Chủ Nhật, 5 tháng 7, 2020

A Khuê (1948 - 2009)


















A Khuê

(1948 - 13/8/2009)
tên thật Hoàng Văn Phúc

nhà thơ, nhạc sĩ 









Tiểu sử

A Khuê tên thật là Hoàng Văn Phúc, sinh năm 1948 tại Quang Phục,Tứ Kỳ, Hải Dương trong một gia đình Công giáo, mất ngày 13 tháng 8 năm 2009 tại thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

Theo gia đình di cư năm 1954, tuổi nhỏ A Khuê lớn lên tại Đà Nẵng và học nhạc từ chính người cha của mình. Tuy nhiên, thơ mới là căn cốt thiên phú làm nên một tên tuổi A Khuê, dẫu rằng khoảng 100 bài thơ mà ông đã viết chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn so với gia tài âm nhạc trên 1000 ca khúc tính tới ngày mất. Năm 1970 (22 tuổi), NXB Da Vàng, Đà Nẵng ấn hành tập thơ Vàng Bay của A Khuê gây nhiều dư luận lúc bấy giờ. Ông cùng Phạm Phú Hải và Vũ Hữu Định (những bạn đồng ấu) lập nhóm tài tử tâm thi, dụng thơ như cuộc lãng du bụi cát của chính họ. Ba thi sĩ này từng được mệnh danh là “Tam nhân lãng tử đất sông Hàn” mà bạn bè hằng nhắc. Năm 1999 (41 tuổi), NXB Trẻ in tập thơ Lùa Bò Trong Sương, tập thơ thứ 2 của A Khuê, được bạn đọc không chỉ riêng Sài Gòn yêu quý. Đặc biệt, khi bài thơ “Về đây nghe em” của A Khuê được người bạn thuở thiếu thời là nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc đã gây ấn tượng mạnh cả trên thi đàn Việt và ca khúc Việt đương đại. “Về đây nghe em” vượt thoát những cố chấp, kéo gần những ngả rẽ phân liệt, những hoang mang bôn lưu, như vệt chảy hồng hào âm thầm trong mạch huyết người Việt bốn phương. Nhiều nhà thơ và bạn đọc ba miền, kể cả hải ngoại bắt đầu lật lại một tiếng thơ đặc sắc, nhân bản, chứa chan nhạc cảm và ý thức sưu tầm những bài thơ A Khuê, bổ khuyết vào những mảnh ghép còn bỏ ngỏ.

Thơ A Khuê độc đáo trong thi ảnh, vu khoát trong cấu tứ, buồn thanh tú, có lúc phóng đạt mà vẫn dịu dàng. Có thể thơ ông chịu đôi chút ảnh hưởng nào đó từ Hàn Mặc Tử, từ Bùi Giáng. Dẫu vậy, A Khuê vẫn tạo bản sắc, giọng điệu thơ riêng, tư duy duy mĩ, lấy cảm xúc nội sinh làm thăng hoa phóng ngôn. Đã có vài bài viết về ông, về cuộc sống túng quẫn của gia đình ông nhưng nhìn chung chỉ là những chú tâm khai khẩn phần hữu giới.

Hoàng Quý






Thơ


Hai tập thơ nổi tiếng nhất

Lùa bò trong sương

Vàng bay



Bài thơ nổi tiếng nhất được nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc là bài Về đây nghe em: 



VỀ ĐÂY NGHE EM


Về đây nghe em!
Về đây mặc áo the đi guốc mộc
Kể chuyện tình bằng lời ca dao
Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới
Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai
Về đây gọi tiếng xưa…
Về đây nghe em!
Về đây thả ước mơ đi hát dạo
Để chào đời bằng hạt sương mai
Để bằng lòng ngọt ngào hấp hối
Hận thù người lắng xuống
Tìm nhau như tìm xót xa…
Này hồn ơi lên cao
Đem ánh sáng hân hoan trên trời
Rọi vào đời
Cho ta tinh cầu yêu thương
Này thịt xương
Ta chưa mang theo
Khi ngã xuống mê man tủi hờn
Về đây nghe nhau thở dài trong đêm!
Về đây nghe em!
Cùng khóc trên sông nước buồn
Chờ lòng người trở về quê hương
Chờ hồn mình về dòng suối mát
Chờ thật thà vào lòng dối trá
Và nhạc hoa xin kiếp
Tạ ơn hoang phế gặp nhau…












Ca khúc








Các ca khúc nổi tiếng



Tình thiên thu



Nhánh hoa xưa
(thơ Trương Đình Tuấn)



Bóng gương
(thơ Thái Thanh Nguyên)


Album Mặt trời đã lên
(cùng nhạc sĩ Bạch Cung Thạnh)
















THƠ A KHUÊ
BỤI, VÀ CÁT, VÀ HƯƠNG QUYẾN RŨ


A Khuê tên thật là Hoàng Văn Phúc, sinh năm 1948 tại Quang Phục,Tứ Kỳ, Hải Dương trong một gia đình Công giáo, mất ngày 13 tháng 8 năm 2009 tại thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

Theo gia đình di cư năm 1954, tuổi nhỏ A Khuê lớn lên tại Đà Nẵng và học nhạc từ chính người cha của mình. Tuy nhiên, thơ mới là căn cốt thiên phú làm nên một tên tuổi A Khuê, dẫu rằng khoảng 100 bài thơ mà ông đã viết chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn so với gia tài âm nhạc trên 1000 ca khúc tính tới ngày mất. Năm 1970 (22 tuổi), NXB Da Vàng, Đà Nẵng ấn hành tập thơ Vàng Bay của A Khuê gây nhiều dư luận lúc bấy giờ. Ông cùng Phạm Phú Hải và Vũ Hữu Định (những bạn đồng ấu) lập nhóm tài tử tâm thi, dụng thơ như cuộc lãng du bụi cát của chính họ. Ba thi sĩ này từng được mệnh danh là “Tam nhân lãng tử đất sông Hàn” mà bạn bè hằng nhắc. Năm 1999 (41 tuổi), NXB Trẻ in tập thơ Lùa Bò Trong Sương, tập thơ thứ 2 của A Khuê, được bạn đọc không chỉ riêng Sài Gòn yêu quý. Đặc biệt, khi bài thơ “Về đây nghe em” của A Khuê được người bạn thuở thiếu thời là nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc đã gây ấn tượng mạnh cả trên thi đàn Việt và ca khúc Việt đương đại. “Về đây nghe em” vượt thoát những cố chấp, kéo gần những ngả rẽ phân liệt, những hoang mang bôn lưu, như vệt chảy hồng hào âm thầm trong mạch huyết người Việt bốn phương. Nhiều nhà thơ và bạn đọc ba miền, kể cả hải ngoại bắt đầu lật lại một tiếng thơ đặc sắc, nhân bản, chứa chan nhạc cảm và ý thức sưu tầm những bài thơ A Khuê, bổ khuyết vào những mảnh ghép còn bỏ ngỏ.

