Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2022

Nguyễn Văn Tỵ (1917 - 1992)

 










Nguyễn Văn Tỵ 
(24/2/1917 - 19/1/1992)

họa sĩ 



Nguyễn Văn Tỵ (24 tháng 2 năm 1917 - 19 tháng 1 năm 1992) là họa sĩ Việt Nam và là Tổng thư ký đầu tiên của Hội Mỹ thuật Việt Nam. Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 2, năm 2001).




Tiểu sử


Ông sinh năm 1917 tại Hà Nội.Năm 1934 - 1935 ông học dự bị ở trường Mỹ thuật Đông Dương
Năm 1936 ông thi đỗ vào trường Mỹ thuật Đông Dương, học khóa 11 (1936 - 1941) cùng khóa với Hoàng Tích Chù, Nguyễn Tiến Chung, Bùi Trang Chước, Trần Văn Lắm...
1936 - 1940 ông có nhiều tác phẩm tham dự các triển lãm của Hội Việt Nam khuyến khích Mỹ thuật và Công nghệ tổ chức (SADEAI), Hội hợp tác nghệ sĩ Đông Dương tổ chức ở Việt Nam và ở cả nước ngoài như Paris (Pháp), Batavia (Indonesia), Bruxelles (Bỉ) và San Francisco (Mỹ)...
Năm 1941 ông tốt nghiệp hạng ưu với ba tác phẩm Vịnh Hạ Long - sơn mài; Hội đền Chèm - sơn mài; Trăng lên - khắc gỗ.
Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1942 ông đi vẽ ở Angkor - Campuchia (các tác phẩm sau này được trưng bày tại trụ sở Hội nghị văn hóa toàn quốc 1945 - 1946). 
Tháng 11 năm 1942 ông tổ chức triển lãm riêng lần đầu tiên tại trụ sở của nhóm FARTA (cái nôi nghệ thuật Việt Nam) gồm 32 tác phẩm sơn mài, lụa, khắc gỗ.
Năm 1943 ông đi Nhật Bản tham gia triển lãm ở Tokyo, với hai tác phẩm Nghỉ ngơi - sơn mài và Hai cô gái Mường - khắc gỗ. Dự triển lãm nhóm FARTA với ba tác phẩm về Làng Mía ở Sơn Tây (sơn dầu), Nhân vật và Vịnh Hạ Long (sơn mài)
Năm 1943 - 1944 ông làm trang trí sân khấu với đoàn kịch Thế Lữ ở Hà Nội.
Năm 1945 ông làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn hóa Cứu quốc, viết bài cho báo Tiên Phong, tổ chức triển lãm văn hóa và vẽ bức tranh cổ động Độc lập hay là chết trưng bày tại Hà Nội.
Nhân dịp kỷ niệm một năm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 năm 1946, ông tham gia Ban Tổ chức triển lãm Mỹ thuật tháng Tám trưng bày tại Nhà hát Lớn Hà Nội, và có hai tác phẩm sơn mài Chăn trâu và Nghỉ ngoài ruộng gặt. Cuối năm 1946 ông tham gia tổ chức và giảng dạy Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, sau đó đi vẽ ở mặt trận Nam tiến.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, năm 1947, ông đi vào miền Trung, làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn hóa kháng chiến Thanh Hóa và Liên khu IV, viết bài cho báo Chống giặc và Sáng tạo, vẽ tranh cổ động, trang trí sân khấu - hóa trang cho đoàn kịch kháng chiến.
Năm 1948 ông tổ chức xưởng họa Liên khu 4 và dạy lịch sử mỹ thuật và hội họa tại Phân trường Mỹ thuật Liên khu 4, biên tập và xuất bản tập san Mỹ thuật và Tạp chí Sáng tạo - cơ quan ngôn luận của Văn hóa kháng chiến Liên khu 4 (1948 - 1950). Cũng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông đi thực tế và vẽ tranh ở Chiến khu Việt Bắc (Bản Thi - Bắc Kạn, Đại Từ - Thái Nguyên), ở những làng kháng chiến Cự Nẫm, Lệ Sơn, Cảnh Dương (Quảng Bình)... Năm 1953, ông tham gia đội giảm tô và cải cách ruộng đất ở Phú Thọ. Đi vẽ tại chiến dịch Điện Biên Phủ (1954).
Hoà bình lập lại, ông trở về Hà Nội, tham gia Ban tổ chức triển lãm chào mừng Thủ đô giải phóng do Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Sau đó ông công tác tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam và tham gia hoạt động ở Hội Văn nghệ Việt Nam và Hội Mỹ thuật Việt Nam.

