm sát.” Anh hướng mắt về phía dòng suối. Một cành liễu lay động mạnh. Junius đánh diêm vào quần và châm lửa vào đống củi bên dưới giàn thiêu. Khi ngọn lửa bùng lên, những cây liễu như bung ra thành từng nhánh nhỏ và mỗi nhánh bật ra tiếng reo hò. Đám đông tiến về phía trước trang bị bằng bất cứ loại vũ khí kinh khủng nào có được, y như người Pháp lúc phá ngục Bastilles. Lửa bị đá mạnh sang một bên khi vừa liếm tới chân Tổng Thống. Những anh hùng giải cứu sôi nổi tháo bỏ dây thừng, và Jacob Stutz đứng đấy, tự do và sung sướng. Lễ ăn mừng tiếp sau đó cũng không kém phần ấn tượng. Bọn con trai đứng dàn chào, Tổng Thống theo nhịp duyệt binh bước đến bên đội ngũ giải cứu gắn lên yếm tạp từng người một con ốc sên đúc bằng chì trên có khắc chữ ANH HÙNG. Trò chơi kết thúc.
         “Thứ bảy tới chúng ta sẽ treo cổ mấy tên tội phạm đã có âm mưu đốn mạt,” Robbie thông báo.
         “Sao không làm ngay bây giờ? Treo cổ chúng ngay đi!” đám đông gào thét.
          “Không được, các chiến hữu! Còn nhiều thứ phải làm. Chúng ta còn phải làm giá treo cổ.” Nó quay sang bố. “Con cho là phải treo cổ cả hai,” nó hau háu nhìn cô Morgan một lúc rồi đành thôi.
         
Đó là một buổi chiều thú vị nhất mà cô Morgan đã trải qua. Mặc dù cô được dành cho một chỗ ngồi danh dự trên nhánh cây sung, bọn trẻ đã thôi xem cô như một người thầy.
          “Nếu cô bỏ giày ra sẽ dễ chịu hơn,” Robbie rủ rê, và cô cảm thấy dễ chịu hơn thật khi tháo ủng ra đong đưa chân dưới dòng suối.
         
Chiều đó Junius nói về những bộ lạc ăn thịt người của dân da đỏ Aleutian. Anh kể những người lính đánh thuê đã chống lại Carthage như thế nào. Anh mô tả tập tục chải tóc trước khi chết của người Lacedaemonian ở Thermopylae. Anh giải thích nguồn gốc của mì ống, và nói về việc khai thác mỏ đồng như thể anh có mặt ở đấy. Cuối cùng khi lão già khắc khổ Jacob chống đối anh về việc thượng đế đuổi Adam và Eva ra khỏi vườn địa đàng, một cuộc gây gổ nhỏ đã nổ ra, cũng là lúc bọn trẻ con bắt đầu đi về nhà. Cô Morgan để tụi nhỏ đi cách cô một quãng, vì cô muốn yên tĩnh suy nghĩ về người đàn ông kỳ lạ vừa mới gặp.
          
Cái ngày ban giám hiệu đi kiểm tra là mối kinh hoàng chẳng những cho cô giáo mà cả bọn học sinh. Đó là một ngày căng thẳng. Bài học được dò trả một cách hồi hộp và mỗi lỗi chính tả là một án tử. Không có ngày nào trong khoảng thời gian này mà bọn trẻ phạm nhiều lỗi đến thế và thần kinh của cô giáo lại căng ra đến thế.
         
Ban giám hiệu của Đồng Cỏ Thiên Thai ghé qua dự giờ chiều ngày 15 tháng 12. Sau ăn trưa là họ đã lũ lượt kéo đến rồi, ai trông cũng u ám, tang tóc và có vẻ gì đó hơi xấu hổ. Bước vào trước tiên là John Whiteside, thư ký, cao niên, tóc bạc trắng, thường có thái độ dễ dãi đối với giáo dục, thỉnh thoảng lại bị chỉ trích bởi dân cư trong thung lũng. Sau ông ta là Pat Humbert. Pat được bầu vào ban giám học vì ông ta muốn như thế. Ông ta là một người cô độc, tẻ nhạt trong các cuộc gặp gỡ, vậy nhưng hay tìm bất cứ cách gì để tiếp xúc người này người nọ, quần áo thì chẳng hợp đâu vào đâu, buồn thỉu buồn thiu như bộ đồ màu đồng mà bức tượng Abraham Lincoln đang mặc ngồi trên cái ghế ở Washington. Theo sau Pat là T.B. Allen núng nính đi tới trên lối đi giữa hai hàng ghế. Vì ông ta là thương nhân duy nhất trong thung lũng, chỗ ngồi dành cho ông trong ban giam hiệu ở ngay phía trước. Sau lưng ông là Raymond Banks, cao lớn, vui vẻ, tay chân mặt mũi đều đỏ lự. Đi cuối trong cả nhóm là Bert Munro, một thành viên vừa mới được bầu. Vì đây là lần đầu viếng trường, ông ta có vẻ bẽn lẽn đi theo những người khác vào chỗ ngồi phía trước phòng học.
         
Khi các vị khách đã an tọa đâu đấy, các phu nhân của họ bước vào lớp tìm chỗ ngồi ở cuối phòng, sau lưng bọn trẻ con. Đám học trò nhúc nha nhúc nhích một cách bồn chồn. Chúng cảm thấy như bị bao vây và nghĩ nếu có muốn trốn thoát cũng đành bó tay. Nhìn chúng ngọ ngoậy trên ghế ngồi, các bà mỉm cười nhân ái. Chúng ngó thấy một gói giấy to đùng trên đùi bà Munroe.
         
Bắt đầu giờ học. Cô Morgan với một nụ cười gượng gạo, nói đôi lời chào mừng ban giám hiệu. “Kính thưa quí vị, chúng tôi sẽ không làm gì khác với thường ngày,” cô nói. “Tôi nghĩ trong cương vị của quí vị, có lẽ quí vị sẽ thích thú hơn khi thấy lớp sinh hoạt như tất cả mọi hôm.” Chỉ mấy phút sau đó, cô ân hận đã nói như vậy. Trong hồi ức, cô nhớ là chưa bao giờ cô thấy bọn học trò của mình ngu ngốc đến thế. Chúng không làm sao đẩy được chữ nào ra khỏi vòm miệng đã tê cứng, phạm những cái lỗi gớm ghiếc nhất, đánh vần thì phát khiếp, còn đọc thì nghe như tiếng lầu bầu của người mất trí. Ban giám hiệu cố gắng tỏ ra có tư cách, nhưng không thể không cười mỉm trước sự lúng ta lúng túng của mấy đúa nhỏ. Trán cô Morgan rịn lấm tấm mồ hôi. Cô hình dung cảnh tượng mình bị ban giám hiệu đùng đùng đuổi việc. Các bà vợ ngồi ở phía cuối lớp mỉm cười luôn miệng, một cách bất an, và thời gian nặng nề trôi. Khi môn số học trở nên rối loạn và biến thành trò hề, John Whiteside đứng dậy từ chỗ ngồi của ông.
          “Cám ơn cô Morgan,” ông nói. “Nếu cô cho phép, tôi xin có vài lời với các em, rồi sau đó cô có thể cho chúng ra chơi. Các em học sinh lẽ ra phải được trả tiền công vì sự có mặt của chúng tôi.”
          Cô giáo thở phào nhẹ nhõm. “Không biết quí vị có hiểu cho là bọn trẻ đã không làm tốt như thường lệ. Tôi rất vui mừng nếu quí vị hiểu cho như thế.”
John Whiteside mỉm cười. Trong suốt thời gian làm việc ở ban giám hiệu, ông đã chứng kiến quá nhiều giáo viên trẻ bị hoảng vía như thế. “Tôi mà nghĩ là chúng đã làm hết sức mình thì tôi đã đóng cửa trường rồi,” ông nói. Sau đó ông nói chuyện với đám học trò trong năm phút, dặn dò chúng phải học chăm và yêu kính cô giáo. Đó là bài diễn văn nhỏ ngắn ít gây tổn thương mà ông đã sử dụng nhiều năm. Những em học sinh lớn hơn đã thường xuyên nghe nó. Khi nói xong, ông bảo cô giáo cho bọn nhỏ nghỉ. Đám học trò yên lặng ra khỏi lớp, khi đã ra được bên ngoài, việc thoát nạn khiến chúng bung xì ra. Chúng la hét, gào rú, cố hết sức chặt đầu mổ bụng lẫn nhau để tàn sát.
John Whiteside bắt tay cô Morgan. “Trước giờ chúng tôi chưa thấy giáo viên nào có thể giữ trât tự tốt hơn thế,” ông nhẹ nhàng nói. “Tôi nghĩ nếu cô biết được bọn trẻ yêu mến cô nhiều như thế nào, cô sẽ bối rối đấy.”
      “Nhưng chúng là những đứa trẻ ngoan,” cô tha thiết. “Chúng cực kỳ ngoan.”
        “Tất nhiên rồi,” John Whiteside tán đồng. “Nhân tiện tôi muốn hỏi thăm cu cậu nhà Maltby dạo này như thế nào rồi?”
         “Ồ, cậu ấy là một học sinh nổi bật, một đứa trẻ kỳ lạ. Tôi nghĩ cậu bé có một tư duy xuất sắc.”
        “Cô Morgan, chúng tôi đã có thảo luận về cậu nhỏ này trong buổi họp nhà trường. Tất nhiên cô biết là cuộc sống gia đình của thằng bé chẳng ra làm sao. Nhất là chiều nay tôi có để ý thấy nó không có cái gì ra hồn để khoác lên người.”
          “Vâng, đó là một gia đình kỳ lạ.” Cô Morgan cảm thấy mình phải bảo vệ cho Junius. “Không phải loại gia đình thường thấy, nhưng không vì thế mà xấu.”
        “Xin đừng hiểu lầm tôi, cô Morgan. Chúng tôi sẽ không can thiệp vào chuyện nhà của họ. Chúng tôi chỉ nghĩ mình nên cho nó một vài thứ. Cô biết là bố nó nghèo mà!”
          “Tôi có biết ạ,” cô nhẹ nhàng nói.
          “Bà Munroe có mua cho thằng bé một ít áo quần. Nếu cô gọi nó vào, chúng tôi sẽ trao cho nó.”
          “Ồ, không. Tôi sẽ không …” cô ướm lời.
       “Tại sao không? Chúng tôi chỉ có vài cái áo sơ-mi, một cái quần yếm và mấy đôi giày.”
         “Nhưng thưa ông Whiteside, việc này có thể làm nó lúng túng. Thằng bé khá là tự trọng.”
          “Làm nó lúng túng chỉ vì mấy món quần áo tươm tất? Vô lý! Tôi cho là không có quần áo để mặc làm nó lúng túng hơn chứ. Mà ngoài ra, đi chân đất trong tiết trời này thật là quá lạnh đối với thằng nhỏ. Cả tuần nay băng đóng cả lớp trên mặt đất.”
          “Tôi mong là quí vị sẽ không làm như thế,” cô chống chế một cách yếu ớt. “Tôi thật sự mong là quí ông bà không làm chuyện này.”
        “Cô Morgan, cô có thấy là cô đã quá đáng trong vụ này không? Bà Munroe đã tử tế mua đồ cho thằng bé. Xin vui lòng gọi nó vào để bà ấy trao cho nó.”
         
Một lát sau Robbie đứng trước mặt mọi người. Mái tóc rối bù của nó phủ cả lên mặt, ánh mắt hãy còn hừng hực dư âm của những trò chơi mạnh bạo trong sân trường. Nhóm người tụ tập trước lớp, nhìn nó một cách ưu ái, cố gắng tránh chĩa thẳng cái nhìn của họ vào mớ quần áo rách rưới trên người thằng bé. Robbie ngó quanh quất, cảm thấy không thoải mái.
          “Bà Munroe có một chút quà cho em, Robbie,” cô Morgan nói.
          Bà Munroe tiến đến đặt cái gói vào tay Robbie. “Thằng bé dễ thương thật!”
          Robbie cẩn thận đặt cái gói xuống sàn nhà rồi chắp tay sau lưng.
          “Mở nó ra đi, Robert,” T.B.Allen nghiêm khắc nói. “Tư cách của cháu đâu chứ?”
          Robbie khó chịu nhìn ông ta. “Thưa ông, vâng ạ,” nó nói, và mở sợi dây cột.
Những chiếc áo sơ-mi và cái quần yếm mới phơi ra trước mắt, nó nhìn chúng ngơ ngác. Đột nhiên nó như nhận ra đó là cái gì. Mặt nó đỏ rần lên. Trong một lúc nó trông hốt hoảng như một con thú mắc bẫy, và rồi nó phóng ra khỏi cửa, bỏ lại đống quần áo phía sau. Ban giám hiệu nghe hai bước chân trên thềm cửa, rồi Robbie mất dạng.
          Bà Munroe thất thanh quay sang cô giáo. “Thằng nhỏ nó bị sao vậy chứ?”
          “Tôi nghĩ nó thấy khó xử,” cô Morgan nói.
          “Sao lại khó xử chứ? Chúng tôi tốt với nó mà!”
          Cô giáo cố giải thích, và cô trở nên nổi cáu với đám người này vì cô đã phải cố sức. “Tôi nghĩ, quí vị biết là … Tôi không nghĩ thằng bé biết là nó nghèo cho đến mấy phút trước đây….”
          “Lỗi ở tôi,” John Whiteside xin lỗi. “Tôi rất lấy làm tiếc, cô Morgan.”
          “Vậy rồi chúng ta có thể làm gì được cho thằng bé này?” Bert Munroe hỏi.
          “Tôi không biết. Tôi thực sự không biết.”
          Bà Munroe quay sang chồng. “Bert, em nghĩ nếu anh đến chỗ họ ở để nói chuyện với ông Maltby có thể sẽ được việc. Ý em không bắt anh phải như thế này thế kia ngoại trừ tỏ ra tử tế. Nói với ông ấy là trẻ con không nên đi chân đất trong tiết trời đông giá. Nói chừng ấy cũng có thể có tác dụng. Ông Maltby có thể bảo Robbie nhận quần áo. Ông nghĩ sao, ông Whiteside?”
          “Tôi không thích chuyện này. Quí ông bà phải bỏ phiếu để chống lại sự phản đối của tôi. Tôi đã gây thảm họa đủ rồi.”
          “Tôi nghĩ sức khỏe của nó quan trọng hơn việc nó cảm thấy như thế nào,” Bà Munroe cố nài.
         
