Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

"Le Mur" Cát Tường (1911 - 1946)


















"Le mur" Cát Tường

Tên thật: Nguyễn Cát Tường
(1911 – 1946) Sơn Tây
Hưởng dương 35 tuổi

Hoạ sĩ 





"Quần áo tuy dùng để che thân, song nó là tấm gương ngoài phản chiếu ra cái trình độ, trí thức của một đất nước". 






"Mẹ và con," tranh lụa của họa sĩ Cát Tường vẽ vợ Nguyễn Thị Nội và con gái đầu lòng Nguyễn Cát Minh Nguyệt, năm 1940.





Nguyễn Thị Nội










Sự nghiệp
Học vấn

Năm 1928, Cát Tường trúng tuyển vào khóa 4 trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và tốt nghiệp vào năm 1933



Những cải tiến cho áo dài

Trong thời gian đô hộ của Pháp ở Việt Nam, chiếc áo dài đã "biến thiên", được cách tân theo văn hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam. Do học tại Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, Cát Tường cùng với nhóm Tự Lực văn đoàn là người khởi xướng cho phong trào cách tân áo dài truyền thống. Ông đề ra phương châm: "Quần áo tuy dùng để che thân, song nó là tấm gương ngoài phản chiếu ra cái trình độ, trí thức của một đất nước".

"Le Mur" là kiểu áo dài cách tân đầu tiên họa sĩ Cát Tường tung ra, được lấy cảm hứng hoàn toàn từ chiếc váy của phương Tây với nối vai, tay phồng, cổ lá sen..., đặc biệt những màu thâm, nâu, đen của áo dài truyền thống được thay bằng màu sắc sặc sỡ, tương sáng mặc kết hợp với quần trắng. Sau khi thịnh hành một vài năm, đến năm 1934, khi họa sĩ Lê Phổ cải tiến kiểu áo dài "Le Mur" theo cách dung hòa giữa váy phương Tây với áo tứ thân truyền thống, áo "Le Mur" của Cát Tường dần không còn phổ biến như trước



Mất tích

Tháng 12 năm 1946, tình hình ở Hà Nội rối ren khi quân Pháp đang trở lại miền Bắc Việt Nam. Cả nước trên đà thực hiện kháng chiến, dân Hà Nội được lệnh tản cư. Gia đình Cát Tường dời về làng Tràng Cát, tỉnh Hà Ðông.

Ngày 17 tháng 12 năm 1946, Cát Tường trở về nhà để lấy thuốc men, quần áo cho các con và người vợ sắp tới ngày sinh. Ông đã bị dân quân bắt tại Hà Nội và đưa đi biệt tích.








Bố tôi, họa sĩ “Lemur” Nguyễn Cát Tường

Xuân Bính Tuất 2006 
Nguyễn Tất Đạt (con trai họa sĩ)


Trong chuyến về thăm Hà Nội năm ngoái, sau 52 năm tôi mới có dịp về lại thành phố mà tôi đã xa cách. Tôi trở lại Hà Nội bỡ ngỡ và xa lạ với những hình ảnh mà tôi còn nhớ khi rời nó. Hà Nội bây giờ đã thay đổi nhiều. Điều mà tôi nhận ra ngay là giọng nói của người Hà Nội ngày xưa không còn nữa. Những chữ họ dùng tôi chỉ hiểu được một phần. Nhưng khi gặp mấy bà mợ của tôi thì tôi mới lại được nghe tiếng nói thuần túy Hà Nội, cái tiếng nói của những thế hệ trước mà trong tương lai sẽ không còn nữa.

Mục đích của tôi trong chuyến về lại quê hương là để chụp ảnh. Về cũng là dịp để tôi đi lại những nơi mà ngày xưa mẹ tôi đã tần tảo buôn bán để nuôi chị em chúng tôi. Về để đi qua những nơi mà tôi nghe nói là bố tôi đã bị giam như Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Và sau cùng để thăm những thắng cảnh mà ngày xưa lúc còn bé tôi đã được bố tôi cho đi theo như Sa Pa, hồ Ba Bể, vịnh Hạ Long.

Sau 12 ngày đi chụp ảnh từ Sơn La cho tới Cẩm Phả chúng tôi trở lại Hà Nội để chờ một người bạn từ Mỹ sang. Theo chương trình thì anh ấy sẽ nhập vào đoàn nhiếp ảnh chúng tôi để cùng đi vào Nam bằng đường bộ. Phút chót anh ấy phải hoãn chuyến về Hà Nội một tuần vì bận công việc.

Tôi bèn quyết định ở lại Hà Nội thêm vài ngày để đi thăm gia đình mấy bà mợ, bà dì, đồng thời tôi đi chụp cảnh sinh hoạt trong các khu phố cổ và các vùng phụ cận Hà Nội. Sau đó tôi sẽ về Bắc Ninh, quê ngoại của tôi, và đi thăm Hải Phòng trước khi vào Sài Gòn.

Đêm cuối cùng tại Hà Nội tôi có mời vợ chồng hai người bạn dùng cơm tối với tôi. Hai hôm trước cơn gió mùa đầu tiên đã đổ xuống Hà Nội những trận mưa rào. Trời u ám nặng chĩu hơi ẩm. Đường phố đã lên đèn. Mưa rơi nặng hạt. Xe cộ qua lại thưa thớt. Bà cụ bán vé số cẩn thận kéo tấm nylon che các tập vé số hình như vẫn còn nguyên vẹn. Bà thở dài nhìn mưa rơi...

Đứng trước khách sạn nhìn mưa tôi băn khoăn chờ đợi. Đã quá giờ hẹn rồi mà vẫn chưa thấy ai tới. Đang lúc nói chuyện với anh quản lý khách sạn thì có hai người lái xe gắn máy tới, dựng xe trước khách sạn. Hai người mặc áo mưa trùm từ đầu xuống chân. Lúc họ cởi áo mưa tôi mới nhận ra đó là hai người bạn mà tôi mời ăn cơm tối. Cả hai anh đều nói:

- Trời mưa gió quá nên nhà tôi không đi được. Nhà tôi xin lỗi anh và hẹn gặp anh vào dịp khác.

Thế là chỉ có ba chúng tôi đi ăn. Trong khi tôi lưỡng lự không biết nên đi ăn ở đâu thì một anh đề nghị:

- Hay là mình đi bộ lại nhà Thủy Tạ. Ở đó ăn cũng được lắm.

Trời đã tối hẳn. Tôi đeo chiếc máy ảnh trước ngực, dấu trong áo rồi cúi nguời đi theo hai anh bạn. Chúng tôi đi trên hè sát chân tường dưới những mái hiên nhô ra không đều nhau, nước mưa lúc rơi lúc không trên đầu ba người. Tới bờ hồ chúng tôi chạy băng ngang đường đến nhà Thủy Tạ rồi bước lên một cái cầu thang ngắn dưới ánh sáng èo uột của ngọn đèn vàng. Trời lại đổ mưa, mưa từng cơn, nặng hạt hơn.

Lên trên lầu chúng tôi chọn ngay chiếc bàn phía tay trái. Gọi thức ăn xong nhìn quanh tôi mới thấy thực khách ngồi đã gần đầy. Trên một sân khấu nhỏ, dưới ánh đèn màu tươi sáng, dăm ba thiếu nữ mặc quần áo kiểu xưa đang hát các bài quan họ Bắc Ninh cho thực khách thưởng lãm.

Xế bàn chúng tôi bên kia lối đi có một đôi vợ chồng người ngoại quốc đang ngồi ăn. Bà ta có mái tóc óng vàng làm nổi bật khuôn mặt trắng trẻo. Đặc biệt là bà ta mặc một chiếc áo dài Việt Nam, chiếc áo dài màu tím có điểm những hoa cúc nhỏ thật nhã. Tôi ngắm bà ta rồi tôi lại nhìn lên sân khấu. Tôi thấy ngay đây là một cơ hội hiếm có: một người ngoại quốc mặc chiếc áo dài “Lemur” trước một sân khấu có các thiếu nữ Việt Nam mặc áo tứ thân với chiếc yếm đỏ thắm. Một cảnh tượng rất tương phản và độc đáo!

Tôi đánh liều đứng dậy bước qua bàn cặp vợ chồng người ngoại quốc và xin phép ông chồng cho tôi được chụp hình bà vợ của ông ta với chiếc áo dài Việt Nam. Tôi cũng tự giới thiệu tôi là con của hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường, người đầu tiên đã biến đổi chiếc áo tứ thân ra chiếc áo dài mà bà ta đang mặc. Bà ta nói:

- Tôi không tin lời ông nói. Chúng tôi mới từ Sài Gòn ra, tôi mua chiếc áo này ở trong đó, sao ông lại nói chiếc áo này do bố ông vẽ?

Tôi đành phải cắt nghĩa cho hai vợ chồng người Bỉ mà tôi mới quen:

- Trước năm 1934 phụ nữ nước tôi đều mặc những chiếc áo tứ thân như vậy. Sau đó bố tôi mới cải biến ra chiếc áo dài “Lemur” mà bà đang mặc và nó đã trở thành chiếc áo dài phổ thông mà tất cả phụ nữ Việt Nam bây giờ đều mặc.