Ông là Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Việt Nam đầu tiên (1957 - 1958), Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam (1957 - 1958). Năm 1983 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Hội Mỹ thuật Việt Nam, ông tiếp tục được bầu vào Ban chấp hành Hội, Hội đồng nghệ thuật, Ủy viên Ban chuyên ngành Hội họa, Phó Chủ tịch Hội đồng chuyên ngành Hội họa, Ủy viên Ban chuyên ngành Lý luận phê bình khóa II (1983 - 1989); Ủy viên Hội đồng nghệ thuật Hội khóa III (1989 - 1994).
Trong suốt 55 năm công tác, ông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Hội Mỹ thuật Việt Nam cũng như sự phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại ở tất cả các lĩnh vực: sáng tác, giảng dạy và lý luận. Ông mất ngày 19 tháng 1 năm 1992 tại Hà Nội.



Sự nghiệp hội họa

Nguyễn Văn Tỵ bắt đầu sáng tác từ sớm. Từ lúc học lớp dự bị trường Mỹ thuật Đông Dương, ông đã có những sáng tác sơn dầu và lụa như Cảnh chùa và Tháp, Chân dung em gái được bày ở các cửa hàng tranh. Ông đã nhiều lần tham dự các triển lãm và giành được nhiều giải thưởng. Từ trước năm 1945, ông chuyên về tranh lụa, sơn dầu và khắc gỗ. Sau này ông chuyên về tranh sơn mài, và những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đa số đều dùng chất liệu này.

Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, mặc dù thiếu thốn nhưng ông vẫn liên tục có nhiều sáng tác mới trong đó có nhiều tác phẩm ký họa về nông dân, về bộ đội, về dân tộc Thái, các tác phẩm với chất liệu in đá, sơn mài, lụa... như Chiến lũy Ngã tư Sở, Xe cứu thương, Cầu mới (tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1948 chào mừng Đại hội Văn nghệ Việt Nam), tác phẩm Bộ đội giã gạo, Vùng biển Cảnh Dương - lụa, Lão chài - sơn mài (Triển lãm Hội họa 1951 tại Chiêm Hóa - Tuyên Quang)... Ông còn viết nhiều bài báo, các bài nghiên cứu về mỹ thuật.[1]

