Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022

Lê Thiết Cương (1962 - 2025)

 









Lê Thiết Cương
(1962 - 2025)
hưởng thọ 63 tuổi
Họa sĩ 








LÊ THIẾT CƯƠNG
Sinh năm 1962 tại Hà Nội

Bố là Lê Nguyên – Nhà viết kịch bản cho phim, nhà biên kịch và nhà thơ.
Mẹ là Đỗ Phương Thảo – nhà quay phim
1973-1980 Học trung học tại Hà Nội nhưng không theo học một trường lớp nghệ thuật chính thống nào
1980-1984 Tham gia quan đội, vẽ bản đồ và làm nông trong vụ thu hoạch lúa
1985-1990 Theo hoc trường Cao Đẳng Điện Ảnh tại Hà Nội. Học thiết kế trong vòng 2 năm và làm phim hoạt hình trong 3 năm cuối
1987 Triển lãm cá nhân tại Hà Nội
1990 Bắt đầu nghiên cứu về Đạo Phật Tây Tạng và cho ra đời một loạt tranh ảnh hưởng bởi tư tưởng này



TRIỂN LÃM:

1991 Triển lãm cá nhân tại Nhà triển lãm, Hà Nội, Việt Nam
1992 Triển lãm cá nhân tại Nhà triển lãm, Hà Nội, Việt Nam
1993 Triển lãm cá nhân tại Nhà triển lãm, Hà Nội, Việt Nam
1995 Triển lãm cá nhân mang chủ đề “Con đường yên tĩnh” tại phòng tranh Plum Blossoms ở Hồng Kong và Singapore
1996 Triển lãm nhóm mang chủ đề “ Độc lập” tại phòng tranh Nam Son, Hà Nội
1997 Triển lãm nhóm mang chủ đề”Một thoáng Hà Nội” tại phòng tranh Đức Minh, thành phố Hồ Chí Minh
Triển lãm nhóm mang chủ đề “Họa sĩ trẻ Việt Nam” tại trung tâm Wallonie Bruxelles, Paris, Pháp
Triển lãm nhóm mang chủ đề “Nghệ thuật Việt Nam sau thời kỳ mở cửa” tại trung tâm quốc tế Meridia,Washington D.C, Mỹ
1997 Triển lãm cá nhân “Thay đổi tầm nhìn” tại phòng tranh Plum Blossoms ở Hồng Kong và Singapore
1998 .Triển lãm “Việt Nam thời kỳ mới” tại phòng tranh Andy Jilien, Zurich, Thụy Sỹ
1999 Triển lãm “Tầm nhìn” tại phòng tranh Plum Blossoms, Hong Kong và Singapore
2000 Triển lãm “Đường tới thiên cảnh” tại phòng tranh Ancient, thành phố Hồ Chí Minh,Việt Nam
Triển lãm “Ngoài tầm nhìn” tại phòng tranh 55, Bangkok, Thái Lan
2002 Triển lãm “Cách duy nhất” tại phòng tranh 55, Bangkok, Thái Lan
2003 Triển lãm “Phi ngôn ngữ” tại phòng tranh Plum Blossoms NewYork., Mỹ
2004 Triển lãm “Cận cảnh Việt Nam” tại phòng tranh Gajah, Thái Lan
2005 Triển lãm “Cảm hứng từ bài thơ của Basho” tại phòng tranh Singhendo, Tokyo, Nhật Bản
Triển lãm “Gặp gỡ chính mình”tại phòng tranh 55, Bangkok, Thái Lan
2006 Triển lãm “Rồng và Bướm II” tại Vittoriano, Roma, Ý

Ông qua đời ngày 17/7/2025 vì bạo bệnh
Hưởng thọ 63 tuổi











Họa sĩ Lê Thiết Cương sinh năm 1962, tốt nghiệp trung học năm 1984 và tham dự khóa học của trường Sân khấu – Điện ảnh Việt Nam ở Hà Nội những năm 1985-1990. Lê Thiết Cương là cái tên không xa lạ trong giới hội họa, là một trong số ít những người sống được, thậm chí là giàu có với nghề ở Việt Nam. Thế nhưng với rất nhiều người, nhiều giới khác, Lê Thiết Cương không chỉ là một họa sĩ thành công, mà con người này còn “nổi tiếng” ở rất nhiều mặt, đôi khi chẳng giống ai.

Nói đến Lê Thiết Cương, người ta thường nhắc đến 2 từ “nghệ sĩ”, bởi Lê Thiết Cương có phong cách sống rất “nghệ”, mà hội họa chẳng bao giờ là ham thích duy nhất của anh. Là người có đời sống dư dả, nhưng không thấy Lê Thiết Cương mua đất dựng nhà sàn, làm trang trại, xây biệt phủ… như các ông bạn họa sĩ khác. Anh rất khoái sưu tập đồ cổ, đồ lạ. Mà những thứ đồ ấy đừng có dễ nhìn, dễ hiểu, cầu kỳ, mềm mại, nuồn nuột… phải giản dị, đẹp theo kiểu sần sùi, gai góc và thật, thật như chính con người anh, như cuộc sống đang chuyển động chung quanh vậy. Bấy lâu, thấy nghệ sĩ Lê Thiết Cương ngày càng “dấn sâu” vào viết lách, hết truyện ngắn sang viết báo, lại đến làm kịch bản phim. Hỏi thì anh trả lời, vừa thật thật, vừa vui vui:

“Cái sự viết của tôi thực ra là những bài báo ngắn về văn hoá nghệ thuật, trong đó chủ yếu là hội hoạ chứ không có ý định “dấn sâu”, “dấn nông” gì. Viết với tôi là cách tự học. Đến một lúc nào đó thì chắc ai cũng thấy rằng không thể chỉ vẽ mãi bằng tay được“.

Lê Thiết Cương chính là chủ nhân của gallery 39A Lý Quốc Sư, Hoàn Kiếm, Hà Nội, cũng là nơi ở hiện tại của gia đình anh. Không gian sống là nơi phản ánh văn hóa, thẩm mỹ và phong cách sống của chủ nhân, và điều này đặc biệt đúng với căn nhà mà Lê Thiết Cương đang sở hữu. Ngôi nhà nằm trên mặt phố Lý Quốc Sư, chỉ cách Nhà Thờ Lớn vài bước chân. Nó thường xuyên đóng kín cửa mỗi dịp không có triển lãm hay các sự kiện nghệ thuật và sẵn sàng đón nhận những người bán hàng rong vỉa hè không chút cằn nhằn.