Trường đóng cửa nghỉ Giáng Sinh một tuần kể từ 20 tháng 12. Cô Morgan lên chương trình đi nghỉ ở Los Angeles. Trong khi cô đứng ở giao lộ chờ xe buýt đi Salinas, cô trông thấy một người đàn ông và một cậu bé cuốc bộ xuống đường cái Đồng Cỏ Thiên Thai đi về hướng của cô. Cả hai mặc quần áo mới rẻ tiền và bước đi như thể họ đang bị đau chân. Khi họ đến gần cô Morgan nhìn kỹ thấy hóa ra là Robbie. Mặt mũi nó sưng sỉa rầu rĩ.
          Cô kêu lên, “Robbie, chuyện gì vậy? Em và bố đi đâu thế?”
          Người đàn ông nói, “Chúng tôi đi San Francisco, thưa cô Morgan.”
Cô thoắt ngẩng lên. Junius đã cạo sạch râu. Cô đã không nhận ra là anh già sọm đi. Thậm chí đôi mắt đã từng rất trẻ, nay héo queo héo quắt. Tất nhiên là anh xanh mướt vì râu tóc đã không cho da dẻ có cơ hội tiếp xúc với nắng. Vẻ khắc khoải hằn sâu trên mặt.
          “Anh và cháu đi nghỉ lễ?” cô Morgan hỏi. “Tôi rất thích các cửa hàng ở thành phố trong dịp Giáng sinh, đến độ có thể say mê ngắm  nhìn chúng từ ngày này sang ngày khác.”
          “À không,” Junius từ tốn đáp. “Chúng tôi lên ở đấy luôn. Tôi là nhân viên kế toán, thưa cô Morgan. Ít nhất tôi đã là nhân viên kế toán hai mươi năm trước. Tôi đang cố gắng tìm một việc làm.” Có sự đau đớn trong giọng nói của anh.  
          “Nhưng tại sao anh phải làm như thế?” cô hỏi.
          “Cô thấy đấy,” anh giải thích đơn giản. “Tôi đã không biết là sống ở đây tôi đã làm thằng bé tổn thương. Tôi đã không nghĩ về điều đó. Lẽ ra tôi phải nghĩ đến điều đó chứ. Cô hiểu là thằng bé lẽ ra không nên được nuôi dưỡng trong nghèo khó. Cô hiểu, phải không? Tôi đã không biết người ta nói gì về chúng tôi.”
          “Thế sao anh không ở lại trang trại. Nó màu mỡ quá mà.”
      “Nhưng tôi không thể kiếm sống từ mảnh đất đó, thưa cô Morgan. Jacob sẽ trông coi trang trại, nhưng cô biết đấy, lão ấy lười chảy. Sau này, nếu có thể, tôi sẽ bán đi trang trại để Robbie có được những thứ mà nó chưa bao giờ có.”
          Cô Morgan cảm thấy phẫn nộ, nhưng đồng thời muốn òa khóc. “Anh không tin chút gì về những điều người ta nói chứ?”
          Anh nhìn cô ngạc nhiên. “Tất nhiên là không. Nhưng cô cũng biết là một đứa trẻ đang lớn không thể được nuôi như một con thú, đúng không?”
          
Xe buýt hiện ra trên đường cao tốc tiến về phía chỗ họ đang đứng chờ. Junius chỉ vào Robbie. “Thằng nhóc không chịu đi. Nó chạy trốn trong mấy ngọn đồi. Tối hôm qua Jacob và tôi mới bắt được nó. Cô thấy đấy, nó đã sống như một con thú quá lâu. Ngoài ra, thưa cô Morgan, nó đâu biết sống ở San Francisco sẽ dễ chịu như thế nào.”
         
Xe thắng két. Junius và Robbie leo lên chỗ ngồi phía sau. Cô Morgan định đến ngồi cạnh họ. Đột nhiên cô quay trở lại và ngồi xuống kế bên tài xế. “Tất nhiên rồi,” cô tự nhủ. “Tất nhiên  là họ cần được một mình.”

Trần Thị NgH chuyển ngữ















GIẾNG CẠN DÂY DÀI
Trần Thị NgH


Khi đề nghị Mikael Blomkvist viết một quyển sách về đại gia đình Vanger, Henrik chỉ lấy đó như một cái cớ để nhân cơ hội này nhờ tay nhà báo đầy khả năng lẫn bản năng truy tìm sự thật về vụ mất tích gần bốn mươi năm trước của cháu gái ông, Hariet Vanger. Tiến trình làm việc buộc ông phải cà kê dê ngỗng một cách chi tiết về từng thành viên của gia đình, mà theo nhận xét của Mikael, ông ta rõ ràng có một sự thù ghét và khinh bỉ vô cùng tận đối với từng người nói riêng và toàn thể dòng họ Vanger nói chung. Ông nói tôi đã bỏ hai mươi lăm, ba mươi năm đầu của đời mình để tha thứ và thông cảm cho họ chỉ vì đó là những kẻ ruột thịt, về sau thì nhận ra rằng máu mủ không thể là nền tảng của lòng yêu thương. Mỗi gia đình đều có một vài bí mật, kiểu bộ xương trong tủ áo như người ta thường nói, nhưng nhà Vanger chúng tôi có cả một nghĩa địa.

Bà Nghênh Phong cũng có những suy nghĩ tương tự về gia đình mình khi đọc Millenium của Stieg Larsson. Lại càng trùng hợp khi chính bà đang nhờ một lão sĩ hết thời chấp bút cho tự truyện của bà.

Do vận nước, lão Thì Quán đã thôi không còn ôm ấp ảo mộng được viết ra tác phẩm lớn của đời mình mà xoay qua viết hồi ký cho các tướng giặc về hưu, các phu nhân bấy lâu chôn giấu nỗi niềm thâm cung bí sử, các nhân vật nổi tiếng muốn tô màu thêm cho tên tuổi, những kẻ vô danh muốn đánh trống thổi kèn để gây chú ý đám đông. Trước kia lão cũng có một chút vị trí đáng kể trên văn đàn nhưng do quốc sách thay đổi, lão đã bị trù giập đến lu mờ nghèo đói, rốt cuộc chỉ còn một nhúm chữ đủ để khề khà với bạn nhậu ở các quán cóc, quều quào một vài phóng sự loại ngồi lê đôi mách, trong nhà ngoài phố, người tốt việc tốt, gương hiếu thảo, đôi bạn học tập, điển hình vượt qua số phận. Với cái mớ này lão không cần đến bút hiệu. Cứ mỗi bài lại ghi bừa một tên miễn sao có được vài trăm ngàn nhuận bút nuôi thân. Các quyển hồi ký luôn luôn được ký tên người trong cuộc còn kẻ chấp bút trốn biệt ở hậu trường, không ngoài mục đích vinh danh thân chủ và bảo toàn tính mạng cho bản thân. Thì Quán là một cái tên đã bị quên lãng gần bốn mươi năm, y như vụ án Hariet, tưởng đâu đã vô vọng.

Té ra lão vẫn còn ít nhất một người ái mộ. Bà Nghênh Phong thời thanh xuân vốn là độc giả trung thành của Thì Quán, luôn sôi nổi tìm đọc tất tần tật các tác phẩm ngay từ truyện ngắn đầu tay của nhà văn lúc bấy giờ hãy còn là một cây bút trẻ. Một giọng kể tỉnh táo, đôi khi độc địa mỉa mai, lắm lúc tự trào nhưng thường khiến người đọc suy nghĩ và suy diễn. Thuở ấy bà thích sự nhập nhòa giữa tiểu thuyết và đời phàm được pha trộn như có ma thuật trong các tác phẩm của lão; nó khiến bà tò mò đến nỗi đâm ra đoán già đoán non tỉ lệ phần trăm của hư và thực trong mỗi câu chuyện được viết ra, thuộc lòng cả những câu thâm trầm. Đây chính là điều kiện ắt có và đủ cho quyển tự truyện mà bà đang nhờ lão già sa cơ chấp bút. Chí ít trong con người của lão hẳn phải còn cái chất phù thủy thích hợp cho trận hỏa mù mà bà sắp tung ra cho nhân thế sặc sụa một lần chơi. Quan trọng về phía Thì Quán là lão cần tiền, cần sống ngay ngắn; ngày nào có cái ăn thì cứ ăn, không phải chừa nhín lại chút cơm nguội để hôm sau mang ra nấu cháo cầm hơi.

Thành ý của bà Nghênh Phong là mở cho lão một cánh cửa, đồng thời bóc tách cái tôi, lục lọi nội tạng biết đâu soi sáng được những hốc kẹt tối tăm.

Tuần lễ thứ nhất
Họ hẹn nhau trong phòng một khách sạn mini trên đường Nguyễn Văn Thủ, trước đây là Tự Đức, đã từng được coi như một trong những con đường rất đẹp của Sài Gòn. Lần nào từ Bắc Carolina về Việt Nam bà Nghênh Phong cũng lại thuê một phòng ở chỗ này. Biệt thự nhỏ, chỉ có 6 ngăn độc lập dành cho khách, ấm cúng không khí gia đình nhưng vẫn rất riêng tư, giá cả phải chăng, tiếp đãi niềm nở vừa đủ liều lượng, mọi lộ trình đều ngắn trong phạm vi phụ cận. Trước sân có hai cây bông sứ vừa tỏa bóng mát vừa nhả mùi thơm.

Thì Quán nay là một lão nhân lửng chửng giữa lục thập và thất thập. Lục thập kê niên, thất thập kê nguyệt, bát thập kê nhật. Thế nhưng để sống, lão phải tính từng ngày như một cụ già tám mươi, không biết đứt bóng lúc nào. Vớ phải vụ này lão rất hào hứng, tự thẩm định thể chất tuy có hơi suy sụp nhưng tinh thần còn cực tinh nhậy. Không riêng gì mùi mỹ kim, qua người Sài Gòn cùng thế hệ lão đánh hơi thấy cả cái mùi hoàng kim lưu cữu của quá khứ, quãng thời gian lão đã từng sống hiên ngang và lương thiện. Gần bốn mươi năm nay lão vẫn khao khát một lúc nào đó có cơ hội khều khều nó dậy. Chẳng để chi, ngửi ngửi cho đỡ ghiền thôi.

Chuẩn bị cho buổi hẹn, lão mặc cái sơ-mi ca-rô còn tương đối lành lặn sạch sẽ, cẩn thận nhét vạt trước vạt sau vào lưng quần po-ly-ét-te, thắt dây nịt giả da – trông hơi giống cao-bồi vườn nhưng phải công nhận tươm tất và có làm lão trẻ lại vài tuổi.

Bà Nghênh Phong đón lão từ cổng biệt thự. Họ chào hỏi xã giao một lát ở đại sảnh rồi cùng lên lầu. Phòng có ban-công phất phơ mấy bụi sao nhái, một nhánh bông sứ trắng tạt ngang cửa sổ. Bàn nước thấp ken chật giữa hai ghế bành bọc da có tay dựa. Góc sâu bên phải lấp ló cái giường một mét sáu phủ vải bông. Lão sĩ nhận thấy khách hàng, tuy mới gặp lần đầu, không khác lắm với hình ảnh lão đã tưởng tượng: trên dưới sáu mươi, nhiều bầy nhầy bạc nhạc, mỡ chùng chình ở hông, bụng và cổ, đầy đủ nét đặc trưng của một Việt kiều Mỹ no đủ, nhiều năm xa xứ, chăm chút chưng diện nhưng không đẹp không sang.

Tỏ ra chuyên nghiệp, lão bày ra bàn một máy tính HP-Compaq đời cổ lổ sỉ, một tập giấy A 4, hai cây bút nguyên tử xanh đỏ và một máy ghi âm Sanyo loại nhỏ, đã lắp 2 cục pin mới hiệu Toshiba. Làm như tế nhị, lão se sẽ bấm nút khởi động khi thấy bên A sắp mở lời. Bà Nghênh Phong tằng hắng:
- Theo như hợp đồng được soạn thảo bởi luật sư của tôi là ông Lê Tập mà ông đã đọc và trao đổi nhiều lần qua điện thư, chúng ta có 6 tháng làm việc chung, cũng là thời gian ông dự kiến phải hoàn thành quyển hồi ký, với những diễn biến trong 64 năm, khởi điểm từ 1950 là năm sinh của tôi cho đến nay. Do hợp đồng không ghi rõ chi tiết về thời gian biểu, tôi đề nghị mỗi sáng mình làm việc 3 tiếng trừ thứ bảy và chủ nhật, thì giờ còn lại ông tổng hợp các thông tin do tôi cung cấp và phân thành chương đoạn theo cách ông nắm bắt sự việc. Mỗi cuối tuần tôi sẽ đọc lại những thứ ông bày hàng và đề nghị sửa đổi nếu cần. Ư…có điều, tôi muốn câu chuyện vần vũ một thứ khí hậu đặc trưng nhiệt đới nhưng hơi huyễn, như trong tác phẩm Trên Núi Non Cây Cối Thì Buồn mà ông đã viết hồi đầu thập niên bảy mươi.

Bỏ mạng, bên B tự nhủ. Khí hậu nhiệt đới hơi huyễn miền núi non! Chẳng đặng đừng, lão lụp chụp nói chen:
- Thiết nghĩ hồi ký là một tập hợp những chi tiết thật, có thể xác minh trong trường hợp cần thiết, khi được hoặc bị yêu cầu, chính vì vậy nó khác với tiểu thuyết.
- Tôi không có ý đề nghị ông dựng đứng câu chuyện bằng những thông tin giả. Pha trộn hư thực là biệt tài của ông. Ăn thua là ông phủ cho nó một màn sương, người đọc thông minh sẽ biết cách vén nó ra.

