Thứ Ba, 6 tháng 9, 2022

Ngụy Ngữ (1947 - 2022)

 










Ngụy Ngữ 

Tên khai sinh Nguyễn Văn Ngữ
(1947 - 2022) Thừa Thiên, Huế
Hưởng thọ 76 tuổi

Nhà văn, nhà biên kịch







Văn học nghệ thuật nói chung trước hết là vũ khí chống lại cái chết và khuôn mặt dễ thấy nhất của cái chết là sự lãng quên. Trong “nhiệm vụ” ấy đôi khi nó chỉ cần giữ vai trò làm tiếng gõ cửa là đủ

Ngụy Ngữ







Nhà văn - nhà biên kịch Ngụy Ngữ qua đời hồi ngày 9/9/2022 tại nhà riêng ở TP HCM. Ông sinh năm 1947 tại Thừa Thiên - Huế,
từ thanh niên đã vào sống và làm việc tại Sài Gòn-TP.HCM cho đến ngày qua đời.

Trước 1975, ông là cây bút quen thuộc của tạp chí Văn, ngoài ra, ông còn cộng tác với nhiều tạp chí như Đối diện, Đất nước, Trình bầy, Ý thức.







Sau 1975, ông chuyên viết kịch bản phim, là tác giả của nhiều kịch bản tiêu biểu như:



Con thú tật nguyền


Trùng Quang tâm sử
(tiểu thuyết lịch sử của Phan Bội Châu)


Bụi hồng


Gái nhảy


Cha con Đậu Đũa
(từ truyện ngắn của Nguyên Hương)


 Cảnh sát hình sự


Ai xuôi vạn lý
(với Nguyễn Thiên Đỉnh)


Xóm nước đen
(4 tập)


Bụi hồng


Những năm tháng đã qua
(5 tập)


Cánh đồng bất tận


Mẹ con Đậu Đũa


Bộ phim "Gái nhảy" do ông viết kịch bản, đạo diễn Lê Hoàng thực hiện, đã tạo nên tiếng vang lớn bởi đây là bộ phim mở đầu cho thời kỳ phim thương mại sau giai đoạn khủng hoảng của điện ảnh Việt Nam thập niên 1990.













Tuyển truyện

Con Thú Tật Nguyền
Ngụy Ngữ



Qua khỏi cánh đồng, đường nhựa dần vươn cao nổi lên cây cầu sắt gẫy, xe rẽ xuống một con đường đất đỏ đã vữa ra lầy lội trong mưa, chạy chúi xuống bờ sông vào cầu phà. Những khớp sắt giữa lòng cầu rên lên dưới bánh xe đinh đõi. Mặt nước sông trắng bạc căng cao. Vài ba người lính trùm kín pông-sô đứng trên lề cầu ngó lên xe, nhưng đôi mắt sáng xa khuất rơi lại phía sau. Xe chạy chậm, tiếng động cơ lừ khừ mỏi mệt, khó khăn vượt qua quãng đường lầy nối đầu múi cầu rồi qua con đường cao trải đá cuội lam nham chạy dọc vào khu phố. Thi ngồi trước ca bin ngoái cổ lại hỏi gì đó sau tấm vải nhựa, tôi gật đầu nhiều lần. Con đường dàn rộng ra giữa hai hàng cây sầu đông nối dài. Khe phố dựng chênh cao trên bờ sông. Những mái ngói mái tôn đục ngầu san sát tiếp vào nhau, những cánh cửa khép lại trong giấc ngủ mỏi mệt lẩn trốn. Mưa dăng chùng khuất phía trước. Xe lê lết gập ghềnh. Trên xe không có vải bạt che, nước mưa đổ xuống chảy lõng bõng quanh quan tài Bình. Trên nắp quan tài, những cây nến đã cháy hết. Nhiều cây đổ xuống lăn lóc qua lại. Chị Nga vẫn ngồi im lặng như lúc mới lên xe. Chiếc nón rộng chụp xuống, thân thể giấu kín sau lớp vải dầu xanh úa. Bàn tay ôm vào góc áo quan. Tôi vẫn đứng bám hai cánh tay vào sườn xe lạnh buốt nhìn xuống chung quanh, quần áo ướt đầm đìa. Nước mưa từ tóc, trán, chảy xối vào mặt vào miệng. Chốc chốc tôi đưa tay vuốt ngang qua, kéo tóc lại đằng sau ngửa mặt lên cao. Khung trời trắng đục nhòe nhoẹt. Ở đâu đó đang có một mặt trời. Đâu đó, ngày Bình trở về. Đứa con hận thù trở về. Tôi kéo cổ áo vén tay áo lên cao. Bắp thịt trần rám nắng ngả xám ngoét hàng chữ chạm bằng mực: Ra đi vì đời. Bình ra đi. Một cành cây sầu đông không lá quất ngang vào mặt tôi. Tôi yên lặng, nhắm mắt lại, gục đầu xuống. Vết roi như đánh thức dậy những cảm giác đê mê dồn trong thịt da. Tôi cắn chặt hàm răng, mím môi lại. Chị Nga vẫn ngồi im lìm bấu vào áo quan tài. Thi hỏi gì đó. Tôi đứng trở lại, nhìn xuống đường. Xe đã đến cuối phố. Tôi đấm mạnh trên vải bạt che ca bin; xe ngừng trước một chiếc quán nằm bên bến đá dốc cao. Cánh cửa quán được chống hững lên. Vài ba người khách co ro ngó ra. Tôi chậm chạp cúi xuống. Chị Nga vẫn im lặng như không hay biết gì. Tôi gọi:

Chị Nga, chị Nga.

Tiếng gọi dính vào lớp nước miếng sánh đặc, không thoát ra ngoài được. Tôi vỗ vào vai chị, cố gọi lớn hơn. Chị, chị Nga, đến rồi này.