Tất cả diện tích dùng để treo tranh, hoặc ảnh và đặt các tác phẩm sắp đặt. Khó định giá được ngôi nhà có kiến trúc tuyệt đẹp nằm ở khu đất vàng, trong giới kháo nhau ít nhất nó cũng phải đáng giá 10 triệu USD (chừng 230 tỷ đồng). Toàn bộ tầng 1 của căn nhà được dành để treo tranh của Lê Thiết Cương cũng như những món đồ gỗ, đồ gốm cổ anh sở hữu.

Với nội lực sáng tạo dồi dào, Họa sĩ Lê Thiết Cương còn tham gia nhiều lĩnh vực khác, như gốm, làm sách, viết báo… Tuyên ngôn nghệ thuật của anh, dù là hội họa, điêu khắc, hay thiết kế đều đề cao sự tối giản, cô đọng, súc tích. Cố gắng thật ít lời mà vẫn diễn tả được nhiều nhất. Cố gắng “nói” ít nhất, nói bằng cách không nói, bằng “vô ngôn”.

“Tối giản là tôi, tôi là tối giản. Nói cách khác, tối giản là cá tính cốt tử của tôi, là ADN, là vân tay của tôi, là người nào của ấy, là “căn cước” của tôi.” – Lê Thiết Cương.




Một số tác phẩm của họa sĩ Lê Thiết Cương





Tác phẩm “Cầu” của họa sĩ Lê Thiết Cương






Tác phẩm “Mẹ” của họa sĩ Lê Thiết Cương, chất liệu sơn dầu


Triển lãm hội họa “Lê Thiết Cương và Bạn” vào tháng 07/2018 đã trưng bày 20 tác phẩm của 8 tác giả. Trong đó có bức “Mẹ”, chất liệu sơn dầu, mà tác giả Lê Thiết Cương rất tâm đắc. Họa sĩ kêu gọi những người bạn của mình tham gia triển lãm gồm 18 tác phẩm sơn dầu và 2 tác phẩm mực nho trên giấy. Triển lãm dành tặng 60% từ việc đấu giá cho Quỹ từ thiện Những trái tim ấm áp (Warm Hearts). Trong khu vực triển lãm còn cho đặt hòm từ thiện “Quỹ trái tim ấm áp” – “Dù chỉ với 5.000, 10.000 nhưng ai đến với buổi đấu giá cũng được làm việc thiện.” – anh chia sẽ.

Lê Thiết Cương là một trong số ít những họa sĩ dám bày tỏ tiếng nói riêng và quan điểm nghệ thuật của mình với sự thay đổi chuyển mình lớn nhỏ trong khắp các công trình nghệ thuật trên cả nước. Nhưng hơn ai hết Lê Thiết Cương được sống đúng với những gì mình mong muốn và được cống hiến cho nghề; chừng ấy là đủ cho mục tiêu mà mỗi người chúng ta đều hướng tới.

Họa sĩ Lê Thiết Cương đã có 30 năm theo đuổi phong cách hội họa tối giản, từ 1988 đến nay, thực hành và thể nghiệm qua nhiều nhánh rẽ khác nhau: đậm nhạt, hòa sắc, hình và nét…

Ông là một nghệ sĩ đa tài với năng lực tiếp cận ở nhiều lĩnh vực: hội hoạ, nhiếp ảnh, điêu khắc, kiến trúc và design, đã tham gia nhiều cuộc triển lãm trong và ngoài nước, và cũng là giám tuyển của nhiều triển lãm uy tín. Tác phẩm của ông có trong sưu tập của Bảo tàng Quốc gia Singapore.

















Họa sĩ Lê Thiết Cương:
Vẽ chính là trải nghiệm sống


(HNMCT) - Họa sĩ Lê Thiết Cương từng tâm sự rằng, đầu tiên anh theo phong cách tối đa, cách thể hiện trên tranh không thừa một chi tiết nào. Thế nhưng, người thầy của anh - nhà thơ Đặng Đình Hưng đã phát hiện ra “hạt tối giản” trong tố chất của anh. Không định trước con đường này, nghệ thuật tối giản đến với anh một cách tự nhiên. Không chỉ tối giản trên tranh, anh còn đưa phong cách hội họa tối giản lên gốm, thổi cho gốm một hình dáng khác, linh hồn khác.



- Thưa họa sĩ Lê Thiết Cương, không chỉ thành công với các tác phẩm tranh bột màu, sơn dầu, anh còn “đắm đuối” với gốm?

- Cách đây 5 năm, tôi đã làm triển lãm “Thơ Gốm”. Tôi chọn câu thơ của các nhà thơ mà tôi yêu thích và viết lên trên lọ gốm Bát Tràng, kèm theo hình minh họa cho câu thơ đó. Sau đó, vào năm 2020 tôi lại có một triển lãm khác về gốm với chủ đề “Kinh gốm”. Tôi đã chọn những câu thơ thiền nổi tiếng chủ yếu từ thời Lý - Trần và viết lên trên lọ gốm, kèm theo đó là hình minh họa. Ngoài gốm Bát Tràng, tôi có thêm vào các sản phẩm gốm Hương Canh, gốm Phù Lãng, gốm Thanh Hà (một làng gốm ở ngoại ô Hội An, Quảng Nam). Những câu thơ của Trần Nhân Tông, Trần Thái Tông và một số câu thơ của Nguyễn Du đã đi vào những sản phẩm gốm của tôi như vậy.

- Có vẻ như họa sĩ Lê Thiết Cương nung nấu ý muốn đưa một dáng hình mới của gốm vào cuộc sống hiện đại?