Thơ A Khuê độc đáo trong thi ảnh, vu khoát trong cấu tứ, buồn thanh tú, có lúc phóng đạt mà vẫn dịu dàng. Có thể thơ ông chịu đôi chút ảnh hưởng nào đó từ Hàn Mặc Tử, từ Bùi Giáng. Dẫu vậy, A Khuê vẫn tạo bản sắc, giọng điệu thơ riêng, tư duy duy mĩ, lấy cảm xúc nội sinh làm thăng hoa phóng ngôn. Đã có vài bài viết về ông, về cuộc sống túng quẫn của gia đình ông nhưng nhìn chung chỉ là những chú tâm khai khẩn phần hữu giới.

Ở góc độ thi ca, “Bụi, và cát, và hương quyến rũ” tìm một A Khuê thi sĩ . Thi - sĩ - vàng - ròng!



Bụi, và cát,
và hương quyến rũ

Nhà thơ: Hoàng Quý

1. Vào một đêm mùa đông cuối tháng Chạp năm 2001, trong một khách sạn nhỏ ở Hà Nội, tôi, hoạ sĩ - nhà thơ Nguyễn Trần Thái và thi sĩ Trần Quốc Thực tề tựu trò chuyện. Cái đêm cuối chạp ấy rét như cả năm dồn tụ và vón cục những tê buốt lại. Chỉ Nguyễn Trần Thái là đã ngà ngà, lơ mơ ngủ và vùi gần kín đầu trong chiếc chăn bông không lấy gì làm dày dặn. Trần Quốc Thực so ro và chậm rãi đọc cho tôi nghe vài bài thơ trong tập Tháp Cúc, tập thơ in sau đó ít năm. Đang mạch lạc, bỗng anh thoắt dừng, bất ngờ hỏi: Hoàng Quý có đọc nhiều thơ của những tác giả miền Nam viết trước 1975 không? Mình được đọc ít quá. Sách rất thiếu. Sách của những nhà thơ miền Nam trước 1975 rất khó kiếm. Tôi nói với anh rằng cũng đọc nhưng không nhiều lắm. Anh thở dài: Phải cố tìm mà đọc. Nhiều bài thơ, nhiều tác phẩm cả văn xuôi và thơ rất có giá trị. Mình làm biên tập ở báo Văn nghệ, công việc tuy không quá bận nhưng sức khoẻ kém lắm rồi, dạo này phổi rất tệ, đọc ít dần, như thế thực không hay lắm đâu…

Anh nhìn đăm đắm bầu trời nhớp nhoá mưa bấc phía ngoài cửa hẹp, bỗng thở dài, bỗng đọc:

“Đồi trăng một cụm tóc phơi
Thưa em uống rượu tả tơi một mình
Đồi trăng một cụm phơi mình
Thưa anh tầm thể đã nghìn xuân qua
Đồi trăng u uất chưa bưa
Bữa qua tôi uống thêm mùa uất u
Đồi trăng không ngớt vi vu
Bữa nay tôi ngậm sương mù thở than
Đồi trăng mỏng diệu diệu vàng
Hồn bay, bay giữa hai hàng hoa lê
Lên đồi khăn áo lê thê
Áo trăng quá lạnh tôi về giết trăng”


Nguyễn Trần Thái tung chăn choàng tỉnh, bật dậy, la: Thơ ai hay quá vậy? Lên đồi khăn áo lê thê / Áo trăng quá lạnh tôi về giết trăng là hai câu thơ hay dựng tóc; còn hai câu kế trên đẹp như một tác phẩm hội hoạ của một danh hoạ tài ba! Anh Thực ho húng hắng, rồi cười buồn: Hay quá phải không? Mình nghe người ta đọc một lần, người đọc cũng không biết thơ của ai. Mình dò hỏi nhiều nguồn vẫn chưa biết ai là tác giả. Lúc đầu, mình đã nghĩ thơ của người này có cái gì đó giống thơ Hàn Mặc Tử, lại có cái gì đó váng vất Bùi Giáng. Nhưng, đọc kỹ nhiều lần thì càng thấy rằng không phải vậy. Tất nhiên là chỉ bài này, hoặc là 12 câu mà mình biết chứ những bài khác thì đâu đã biết. Người thơ này phải là một nhà thơ có tài. Mà cũng không rõ bài thơ chỉ bấy nhiêu thôi, hay còn nữa mà người đọc cho mình nghe cũng không nhớ. Nếu bài thơ kết ở đó thì đã rất hay rồi…Khí thơ nghe lạnh mà vẫn trong, các ông ạ!

Đêm đó, chúng tôi thức trắng. Trần Quốc Thực còn đọc khá nhiều thơ của Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền và vài nhà thơ miền Nam khác mà anh yêu thích. Riêng tôi, 12 câu thơ của tác giả “bí mật” nọ cứ ám ảnh, và ám ảnh rất thường khi sau này. Khi thi sĩ Trần Quốc Thực đã bỏ bạn bè về một trời khác, thì ngoài thơ của anh mỗi lần tôi đọc lại, tôi lại nhớ tới 12 câu thơ anh đã đọc cho tôi và Nguyễn Trần Thái nghe đêm nào. Cũng như anh, tôi đã cố công dò tìm cho ra ngọn nguồn mà đành chịu.