Sau khi nghe tôi giải thích tường tận bà ta vui vẻ đồng ý cho tôi chụp ảnh. Tôi mời bà ta lên đứng trước sâu khấu. Lúc bà vừa rời bàn ăn, ông quản lý nhà hàng tiến lại gần tôi, ghé sát vào tai tôi nói nhỏ:

- Xin ông đừng làm phiền thực khách của chúng tôi!

Nghe qua tôi cũng làm thinh. Sau khi chụp xong vài tấm ảnh tôi đưa bà trở lại bàn và ngỏ lời cảm ơn hai vợ chồng.

Khi trở về bàn một trong hai người bạn nói với tôi:

- Anh Đạt có biết không. Trong lúc anh chụp ảnh tôi gọi ông quản lý lại gần và nói với ông ta: “Anh có biết ông cái ông chụp ảnh đó là ai không? Ông ta là con trai của cụ Lemur Nguyễn Cát Tường đó! Ông ta mới từ nước ngoài về thăm lại Hà Nội sau 52 năm.”

Sau đó ông quản lý có ghé bàn chúng tôi thăm hỏi với con mắt nhìn tôi thiện cảm hơn.

Trong thời gian tôi ở Hà Nội anh bạn có đưa tôi đi về chợ Chuông ở Hà Đông. Chợ này hôm đó có bán nón. Đặc biệt là chợ chỉ họp để bán nón mỗi tháng một lần thôi. Đây là một dịp tốt để chúng tôi chụp ảnh. Ở đó chừng hai tiếng đồng hồ chúng tôi sửa soạn trở về Hà Nội. Khi ra đến chỗ gửi xe tôi hỏi anh bạn:

- Không biết làng Tràng Cát có gần đây không?

- Tôi cũng không rõ. Để tôi hỏi bà bán trầu.

Bà bán trầu mà chúng tôi trước đó có chụp vài tấm hình và biếu bà ít tiền tươi cười nói:

- Làng Tràng Cát gần lắm! Cách đây chừng ba cây số thôi. Các ông cứ đi theo ven đê vừa đi vừa hỏi thì sẽ đến.

Thấy anh bạn có vẻ lưỡng lự tôi bèn nói:

- Làng Tràng Cát có thể đối với anh không là gì cả nhưng với tôi nó có rất nhiều kỷ niệm. Xin anh cố gắng giúp tôi tìm lại nơi mà chúng tôi đã tản cư về và ở đó gần một năm.

Nửa tiếng đồng hồ sau đến làng Tràng Cát chúng tôi tìm lại được căn nhà ngói hai từng của cụ Cửu. Căn nhà hai từng độc nhất trong làng. Tôi gặp lại chú Khôi con của cụ Cửu năm nay đã được 70 tuổi. Chú Khôi tiếp tôi niềm nở, hàn huyên xong chú dẫn tôi đi thăm quanh căn nhà đó. Căn nhà hai từng này mái ngói đã bạc mầu, tường đã ngả sang màu đen, trông thật tiều tụy. Cái sân xi măng phơi lúa ngày xưa trông to thế sao bây giờ trông nhỏ quá.

Chính tại cái sân này mà tôi còn nhớ mãi hình ảnh cuối cùng của bố tôi.

Hôm đó là ngày 17 tháng 12 năm 1946. Buổi sáng ấy tại cái sân này bố tôi đã mang chị em chúng tôi ra đây để làm mấy động tác thể dục.

Trưa hôm ấy, theo lời kể của mẹ tôi, bố tôi với ba người nữa là ông Tôn Thất Định, Phạm Giao và anh Hạt - người lão bộc của gia đình cụ Phạm - trở lại Hà Nội. Bố tôi về Hà Nội thăm nhà và để lấy thêm tiền cho mẹ tôi.

Anh Hạt sau khi trở về Tràng Cát có kể lại rằng: Khi về gần tới nhà thì anh Hạt đi sau ba người kia một quãng ngắn. Đến đầu phố Hàng Bông anh Hạt trông thấy ba người đi trước bị toán an ninh thành phố chặn lại, sau đó cả ba người bị bắt. Anh Hạt lùi lại phía sau và thoát được.

Vài tuần lễ sau mẹ tôi sanh đứa em gái sau cùng. Em sanh thiếu tháng. Có lẽ vì mẹ tôi quá xúc động trước tin bố tôi bị bắt. Mẹ tôi đã sanh em tôi ở một cái chòi nhỏ ngay đằng sau căn nhà ngói này.

*
Những hình ảnh của bố tôi trong ký ức tôi không được rõ ràng và liên tục. Lúc bố tôi ra đi tôi mới tròn năm tuổi. Những kỷ niệm xa xôi và mờ nhạt tựa như những hình ảnh của một cuốn phim đen trắng cũ đã bị loang lổ và đứt đoạn. Bây giờ may ra chỉ có bà chị tôi hơn tôi hai tuổi mới có thể nhớ nhiều về bố tôi. Chúng tôi có năm chị em. Bố mẹ chúng tôi sống với nhau được mười năm, mẹ tôi có mang mười lần. Những người sanh trong những năm chẵn đều mất.

Bố tôi sanh năm 1911 tại Sơn Tây. Mẹ tôi sanh vào năm Sửu 1912 tại Bắc Ninh. Bố tôi tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội đầu thập niên 1930. Thời gian này bố tôi cộng tác với các tuần báo Phong Hoá, Ngày nay do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương và đã cải biến chiếc áo dài hai tà tên là áo Lemur và nổi tiếng ngay. Trong các tờ báo này bố tôi giới thiệu các kiểu áo dài đồng thời viết những bài chỉ dẫn phụ nữ cách ăn mặc, cách tô son điểm phấn cốt làm sao cho mình được đẹp hơn. Ông cũng là người tiền phong trong việc phô diễn những đường cong tuyệt mỹ của phái nữ qua những chiếc áo dài hai tà với nhiều kiểu khác nhau, với màu sắc tươi sáng hơn. Về quần của phụ nữ thì ông khuyên chỉ nên dùng hai màu đen hoặc trắng. Ông còn khuyên phụ nữ đi guốc cao gót để làm nổi bật dáng đi. Riêng về đàn ông thì ông khuyên họ nên cắt tóc ngắn.

Trong thập niên 1930 chiếc áo dài Lemur khởi đầu từ Hà Nội đã lan tràn vào Huế rồi tới Sài Gòn. Ông đã bị nhóm đồ nho thủ cựu chê trách, cho rằng phụ nữ ta mặc áo Lemur trông lẳng lơ, không kín đáo và tân tiến quá không hợp với phong tục nước ta. Nhưng bất chấp dư luận ông vẫn tiếp tục vẽ rất nhiều kiểu áo khác nhau và còn vẽ cả kiểu quần áo thiếu nhi nữa.

Tôi đã được xem nhiều kiểu áo mà bố tôi vẽ vào cuối thập niên 30 nhưng cho tới ngày nay vẫn chưa có ai dám mặc vì nó “tân tiến quá”: hở cổ, hở vai, hở ngực... Những kiểu áo đó nằm trong tập tài liệu quí giá mà mẹ tôi đã nâng niu và cất giữ từ mấy chục năm nay. Những lúc nhớ chồng, bà thường mở ra để nhìn lại những hình ảnh cũ, những kỷ niệm xưa nay đã nhạt nhòa trong nước mắt. Không may, tất cả những tài liệu này, tài liệu duy nhất mà mẹ tôi đã cẩn thận cất giữ kể từ khi bố tôi ra đi đã bị thất lạc trong biến cố 1975.

Trong những năm cực thịnh bố mẹ tôi có đến năm cơ sở thương mại ở Hà Nội. Trước hết là phòng trà Thiên Hương tại số 14 phố Hàng Da. Đối diện phòng trà là tiệm hớt tóc đàn ông và tắm nước nóng. Hai cơ sở này bố mẹ tôi thuê của gia đình cụ Phạm. Ngoài ra còn một tiệm may áo dài để giới thiệu những kiểu áo Lemur mới nhất, một xưởng làm guốc cao gót, một xưởng chế tạo đồ chơi trẻ em làm bằng gỗ. Lại còn khoảng ba chục chiếc xe tay và cyclo cho thuê. Điều cần nói thêm là tại xưởng chế tạo đồ chơi ông đã chế ra những khối bằng gỗ có thể ráp nối nhau thành đồ chơi cho trẻ con, tương tự như đồ chơi Lego bây giờ, điều này chứng tỏ ông có biệt tài sáng chế đi trước thời đại.

Trong khoảng thời gian này bố tôi dậy ở trường Thăng Long cùng với ông Tôn Thất Bình (rể của cụ Phạm Quỳnh) và ông Võ Nguyên Giáp. Phòng trà Thiên Hương của bố mẹ tôi rất nổi tiếng, là nơi tụ họp của giới trí thức, văn nghệ sĩ tại Hà Nội. Nó nổi tiếng một phần vì phòng trà có một cô ngồi quầy rất đẹp, cô “Nga Thiên Hương.” Dì Nga, em gái của mẹ tôi, rất đẹp và ít nói. Dì thông thạo Nhật ngữ và làm việc tại sở an ninh của quân đội Hoàng gia Nhật tại Hà Nội. Dì Nga chỉ giúp mẹ tôi đứng thu tiền sau giờ làm việc và cuối tuần. Trong số các chàng trai ngồi chiêm ngưỡng dì Nga có ông Giáp, Phạm Duy và Bùi Diễm... Sau đó không lâu thì dì Nga bị ám sát chết trước trụ sở của quân đội Hoàng gia Nhật. Họ nói dì Nga làm gián điệp cho Nhật. Dì mất lúc mới 19 tuổi, năm Dậu 1945.