Vụ này khó nhá, tuy nhiên lời ngợi khen của bà Nghênh Phong như một chất kích thích khiến lão bỗng hóa ra tự tin. Nó quật mồ những vinh quang mà lão đã từng được nếm từ các bài phỏng vấn và phê bình văn học hồi hậu bán  thế kỷ trước. Lão nhún nhường:
- Tôi không chắc có thể …phả ra hơi nước hoặc làm cho mọi thứ mờ sương ám khói, việc này cũng còn tùy tính chất câu chuyện kể của bà.
- Thì đây, chúng ta làm việc ngay hôm nay. Sau hai tuần, hợp đồng có thể được điều chỉnh hoặc hủy, là do quyết định phía bên A hoặc bên B hoặc cả hai bên cũng chưa biết chừng. Có ghi rõ trong đề mục số 4.

Bên B sửa lại thế ngồi, làm như nghênh chiến, tự vấn hưu chiến lâu ngày chẳng biết bắn giết có run tay. Bên A vào chuyện trôi trơn như đã được chuẩn bị trước:
- Cha tôi tên Trầm Thụ Di, mẹ tôi Ngung Thị Nhơn. Tôi đã bỏ công nhiều năm để tìm kiếm họ hàng có dính líu đến hai bên nội ngoại, tiêu tốn không biết bao nhiêu thì giờ và tiền bạc. Ngoài Trầm Tử Thiêng hầu như ai cũng biết qua các ca khúc nổi tiếng Cơn Mưa Hạ, Mười Năm Yêu Em, Bài Hương Ca Vô Tận…, không thấy có ai khác mang họ Trầm. Đúng ra Trầm Tử Thiêng là bút hiệu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Lợi, đã tạ thế ở Mỹ năm 2000. Họ Ngung lại càng vô vọng.

Nhưng thôi, chỉ riêng bốn thế hệ ông bà-cha mẹ-con cái-cháu chắt chúng tôi cũng đã làm nên một bề dày đáng kể. Lần ngược lên tôi chỉ biết lờ mờ ông nội Trầm Thụ Chí đất đai sông nước miền Tây cò bay thẳng cánh, có ba bốn đời vợ mà cha tôi là con trai duy nhất của bà nội thứ nhì họ Bùi; khi đứa trẻ là tôi vừa có chút hiểu biết đã thấy bà điên loạn. Ông ngoại tôi là một trong những vị quan cuối cùng đời Bảo Đại tên Ngung Trấn lấy bà ngoại tôi họ Lê. Ngoài ra thì tôi không thực sự rõ hai họ Trầm - Ngung thuộc tộc nào. Kinh hay Thượng, Xiêm La hay Nam Dương, Miên hay Lào, Mường, Mán, Mèo, Nùng hay Lô Lô, bởi ngoại hình trông rất khác với người thuần giống Giao Chỉ. Cũng có khi chính là cặn và bã của một ngàn năm giặc Tàu pha với hai họ Lê, Bùi hoặc Nguyễn, Trần, Đinh, Phạm gì trước đó. Không biết được.

- Vậy bà định bắt đầu từ cụ nội Trầm Thụ Chí cùng cụ ngoại Ngưng Trấn   hay cụ thân sinh Trầm Thụ Di?
- Ông có thể đặt câu hỏi ở cuối mỗi buổi làm việc, đừng ngắt lời tôi.

Bên A quắc mắt ngó bên B một khắc, chớp mạnh hai hàng lông mi thưa có quệt sơ sơ vài nhát mascara rồi nguýt ánh nhìn ra cửa sổ, nơi nhánh bông sứ trắng đang lung linh trong nắng sáng.

- Chúng tôi có bốn anh em trai Phú, Sinh, Hỉ, Viễn; bốn chị em gái Ái, Kiêm, Phong, Giang. Trong số này chỉ Nghênh Ái và Nghênh Giang có nước da sáng, còn lại đều đậm người với môi dày hơi thâm, cánh mũi thô bè. Đám con cháu sau này cũng lộn xộn đứa vầy đứa khác, do thời thế đưa đẩy sống rải khắp năm châu, lập gia đình với người bản địa, lai sinh ra một lũ hậu duệ ngày càng khó thể xác định sắc tộc.

Điều đặc biệt là cả bọn chúng tôi không ai giàu có, không có khiếu làm ăn buôn bán, rốt cuộc soát lại chỉ thấy toàn thứ bá vơ ít nhiều tằng tịu với báo chí, văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, giáo dục; khá lắm thì leo lên được nấc thiết kế đồ họa, tạo hình; cao hơn bậc nữa lạc loài vài thằng lưu manh do được sinh ra lớn lên trong một khu vực khác biệt về địa lý, kinh tế, chính trị - rủi ro sao mà chúng nó đều chết trẻ vì nhậu và gái. Ép tới ép lui họa hoằn mới được một đứa tốt nghiệp y khoa nhưng coi bộ con nhỏ này sớm bỏ nghề do mải lui cui đi đánh đàn cho một ban nhạc giựt, thiệt là ứ hự.

Cũng cần nói thêm Trầm Thụ Di thuở sinh thời sống nhờ của thừa kế, không làm gì ngoài làm thơ; Ngung Thị Nhơn, tuy không được đến trường như hầu hết phụ nữ thời đó nhưng được cha là Ngung Trấn dạy cho biết đọc biết viết; ngoài việc làm dâu và tảo tần nuôi tám đứa con, thường nhín chút thì giờ cho đời sống tinh thần. Bà thông làu thơ phú, ca dao, hàng ngày hát ầu ơ ví dầu tình bậu muốn thôi, đọc Hồ Biểu Chánh, Tùng Long, Ôn Như Hầu, về sau còn lấn sang cả truyện dịch của Victor Hugo, Guy de Maupassant, Pearl Buck. Tôi cho rằng thứ gien trội từ hai cụ thân sinh đã tung hoành xuống tận đời chắt.

Còn gien lặn? Ối trời ơi, vì sao mà tiềm tàng trong cái vẻ ngoài nho nhã của nhà thơ, nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà thiết kế là ác tính hẳn từ đời ông tằng tổ cứ triền miên róc rách trong huyết quản của từng thành viên trong đại gia đình; mỗi người biến tấu cái ác theo cách riêng, cứ như một dàn giao hưởng với gần trăm nhạc cụ khác nhau. Thoạt nghe khó phân biệt đàn phím, đàn dây, bộ gõ, tiếng sáo hay tiếng kèn. Kẻ thưởng ngoạn bàng quan có thể trầm trồ vỗ tay nhưng người tinh tế sẽ băn khoăn trăn trở tự hỏi vì đâu mà ra nông nỗi.

Nói tới đây bà Nghênh Phong chồm người qua cái bàn thấp, lùa xấp giấy A 4 và hai cây bút nguyên tử xanh đỏ của lão Thì Quán sang một bên, với tay rót thêm nước trà vào tách của mình. Bên A đang xao xác thấy rõ. Bên B tự nhủ ngu si hưởng thái bình, tốt hơn không nên thưa thốt, cứ hãy dựa cột mà nghe. Lão thậm chí không dám nhúc nhích dù rất muốn hí hoáy ghi xuống vài điều thắc mắc để tham vấn cuối buổi. Bà Nghênh Phong tợp hai ngụm trà, trầm ngâm một lát rồi nói tiếp, giọng xa xăm như vọng ra từ một chiếc rương cũ.

- Theo như tôi được nghe kể lại, ông nội tôi phá đời con gái của không biết bao nhiêu thôn nữ trong làng, xong cho tiền bảo mang bụng chửa đi chỗ khác đẻ đái, mưu sinh. Bà nội tôi điên trẻ, có thể vì quá ghen cũng có thể vì lậm rượu, hoặc vì cả hai. Điên thuộc loại ác ôn chứ không chỉ u uất trầm cảm. Thuở còn kinh nguyệt, bà mắc lên đầu một ngọn sào tre băng vệ sinh phụ nữ đã dùng qua – dạo ấy chỉ là miếng vải mùng dệt thưa được gấp nhiều lớp, không phải bông gòn Bạch Tuyết hay…gì gì đâu – rồi cứ vậy mà giương cờ đỏ đi rễu khắp thôn xóm; mệt thì ngồi nhà uống rượu chửi đổng. Cứ vậy cho đến lúc đức lang quân cưỡi hạc qui tiên. Có khác chi lời ông bà ta thường nói, ngày bối rối tối nằm không; cụ nội tôi tạ thế cô độc. Không như Đoàn Chính Thuần trong Thiên Long Bát Bộ được các hồng nhan tri kỷ yêu vì, đến lúc phu thê ái thiếp cùng lâm tử vì một Cô Tô Mộ Dung Phục  đầy tham vọng, nằm chết sóng soài vẫn quây quần xiêm y ngũ sắc những Phượng Hoàng, A La, A Tịnh, Bảo Bảo, Hồng Miên. Khi già quá hết cục cựa nổi, Trầm phu nhân ngồi một chỗ gõ nhịp chìa vôi lên miệng ống nhổ bằng đồng ca cẩm chuyện xưa có câu có kệ, miệng nhão nhoẹt cổ trầu.

Tôi tin là tất cả đám đàn bà con gái trong gia đình hưởng quả phần nhiều từ cụ nội: bốn chị em gái chúng tôi đều hôn nhân lợn cợn, người ngoại tình, kẻ tái hôn dăm ba lượt, người góa bụa sớm, kẻ hấp tấp ly dị. Nghe ra có vẻ âm lịch nhưng sang đời tiếp theo cái quả càng thêm đắng chát: một đứa tử nạn xe hơi, một đứa phá thai bỏ chồng vượt biên phải lây lất thân tàn ma dại ở trại tị nạn đến 4 năm, một đứa làm chiến sĩ gái đánh giặc ở Căm-pu-chia bỏ mạng vì sốt rét rừng, một đứa qua đời do ung thư phổi, một đứa xe cán gẫy chân… Tất cả đều ở tuổi xuân thì. Đây là tôi nói về phía nữ thôi. Phía còn lại vừa ăn quả vừa tiếp tục gieo hạt. Bên chi họ ngoại Ngung-Lê không nghe nói có chuyện đàng điếm nhưng thất đức thì các cậu dì người nào cũng ở hàng thượng thừa.

Im lặng một lúc thật lâu, bà Nghênh Phong đột ngột nói:
- Mà thôi, hôm nay như vậy đủ rồi. Vụ này làm đầu óc xây xẩm, lao tâm lao lực nhiều hơn tôi tưởng.

Lão Thì Quán len lén nhìn đồng hồ đeo tay. Chỉ mới hai giờ trôi qua. Ngày đầu tiên, lão đã phải ngốn một lượng thông tin đáng kể qua nét vẽ phác toàn cảnh có phần tán loạn trình tự tôn ti. Vừa đề cập đến hai cụ thân sinh, người kể chuyện liền trở ngược lên hai cụ nội ngoại, xong tuột xuống hàng anh chị em, lộn trở lên hai cụ thân sinh, ngược về hai cụ nội ngoại rồi lại quay xuống   hàng anh chị em. Thoáng thấy cái nhíu mày rất nhẹ của bên B, bên A nhắc:
- Tôi nhớ đến đâu nói đến đấy, nhiệm vụ của người chấp bút là phải sắp xếp thông tin theo trật tự vai vế và thời gian.

Trong khi hồi tưởng bà Nghênh Phong có vẻ như đã phải trải nghiệm lại những cảm xúc mãnh liệt khiến lớp phấn trát trên mặt nhíu cả lại, nẻ cả ra. Trong khí trời hầm hì, ngó các cơ mặt tròng trành của bà đủ thấy hụt hơi. Ai đó đã nói gì nhỉ, à, Lauren Bacall, nữ tài tử  Hollywood vừa qua đời ngày 12 tháng 8, 2014: “…cả cuộc đời bạn sẽ xuất hiện trên gương mặt bạn, và bạn nên tự hào về nó”. Thế nhưng khách hàng của lão lại cố gắng che giấu cuộc đời mình bên dưới lớp phấn son đã không còn hợp với tuổi tác; trong khi mở lòng toang hoác, bà không ý thức cái lớp bột trắng ấy đang nứt ra. Viết về Lauren Bacall, Patrick Pachero nhận xét khuôn mặt của bà trông như tấm bản đồ của một cuộc sống trọn vẹn – mỗi vết chân chim là dấu hiệu cười vang sau khi nghe một câu đùa tục tĩu, mỗi vết sạm nắng là dấu ấn của một kỳ nghỉ tuyệt vời cùng Humphrey Bogart, mỗi nếp nhăn là bằng chứng của một trải nghiệm phi thường (1). Bản đồ Nghênh Phong có những kênh nước đen, lắng bên dưới cơ man là trầm tích.

Những buổi sáng tiếp theo hai nguời làm việc nghiêm chỉnh theo thời dụng biểu. Cứ cà-phê quán cóc xong lão Thì Quán liền xộc xệch chiếc Cánh Én chạy bay đến Nguyễn Văn Thủ. Lần nào bên B gọi cửa, bên A cũng đã sẵn sàng; tuy nhiên theo như lão thấy, cái bản đồ trên mặt khách hàng mỗi ngày thêm nhợt nhạt bình nguyên, còn cao nguyên thì cứ nhấp nhô chồng chéo, kênh rạch càng lúc càng chằng chịt. Rõ ràng bà Nghênh Phong đã trải qua những đêm mất ngủ, phấn son có phần biếng nhác. Đám sao nhái ngoài ban-công như lả đi vì mấy ngày oi bức, đêm lại ì ào mưa gió trái mùa. Cành sứ trắng tạt ngang cửa sổ cũng đang cùi dần trông y hệt những ngón tay bị rụng mất lóng.