Chị Nga ngẩng lên, nhích người tựa vào thành xe. Đôi mắt ngơ ngác như một người ngủ mê vừa được đánh thức dậy. Khuôn mặt tái mét, mái tóc rã rượi đổ xuống. Đôi mắt bất động vắng vẻ, môi khẽ mấp máy, tiếng gọi thoát ra hờ hững. Bình, Bình, rồi tiếng khóc nối theo, dâng lên đột ngột, lâu dài. Bình ơi, Bình à à à. Đầu chị đổ gập xuống, bàn tay bấu chặt lớp gỗ, vai rung rung dưới lớp vải áo mưa. Tôi xốc tay vào nách nâng chị dậy. Khối thịt nặng nề mềm nhũn. Mày có thể ngủ với nó một đêm, nhưng đừng về kể với tao, tao ghét đàn bà... Nước mưa từ chót tóc chấm vào mắt cay xè. Tôi đưa cánh tay trần quệt nhanh qua. Chị Nga. Khối thịt gục xuống. Tôi lại cố nâng lên. Những bắp thịt trên cánh tay hiện rõ, hàng chữ chìm sau lớp da, tiếng khóc trên cánh tay. Ra đi vì đời. Vì đời, vì cái gì? Tôi không đủ sức để nhớ nữa. Vì, không vì cái gì cả. Bình đi, Bình à. Cánh tay chuyển rung rung theo khối thịt. Tiếng khóc văng vẳng như từ một nơi xa xôi nào đưa về, tiếng gọi lê thê đánh thức khu phố dậy. Một cánh tay tôi bám vào sườn xe, một tay giữ lấy chị Nga. Khu phố chạy dài vài ba cánh cửa mở. Vài ba người khoác áo tơi chậm chạp đi đến. Rồi những cánh cửa khác, những người khác tụ lại. Con trai, con gái, đàn ông, đàn bà, những màu áo lạnh. Những khuôn mặt ngửa ra, những đôi mắt ngước lên trong cơn mưa cuối mùa se sắt lạnh buốt. Mái tóc chị Nga bết nước phủ trùm cả mặt. Bình ơi... Bình... Có ai tên Bình giữa đám người vây quanh đó không. Bình, Bình, ai đâu đó đang mang tên Bình. Ra đi vì đời. Một cơn gió kéo mưa từ đầu phố hắt lại. Những khuôn mặt nghiêng xuống, né tránh. Nước mưa trộn với bùn đất chạy trên xe. Cánh tay tôi tê cứng giữ lấy chị Nga. Cánh tay chị Nga với thấp xuống níu vào nắp quan tài. Bình ơi, Bình ơi. Không còn ai tên Bình nữa trong đời sống này. Bình sứt, Bình vôi, Bình trà, Bình ơi, Bình à... Không có một Bình nào cả. Cánh tay lẻ loi nằm trên miệng hố đất, hàng chữ chạm nguệch ngoạc, cái đầu cháy đen, từng khoảng da tróc bày sọ trắng, chút cuống họng đủ dính vào phía dưới. Cuối cùng đời thằng Bình chỉ còn lại chừng đó chờ ngày tôi đưa hắn về. Thằng Bình thù hằn khạc nhổ bỏ đi năm nào, trở về quê cũ, thằng Bình mái tóc ngắn lởm chởm, tay áo xắn cao, đưa qua đưa lại chiếc ly không, tiếng nói nồng nặc men rượu: Mẹ, để rồi mày xem, tao đã nói rồi mà, tao không trở về nữa đâu, tao chết mày bỏ mìn vào bụng bấm cho tung bét cả đi. Và mày đã nổ tung ra, mày biết thế không Bình? Mày tan nát và tao cúi xuống nhặt nhạnh bỏ vào áo quan mang về nơi mày đã nguyền rủa bỏ đi, nơi chôn nhau cắt rốn của mày, của tao, của con Năm, thằng Vân, thằng Ý. Chị Nga đang theo về đang khóc gọi mày đó. Khu phố đang chụm lại đón mày đó, chúng đang ngửa mặt lên, đang nghe chị Nga gọi. Rồi một khoảng đất cho mày như đã cho những người khác, rồi quên lãng như người ta đã quên lãng, những người đời sống khác đang nối dài, mẹ, thế đó Bình. Thi mở cửa sau sàn xe bước lên giúp tôi dìu chị Nga xuống. Đi tránh qua một bên, chị Nga lại rời khỏi tay tôi té chụp vật ôm lấy quan tài, ba bốn cây nến còn đứng theo nhau gãy tắt lăn lóc rơi xuống sàn xe. Mặt gỗ áo quan trống trơn, những vệt sáp cháy cách khoảng. Bình ơi, Bình à... Tôi lại cố gắng nâng chị dậy, cánh tay lồng qua ngực hai chiếc vú lớn mềm nhũn, cánh tay mần sâu vào. Vốn liếng cuối cùng, gia tài thê thảm của chị còn lại đây. Thằng Vân làm cán bộ xã đã bấu mười ngón tay thèm khát vào đây rồi đi mách ồn ào, con nhỏ chịu chơi ác. Thằng Ý chủ tịch xã đã ôm lấy thân thể này trên chiếc chõng tre, và thằng Tân giáo sư dạy giờ trên trường trung học. Những vết tích nào còn lại trong vùng da thịt u ám này và tiếng khóc vang âm âm rời rã, tiếng gọi tức tưởi mù lòa. Hai bàn chân chị Nga chậm chạp đưa tới theo cánh tay tôi và Thi dìu đi. Đám người đứng giãn ra. Những đôi mắt chăm chú. Chị Nga đây. Con Nga làm đĩ, chị của thằng Bình sứt đây, có ai biết không, có còn ai nhớ không. Có ai quấn quít ôm lấy khối thịt này. Con Nga làm đĩ bỏ xứ đi ba năm mang theo xác em hắn về đây. Chị Nga vẫn cúi gập người xuống khóc gọi thảm thiết. Chị khóc cho ai bây giờ. Khóc cho thằng em ngang ngược tàn bạo đã nắm tay đấm vào mặt chị tím bầm nước mắt, khóc cho cái chết đã có sẵn từ lâu trong đời sống, khóc cho tháng ngày đã qua, cho tháng ngày còn lại, cho chị, cho tôi. Tôi nắm vai chị kéo lên, cố gắng nói:

-Thôi chị, thôi đừng khóc nữa, dầu sao chị cũng...

Tiếng nói nghẽn lại trong cổ họng. Mí mắt tôi đầy cứng bụi đất với nước mưa trên trán rửa xuống. Tôi đưa cánh tay trần quệt ngang qua. Sao tao không khóc được ngày mang mày về. Chúng ta đang mang nhau về đây. Phải trở về lại vùng đất này, dù muốn, dù không. Tất cả đã hết rồi. Chúng ta là những con thú tật nguyền khốn đốn mang vết thương về, lặng lẽ liếm vết máu mình, nằm chết. Tôi nuốt nước bọt nhắc lại câu nói và dìu chị Nga đi, đặt chị ngồi trên phần chiếc ghế dài từ trong kê thò ra ngoài mái quán ướt đầm. Những đôi mắt vây quanh xúm lại. Tôi đứng lên. Những đôi mắt tản mác bay đi, rồi lại sát vào nhau, càng lâu càng dày kín. Tôi làm sao biết được sau từng đôi mắt đó, những linh hồn ẩn náu bí mật, nhớ quên, còn mất. Đôi mắt như đá lở, như mờ tối trên những khuôn mặt chập chờn đong đưa. Đôi mắt mở ra trâng trân trên khoảng thịt da nhăn nhúm cháy đen, tóc sủi bù lại từng mảng trên lớp xương sọ phơi trắng, đôi mắt hoang vu lạ lùng treo trên cuộn thép gai trông qua bên kia sông, trông lên dãy núi đã mất tích trong mưa. Tôi đặt bàn tay vuốt xuống. Hai mí mắt đã thun lại không thể kéo cho tròng mắt. Đôi mắt còn mở ra sau lớp gò ướt đó. Cửa ngõ linh hồn, thằng Bình sứt cũng có một linh hồn, một linh hồn bưng bít hận thù. Hồn có tìm về đây không? Mày có mang về đó không Bình? Thôi, dầu sao thì sự cũng rồi. Chết là hết, nếu có còn thì quên đi mày, sức đâu nữa, yên ngủ sao cho xong. Những đôi mắt nổi quanh quất. Tiếng nói, tiếng khóc, tiếng gọi lao xao vấn vít. Tôi lồng bàn tay lạnh buốt vào ngực mình và nghe một cảm giác kỳ lạ lan khắp thân thể. Ba bốn người lính trong quán đi ra phụ với mấy người đàn ông đến sẵn, bưng chiếc quan tài xuống. Một người đứng bên cạnh hỏi lớn, ai đấy? Tôi quay qua nhìn hắn, khuôn mặt mét mét, hàng ria lún phún ngả bạc, da khô héo dán chùng vào họng thoi thóp động đậy. Tôi nói cộc lốc:

-Bình, thằng Bình.