Trong những năm họp tác với nhóm “Tự Lực” bố tôi chuyên lo về mục văn hoá, không dính dáng gì đến những vấn đề chính trị. Mẹ tôi kể lại, trước khi sang Tàu, bác Tam có khuyên bố tôi nên rời Việt Nam để lánh nạn, nhưng bố tôi đã trả lời bác:

- Thôi các anh cứ đi đi. Tôi có làm chính trị chính em gì đâu mà phải đi.

Mẹ tôi sau này rất hối hận vì đã không lường được những hậu quả tai hại đã xẩy đến với gia đình tôi.

Năm 1952, ba anh em chúng tôi may mắn được vào học tại Đà Lạt, trường Quốc Gia Nghĩa Tử, sau này đổi tên là trường Trần Hưng Đạo. Năm 1954 đất nước chia đôi mẹ tôi cố chần chừ ở lại Hà Nội để mong tin tức về bố tôi. Sau cùng không còn hy vọng bà mới quyết định vào Nam trong những chuyến bay cuối cùng rời Hà Nội để xum họp với các con đã ở trong Nam.

Thời gian ở Đà Lạt mẹ tôi lại có dịp liên lạc với bác Tam, lúc đó cũng ở Đà Lạt. Hai bác thỉnh thoảng lại thăm mẹ tôi để nâng đỡ tinh thần. Tôi còn nhớ trong ngày cưới bà chị tôi, mẹ tôi tổ chức rất đơn giản tại nhà của người bạn mẹ tôi là bác tham Triết. Hôm đó chúng tôi được ngồi cùng bàn với bác Tam và chú Lê Văn Kiểm. Trước khi chia tay mẹ tôi có tiễn bác Tam và cám ơn sự hiện diện của bác trong ngày trọng đại của gia đình chúng tôi. Bác Tam tươi cười nói:

- Cám ơn chị. Hôm nay chị cho chúng tôi uống rượu say quá!

Mẹ tôi quay đầu nhìn vào phía trong. Trên bàn chỉ toàn là nước ngọt, không thấy có một chai bia nào. Mẹ tôi giật mình, vì bận rộn quá mà quên cả mua rượu.

Như mọi người đã biết tửu lượng của nhà văn Nhất Linh rất cao.

Trong biến cố tang thương 1975 bốn chị em chúng tôi ra đi mỗi người một ngả, sau cùng may mắn được định cư ở Hoa Kỳ. Mẹ tôi ở lại Việt Nam với cô em út của chúng tôi. Mẹ tôi mất năm 1979 thọ 67 tuổi. Trong đám táng của mẹ tôi mấy sui gia của anh em tôi và cô út đã lo chu toàn. Chúng tôi không về đưa bà được vì tình thế lúc đó không cho phép. Năm 1993 chúng tôi đón cô em gái sang. Tất cả chị em chúng tôi lại được xum họp với nhau tại miền Nam Cali này.

Giờ đây tóc đã bạc đầu, ngồi nhớ lại những hình ảnh của bố tôi thì thực sự những hình ảnh ấy mờ nhạt lắm. Nhưng khi đi ngoài đường gặp những phụ nữ mặc chiếc áo hai tà, chiếc áo Lemur, là chúng tôi lại nhớ ngay đến ông. Chúng tôi rất hãnh diện, nhất là khi gặp một người ngoại quốc mặc chiếc áo đó. Nếu tôi không lầm thì năm 1995 trong cuộc thi thời trang phụ nữ thế giới được tổ chức tại Tokyo, Nhật Bản, chiếc áo dài Việt Nam, chiếc áo do bố tôi vẽ hơn sáu thập niên về trước, đã đoạt được huy chương vàng.

Tiếc thay bố tôi ra đi quá sớm. Lúc bị bắt ông mới có 35 tuổi.

Vợ và các con, ảnh chụp năm 1952















Họa sĩ Cát Tường và chiếc áo dài Lemur
By Ca dao Mẹ 

Năm 34 của thế kỉ trước, trên tờ Phong Hóa, bên cạnh những bài về Lý Toét-Xã Xệ, bên cạnh mục "Những hạt đậu dọn," lại bên cạnh mẩu quảng cáo "Thuốc lậu Hồng-khê" và "Tết năm nay các ngài dùng giầy gì? GIẦY KIM-THỜI – Marque, dessin et modèle déposé," một bữa bỗng xuất hiện một loạt bài “Vẻ đẹp riêng tặng các bà các cô” bàn về y phục phụ nữ, với những lời lẽ hết sức táo bạo:

"Các nhà đạo đức thường nói quần áo chỉ là những vật dùng để che mưa nắng, nóng lạnh, ta chẳng nên để ý đến cái sang cái đẹp của nó làm gì (...). Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể song nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ cũng đủ hiểu. Y phục của người các nước Âu Mỹ không những rất gọn gàng, hợp với khí hậu xứ họ mà kiểu mẫu lại rất nhiều và rất đẹp. Như thế đủ tỏ rằng họ có một cái trình độ trí thức rất cao, một nền văn minh rất rõ rệt và luôn luôn tiến bộ. Y phục của các bạn gái, tôi xem thấy có nhiều điều bất tiện mà lại không có vẻ chi là mỹ thuật. Tuy rằng vài năm gần đây cũng có một vài phần sửa đổi (...) chẳng qua chỉ ở mấy cái mầu sắc sặc sỡ, mấy thứ hàng lạ nước ngoài (...) còn thì vẫn kiểu áo lòe xòe ấy, vẫn cái quần lụng thụng đen ngòm ấy. Hoặc giả cũng có người ưa mặc quần trắng song tiếc rằng số đó vẫn rất ít (...). Cần sửa đổi dần: Trước hết phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, mực thước của thân hình mỗi bạn. Sau nữa phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ mỹ thuật và lịch sự (...) cũng phải có tính cách riêng của nước nhà." 

Bài báo kí tên Lemur Cát Tường. 

Vậy Lemur Cát Tường là ai? 

Lemur Cát Tường tên thật là Nguyễn Cát Tường. Trong tiếng Pháp "le mur" nghĩa là bức tường, nhưng tất nhiên ông không có liên quan gì đến ban nhạc rock Bức Tường, không liên hệ gì đến Hoàn Châu Cách Cách "nương nương cát tường," lại càng không dây mơ rễ má gì với thẩm mĩ viện Cát Tường. Nguyễn Cát Tường sinh năm 1912 ở Sơn Tây, đến năm 1928 trúng tuyển vào khóa 4 trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, năm 1933 thì tốt nghiệp. Cùng với nhóm Tự lực Văn đoàn, ông chủ trương đổi mới y phục, thông qua y phục mang lại tự do cho phụ nữ:

"Muốn để các bạn khỏi mất thì giờ vô ích, tôi xin thưa: Chính cái cổ là thừa và hai ống tay bất tiện. Cúc cổ chẳng bao giờ cài thì cái cổ để làm gì, tôi xin hỏi? Ðể che cổ ư? Thì nó nhỏ síu[sic] thế kia, che thế nào đủ, vả lại áo các phụ nữ nước lạnh bên Âu Mỹ còn chẳng cần cổ, nữa là xứ ta khí hậu rất nóng. Còn hai ống tay thì... thì các bạn cứ thử co tay lại vuốt mái tóc mà xem. Có phải nó chật quá không?... nó khó chịu và bất tiện lắm không? Mà người không dám co tay vào, ruổi[sic] tay ra thì mất hết vẻ tự nhiên, mềm mại, yểu điệu của trời đất phú riêng cho các phụ nữ không? Không những thế, các kiểu áo của các bạn nó lại còn kỳ dị lắm nữa. Nếu các nhà mỹ thuật Âu Mỹ qua xứ ta, chẳng may lần đầu mà được thấy những bộ áo của các bạn, tôi dám chắc họ phải ngạc nhiên mà buột mồm kêu: “Ố là là...” (nếu họ là người Pháp). Phải, họ lấy làm lạ là phải vì phụ nữ nhà Nam sống trong thế kỷ thứ hai mươi này mà còn giữ những bộ quần áo lôi thôi, lốc thốc như thế ư?"

Sau loạt bài báo nói trên, họa sĩ Cát Tường tung ra một mẫu áo dài cách tân với tay phồng, cổ lá sen, quần trắng, vạt áo tươi sáng sặc sỡ, thân áo bó sát lấy eo để bộ ngực nhô ra. Ông giải thích:

"Sở dĩ tôi cho hơi chật ở chỗ bụng là vì tôi muốn phân biệt rõ ràng phần ngực với phần bụng. Trái hẳn với ý tưởng của một vài nhà đạo đức Việt Nam, người Tây Âu đều cho bộ ngực cần nhất cho nhan sắc phụ nữ. Một người con gái đẹp mà “không có ngực,” nghĩa là ngực lép kẹp như chiếc đồng hồ Oméga - thì không thể nào gọi là một người đẹp hoàn toàn được... Có người khi trông thấy một thiếu phụ có bộ ngực nở nang thường ra chiều mai mỉa, vì họ cho thế là chướng, là lẳng lơ. Ðối với người đó nếu ta đem ý tưởng Âu Tây, tinh thần mỹ thuật ra giảng, chắc họ không khi nào chịu hiểu. Họ có biết đâu rằng chính người mình cũng hay dùng câu: thắt đáy lưng ong để tả một người con gái đẹp. (Một số báo sau, tôi sẽ có bài nói về cách luyện bộ ngực cho được nở nang.) Từ bụng trở xuống, ta nên thu hẹp lại cho mất vẻ lòa xòe..."