2. Đầu tháng bảy năm nay, nhà nghiên cứu lịch sử kiêm phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Phước Phan Văn Dõng điện thoại xuống Vũng Tàu, hỏi tôi:

- Anh có thu xếp đi một chuyến Bình Phước được không? Giữa tháng này chúng tôi mở Trại sáng tác Văn học Nghệ thuật lần thứ II. Cố mà gác mọi việc lên với tụi mình. Ở trên này có A Khuê và Trung Đức biết anh đấy!

Và thế là tôi có điều kiện cho một chuyến đi mới, bổ ích và rất đặc biệt.

Anh Dõng bố trí cho tôi và nhạc sỹ A Khuê ở chung một phòng, phòng 406 của khách sạn Mỹ Lệ, một khách sạn đẹp nhất của thị xã Phước Long - mà cũng có lẽ là đẹp nhất của Bình Phước. Tôi và nhạc sỹ A Khuê luôn luôn ngồi kề cận nhau dù trên xe, hay trong các bữa ăn của đoàn. Hằng đêm, khi về đến khách sạn thì thôi rồi, thức, đọc thơ, hát, chụm đầu không ít lần xuống những khuông nhạc. Chúng tôi thường nói tếu: Rồi sẽ đến lúc được ngủ mãi. Vì thế có dịp ở với nhau sướng thế này cứ phải thức cái đã! Đến Điểu Đức - anh bạn nhạc sỹ rất trẻ người S’tiêng nhập đoàn sau, ở cùng phòng 406 theo đề nghị của tôi cũng được một phen bội thực thơ, bội thực thức và bội thực chuyện...tào lao.

Đêm cuối của chuyến đi, nhạc sỹ A Khuê bỗng hỏi: - Em đã đọc thơ thằng này chưa…Rồi anh đọc Em Pleiku má đỏ môi hồng/ Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Tôi reo lên: Thơ Vũ Hữu Định! Rồi đọc nối luôn Nên mắt em ướt và tóc em ướt/ Da em mềm như mây chiều trong.

Như chạm mạch, tôi say xưa đọc thêm mấy câu khác:

“Chiều khó thở ngồi bên quán xép
Một miếng khô, một xị rượu nồng
Nhai là nói với đời lận đận
Uống là nghe sầu chảy long đong”

(Thơ Vũ Hữu Định)

A Khuê khoái quá, cười sang sảng, rồi bảo: Em thuộc cả thơ thằng Định, thằng bạn tri kỷ của anh là anh sướng quá. Vũ Hữu Định lận đận lắm. Nó chết buồn quá, khi tuổi mới vừa 40, chết vào tháng Giêng, tháng vừa xuân năm Tân Dậu (1981) ngay bên bờ sông Hàn của thành phố Đà Nẵng, cái thành phố mà thuở bé nó và anh đi đâu cũng có nhau. Anh kể cho tôi nghe rất nhiều những năm tháng trôi vô định cùng Vũ Hữu Định. Anh còn kể và đọc thơ của một người bạn rất thân nữa là Phạm Phú Hải (tác giả tập thơ Gánh Nước Tưới Sông). Anh khen Trần Quang Lộc - bạn đồng ấu với các anh ngày nào, rằng Trần Quang Lộc là một nhạc sỹ tài hoa. Nhưng tôi không thấy anh nhắc lời về cái hành vi “lờ ca từ” từ thơ của anh mà dư luận đã một dạo rất phản ứng. Khi tôi cố tình động chút ít vào sự kiện ấy, anh chỉ buồn buồn, rồi bảo: Cả thơ mình, ca từ mình viết cũng có ít nhất không dưới 13 lần trong nhạc Trần Quang Lộc chứ có riêng gì “Về đây nghe em” đâu. Nhưng thôi, chuyện đã qua rồi, mình cũng muốn gặp lại nó, vì gì thì gì nó cũng đã từng là bạn của tụi mình…

Sang đầu tháng 8, tôi trở lại Bình Phước một lần nữa. Sáng hôm tiễn tôi ở bến xe khách thị xã Đồng Xoài, nhạc sỹ A Khuê đưa cho tôi một tập thơ mà anh photo từ những tờ bản thảo anh còn giữ được. Anh bảo:

- Hồi trẻ, anh làm nhiều thơ lắm. Chả biết hồi ấy chữ ở đâu mà lắm thế. Viết cứ như một thằng mộng mị…Em mang những bài thơ cũ này của anh về và đọc xem thế nào! Năm 1999, cũng nhờ bạn hữu, Nhà Xuất bản Trẻ in cho anh tập thơ “Lùa bò trong sương”, còn tập “Vàng bay” do Nhà Xuất bản Da Vàng ở Đà Nẵng in năm 1970 thì anh chả còn tập nào trong tay nữa.

Tôi cảm động cất những bản photo anh đưa vào đáy chiếc ba lô và hứa sẽ đọc.

Và, tôi đã đọc đi đọc lại như bị ma ám suốt mấy đêm liên tiếp. A Khuê không chỉ là một nhạc sĩ có tài mà tôi đã biết. A Khuê còn là một nhà thơ, đúng hơn, là một thi sĩ - nhạc sĩ tài hoa dấn thân cho cả nhạc lẫn thơ với ý nghĩa đúng đắn nhất của những từ này!


3. Thơ A Khuê là một thứ thơ được sinh ra trong lòng của người thi sĩ luôn luôn biết cách “uống chữ, uống đời rồi nhả tơ vàng” để rồi tự chuốc ngất say ngư hơn cả uống rượu. Và, cũng chỉ sinh ra ở “loài thi sĩ” bị mắc một căn bệnh trầm kha rất đỗi đáng yêu là bệnh “viêm xê dịch mãn tính”. Bởi thế, họ không ở đâu cho yên. Bởi thế, họ rất biết cách tự vui và biết cách tự trào; rất biết gửi hồn mình, ẩn hồn mình trong mê trận chữ, biết “điều” chữ “đi” uyên náo cả lòng người.