Sau năm ngày họ làm xong phần bốc mộ đời riêng của hai cụ thân sinh, qua đó bên A tỉ tê không ít những thảm kịch giữa Trầm Thụ Di và Ngung Thị Nhơn. Cụ bà, do ngao ngán những cơn say của chồng đã cự tuyệt chăn gối khiến cụ ông nổi dịch, mượn rượu chì chiết mắng nhiếc vu vơ đồ cái thứ đàn bà trắc nết hết làm đĩ cho mấy gã hàng xóm Hai Liêu, Chín Ấn lại mèo mả gà đồng với em rể Sáu Sửu, chớ căn cớ sao mà ngùng ngoằng chuyện vợ chồng? Oan ức bà Nhơn hát:
ầu ơ ví dầu (ớ…)
tưởng giếng sâu (ơ…) tui nối sợi dây dài,
hay đâu giếng cạn (ờ…) tui tiếc hoài sợi dây (ơ… ơ…)
Sau đó bà vùng vằng bỏ đi, trước khi dứt nghĩa tào khang, trớ trêu thay, lại mang bầu đứa con thứ tám sau 10 năm nghỉ đẻ. Sự có mặt của đứa em út tên Nghênh Giang đã làm thay đổi cuộc đời chị Bảy.








Tuần lễ thứ nhì
Chủ nhật vừa rồi tự cấm túc ngồi nhà, lão Thì Quán đã đúc kết chương một, sắp xếp ngay ngắn các chi tiết đầu cua tai nheo thành một trường đoạn dành cho hai cụ nội Trầm Thụ Chí và Trầm phu nhân, một trường đoạn khác cho hai cụ ngoại Ngung Trấn và Ngung phu nhân; nửa chương còn lại là những cơn ba đào trong đời sống vợ chồng của hai cụ thân sinh. Bỏ qua phần họ hàng hai chi, dự kiến chương trình làm việc tuần thứ nhì sẽ tập trung từng chương cho mỗi người trong hàng anh chị em của bà Nghênh Phong theo thứ tự trên dưới, vì theo lời bên A đây mới là phần cốt lõi của quyển tự truyện.

Thế nhưng khi xem qua bản nháp của năm ngày làm việc, bên A tỏ vẻ bất bình:
- Lộ quá! Sắp xếp đâu ra đấy, cho mờ mịt hơn đi. Đâu rồi cái ma đạo trộn gạo với bông cỏ của nhà văn Thì Quán? Thắp một cây nhang trong lúc viết cho nó nghi ngút lên. Thú thật với ông tôi không phải loại tàn tật chữ nghĩa; mấy chục năm xa xứ đời đưa đẩy sao mà rốt cuộc lại rơi vào con đường sáng tác, tuy tác phẩm có bời rời bạc rạc vẫn được coi là một cây bút hải ngoại tên tuổi. Do chú tâm viết sạch viết đẹp nhằm tạo hình ảnh một người viết nhân ái có lý tưởng và tâm hồn cao thượng, tôi quen nết hạnh đi rồi; không dám chường mặt thật cũng không có khiếu lột truồng nhân vật bằng kỹ xảo điện ảnh một cách …nghệ thuật như bọn đạo diễn có tay nghề, điều khiển điêu luyện ống kính cho cận cảnh một tí chỗ này, làm nhòa một tí chỗ khác, biến hóa khôn lường như Lục Mạch Thần Kiếm (2). Trước đây tôi đã từng ví ngòi bút của ông như một thứ kiếm khí vô ảnh. Chớ bộ ông không luyện Kim Dung sao, không ai tin đâu! Bộ vó giáo chủ cái bang Kiều Phong như ông khó mà lấy vải thưa che mắt người phàm, nói chi đến thánh.

Hơi não nề tiếc công cả tuần cặm cụi làm việc bằng tất cả tim óc, lão sĩ lựng bựng một chặp rồi ấp úng, giọng chân thành:
- Tôi khó thể phủ nhận thiên khiếu kể chuyện chi tiết đầy tiết tấu cùng hình ảnh của bà. Thật là uổng khi biên soạn lại theo cách của tôi.
- Nói vậy thì thôi tôi cần đến ông làm gì? Chỉ việc ngồi một mình lải nhải vô máy ghi âm rồi thuê người đánh máy, bỏ tiền túi ra in thành sách phát không ở cổng vào siêu thị, trạm xe buýt hoặc ga xe lửa. Hồi ký không chỉ là   chuyện vạch áo cho người xem lưng hay vạch lá tìm sâu nơi người khác để tôn vinh cái tôi, nó vẫn có thể là một tác phẩm…ư…nghệ thuật. Úi trời, sao tôi ghét hai chữ này quá. Nhưng nè, chớ quên nó là tác phẩm của ông, vì tôi sẽ không ký đồng tác giả, vậy cứ ngang nhiên đổi tên họ nhân vật, cho nắng lên mưa xuống miễn sao cái sự hâm hấp của câu chuyện vẫn được tôn trọng. Nhiệt đới mà, quên sao?

Lão Thì Quán đã phải giấu sự sửng sốt trước hai chi tiết hoàn toàn mới mẻ:
1 - Do bị tường lửa lão lờ quờ không thể cập nhật dễ dàng văn học Việt hải ngoại, không ngờ khách hàng của mình cũng ở trong giới viết lách; lại càng khó biết nếu bà ta không dùng tên thật.
2 - Một điều khoản quan trọng không thấy đề cập trong hợp đồng, cũng không nghe bên A giao trước, đó là lão sẽ chịu trách nhiệm toàn bộ tác phẩm.

Sơ hở chủ quan bên B hay cố ý bên A muốn đặt lão trước sự việc đã rồi? Vậy sao gọi là hồi ký hay tự truyện? Bán cái hay cúng dường? Có vẻ như bên A bỗng dưng nổi hứng bất tử thay đổi đường lối tác chiến nhường bước cho bên B tác nghiệp do thành ý muốn giúp kẻ sĩ mạt vận phục hồi nhân phẩm, hay vì dè dặt trước những người đọc thông minh mà tìm cách thoát hiểm qua ngõ sau? Dẫu gì lão đã được bật đèn xanh. Trong tinh thần cảnh giác cao độ, lão luôn tâm niệm người kể chuyện không hề “tàn tật chữ nghĩa” như đã tự thú nhận.

Lão Thì Quán bắt đầu tuần lễ thứ nhì trong tâm trạng đầy hoang mang pha lẫn hào hứng, đồng thời luôn giữ tư thế ứng chiến trước những cơn đồng bóng bất chợt của bên A. Trừ phân nửa số tiền đã được tạm ứng, hợp đồng rồi ra có vẻ như đã trở thành một tờ giấy lộn. Vừa lắng nghe lão vừa chỉnh sửa giọng kể trong đầu, biến nó thành câu chuyện của chính mình, lắm lúc phấn chấn tự thêm lửa củi đến phừng phừng cả mặt mũi mà không biết.

Thấy vui trong người, cuối ngày lão đã sì sụp một tô phở Phú Gia xanh um  hành trần ở Lý Chính Thắng, rồi phom phom Cánh Én bay về chân cầu Miếu Nổi hút tòn tọt một hơi hai ly nước mía ngọt như đường hóa học của con Hai Mập.

Họ tiêu mất bốn buổi cho chương hai với 26 thành viên của gia đình anh cả Trầm Thụ Phú như đã dự tính. Thứ sáu, bà Nghênh Phong bất thình lình hướng câu chuyện vào chính bản thân, cho rằng những dây mơ rễ má tự chúng sẽ mắc dính vào nhau, thắt gút hay cơi nới tùy theo từng chặng của mạch chuyện. Trừ phần ông bà cha mẹ không thể thiếu dùng làm chương mở đầu cho quyển sách, các anh chị em, hứ, đời ai nấy kể theo góc nhìn của mình, bà chỉ mượn sự có mặt của họ như những mảnh ghép cần thiết cho toàn cảnh bức tranh di truyền, hơi đâu mà phí cả chương cho mỗi nhà.

Gần như đã dần quen cách làm việc khi thăng khi giáng của bên A, bên B ngậm tăm chịu trận. Thời buổi nhiễu nhương, viết về mình có ngày bỏ mạng do lạng quạng chính kiến, nay bất ngờ có kẻ cúng dường thì cứ an nhiên hưởng phước sương đi, nhang đèn tính sau. Lão tự động viên.

Bà Nghênh Phong loanh quanh một hồi với tuổi thơ dữ dội thời chiến, tuổi thanh xuân đầm đìa yêu đương, những cuộc tình lỡ, những chuyến đi xa ở cả  nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, góa phụ trẻ thọ tang chồng già, lần vượt biển tưởng chẳng thể thấy bờ, những năm cày sâu cuốc bẫm cho sự sống và lẽ sống nơi đất khách…

Giữa lúc bên B đang mơ màng tự hỏi không biết đỉnh điểm câu chuyện nằm ở chỗ nào sau mười ngày làm việc, chợt nghe bên A cao giọng:
- Em Tám ra đời làm thay đổi cuộc đời chị Bảy. Trong lần về trước của tôi nó có đến đây thăm, ngủ lại đêm rồi chết ngay trong cái phòng này, 54 tuổi, chẳng biết nên gọi hưởng thọ hay hưởng dương. Đó là do tôi đưa cho một cái gói rồi xúi mày chết đi. Khám nghiệm tử thi người ta cho biết nó dùng thuốc an thần quá liều. Tôi đã mải miết cả đời để chờ đợi một kết cuộc. Nó ác quá mà. Thực ra chết ở tuổi đó cũng chẳng trẻ trung gì. Hồi cuối thập niên tám mươi tôi đã từng làm giấy tờ bảo lãnh cho nó theo diện chị em; sau mười năm nó được gọi phỏng vấn, liền bán tháo bán đổ của chìm của nổi, xin thôi việc, thu dọn chiến trường chuẩn bị một cuộc sống mới. Đúng lúc ấy tôi phán tao đổi ý. Tưởng đâu nó đã hết đường sống nào ngờ còn thọ thêm đến 15 năm.

Lão Thì Quán có cảm giác như mình vừa ngủ gật, rớt đến mấy nhịp, huốt mất phần lớn câu chuyện. Chắc chắn có một cái lỗ trống hoác, hoặc người kể chuyện đã từ đó chui ra hoặc chính lão đã mắt nhắm mắt mở chui vô. Giờ lấy căn cớ gì ngắt lời:
- Xin bà….

Chợt nhận ra máy ghi âm đã tắc tị tự lúc nào, lão trấn chặt bàn tọa trên ghế bành vận nội công, lấy hết sức bình sinh kích hoạt các vi mạch thần kinh trong nỗ lực phục hồi Vô Ảnh Kiếm Khí, phóng toàn tâm vào chỗ câu chuyện bị đứt. Vô vọng, lão ực một ngụm nước lớn rồi trân mắt nhìn người đối diện đến cứng cả hai mí, đồng tử co lại nhỏ xíu như mắt ma cà rồng trước lúc hút máu con mồi. Cục nghẹn trồi lên họng, vừa giận chính mình lão vừa tự hỏi gien lặn róc rách trong huyết quản bà này là máu ác hay máu điên đây?

Nhìn bộ dạng lão Thì Quán loay hoay giữa lưng chừng hư thực sau giấc Nam Kha, bà Nghênh Phong phá ra cười, rung rinh đến nỗi mấy vạt mỡ chùng chình trên người đổ nhào cả ra. Cuối cơn, bà rút khăn giấy chùi nước mắt nước mũi, xong nâng Bàn Thực Chỉ trỏ vào góc sâu bên phải, nơi lấp ló cái giường một mét sáu phủ vải bông, giọng còn lục bục sau trận ngả nghiêng:
- Mệt hả? Vô đó ngả lưng một chút đi, tôi kể lại từ đầu cho nghe khỏi cần thay pin máy ghi âm. Rõ ràng mỹ kim thì có mà hoàng kim thì hết rồi.

Như nuốt phải Đoạn Trường Tán, lão nghe trong người lảo đảo. Mộng lớn hưng phục Đại Yên rốt cuộc chỉ chập chùng chập choạng u u minh minh trong những cơn điên cuối đời của Mộ Dung Cô Tô. Phần lão, dẫu gì vẫn còn đó cái hợp đồng, tuy rất có nguy cơ bị hủy sau hai tuần nhấp nha nhấp nhổm.  Ái da, qua sông tất phải lụy đò, chứ chẳng lẽ xụ mặt bí xị tung chiêu Ảm Nhiên Tiêu Hồn Chưởng (3) của Dương Quá?

Trần Thị NgH
Sartrouville, tháng 9.2014



_____________________________________________________________

(2) Lục Mạch Thần Kiếm không phải là một kiếm thuật mà là một loại kiếm khí tu luyện dựa trên cách vận hành tâm pháp yếu chỉ  rồi dùng Nhất Dương Chỉ phát triển thành kiếm khí. Sáu mạch của bộ kiếm khí này bao gồm:
-         Tiểu tử - Thiếu trạch kiếm (ngón út tay trái)
-         Tả hữu tiểu tử - Thiếu xung kiếm (ngón út tay phải)
-         Tam quy kim mạch – Quan xung kiếm (ngón áp út và ngón đeo nhẫn tay phải)
-         Trung chỉ - Trung xưng kiếm (ngón trỏ tay trái)
-         Bàn thực chỉ - Thương dương kiếm (ngón trỏ tay phải)
-         Mẫu chỉ - Thiếu thương kiếm (ngón cái tay trái)
(3) Ảm Nhiên Tiêu Hồn Chưởng là loại kiếm pháp kỳ lạ bậc nhất do Dương Quá sáng tạo trong suốt 16 năm chờ đợi Tiếu Long Nữ và chỉ mỗi mình Dương Quá sử dụng được. Muốn sử dụng môn võ này phải mang tâm trạng sầu khổ đau đớn vô vọng. Khi vui vẻ hạnh phúc vô ưu vô tư thì kiếm pháp này mất đi thần hiệu.













Phục chế ảnh cũ









Đường Vòng












GIỚI
vỡ lòng cho cu Dan






                                                                                                 NgH *


Không biết bắt đầu hoang mang từ khi nào, sáng sớm mới thức dậy còn nằm trong giường, câu hỏi đầu tiên của cu Dan 3 tuổi:
-         Mẹ là con gái phải không? Không có zizi, đúng không?
     -   Đúng. Mẹ không có zizi, có thứ khác. Nhưng con gái con trai gì sáng ngủ thức dậy vẫn phải đi vệ sinh  thôi. Nín lâu có thể tè trong quần.

