Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2022

Cù Nguyễn

 










Cù Nguyễn

Tên thật Nguyễn Niệm
(1936 - ....) Hội An
Họa sĩ






Cù Nguyễn là một cái tên quen thuộc của hội họa Sài Gòn trước 1975.
Ông sinh năm 1936 tại Hội An, tự học vẽ nhưng lại sớm khẳng định được tài năng khi đoạt huy chương vàng Triển lãm hội họa mùa xuân Sài Gòn năm 1961.
Tháng 11-1966 có một sự kiện được coi là cột mốc quan trọng của hội họa miền Nam lúc bấy giờ: sự ra đời của Hội Họa sĩ trẻ với thành viên sáng lập là các họa sĩ Ngy Cao Uyên, Nguyễn Trung, Hiếu Đệ, Nguyên Khai, Nguyễn Phước, Mai Chửng, Nghiêu Đề, Hồ Thành Đức, Trịnh Cung, Nguyễn Lâm và Cù Nguyễn.
Có thể nói từ cái nôi nghệ thuật này, các họa sĩ trẻ tuổi đôi mươi ngày ấy đều thành danh, có nhiều đóng góp cho nền mỹ thuật ViệtNam nói chung và hầu hết đều vẫn sáng tác dù hiện nay tuổi của các ông đã ngoài thất thập.







TRIỂN LÃM  CỦA HỌA SĨ CÙ NGUYỄN.






1961. Đoạt huy chương Vàng
Hội họa Mùa Xuân do Văn Hóa Vụ tổ chức.


1964. Đoạt Huy Chương Đồng
Hội họa Mùa Xuân do Văn Hóa Vụ tổ chức.


1964. Triển lãm tranh sơn dầu chung với họa sĩ Âu như Thuy.
Tại Phòng Thông Tin Đô Thành.


1966. Triển lãm riêng 25 tác phẩm tranh sơn dầu.


1967. Triển lãm riêng. 30 bức tranh sơn dầu.


1969. Triển lãm chung với Mai Chửng.
Tranh sơn dầu và điêu khắc. Tại Galerie Continental.


1971. Triển lãm chung với họa sĩ Nguyễn Trung.
Tranh khắc gỗ và sơn dầu. Tại Galerie Continental.


1973. Triển lãm tập thể
cùng với 15 thành viên Hội Họa Sĩ Trẻ.


197… Triển Lãm Hội Họa và điêu khắc.
Gồm 10 thành viên. Hội Họa sĩ Trẻ tổ chức. Do Goetheinstitut bảo trợ.