Trong những năm tháng hoạt động mỹ thuật ở miền Bắc (1954 - 1975), ông đã có nhiều tác phẩm mới trưng bày tại nhiều triển lãm lớn: Nông dân kể khổ - sơn mài, Cấy ở Tây Bắc, Khu tự trị Việt Bắc - lụa, tranh cổ động Chị Vân tố cáo vụ Thảm sát Hướng Điền (Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1955), Hữu nghị - sơn mài, Xô viết Nghệ Tĩnh (đồng tác giả) - sơn mài (1957), Nhà tranh gốc mít - sơn mài, Du kích Bắc Sơn - sơn mài (Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1958), Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội, Mùa gặt ở Thanh Hóa, Nhà tranh gốc mít (Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 1960). Một số tác phẩm của ông đã được chọn tham dự triển lãm 12 nước Xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu (1960). Sau đó ông tiếp tục sáng tác nhiều tác phẩm khác như: Em bé đọc sách, Căm thù - sơn mài, Phong cảnh Chợ Chu (Cánh đồng Chợ Chu) - sơn dầu (1960), Bắc Nam thống nhất, Biển ở Vĩ tuyến 17 (1961)... Ông đã nhiều lần đi thực tế tại khắp nơi trên cả nước và Lào, tham gia Chiến dịch Tây Nguyên (tháng 3/1975) và Chiến dịch Hồ Chí Minh (tháng 4/1975). Với những tư liệu ký họa thời kỳ kháng chiến chống Pháp và qua các chuyến đi thực tế, họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ đã sáng tác nhiều tác phẩm sơn mài, lụa, tranh khắc: Mùa lúa chín - lụa, Du kích mũ nan - khắc gỗ (Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ họa Leipzig 1965), Hai đội quân gặp nhau - sơn mài (1968), Du kích Cửa Tùng, Địa đạo Vịnh Mốc, Bên bờ Nhật Lệ (1969), Ra đảo (1971), Đêm Noel Hà Nội 1972 (1973)...[1]

Sau khi thống nhất, cùng với nhiều họa sĩ trong cả nước, ông tập trung sáng tác nhiều tác phẩm dựa trên những ký họa, những ký ức của các chuyến đi thực tế từ thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ. Về chất liệu sơn mài có các tác phẩm: Vịnh Hạ Long, Chiến dịch Điện Biên Phủ (1980), Ngày vui (1983), Hạ Long, Đường làng, Chợ Bờ, Mèo (1984), Bên dòng Mê Kông (1985), Hai cô Mường (1986), Hội đánh cồng (1987), Làng Mỗ (1988), Phong cảnh miền núi (1989), Phong cảnh Tây Nguyên, Phong cảnh (1991). Về chất liệu sơn dầu: Ngày vui, Cảnh Pắc Bó tham dự triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1976. Về chất liệu lụa có: Bác Hồ ở Pắc Bó (1978), Lưới Hải Vân, Mưa giông, Cấy lúa, Bàn đá chông chênh (1981), Hồi tưởng (1988) [1].

Các tác phẩm hội họa, đồ họa của họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ thể hiện bút pháp khỏe khoắn, hình họa chuẩn xác, bố cục khái quát, phóng khoáng với những tìm tòi thể nghiệm tạo nên bản sắc riêng.[1] Ngoài ra ông còn vẽ bộ tem Hữu Nghị Quan nhân kỷ niệm quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1965).[2]

Ngoài công việc sáng tác, ông còn là nhà lý luận, phê bình mỹ thuật với nhiều bài viết được đăng trên các báo. Ông đã viết khoảng 200 bài được công bố bằng giáo trình hay tham luận khoa học. Ông đã giảng dạy, đào tạo nhiều thế hệ họa sĩ trong thời kì kháng chiến chống Pháp và thời gian giảng dạy tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (1956 - 1970). Ông còn soạn nhiều giáo trình phục vụ công tác giảng dạy, đặc biệt cuốn sách Bước đầu học vẽ (Nhà xuất bản Văn hóa, 1963, tái bản 3 lần) là một giáo trình cẩm nang hội họa có giá trị.

Tác phẩm Nam Bắc một nhà (1961) cùng với Hội chùa (Lê Quốc Lộc, Nguyễn Văn Quế, 1939), hai trong các tác phẩm sơn mài tiêu biểu của Việt Nam, là hai bức tranh được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam phục chế lại năm 2006.[3]



Tác phẩm tiêu biểu


Hai Cô Mường - khắc gỗ in trên lụa (76 x 45), 1940
Nhà tranh gốc mít - sơn mài (67 x 105), 1958
Du kích Bắc Sơn - sơn mài (86 x 121), 1958
Thiếu nữ và biển - sơn mài (96 x 94), 1960
Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội - sơn mài (100 x 180), 1960
Nam Bắc một nhà - sơn mài (86 x 566), 1961
Đêm Noel Hà Nội 1972 - sơn mài (100 x 150), 1973
Chợ Bờ - sơn mài (60 x 90), 1984
Phong cảnh - sơn mài (150 x 240), 1991