- Đó vẫn luôn là công thức muôn đời, bởi nếu không đi theo con đường ấy thì nghề thủ công mỹ thuật của người Việt sẽ chết. Cho dù là một làng gốm lâu năm, có truyền thống thì nếu anh vẫn làm những cái lọ, cái vại như ngày xưa, với những họa tiết như thế sẽ không đi được vào đời sống hiện đại. Tôi tận dụng đất tốt nhất của Bát Tràng, lửa hay nhất của Bát Tràng, nước của làng Bát Tràng... Bạn chỉ nên lấy truyền thống ấy, tay nghề ấy, nguyên liệu ấy, kỹ thuật ấy nhưng bạn phải thổi vào đấy một câu chuyện mỹ thuật hiện đại thì nó mới có thể sống được trong đời sống hôm nay. Ví dụ, trong một ngôi nhà được thiết kế hiện đại, bạn không thể đưa một lọ gốm với các họa tiết rồng phượng. Điều đó không phải là không hay nhưng nó là một giá trị đã qua. Và không chỉ với gốm, nghề đúc đồng, mây tre đan, khảm trai, sơn mài... cũng thế. Tôi luôn luôn ghi nhớ và luôn ủng hộ tuyệt đối công thức ấy: Nguyên liệu, kỹ thuật là truyền thống, mỹ thuật phải hiện đại.

- Vậy còn dự định sắp tới của anh với gốm thì sao?

- Tôi dự định tổ chức triển lãm tranh và gốm với chủ đề “Kiều”. Đó là 24 bức tranh bột màu trên vải màn, được bồi trên giấy dó, cộng thêm 20 lọ gốm Bát Tràng, với những câu thơ khá quen thuộc như “Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”, hay “Lạ gì bỉ sắc tư phong/ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” được viết trên lọ gốm kèm theo hình vẽ minh họa. Hoặc là hình ảnh nàng Kiều chơi đàn: Lần đầu tiên cho Kim Trọng, lần thứ hai phải chơi cho vợ chồng Thúc Sinh - Hoạn Thư, lần thứ ba phải chơi theo sự ép buộc của Hồ Tôn Hiến với câu thơ mà nhiều người biết: “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”... Vẽ được những hình ảnh đó lên lọ gốm cũng là một quá trình thú vị. Muốn vẽ Kiều, tôi phải đọc đi đọc lại nhiều lần "Truyện Kiều", đọc cả những bình luận về Kiều của các nhà nghiên cứu tên tuổi... Tôi cũng phải đến các đình, chùa để xem hoa văn, họa tiết, các nét chạm khắc...

- Trong hành trình sáng tạo của mình, anh từng chia sẻ: Người họa sĩ không chỉ vẽ mãi bằng tay mà phải tìm thấy lòng mình thì mới có nghệ thuật?

- Đến một giai đoạn của cuộc đời thì vẽ chính là trải nghiệm sống. Một người vừa tốt nghiệp đại học vẽ khác, còn khi 60 tuổi thì vẽ khác. Các cung bậc cảm xúc: Buồn - vui, hạnh phúc - đau khổ... cũng là nguyên liệu. Nhiều khi tôi vẽ bằng ký ức, hồi niệm. Bạn phải sống với mọi cung bậc tình cảm, cảm xúc của con người. Nhìn tranh sẽ biết ngay người đó như thế nào. Bởi cũng chỉ có từng ấy màu, từng ấy giấy, bút nhưng người có trải nghiệm sống, có tình cảm thì cách dùng màu của họ cũng khác.

- Cho đến thời điểm này, nếu nói về con đường hội họa tối giản của mình, anh có thể khái quát trong cụm từ nào?

- Tối giản là một đại lộ mà mỗi người phải tìm ra được một phố, ngõ, ngách cho riêng mình. Cũng giống như khi chúng ta nói về hội họa trừu tượng, cũng là một đại lộ. Con đường của tôi là hội họa tối giản - thiền. Bởi vì thiền là vô ngôn, nói thật ít hoặc không có gì để nói. Tôi tự nhận hội họa tối giản của tôi gần với mỹ học thiền.

- Trân trọng cảm ơn họa sĩ Lê Thiết Cương!

BẢO TRÂN
































































Lê Thiết Cương, sống - vẽ - viết



Tôi với anh ngồi trong phòng khách của anh gần như suốt một buổi chiều. Tôi cần anh giúp trả lời rất nhiều câu hỏi mà tôi đặt ra, để có một bài báo. Đấy là công việc của tôi. Nhưng tôi đã được anh tặng cho nhiều hơn một bài báo.
Họa sĩ Lê Thiết Cương kể chuyện nhà, chuyện người và chuyện của một thời

Hoạ sĩ Lê Thiết Cương vừa có cuộc triển lãm cá nhân tại Sài Gòn mang tên Duyên. Anh rất ít khi triển lãm cá nhân, có lẽ một phần đơn giản vì anh có một gallery tại Hà Nội, nằm trên một con phố cổ ngay gần nhà thờ Lớn. Những gì anh tâm đắc nhất đều được bày tại đây. Đó cũng là nơi anh sống, anh vẽ và đọc và làm tất cả những gì say mê nhất.

Cái đẹp trong hội họa của Lê Thiết Cương nằm ở sự tối giản. Tối giản là đỉnh cao của nghệ thuật, đấy là quan niệm của anh. Tối giản, là khi nó đã đi qua tất cả những gì cầu kỳ và phức tạp, nó đã được tinh lọc tới mức không thể tinh hơn được nữa. Đây là điều tôi cực kỳ tâm đắc. Hội họa, hay văn chương, tối giản là cách để tác phẩm đi đến trái tim người tiếp nhận hiệu quả nhất. Tất nhiên, có những người thích cầu kỳ, thích đi đường vòng.

Và một điều hiển nhiên là đi đường vòng bao giờ cũng tốn sức hơn, và nữa, nó tiêu tốn luôn cả cảm xúc trên cái hành trình ấy. Nhưng, tối giản không phải là một phong cách dễ dàng chạm tới. Không dễ một chút nào. Nó phải được đánh đổi bằng nhiều năm lao động sáng tạo trong cuộc đời người nghệ sĩ.



Họa sĩ Lê Thiết Cương ký tặng sách mỹ thuật trong triển lãm cá nhân đầu tiên tại TP.HCM mang tên Duyên, diễn ra từ ngày 3 - 12.8. Ảnh: CTV


Tôi với anh ngồi trong phòng khách của anh gần như suốt một buổi chiều. Tôi cần anh giúp trả lời rất nhiều câu hỏi mà tôi đặt ra, để có một bài báo. Đấy là công việc của tôi. Nhưng tôi đã được anh tặng cho nhiều hơn một bài báo. Chúng tôi nói về Hà Nội. Một Hà Nội mà một người mới như tôi cũng thấy là nó đang mất đi. Nó đang hao mòn đi. Nó đang trôi về một nơi gọi là ký ức, dĩ vãng, quá khứ.