1991. Vào tháng 8. Triển lãm riêng.
Tại 133. Hai Bà Trưng. Quận I.


1991. Triển lãm chung với 14 họa sĩ khác
Do Hội Nhà Báo tổ chức.


2011. Triển lãm chung tại phòng tranh Tự Do.
Số 53 Hồ tùng Mậu. Phường bến Nghé. Quận 1.



2012. Triển lãm riêng. ” Hướng Tới Tương Lai ”.
Gồm 40 bức tranh sơn dầu. Tại Hội Mỹ Thuật Thành Phố.



Cảm nghĩ của Khổng Đức

Với tính cách cố tri chí thiết, không thể không viết đôi dòng cảm nghĩ về phòng tranh của Cù Nguyễn, nhưng khi cầm đến bút mới thấy bao khó khăn.
Tranh của Cù Nguyễn quá đồ sộ qui mô, tất cả là 40 bức tranh sơn dầu; nói về lượng bức nhỏ nhất 60 x 75 cm, còn là 20 bức khổ lớn từ 80 x 80 đền 100 x 130; còn về phẩm ngoài ba bức có hình tượng thiếu nữ là Cung trăng,Suối tóc, Đồi mộng mơ, không phải dài dòng vì ai cũng có thể hiểu dù có nhiều cách thế khác nhau. Còn lại 37 bức là cả một thế giới của màu sắc, đường nét, bố cục đầy biến đổi, dù vẫn mang những danh hiệu vô cùng hấp dẫn: Cây Nhân sinh, Những con đường, Hình và bóng, Tây nguyên lễ hội, Sóng hoa, Đồi trăng, Phố xanh, v…v… Nhưng là loại tranh không hình tượng (non-figuratif), giống như tranh trừu tượng mà không mang dấu ấn gì của trường phái nầy; có thể nói đó là kết tinh của hơn 50 năm sống lăn lóc trong nghệ thuật. Cù Nguyễn cũng từng thổ lộ là không học, không chịu ảnh hưởng của trường phái hội họa nào, mà chỉ tự học hỏi, tự tìm tòi với sự đam mê của bản thân. Điều này quá rõ Cù Nguyễn luôn luôn cố tạo dựng cho mình một bản sắc, một đường lối riêng biệt, nên từ năm 1961, lúc mới ngoài 20 tuổi Cù Nguyễn đã đạt được huy chương vàng về hội họa giữa Sàigòn hoa lệ này. Tuy nhiên vẫn không lạc ra ngoài cái quỉ đạo trào lưu tiến hóa của nhân loại là quay về với nội tại, với tâm linh, xa rời cái thực trạng ngoại hình đầy bụi bặm phũ phàng của thiên nhiên; không sao chép thiên nhiên như một đối tượng, mà chỉ quan sát, quán thông, khế hợp với nó để moi sâu, lột trần, thu hút cái bản chất thực tại tiềm ẩn trong đó. Vì vậy có thể nói nghệ thuật của Cù Nguyễn là nghệ thuật thuần túy – nghệ thuật phát sinh chân lý – nghệ thuật được mở rộng với cảm tính, với tự do, phát huy đến tận cội ngưồn thực tại siêu việt của cái thế giới bên kia (de ce qui est au-dela), nó bao hàm cả vận mệnh, cả cuộc sống của con người, trong đó có liên quan đến sứ mệnh của dân tộc, của lịch sử. Mỗi bức tranh của Cù Nguyễn là một thế giới hình trạng riêng biệt (forme) từ đường nét đến màu sắc. Đây là điểm xuất phát đáng kể khi tuổi đời của họa sĩ đã vào thế hệ ngoại thát thập (sanh năm 1938) mà sức sáng tạo, óc tưởng tượng vẫn còn rạt rào mang đầy tính chất thơ. Hay nói cho đúng hơn Cù Nguyễn đã sáng tác trong tư thế ý thức mà vô thức, tư thế của trực giác thi tính (intuition poetique) với cái âm điệu của tâm linh – như Valery, thi hào của Pháp từng nói “ cái hay cái đẹp của một bài thơ phải có âm điệu của người nữ lí tưởng, đó là âm điệu của tâm linh (la plus belle poesie a la voix d’une femme ideale, mlle Âme). Thật ra bức tranh cũng là một bài thơ (thi trung hữu họa, họa trung hữu thi), bức tranh đẹp là tự nó như có khí lực, đúng như Tạ Hách đời Lục triều của Trung Quốc từng nêu là “khí vật sinh động”, là sự biến hóa của khí thế có sức truyền đạt thành ra như có âm thanh. Đặc biệt trong bố cục thường có nhiều khoảng trống (vide), nó khác hẳn với hội họa tây phương mà giống đông phương. Khoảng trống tự nó cũng có những vai trò vững chắc ngang hàng với màu sắc và đường nét – nó là tâm linh xuất phát từ chủ thuyết Đạo giáo. Cái dữ kiện ưu tiên là khái niệm Khí, cái khí tạo nên sự sống nên gọi là sinh khi. Chính dữ kiện đó làm cho hội họa trở nên sống động, thiếu vắng sinh khí chính là dấu hiệu làm cho hội họa trở nên tồi tệ ngay. Tương quan của khí chính là âm dương, nó là hiện thân của qui luật năng động quản lý cả vạn vật, nó là bóng tối là ánh sáng v…v….