-Bình nào kia? Hắn nhíu mặt lại một lúc. À, thằng Bình con thím Quảng phải không?

Tôi gật đầu, quay lại tìm chị Nga, chị đang ngồi gục bên trụ xi măng đầu bến. Ai đó vừa đưa đến một ly đựng gạo cắm hương, thắp hai cây nến trắng mới. Một người hỏi phía đầu xe: Thằng Bình này tôi nghe đi lính rồi mà. Thi nói vâng, lính mới đi GMC, mới chết chứ, dân thì sức mấy. Lính sao không có cờ. Cờ gì? Cờ quốc kỳ mà. Thi không trả lời, cho xe nổ máy tiến về phía trước một đoạn. Tôi tìm thuốc ướt nhàu, sợi thuốc chảy ra vừa nhàu trong túi. Tôi bóp nát ném xuống đất. Người đàn ông trở lại hỏi tôi:

_Lính sao không có cờ chú? Đây an ninh quá mà, chôn đây chớ chôn đâu. Chú Bình là người ở đây.

-Vâng, nhưng nó không có.

-Sao thế?

-Nó không thích.

Người đàn ông tỏ ý không bằng lòng, vừa thụt lùi vừa lẩm bẩm, hừ, bậy nè. Một người lính địa phương đứng bên cạnh giải thích.

-Lính Mỹ đó, Prou mà làm chi có cờ.

-Thì mình mua đắp lên cho nó dễ coi chứ.

-Dễ với khó gì, chết rồi thôi, như nhau hết.

Tôi vào quán cà phê. Con Sáu, em con Năm, đang chuyện trò cười nói gì đó với hai người lính, thấy tôi hắn đứng lên. Tôi hỏi nhanh:

-Đây có bán cờ không?

-Có, nhưng làm gì có cờ lớn phủ quan tài.

-Nhỏ cũng được.

Con Sáu quay lại kệ hàng, kéo ra một cuộn cờ vàng sọc đỏ rút đưa cho tôi một tấm lớn bằng quyển vở. Tôi cười cầm ra trải lên mặt gỗ, lấy ly hương dằn lên. Hai cây nến quằn quại cháy.


Bình sứt đã về đó, tất cả mọi ngọn lá đều rụng về cội, tất cả mọi ngọn lá đều có cội. Không có ngọn nào dưới lỗ nẻ đục lên cả. Phải không Bình, tao đã nói với mày bao nhiêu lần như thế. Bây giờ thì còn gì mà nói. Tất cả là một câu chuyện kể nửa chừng, mẹ mày bỏ dở trên chiếc chõng tre kê sau cánh cửa sổ chống lên mỗi ngày có nắng mới, bà ôm ngực ho nhìn ra vườn mỉm cười. Bà đã chết rũ rượi trên chiếc chõng tre đó. Chị Nga đã ôm thằng Ý thằng Vân quằn quại trên chiếc chõng tre đó, mày đã giẵm nát chiếc chõng, đốt lửa vào căn nhà, nhỏ máu lên vùng đất này, ra đi. Ra đi vì đời. Có phải cuộc đời đang vây quanh đây không, những khuôn mặt già yếu co quắp, giá lạnh, đốt nến thắp hương, đòi hỏi lá cờ. Người đàn ông cắm thêm nén hương mới, hỏi tôi:

-Giờ cậu tính sao đây?

Tôi cúi đầu mệt mỏi:

-Dạ, chẳng biết sao bây giờ.

-Hừ, hay chưa, sao cũng phải lo cho cậu ấy một chỗ nằm chứ không lẽ phơi mưa như thế này à?

-Giờ chắc tôi phải nhờ mấy bác chứ biết tính sao.

Chị Nga cũng chẳng hơn gì chỉ biết khóc.

Người đàn bà vồn vã hỏi:

-Đâu? Con Nga đâu?

Tôi chỉ về trụ đá nói nhỏ:

-Đó, chỉ ngồi đó kìa.

Người đàn bà đi đến, ngồi xuống bên cạnh chị. Người đàn ông nhìn tôi một lúc lâu, gật gù:

-Thôi cậu yên tâm, người dưng khác nước kia còn chưa gì huống đây cậu Bình cũng là con dân cả mà. Cậu để đó có chúng tôi, khuôn hội lo.

Người đàn ông quay lại kêu người thanh niên đứng gần đó bảo đi thuê đò, rồi sai một người khác đi báo tin cho sư cụ trên chùa biết. Tôi yên lặng trở vào quán. Con Sáu nhìn tôi hỏi Bình chết bao giờ. Tôi thờ thẫn nói hôm qua và ngồi xuống ghế đặt sát bên cửa sổ nhìn xuống dòng sông lộng gió. Tôi hỏi thuốc "Pôm-môn", con Sáu bảo có và đi lấy mang lại, đứng tựa vào cột nhà, vén tóc hất lên cao, cổ áo rộng lộ một vùng da thịt trắng lạnh. Tôi chợt hỏi:

-Dạo này chị Năm có hay về nhà không?

-Không, năm ngoái chỉ có về một lần, đường sá lúc này mà.

-Ở đâu? Năm ở đâu?

-Sàigòn.

-Sàigòn. Tôi rút điếu thuốc gắn lên miệng quẹt diêm hút.