Đây nhé:

Ra đi hồn không áo
Ngỡ dòng sống là đây
Con ngươi tôi trâng tráo
Chẳng có một bóng mây

(Sầu riêng - Trong: Bụi cát ra hương)

Đây nữa:

Rồi khi không ta dẫn hồn đi trốn
Chân trên cỏ chân lẫn cỏ sương bay

(Long lanh hương - Trong: Bụi cát ra hương)

Và, đi đến độ;

Bỏ xứ con đi
Đường trời xa lạ
Con ngươi của mẹ
Nhấp nháy mặt trời
Con đi trong nắng
Máu rờn rợn trôi

(Mẹ tàn phai - Trong: Bụi cát ra hương)

Thật là một cuộc đi nhiều kinh hoàng, mang nỗi buồn cuộc đi cũng rờn rợn kinh hoàng! Con đi trong nắng/ Máu rờn rợn trôi là những câu thơ viết về một sự đi trong cái kiếp nạn của đời người, của chính anh, rất hay và rất gợi, không bình được. Đọc , và ngẫm ngợi, có thể thì thấu cảm, và không nên bình. Tôi nghĩ thế!

Nhưng, liệu có phải người thi sĩ này đi chỉ nhằm cho một cuộc rong chơi bất cần đời? Không đâu! Ta có thể gặp anh lòng nhiều trĩu nặng khi thác lời những người hành khất để cất lên một điệu ca buồn, buồn đến nhức nhói, buồn đến tái tê: Tóc dài phất phới/ Để tang đời ư/…Áo quần bẩn thỉu/ Ta thù đời ư/ Bao lời xua đuổi/ Ta thương người ư/ Ngồi nói một mình/ Ta cao ngạo ư/ Nằm ngủ trần truồng/ Ta điên khùng ư (Khất hành ca - Trong: Lùa bò trong sương). 
Ở lời mà anh nói thác cho những kiếp hành khất là một loạt các câu hỏi gấp gáp mà nào có dễ trả lời! Thương những kiếp mỏng ở cõi người, nhưng anh cũng biết rằng lòng anh dẫu có như Hồ nguyệt đọng cũng chỉ có thể Ném hòn sỏi đơn sơ và bất lực.

Trong bụi, cát tơi bời của cuộc đi, sự vật lộn, sự dằn vặt trong tâm hồn chính nhà thơ đã không dưới một lần anh buộc phải kêu to rôi tự thán: Ta là không bóng không hình nàng ơi/ Sao ta đày ải cuộc đời trăm nơi/ Ta còn đây hay ta mất hút/ Trong nhà lớn bao la cuộc đời (Thiên thần không bóng không hình -Trong: Lùa bò trong sương). Phải chăng, mỗi khi như thế, mỗi khi lòng anh cô quạnh và nhiều bất lực, anh lại tự để cho lệ mình rơi rớt đầm đìa:

Buồn trên sông khóc trên sông
Cũng không đủ lệ một dòng cho ai
Nằm bên cỏ dại thầm thì
Thương chưa hề yêu chưa hề thương yêu
Sao đâu sao đâu đìu hiu
Áo trăng ta lạc giữa chiều rồi chăng

(Lẻ loi - Trong: Lùa bò trong sương)

Rồi anh chia sẻ:

Dù rằng máu vẫn nguôi ngoai
Đêm đêm tiếng thở lạnh dài hư vô
Tay cầm nguyệt đã tinh khôi
Vàng - một - phím - vàng - hai - rơi - ngõ - vàng

(Nỗi lòng chia sẻ - Trong: Lùa bò trong sương)

Cố thi sỹ - nhà phê bình văn học Trịnh Thanh Sơn có lần tâm sự với tôi rằng: Thơ hay hình như phần nhiều bật lên trên miệng vực của những nỗi buồn. Có lẽ đây cũng không chỉ riêng là nhận định của cố thi sỹ họ Trịnh. Tôi đồng tình rằng, cái có thể là “quy luật” sinh ra thơ hay mà cố thi sỹ đúc rút tâm sự với tôi, bởi ông đã trải và nghiệm khi đọc hàng núi sách và trò chuyện, tranh luận với rất nhiều thi bá, thi hữu ông gặp trong mấy mươi năm sống, đọc và viết. Khi đọc thơ A Khuê, càng đọc tôi càng sửng sốt thấy các bài thơ hay của thi sĩ luôn luôn đi ra từ những nỗi buồn. Ví dụ, khi A Khuê tạ ơn ân huệ của tháng ngày mà cuộc sống ban tặng, anh viết ra một thứ thơ đẹp buồn tráng lệ đến thế này:

Hồn như vĩ cầm lệ
Kêu réo qua từng ngày
Từng ngày bao ân huệ
Như tháng tháng mây bay

(Không ngờ - Trong: Bụi cát ra hương)

Hoặc cả ngay khi A Khuê gửi lời, gửi lòng cho một người con gái dù là gái giang hồ thì câu chữ tài tình anh viết vẫn luôn bật lên từ thẳm sâu buồn:

Người em gái tóc giang hồ bạc phếch
Ta và em đôi mắt thở rất gần
Hồn xơ xác nằm im trong bụi trúc
Nghe xa xăm tiếng thở của vô cùng

(Người con gái giang hồ - Trong: Bụi cát ra hương)

Tôi đã đọc rất kỹ 80 trang photo mà nhạc sỹ - thi sĩ A Khuê đưa cho, hôm anh tiễn tôi ở bến xe thị xã Đồng Xoài. Chỉ mới 80 trang anh đưa, với 60 bài thơ (có lẽ là chưa đầy đủ - thuộc hai tập thơ khác nhau: Tập “Lùa bò trong sương” và tập “Bụi cát ra hương” anh đang viết dở. rồi có thể mất hứng, có thể vì một lý do nào đó không muốn viết thêm nữa) trải dài gần 40 năm chuyên chú với thơ trước khi bị bảy nốt ma mị của âm nhạc lôi kéo. Ở bất cứ bài thơ nào của anh cũng có thể tìm được những câu thơ bậc thi sĩ. Tuy nhiên, quan trọng hơn là thơ A Khuê luôn mang một thi tâm rất nhất quán. Thơ anh buồn mà trong, khi vui cũng không vì thế quá tưng bừng, và khi chất chứa những cay đắng (người mà không có đôi khi cay đắng thì mới là cái giống lạ!) thơ anh cũng không rơi vào lối nói nhiều gào thét. Trái lại, bất kể thế nào, bất kể hoàn cảnh nào anh cũng luôn luôn giữ cho tư thế “đi” trong bụi và cát của đời thơ và có khi là đời anh một tư thế, một hồn chữ luôn luôn sang trọng, điềm tĩnh. Đó cũng là một phẩm cấp thi sĩ chăng?