Viết đến đây chắc có bạn đọc đã cho tôi là quá thiên lệch, quá ca tụng bạn cố tri… Thật tế tôi đã xem tranh Cù Nguyễn với tính cách của người thưởng ngoạn; mà theo nghĩa hiện đại, thưởng ngoạn đúng nghĩa là tham dự hội nhập vào sự sáng tạo, nó chủ động. Hay đúng hơn thưởng ngoạn là tái sáng tạo, người thưởng ngoạn không phải là bất động gói kín trong sự tiếp thụ tác phẩm; mà là dùng sự tự do của mình để tái sáng tạo, thẩm tra sự biểu hiện của tác giả. Đối với loại tranh vô hình tượng (non-figuratif) chỉ có màu sắc, đường nét và hình trạng (forme) nên thưởng ngoạn được nhiều lợi thế tha hồ mà tưởng tượng mà sáng tạo. Như vậy cái thế giới do nghệ thuật gia sáng tạo tức tác phẩm chỉ mới là tiền đề, chỉ đến khi được tiếp thụ, được thưởng thức mới đạt được sự thể hiện chân chính, mới gọi là hoàn thành. Nói rõ hơn là nghệ thuật gia với người thưởng ngoạn cùng tạo nên sản phẩm nghệ thuật.. Cụ thể hơn chúng ta hãy dùng ngay một vài bức tranh của Cù Nguyễn để làm thí dụ. Như bức Tây Nguyên lễ hội (số 30) được diễn tả như một bông hoa màu cam xòe cánh trên nền xanh đậm (Ờ đây tôi chỉ xin nêu lên đôi nét chính).Màu xanh đậm là màu của núi rừng Tây nguyên, cũng như màu da cam là màu của đất cát”ba-dzan”, xem tranh TNLH lại nhớ đến câu thơ của Đinh Như Thúy cũng nói về mùa lễ hội : “nhắm khít mắt, nhắm khín mắt đang mùa cồng chiêng…. Rừng lùi xa huyền bí lùi xa linh thiêng…” Trong cánh hoa màu cam lại có những vòng tròn dở dang như những “ ẩn ức va đập ẩn ức …”Nhưng các bạn có thể nghĩ, có thể tưởng tượng khác tùy theo hoàn cảnh buồn vui hay bận rộn nhàn hạ….
Chúng ta hãy xem đến bức “mắt lưới” (số 13), lưới đây chắc là lưới cá, làm ta liên tưởng đến biển cả hay đến hình ảnh của một cuộc sống ràng buộc chằng chịt như ca mắc vào lưới, tự mình không sao tìm ra lối thoát…. Đường cong của bố cục với những hình trạng uyển chuyển như những con mắt dòm ngó đủ chiều…. Có những vòng tròn linh động… Theo hội họa trung quốc nét bút là sự kết hợp giữa con người và thiên nhiên. Nó là hiện thân của con người trong quá trình thể hiện cử chỉ của sự sáng tạo, nên nó là khí, là âm dương (đậm lợt), là thiên địa, vạn vật, tất cả vừa đảm nhiệm vừa chịu dựng nhịp điệu và sự xung động ẩn bí của con người. Chúng ta hãy xem thêm một bức nữa là “ Vươn lên – số 38”,theo nhãn quan méo mó của tôi nó là một bức tranh mang tính tổng hợp Đông tây. Nó có đủ những yếu tố cơ bản của sự sáng tạo như đã trình bày ở trên. Đặc biệt có những khoảng trống, vô hình mà như hữu hình khiến ta tưởng đến như một con người đang cất bước, cho nên nó mang ý nghĩa “vươn lên”. Ở đây cái Tâm trú ngụ trong khoảng trống như tập trung khí để phân phối khắp cơ thể của nội tạng. Vì khoảng trống đó mà Tâm con người trở thành qui luật hay là tấm gương chiếu sáng cho chính nó và thế giới….
Tranh của Cù Nguyễn quá đồ sộ không phải chì vì chất lượng như tôi đã phác họa ngay đầu bài viết, mà cái đồ sộ đáng kính chính là phần ẩn tàng dấu kín, nó là chân lý là ý tưởng ở phía sau mỗi bức tranh mà trong giới hạn của một bài viết về cảm nghĩ không thể nào nói hết được. Để kết luận cho bài viết, tôi hãy tạm thời mượn lời của Kandinsky mà nói rằng: “ Nghệ thuật của tranh Cù Nguyễn có khả năng cung cấp cho chúng ta yếu tố để trầm tư và cũng là chỗ để cho tâm hồn nghỉ ngơi.
Suýt nửa thì tôi quên, chủ đề của phòng tranh Cù Nguyễn kỳ này là “Hướng tới tương lai”, tương lai đây không phải là bản thân tác giả mà là nhắm vào tầng lớp thanh niên, cầu mong có người noi theo gương cần cù của tác giả mà thiết lập được những hệ thống qui luật mới mẻ cho nền hội họa Việt Nam.