Con Sáu vẫn chăm chăm nhìn ra ngoài. Ở đâu đó con Năm bây giờ không còn nữa ngọn tóc hoe nắng cột túm lại sau, mỗi đêm rằm đến kêu chị Nga đi chùa, đứng chuyện trò cười nói với Bình sứt trước hiên nhà. Bình sứt đã về đó, con Năm đang ở Sàigòn, con Sáu đang nhìn ra đường, tôi đang hút thuốc và chùa đang sửa soạn chôn dấu quan tài. Thế đó Bình. Tuồng cải lương đã đến hồi buồn thảm nhất, giọng người đàn ông kể lè nhè trong nắng trưa, mày ngồi nghêu ngao hát theo trước trụ sở xã. Còn gì bây giờ. Tao cũng mệt đuối sức rồi. Tôi đứng dậy trả tiền đi ra. Chị Nga vẫn cúi thấp xuống khóc gọi bên trụ đá. Bình ơi Bình à... Tiếng gọi sâu vào lòng đất trơ sần. Thằng Bình sứt đang ở một nơi nào đó trong lòng đất đang nghe chị gọi, đang quay mặt sấp lưng hằn học chửi thề, đang cảm động nước mắt lưng tròng, cúi mặt tìm về đứng im nhìn chị khóc, nhìn đám đông vây quanh, nhìn lá cờ. Bình sứt cũng có Tổ quốc, có xóm làng, có người da thịt thân yêu như ngày nào rủ tôi vào dân vệ xã, đứng đọc hàng chữ trên tường hông trụ sở. Bạn muốn làm gì cho nước, hãy vào dân vệ xã. Xa quá rồi. Có lẽ ngày mai không còn ai, kể cả tôi đủ sức để nhớ dai dẳng về một thằng Bình sứt đã vác súng trường lầm lũi đi trong phố, ngồi nhậu suốt buổi ở quán con Năm phi-dê, rồi về nhà đánh chị Nga ngất xỉu cầm tay kéo lết ra đường, ném xuống mặt sỏi la lối, gì đó, đ. mẹ bây giờ thằng nào muốn ngủ với nó thì ngủ, kéo đi chỗ khác mà nằm, nhà tao không phải nhà thổ, đ. mẹ, tao giết hết. Bình sứt không giết ai nhưng đã đánh gãy tay thăèng Ý, cầm súng rượt theo thằng Vân chạy quanh làng, về nhà lại xách chị Nga ra đánh, xé nát quần áo, chị lõa lồ nằm ôm lấy cột nhà kêu cứu. Hắn kéo ra, chị níu chặt lại, Bình sứt la hét như một con thú điên. đ. mẹ mày đĩ mà cũng trẽn à, mày có ra không. Chị Nga vẫn khóc níu chặt lấy giằng co với hắn, hắn đi lấy dầu hỏa dội lên chị, rồi mồi lửa đốt. Chị Nga hoảng hốt vùng chạy. Bình rượt theo và ném mồi lửa vào mái nhà. Lửa bốc cháy, ngọn vươn cao làm náo động cả khu phố. Dân vệ xã kéo đến tìm bắt. Bình ngồi trên chiếc ghế nhỏ ghìm súng thách đố. Tôi bước vào hắn quay súng la lớn, một bước nữa tao bắn, không tin bước thử xem, đ. mẹ cả bọn bay. Tiếng nói gầm gừ, khuôn mặt đầy mụn đỏ, đôi mắt chằm chằm sáng ngời man dã. Không ai dám đến gần nữa. Hôm sau hắn vào trả súng, bị bắt dẫn ra quận giam giữ, sau đó hơn ba tuần hắn lại trở về rồi lặng lẽ bỏ đi, ở lính đâu trên núi trên non không ai thấy mặt. Nửa năm sau có tin hắn bị đâm chết trong một quán rượu ở Sàigòn, nhưng rồi có tin hắn đang sống, đang ở lính biệt kích. Chị Nga cũng bỏ đi, theo viên thiếu úy, rồi góa bụa, lãnh tiền tử, theo một người khác vào làm sở Mỹ bị hiếp đáp, sau đó chị về Q.T, tìm Bình. Tôi đã bỏ làm dân vệ, tình cờ gặp Bình hắn rủ vào lính Prou. Hai đứa trở lại những thân yêu gần gũi cũ. Bình chạm lên tay tôi một hàng chữ như ở cánh tay hắn: Ra đi vì đời. Một hôm chị Nga đến căn cứ tìm, chị mặc áo đỏ tóc rũ dài, cười tươi. Bình đi ra nạt nộ xua đuổi rồi quày quả trở vào. Chị Nga đứng khóc kể lể với tôi. Hai chị em đi loanh quanh trong phố, chị dắt tôi về nhà chị trọ, hết chuyện này sang chuyện khác, chị nhắc đến thằng Vân trúng mìn chôn trong trụ sở, thằng Ý bị Việt Cộng về giết, thằng Tân bị bắn và mấy người chồng của chị, viên trung sĩ, viên thiếu úy. Tất cả được kể lại dửng dưng như người kể chuyện phim. Khi tôi về, Bình ngồi yên lặng trên lô cốt, tôi đến bên hắn trách móc thái độ hắn đối với chị Nga, hắn quay lại dằn giọng, tao mà chị em à, mày muốn ngủ với nó trả tiền mà ngủ đừng đặt thêm điều, tao không có chị em gì hết. Im lặng một lúc, giọng hắn trở nên rên rỉ, đay nghiến: tao dưới lỗ nẻ đục lên mà, không cha không mẹ, không có chi hết. Chị Nga đến tìm thêm hai ba lần nữa. Bình vẫn dửng dưng như không quen biết, không nhìn không hỏi. Rồi hắn bị thương, chị Nga vào bệnh viện thăm, hắn vùng dậy la hét, xua đuổi làm vết thương đã băng bó lại bung máu ra. Lần sau chị Nga vào, người ta cản đường lại sợ làm rộn bệnh nhân. Ở nhà thương ra Bình sứt được làm thường vụ đại đội ở lại căn cứ. Tôi vẫn đi đi về về, hết chuyện này đến chuyện kia. Hôm qua về ném súng vào kho, lãnh giấy phép đi ngủ ngoài, đêm Việt Cộng công đồn, Bình chết một mình trước pháo đài, thân thể nát bét, chân tay đứt ra vung vãi trộn với những tay chân khác. Năm thằng tìm được sáu cánh tay. Buổi sáng tôi vào nhặt nhạnh thu góp, xếp vào quan tài. Chị Nga nghe tin chạy đến điên dại la gọi. Tôi đứng giữ lấy nắp áo quan tài không cho chị lật ra. Không còn gì hết. Con vật nguy hiểm chui lên từ một lỗ nẻ nào đó đã chết. Nhân loại bớt một kẻ thù. Thằng Bình sứt đã rụng về cội, đã bình yên trên bốn viên đá xi măng, dưới lá cờ khổ nhỏ, ướt sũng. Bình sứt đã chết vì nước như ngày nào. Ba năm rồi Bình ơi. Mẹ mày đã nằm xuống giữa lòng cồn bãi đó với cha mày. Thằng Ý, thằng Vân, thằng Tân đã ở đó, tất cả êm đềm. Thôi quên hết đi mày, quên đi cái trần gian khốn nạn này. Chết là hết. Tôi bụm tay vuốt nước mưa trên mặt, đi vòng quanh quan tài rồi trở lại quán. Đám đông đã tản mác dần. Chị Nga ngồi bất động, hai tay ôm lấy trụ đá, nước mưa đổ thành dòng trên áo tơi. Tôi ngồi vào ghế hỏi cà phê nóng, con sáu cười gật đầu đi pha mang lại. Tôi cho một muỗng đường và quay nhanh chiếc muỗng. Một người con trai mặc áo quần xanh đi vào, kéo ghế ngồi xuống trông ra ngoài, hỏi đứa con gái mặc áo đen vàng đi vào sau:

-Người này hả?

Đứa con gái ngồi quay lưng lại phía tôi:

-Ừ, chú đó bỏ đi có ba bốn năm chi rồi đó.

Người con trai xoay xoay ly cà phê vừa được mang tới hỏi đứa con gái:

-Hiền uống gì? Rồi rút thuốc lá ra hút nhìn sang tôi.