Nhà thơ tình của thế kỷ XX Xuân Diệu đã từng nói đại ý: Anh nói rằng anh bình thơ rất giỏi ư? Tôi chưa tin! Hãy trích dẫn dẫu chỉ một câu thơ hay tôi sẽ tin và tin hơn cả những lời bình!

Thơ A Khuê thật nhiều câu hay. Chữ trong thơ anh nhiều khi chớp sáng và rất lạ, rất bất ngờ. Anh diễn tả cái sự anh yêu một cô gái đến mức:

Bình minh đỏ rực lên rồi
Môi cô hạt máu
Khóc lời tôi chăng
Thì xin cô hãy nhớ rằng
Trong tôi dòng máu vẫn hằng chảy ra

(Nón cỏ theo người - Trong lùa bò trong sương)

Hoặc là cái cách anh diễn đạt “cái sự bay” lay thức hồn anh cũng thật khác thường, cái sự bay không tới cao sang mà lại tới một bày cò con thì càng bất ngờ làm sao:

Nếu ta mọc cánh mà bay
Thì ta bay tới một bày cò con
Bay tàn phai bay héo hon
Bay đi tứ xứ tìm hồn duyên xưa

(Nỗi lòng chia sẻ - Trong: Lùa bò trong sương)

Và, cũng để chứng minh rằng trong thơ A Khuê lao động chữ luôn cật lực nhằm tìm ra cách diễn đạt sống động, mới mẻ có thể thấm vào tâm cảm người đọc. Ví dụ, trong bài “Tỳ bà xanh” anh tả các ngón tay lảy dây bấm phím như dốc tất thảy tim gan phổi óc ngỡ cháy thành khói thiêng mộng mị, ảo diệu đến thế này:

Má hồng
Cô bé tỳ bà câm
Chặt năm ngón tay
Chặt năm ngón tay đốt trầm
Đàn khói lộng
Tan tành tình trăm năm


Giời ạ! Đàn đến độ như đã Chặt năm ngón tay đốt trầm, ngón tay người đàn rực bốc khói trầm, phóng ngôn thế, câu chữ ma diệu thế, thi ảnh ảo dụ thế còn biết tìm khác thế nào cho hay hơn nữa đây!

Tuy nhiên, cũng có thể thấy dù đã rất thành công, nhiều ấn tượng từ nhiều câu thơ, bài thơ độc đáo như một đặc sản A Khuê, cũng không phải không có những bài (trong số bài anh photo tặng tôi) anh viết quá gần Hàn Mặc Tử ở ảnh hình, quá gần Bùi Giáng ở cách nói. •Cũng tất nhiên như một lẽ thường thôi mà, nhiều thi sỹ tài hoa vẫn ít nhiều ảnh hưởng những ngọn nguồn, những trào lưu, những giọng điệu tương hợp với sở ý mình. Ví như: Các em phải hiểu cho nhiều/ Đời ta bụi gió đã nhiều lất lây/…Dạ thưa trời đất vốn là/ Bụi bay cát chạy vốn là bụi bay cũng chừng hơi hơi tí ti Bùi Giáng phải không, anh A Khuê?

4. Đêm nay, tôi ngồi đọc lại 60 bài thơ trong 80 trang photo mà thi sĩ - nhạc sĩ A Khuê tin cậy trao cho. Tôi mang một cảm giác nhiều tiếc nuối vì người thi sĩ tài hoa này làm thơ ít quá. Hay anh bỏ thơ mà đi? Hay ngược lại? Như thế liệu có thiệt cho thơ Việt chúng ta chăng khi mỗi năm có đến hàng ngàn tập thơ in la liệt. Trong số đó thơ thứ thiệt, thơ đặc sản như cỡ A Khuê và một số thi tài khác đốt đuốc giữa ban ngày cũng chỉ lác đác. Chao ôi! Cái sự mọi ai đều thích in thơ chưa hẳn đã là điều dở - tất nhiên! Có chăng, cái thứ phẩm của món “thơ giả thơ” (chữ của nhà thơ Inrasara) mới làm cho mâm tiệc thanh cao và uyên ảo của Thơ (viết hoa) là phải chịu “hầm bà làng”. Điều này lại phải cậy nhờ mấy ông xuất bản và kêu gọi cả sự tỉnh ra của các ông các bà nhiều ngộ tưởng.