Tặng thưởng

Huy chương Vàng triển lãm SEDEAI năm 1937
Huy chương ngoại hạng triển lãm SEDEAI năm 1939
Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ họa Leipzig 1965
Huy chương Đồng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1995
Huân chương Kháng chiến hạng Nhì
Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất
Huân chương Độc lập hạng Ba (12/1988)
Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam, Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật (2001)[4]



Tham khảo


^ a b c d Họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ Lưu trữ 2008-04-26 tại Wayback Machine - Trần Khánh Chương.
^ “Khi họa sĩ nổi tiếng Việt Nam vẽ tem”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2008.





Theo Wikipedia








Hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ – Tổng thư ký đầu tiên của Hội Mỹ Thuật Việt Nam

Viet My




Năm sinh: 24/02/1917 tại Hà Nội
Năm mất: 19/01/1992 tại Hà Nội
Phong cách nghệ thuật: Tranh lụa, sơn dầu, khắc gỗ và đặc biệt là tranh sơn mài
Các tác phẩm chính: Hai Cô Mường – khắc gỗ in trên Lụa, Nhà tranh gốc mít – sơn mài , Du kích, Bắc Sơn – sơn mài, Thiếu nữ và biển – sơn mài, Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội – sơn mài, Nam Bắc một nhà – sơn mài, Đêm Noel Hà Nội 1972 – sơn mài, Chợ Bờ – sơn mài, Phong cảnh – sơn mài.

Họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ được sinh ra ở đất Hà thành. Ông tốt nghiệp Trường Mĩ thuật Đông Dương khoá XI (1936 – 1941) và là hội viên ngành hội hoạ Hội Mĩ thuật Việt Nam từ 1957. Nguyễn Văn Tỵ bắt đầu sáng tác từ sớm. Từ lúc học lớp dự bị trường Mỹ thuật Đông Dương, ông đã có những sáng tác sơn dầu và lụa như Cảnh chùa và Tháp, Chân dung em gái được bày ở các cửa hàng tranh. Ông đã nhiều lần tham dự các triển lãm và giành được nhiều giải thưởng. Từ trước năm 1945, ông chuyên về tranh lụa, sơn dầu và khắc gỗ. Sau này ông chuyên về tranh sơn mài, và những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đa số đều dùng chất liệu này. Hội đồng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đã nhận xét: Tác phẩm chính của hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ là những tranh sơn mài đẹp, với màu sắc trầm ấm và lộng lẫy của chất liệu sơn mài. Hoạ sĩ đã có nhiều năm nghiên cứu sơn mài với tình cảm quê hương sâu đậm.

Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, mặc dù thiếu thốn nhưng ông vẫn liên tục có nhiều sáng tác mới trong đó có nhiều tác phẩm ký hoạ về nông dân, về bộ đội, về dân tộc Thái, các tác phẩm với chất liệu in đá, sơn mài, lụa… như Chiến luỹ ngã tư sở, Xe cứu thương, Cầu mới (tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1948 chào mừng Đại hội Văn nghệ Việt Nam), tác phẩm Bộ đội giã gạo, Vùng biển Cảnh Dương – lụa, Lão chài – sơn mài (Triển lãm Hội hoạ 1951 tại Chiêm Hoá – Tuyên Quang)…

Trong những năm tháng hoạt động mỹ thuật ở miền Bắc (1954 – 1975), ông đã có nhiều tác phẩm mới trưng bày tại nhiều triển lãm lớn: Nông dân kể khổ – sơn mài, Cấy ở Tây Bắc, Khu tự trị Việt Bắc – lụa, tranh cổ động Chị Vân tố cáo vụ Thảm sát Hướng Điền (Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1955), Hữu nghị – sơn mài, Xô viết Nghệ Tĩnh (đồng tác giả) – sơn mài (1957), Nhà tranh gốc mít – sơn mài, Du kích Bắc Sơn – sơn mài (Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1958), Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội, Mùa gặt ở Thanh Hoá, Nhà tranh gốc mít (Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 1960).