Hiền nói nhỏ:

-Thôi gần ăn cơm rồi, uống gì nữa.

-Đêm qua thế là đánh có bốn, năm nơi kia, ồn ào quá.

Tôi uống xong gọi con Sáu đến trả tiền. Hiền quay lại hỏi:

-Nghe lính Prou chết nhiều lắm hả chú?

Tôi lắc đầu đẩy chiếc ly không về phía trước:

-Có đâu, chưa tới mười lăm mạng, khéo ồn.

Thi đi vào hỏi tôi ra hay ở lại. Tôi nói ở lại, hắn quay đi, tôi gọi theo. Thi nhảy lên ca-bin cho xe nổ máy, trở đầu lại, chạy lên cầu phà. Cơn mưa đã ngớt hẳn, số người còn lại đứng vây quanh quan tài bàn tán về những trận đêm qua, một vài đôi mắt lơ đãng ngó theo chiếc xe. Hai cây nến vật vã cháy. Người con trai nói với Hiền gì đó rồi chụm đầu lại cười. Tôi chưa hề thấy mặt hắn, có lẽ dân đâu mới tới, giọng hắn ấm vui. Hiền xoa xoa bàn tay xuống bàn cười ngặt nghẽo. Có phải đời sống này được kiến trúc trên một sắp đặt vô hình nào đó phải không. Có người sinh ra để hạnh phúc, để trò chuyện thầm thì, để ngặt nghẽo cười, và có kẻ sinh ra để la hét, chửi thề. Bình với hình ảnh người cha què cụt từ chiến tranh kháng Pháp còn lại, chống nạng lê lết tới lui rồi một ngày té xuống ao nằm chết, không rõ cố ý hay vô tình, và người mẹ ốm đau dai dẳng cho đến ngày khạc ra từng búng máu tươi, xuôi rũ tay chân. Cũng như Bình sứt, tôi không có gì cả. Cho đến ngày hôm nay tôi mới nhận thế sao? Bây giờ thì không còn mày. Tao một mình về đây. Tao mệt quá rồi. Không lẽ đợi đến một ngày chết tan nát để được mang về hoặc không được mang về đây. Mà có ai để mang tao về. Tôi đuối sức rồi. Tôi muốn yên nghỉ. Tôi muốn trở về kiến nhật lại từ đầu. Bắt đầu lại đời mình, lặng lẽ, riêng tư. Không còn mày nữa Bình. Người con trai chỉ ra quan tài hỏi:

-Anh ở một đơn vị với anh đó à?

Người con trai và Hiền cười. Tự dưng câu nói trở thành thứ khôi hài nhạt nhẽo đến trơ trẽn làm tôi bàng hoàng. Không, tôi nói lại thằng Bình trước làm đội trưởng của tôi, sau này về chết ở căn cứ. Người con trai hỏi tiếp và Hiền cười cầm chừng. Tôi càng nói càng thấy ngột ngạt chán nản và một nỗi lo sợ bâng quơ như kẻ bị lạc vào thế giới mới xa lạ, đầy dẫy những công thức ghẻ lạnh. Tôi xót xa nhớ lại đôi mắt đỏ ngầu hơi men của Bình đấm tay xuống cát la lớn: Đ. mẹ cuộc đời này. Cuộc đời mà Bình chửi, đó có phải là một đứa con trai và một đứa con gái uống cà phê, hút thuốc chuyện trò cười ngặt nghẽo, áo quần đúng mốt, tiếng nói thì thầm. Cuộc đời mà chúng ta không thể nào tham dự vào được phải không Bình. Chị Nga đã chạy theo, bị loại ngay từ vòng thứ nhất đầu ngày con gái và chúng tôi không biết làm gì hơn là chọn một thứ kẻ thù, bất lực, tàn bạo rồi lao đầu vào chiến tranh, bị đánh đổ xuống, đôi mắt trợn trừng trút xuống họng lắt lưởng. Tôi không muốn nữa. Cho tôi trở về, Bình. Tao khốn đốn quá rồi. Tôi nói nhỏ và tự dưng muốn khóc. Tao thua mày Bình ạ.

Chiếc đò đã được thuê đến. Đám đông vây tụ lại. Người đàn ông kiếm tôi và gọi chị Nga dậy. Tiếng khóc lại trỗi lên khoảng bến sông lấm bùn, những bậc tam cấp thoai thoải nghiêng xuống. Mặt nước vàng đục, bào rác táp vào bờ bập bềnh. Tôi chợt muốn nói với chị Nga một câu gì đó thật ngọt ngào nhưng chẳng biết nói thế nào. Chiếc thuyền hơi chòng chành khi quan tài được bưng xuống. Bãi cát phía dưới xa nhoi lên trên mặt nước lớn. Những cây sầu đông khô chơ vơ như ngóng đợi. Ngày Bình về. Tôi khom bước vào thuyền tay vẫn dìu chị Nga. Tôi đang trở về. Chúng ta đã ra đi từ nơi này, và giờ đang mang nhau về, phải không Bình. Chúng ta đi hết mệnh kiếp của mình. Phận sự đã hết, nhiệm vụ đã rồi. Tao còn lại một mình, một mình với ngày mai không toan liệu. Người đàn ông bước đến đổi nến, cắm thêm hương và ngồi vào mạn thuyền bắt đầu lần tràng hạt, miệng thì thầm, đôi mắt đăm đăm nhìn vào lớp gỗ ẩm nước. Xâu chuỗi láng bóng trên bàn tay khô héo run run. Một dụng cụ cho những người chết, cho cái chết? Hai chú tiểu thay mặt sư cụ đến. Tiếng cầu kinh bắt đầu trỗi lên và con thuyền tách bến xuôi theo dòng nước, táp bờ cây vắng vẻ. Nguyền vãn sinh Tây phương... Chị Nga nói trên cánh tay tôi, giọng thì thầm khàn thấp.

-Giờ chị làm sao đây nhỉ? Chắc chết thôi.

-Chị cầu kinh đi, chị còn nhớ kinh chứ.

-Thế em?

-Em à. Em ở lại đây... không đi nữa.


Chị Nga ngửng lên. Đôi mắt đỏ ngầu khuất sau làn tóc lòa xòa ướt rối và tiếng khóc như cơn mê đứt quãng, như một khúc hát lê thê trôi theo lời kinh trên dòng sông nước lớn.


Ngụy Ngữ







Ngụy Ngữ & Lê Lựu






Rừng Trầm Mai Sau
Ngụy Ngữ



Đồi 108. Những tảng đá lớn chồng kênh lên nhau, những cây đa cây sanh đầy rễ phụ nhánh cành, những hốc sâu bày ra giữa đá, những mảng rêu đen, những khoảng lá mục tụ đống, những cành cây khô gẫy, những tiếng động nhỏ, những tấm poncho căng trải. Đêm sắp tàn. Giữa hai tảng đá lớn vây che, bếp lửa đã lụn, ngọn se thấp xuống và than đỏ hừng. Trung đội, 24 giấc ngủ mịt mù những mơ mộng khuất lẫn sau lưng đời sống, giữa lá cây, trong bao nhiêu bày biện khác, không ai có thể tham dự vào ai. Có đứa nào đang mơ thấy mẹ cha, làng xóm. Mẹ thì già, cha thì yếu, vợ con thì nheo nhóc xa xôi. Tất cả đang thăm thẳm giữa hơi đất và đêm. Đêm sắp hết. Đêm bình yên hiền hậu. Vầng trăng hạ tuần mòn chếch xuống. Ánh trăng sáng trắng trên vải nhựa poncho, trên da đá ướt sương. Một thằng nào đó nói mơ, không ai nghe rõ. 5 giờ kém 5. Ngón tay đưa vươn ra khỏi cành lá rủ thấp, chỉ theo ánh trăng.