Kiểu áo táo bạo này ngay lập tức tạo được tiếng vang rất lớn trong cả nước. Các cô gái đua nhau may và mặc áo Lemur. Các nhà may cũng đua nhau quảng cáo: bổn hiệu nhận may áo Lemur. Lại có hiệu còn mời hẳn ngài họa sĩ Cát Tường về vẽ kiểu. Lứa già sồn phong kiến bảo thủ tất nhiên ra sức chê bai mẫu áo mà theo họ là "hết sức lố lăng, dâm đãng, áo dài Mai Phương Thúy mầm mống suy đồi" này. Ví dụ ở Huế thời ấy có bài "Vè mốt áo" mà chúng tôi mới sưu tầm được sau đây:

"Vè vẻ vè ve
Nghe vè mốt áo
Bận áo lơ-muya
Đi giày cao gót
Xách bót tơ phơi
Che dù cánh dơi
Đi chơi Cụ Ngáo
Ăn cháo không tiền
Cởi liền lơ-muya"


Dĩ nhiên lớp trí thức tân thời thì lại hết lời khen ngợi ông Cát Tường và chiếc áo dài Lemur, đến độ không ít vị tôn ông thành người "khai sinh ra chiếc áo dài Việt Nam." Nhưng họa sĩ Cát Tường không dừng lại ở đó. Liên tục những năm tiếp theo, ông giới thiệu các kiểu y phục tân thời khác: áo hở cổ, quần ống loe, lại hợp tác với bạn mình là ông chủ hãng dệt Cự Chung sản xuất áo tắm, xu chiêng vân vân. Cho dù được khen hay bị chê, họa sĩ Cát Tường cũng đã trở nên cực kì nổi tiếng. Nổi tiếng đến độ, nếu các bạn còn nhớ, trong tác phẩm Số Đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng có một nhà tạo mốt tên là ông Týp-phờ-nờ, người ta cho rằng chính là lấy hình mẫu từ họa sĩ Cát Tường. 

Năm 1946, quân Pháp trở lại miền Bắc Việt Nam. Trong những ngày tháng rối ren này, họa sĩ Cát Tường bị dân quân Hà Nội bắt và đưa đi biệt tích. Nguyên nhân việc ấy vẫn chưa rõ – có người cho rằng do ông có dính dáng đến Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng với Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), lại có người nửa đùa nửa thật cho rằng cái bút hiệu "Lemur" nó ám ông, nó bắt ông đứng dựa bờ tường lãnh đạn. 

Dẫu sao cho đến nay, mỗi khi nhắc đến lịch sử áo dài Việt Nam, những nhà nghiên cứu vẫn luôn dành một phần rất lớn công trạng cho họa sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường. 

(Bài sử dụng tư liệu cóp nhặt nhiều nơi. Người viết tuyệt nhiên không phải là nhà áo dài học, nên có gì sai sót mong quý vị thông cảm và chỉ bảo cho).










Từ Lemur (Nguyễn Cát Tường), Nhất Linh và Phong Hóa Tuần báo đến việc tái tạo chiếc áo dài Lemur tại California, Hoa Kỳ


















NHỮNG NGỘ NHẬN...


Nguyễn Thị Chân Quỳnh

Họa sĩ Cát Tường có phải là cha đẻ ra chiếc áo dài hiện đại ?



Năm 2006, sau khi đọc trong Thế Kỷ 21 (số 201 & 202) loạt bài khẳng định ông Cát Tường - Lemur (1911- 46) là "cha đẻ ra chiếc áo dài hiện nay", "chính ông là người đầu tiên đã biến chiếc áo tứ thân thành áo hai vạt" và "trước đó phụ nữ Việt Nam đều mặc áo tứ thân"... tôi sững sờ. Rõ ràng mẹ tôi (sinh năm 1900) và bà ngoại, bà nội tôi đều chưa bao giờ xỏ tay vào chiếc áo tứ thân, toàn mặc áo hai vạt, mà mãi đến 1934 ông Cát Tường mới đưa ra "bản tuyên ngôn" về vấn đề cải cách y phục, nói rõ quan niệm căn bản của ông trong báo Phong Hóa. Ngoài ra, trong tay tôi ngay lúc ấy còn có mấy bằng chứng cho thấy áo dài hai vạt đã xuất hiện từ trước năm 1934 :

- Ảnh năm 1922 của Busy, đen trắng, chụp một thiếu nữ đóng vai quân cờ người ở vùng phụ cận Hà Nội (tôi đã cho in lại trong bài "Tết Nguyên Đán và Lễ Nghênh Xuân" ,"Lối Xưa Xe Ngựa...", tập II, 2002). Thiếu nữ mặc áo dài hai vạt không nối sống, cổ áo không gài khuy, quần đen ;






- Ảnh khoảng 1915-20, chụp bẩy thiếu nữ cũng đóng vai quân cờ người tại vùng ngoại ô Hà Nội, mặc áo hai vạt mầu hồng, cổ áo không gài khuy, vấn khăn xanh lam hoặc xanh nõn chuối, quần đen. Đấy là những chiếc ảnh mầu đầu tiên trên thế giới, của A. Kahn ;

- Tranh của bà de Bassilan vẽ một phụ nữ miền Nam mặc áo hai vạt trông rõ cả đường khâu nối hai thân ở chính giữa vạt trước, in kèm bài "Des habitants de la Cochinchine" viết ngày 8/1/1859, không đề tên tác giả, được in lại trong L'Indochine, Illustration.

Như vậy đủ chứng tỏ trước ông Cát Tường phụ nữ Việt Nam không phải ai cũng mặc áo tứ thân và người biến cái áo tứ thân ra áo hai vạt không phải là ông Cát Tường.



1915 - 1920 , Quân cờ người


Vậy ông Cát Tường đã đem lại những gì cho chiếc áo dài để được hầu hết những người tôn vinh áo dài khẳng định ông chính là "cha đẻ" ra chiếc áo dài hiện đại ? Trước hết chúng ta cần tìm hiểu y phục phụ nữ Việt Nam thời xưa qua sử sách.


I - SƠ LƯỢC CÁC KIỂU Y PHỤC TRƯỚC ÁO LEMUR

Không ai biết áo dài xuất hiện từ bao giờ và những chiếc áo dài đầu tiên hình dáng ra sao.

Có truyền thuyết nói "Khi hai Bà Trưng ra trận đã cưỡi voi, mặc áo hai tà giáp vàng, che lọng vàng, trang sức thật lộng lẫy...". Nhưng trong Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thì Sĩ chỉ viết "Khi Bà Trắc ra quân, chưa hết tang chồng, mặc quần áo đẹp, các tướng thắc mắc, bà trả lời :"Việc binh phải tòng quyền, nếu giữ lễ khiến dung nhan xấu xí là tự làm giảm nhuệ khí nên ta mặc đẹp để làm cho thế quân hùng tráng, lũ kia thấy thế tâm động, nhụt bớt chí khí tranh đấu thì ta dễ có phần thắng". Không có câu nào nhắc tới áo vàng, lọng vàng. Có lẽ người đời sau nghĩ là vua tất phải mặc áo vàng. Song trong Lịch Triều Hiến Chương - Quan Chức Chí (tr 103) Phan Huy Chú lại viết :"Từ đời Lý, Trần về trước, mũ áo của vua thế nào không thể khảo cứu được. Còn như sắc áo thì hình như trước không có quy chế nhất định. Lê Đại Hành (980-1005) dùng thứ vóc đỏ, đến Lý Cao Tông (1176-1210) mới cấm nhân dân trong nước không được mặc áo sắc vàng, thế thì hoàng bào trước kia chưa phải là đồ dùng riêng của vua chúa". Huống chi, nếu tôi nhớ không lầm, thì ở Trung quốc mãi đến đời Tùy, thế kỷ VI, mới ấn định mầu vàng dành riêng cho vua dùng mà Hai Bà đã mẩt từ thế kỷ I.


1915 Gia đình một ông quan

Lại có người cho áo tứ thân có từ đời nhà Lý, nhưng không đưa ra bằng chứng. Đến mũ áo vua chúa đời Lý mà Phan Huy Chú còn không tra cứu nổi thì làm thế nào biết dược y phục của dân đen ? Đời xưa viết sử chỉ chú trọng đến vua chúa, các danh nhân và những biến cố quan trọng, không mấy ai lưu tâm đến y phục nhân dân.

- THẾ KỶ 17 - Những chi tiết ghi chép trong sách sử xưa nhất tìm được về y phục thường dân là từ thế kỷ 17.

* Áo mớ ba, mớ bẩy. Thuở nhỏ tôi từng nghe nhắc đến áo mớ ba, mớ bẩy song chỉ được thấy mẹ tôi mặc áo mớ đôi hoặc mớ ba, chưa bao giờ trông thấy áo mớ bẩy. Đó là những chiếc áo dài mặc lồng vào nhau, áo ngoài thường mầu sẫm như nâu, đen, có thể là hàng trơn hay dệt hoa bóng trên nền mờ hoặc ngược lại, những chiếc áo mặc trong toàn mầu tươi vui như hồ thủy, hồng phấn, hoàng yến... Phong tục muốn dân chúng phải tỏ ra khiêm tốn trong cách ăn mặc, áo ngoài phải dùng những mầu nhã nhặn, không được khoe khoang, lộ liễu, áo mầu lòe loẹt thì phải giấu bên trong.