Một số tác phẩm của ông đã được chọn tham dự triển lãm 12 nước Xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu (1960). Sau đó ông tiếp tục sáng tác nhiều tác phẩm khác như: Em bé đọc sách, Căm thù – sơn mài, Phong cảnh Chợ Chu (Cánh đồng Chợ Chu) – sơn dầu (1960), Bắc Nam thống nhất, Biển ở Vĩ tuyến 17 (1961)… Ông đã nhiều lần đi thực tế tại khắp nơi trên cả nước và Lào, tham gia chiến dịch Buôn Ma Thuột và chiến dịch Hồ Chí Minh (tháng 3/1975). Với những tư liệu ký hoạ thời kỳ kháng chiến chống Pháp và qua các chuyến đi thực tế, hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ đã sáng tác nhiều tác phẩm sơn mài, lụa, tranh khắc: Mùa lúa chín – lụa, Du kích mũ nan – khắc gỗ (Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ hoạ Leipzig 1965), Hai đội quân gặp nhau – sơn mài (1968), Du kích Cửa Tùng, Địa đạo Vịnh Mốc, Bên bờ Nhật Lệ (1969), Ra đảo (1971), Đêm Noel Hà Nội 1972 (1973)…

Sau khi thống nhất, cùng với nhiều hoạ sĩ trong cả nước, ông tập trung sáng tác nhiều tác phẩm dựa trên những ký hoạ, những ký ức của các chuyến đi thực tế từ thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ. Các tác phẩm hội hoạ, đồ hoạ của hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ thể hiện bút pháp khoẻ khoắn, hình hoạ chuẩn xác, bố cục khái quái, phóng khoáng với những tìm tòi thể nghiệm tạo nên bản sắc riêng. Ngoài ra ông còn vẽ bộ tem Hữu Nghị Quan nhân kỷ niệm quốc khánh nước CHND Trung Hoa (1965).

Ngoài công việc sáng tác, ông còn là nhà lí luận, phê bình mỹ thuật với nhiều bài viết được đăng trên các báo. Ông đã viết khoảng 200 bài đã được công bố bằng giáo trình hay tham luận khoa học. Ông đã giảng dạy, đào tạo nhiều thế hệ hoạ sĩ trong thời kì kháng chiến chống Pháp và thời gian giảng dạy tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (1956-1970). Ông còn soạn nhiều giáo trình phục vụ công tác giảng dạy, đặc biệt cuốn sách Bước đầu học vẽ được (Nhà xuất bản Văn hoá, 1963, tái bản 3 lần) là một giáo trình cẩm nang hội hoạ có giá trị.



Bên cạnh đó, ông cũng là một nhà giáo đào tạo nhiều thế hệ hoạ sĩ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã mở các lớp vẽ thiếu nhi từ 9 – 10 tuổi, cho các em nông thôn và thành thị ở Quần Tín Thanh Hoá (1947 – 1950), phụ trách phân trường Cao đẳng Mỹ thuật và xưởng hoạ liên khu 4; dạy trường Cao đẳng Mỹ thuật ở Việt Bắc (1951), mở lớp dạy vẽ ở Đồng Hỷ Thái Nguyên tháng 8/1952. Từ năm 1956 đến năm 1970 ông là giảng viên của trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, tham gia giảng dạy từ khoá đầu tiên mang tên Tô Ngọc Vân, đến các khoá Đại học mỹ thuật sau này. Ông còn đảm nhiệm các chức vụ Trưởng phòng giáo vụ, Trưởng khoa hội hoạ của trường.