- Phương tây là phương này ?

- Ư. Phương tây.

Phương tây, trăng lặng lẽ, trăng lặn về. Ngón tay thu lại. Cành lá bất động. Yêu nhau cho đến bao giờ, vạc kêu sườn núi trăng mờ đầu non. Vạc là con chim mù, ban ngày không thấy gì cả. Câu ca dao thì thầm, khuôn mặt tối khuất, vết sẹo nào đã không còn thấy được. Thằng binh già, 19 năm lính, vết sẹo của chiến trường Điện Biên, câu ca dao của thời xa xưa lảng đảng và bóng người vợ bồng con chờ, trải dài trong trí trưởng. Một điếu thuốc mồi vào que lửa, bắt cháy, khói tỏa ra, hương thơm ấm trong sương lạnh. Bastos à ? Ừ, Bastos xanh. Cho xin điếu. Điếu thuốc, hai ngón tay kẹp cứng, đôi mắt đăm đăm trên đóm lửa mới dính vào, đang sáng lên, sáng lên theo hơi thở.

- Mấy giờ mình về ?

- Về đâu ?

- Xuống núi.

- 6 giờ.


Hai cái bóng mù. Trăng càng lâu càng nhạt loảng. Hình như có gió vừa xua động trong lá cây. Khuôn mặt ngữa lên tìm ngó. Một cành khô trơ vơ vươn dài ra, in rõ giữa nền thinh không sâu thẳm, vài ba chấm sao xa ngút. Gió rì rào dưới chân núi, trong vùng rừng dày bưng, nơi sẽ đến. Một lúc nữa, 6 giờ, những tiếng chân chập chờn ở đó, rừng bít ngạt và mùa đông chưa qua. Xuống núi, vào rừng. Vào rừng rồi đến đâu nữa. Ra lộ. Lộ, đường. Đường nhựa, đường đất, đường chông mìn, đường gập gềnh mất trí, đường không lối. Đ.m, 19 năm lính phải không? Mặt trận Điện Biên thế nào. Cái xẻng mòn, cuối mặt trận, dưới bóng cờ bay, cái xẻng chỉ còn khúc gỗ, mấy chiếc đinh đeo dính vào, cây súng hư, 6 viên đạn, xác Tây thối ình. 17 tuổi phải không? Cha mẹ chết cháy với cửa nhà, lang thang không cơm ăn áo mặc, lượm đồ hộp của lính Mỹ, bị xã bắt, quận giam, tình nghi theo du kích. 18 tuổi phải không? 30 tuổi phải không? Đằng kia thêm một thằng nữa mới dậy. Tấm poncho động đậy, cái dáng lù đù chui ra như một con thú mõi mê xanh bầm sau mùa đông dài nhịn ăn ngủ chết. Mấy giờ rồi? 5 giờ 25. Nấu gì thế? Trà? À trà. Cái ca nước đặt trên bếp lửa bắt đầu sôi. Ngụm trà nhúm đầu tay, bỏ vào, từ tốn như một kẻ hưởng nhàn. Hương trà bốc ra thơm nhè nhẹ loảng trong không khí. Thằng mới đến xin điều thuốc, trèo mỏm đá bên cạnh ngồi quẹt lửa hút, trông xuống vùng thung lũng phía dưới, hai chân bỏ thỏng đong đưa, cái bóng im nổi trên khung trời ngã bạc. Ca nước truyền tay nhau uống, đưa lên.

- Uống mày.

Trà nóng ấm rát đầu môi, trôi xuống cổ họng, ran trong lòng ngực. Hơi nóng và sự im lặng bát ngát. Ba cái bóng người va bao nhiêu bóng đá bóng cây. Những đóm lửa lập lòe nặng trĩu. Cuối tầm mắt, bên kia rừng, núi xếp thành dãy dài, vây lấp hết phía sau. Những đỉnh núi lờ mờ trên màu sáng nhạt yếu. Một đỉnh nào đó có hai khối đá dựng cao, đá hình mẹ bồng con nhìn hoài về ngã biển như chuyện kể, như thơ nhạc lưu truyền. Vọng phu. Một thằng hỏi.

- Hòn vọng phu ?

- Ừ.

Tiếng hỏi, tiếng trả lời, đôi mắt hấp háy trên khói từ ca nước bốc lên. Những ngón tay động đậy gõ vào đá theo một khúc nhạc tình cờ. Đá xếp chồng lặng lẽ, ấm dưới chỗ ngồi. Đá lớn, đá chất lên nhau. Đá chênh vênh với trăng, sương mù những người đi qua mất dấu. Tiếng sáo thu lại, thấp xuống, khoảng vắng vẻ nào hụt mở trên cao? Có con chim nào vừa tỉnh giấc, có thằng lính nào trong giấc ngủ mơ thấy vợ con, cửa nhà vôi trắng giọng cười, có đứa bé nào bật khóc dưới làng mạc xa bên kia núi, có ánh đèn nào mới đốt lên, có ai còn xuôi vạn lý? Có ai xuôi vạn ly, nhắn đôi câu giúp nàng. Nàng, người thiếu phụ của nghìn năm đó, em trở dậy rồi đó phải không: em đang mở lớn đôi mắt to đen phiền muộn đăm đăm trông ra từng ngày thấp thoáng ngoài khung cửa, hỏi thầm: Chàng về hay chưa? Vâng, có ai về để nhắn với nàng đốt lên cây hương gỗ quý. Đốt lên, bởi lẽ đó là tình yêu, là lòng anh, kẻ không về được nữa. Đó là kỷ niệm của mẹ cha từ ngày thanh bình nào thời trước, là ân sủng của thượng đế, kỳ quan của trái đất. Thương nhau. Tình yêu. Hãy đốt lên tìm gặp anh trong khói thơm, tình yêu của đời đời không ăn năn bội phản. Đốt lên và khuôn mặt tỉnh lạnh, không than khóc. Những ngàn năm đã qua nữa sẽ qua. Tiếng sáo lan xuống, vắt vào những triền đá chất dốc, trãi lên vùng rừng thẳm rộng, tràn xa, tràn ra xa tít. Cuối vùng rừng là núi, bên kia núi là biển. Biển bờ dài tắp sóng xanh. Tiếng sáo thu về gần gũi. Khuôn mặt cúi, những ngón tay trở mình. Tiếng sáo chuyện trò về những năm tháng những nước bạc, vầng trăng, thanh kiếm thần, nàng vợ trẻ, đoàn người nghe chim lạ hót lên núi phương nam, câu hỏi thúc hối: Chàng về hay chưa? Non núi đang vây quanh nàng, đứa con trai thôi khóc. Tiếng sáo ngừng lại. Những con vật lùng bùng dưới từng tấm vải căng che. Những cánh tay dụi mắt, những tiếng ngáp, thở dài. Không ai trả lời. Vầng trăng yếu dần. Khối đá còn khuất chưa thấy được. Có phải có người bồng con đứng cho đến khi hóa đá, đứng từ cuộc chiến tranh nào đó đã xa vời. Bao nhiêu cuộc chiến tranh tiếp theo.