Trong câu chuyện của chúng tôi, anh Cương nói một ý mà tôi thấy nó đúng trong hầu hết mọi trường hợp liên quan tới hai chữ “tiếp nhận”, đó là: Hà Nội là cái tâm hút những tinh hoa về phía nó. Và trước khi tiếp nhận những tinh hoa của rất nhiều vùng miền, biến nó thành một thứ riêng thuộc về mình, thì Hà Nội là con số không. Anh nói nguyên văn “Hà Nội là zero”. Nó phải là con số không. Một sự trống rỗng. Trống rỗng thì mới có thể thu nạp, tiếp nhận những cái mới. Và tôi nghĩ rằng, tôi cũng vậy. Có lẽ bạn cũng vậy. Nếu như chúng ta đã đầy rồi, chưa biết là đầy những gì, nhưng nếu đã đầy rồi thì sẽ không thu nạp thêm được một cái gì nữa. Thế nên, rốt cuộc là, phải biết dành cho mình những khoảng trống. Tạo ra những khoảng trống để thu nạp cái mới - một cách thông thái.



Tác phẩm trong triển lãm Duyên.

Trong lúc nói chuyện một cách hoàn toàn ngẫu hứng, tôi nhìn thấy anh Cương đứng dậy. Để làm gì? Để chỉnh một ngọn đèn cho nó có một mức sáng thật vừa đủ, khiến cho bức tượng anh đặt dưới ngọn đèn ấy lộ ra vẻ đẹp nhất có thể. Ở trong phòng khách, anh đặt những bức tượng đẹp nhất, những món đồ gốm anh thích nhất, và để những thứ đó trở nên hoàn hảo hơn chính bản thân nó thì anh phải thiết kế một hệ thống đèn có thể điều chỉnh được độ sáng, góc chiếu sáng.

Anh khiến cho tôi nhận ra một điều: người ta có thể tận hưởng cuộc sống theo cách của riêng mình. Nó đặc biệt tới mức nào là do chính bản thân chúng ta tạo ra. Cùng một món đồ gốm đó, với niên đại đó, giá trị về mặt tiền bạc của nó đã được xác định trên thị trường đồ cổ, nhưng vào tay người này thì giá trị hơn cả chính nó. Vào tay người khác thì đơn thuần là một món đắt tiền. Vào tay người khác nữa thì có thể chỉ là một món... vứt đi. Vấn đề là chúng ta hiểu ta đang có gì, và tự làm ta giàu có hơn bằng những thứ đó. Hưởng thụ là một phần của lao động. Hưởng thụ để tạo ra năng lượng. Và hưởng thụ ấy, nhất định không đơn thuần là vật chất. Không phải ai cũng nhận ra và làm được điều này.

Thỉnh thoảng, anh kể về những kỷ niệm trong gia đình. Kiểu như hồi bé, mỗi lần nghịch dại, hình phạt mà anh phải chịu là đi lau những món đồ gỗ. Mà đồ gỗ với hàng ngàn đường nét chạm trổ thì biết rồi đấy, cứ gọi là mờ mắt. Một cậu bé hiếu động bị buộc phải làm một công việc tỉ mỉ nhàm chán đến kinh hồn như thế, biết đâu, có lẽ, lại cũng góp phần để có một Lê Thiết Cương sau này - như chúng ta thấy.



Tác phẩm trong triển lãm Duyên.

Sống thật kỹ càng, làm việc thật kỹ càng, tận hưởng cũng kỹ càng. Tôi chưa hề thấy anh Cương làm bất kỳ cái gì, dù là rất nhỏ, mà quýnh quáng cho xong. Trên chiếc bàn gỗ mà anh hay ngồi vừa tiếp khách vừa đọc sách, làm việc, có vài món đồ mà lần nào đến tôi cũng nhìn. Cốc đựng nến, hộp khăn giấy được làm thủ công bằng một bàn tay thợ Hà Nội tỉ mẩn tài hoa, ống bút để bên cạnh... Hay là mọi cuốn sách, mấy cái vỏ chai rượu, tấm bưu thiếp dựng trên kệ, các món đồ gốm... mọi thứ, tất cả mọi thứ, đều được sắp đặt một cách cẩn trọng, tuyệt nhiên tôi chưa từng thấy một thứ gì dù rất bé xộc xệch trong không gian của anh.

Người ta cứ hay nói, nghệ sĩ thì ngẫu hứng, đôi khi tùy tiện, lôi thôi, anh Cương thì hoàn toàn không. Anh là người cực kỳ ngăn nắp, tỉ mỉ. Mọi nơi, không một hạt bụi. Âm nhạc luôn có, rất vừa đủ, không bao giờ quá to. Ánh sáng luôn hoàn hảo, không thừa. Tôi còn nhớ anh có cái rèm cửa thêu tay, mà anh yêu cầu thợ thêu phải thêu hai mặt y như nhau, không có mặt trước hay sau, trái hay phải, tuyệt nhiên không một đường thêu lỗi hay một đầu chỉ thừa.

Anh sống mỗi ngày trong cuộc đời đều tỉ mỉ như thế, hoàn chỉnh nhất theo cách anh muốn, thế nên tranh của anh cũng vậy. Tôi tin là các nhà phê bình mỹ thuật rất khó tìm ra điều gì đó ẩu tả, thừa hoặc thiếu về mặt nghề nghiệp trên các tác phẩm của anh. Anh là người, hoặc là không làm, hoặc đã làm thì phải để lại dấu ấn. Tất nhiên, không dễ gì học theo anh được. Vì muốn để lại dấu ấn thì phải có tài, đương nhiên.



Tác phẩm trong triển lãm Duyên.