Nhưng, tôi có thêm một niềm vui bất chợt trong đêm nay. Ở cái khe bàn tôi ngồi viết lấp ló một tờ rơi. Tôi nhặt lên, không tin vào mắt mình nữa. Đây này, anh Thực ơi! Đây này, cái bài thơ anh đọc cho em và Nguyễn Trần Thái nghe vào đêm đông cuối chạp năm nào chính là thơ của thi sĩ - nhạc sĩ A Khuê mà em đang có trong tay. Nó chính là bài thơ thứ 61 em cẩu thả để gió cuốn vào khe bàn. Anh Thực có biết không, cái người thơ mà chúng ta tìm có một đời sống vui chậm, buồn trước. A Khuê từng là một tay chăn bò thuê thứ thiệt nhiều năm trên núi đồi miệt Long Khánh. A Khuê cũng từng cùng vợ và tám đứa con nheo nhóc thử kiếp “thuần nông” trên các cánh đồng cò bay cò sã cánh tít hút Sóc Trăng. A Khuê có tới chừng 10 năm cấy lúa nhưng gặt rạ gặt rơm vì thất mùa nhiều gấp ba lần được. A Khuê vật vã thợ hồ, đốn củi, đốt than nuôi một đàn con đang sức tằm ăn rỗi. Bụi thế, cát thế mà thơ cứ ăm ắp mộng mị, cứ bay hương, bay những hương mê quyến rũ như chưa hề buồn chán bao giờ. Bài thơ có 12 câu anh đọc vào đêm đông ngày ấy chính là bài Đồi Trăng Uống Rượu anh Thực ạ. Cũng đúng là bài thơ chưa dừng ở câu Áo trăng quá lạnh tôi về giết trăng. Nó còn những sáu câu trong khổ kết. Sáu câu còn lại của bài thơ trọn vẹn Đồi Trăng Uống Rượu là khúc vĩ thanh rất nhiều tươi sáng. Trần Quốc Thực ơi! Dù ở tận trời nào thì cũng hãy về quanh đây cho em được đọc nốt sáu câu kết mà anh dự cảm rằng có thể bài thơ chưa kết thúc. Nó thế này:

Giết trăng tôi lại lên đồi
Ngơ ngơ ngác ngác tôi ngồi nhớ trăng
Đồi trăng đỏ tôi mê man
Ôi tôi biết cõi phai tàn sau lưng
Đồi trăng uống rượu vô cùng
Xin thưa trời đất tôi mừng tôi say

Bài thơ đã hết thật rồi!

Tôi đốt một nén trầm rồi ba lần đọc to những câu thơ A Khuê, như thể vẫn còn bên tôi một Trần Quốc Thực gan ruột với thơ giữa buốt rét đêm nào Hà Nội…


Thành phố Vũng tàu
Đêm 13 rạng ngày 14.08.2008

H.Q



Biên chú : Đúng một năm sau bài viết này, Thi sĩ - Nhạc sĩ A Khuê mất . Ông mang bệnh tim bẩm sinh và từ thế vì đột quỵ, thọ dương 61 năm. Nhiều bài thơ của A Khuê có thể đã thất lạc, hoặc còn nhưng không đầy đủ trong các sưu tập cá nhân. Nhà thơ Hoàng Quý nhờ phongdiep.net gửi tới bạn đọc, các thi hữu, nếu ai đó còn lưu giữ được các tập thơ, các bài thơ A Khuê xin thiện tình gửi bản photo cho tác giả theo địa chỉ: Số 9 Cô Bắc, phường 4, TP Vũng Tàu.

ĐT:0903956278
hoặc email: voongaquynv@yahoo.com.vn.

Hy vọng từ những sự giúp đỡ, một thi tuyển A Khuê có cơ sở được biên tập tới cùng bạn đọc!









Lục bát A Khuê
Nhà thơ Hoàng Quý chọn và giới thiệu





Đồi trăng uống rượu

Đồi trăng một cụm tóc phơi
Thưa em uống rượu tả tơi một mình
Đồi trăng một cụm phơi mình
Thưa anh tầm thể đã nghìn xuân qua
Đồi trăng u uất chưa bưa
Bữa qua tôi uống thêm mùa uất u
Đồi trăng không ngớt vi vu
Bữa nay tôi ngậm sương mù thở than
Đồi trăng mỏng diệu diệu vàng
Hồn bay, bay giữa hai hàng hoa lê
Lên đồi khăn áo lê thê
Áo trăng quá lạnh tôi về giết trăng
Giết trăng tôi lại lên đồi
Ngơ ngơ ngác ngác tôi ngồi nhớ trăng
Đồi trăng đỏ, tôi mê man
Ôi tôi biết cõi phai tàn sau lưng
Đồi trăng uống rượu vô cùng
Xin thưa trời đất tôi mừng, tôi say…





Chắp tay quỳ

Chắp tay quỳ lạy cuộc đời
Đã mang ta tới cõi người tử sinh
Chắp tay quỳ lạy bình minh
Làm ta rạng rỡ ngâm kinh ban chiều
Chắp tay quỳ lạy tiêu điều
Bay thơ mộng lúc cô liêu ngập lòng
Chắp tay quỳ lạy mồ chôn
Hãy chôn ta với chập chùng vàng bay
Chắp tay lạy gió và mây
Ôm cho thật kín di hài yêu thương
Chắp tay quỳ lạy cuối đường
Ngủ mê thân ấy như dường thân ma





Gõ quan tài làm vui

Cho tôi chạy giữa phố phường
Gieo cơn mộng đã tàn hương bao giờ
Cho tôi chẻ tóc ơ hờ
Ngã trên đồi vắng như mơ cuộc là
Cho tôi miệng hót ba hoa
Thà tôi chết giữa chiều tà còn hơn
Cho tôi đời sống vô hồn
Đi ngang qua ngọn lửa buồn trái tim
Cho tôi ngủ dưới sương hiên
Đợi em nho nhỏ đi tìm bao la
Cho tôi cười lớn, khóc òa
Nửa đêm tóc thả buông xòa đọc kinh
Cho tôi khăn đỏ máu mình
Lêu bêu trong cõi chập chùng âm u
Cho tôi như gã thiền sư
Bỗng nhiên nhảy cỡn giữa mù mù sương
Cho tôi nhớ phố nhớ phường
Nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ nường tình nhân
Cho tôi mắt khổ đăm đăm
Long lanh hạt mát lệ rằm thóp thoi
Cho tôi tuyết trắng hồn tôi
Đưa ngày thiếu phụ sang đời phù du
Nở thiên thu, nở cây thu
Cho tôi tự tử trên bờ thu phai
Cho tôi oán khúc một bài
Tang tang tôi gõ quan tài làm vui