Tết này mẹ 40 tuổi nếu cầm tinh con heo, 39 tuổi con chuột, 38 tuổi con trâu, 37 tuổi con cọp; 36 tính theo song ngư. Rõ ràng âm dương có sai lệch múi giờ, khác nhau về giới tính, không bình đẳng về chức năng, bất công trong phân loại đẳng cấp, khập khiễng trong phân bố công việc, và còn nhiều thứ linh tinh chông chênh khác.

Rất nên sẵn sàng trong mọi tư thế; bất thình lình cu Dan có thể hỏi: ngoài việc để tè, giới còn để làm gì?

Bên Tây lẫn bên ta hiện đang rân rộ cái gọi là La théorie du genre enseignée à l’école, rằng nên tẩy chay nhà trường vì đã lăm le giáo dục giới tính ở bậc tiểu học. Kênh France 2 có đưa lên TV một clip thú vị: cô giáo giới thiệu với các em cấp I một bức tranh cổ điển của vài thế kỷ trước; trong tranh là một mệnh phụ ăn mặc lùng tùng xòe diêm dúa ngồi cạnh hai bé vận đầm voan xanh, giầy đen vớ trắng, tóc dài xoắn lọn có thắt nơ. Hai bé được giới thiệu tên Georgette và Paul. Các em ồ, à: Paul? Paul? Theo lời cô giáo, trước đây người ta cho các bé trai vận đầm như bé gái, đến 6 tuổi mới phân biệt giới tính. Cô giáo hỏi: các em muốn ăn mặc như thế nào? Có thích được giống nhau như Georgette và Paul? Những cánh tay dân chủ giơ lên.

Nhưng phân biệt làm chi cho mệt trong khi tự thân tiếng Pháp đã rải giới ở mọi thứ? Ngay trên cơ thể mỗi người đã có cái đầu giống cái gắn trên cái cổ giống đực, trán đực ngó xuống mũi đực và hai má cái, toàn bộ cửa khẩu gồm môi răng lưỡi họng dun rủi sao mà tập trung toàn cái cho đến khi trổ xuống gặp cái cằm đực, ngực cái chở hai trái vú sữa đực áp vào lưng đực phía dưới phình to hai mông cái, cánh tay đực gãi gãi cẳng chân cái, hai bàn tay cái ngo ngoe mười ngón tay đực. Đại khái là cơ thể đực tha theo thủ cấp cái; hai thứ này không hiểu sao lại cưu mang các bộ phận rặt đực núp bên trong: óc đực tim đực gan đực phổi đực bao tử đực ruột đực.

Mỗi cá nhân lại được vây quanh bởi các vật dụng quen thuộc trong đời sống hàng ngày: bàn ghế cái bày biện trong phòng khách đực, giường ngủ đực để cạnh bàn nhỏ cái, dương cầm đực hòa với tây ban cầm cái trong một bản nhạc đực nhoi nhóc các nốt nhạc cái đuổi theo một tiết điệu đực, nhà cái đóng hộp trong tường đực trần đực và sàn đực ngăn ô bằng vách cái thành từng gian đực cái tán loạn. Các căn nhà cái tập trung trong các khu vực đực, làm nên những thành phố cái trong một đất nước đực tọa lạc trên một trái đất cái hình thành một thế giới đực.

Trong thế giới này người ta ăn thịt cái cá đực, uống nước lọc cái nhưng dùng rượu đực, lấy vợ cái trong một cuộc hôn nhân đực rồi lại ly tan cái; người chết có thể đực hoặc cái nhưng cái chết thì – cơ khổ, lại đầy nữ tính giống như sự sống, chiến tranh và hòa bình. Nhưng rồi tình yêu xuất thân từ con tim đực thì luôn luôn đực để sau đó chuyển giới thành cái, trong sự thù ghét.

Lớn lên một chút, cu Dan có thể tá hỏa tam tinh khi tìm hiểu về mạo từ trong tiếng Việt. Vì sao con dao cái búa con sâu cái kiến con trai con gái con người con cháu con chó con ma con quỷ con buôn, bất chấp đực cái? Vì sao phân biệt thằng nhỏ con nhỏ thằng khùng con điên thằng cha con mẹ con cu cái bỉm con chim, bất chấp người vật? Vì sao là hòn bi hòn dái hòn Chồng hòn Khoai hòn non bộ hòn đảo cục gạch cục nợ cục u cục điều tra liên bang cục R, bất chấp tròn méo? Miếng nước miếng cơm miếng canh miếng cá miếng thịt, bất chấp lỏng đặc? Nỗi buồn niềm vui nỗi sợ niềm tự hào nỗi lòng niềm tâm sự, bất chấp lớn nhỏ? Sợi tóc sợi tơ sợi mì sợi buồn rớt xuống tim tôi, bất chấp dài ngắn? Hột gà hột vịt hột xoàn hột ngọc hột mưa hột đậu hột gạo – trong số này lắm thứ có thể chuyển thành hạt hoặc trứng như hạt xoàn hạt ngọc hạt mưa hạt đậu hạt gạo, trứng gà trứng vịt, nhưng không thể có trứng xoàn trứng ngọc trứng mưa trứng đậu trứng gạo. Tuy nhiên, nước có thể có trứng được gọi là trứng nước; vậy trứng nước hẳn có phôi trong đó.

Trước 1975 thanh niên là từ được dùng cho các chàng trai trẻ, thiếu nữ dành cho các cô gái ở tuổi thanh xuân. Ngày nay thanh niên bao gồm cả hai giới tính. Tuy nhiên oái oăm là trong pho Dân Gian Bách Khoa Tự Điển có chàng thanh niên và nàng thiếu nữ, nhưng lại không có nàng thanh niên! À, có nàng Thanh Niên Xung Phong, còn nàng thanh niên không xung phong thì không có.

Con tàu hay thằng tàu? Nó giống đực mà! Bài gì con hay hát đó.
Bateau sur l’eau…
Bateau sur l’eau…
La rivière au bord de l’eau…
Thằng Tàu là thằng Trung Quốc, á, coi chừng nghe!
Khi mình không ưa ai, dù nó lớn thù lù vẫn gọi nó bằng thằng, như đã từng có thằng Mỹ thằng Nhật. Cá nhân có những đại từ biến hóa khôn lường theo quan hệ tình cảm và giới tính: y, va, hắn, lão ấy, cha ấy, nó, thằng chả, ổng, ảnh, chàng, Người; y thị, mụ ấy, con mẹ, con mẻ, bả, cổ, chỉ, nàng… Cẩn thận. Chừng nào lòng vỡ rồi tính.

Con ghẻ có thể đực hoặc cái nhưng con rể thì đực trong khi con dâu cái. Con đĩ là gái làng chơi nhưng cái đĩ thì con gái mình, lành mạnh thôi. Đàn ông làm đĩ gọi là đĩ đực, phụ nữ bán hoa không gọi là đĩ cái – từ này chỉ để chửi  dù có bán hoa hay không, có khi được thay bằng đĩ ngựa tuy không xác định ngựa đực hay ngựa cái. Bán trôn nuôi miệng chỉ cần nói làm đĩ là hiểu. Có những người thực sự bán hoa nhưng ở miền Bắc được thi vị hóa là cô hàng hoa, tiến về phía Nam bị cục mịch hóa thành bà bán bông (chú ý: chăn bông, bông lơn, bông phèng, lông bông, ma-cà-bông hoàn toàn không dính líu chi đến hoa lá). Buôn bán kiểu này gọi là làm ăn, không phải làm đĩ dù cả hai ngành nghề đều nhắm vào một mặt hàng: hoa, và một mục tiêu: sống.

Chửi nhau chó cái là từ dành riêng cho nữ giới, với nam giới thì mắng thằng chó má, không mắng chó ba. Nựng nịu con nít gọi chó con ơi chó con ơi, giận lên mắng đồ con chó. Đàn ông nuôi con được gọi là gà trống nhưng khi đảm trách công việc của đàn bà sẽ bị phê đồ gà mái. Đực tính là một đặc ân đặc quyền phẩm chất dành cho động vật lẫn thực vật nhưng khi lớ ngớ cù lần thì bị phang đồ ngỗng đực. Một lần nữa, chú ý: trống mái được dành cho tôm cá (tùy) và loài có lông vũ; đực cái dùng cho thực vật, côn trùng (tùy), loài bò sát, loài có vú và có lông mao. Trong tiếng Pháp chỉ có đực và cái cho cả đồ vật, không có bàn mái bảng trống phấn mái kẹo trống cà-rem mái.

Học sang bài màu sắc trong tiếng Việt coi như chết chắc; chỉ có một màu đen thôi mà đã hắc điểu, ngựa ô, mèo mun, chó mực, gà ác (chú ý: ô kê không phải gà đen). Nhưng  khoan, mới vỡ lòng  học ít thôi.

Bây giờ nghe đây, thực thi chức năng gieo giống là heo nọc, vận dụng nghĩa vụ bầu bì sinh nở là heo nái. Con dại cái mang, nhớ đấy, con có dại đực nhất định không mang. Thai nghén đẻ đái là thiên chức của người mẹ nhưng lớ quớ có thể bị chửi đồ chó đẻ. Thắc mắc tại sao chó đẻ ra người? Ví von thôi, không phải ca tụng sứ mệnh mang nặng đẻ đau của chó đâu. Bất công vậy bảo sao nhện cái không nhai rào rạo nhện đực sau cuộc thăng hoa, bảo sao kiến đực không ngủm củ tỏi ngay sau khi đã tặng cho kiến chúa một gói quà chứa 4 triệu con li ti. Để phát triển dân số, mười bốn tuổi góa phụ áo đen đã phải đẻ một triệu rưỡi trứng kiến. Một lần trăng mật cũng đủ lãng quên đời, lặp đi lặp lại các trận mây mưa làm chi cho phí phạm giờ công lao động. Nói tóm lại, một số loài côn trùng có vẻ làm chủ tình hình và có ý thức cách mạng về giới tính, tuy vậy những người làm điều hèn hạ thường bị chì chiết là đồ sâu bọ.

Đấy, đực cái là vậy. Mới 3 tuổi không nên biết chuyện trăng gió làm chi nhưng có thể giản lược như sau: đàn ông có nhiều em mắt xanh mỏ đỏ vây quanh sẽ được khen đào hoa, nữ giới được đàn ông xum xoe liền bị dèm pha đồ cái thứ lẳng lơ chài mồi; đực ngoại tình vì tìm được tình lớn sau hôn nhân, cái ngoại tình do bản chất đĩ thõa thích lừa chồng mình giựt chồng người.

- Cu Dan, con là đực. Nhớ chưa! Thôi đứng dậy đi tè. Đừng quên chùi zizi.

Trần Thị NgH
Saint Maurice, 07. 2014
_____________________________________________________________
(*) Cu Dan
Sơn dầu trên vải bố
50cm X 70cm 
















Truyện dịch

Primo Levi: Năm cuộc phỏng vấn
Trần Thị NgH chuyển ngữ

















Và Không Ngừng Rơi ...

















Ngồi Rơi





Thơ ở NgH



tĩnh lặng người, trong tĩnh lặng, tranh

con đường khấp khểnh. chỗ ngồi rơi *

nắng đi tìm gặp mưa đời trước

gieo xuống trần gian hạt lẻ loi.



tĩnh lặng chìm, trong tĩnh lặng, quen

như nỗi buồn riêng, ngoài cửa chung

nhánh cây phân hủy - trơ thân phố

đáy cùng đổ, nát: dương cầm, lên



tĩnh lặng ngừng, trong tĩnh lặng, trôi 

gió lật kèo treo niềm hổ ngươi

vầng trăng tự vẫn thời con gái

mưa giáp hạt bầm chiều đi lui



tĩnh lặng nguồn trong tĩnh lặng, sông

biển nằm. thân động. bóng di căn

tháng ba. ký ức xanh cao tốc 

ngựa thồ đêm, tịnh. cõi tư riêng.



tĩnh lặng chiều trong tĩnh lặng, chim

lược soi gương lạnh: sợi oan khiên

lấm lem thân-thế-khuya như kiếp

hạt máu nào trong từng chấm đen?



tĩnh lặng… cười, trong tĩnh lặng…câm

gập ghềnh thân thế. xóc. gai đâm

mực, sơn vói tới chân trời khác?

quay lại. ghế khô. bàn trơ xương!.!



tĩnh lặng đời, trong tĩnh lặng, nghe

xuống tay, chữ, nghĩa chùn cán dao

sớm, hôm cháy nỏ triền thao thiết

sống / chết gần bên sóng, nghẹn ngào.



tĩnh lặng còn, trong tĩnh lặng, xa 

vẽ vời thế sự chỉ thêm đau. 

cười vang, lan: giấu niềm thương bạn

tự hỏi mai này liệu thấy nhau?



tĩnh lặng Ngờ, trong tĩnh lặng, Tê

lẵng hoa thương tổn những về / đi

trái tim ngũ sắc sau giông bão

sưng, tấy tâm mình bao vết khâu.







Du Tử Lê



(California April 2015)



________

(*) Tựa đề một bức tranh của Trần Thị NgH.
















Capricornus
















CINEMA PARADISO
Trần Thị NgH




               


Vào ngày 27 tháng 5 năm 1956 khi con nhỏ Titi 7 tuổi ngồi trong buồng  chiếu phim của rạp hát Huỳnh Long đối diện Kênh 16 của tỉnh lỵ Quản Long thì Giuseppe Tornatore chào đời ở Bagheria, Palermo trên đảo Sicily nước Ý. Ông này 32 năm sau trở thành đạo diễn điện ảnh và lãnh giải phim nước ngoài hay nhất với Cinema Paradiso, được thực hiện năm 1988 - phim có bối cảnh na ná cái nơi Titi đã sống 32 năm trước. Tính nhẩm, Titi lẽ ra phải được xem cuốn phim lúc 39 tuổi nếu dạo đó các rạp hát ở Sài Gòn vẫn còn hoạt động.