Anh sống cùng với mẹ, một bà cụ thật là đẹp lão. Tôi cứ nhăm nhăm sẽ viết một cái gì đó mà tôi thật thích về bà mà mãi vẫn chưa viết được, đơn giản vì tôi nghĩ mình cần nhiều thời gian ngồi trò chuyện với bà hơn. Tôi đoán, làm mẹ của một người con như anh cũng không dễ dàng. Anh kỹ tính và bà cũng kỹ tính. Mỗi lần tới, bọn tôi đều được bà cho ăn vài món bánh trái mà bà tự làm. Các cuộc ra mắt sách của tôi, trừ khi bà không ở Hà Nội, bao giờ bà cũng làm cho mấy mẻ bánh để tôi tiếp bạn bè. Bà làm việc luôn chân luôn tay, chẳng có thời gian thừa. Tôi đoán bà thích làm để thấy mình không đang sống những ngày tháng vô nghĩa và cũng là một cách rèn luyện sức khỏe nữa. Một bà lão thật sự rất đáng kính.

Lê Thiết Cương là người đọc nhiều. Và đọc theo một cách riêng biệt. Đấy là, có thể đọc cả một cuốn sách, xong xuôi, nhớ đúng một chữ trong cuốn đó. Anh sẵn sàng gạt đi hầu như tất cả những trang viết, và chỉ giữ lại một chữ nếu như với anh, chữ đó đủ khẳng định tầm vóc của một tác giả. Cũng tức là, với những cuốn mà anh vứt đi hết sau khi đọc, thì nó chẳng có nghĩa lý gì.

Tôi không biết với mỹ thuật thì chi tiết quan trọng đến mức nào, nhưng với văn học, thì chi tiết là những cái đinh. Người ta nói, chi tiết là những cái đinh đóng trên cánh cửa. Nó khiến các tấm ván liền khít với nhau, không rời. Và anh Cương là người cực kỳ trọng chi tiết. Cũng là người nhìn ra chi tiết. Những chi tiết đắt nhất, hiếm nhất, hiểm nhất. Đấy là lợi thế đối với một nhà văn.

Trong chùm ảnh chụp với chủ đề Tết mà anh thực hiện cùng một vài người bạn, anh cho tôi xem bức ảnh chụp một người phụ nữ ngồi bán lá dong. Bên cạnh lá dong có lạt để buộc bánh, còn có cả một bó lạt điều. Lạt nhuộm điều, màu hồng, người ta dùng làm gì? Dùng để buộc những cái bánh chưng bày trên ban thờ. Sau khi luộc, người ta sẽ gỡ bỏ những cái lạt cũ và thay vào đó là buộc bằng lạt điều. Cẩn thận hơn thì còn gói thêm bên ngoài bằng một lớp lá dong mới, xanh biếc. Lá mới, lạt mới. Chăm chút cho mâm ngũ quả, mâm cỗ cúng thể hiện sự trân trọng tổ tiên, bày tỏ sự biết ơn, và cũng là cầu mong may mắn cho gia đình trong năm mới. Cái chi tiết ấy, vốn trong đời sống nó đã mai một đi rồi. Nhưng nó vẫn hiện diện đâu đó, một vùng làng quê Bắc bộ nào đó, lọt vào tầm ngắm của Lê Thiết Cương. Và anh đón nhận nó, một cách từ tốn mà hân hoan.

Chúng tôi nói về các món ăn, một phần không thể thiếu của Hà Nội. Anh kể, trong chợ Hàng Bè có một gia đình đã ba bốn đời sống bằng nghề muối dưa cà. Ở một vị trí có thể nói là “đất vàng”, mỗi mét mặt tiền phải tính bằng mức giá trăm triệu, người ta vẫn cứ dùng làm cửa hàng chỉ có bán duy nhất là dưa muối, cà muối. Vì sao lại có điều kỳ cục như vậy? Dưa muối, cà muối vốn là món bình dân, món nhà nghèo. Thiếu thịt cá thì dùng dưa cà để đưa cơm, vậy thôi. Thế nhưng từ đời bà sang đời mẹ, sang đời con gái, con dâu, vẫn cứ duy trì cái nghề đó. Ắt hẳn là nó đủ nuôi sống gia đình, thậm chí nuôi sống ở mức khá sung túc. Có lạ không? Không lạ, nếu nó được lý giải bằng thói quen sinh hoạt của người Hà Nội cũ (anh Cương tạm có hai cụm từ “người Hà Nội cũ” và “người Hà Nội mới”, tôi thấy khá thuyết phục).



Hoạ sĩ Lê Thiết Cương giao lưu ra mắt sách Nhà & Người ngày 8.8 tại Hà Nội.
Ảnh: CTV


Người Hà Nội thường giữ thói quen ăn uống. Đã ăn món gì ở đâu là cứ chung thủy với cái địa chỉ đấy mãi, dù có bao nhiêu địa chỉ mới cũng không màng. Nó có yếu tố cực đoan, nhưng cũng biểu lộ sự kỹ tính, cầu kỳ tới mức khó tính của người Hà Nội. Tất cả mọi chi tiết, khi Lê Thiết Cương đã phát hiện ra, không bao giờ anh để mặc nó là một chi tiết. Anh luôn tìm cách lý giải những câu chuyện phía sau nó. Tôi không biết thói quen tư duy đó giúp gì cho công việc hội họa của anh, nhưng tôi tin chắc rằng, với một nhà văn thì nó giúp ích rất nhiều. Nhà văn, khả năng tưởng tượng của anh lớn tới đâu, thì tác phẩm của anh có sức chinh phục mạnh mẽ tới đó.

Trong những câu chuyện lan man này, tôi muốn nói rằng, quan sát, nắm bắt chi tiết, để từ đó có thể khái quát ra những vấn đề mang tính bản chất là một thứ không dễ có được. Đối với tôi, nó thực sự là một bài học. Mọi hiện tượng trên đời, đừng nhìn vào cái vỏ. Hãy bóc lớp vỏ ra, bằng cách nào là việc của bạn, nhưng bạn cần phải biết câu chuyện của nó là gì.





Mới đây nhất, vài ngày sau khai mạc triển lãm ở Sài Gòn, Lê Thiết Cương ra mắt công chúng Hà Nội không phải bằng một cuộc triển lãm tranh mà bằng một... cuốn sách. Cuốn sách mang tên Người & Nhà, thể loại tản văn. Một lần nữa, những người yêu mến Lê Thiết Cương ở cương vị một họa sĩ tên tuổi trong nền mỹ thuật Việt Nam đương đại, bị anh làm cho ngạc nhiên vì những trang sách chứa đầy tri thức, sự hiểu biết cặn kẽ về văn hóa Việt Nam, sự tinh tế trong quan sát, mổ xẻ, phân tích, những phát hiện thú vị và mới mẻ... với một giọng văn điềm tĩnh nhưng sắc bén, những câu những chữ đầy sức nặng: “Muốn hiểu người Việt, tính cách Việt thì cứ nghiên cứu làng là đủ. Đình làng, chùa làng, đường làng, ao làng, cổng làng, người làng, việc làng. Việc làng cũng là việc nước, chuyện làng cũng là chuyện nước”.