Khổng Đức










Tác phẩm đoạt Huy Chương Vàng năm 1961 



Chiếc Huy chương Vàng Hội Họa Mùa Xuân năm 1961
của họa sĩ Cù Nguyễn.











Tranh Cù Nguyễn





 Suối tóc.
Lụa. 58cm x 80cm.






 Miền diễm ảo
Màu nước. 39cm x 37cm







Xuân và tuổi thơ
Màu nước. 37cm x 39cm







Phù vân - Trăng & Hoa
Màu nước/ giấy 37cm x 52cm







Tây Nguyên Lễ Hội
Sơn dầu/ bố 133cm x 109cm. 







Đêm
Sơn dầu/ bố. 75cm x 60cm








Bướm mơ
Sơn dầu/ bố. 80cm x 65cm








Rối nước
Sơn dầu/ bố. 135cm x 107cm








Chim chuyền
Sơn dầu/ bố. 80cm x 65cm








Thu Vàng
Sơn dầu/ bố. 65cm x 80cm. 1997









Chim có tổ
Sơn dầu/ bố. 134cm x 109cm








Suối trăng
Sơn dầu/ bố. 130cm x 100cm








Suối Trăng








Vươn Lên









Trú Đông










Ảnh chụp những tác phẩm thời kỳ đầu của Họa sĩ Cù Nguyễn




Cù Nguyễn vẽ chân dung





































































Triển lãm tranh của Họa sĩ Cù Nguyễn năm 2012



Với tên gọi “Hướng tới tương lai”, phòng tranh của họa sĩ Cù Nguyễn đã được khai mạc sáng 30-6 vừa qua tại Hội Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh (218A Pasteur, Q.3) trong không khí ấm áp của sự hội ngộ bằng hữu, cố tri.

Cù Nguyễn là một cái tên quen thuộc của hội họa Sài Gòn trước 1975. Ông sinh năm 1936 tại Hội An, tự học vẽ nhưng lại sớm khẳng định được tài năng khi đoạt huy chương vàng Triển lãm hội họa mùa xuân Sài Gòn năm 1961. Tháng 11-1966 có một sự kiện được coi là cột mốc quan trọng của hội họa miền Nam lúc bấy giờ: sự ra đời của Hội Họa sĩ trẻ với thành viên sáng lập là các họa sĩ Ngy Cao Uyên, Nguyễn Trung, Hiếu Đệ, Nguyên Khai, Nguyễn Phước, Mai Chửng, Nghiêu Đề, Hồ Thành Đức, Trịnh Cung, Nguyễn Lâm và Cù Nguyễn. Có thể nói từ cái nôi nghệ thuật này, các họa sĩ trẻ tuổi đôi mươi ngày ấy đều thành danh, có nhiều đóng góp cho nền mỹ thuật ViệtNam nói chung và hầu hết đều vẫn sáng tác dù hiện nay tuổi của các ông đã ngoài thất thập.