Lúc Titi 39, miền Nam Việt Nam đã đổi mới được 13 năm. Mọi thứ đều mới. Không có rạp hát. Sau hơn một thập kỷ đói và dốt, từ những lỗ châu mai người ta thập thò ngoi đầu lên dáo dác ngó qua ngó lại. Các chuyến vượt biên thưa đi, nhiều gia đình thị dân lôi thôi lếch thếch kéo về khu kinh tế mới làm rẫy sau khi đã tán gia bại sản, số còn lại ngoi ngóp bò ra từ hố đen, sửa chữa lại nhà cửa hạ quyết tâm ổn định dần cuộc sống, hoặc bằng trăm cách buôn bán lẻ, hoặc cố gắng xin làm bất cứ công việc gì cho nhà nước để có sổ mua gạo và nhu yếu phẩm. Họ bắt đầu ý thức giá trị tuyệt đối của hộ khẩu, cho con cái đi học bình thường ở trường địa phương, tin tưởng ở một tương lai khác, thôi bày hàng những chọn lựa mà trước đây họ thường tự hậu đãi.

Sau một ngày vất vả, họ tập xem các chương trình TV, đọc báo Nhân Dân và Sài Gòn Giải Phóng, thậm chí nghe cả nhạc. Các nhạc sĩ se sẽ viết nhạc nhẹ; xen lẫn với Cô gái vót chông, Con kênh ta đào, Tiếng chày trên sóc Bombo là Bông hồng nhỏ, Tự nguyện, Đi qua vùng cỏ non. Ở các cột đèn ngã tư, máy phóng thanh thôi gào thét lúc 5 giờ sáng những bài hát gấu ó như chó cắn; TV phát phim Nga phim Tiệp phim Pháp, có Mũi tên đen, Maika cô bé từ trên trời rơi xuống, Người nông dân nổi dậy. Thị trường sách sôi động với Hòn đất của Anh Đức và bản dịch Thép đã tôi thế đấy của Nikolai A. Ostrovsky in trên giấy tái chế đen sì. Các tụ điểm ca nhạc dè dặt hình thành, nơi các ca sĩ rón rén hát nhạc vàng có giấy phép. Nhà Văn Hóa Thiếu Nhi chiếu ngoài trời clip ca nhạc của ABBA, có màu. Con nít vừa nhảy cà tưng vừa hát theo I have a dream. Chưa có máy tính.

Thông tin còn lùng bùng, đặc biệt sinh hoạt văn học nghệ thuật thế giới. Không ai biết vua nhạc rock Elvis Presley chầu trời năm 1977 khi mới 42 tuổi vì sử dụng ma túy quá liều; John Lennon của The Beatles bị fan cuồng Mark Chapman bắn 5 phát vào lưng bằng khẩu 38 năm 1980 lúc sự nghiệp âm nhạc đang ở đỉnh cao; cha đẻ chủ nghĩa hiện sinh Jean Paul Sartre cưỡi hạc qui tiên cùng năm 1980 vì phổi có nước trong khi Simone De Beauvoir mãi đến 6 năm sau mới về với ông bà; nữ diễn viên Romy Schneider đột quỵ qua đời năm 1982 sau một năm đau đớn trước cái chết của đứa con trai 14 tuổi bị té toét động mạch trên cọc nhọn của hàng rào trước nhà; Bay Qua Tổ Chim Cúc Cu được chào hàng đúng năm 1975; Chiến tranh giữa các vì sao xuất xưởng hai năm sau đó; rồi Amadeus, Die Hard I, Batman, Superman…tung hoành trên màn ảnh đại vĩ tuyến ở đâu đó phía bên kia của trái đất. Mãi đến đầu thập niên 90 mới có cái gọi là tiệm cho thuê băng video, hai ngàn một phim, ai muốn thuê phải để lại tiền cọc và giấy căn cước. Dạo ấy người ta mê mẩn Hải âu phi xứXóm vắng, Mùa thu lá bay, Tiếu ngạo giang hồ… Đại khái là rũ rượi Quỳnh Dao và hào hùng sĩ khí Kim Dung.

Khi Giuseppe Tornatore bước lên bục ở Cannes nhận giải cho phim Cinema Paradiso vào năm 1989 vào một múi giờ khác của địa cầu, con Titi 7 tuổi đã biến thái thành cô gái lỡ thì tên Thy Thy 40 tuổi, bỏ miền cuối Việt lên sinh sống ở Sài Thành được hơn 30 năm. Chẳng phải đường tình duyên lận đận, đơn giản vì cô mải tìm một hình ảnh người đàn ông mà cô đã nuôi trong tâm tưởng từ thuở bé nhưng chưa gặp. Có một người cha vô trách nhiệm và nửa tá anh trai, kẻ thủ đoạn người bạc nhược, cô ao ước gặp được một tay tử tế - một người cha một người anh một người bạn, hơn là một người tình. Nhảm, thứ đó làm gì có. Bọn họ đến rồi đi, ca tụng tình yêu màu tím hoa sim hoặc tung hô vạn tuế tình dục màu đỏ hiện sinh, không ai có thể chia sẻ với cô nỗi niềm u ẩn.

Vào những năm rối beng vì đổi mới, cô Thy Thy ban đầu kiếm sống lương thiện bằng nghề vẽ bút điện trên guốc gỗ, sau chuyển sang bán thịt cho Hợp Tác Xã phường. Bắt đầu từ thời điểm sử dụng dao thớt, cô trở thành một người khác. Về sau thậm chí đi quá xa. Cô mày tao với đàn ông, mua đi bán lại, không chỉ hàng hóa. Khi rảnh rỗi cô xem phim tình cảm Đài Loan hoặc phim chưởng Hồng Kông; mỗi lần ra tiệm đổi phim cô lấy về hàng chục cuốn để khỏi bị ức vì gián đoạn do mỗi cuốn đều ngưng tức tưởi ở cuối tập. Cô thuộc cả bài Mùa Thu Lá Bay lời Việt, thường ngân nga…giờ đành lìa xa thế nhân sầu đau, hẹn anh kiếp sau ta nhìn thấy nhau… Có lần xem hết loạt phim tập, cô lúng túng vớ đại vài cuốn phim lẻ được bày bắt mắt trên kệ tiệm cho thuê video, trong đó có Cinema Paradiso, vì bị hút bởi cái bìa có in hình ông già cọc cạch chở thằng nhỏ trên ghi-đông xe đạp dọc con đường làng. Tưởng phim thiếu nhi. Quái, thỉnh thoảng cô lại thấy lòng mềm yếu, kiểu rưng rưng, nhưng rồi đâu lại vào đấy khi soi gương đánh răng rửa mặt sáng hôm sau.





Phim kể về thằng nhóc Toto 6 tuổi mê điện ảnh, lúc nào cũng quấn chân ông thợ chiếu phim tên Alfredo để được xem ông làm việc trong cái buồng tối hù 4 mét vuông, và để được nhìn thấy trên màn hình những chân trời khác mênh mông hơn cái thế giới nhỏ xíu của làng Giancaldo, nơi mọi người gặp nhau mỗi ngày ở tất tần tật các loại sinh hoạt, kể cả giải trí. Rạp xi-nê Paradiso tọa lạc ngay quảng trường. Dân chúng đủ mọi tuổi tác giới tính thành phần đều tụ tập ở đấy xem phim đen trắng vốn rất thường khi bị cắt đứt khúc vì vi phạm đạo đức, đại khái những cảnh hôn hít. Ngay trong rạp, đàn ông phì phèo thuốc lá, la ó, khạc nhổ, cụ già nhai nhồm nhoàm, phụ nữ vạch vú cho con bú, trẻ con huýt sáo kêu gọi viện binh khi người hùng trên màn ảnh lâm nguy. Nhan nhản quanh khu quảng trường, áp-phích Clark Gable, Vivien Leigh, John Wayne, Bette Davis làm tăng thêm màu sắc cho đời sống úa và buồn của ngôi làng nhỏ. Trở thành thanh niên, Toto thay Alfredo chiếu phim cho rạp, được một thời gian cũng bỏ làng đi. Chàng tuổi trẻ, do tình yêu điện ảnh có được từ Alfredo, về sau trở thành đạo diễn Salvatore Di Vita – có vẻ như âm bản của Giuseppe Tornatore. Phim kết ở cảnh Salvatore sau mấy chục năm lang bạt kỳ hồ trở về làng dự đám tang ông già Alfredo, gặp lại những người quen của tuổi thơ ấu, nhăn nheo hơn lụm cụm hơn nhưng vẫn cứ tùm nụm trong bối cảnh cũ. Ở màn cuối, tất cả bọn họ cùng Salvatore đứng nhìn cái rạp ọp ẹp bị giật sập bằng chất nổ. Gạch đá sụm xuống, vôi vữa bay lên. Hết.

Phim tình cảm nhảm nhí, cô Thy Thy ngáp vắn ngáp dài, tự hỏi không biết cái gì nó lôi mình đến cuối phim. Tưởng có chi éo le, hóa ra chỉ là hoài niệm. Dạo ấy hoài niệm là thứ xa xỉ, nó giống như một kẻ đang trần truồng đói lạnh bỗng được tặng cho cái khăn mùi-xoa bằng lụa tẩm nước hoa có thêu bông cúc bông mai để làm duyên.




Ngày 25 tháng 8 năm 2013 kênh truyền hình HD1 của Pháp phát lại phim Cinema Paradiso lúc 8 giờ 50 tối. Cô Thy Thy bây giờ là bà Richelieu, vợ thứ năm của một ông tây già 84 tuổi, nhà buôn đồ gỗ có tiếng ở Touraine. Titi Richie, tên gọi âu yếm của ông chồng già đặt cho, đang ngồi trong ghế bành bọc da ở phòng khách lầu một; trên cái bàn thấp trước mặt có hũ sữa chua Danone-Activia trộn trái cây mà bà định tráng miệng sau cơm tối. Tay phải đang cầm cái muỗng nhỏ, bà chợt khựng lại. Hả? Phim này hình như coi rồi ở Việt Nam hơn hai chục năm trước, mướn hai ngàn còn phải để lại tiền cọc với giấy căn cước. Loại hoài niệm. Ở tuổi này, hoài niệm, bà thở dài ứ hự, thôi cũng được đi, còn hơn là xem mấy phim hình sự hành động bắn giết tưng bừng kênh nào cũng chiếu trùng một giờ; tuy đã một thời chặt băm trên thớt thịt, bà vẫn xây xẩm khi thấy máu người. Ấm ứ lấy lệ, lòng có phần nguội lạnh, bà nghĩ hoài niệm vẫn còn hơn là tắt đèn chui vô phòng nghe lão bựa ngáy. Già quá rồi, lông mũi thò cả ra ngoài, râu tóc thưa rỉnh thưa rảng, răng cỏ sệu sạo, mồm miệng toác hoác, lại còn nhễu nhão. Ngó phát chán. Chán nhưng mà sướng tấm thân. Muốn có được người cha người anh người bạn thì đó, cứ mà hưởng. Khỏi phải nghe ca cẩm tình yêu màu tím hay tình dục màu đỏ.

Xem lại phim lần này, Titi Richie không để ý đến lời thoại do khả năng chỉ nghe được lõm bõm một bụm tiếng Tây sau vỏn vẹn vài năm xa xứ. Dĩ nhiên bà thừa biết câu chuyện diễn biến ra sao, nhưng trong căn phòng ấm cúng với tiếng mưa lích rích ngoài cửa kính, và nhất là trong tâm thái thư nhàn, những tình tiết trên màn hình tinh thể lỏng hiệu Peekton 50 inches bỗng đánh thức nơi bà cái thời thơ ấu bị bỏ quên đến hơn nửa thế kỷ, dạo con nhỏ Titi 7 tuổi quấn chân chú Quảng trong buồng chiếu phim của rạp Huỳnh Long.

Rạp hát được xây trên phần đất hương hỏa của ông bà ngoại để lại cho cậu Út, mặt tiền ngó ra kênh 16, bên phải là hai cái mả đá của ông bà, bên trái trống trơn được phát sạch cỏ để làm lối đi bên hông rạp. Những lúc không phải xách cặp đi bộ đến trường tiểu học Quản Long, Titi cà rà theo chú Quảng để xem chú vẽ pa-nô bằng bột màu. Chú Quảng là người hùng đầu tiên trong đời Titi. Chẳng những chú có thể tô quệt đặc sắc chân dung các tài tử điện ảnh khắp thế giới mà còn kẻ tuyệt đẹp bảng hiệu và điều khiển điêu luyện máy chiếu phim. Dưới nét cọ của chú, Titi thuộc nằm lòng cách chú đi màu từng phần làm hiện lên dần khuôn mặt nam tài tử Vân Hùng của Áo dòng đẫm máu, Thẩm Thúy Hằng của Người đẹp Bình Dương, Thu Trang của Chiêu Quân cống Hồ; rồi Sữa rừng thay sữa mẹ, Người vợ rắn, Tìm chồng dưới đáy biển với các diễn viên Ấn Độ Sivaji Ganeshan, Kommareddy Savitri, Angeli Devi. Trong trí nhớ của Titi Richie vẫn còn đậm nét kiểu chữ uốn éo điệu nghệ và bộ vó chú Quảng vặn người o bế các tựa phim Người phu xe, Áo người trinh nữ, Bạc trắng lửa hồng…

Lâu lâu rạp ngưng chiếu do xe đò chưa đưa phim về kịp từ Sài Gòn. Mấy cô bán quán cóc ngồi ngáp ruồi dọc theo bờ kênh, chảy cả nước mắt sống; trẻ con chạy giỡn bắt cào cào lôm côm quanh các cột đèn huỳnh quang trước rạp hát. Mưa thì thôi, buồn thúi ruột. Rạp hát ế nhệ, có khi phải trả vé lại cho khán giả, hủy buổi chiếu. Chị Kim Hoa ngồi sau quầy đếm cùi vé xong liệng cái phạch, xách giỏ về sớm.