Hoặc là anh viết về ngõ thế này:

Ngõ ra đời trước rồi mới đến phố.
Ngõ già, phố trẻ.
Ngõ là dân bản địa.
Phố là người nơi khác đến lập nghiệp.
Ngõ thì tĩnh, phố thì động.

Lê Thiết Cương dùng chữ như thế. Từng câu từng dòng là một sự chắt lọc kỳ khôi mà chỉ những người quan sát kỹ càng lắm, tích lũy bao lâu mới nhặt ra được. Đọc những chữ như thế, tự muốn thốt lên lời cảm ơn người viết, vì anh đã gọi tên mọi sự vật, hiện tượng ra một cách thật đích đáng, gọn gàng, chính xác, đẹp và có linh hồn.

Lê Thiết Cương là người như vậy, sống mê mải với tất cả những gì anh muốn. Hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, văn học... thể loại nào anh cũng có một cách riêng để sống, để làm việc, để tận hiến. Tôi nghĩ anh đã sống thật là hạnh phúc theo cái cách mà anh muốn - làm những điều mình thích, và chỉ làm những điều mình thích mà thôi.

Đỗ Bích Thúy










"Nhà & Người": Góc nhìn độc đáo của họa sĩ Lê Thiết Cương


[VOV2] - Ngày 8/8, Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty CP Văn hóa và Truyền thông Liên Việt giới thiệu cuốn sách “Nhà & Người,” tập hợp gần 60 bài viết của họa sỹ Lê Thiết Cương trong hơn 20 năm qua.
Thanh Huyền


"Nhà & Người" chọn in gần 60 bài viết của họa sĩ Lê Thiết Cương trong hơn hai chục năm qua (khoảng từ năm 2000-2023) cho một số tạp chí về kiến trúc nội thất. Như tên gọi cuốn sách, qua chuyện nhà cửa, họa sĩ Lê Thiết Cương muốn nói đến chuyện người, chuyện gia cảnh, mỗi nhà mỗi cảnh, qua nhà thấy người, qua người thấy nhà.

Trong cuốn sách “Nhà & Người”, họa sỹ Lê Thiết Cương viết về ngôi nhà của nhiều văn nghệ sĩ như: nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, nhạc sĩ Phú Quang, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, đạo diễn Đào Trọng Khánh… hay nhiều vùng đất ông từng đi qua như: thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Lạt, Sa Pa và Hà Nội - nơi ông sinh ra và lớn lên; một vài làng cổ ở Bắc Bộ, một ngôi chùa, một nhà thờ ngoài đê sông Hồng…

Họa sĩ Lê Thiết Cương (giữa) chia sẻ về tản văn "Nhà & Người" tại lễ ra mắt sách


Họa sĩ Lê Thiết Cương cho biết, anh thường viết về kiến trúc, trang trí nhà cửa, phong cảnh vùng miền nhưng những chuyện ấy chỉ là cái vỏ, lõi của nó là chuyện người. Đất, nhà và người suy cho cùng là một, bởi chuyện gì trong đời cũng là chuyện người, chuyện gì thì cũng phải lấy những giá trị người làm căn bản. Chỉ có nết người mới tạo ra được nếp nhà. Thêm nữa, chuyện nhà, chuyện người cũng là chuyện của một thời. Một bộ bàn ghế, một bức tranh, một kiểu nhà hoặc cách này biện trong nhà của người ấy đều có dấu ấn của thời gian. Mỗi thời mỗi khác.

"Chuyện nhà cũng là chuyện người, ở đâu lâu hay nhanh, nhiều hay ít, khoan hẵng bàn đến, không gian sống nào làm cho tâm hồn mình cảm thấy gắn bó đó mới là ngôi nhà thực sự của mình, nơi chốn đi về của mình", họa sĩ Lê Thiết Cương bộc bạch.


Ảnh do họa sĩ Lê Thiết Cương chụp được trưng bày tại buổi ra mắt sách "Nhà & Người"


Nói về tản văn "Nhà & Người" của họa sĩ Lê Thiết Cương, nhà thơ - nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha cho rằng, giai điệu văn xuôi của Lê Thiết Cương là giai điệu đẹp, một cách kể mà không kể, những gì anh thổ lộ về không gian đó đều thắm thiết, đều da diết như chia sẻ với người đọc vẻ đẹp của người tình mà mình tận lòng yêu.

“Đóng góp của Cương với tản văn là anh đã văn xuôi hóa bao đúc rút văn hóa để đưa vào trang viết của mình. Phần văn xuôi ấy thường được để sau một đoạn kể ngắn. Nó như cách về các trung âm hoặc át âm sau một câu nhạc. Giai điệu thì cổ điển, nhưng cách dẫn dắt câu này sang câu khác lại rất hiện đại. Đọc tản văn của Lê Thiết Cương là đọc liền một mạch bởi sự cuốn hút, đọc rồi ngẫm nghĩ bởi giai điệu văn xuôi khác biệt của chàng họa sĩ tối giản này".


Những ngôi nhà, con người, đồ vật... mà họa sĩ Lê Thiết Cương gặp và chụp đều được gói gọn trong một chữ "duyên"


Bà Vũ Phương Liên, Giám đốc Công ty CP Văn hóa và truyền thông Liên Việt cho biết, họa sĩ Lê Thiết Cương là người viết rất chắc tay, anh sử dụng ngôn ngữ rất đời thường để chia sẻ với bạn đọc những cảm nhận, suy ngẫm của mình về những ngôi nhà, từ kiến trúc đến đồ nội thất và những con người liên quan đến ngôi nhà, đồ vật ấy, bằng những cảm nhận rất riêng.