Sau này, tình cờ tôi đọc Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine(1631) của Giáo sĩ C. Borri mô tả y phục phụ nữ miền Nam gồm nhiều áo khác mầu lồng vào nhau nên đoán có lẽ chính là loại áo mớ ba, mớ bẩy. Tuy vậy, có những chi tiết khiến tôi ngờ ngợ không chắc là áo dài, không rõ vì tác giả thiếu minh bạch hay người dịch sang tiếng Pháp không hiểu rõ tiếng Ý nên đã dịch sai bậy :"Y phục phụ nữ có lẽ nhã nhặn, kín đáo nhất so với (y phục) toàn thể Ấn độ vì nó không để hở một chỗ nào trên thân thể, ngay cả những khi trời nóng bức nhất. Họ mặc có đến năm, sáu lớp áo chồng lên nhau, mỗi cái một mầu. Cái ngoài cùng dài chấm đất, kéo lê đi một cách trang trọng, quý phái, không ai có thể trông thấy ngón chân họ. Lớp áo thứ nhì nằm dưới, ngắn hơn lớp trước chừng 4 hay 5 ngón tay ("ngón tay" đo theo chiều ngang), lớp thứ ba lại ngắn hơn lớp thứ nhì, cứ đều đặn như thế... khiến cho tất cả các mầu áo dều được trông thấy. Đây là phần dưới từ bụng trở xuống. Nửa trên là những chiếc áo ngắn ôm thân người, gồm các ô trắng và mầu xen kẽ nhau như bàn cờ, mỗi lớp một mầu khác (1), bên ngoài phủ một thứ hàng mịn và thưa khiến ta có thể dễ dàng trông suốt qua được. Tất cả những mầu sắc hỗn độn ấy tiêu biểu cho mùa xuân tươi thắm, duyên dáng, đồng thời lại cũng rất trang trọng và nhũn nhặn. Nam giới cũng mặc năm, sáu lớp áo dài và rộng bằng lụa mịn đủ các mầu, ống tay dài và rộng (...). Từ thắt lưng trở xuống xung quanh cắt lôi thôi (2) thành thử khi ra đường gập cơn gió nhẹ, tất cả các mầu sắc tung bay, quyện vào nhau trông chẳng khác gì những con công xòe đuôi khoe bộ lông sặc sỡ".

Ngày nay ta còn thấy vết tích kiểu áo này ở những bộ áo tế của nam giới, áo ngoài bằng sa mỏng mầu lam hay đen trông suốt qua thấy rõ chiếc áo lót bằng vải trắng bên trong, và chiếc áo kép (đã có từ trước 1776, theo Lê Quý Đôn), mặt ngoài vẫn mầu đen hay nâu..., áo trong biến thành cái lót (doublure) vẫn dùng những mầu sặc sỡ.

* Lê Triều Chiếu Lịnh Thiện Chính chép là năm 1665 có sắc lệnh :"Áo đàn ông thì có thắt lưng và quần có ống chân, áo đàn bà con gái thì không có thắt lưng, quần không có hai ống, từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế. Bọn hát xướng ở hý trường thì không theo cấm lệnh này. Ai trái lệnh (...) bắt được quả tang sẽ phạt năm quan cổ tiền, nộp vào công khố".

* Tavernier trong Relation nouvelle et singulière du Royaume de Tunquin (1681) tả y phục phụ nữ miền Bắc là "trang trọng và nhã nhặn. Nam nữ mặc tựa như nhau. Áo dài chấm gót, giữa có buộc thắt lưng bằng lụa, xen lẫn kim tuyến và ngân tuyến, mặt trái mặt phải đều đẹp như nhau (...) Họ sản xuất rất nhiều tơ tầm, dân chúng giầu cũng như nghèo đều mặc tơ lụa". Ông còn vẽ cả tranh minh họa. Tavernier đã đi du lịch nhiều nơi nhưng chưa đặt chân đến Bắc kỳ, những chi tiết viết trong sách dựa vào sự hiểu biết của người em ông đã nhiều phen đến Đàng Ngoài, và những lần ông nói chuyện với người Bắc mà ông gập ở Batavia.

- THẾ KỶ 18 - Cũng vì thế nên S. Baron, sinh trưởng ở Kẻ Chợ (Thăng Long), trong Description du Royaume de Tonquin, dịch sang tiếng Pháp năm 1751, tuy công nhận dân Việt thời ấy, giầu hay nghèo, đều mặc tơ lụa vì giá rất rẻ, nhưng chỉ trích Tavernier là viết sai sự thật. Theo Baron thì y phục người Việt là những chiếc áo dài, tựa như áo Trung quốc, hoàn toàn khác với áo Nhật bản. Tranh của Tavernier vẽ cho thấy người Việt có dùng thắt lưng, đó là điều hoàn toàn xa lạ đối với họ". Baron là con lai, mẹ người Việt, tất hiểu rõ phong tục Việt Nam hơn.

* Một số người viết về lịch sử áo dài đại khái như sau : "Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-65) được coi là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam... Cho đến thế kỷ 18 người Việt thường hay bắt chước lối ăn mặc của người phương Bắc (Trung quốc)... Để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương ban hành sắc dụ về ăn mặc, lấy thể chế áo mũ trong Tam Tài Đồ Hội làm kiểu mà tạo ra chiếc áo dài, cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong theo đó thi hành. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên có chép sắc dụ này :"Thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện. Áo thì hai nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn, ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép". Và còn thêm là Lê Quý Đôn, trong Phủ Biên Tạp Lục, chép rằng Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy. Do đó có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cổ truyền, cố định đã ra đời".

Tôi thấy không ổn ở chỗ Chúa Nguyễn muốn giữ "bản sắc văn hóa riêng", bắt dân cải sửa lối ăn mặc cho khác người Trung quốc mà lại lấy mẫu quần áo từ Tam Tài Đồ Hội của Trung quốc thì không hợp lý. Tôi không còn hai bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Phủ Biên Tạp Lục trong tay nên có nhờ người tìm hộ trong Đại Nam Thực Lục Tiền Biên đoạn nói về sắc dụ của Chúa Nguyễn nhưng không tìm ra. Tôi đến hiệu sách đọc bản dịch khác nhưng cũng không tìm thấy nên chỉ mua Phủ Biên Tạp Lục. Tuy nhiên, tôi lại thấy trong Lịch Sử : Xứ Đàng Trong của Phan Khoang những chi tiết khác hẳn :

tr 616-17: Hoàng Ngũ Phúc, năm 1776, sau khi chiếm Thuận Hóa, đã ra lệnh :"Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng tuân theo quốc tục. Nay dẹp yên biên phương, chính trị và phong tục phải được tề nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người Khách thì nên đổi theo thể chế của nước nhà. May y phục thì theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức mới cho dùng xen the, là, trừu, đoạn còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng đều không được theo thói cũ tiếm dùng. Thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay hẹp hay rộng tùy ý. Áo thì từ hai bên nách trở xuông phải may kín, không cho xẻ hở. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc cũng cho, Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh lạt hay vải đen vải trắng tùy nghi. Còn viền cổ hay kết lót thì đều theo như hiểu dụ năm trước mà chế dùng".

tr 615 : tương truyền Đào Duy Từ (1572-1634) bầy mưu chống đối họ Trịnh, khuyên chúa Hy Tông bắt dân thay đổi tập tục cho khác dân Bắc như bỏ áo bốn thân, phô bầy yếm, mà mặc áo năm thân gài khuy, bỏ váy mặc quần v.v...

Và tác giả cũng cho biết là chép theo Vũ Biên Tạp Lục (Vũ hay Phủ cùng có nghĩa là "vỗ về" (yên dân).

Tôi tìm trong Phủ Biên Tạp Lục, lại thấy có sự bất ngờ khác :

tr 241 : "Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 5 (1744), Hiểu Quốc Công Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu. Áo mão chế theo sách Tam Tài Đồ Hội (...) "bắt con trai con gái hai xứ Thuận Hóa , Quảng Nam phải đổi cách ăn mặc, dùng áo quần như người Trung quốc, cốt tỏ cho thấy sự thay đổi hẳn lề lối ăn mặc của người xưa. Đàn bà con gái hai xứ phải mặc áo ngắn, chật ống tay như áo của đàn ông (...). Chỉ trong khoảng hơn 30 năm thành thói quen, quên cả phong tục cũ" (tức phong tục miền Bắc).

tr 242 : "Năm Bính Thân (1776) (3), lập Nha môn Trấn Phủ, quan Hiệp trấn (Lê Quý Đôn) hiểu thị cho dân :"Y phục nước nhà xưa nay vốn đã có chế độ. Địa phương này trước kia đã tuân theo quốc tục (...) chính trị, phong tục phải thống nhất. Những ai hiện nay còn mặc y phục theo người Khách thì phải thay đổi theo quốc tục (...) Áo quần may bằng vải lụa thông thường. Quan chức mới được mặc xen sa, trừu, đoạn (...) Thường phục thì đàn ông đàn bà chỉ mặc áo ngắn tay, cổ đứng, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu liền vào cho kín, không được hở hang. Đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và cửa ống tay hẹp để tiện làm việc cũng được phép. Lễ phục phải dùng áo cổ đứng và ống tay dài hoặc dùng thứ may bằng vải mầu xanh chàm, mầu đen hay trắng tùy nghi. Những ai được dùng áo viền cổ và áo kép đều phải tuân theo hiểu thị từ năm trước mà chế dùng". Sở dĩ Lê Quý Đôn, Trấn thủ Thuận Hóa năm 1776, phải ra hiểu thị này vì dân chúng Thuận Hóa giầu có, bắt chước nhau ăn mặc xa xỉ, dùng các mầu tươi đẹp.

tr 13- Trong bài Tựa Phủ Biên Tạp Lục. Lê Quý Đôn cho biết thêm những điều ông đã thực hành khi cai trị Thuận Hóa, đặc biệt về y phục :"Chuyển đổi cách ăn mặc dị dạng cũ để theo phong hóa chung của quốc triều (...) Khoan thứ cho một thời hạn trước khi bắt buộc ai nấy cùng phải thay đổi hẳn kiểu ăn mặc cũ".