Thỉnh thoảng cả thị xã chợt rộn ràng khi cậu Út nghỉ lấy phim để cho mấy gánh hát lưu diễn thuê rạp. Hoài Dung-Hoài Mỹ, Kim Lan-Kim Cúc, Ba Vân, La Thoại Tân… những cái tên nghe quen đến ghiền; chưa coi diễn, chỉ đọc tên đào kép thôi dân tỉnh nhỏ đã thấy lòng dạ xôn xao. Titi thường theo xe Lambretta 10 chỗ ngồi đi phát chương trình với chú Quảng. Pa-nô tuồng bự tổ chảng máng hai bên lườn xe, chú đánh trống tùng tùng tùng, còn Titi hãnh diện tung tờ rơi, bọn con nít rượt theo xe vừa nhặt tờ quảng cáo vừa reo hò, hể hả với chiến lợi phẩm. Chỗ Titi ngồi vắt vẻo trên xe Lambretta dạo ấy là ước mơ của tất cả bọn chúng.

Sống bên cạnh rạp hát, Titi có dịp nhìn thấy những khuôn mặt không tô vẽ của các ông hoàng bà chúa, đào thương, kép độc. Rũ bỏ cân đai áo mão bước ra khỏi ánh đèn màu sân khấu, họ bèo nhèo dưới nắng mặt trời tỉnh lẻ. Ngồi lặc lè trên mấy cái ghế đẩu xiêu vẹo, quân vương bạo chúa ái nương thị nữ lính hầu ăn cháo lòng cháo huyết trứng vịt lộn muối tiêu rau răm, uống trà đá hoặc cà phê xây-chừng, tán gẫu với mấy em bán quán. Trông họ nhợt nhạt mệt mỏi với kiểu sống tạm bợ của những chuyến lưu diễn. Bởi vậy Titi chỉ thích xem phim; những chân trời mênh mông không biết nằm đâu trên bản đồ địa lý đã mở ra cho nó cơ man là cõi giới, những diễn viên ở tít mù xa không có cơ chường mặt thật cho nó thất vọng. Từ buồng chiếu của chú Quảng, qua cái lỗ vuông vuông tuốt trên cao mà Toto thường rướn người trèo lên trong rạp hát Paradiso, Titi có thể nhìn thấy những khuôn mặt khán giả quen thuộc. Cũng lao xao lác xác, cũng vỗ tay reo hò khi viện binh đến vừa kịp lúc để giải cứu người hùng, cũng lẩm nhẩm thuộc lòng theo lời thoại của các nhân vật do đã xem đi xem lại nhiều lần, cũng ho có đàm, khạc nhổ hỉ mũi, ăn uống nhồm nhoàm, hút thuốc, cho con bú; hơi kém văn minh hơn dân làng Giancaldo, họ cho cả chân cẳng lên ghế.

Trong thị xã còn có rạp Huê Tinh nằm gần trung tâm. Hai rạp thường thuê phim chung từ một nguồn cung cấp – hãng phim Mỹ Vân chẳng hạn, chiếu theo suất so le để rạp này vừa xong vài hộp liền chuyển ngay cho rạp kia. Nhân viên giao phim đạp xe trối chết, đặc biệt vất vả vào những ngày mưa, y hệt kiểu người ta chạy phim bằng xe đạp trên những con đường làng ở Giancaldo. Mỗi phim 35 li có đến mấy chục hộp được đánh số thứ tự; xong mỗi hộp chú Quảng tài tình nối phim thật lanh lẹ liền lạc, tuy thỉnh thoảng cũng có trục trặc kỹ thuật khiến màn hình chỉ có sọc xuôi sọc ngược hoặc nhảy nhót loạn xạ 1, 2, 3, X, Y, Z chẳng hiểu ra làm sao. Khán giả la ó đến mấy, chú vẫn không run tay, y như bị lờn thuốc.

Có những điều Titi Richie không biết về nơi chốn đó sau cuộc bể dâu. Trong nhiều năm kể từ 1975, rạp Huỳnh Long được nhà nước tiếp quản để chiếu phim cách mạng. Kênh 16 đã được lấp kín, luồn cống bên dưới, dọn chỗ cho nhà cửa hai bên bờ kênh mọc đâu đít nhau, chỉ chừa một con hẻm nhỏ ở vị trí giữa lòng kênh đủ cho hai người đi bộ. Một đầu kênh bị cắt ngang bởi đường Lê Lợi. Đường này xưa kia chạy ngang tiệm thuốc Bắc Tế Nhơn Đường đâm thẳng ra bến tàu Ngọc Tiếng. Hiện nó vẫn còn ôm một khúc rõ dài sông Cà Mau chảy xuôi vô miệt trong, nhập nhòa với sông Gành Hào băng qua làng Tân Duyệt quận Đầm Dơi - là nơi con Titi chào đời, sau được ba má gửi người quen chèo ghe đưa ngược ra chợ Quản Long ở đậu nhà cậu Út để đi học. Đường Lê Phú Nhung trước rạp hát được đổi thành Nguyễn Văn Tạo, rồi Nguyễn Trãi – trớ trêu là lý lịch của ba nhân vật này hoàn toàn không có điểm nào chung, thậm chí éo le gây cấn.

Trong trận bão Linda năm 1997 rạp Huỳnh Long hoàn toàn đổ sụp khỏi cần chất nổ. Bãi đất trống trở thành bãi rác, địa chỉ ưa chuộng của dân hút chích. Cậu Út qua đời, gia đình người cháu của cậu cất nhà bên hông cái rạp đã sập để trông coi phần đất hương hỏa vốn không hẳn bị nhà nước trưng dụng nhưng cũng chưa chính thức được cấp giấy chủ quyền. Nhằm xóa điểm tụ tập của mấy cô cậu xì-ke ma túy ốm nhom ốm nhách như cò ma, một vòng rào bằng cây tu hú đã được dựng quanh miếng đất, bên trong lơi khơi vài cây mít, một cây vú sữa, một cây cóc, chồm hổm một mớ cải xanh và rau bù ngót, có phất phơ cả thuốc nam, nhưng dương đông kích tây vẫn là lá dứa. Trên đống điêu tàn của quá khứ, rõ ràng đám này tuy gượng gạo cũng gom được một nhúm màu xanh thiên nhiên cho xóm nhỏ. Cô Thy Thy đã không trở về chốn cũ suốt những năm đó để đứng nhìn mớ vôi vữa còn lại của rạp hát như Salvatore Di Vita. Cũng không có người thân yêu nào qua đời bên dòng kênh 16 để mà quay lại ngậm ngùi. Thay vì trở thành đạo diễn điện ảnh nổi tiếng thế giới như thằng Toto, con Titi nhiều mộng tưởng đã bị đột biến gien thành một bà bán thịt của Hợp Tác Xã phường. Rồi bây giờ là một me tây.

Mãi đến khi xem lại Cinema Paradiso lần này, me tây Titi Richie mới vỡ lẽ ra phim không phải kết thúc ở cái chỗ người ta giật sập rạp hát như mình đã nghĩ. Hoặc cuốn video được mướn giá hai ngàn đồng bị cắt mất đoạn chót, hoặc bà đã tắt đèn đi ngủ trước khi Salvatore trở về thực tại sau 124 phút hoài niệm. Cũng có thể bà có lướt xem cảnh cuối, chưa kịp nắm bắt chuyện gì đang xảy ra đã thấy nhảm nhí tình cảm lãng mạn nên bấm cái cạch, dẹp, nghỉ khỏe.

Ở vài ba phút còn lại của Cinema Paradiso, đạo diễn Salvarore Di Vita ngồi một mình trong phòng chiếu phim mini cực sang trọng với các dãy ghế bọc nhung đỏ. Trên màn hình là những cảnh hôn nhau, lần lượt, liên tục, bất tận. Vivien Leigh mãnh liệt với Clark Gable, John Wayne đắm đuối đôi môi mềm của Maureen O’Hara, Bette Davis quên hết trời đất trong vòng tay Humphrey Bogart… Đó là những cảnh phim đi ngược thuần phong mỹ tục mà lão Alfredo đã phải cắt bỏ theo yêu cầu của vị cha cố làng Giancaldo. Trước khi qua đời, ông già chiếu phim không quên gửi lại cho Toto cái kho tàng thuở bé thằng nhỏ luôn khi bức bối muốn khám phá. Những mẩu cắt lụn vụn ém đầy nhóc trong cái hộp tròn đựng phim 35 li quen thuộc của thập niên 50 đã được ráp nối lại. Người đàn ông tóc hoa râm ngồi đấy, các cánh cửa bí mật bị lãng quên của thời thơ ấu được mở dần ra theo từng nụ hôn trên màn ảnh. Mắt đẫm lệ, Toto Di Vita như đang làm hòa với quá khứ. Xem đến đây Titi Richie chợt ngã ngửa ra lưng ghế rên ư ư. Có một chỗ nào đó trong cơ thể bỗng sưng tấy lên, làm mủ.


Trần Thị NgH
Créteil, 31.08.2013














Đỏ Tía







Mãn Dục







Telecom














Bong VI














Bong V












Bong IV












Bong III













Bong II












Bong I













Bật Ngửa






Leo Xuống Tầng Trệt






Lọt Xuống Tầng Hầm













Bung II














Bung I
(2012)












                                                                                                  
















Tác phẩm tiêu biểu










(tuyển tập truyện ngắn) 
NXB Hội Nhà Văn, Việt Nam (2012)










Nhăn Rúm


NXB Hồng Lĩnh, Pháp (2012)










Những Ngày Rất Thong Thả 
(tập truyện ngắn) 1975










Truyện Ngắn Trần Thị NgH  


NXB Văn Nghệ, Mỹ (1999)








Truyện dài 
Lạc Đạn 
và 10 truyện ngắn  

NXB Thời Mới, Canada (2000)








  Nhăn Rúm (truyện vừa)







Người Thuận Tai Trái (truyện ngắn)







Nhà Có Cửa Khóa Trái (truyện ngắn)


NXB Văn Nghệ, Mỹ (1999)









Người Đàn Bà Ngồi (truyện ngắn)






Không Có Cửa (truyện ngắn)






Mataco Ltd (truyện ngắn)






Mộ Chí (truyện ngắn)

















Phỏng vấn:





Minh Thùy: Nói chuyện cùng nhà văn Trần Thị NgH










Cổ Ngư trò chuyện với Trần Thị NgH:





Nhân buổi ra mắt tập truyện Nhăn Rúm do Tủ sách Hồng Lĩnh tổ chức tại Châtenay-Malabry, ngoại ô Paris ngày 24.06.2012 vừa qua, Cổ Ngư đã thực hiện một cuộc phỏng vấn dạng bỏ túi cùng nhà văn Trần Thị NgH.

Cổ Ngư (CN): Thưa chị, được biết Tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh (trực thuộc Les Editions de la Frémillerie, Pháp) vừa xuất bản tập truyện Nhăn Rúm, gồm 9 truyện của chị viết rải rác từ 1998 đến 2010. Xin chị cho biết những cơ duyên nào đã đưa đẩy cho dự án này được thành hình.

NgH: 40 năm trước, anh Bùi Xuân Quang tình cờ đọc và thích một truyện ngắn của Trần Thị NgH đăng trong tạp chí Vấn Đề (1972) do Mai Thảo và Vũ Khắc Khoan chủ biên. Sau 1975, từ Pháp, anh tìm cách gửi về cho NgH 6000 quan – gọi là giúp đỡ người sáng tác còn ở lại trong nước. Vì dè dặt, tôi không dám nhận. Đời đưa đẩy, sau này tôi được gặp vị mạnh thường quân ở Châtenay-Malabry – nay làm việc cho La Frémillerie; anh cho biết đã từ lâu có ý định in cho tôi một tập truyện, vừa rồi mới thực hiện được.



CN: Tập Nhăn Rúm gồm 9 truyện, trong đó 8 truyện có phụ nữ tuổi trung niên là nhân vật chính, truyện còn lại, “19 x 26.50 cm”, với nhân vật trung tính BẠN (không giới tính, không tuổi, không tên). Đó có phải là những tự truyện, với nhân vật chính, nhân vật phụ phảng phất nét tác giả và những người chung quanh (gia đình, bạn bè, hàng xóm) ? Chị có nhận được phản hồi từ những người này không ? Có ai thắc mắc về sự nhang nhác giống giữa họ và đường nét, vóc dáng hoặc tâm tính một nhân vật nào đó được miêu tả trong truyện của chị không ?





NgH: Những nhân vật này ở đâu và lúc nào cũng có, chỉ là tôi rủ họ bước vào thế giới tiểu thuyết của tôi để cùng… bày hàng một số vấn đề mà tất cả chúng tôi đều quan tâm hoặc ít nhiều có liên lụy. Tác phẩm nào cũng là tự truyện của người sáng tác, trong văn chương cũng như hội hoạ, âm nhạc và các loại hình nghệ thuật khác. Nó phản ảnh chân dung tác giả cùng những con người anh ta kề cận và bối cảnh trong đó anh ta đi tới đi lui.



Ai không thích ở trong đó có thể bước ra, bằng cái cách họ đã bước vô.



CN: Những nhân vật này “bị” chị rủ vào tác phẩm một cách rất bị động. Khi không thích trò chơi của chị nữa, làm cách nào để họ có thể chủ động bước ra ?



NgH: Tôi sẽ… rủ họ ra. Sẽ không ai gặp lại họ nữa. Chỉ còn một hình ảnh để lại làm kỷ niệm, mà hình ảnh thì bây giờ có photoshop rồi. Có thể anh cho là tôi nói phét chứ hầu hết họ đều vui vẻ ở lại chơi và thích gặp lại chính mình trong một bối cảnh và hoàn cảnh khác. Ai cũng thích soi gương. Tôi nè, không có ảo tưởng về bản thân nhưng gặp vũng nước mất vệ sinh cũng soi mặt trong đó, đơn giản chỉ để coi mình vằn vện ra sao.



Nhưng anh đừng lo lắng cho họ quá thế. Lắm người không nhận ra chính họ, bởi có khi tôi chỉ mượn của ông nào đó vỏn vẹn một bộ ria, vì nó đẹp, rồi mang cắm vào cái cằm nhẵn nhụi của một bà. Còn bối cảnh thì, trời, trong truyện “Lọt Xuống Tầng Hầm” tôi hiên ngang bưng trọn một ngôi nhà đồ sộ số 2 đường Maine thuộc Sceaux sang trồng bên đường Molé ở Antony. Không tin kiểm tra sẽ thấy.