Có những khoảng thời gian dài, thậm chí thật dài giữa các triển lãm của họa sĩ Cù Nguyễn. Năm 1967, phòng tranh vẽ về Đà Lạt của ông được tổ chức tại Hội Họa sĩ trẻ. Đến 1971 ông mới có triển lãm chung với họa sĩ Nguyễn Trung, rồi bẵng đi hai mươi năm – từ 1975 đến đầu thập niên 1990 – Cù Nguyễn không xuất hiện trong các triển lãm. Năm 1991, một loạt tranh 30 bức được ông vẽ tại Vũng Tàu được trưng bày tại gallery của Nhà hàng Thanh Niên (trên đường Nguyễn Văn Chiêm, Q.1 – gallery không còn tồn tại từ nhiều năm nay); cũng trong năm đó ông được mời triển lãm tại Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. Mười năm sau (2001), tranh Cù Nguyễn mới lại góp mặt cùng các thành viên năm xưa của Hội Họa sĩ trẻ trong một triển lãm thật đáng nhớ tại gallery Vĩnh Lợi (tiếc rằng địa chỉ mỹ thuật có uy tín này cũng không còn hoạt động).

Tuy nhiên, họa sĩ Cù Nguyễn vẫn lặng lẽ làm việc trong xưởng vẽ trên đường Nguyễn Trãi (Q.1) để có triển lãm mới nhất của ông. Trong số 40 tranh sơn dầu tại phòng tranh “Hướng tới tương lai”, khá nhiều bức được tác giả vẽ vào những năm 1990. Và dù hầu hết được vẽ trừu tượng và nửa trừu tượng, nhưng những tên tranh lại rất “gợi”, rất thơ: Hình và bóng, Những con đường, Tây Nguyên lễ hội, Đồi trăng, Phố xanh, Suối tóc, Suối trăng, Vươn lên, Trú đông, Đêm, Hè, Cây nhân sinh… Đó là những bố cục chặt chẽ với một bảng màu trầm, u uẩn và huyền hoặc. Dường như thế giới tranh của Cù Nguyễn vẫn là một trạng thái mộng mơ vào cõi tâm linh thuần khiết, xa rời cái thực tại náo động mà chỉ còn một cách diễn đạt thích hợp nhất là ngôn ngữ phi biểu hình (non-figuratif). Tranh của Cù Nguyễn dù thể hiện bằng ngôn ngữ hội họa nào thì cũng phản ánh chính con người thật của ông: nho nhã, mềm mỏng, mực thước, kín đáo, tế nhị. Rất dễ nhận ra Cù Nguyễn khi ông đến xem các phòng tranh ở nhiều nơi: thật chăm chú nhưng lặng lẽ, như thể tìm kiếm một nét duyên, nét đẹp ẩn tàng dưới những mảng màu, những nhát cọ…

Ngày khai mạc triển lãm của họa sĩ Cù Nguyễn cũng là ngày gặp gỡ các bạn bè, đồng nghiệp thế hệ của ông. Những mái tóc đã bạc, những bước chân không còn chắc… nhưng niềm vui, tiếng cười thì vẫn tràn đầy như thuở nào, như khi chàng trai trẻ Cù Nguyễn ung dung, tự tại bước vào nghệ thuật. Ông và các bạn họa sĩ đã có một thời đẹp nhất, đáng nhớ nhất của hội họa Sài Gòn. Tìm lại những nét đẹp ngày xưa ấy phải chăng cũng là “hướng tới tương lai”? 

Nguyệt Cầm










Chân dung họa sĩ Cù Nguyễn
 của họa sĩ Đặng Hoài Nam.




























Trở về







MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.