Còn theo Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều, cuốn sách “Nhà & Người” viết về một không gian mà ai cũng đã sống trong đó từ khi sinh ra nhưng lại không phát hiện ra những vẻ đẹp, những bí mật trong không gian đó. "Phát hiện ra “nhà” là phát hiện ra “người” và ngược lại. Những vẻ đẹp của “nhà” và “người” đã làm nên vẻ đẹp của văn hóa Việt. Tôi nhận thấy chúng ta đã đánh mất đi quá nhiều vẻ đẹp văn hóa Việt dù chúng ta đang sống trong chính những vẻ đẹp đó... Và họa sĩ Lê Thiết Cương là người đã tìm thấy chìa khóa và lặng lẽ mở những cánh cửa đó".


Tranh của họa sĩ Lê Thiết Cương


Nhà văn Đỗ Bích Thúy tìm ra điểm khác của Lê Thiết Cương ở cuốn sách này so với cách viết của nhiều nhà nghiên cứu khác. Đó là, từng trang, từng dòng một, dù rất kiệm lời nhưng giúp người đọc có cái nhìn thật thấu đáo về những điều anh viết.

"Quan sát và suy ngẫm, không bỏ qua bất kỳ chi tiết nào và không dừng đặt những câu hỏi. Đã hỏi thì phải tìm bằng được câu trả lời. Cứ thế, từng ngày từng tháng từng năm, bao nhiêu điều thú vị trong đời sống tưởng như ào ào, gấp gáp, tưởng như tạm bợ sống nay chả biết mai thế nào... đã được Lê Thiết Cương gọi tên và lý giải một cách cặn kẽ và tỉ mẩn. Tôi nhìn thấy anh cho đến giờ vẫn yêu đến si mê những vẻ đẹp được tạo ra từ đôi bàn tay, tâm hồn của rất nhiều kiếp người, trong những phố những làng, những nhà những ngõ, những ô cửa hay cánh cổng... in dấu thời gian. Cái được của việc đọc cuốn sách đầy cảm xúc và tri thức này là như vậy", nhà văn Đỗ Bích Thúy nhấn mạnh.

































































- Họa sĩ Lê Thiết Cương đang hoàn tất dự án của mình: Kinh gốm -
 kết hợp giữa gốm cổ, kinh Phật và hội họa.


Họa sĩ Lê Thiết Cương làm việc với dự án Kinh gốm tại làng gốm Hương Canh - Ảnh: NVCC



Họa sĩ Lê Thiết Cương: Tôi yêu gốm và kinh Phật

THIÊN ĐIỂU 


Dự kiến mùa thu tới, anh sẽ trình làng một triển lãm và một cuốn sách có tên Kinh gốm, là tâm huyết trong gần 4 năm đi về các làng gốm và nhiều năm thấm triết lý nhà Phật.

Tuổi Trẻ có cuộc trò chuyện với anh về dự án, về nghề gốm chứa đựng trong nó bao tinh hoa văn hóa của người Việt, về cái thông tuệ mênh mang của những câu kinh Phật.

“Các làng gốm cổ đang chết dần. Điều đó không chỉ là mất đi các sản phẩm gốm mà là mất văn hóa, tập tính, lịch sử của người Việt. Nên tôi muốn mang hội họa vào gốm để làm mới gốm, tôn vinh gốm, đưa gốm đến gần hơn với mọi người, như một cách góp phần bảo tồn các làng nghề gốm.

* Chào anh! Anh lại vừa khiến những người quan tâm tới mỹ thuật và quan tâm tới... anh phải giật mình vì thông tin anh sắp hoàn thành một dự án nữa, dự án Kinh gốm. Anh có thể chia sẻ về dự án này?

- Đó là dự án tôi viết những lời kinh điển rất cô đọng của Phật và vẽ tranh lên các sản phẩm gốm của ba làng nghề gốm cổ ở Đồng bằng châu thổ sông Hồng là Bát Tràng (Gia Lâm), Hương Canh (Vĩnh Phúc) và Phù Lãng (Bắc Ninh).

Dự kiến sẽ triển lãm vào mùa thu năm nay. Giống như ở dự án Thơ gốm hồi 3 năm trước, sẽ có một cuốn sách in những tác phẩm trong dự án với phần cước chú của tôi cho những câu kinh Phật trên mỗi tác phẩm bằng ngôn ngữ hiện đại.

Các nghệ nhân tài ba của ba làng nghề đã nặn gốm cho tôi, và được nung bằng củi chứ không phải bằng gas, điện theo lối công nghiệp. Sự tình cờ của củi lửa, men thuốc, làm tay tạo ra sự hữu tình đặc biệt cho những tác phẩm độc bản.

Với dự án này, tôi mong muốn mang những minh triết tuyệt vời của kinh Phật đến gần với mọi người hơn và góp phần vào việc bảo tồn các làng nghề gốm cổ.

* Nhưng tại sao lại là kinh Phật, thưa anh?

- Là vì tôi rất thích Phật giáo ở khía cạnh triết học của nó. Ví như câu "Thực tướng vô tướng", diễn giải ra là thực tướng là vô tướng, tướng thực nhất là tướng không.

Không hiểu câu này của nhà Phật sẽ không thể hiểu được những điều tưởng chừng rất vô lý như công thức nổi tiếng E = mc2 của Einstein, không thể hiểu vì sao năng lượng từ cái hồ xăng to bằng 10 cái hồ Bảy Mẫu cũng không bằng năng lượng sinh ra từ phản ứng hạt nhân của 2 nguyên tử bé tí.

Trịnh Công Sơn rất thấm tư tưởng "Thực tướng vô tướng" này khi ông viết những câu: "Con sông là thuyền/Mây xa là buồm/Từng giọt sương thu hết mênh mông". Ông nhìn thấy sông là thuyền, mây là buồm và một giọt sương nhỏ mong manh có thể thu vào mình cả mênh mông.

* Và tại sao lại là gốm?

- Trước đây, người Việt không có tranh. Tranh Đông Hồ, Kim Hoàng hay Hàng Trống mãi sau này mới có. Mỹ thuật của người Việt nằm trong gốm, khi các nghệ nhân cầm bút chấm mực vẽ lên một bề mặt, đó là mỹ thuật của người Việt. Lịch sử mỹ thuật của người Việt là lịch sử của gốm.