Ông cũng là người viết nhiều giáo trình về Mỹ thuật để phục vụ cho công tác giảng dạy: Giáo trình Mỹ thuật cấp Đại học (1945 – 1946) cho trường Cao đẳng mỹ thuật khi mới được thành lập lại sau cách mạng tháng Tám; Giáo trình về Lịch sử Mỹ thuật thế giới đã giảng ở 4 khoá Văn nghệ kháng chiến ở Liên khu 4 từ năm 1947 đến năm 1950; Giáo trình nghệ thuật trang trí tư liệu giảng dạy trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam (1961). Đặc biệt cuốn sách Bước đầu học vẽ được Nhà xuất bản Văn hoá in năm 1963 và được tái bản 3 lần vào các năm 1968, 1975, 1984. Ông là một trong những hoạ sĩ tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương có công lao đào tạo nhiều thế hệ hoạ sĩ góp phần cho sự phát triển nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại. Nhiều học sinh của ông sau này đã giành được nhiều giải thưởng cao tại các triển lãm mỹ thuật toàn quốc, triển lãm mỹ thuật lớn ở trong nước, và nước ngoài và được trao tặng giải thưởng Nhà nước.

Hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ là một nhà hoạt động xã hội, tham gia Hội văn hoá Cứu quốc từ năm 1945, tham gia hoạt động trong các tổ chức văn hoá ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp: Uỷ viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1957 – 1958). Tại Đại hội thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam từ ngày 26 đến ngày 29/3/1957 ông được bầu vào Ban chấp hành, được bầu làm Uỷ viên Ban thường vụ và giữ chức Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1957 đến năm 1958. Năm 1983 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Hội Mỹ thuật Việt Nam, ông tiếp tục được bầu vào Ban chấp hành TW Hội, Hội đồng nghệ thuật TW Hội, Uỷ viên Ban chuyên ngành Hội hoạ, Phó chủ tịch Hội đồng chuyên ngành Hội hoạ, Uỷ viên Ban chuyên ngành Lý luận phê bình khoá II (1983 – 1989); Uỷ viên Hội đồng nghệ thuật TW Hội khoá III (1989 – 1994). Trong suốt 35 năm công tác Hội ông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Hội cũng như sự phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Ông mất ngày 19/1/1992 tại Hà Nội.

Tặng thưởng:

• Huy chương Vàng triển lãm SEDEAI năm 1937
• Huy chương ngoại hạng triển lãm SEDEAI năm 1939
• Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ hoạ Leipzig 1965
• Huy chương Đồng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1995
• Huân chương kháng chiến hạng Nhì
• Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng I
• Huân chương Độc lập hạng Ba (12/1988)
• Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam, Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
• Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật (2001)






Một số tác phẩm của Họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ



“Hội đình Chèm” 1942, 5 tấm, 98x245cm tại phiên đấu giá Indochine, mythes et réalités (Đông Dương, huyền thoại và hiện thực) của nhà đấu giá Drouot ngày 22/9/2020 tại Paris đạt mức 974,000 USD (~22,6 tỉ VND)






“Xô viết Nghệ Tĩnh” 1957, sơn mài (đồng tác giả với 5 người khác)






“Thiếu nữ trong vườn” sơn mài






Tranh minh họa cho câu thơ truyện Kiều 
“Quá chiều nên đã chán chường yến anh”







“Nhà tranh gốc mít” 1958, sơn mài





“Bắc Nam một nhà” 1961, 86x56cm, sơn mài
Một số hình ảnh của Họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ






VIDEO

HỌA SĨ NGUYỄN VĂN TỴ (1917 - 1992) - TỔNG THƯ KÝ ĐẦU TIÊN CỦA HỘI MỸ THUẬT VIỆT NAM.












Trở về




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.