Tôi tin Lê Quý Đôn hơn vì không những ông là người đương thời, người trong cuộc, mà các chi tiết đưa ra có đầu có cuối : vì Chúa Nguyễn bắt dân ăn mặc theo Trung quốc (1744) nên hơn 30 năm sau (1776) khi Lê Quý Đôn vào trấn thủ Thuận hóa mới cải sửa bắt dân trở lại quốc phục. Hoàng Ngũ Phúc là võ tướng chỉ đánh dẹp, việc cai trị là phận sự của quan văn.

* Louis-Gabriel MULLET DES ESSARTS tả trong Voyages en Cochinchine 1787-1789 : "Áo của phụ nữ xẻ đằng trước từ trên xuống dưới, bắt tréo trước ngực và để lộ chiếc quần lụa. Tôi không dám chắc là họ không có giầy nhưng tất cả những người tôi gập đều đi chân đất, đàn ông cũng như đàn bà".

- THẾ KỶ 19

* 1828 Vua Minh Mệnh xuống chiếu bắt phụ nữ bỏ váy mặc quần, đã làm đề tài cho bốn câu thỏ giễu cợt ai cũng biết :

Tháng tám có chiếu vua ra :
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi thì bóc lột quần chồng sao đang ?

Rành rành "chiếu vua" như thế mà cũng còn có người dậy học trò là lệnh này do thực dân Pháp ban hành !

* Michel Đức Chaigneau là con lai, mẹ người Việt, cha là một trong hai người Pháp làm quan với nhà Nguyễn thời Gia Long, Minh Mệnh. Sinh trưởng ở Phú Xuân, Chaigneau Đức viết trong Souvenirs de Huê khá tỉ mỉ về y phục phụ nữ "Vợ những người buôn bán hay công chức nhỏ thì mặc một áo vải ngắn, mầu đen hay chocolat, quần lụa đen hay vải trắng. Dân chúng, thợ thuyền giới hạ lưu, đàn ông như đàn bà, ăn mặc rât tồi tệ. Đàn ông chỉ đánh một cái quần vải trắng hay mầu cháo lòng, dài tới đầu gối, buộc ngang lưng bằng một cái giải rút dài, buông thõng hai đầu ở trước bụng... Có người mặc áo vải ngắn mầu trắng hay nâu, thường là rách rưới, vá víu, dài chưa tới đầu gối, để lộ ống chân rám nắng. Phụ nữ ăn mặc cũng tựa như thế, chỉ khác áo dài hơn, ống tay áo rộng, quần và nón rộng hơn. Từng lớp trưởng giả sang trọng thì mặc áo mớ đôi bằng tơ lụa trông suốt qua được, quần lụa đến bụng chân".

* Thái Đình Lan (1801-1859), người Đài Loan, năm 1835 đi thi Hương rồi về bằng đường thủy, gập bão tố, trôi dạt tới Quảng Ngãi, năm sau mới theo đường bộ trờ về. Đi từ mùa thu năm trước đến mùa hè năm sau mới về đến Phúc Kiến, qua 14 tỉnh nước An Nam như Phú Xuân, Nghệ An, Thanh Hóa, Thường Tín, Lạng Sơn, Thái Bình... qua Trung quốc rồi mới về được quê nhà. Ông viết quyển Hải Nam Tạp Trứ, ghi chép những điều mắt thấy tai nghe ở nước Nam. Về y phục ông cho biết :

tr 171 :"Có hai quan chức đến áp mạn thuyền chúng tôi (để kiểm tra). Họ đều chít khăn lụa đen, mặc áo tay hẹp, quần lụa điều, đi chân trần (các quan Việt Nam đi đâu đều đi chân đất), áo mặc không phân biệt nóng lạnh, ngay giữa mùa đông cũng mặc áo quần lụa mỏng. Người quyền quý phần nhiều dùng hai mầu xanh lam và đen ; khăn chít đầu cũng thế, quần thì đều mặc quần lụa điều".

tr 243 :"Đàn bà ra ngoài buôn bán, để búi tó, chân đất, dùng vải đũi vấn quanh đầu, đội nón bằng đấu, mặc áo lụa đỏ thẫm, ống tay áo hẹp, áo dài chấm đất, không mặc váy, không thoa son phấn, tay đeo chuỗi ngọc, hạt mã não hoặc vòng đồng".

* Áo giao lĩnh - Chưa rõ xuất hiện từ bao giờ, tôi tạm xếp vào thế kỷ 19 vì được coi là "xưa nhất", đã ra đời trước áo tứ thân, tuy không ai đưa ra bằng chứng cụ thể. Áo giao lĩnh giống áo tứ thân, chỉ khác hai vạt đằng trước buông thõng, giao nhau chứ không buộc vào nhau ở trước bụng. Có lẽ người ta thấy áo giao lĩnh "lụng thụng", bất tiện cho người làm việc lao động nên đoán sau đó mới chế ra kiểu áo tứ thân gọn ghẽ hơn.

* Áo tứ thân - Là kiểu áo có bốn thân, hai thân của vạt sau nối sống theo chiều dọc, hai thân đằng trước buộc vào nhau ở trước bụng, để hở cho thấy yếm bên trong. Thắt lưng các mầu tươi thắm như hồng đào, hồ thủy, hoàng yến, xanh nõn chuối, lá mạ... luồn dưới vạt sau, buộc múi trước bụng rồi thả xuống. Cái thắt lưng này có thể là cái "ruột tượng" hay "hầu bao" hình cái ống dài, ngoài tác dung trang trí và giữ áo cho khỏi lòe xòe còn dùng để đựng tiền, bằng cách thắt một nút rồi đút tiền vào, lại thắt một nút khác để giữ cho tiền khỏi tuột ra, buộc vào lưng thì không sợ tiền rơi hay bị kẻ cắp.

Có người giảng "tứ thân" tượng trưng cho phụ mẫu đôi bên, hai thân trước buộc vào nhau tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng thắm thiết, quấn quýt lấy nhau... Thú thật bây giờ tôi mới được biết những lời giảng giải uyên bác này. Thoạt nghe cũng thấy hữu lý nhưng tôi ngờ là do người đời sau bịa đặt thêm vào cho văn vẻ chứ không chắc người sáng chế ra áo đã nghĩ thế, trừ phi là bắt chước Trung quốc. Nếu hai thân trước buộc vào nhau tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng thắm thiết thế thì khi hai vạt áo (giao lĩnh) buông thõng, rời nhau ra, chắc hẳn tượng trưng cho hai vợ chồng đã ly thân ? Thế thì áo giao lĩnh phải xuất hiện sau áo tứ thân, không ai ly dị trước khi yêu nhau thắm thiết !

* Áo đổi vai - Gần giống áo tứ thân, khác ở chỗ vạt sau không phải chỉ giản dị nối hai thân, mà mỗi thân lại gồm hai mảnh : phía trên vai mỗi thân có chắp một mảnh vải dài độ vài gang tay, nhưng đôi bên so le cái dài, cái ngắn chứ hai mảnh vai trái và vai phải không đều nhau, và thường là vải mầu đậm hơn thân áo, thí dụ áo mầu nâu non thì mảnh trên vai mầu nâu sẫm hay đen. Thời tôi, cũng như áo tứ thân, áo đổi vai đều bằng vải, do người miền quê mặc chứ không phải người thành thị.

* Áo ngũ thân - Hai vạt trước và sau đều do hai thân nối sống, dưới vạt cả đằng trước còn một vạt con nhỏ hẹp, dài bằng vạt cả. Ổ lưng chừng vạt con khoảng ngang đầu gối, có đính một cái giải để buộc vào vạt cả, chỗ đường nối sống. Thuở nhỏ tôi đã từng mặc áo "ngũ thân" mà không biết, chỉ biết gọi là "áo dài", mầu áo thế nào cũng không nhớ nhưng nhớ như in là phải "vất vả" buộc giải vạt con vào vạt cả mỗi khi mặc áo.

Có người đoán áo ngũ thân xuất hiện từ thời Gia Long vì mặc nó thì phải mặc với quần chứ không mặc với váy. Nhưng theo Phan Khoang thì loại áo ngũ thân gài khuy mặc vói quần đã do Đào Duy Từ (1572-1634) khuyên Chúa Nguyễn nên bắt dân mặc để khác với tập tục miền Bắc của Chúa Trịnh.