Đã gọi là sáng tác thì nhắm mắt tối thui cũng thấy sáng trưng anh ơi!



CN: Văn phong của Trần Thị NgH khác hẳn lối viết của các cây bút nữ Việt Nam cùng thời. Mời chị dùng 10 đến 20 tính từ để tự đánh giá về cách viết của mình.





NgH: Tôi sẽ không để cho bị mắc bẫy trong chủ quan của mình, nên sẽ trích một số tính từ được dùng bởi … chủ quan của người khác.



· Du Tử Lê: mạnh mẽ, lạnh lùng, khô khốc, giễu cợt, ngỗ ngáo, gây gỗ, thiếu bóng cây.



· Thụy Khuê: tỉnh táo, vô cảm, châm biếm, đớn đau, tự trào, hiện sinh, rất mới, rất trẻ.



· Thanh Tâm Tuyền: … “không như Võ Phiến nói về ý, tôi nói về văn, về sự rời rạc, sự tuôn tràn, những nhịp thở, những lỗ trống, nói về dấu phẩy, dấu chấm ; phẩy là đòi đoạn, chấm là chưng hửng lôi tuột luốt như rớt đến trống không đến sợ. Và câu khác trồi lên, kéo lên như một ân huệ, như một phép mầu để lại dìm trong đòi đoạn. Hãy lắng nghe, đừng đọc.”



Anh đếm lại giùm xem có vượt định mức 20 tính từ chưa.



CN: Người phỏng vấn xin được thêm 1 tính từ hay bắt gặp trong các truyện ngắn của chị: tưng tửng.





NgH: Là khùng, phải không ? Đừng trả lời nghe.



CN: Nhìn các tựa truyện “19 x 26.50 cm” và “9m2”, người đọc lại liên tưởng đến căn phòng “bốn mét nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét tám” trong truyện “Man Nương” của nhà văn Phạm Thị Hoài. Đây là một sự lựa chọn ngẫu nhiên hay có tính toán của chị ? 





NgH: Có một lần tôi táy máy leo lên google tìm truyện “9m2” của mình, được viết năm 2008, xem nó đang lang thang ở đâu, bỗng gặp một nhân vật tên Laurent JACQUA và bài thơ “9m2” của anh ta (“9m2” de Laurent JACQUA, Laurentjacqua@yahoo.fr). Bài thơ cực hay nói về cái phòng giam mà trong đó anh ta phải cầm cự 25 năm (từ 1984 đến 2009). Trong thời gian này anh trở thành blogger nổi tiếng viết từ trong bóng tối nhà tù Poissy. Ra tù, anh vẫn tiếp tục viết blog. Tìm đọc bài thơ “9m2” đi. Độc lắm !



CN: Chị có dùng lại truyện của “Những ngày rất thong thả” (NXB Trí Đăng, 1975, Saigon, in xong chưa kịp xuất bản) trong 2 tập truyện “Tập truyện ngắn Trần Thị NgH” (NXB Văn Nghệ, California, 1999) và “Lạc đạn và 10 truyện ngắn” (NXB Thời Mới, Toronto, 2000) không ? Chị có dự định cho tái bản đứa con tinh thần đầu tiên nhưng… “xấu số” này không ? Chị có thể cho biết chút ít thông tin về tập truyện này không ?





NgH: Tôi bỏ con rất nhiều, trong mấy đứa này có “Giả Thiết”, “Nụ Cười”, “Ao Tù”, “Bươm Bướm và Chó”, “Chủ Nhật”, “Bao Lơn”, “Khoan Điệu”, “Trưa Nắng”, “Nơi Khác”, “Trong Cơn Nhức Mỏi”, “Những Ngày Rất Thong Thả”… Đó là tập truyện đầu tay do nhà Trí Đăng xuất bản, đã hoàn tất mọi bước, chỉ chưa kịp phát hành. Một vài truyện khác trong tập này là các đoạn trích từ truyện dài “Lạc Đạn” – đã được Thời Mới, Toronto xuất bản năm 2000. Mấy đứa có tên vừa kể, nó chết yểu là đáng đời. Có nhiều người cao lớn đang khỏe như văm mà còn lăn đùng ra chết, huống chi là đám con nít chân yếu tay mềm, lại gặp phải thời khí khắc nghiệt. Không phải tôi ghẻ lạnh gì bọn chúng. Để lúc nào hưỡn tôi xem lại, nếu đứa nào có sức cầm cự, đang còn ngo ngoe hấp hối, tôi sẽ hà hơi cho nó sống dậy chơi tiếp để quên đi tuổi thơ dữ dội.






Photo: Cổ Ngư




CN: Tên thật của chị là Trần Thị Nguyệt Hồng. Vì sao chị lại lấy cái bút hiệu úp úp mở mở, nửa hư nửa thực Trần Thị NgH ? Ngoài bút hiệu này, chị còn dùng bút hiệu nào khác để sáng tác nữa hay không ? Nếu có, văn phong của bút hiệu không-phải-trần-thị-ngh có gì khác lạ không ?

NgH: Thú thật tôi không thích có bút hiệu, nhưng tên thật thì hơi dài dòng. Thỉnh thoảng khi viết những bài có tính cách gây gỗ, tùy bút hay ký sự, tôi lấy tên Thọ Diên, tên cúng cơm của ba tôi. Nếu có bị đập, (tên) ông già sẽ đỡ giùm. Tất nhiên ông không hề biết đứa con trời đánh của ông đang làm trò nhố nhăng gì. Cũng may quá, ông qua đời 27 năm rồi.

Văn phong ở những bài viết này? Nếu anh thường ăn phở ở một tiệm – dù có đổi bảng hiệu – rất có thể anh vẫn nhận ra cái vị quen. Tôi cũng có ý nấu mặn hơn một tí hoặc ngọt hơn một tí, nhưng nhiều thực khách dễ tính cứ thấy phở là ăn, ai nấu cũng vậy.

Tuy nhiên, sau tiết lộ ngày hôm nay tôi gỡ bảng hiệu.

CN: Hiện nay, đã có nhiều tác phẩm trước, sau 1975 của các tác giả miền Nam & hải ngoại được in lại và xuất bản trong nước. Vì sao cho đến 2012, chị vẫn không có ý định xuất bản sách tại Việt Nam, dù đang sống và làm việc tại đây ?

NgH: Có chứ ! Tôi luôn luôn thương tội cho đám con không cha. Bấy lâu nay vẫn phải tha chúng đi gửi các nhà trẻ Hợp Lưu, Văn, Thư Quán Bản Thảo; có khi cho ở luôn nội trú Văn Nghệ, Thời Mới, Hồng Lĩnh; hoặc lây lất trong các trại tị nạn Da Màu, Dutule, Đặc Trưng, Ăn Mày Văn Chương, Mượn Dấu Thời Gian… Tuy nhiên, mới vài tháng trước đây thôi trong nước có một… cha tên là nhà xuất bản Phương Nam đang làm thủ tục xin con nuôi. Bọn nhỏ sẽ được nuôi như thế nào thì tôi chưa biết, nhưng nghe nói sắp có cha chúng nó cũng nhảy cà tưng. Chậc, nông nổi, nhưng rõ ràng đã hết muốn mồ côi. Tôi có dặn dò, dù được đối xử như thế nào cũng phải biết ơn người đã có ý cưu mang.

CN: Trong Blog của hoạ sĩ Phan Nguyên “Emprunt Empreinte” (http://phannguyenartist.blogspot.fr/), ngoài truyện viết, người đọc được thưởng thức thêm tranh vẽ & lời nhạc các ca khúc của chị. Có bao giờ chị nghĩ đến việc tổ chức hoặc tham gia một cuộc triển lãm tranh hoặc ra mắt một CD nhạc gồm các ca khúc của chị được thu âm hay không ?

NgH: Hmmm… không. Tôi vẽ tranh để… tạo không khí cho mấy bức tường và làm nhạc để tạo không khí cho ba cái đồ tế nhuyễn quây quần bên trong mấy bức tường.

CN: Trong tranh của chị có nhiều màu thuộc gamme nóng hơn gamme lạnh, có khi hừng hực như bức “Moonrise” chẳng hạn. Trong tên của chị cũng có màu đỏ. Đọc truyện của chị, độc giả có cảm tưởng người viết thuộc mạng Hoả. Điều đó có đúng không ?

NgH: Tôi không biết chi về lĩnh vực này. Qua định mức số tính từ được liệt kê ở trên: lạnh lùng tỉnh táo tưng tửng, lại thích trồng cây và tắm sông tắm giếng, có lẽ tôi thuộc mạng mộc hoặc mạng thủy. Nhưng điều này đâu có ăn thua gì. Anh có viết văn và làm nhạc, thừa biết chữ này dẫn dắt chữ kia, nốt kia lôi theo nốt nọ. Màu sắc cũng thế. Ngoài ra cũng tùy thời kỳ. Mấy ông kẹ đại hoạ sĩ có thời kỳ hồng, thời kỳ xanh vậy sao mình không thể đặt ra thêm thời kỳ đỏ, thời kỳ đen, thời kỳ nham nhám, thời kỳ lang láng, thời kỳ tua tủa, thời kỳ… Thôi, không cà rỡn nữa, làm mất không khí tôn nghiêm của cuộc phỏng vấn.

CN: Xin cảm ơn chị NgH. Mong sẽ sớm được cầm trên tay tác phẩm mới của chị do nhà xuất bản Phương Nam ấn hành.
















Và Trần Thị NgH còn... vẽ tranh và soạn nhạc


                                                                                                                            













Ca khúc

rơi tình theo m


tình rơi vực sâu
tình lên đèo cao
    tiếng hát m bay qua chiều không màu

trầm như giọng ru
chùng như điệu blues
tiếng hát m len cứa từng mạch máu

dài muôn dặm xa
lịm hương hoàng hoa
tiếng hát m trôi xuôi dòng sông già

mềm như giọt mưa
đọng treo cành xưa
tiếng hát m lay trái sầu vỡ òa


điệp khúc:


hát đi hát đi
hát cho chát thêm vị chát còn chôn trên môi
hát đi hát đi
hát cho lớn thêm nỗi nhớ hoài thai trong người
hát đi hát đi
hát cho nám đen buồng phổi dồn tim qua tim
nhớ thôi nhớ thôi
đuối mê giọng hát hấp hối đêm đêm


gào lên thật to
chìm sâu thật sâu
tiếng hát m chao xô tình nghiêng ngửa

ghìm cho tình hao
trào cho tình vơi
tiếng hát m câm rêm vùng ngực tối

thầm như thở than
dồn nhanh nhịp ba
tiếng hát m chan hai hàng lệ nhòa

ngộp như tàn hơi
chậm như nghẹn đau
tiếng hát m đưa ta về cõi nào

nặng như tình rơi
nặng như tình rơi
tiếng hát m đeo ta về cuối đời


San Diego. Utah. Nevada. Arizona, 1.2001




















Tranh TTNgH











Jupiter (Mạng Mộc)








Aries (Dương Cưu)












Mercury (Mạng Thủy)














Fading (Nguyệt Tận)













Moonrise (Đưa M Lên Cao)














Goya's Mala Noche (Đêm Giông Goya)













                                                                                                                      










Ca khúc

cho lần tga về


em về trong tháng giêng âm
mùa đông dương lịch giận ngầm bỏ đi
em về như cánh chim di
khi buồn em đậu vui thì bay lên
em về phố hết buồn tênh
hoa khô bỗng nở thác ghềnh bỗng reo
em về giậu đỡ bìm leo
nhà xưa thắp sáng đèn treo rực thềm


điệp khúc:

em về ngày đuổi xua đêm
em về trời ngỡ xanh thêm
con sâu hóa bướm ngã êm đóa quỳnh

em về chúm chím môi xinh
mắt đen húng háy đưa tình cỏ cây

em về má đỏ hây hây
em về hồn nhỏ ngây ngây
chim di mỏi cánh đường bay dặm trường

em về rải phấn ươm hương
ngày em đi bướm chán chường hóa sâu

em à í a em i
em à í a em i
em à í a em i
  i á à i i á à i...



ngđc, 12. 2002























Picasso On The Chopping board (Picasso Trên Thớt)













On Edge (Chí Mí)










Fragments 
(Chấn Thương Sọ Não)














Tưởng An













Left-handed (Thúc Thủ)











Suicidal (Huyễn Diệt)














                                                                                     







Ca khúc

m


nhớ m bạc đầu
nhìn chẳng thấy đâu
mù nẻo trước sau
đường dẫu rất xa vẫn rất gần một bóng ma

nhớ m mệt nhoài
sầu lả xuống vai
buồn rụng lóng tay
nụ hôn dẫu thôi vẫn rất mềm một góc môi


điệp khúc:

Hmmm ....


nhớ m sật sừ
tình say ngất ngư
vị chát đã dư
cặn ly quánh đen vẫn nhấp càn một chút men

nhớ m lặc lè
dềnh trong giấc mê
bàn tay ủ ê
quờ ngang bóng đêm vẫn níu hoài một vết m


Sartrouville, 7.2000
























Tham khảo thêm về nhà văn Trần Thị NgH














Thụy Khuê: Trần Thị NgH










Du Tử Lê: Trần Thị NgH, Nhà Văn, Như một Kẻ Xa Lạ?








Du Tử Lê: Bước Vào Thổ Nhưỡng Truyện Ngắn Thiếu Bóng Cây, Của Trần Thị NgH



















Thuở hát véo von theo Sylvie Vartan, Sheila...














Thuở minijupe 40cm 













Thuở diễn tuồng nội tâm











Thuở đột biến từ váy ngắn sang áo dài











Thuở huyễn diệu tạo dáng











Thuở u minh hóa thân tầm gửi












Thuở hân hoan máy ảnh kỹ thuật số



















Thuở cười hiền với chó






























Thõng I

















Studio PN 2010














Nv Thế Giang, Nv TTNgH, Nt Huỳnh Mạnh Tiên, Hs Phan Nguyên
Savigny le Temple Paris 2000
















Phan Nguyên & Trân Thị NgH
Sài Gòn 2011

























Hiện sống và làm việc tại Paris và Sài Gòn







Trở về 






MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.