Nón cỏ theo người

Hoa thơm nở nhụy trên đồi
Vỗ tay cánh bướm
Cô ngồi soi gương
Gương soi mắt biếc đoạn trường
Đau điên tôi gởi nỗi buồn cho cô
Nhè nhẹ thôi nhé hồn mơ
Bên kia đỉnh núi sương mờ tich liêu
Cười im lặng, chớ đừng reo
Sợ cây thu rụng xuống đèo tàn thu
Năm năm tôi ốm tương tư
Trăm con hạc trắng
Bỏ về lối xưa
Nên hồn đã chết trước mùa
Bây giờ lời tỏ bằng thừa mà thôi
Bình minh đỏ rực lên rồi
Môi cô hạt máu
Khóc lời tôi chăng
Thì xin cô hãy nhớ rằng
Trong tôi dòng máu vẫn hằng chảy ra
Năm năm tôi hát tôi ca
Lên cơn tôi múa
A ha tôi cười
Tang tang tang nước và trời
Tôi đội nón cỏ
Theo người về đâu






Gởi người ở lại

Em đi ném giáo xuống đời
Chuyến xe bước ngựa biết trời phương nao
Vi vu một khúc ca dao
Nhớ thương vạn dặm máu đào nát tan
Đẹp chưa cố lý mây ngàn
Trăng thiên cổ chiếu bóng vàng đá phai
Ngủ len lén mộng thiên tài
Vần thơ tao ngộ chép vài đớn đau…




Nguồn: Phongdiep.net












Cuộc đời tài hoa và khốn khó của thi sĩ A Khuê – tác giả của “Về Đây Nghe Em”


Cách đây đúng 20 năm, vào 1999, xảy ra một sự kiện văn nghệ đáng chú ý làm xôn xao làng báo, đó là thi sĩ A Khuê công khai chỉ trích nhạc sĩ Trần Quang Lộc về việc nhạc sĩ này phổ thơ của A Khuê để viết thành bài hát nổi tiếng “Về Đây Nghe Em”, nhưng “quên” đề tên A Khuê, và dĩ nhiên là cũng không chia sẻ tiền tác quyền ca khúc này.

Lúc đó, ca khúc Về Đây Nghe Em được nhiều ca sĩ trong nước hát và khán giả rất yêu thích, cho dù bài hát đã được sáng tác cách thời điểm đó gần 30 năm.

Khoảng năm 2001, 2002, thi sĩ A Khuê đến sinh sống và làm việc ở Bình Phước, rồi tình cờ ông hay lui tới ở gia đình tôi, câu chuyện về bài hát Về Đây Nghe Em được chính ông kể lại. A Khuê cũng phổ nhạc một bài thơ của ba tôi thành bài hát tên là Nhánh Hoa Xưa. Ông đã sáng tác hàng trăm ca khúc khác, trong đó có bài khá nổi tiếng là Tình Thiên Thu, được các ca sĩ Trần Thu Hà, Mỹ Lệ hát.




Thời điểm đó internet bắt đầu nở rộ ở Việt Nam, và xuất hiện một trang web đăng lời bài hát nhạc Việt (lyric) đầu tiên và lớn nhất là dactrung.net mà dân mê nhạc thời đó ai cũng biết. Bài hát Về Đây Nghe Em được đăng lời trên trang này mà chỉ ghi tên Trần Quang Lộc, thiếu tên A Khuê.

Khi tôi tham gia diễn đàn ở trang web dactrung.net này và đã có đóng góp thêm khá nhiều lời bài hát cho web vào thuở internet còn ban sơ, đồng thời đã đề nghị ban quản trị website thêm tên A Khuê vào bài hát Về Đây Nghe Em. Từ đó, cái tên A Khuê bắt đầu xuất hiện trong bài hát Về Đây Nghe Em trên internet. Các website lời bài hát sau này đều copy dữ liệu từ dactrung.net nên có luôn tên A Khuê.

Giới văn nghệ sĩ sinh hoạt trước 1975 hầu như ai cũng biết tập thơ Vàng Bay của A Khuê được NXB Da Vàng Đà Nẵng ấn hành lúc ông mới 22 tuổi. Trong tập thơ có bài Về Đây Nghe Em nổi tiếng. A Khuê cùng với Phạm Phú Hải và Vũ Hữu Định (những bạn đồng ấu) lập nhóm tài tử tâm thi, dụng thơ như cuộc lãng du bụi cát của chính họ. Ba thi sĩ này từng được mệnh danh là “Tam nhân lãng tử đất sông Hàn” mà bạn bè hằng nhắc.

Đặc biệt, khi bài thơ “Về Đây Nghe Em” được nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc đã gây ấn tượng mạnh cả trên thi đàn Việt và ca khúc Việt đương đại qua giọng hát của Elvis Phương trong băng Shotguns.


Về Đây Nghe Em 
tiếng hát Elvis Phương trước 1975


“Về Đây Nghe Em” với lời ca nhân bản, vượt thoát những cố chấp và kéo gần những khác biệt về ý thức hệ của người Việt.

Nguyên tác bài thơ của A Khuê như sau:

Về đây nghe em!
Về đây mặc áo the đi guốc mộc

Kể chuyện tình bằng lời ca dao
Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới
Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai
Về đây gọi tiếng xưa…

Về đây nghe em!
Về đây thả ước mơ đi hát dạo

Để chào đời bằng hạt sương mai
Để bằng lòng ngọt ngào hấp hối
Hận thù người lắng xuống
Tìm nhau như tìm xót xa…

Này hồn ơi lên cao
Đem ánh sáng hân hoan trên trời
Rọi vào đời
Cho ta tinh cầu yêu thương

Này thịt xương
Ta chưa mang theo
Khi ngã xuống mê man tủi hờn
Về đây nghe nhau thở dài trong đêm!