Ý nghĩa của áo ngũ thân : bốn thân tượng trưng cho đôi bên phụ mẫu, vạt con tượng trưng cho người mặc áo, năm cái khuy tượng trưng cho ngũ thường của đạo Nho (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Sinh cha mẹ (tứ thân) rồi mới sinh con là hợp lý. Có điều chiếc vạt con này về sau bị cắt ngắn đến thắt lưng, rồi bây giờ biến mất chỉ giữ lại cái mép đủ chỗ để đính khuy thì phải giảng ý nghĩa thế nào cho hợp lý ? Tôi đề nghị là tại người mặc áo đã ngả theo đạo Phật nên "có cũng như không" mà "không cũng là có", "sắc sắc không không".


II- THẾ KỶ XX - ÁO LEMUR VÀ ÁO "TÂN THỜI"
* Áo Lemur - Năm 1934, họa sĩ Cát Tường Lemur đã đưa ra "bản tuyên ngôn' nói rõ quan niệm căn bản của ông về cải cách áo dài, trên tờ Phong Hóa : 




"Các nhà đạo đức thường nói quần áo chỉ là những vật dùng để che mưa nắng, nóng lạnh, ta chẳng nên để ý dến cái sang cái đẹp của nó làm gì (...). Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể song nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ cũng đủ hiểu. Y phục của người các nước Âu Mỹ không những rất gọn gàng, hợp với khí hậu xứ họ mà kiểu mẫu lại rất nhiều và rất đẹp. Như thế đủ tỏ rằng họ có một cái trình độ trí thức rất cao, một nền văn minh rất rõ rệt và luôn luôn tiến bộ. Y phục của các bạn gái, tôi xem thấy có nhiều điều bất tiện mà lại không có vẻ chi là mỹ thuật. Tuy rằng vài năm gần đây cũng có một vài phần sửa đổi (...) chẳng qua chỉ ở mấy cái mầu sắc sặc sỡ, mấy thứ hàng lạ nước ngoài (...) còn thì vẫn kiểu áo lòe xòe ấy, vẫn cái quần lụng thụng đen ngòm ấy. Hoặc giả cũng có người ưa mặc quần trắng song tiếc rằng số đó vẫn rất ít (...). Cần sửa đổi dần :Trước hết phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, mực thước của thân hình mỗi bạn. Sau nữa phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ mỹ thuật và lịch sự (...) cũng phải có tính cách riêng của nước nhà". 

Đó là phần thuyết lý. Xin sơ lược sau đây những đặc điểm cụ thể của áo dài Lemur :

1- Cổ áo : Cổ bẻ ra theo kiểu tây phương, góc nhọn thì gọi là "cổ lưỡi dao", tròn gọi là "cổ bánh bẻ", cổ khoét hình quả tim, buộc giây..., đều mở ở giữa ngực, duy cổ lọ vai bồng mở ở vai bên phải, gài khuy từ cổ tới vai. Hồi nhỏ, khoảng đầu thập niên '40, tôi đã từng mặc áo cổ lọ vai bồng bằng len đỏ, khuy nhựa của Tây, hình vuông cùng mầu đỏ như áo .

2- Khuy áo bằng nhựa của Tây, hình vuông, tròn, bầu dục... và có hoa nổi hay chìm, đủ các mầu để chọn tùy theo mầu áo. Loại khuy bằng vải tết lại như Trung quốc không dùng nữa nhưng tôi đã từng mặc áo loại khuy này, gài hay tháo rất khó vì vải rít chặt chứ không trơn như khuy nhựa. Khuy nhựa sau bị thay thế khoảng thập niên '50 bằng khuy giả ngọc trai do bà Lê thị Lựu vẽ kiểu.

3- Tay áo - Ông Cát Tường nhận xét là tay áo cổ truyền chật hẹp rất bất tiện mỗi khi co tay, và không hợp với khí hậu nóng bức...Tuy nhiên ông có vẽ một kiểu áo dạ hội tay cắt ngắn ở khoảng giữa cánh tay rồi đeo bao tay (gants) dài đến tận giữa cánh tay. Có người khen là trông "rất sang trọng". Với tư cách là người mặc áo dài tôi cảm thấy thay thế cái tay áo dài bằng cặp gants dài còn nóng bức và bất tiện hơn.

4- Thân áo - Ông Cát Tường cho áo cổ truyền lụng thụng quá, cần phải ôm sát thân người mặc áo thì mới đẹp. Song quần áo không phải chỉ có mục đích che mưa nắng, nóng lạnh và có mỹ thuật như ông nói. Thời xưa, nó còn để che thân, người phụ nữ không được để thân thể lộ liễu cho người ngoài nhìn thấy. Chị cả tôi còn phải nịt ngực, lấy vải quấn quanh ngực mấy vòng, ép xuống cho ngực phẳng lì. Bà Bùi thị Xuân, khi bị Gia Long giam trong ngục trước khi đem hành hình, đã nhờ người mua lụa trắng quấn hết chân tay để khi bị tử hình (voi tung) thân thể có mỗi nơi một mảnh cũng khg bị bộc lộ ( Lemonnier de la Bissachère).

Trên thực tế, áo Lemur chỉ ôm hờ thân người mặc chứ không ôm sát, cứ xem ảnh cưới của chính ông Lemur (1936) cũng thấy rõ cả cô dâu lẫn các cô phù dâu đều mặc áo Lemur nhg nó không ôm sát thực sự như áo dài ngày nay, mà chỉ bớt lụng thụng nhờ cắt lượn theo thân hình chứ xếp nếp (plis) không sâu, có khi không có cả plis nữa. Năm 1952, tôi và các bạn vẫn còn mặc áo không chiết plis. Có thể vì ông Cát Tường chỉ vẽ kiểu yếm chứ chưa nghĩ đến vẽ soutien (có người dịch là "nịt ngực" e không đúng vì "nịt" có nghĩa là nén ép xuống trong khi soutien nâng ngực cho cao lên). Từ áo Lemur đến áo dài hiện đại có một khoảng xa cách không kém gì từ áo dài lụng thụng tới áo Lemur.

5- Viền tà - Tà áo cổ truyền phải mất 3 đường khâu và một cái nẹp dài để viền tà cho cứng cát, vạt áo sẽ đứng chứ không cong queo. Ông Cát Tường tung ra lối viền tròn như con giun bằng một thứ hàng và mầu khác hẳn mầu áo, giống kiểu viền quần áo ngủ pyjamas, đỡ tốn công hơn và lạ mắt. Mầu viền tà cũng như mầu khuy giống nhau. Tôi cũng có một chiếc áo mầu vàng chanh, hàng Bombay mỏng và mịn, khuy nhựa hình bầu dục và viền tà cùng mầu xanh lá cây.

Áo dài Lemur rất được hoan nghênh, thậm chí có cô (?) Phan thị Nga ở Hội An ca tụng không tiếc lời :" Kiểu quần áo Cát Tường đã làm cho chị em thêm diễm lệ ở nét mặt..." (Ngày Nay, số 13, 1935) tôi bội phục trí tưởng tượng của cô. Chắc là khi "thoa son dồi phấn" kiểu Cát Tường cô sẽ thấy thân hình chị em nở nang, "có những đường cong tuyệt mỹ" hơn ?

* Áo Lê Phổ - Áo Lemur tuy được hoan nghênh nhưng cũng bị chê là "lai căng". Theo Wikipedia thì ông Lê Phổ, cũng năm 1934, "đã sửa bớt những nét lai căng, đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn, dung hợp hài hòa. Áo dài đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó". Như vậy có nghĩa là hai vạt dưới của áo Lemur không được tự do bay lượn ? Nếu không phải thế thì khác ở chỗ nào ? Tôi thấy ảnh cưới ông Cát Tường, rõ ràng hai tà áo phụ nữ đều "tự do bay lượn".

Theo Hoàng Huy Giang thì Lê Phổ "bỏ đi những nét Tây phương như không tay, tay phồng, cổ hở, không viền tròn vạt dài v.v... Nhưng đến đầu thập niên '40, chính tôi còn mặc áo cổ lọ vai bồng và tà áo viền tròn. Tóm lại, tôi vẫn chưa rõ sự khác biệt giữa áo Lemur và áo Lê Phổ, chỉ biết gọi theo mọi người là "áo tân thời".

Mốt năm 1952, khi tôi sang Pháp, là áo rộng và ngắn đến đầu gối nhưng ngực vẫn xẹp. Mãi khoảng giữa thập niên '50, mới có cô ca sĩ từ Saigon sang Pháp, lên sân khấu mặc áo dài thực sự ôm sát người, ngực nở nhờ có đeo soutien nâng cao lên và áo chiết plis sâu nên bụng thon. Chúng tôi đều suýt soa là đẹp và... bạo !


III - TỪ ÁO LEMUR ĐẾN ÁO DÀI HIỆN ĐẠI
(Sau đây phần lớn tôi chép theo người khác vì sống ở Pháp).

* Áo dài có thắt lưng. Khi tôi sang Paris được xem bà Anh Trần (sau này làm điêu khắc) mới chế ra kiểu áo dài có thắt lưng sau khi học một lớp dậy cắt quần áo Tây phương. Kiểu áo này không mấy người biết có thể vì không gập cơ hội thuận tiện.