- Tượng vọng phu có từ năm nào ?

- Ai biết.

Những động tác chập chờn giữa bóng tối, khoảng im lặng kéo dài. Ai biết. Không ai biết. Không ai còn điều gì để nói cả. Ngày tối, qua đêm, đêm, sáng, ngày. Đêm, ngày, đêm, ngày, đêm. Cứ thế. Bóng tối thì bí ẩn và ánh sáng thì khốn nạn, ngập ngụa mồ hôi. Cả hai đổ ập vào nhau trộn quánh múa máy và một lũ người không buồn cười nói, trống rỗng, tối đen. Một đêm nữa sắp qua.

Chợt thằng trên tảng đá nói cái gì đó nghe không rõ, một thằng ở dưới cầm cái que dài có buộc dây đưa lên. Ống sáo. Thằng ngồi trên đón lấy nhìn sơ qua, vuốt lau lớp sương bám, bàn tay chạy dọc thân ống. Trăng soi sáng trên lớp da tre khô bóng nhậy. Một phần lớn thời gian của đời người vô vọng chấp chới đã tụ đậu trốn ẩn vào đó, bóng loáng dần, không ai nhớ được. Những chiếc lỗ sâu hút, những ngọn lá lặng thinh, những nhánh cây vươn cao, vầng trăng phương tây buồn bã. Tiếng sáo bắt đầu. Âm thanh ru dỗ quen thuộc của đơn vị từ khi hắn đến, thay vào chỗ của những thằng đã bỏ trống. Tiếng sáo nhẹ ngắt quảng ngắn lấy đà rồi thì thầm lan trải ra, len vào từng kẽ đá, từng hơi thở. Khói thuốc, hất ngược lên ngợi ca lòng mẹ thương con. Lòng mẹ như biển khơi, như con núi. Trăng tà im nghe mẹ hát, khuya nín thở, sương lặng thinh, gió thôi đọng, nghe mẹ ru hời. Tiếng sáo và những niềm bâng khuâng trải ra chập chùng gợi nhớ. Khúc nhạc hết. Một ngụm nước trà, một khói thuốc và khúc khác.Vẫn cái âm thanh cũ, kể lể thì thầm, nối móc vào nhau rồi hất ngược lên, cao lên, cùng sao sương. Ai xuôi vạn lý, Có ai xuôi vạn lý bây giờ, đêm chưa sáng, mùa đông chưa qua, đoàn quân chưa xuống núi, những giấc ngủ còn mê muội mỏi nhừ. Hai mươi bốn con. Hôm nay có con nào trong bầy sẽ chết. Một ngày nữa, những bản án đang bầy nhầy giữa tay chân bọn thần linh lông lá, những bữa cơm gạo khô, những hạt muối, những giọt mồ hôi. Bao nhiêu đứa sẽ còn lại đến lúc trăng lên. Tiếng sáo tiếp tục, bắt đầu kể lại từ khi những ngọn núi ngây thơ chạy ra ngoài biển lớn với mắt ngóng trông. Núi trông, núi thành đảo rời, sóng vỗ thầm lời hỏi nhỏ: Chàng về hay chưa? Nàng thành đá lạnh tanh trên đỉnh cao giữa lá cây suối nguồn. Chàng về hay chưa? Chàng về hay chưa? Chưa! Chim lạ hót. Chim hót tràn lan cả trái đất, binh đao ngập ngụa máu xương người. Bao nhiêu năm Mậu Tý, chàng làm sao về. Mười chín năm lính trên đất đai này, đánh Nhật, đuổi Tây, ăn nằm trong những địa đạo Điện Biên, mặc quần áo viện trợ rộng xùng xình ngồi bó chân nghe sáo. Hai mươi tuổi bỏ học đeo dao găm chưỡi thề quen miệng. Mười chín tuổi ốm nhòng như con cá phơi khô, cây súng liên thanh dài gần bằng thân thể. Hai mươi bốn tuổi chết vợ chết con, làng cháy không cha mẹ cửa nhà. Mười tám tuổi quanh năm bị lậu, đái ra mũ đặc vàng. Làm sao mà trở về. Sáng, xuống núi, băng rừng, chới với giữa sên đỉa muỗi mòng và ngủ vùi thiếp quên dưới lớp ruồi xanh bu đậu. Những viên đạn sẽ thoát ra khỏi nòng, tiếng nổ dội chói, mắt cay và lòng không thù hận.


Khúc nhạc hết. Cây sáo gác ngang xuống vế. Ca nước trà chưa lạnh hẳn, một điếu thuốc nữa. Đêm đã qua. Những tiếng chữi thề lầm bầm xung quanh. Lửa sáng sau hốc đá, tay sưởi, mặt cúi. Lệnh truyền khẽ: thôi đi. Lệnh truyền qua miệng nhau. Đi. Ba lô, dây đạn, súng dao quàng vào vai vào hông. 6 giờ kém 5, xuống núi. Vạn lý là một vùng tưng bưng kín gù góc vô vọng rã rời. Hai mươi bốn thằng chậm chạp. Hai mươi bốn giấc ngủ vừa bay xa cùng những ảo ảnh mộng mị chập chờn mẹ cha làng xóm con vợ ruộng đồng. Đoàn người đi tới. Đá dựng đứng bên sau. Có con mắt nào trong khe kín ngó theo, biết được thằng sắp chết, muốn gọi to lên, kêu ngừng lại, khuyên trốn đi, nhưng bị ngạt chật miệng lưỡi, không thể kêu được. Con đường dốc chúi. Ngày căng rộng ra, chấp choáng trên từng lá cây. Bước tới. Vạn lý, quan san, bên đời, trong bóng gian nan. Bước, bước tới nữa đi, bước tới nữa, lặng lẽ, u mê cho một hôm nào rừng đầy hương thơm gỗ quý. Rừng trầm. Cho những bàn tay tàn úa đốt lên tưởng tiếc với lời chim ngợp trời báo tin kinh hoàng cuộc giao tranh mới, những con cháu đời sau./.