Về đây nghe em!
Cùng khóc trên sông nước buồn
Chờ lòng người trở về quê hương
Chờ hồn mình về dòng suối mát
Chờ thật thà vào lòng dối trá

Và nhạc hoa xin kiếp
Tạ ơn hoang phế gặp nhau…

Tuy nhiên ở các bài phỏng vấn sau này, cụ thể là trên đài RFA và SBS Úc Châu năm 2006, nhạc sĩ Trần Quang Lộc thường không nhắc đến tên A Khuê trong bài hát Về Đây Nghe Em. Trả lời đài RFA, nhạc sĩ Trần Quang Lộc nói về hoàn cảnh sáng tác bài hát như sau:

“Tôi viết Về Đây Nghe Em năm 1969-70, thời điểm đó ở Sài Gòn thì chiến tranh đang ở cao trào. Buổi tối ở Sài Gòn lúc đó thời tôi còn đi học tối thì đi đánh đàn ở các quán Bar. Thành phố Sài Gòn giới nghiêm, ban đêm chỉ còn lại những người lính viễn chinh ở Mỹ. Còn trong mấy quán bar chỉ còn lại những cô vũ nữ, cave… những cô sinh viên mặc mini jupe phục vụ trong những quán bar này…

Lúc ấy mình là con người Việt Nam nên có cái nhìn hình như có điều gì đó ray rức trong lòng… cảm nhận có cái gì đó mình không diễn đạt được. Mình cảm nhận có một sự mời gọi để quay về với quê hương, những day dứt đó mình viết thành ca khúc Về Đây Nghe Em.

Bài hát này sau đó cũng được nhiều ca sĩ hát. Bài hát này thuận lợi cách nào đó cho nên thành công. Cho mãi đến bây giờ tuy đã nhiều năm nhưng cũng còn nhiều ca sĩ chọn để hát. Trong những cuộc thi Tiếng hát truyền hình Việt Nam người ta cũng chọn nó”.




Nhà thơ A Khuê tên thật là Hoàng Văn Phúc. Năm 15 tuổi, ông yêu một cô gái tên Khuê. Tình yêu đầu đời đề lại nhiều thương tiếc nên ông lấy tên đó để đặt bút danh cho mình. Thời điểm mới lập nghiệp ở Bình Phước, cuộc sống của ông rất khốn khó.

Nhà thơ Trương Đình Tuấn, bạn văn nghệ của A Khuê ở Bình Phước kể lại về cuộc sống khó khăn của A Khuê như sau:

A Khuê dắt díu vợ con lên sinh sống ở Bình Phước, nhờ hoàn toàn vào sự giúp đỡ của anh em bạn bè văn nghệ. Miếng đất nhỏ nằm trên đồi cạnh Quốc lộ 14 được một người bạn cho, căn nhà nhỏ được xây sơ sài cũng do mọi người đậu tiền góp lại làm nên cho ông.

Đường hẻm vào nhà ông nhỏ hẹp và độ dốc cao nên bị nước mưa làm xói mòn khó đi, vất vả lắm xe máy mới leo lên được nhà của ông nằm khuất trong vườn điều trên đồi.

Ngoài việc sáng tác nhạc, ông chẳng biết làm gì ra tiền. Mọi việc mưu sinh nhờ vào tay của vợ ông nấu rượu rồi đem ra hàng quán bỏ mối. Nghề nấu rượu do bạn của A Khuê là nhà thơ Nguyễn Quang Tấn từ Định Quán – Đồng Nai qua truyền lại nghề, nhờ vậy gia đình của ông đắp đổi qua ngày qua một thời gian.

Cuộc sống của đời nghệ sĩ túng thiếu khó khăn vì phải nuôi một bầy con nheo nhóc 7 đứa. Ông thường nói với bạn bè là ông có 7 đứa con đầy đủ 7 nốt nhạc. Tập thơ thứ nhất Vàng Bay xuất bản năm 1970, ông đã bán chiếc xe gắn máy để in thơ. Tập thơ thứ 2 – Lùa Bò Trong Sương của A Khuê nhờ bạn bè góp tiền lại để in cho ông. A Khuê cho biết là tiêu đề của tập thơ này ông đặt ra là do ông đã có thời gian đi chăn bò thuê ở Đồng Nai.

Cuộc đời của A Khuê được “đổi đời” từ khi bạn bè văn nghệ làm trong đài phát thanh truyền hình tỉnh Bình Phước đưa ông vào làm biên tập chương trình văn nghệ của đài. Từ đây ông được có lương tiền hằng tháng để được phần nào yên tâm sáng tác nhạc. Ông thức dậy từ 4 giờ sáng mỗi ngày, ông nói là khoảng thời gian này yên tịnh cho việc soạn nhạc.

A Khuê bị bệnh tim từ trước năm 1975 và qua đời vì căn bệnh này năm 2009 lúc 61 tuổi, để lại sự bất ngờ và thương tiếc của những người bạn văn nghệ sĩ.

Theo lời kể của nhà báo Văn Bảy, trong triễn lãm Người Ở Biển của Lê Kiệt diễn ra ở hành lang Bích Câu, Cung Văn hóa Lao động Saigon năm 2001, trong tiệc rượu buổi chiều, ngồi chung bàn với A Khuê là nhà văn Sơn Nam (1926-2008) và một vài người khác, Sơn Nam đã nói một câu mà sau này nghiệm lại thấy thật trùng hợp. Đại ý rằng: Tôi tưởng cậu chết rồi chứ, nghe tin bệnh tim của cậu tái phát và đã qua đời trên Long Khánh. Vừa rồi đọc chuyên đề về chuyện Trần Quang Lộc “đạo thơ” A Khuê trên báo, tôi mới hay cậu còn sống, thiệt là vui. Tuy nhiên, nói thì nói vậy, chứ hình như cậu đợi tôi cùng chết cho có đôi phải không?


Lời nói nhiều phần đùa của Sơn Nam vài lần được A Khuê nhắc lại ở đây đó, rồi đã ứng nghiệm, khi mà hôm kỷ niệm 1 năm ngày mất của Sơn Nam (13/8/2009) ở Saigon cũng là ngày thi sĩ A Khuê bất ngờ ra đi ở Bình Phước. Hồi năm 2008, trong đám tang của Sơn Nam, A Khuê cũng đã từng đùa kiểu văn nghệ rằng: Tôi với anh nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm, vậy mà anh đi trước, còn tôi thì phải ở lại.

Nay thì cả hai đã được đi cùng ngày cùng tháng, quả là có những lời nói đùa nhưng trở thành hiện thực.

Đông Kha













Trở về










MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.