* Áo dài kiểu bà Nhu tức bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu. Năm 1958 bà Nhu xuất hiện trước công chúng với chiếc áo dài cổ hình thuyền (bateau) và tay ngắn. Đấy cũng là một cải cách quan trọng đáng kể vì trời nóng bức mặc áo cổ đứng rất khó chịu.

* Áo tay giác lăng (raglan) Khoảng thập niên '60, hiệu may Dung Dakao ở Saigon tung ra kiểu áo dài tay giác lăng, ráp tay xéo vai khiến cho chỗ nách không còn những đường nhăn nhúm như trước... hàng may áo dầy nhưng tay với ngực lại bằng hàng mỏng hoặc thân áo và hai tay là hai mầu, nút cài từ cổ xéo xuống ôm sát thân hình người mặc từ nách đến eo. Sau đó còn kiểu mini va maxi raglan nữa.

* Áo ba tà. Một số nhà may ở Saigon tung ra vào thập niên '70 kiểu áo ba tà gồm một vạt sau và hai vạt trước với nút gài từ cổ xuống eo mặc với quần ống voi.

* 2010 . Việt Nam hiện nay cũng có những nhà thiết kế vẽ các kiểu áo dài "mới" như áo không cổ hoặc mình một thứ hàng, hai tay dùng hàng mỏng trông suốt qua được. Phần nhiều mặc áo trơn hay thêu chứ không dùng áo vẽ, và thêu gần kín ngực không còn chỗ để đeo nữ trang. Cũng có kiểu áo dài chui đầu, không khuy...Quần đồng mầu với áo hay mầu khác hẳn như đỏ, vàng, xanh...

KẾT LUẬN

Ông Cát Tường - Lemur có nhiều sáng kiến và tài năng, song những cải tiến mà ông đã thực hiện chưa hẳn theo sát "bản tuyên ngôn" năm 1934 của ông và trừ ý kiến áo dài phải ôm sát thân người thì những cải tiến khác của ông không để lại dấu vết gì nữa. Áo hai vạt, quần trắng, áo mầu đều đã xuất hiện từ trước 1934, ông không phải là người đầu tiên đã "biến cái áo tứ thân ra áo hai vạt" hiện nay.

Cái áo hiện nay có vẻ đẹp riêng của nó nhưng ta cũng không nên quá tôn vinh nó, các nước khác cũng có áo đẹp và nhiều áo đẹp. Áo dài dẹp nhưng chỉ khi đi tha thướt, ung dung chứ đem nó lên sân khấu nhẩy múa, giơ chân lên cao hay chạy nhanh, chân một nơi, áo một nẻo thì không đẹp chút nào. Người ngoại quốc khen áo dài vì thực sự thích nó cũng có và cũng có khi vì họ rất lịch sự, hễ gặp là khen bất cứ áo gì mình mặc chứ không chê bao giờ.

Ông Cát Tường nói "quần áo là tấm gương phản chiếu trình độ trí thức của một nước. Nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của nước họ cũng đủ hiểu...". Tôi không hoàn toàn đồng ý với ông. Người mặc áo đẹp chưa hẳn đã là người có văn hóa. Tôi nghĩ là ông sống ở thời người Việt đang chán văn minh "cũ rích" cổ truyền và đang ngưỡng mộ văn minh mới lạ của Tây phương nên ông chịu ảnh hưởng của thời đại và đôi khi quá thán phục nên đi quá đà. Cái "mề đay" nào cũng có mặt phải mặt trái. Nếu ông sống khoảng thập niên '80 ở Pháp ông sẽ thấy giới trẻ đua nhau mặc jean nhưng mua quần mới về lại đem mài, cắt cho rách bươm và giặt đủ mọi cách cho cũ bạc đi mới đem ra mặc. Áo thì lục tìm trên gác xép những áo cũ của cha ông để lại, những cái sơ mi đàn ông vừa dài vừa rộng thùng thình, làm gì có eo có ngực, có những "đường cong tuyệt mỹ" ? Chẳng lẽ nó cũng phản ánh sự tiến bộ, văn minh của Pháp ? Còn "mỹ thuật" ? Ông Cát Tường chê áo Việt Nam lòe xòe, lụng thụng, không "mỹ thuật", nhưng tôi lại thấy áo tứ thân, áo giao lĩnh cũng như áo dài đều đẹp cả, mỗi cái một vẻ. "Nhân tâm tùy thích", khó mà tranh cãi.

Tóm lại, ông Cát Tường không phải là người đã biến cái áo tứ thân thành áo hai vạt, ông thực sự có công đóng góp cho áo dài hiện đại song ông chỉ là một mắt xich trong chuỗi dài những người không để lại tên tuổi nhưng cũng góp phần cải sửa, giúp cho cái áo dài mang hình dáng hiện nay. Chúng ta "tri ân" ông nhưng chúng ta cũng không quên những người "vô danh" ấy.


Hà Nội, tháng 12, 2010
Nguyễn thị Chân Quỳnh
























CHÚ THÍCH

1- Nguyên văn câu tiếng Pháp :"Pour le corps elles le couvrent de certains corps de côte, fait en échiquier, tous diversifier en couleur...". Câu này không minh bạch, tôi tạm dịch nhưng không ưng ý.

2- Tiếng Pháp :"Ces habits de la ceinture en bas tout autour tailladez et déchiquetez à belles mouchetures. Si bien qu'allant par la ville ils font parades de toutes ces couleurs mêlées ensemble : que si quelque doux ventelet vient...". Câu này rất tối nghĩa nên tôi bỏ không dịch.

3- Phủ Biên Tạp Lục chép là năm Bính Dần (1746), dịch giả đoán là bản sao chép sai nên đã sửa thành năm Bính Thân (1776) hợp lý hơn vì 1776 Lê Quý Đôn mới làm Hiệp trấn Thuận Hóa và nhận xét :"Trong khoảng hơn 30 năm phong tục đã thay đổi..." trỏ thời gian từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát bắt dân mặc kiểu Trung quốc (1744) đến khi Lê Quý Đôn ra huấn lệnh cải sửa lại,theo quốc phục.

SÁCH BÁO THAM KHẢO

- BARON, Samuel, Description du Royaume de Tonquin. Traduction de l'anglais par H. Deseille. Reproduite par la Revue Indochinoise (première traduction publiée par l'abbé Prévost en 1751).
- BORRI, Christoffe, Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine. Traduite de l'italien du Père C. Borri, Milanais, qui fut un des premiers qui entrent en ce Royaume, par le Père Antoine de la Croix, de la même Compagnie. Rennes, Jean Hardy, M DC XXXI (1631).
- CHAIGNEAU, Michel Đức, Souvenirs de Huế. Paris, M DCCC LXVII (1867).
- Forum Diễn Đàn sách xưa (net) 1-8-2009, "Họa sĩ NGUYỄN CÁT TƯỜNG - LEMUR"
- HOÀNG HUY GIANG, Tà áo bay trên trời quê đất khách : http://chimviet.free.fr/quehuong/chung/hhgn050.htm
- LÊ QÚY ĐÔN, Phủ Biên Tạp Lục, Phần 1 & 2. Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007. Bản dịch của Nguyễn Khắc Thuần.
- Pierre Jacques LEMONNIER de la BISSACHÈRE, La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine,d'après les manuscrits des Archives des Affaires Etrangères, 1807.
- LÊ TRIỀU CHIẾU LỊNH THIỆN CHÍNH- Dịch giả Nguyễn Sĩ Giác. Saigon : Trường Luật khoa, 1961.
- Louis-Gabriel MULLET DES ESSARDS, Voyage en Cochinchine 1787-1789. Retranscrit par son descendant Bruno BIZALLION. Les Editions de Paris, 1996.
- NGÔ THÌ SĨ, Việt Sử Tiêu Án. Bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu. Saigon, 1960. San Jose, Hoa Ký : Văn Sử tái bản, 1991.
- NGUYỄN CÁT TƯỜNG. Y phục của phụ nữ, Thế Kỷ 21 số 201 &202, tháng giêng và tháng hai, 2006, in lại báo Phong Hóa, 1934.
- NGUYỄN TẤT ĐẠT, "Bố tôi, họa sĩ "Lemur-Nguyễn Cát Tường". Xuân Bính Tuất, 20-1-2006. Forum Diễn Đàn 01/08/2009
- NGUYỄN TRỌNG HIỀN, Tiểu sử và sự đóng góp vào văn hóa Việt Nam của họa sĩ Nguyễn Cát Tường-Lemur. Thế Kỷ 21 số 201 & 202, 2006.
- PHAN KHOANG, Lịch sử : Xứ Đàng Trong (1558-1777), tập 1 & 2. Houstan, Texas : Xuân Thu tái bản, 1991 (?).
- TAVERNIER, J.B., Relation nouvelle et singulière du Royaume de Tunquin. Texte de 1681, reproduit par la Revue Indochinoise, Octobre, 1908.
- THÁI ĐÌNH LAN,Hải Nam Tạp Trứ. Dịch giả Ngô Đức Thọ. Nhà xuất bản Lao Động, 2009.
- VŨ NGỌC TRUY, Áo dài Lemur, Thế Kỷ 21 số 201 & 202, 2006.
- WIKIPEDIA (Bách Khoa Toàn Thư mở), Áo dài - Lịch sử.






































Trở về




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.