Ý Thức số 1, ngày 1 tháng 10 năm 1970


Ngụy Ngữ














Tạp văn

Vài giòng về Mường Mán (*)
Ngụy Ngữ



Vắng đi khá lâu chợt đạo diễn Hồ Quang Minh lại điện thoại cho tôi bảo vừa ở Pháp về, có ít sách báo, có mấy người bạn muốn gặp, hẹn cà phê. Sách báo điện ảnh. Mấy người bạn đều dân miền Nam du học Âu Mỹ xa gần trước năm 1975, trong số ấy có Trương Sỹ Đức, kỹ sư, hiện đang là ông giáo trung học ở Thụy Sỹ, người tôi đã vài lần gặp. Ăn sáng, cà phê, rề rà chuyện ta chuyện tây, Đức lại nhắc tới Mường Mán: Làm sao gặp ảnh? Thì ra không chỉ Đức mà cả mấy người bạn kia đều vậy: Làm sao gặp anh Mường Mán? Trước, Đức đã hỏi, nhưng khi thì Mường Mán còn ở Cần Thơ, khi thì Mường Mán đã lên Sài Gòn nhưng nhà quá xa, giờ thì không chỉ có quán gần mà còn điện thoại không thiếu. Tôi gọi, hẹn. Thẫm chiều, đúng hẹn, bên bàn rượu tất cả đủ mặt. Rượu vào lời ra. Và lời ra gần như tất cả đều là thơ Mường Mán. Họ say sưa nhắc đọc những bài thơ họ thuộc từ thời trung học xa lắc. Mường Mán ngồi lim dim gật gù nghe những người tóc hoa râm nói nhiều thứ giọng, và mang nhiều quốc tịch khác nhau ấy đọc thơ của mình.


Cách mấy hôm sau đó, tôi tình cờ gặp ông bạn nhà giáo già văn võ kiêm toàn Nguyễn Văn Dũng vừa từ Huế vào, và được anh rủ đi Đà Lạt chơi. Tại Đà Lạt, là thầy giáo võ, anh được cả trăm võ sinh nghiêm cẩn đón trong dịp thi lên đai lên đẳng, là thầy giáo văn anh được một người học trò thành đạt là ông giám đốc sở Giao thông Hứa Văn Tuấn đón. Nghe anh Dũng giới thiệu tôi, Tuấn hỏi qua chuyện phim ảnh mà rõ ràng cả anh ta và tôi chẳng thích gì rồi hỏi ngay tới người anh ta thích và biết tôi là chỗ quen thân:Anh Mường Mán dạo này sao anh? Như Đức, Tuấn là kỹ sư, thích thơ văn chỉ hơi lạ: Không rành chữ Hán nhưng Tuấn lại rành thơ Đường, thuộc hàng trăm bài, đọc đúng từng chữ cả những bài ít thấy trong các sách dịch thơ Đường.


Vừa thấy bản thảo tập thơ Mường Mán ghé đưa, tôi nhớ ngay tới Đức và Tuấn bởi đơn giản tôi mới gặp lại Tuấn. Và nhớ tới Tuấn, Đức tôi lại nhớ những người khác - những người yêu thơ Mường Mán. Khá nhiều. Với tất cả họ, thơ Mường Mán đã là một phần của tuổi thanh xuân cần được nâng niu giữ gìn của họ. Có người tới già vẫn chưa gặp Mường Mán. Có người vốn đã là bạn Mường Mán từ lâu - người là bạn trung học, đại học, bạn cùng quê, cùng xóm trọ, người là bạn lính tráng, bạn thợ thầy… Với những người quen cả Mường Mán và tôi thì gần như cứ nghe nhắc tới Mường Mán là tôi lại bị hỏi: Sao hai người thân nhau mà khác nhau quá vậy?


Thân. Đúng, Huế, nơi Hoàng Ngọc Tuấn vui vẻ bảo mọi người đều quen nhau, và Trịnh Công Sơn bảo có vẻ mọi người đều có họ hàng với nhau, tôi không nhớ tôi được quen thân với Mường Mán cũng như với nhiều người khác từ bao giờ. Chung những đường phố, những quán xá, chung bạn bè (bao nhiêu người đã chết và còn sống ở trong, ngoài nước). Chung bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu tờ báo cùng viết, bao nhiêu lần đỡ đần cho nhau qua khốn khó… Chung đến vậy không thân còn gì. Ngay trong tập thơ này Mường Mán cũng cho thấy điều ấy: Tôi là người bạn duy nhất được Mường Mán tặng thơ. Và khác, cũng vậy. Vóc dạng khác đến áo quần không thể tạm mặc nhờ. Thời trẻ, một, là tôi, thích rong ruổi; một là Mường Mán, thích yên thân cố xứ. Tuổi già, một sáng sáng vẫn bình thường cà phê thuốc lá và chiều chiều vẫn lai rai vài cốc; một, chăm bẳm theo lời bác sĩ, tránh xa thuốc lá và rượu – dù chính mình đang là ông chủ một quán ăn khá đắt khách, đó là quán Ruốc ở Phú Nhuận, nơi thỉnh thoảng tôi vẫn ghé gặp bạn bè, nơi thỉnh thoảng tới lui của Đoàn Thạch Biền, Nguyễn Khắc Nhượng, Lê Cung Bắc, Nguyễn Hồ, Nguyễn Đông Thức… Những khuôn mặt vốn quá thân thuộc từ cuối thế kỷ 20 và cả những khuôn mặt già trẻ mới toanh của thế kỷ 21: Bùi Văn Nam Sơn. Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Quốc Hưng…


Rồi, chung việc viết lách, chúng tôi lại khác nữa: Một, từ lâu vẫn coi tất cả những gì mình viết ra, dù được viết với sự cẩn thận hay cẩu thả tới đâu chăng nữa thì cũng đều đã là của hôm qua, thì nên cho qua luôn cho đỡ bận lòng; một, lại không chỉ chăm chút những cái mới viết mà còn chẳng tiếc công lật tìm sắp xếp những cái đã viết từ thời nảo thời nào.


Nhờ sự chăm chút và không tiếc công ấy của Mường Mán chúng ta đang có tập thơ này.

Nhờ có tập thơ này tôi có dịp đọc lại nhiều bài thơ cũ của Mường Mán, trong số ấy có bài Nhịp sáu tám cho mùa thu nước lũ, bài thơ được viết sau ngày cầu Trường Tiền gãy trong vụ Mậu Thân và được in lần đầu trên tờ bào rô-nê-ô của một nhóm sinh viên đấu tranh ở Huế. Nếu đặt cạnh những bài hát, bài thơ và những truyện ngắn, truyện dài của những người khác cùng viết về những ngày tháng đầy tiếng động chói chang ấy, (như Hát trên những xác người, Chuyện một chiếc cầu đã gãy, hay Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu chẳng hạn), bài thơ của Mường Mán ở hẳn một chỗ rất riêng: lạ hoắc. Có lẽ cũng vì cái lạ hoắc ấy mà chú em tôi, một ông giáo bỏ nghề, hiện đang là một nhà báo, người cùng lứa với Đức và Tuấn, đã có thể nâng ly cùng Mường Mán sang tuổi sáu mươi và đọc trọn cả bài – dĩ nhiên là hoàn toàn theo trí nhớ.


Còn tôi thì đang đọc thơ Mường Mán tặng tôi: Xuân sang chưa kịp chuyến đò. Bóng thu đông đã rợp bờ bến nhau…


(*)Trích lời tựa tập thơ Dịu Khúc của Mường Mán do Nxb Trẻ ấn hành 6/2008

Ngụy Ngữ

























Trở về










MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.