Năm 1985, tuần nào tôi cũng đạp xe sang Bát Tràng. Tôi học được hết tất cả công đoạn làm gốm, từ củi lửa, men thuốc, vuốt nặn... vào lò, ra lò, và tôi thích gốm từ đó. Chỉ có trong gốm hội đủ cả thiên, địa, nhân và ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

Nhưng các làng gốm cổ đang chết dần. Điều đó không chỉ là mất đi các sản phẩm gốm mà là mất văn hóa, tập tính, lịch sử của người Việt. Nên tôi muốn mang hội họa vào gốm để làm mới gốm, tôn vinh gốm, đưa gốm đến gần hơn với mọi người, như một cách góp phần bảo tồn các làng nghề gốm.


Một tác phẩm trong dự án Kinh gốm - Ảnh: NVCC


* Trong gốm là tập tục, văn hóa bao đời của người Việt, nhưng các làng nghề gốm đang dần chết ư?

- Tôi còn nhớ khi tôi còn nhỏ, bà tôi thường sắc thuốc nam trong ấm sắc thuốc của làng gốm Hương Canh. Tôi nhớ rõ đó là chiếc ấm có cái vòi rất đặc biệt, gọi là vòi sâu kèn. Bây giờ tôi không còn thấy ai sắc thuốc trong cái ấm đó nữa.

Ngay tại làng Hương Canh cũng không có ai bán ấm sắc thuốc từng là sản phẩm nổi tiếng của làng này. May mắn tôi tìm được một nghệ nhân cao tuổi của làng có thể giúp tôi nặn chiếc ấm sắc thuốc. Trên chiếc ấm đó, tôi viết câu kinh Phật "Phiền não tức bồ đề".

Ở làng gốm Phù Lãng, tôi nhờ một nghệ nhân 90 tuổi vuốt giúp tôi cái lai - một chiếc lọ đặc biệt người Việt xưa dùng để đựng hạt giống treo trong bếp.

Ông bà chúng ta xưa mỗi mùa thu hoạch chọn ra những hạt tốt nhất, bỏ vào lai có miệng dương ra để buộc dây thừng treo lên bếp giữ làm hạt giống cho vụ sau. Đó là một tập tính của người Việt đã mất cùng với chiếc lai.

Nhưng đáng tiếc, những cái mất ấy rất khó nhìn ra.

* Ngay lúc này, anh nghĩ đến câu kinh Phật nào?

- Trong số các tác phẩm ở dự án Kinh gốm của tôi có một tác phẩm viết, vẽ trên chiếc tiểu nhi (tiểu sành đựng hài cốt của các trẻ nhỏ) của làng gốm Phù Lãng.

Trên đó, tôi ghi câu kinh "Hiện tại lạc trú".

Tôi tìm thấy vẻ đẹp tuyệt vời trong chiếc tiểu nhi ấy. Vẻ đẹp ấy nhắc chúng ta: sinh tử là một. Chấp nhận sinh thì chấp nhận tử, nên hãy lạc quan sống, bình thản trước cái chết. Khi biết có ngày tử thì nhắc mình sống ý nghĩa từng giây, từng phút một.

Như lúc này tôi ngồi với bạn trên vỉa hè Hà Nội nhâm nhi rượu, ngắm phố vui và tận hưởng cái lạnh có lẽ là cuối cùng của mùa. Giây phút này sẽ không lặp lại, nên tôi trân trọng và tận hưởng nó.









Đặng Đình Hưng & Lê Thiết Cương







Lê thiết Cương Tối giản
Đông Duy Hoàng Kiếm Nam


Lê Thiết Cương là hoạ sĩ Việt Nam đầu tiên theo đường hướng “Tối Giản” và ít nhất trong hai chục năm qua, giới thưởng ngoạn trong nước và ngoại quốc đã có dịp làm quen và kết thân với đường lối hội hoạ mới mẻ này.
Hầu hết những tác phẩm “tối giản” của Lê Thiết Cương đã được những nhà sưu tập trong nước và ngoại quốc thu mua. Đường nét tối giản của ông còn liên tục xuất hiện trên nhiều tác phẩm văn học trong nuớc, xác nhận một vị thế vững vàng nếu không nói “áp đảo” của ông trong sinh hoạt nghệ thuật trong nước bằng chứng là cái khuynh hướng tối giản này ít nhiều đang lan tràn trong nhiều hoạ phẩm của những hoạ sỹ trẻ.
Áp đảo không có nghĩa là áp đặt như giáo trình học hội hoạ nhưng hiển hiện trong vòng 30 năm qua Lê Thiết Cương đã trồi lên thành một vóc giáng có uy thế trong sinh hoạt văn nghệ Việt Nam hiện đại, nhất là ở miền Bắc, và tuy không thể nói đã thành một “Cuơngism” tức là một trường phái hội hoạ như Cubism, Realism , Expressionism vv nhưng âm thầm cung cách vẽ của Lê Thiết Cương đã lan toả ảnh hưởng sang nhiều lãnh vực nghệ thuật, ngay cả văn học với cách đặt tên những tác phẩm rất ngắn gọn.
Không rõ là đường lối “tối giản” có là một đột phá tình cờ của Lê Thiết Cương hay đã được khởi hứng dứới ảnh hưởng của xu thế “tối giản” ( Minimalist) bộc phát tại Nữu Ước từ thập niên 60 thế kỷ trước và lan tràn sang nhiều ngõ ngách của xã hội Hoa Kỳ, từ hội hoạ, tới âm nhạc.
Chính khuynh hướng này đã gợi hứng cho phong trào Hippy phản chiến trong đó người ta khước từ mọi tiện nghi vật chất, mọi ràng buộc phức tạp của xã hội cơ khí hiện đại để trở về sự đơn sơ, mộc mạc của bản năng cơ bản và thiên nhiên thô thiển
Quan điểm tối giản còn được biết đến với những tên gọi khác như nghệ thuật ABC, Nghệ thuật mát mẻ (cool), hoặc nghệ thuật “cấu trúc nền móng”. Gắn liền với minimalist là những tên tuổi lớn của Hoa Kỳ như Carl Andre, Donald Judd
Mặc dù tối giản chịu ảnh hưởng ban đầu của trường phái “trừu tượng biểu hiện Abstract Exressionist” nhưng khuynh hướng tối giản dần thành hình rõ hơn và tách riêng nếu không nói đã từ bỏ hay đi ngược lại quan điểm và cách thể hiện cụ thể của trường phái Abstract Exressionist, là một đường lối đã tạo nên những tên tuổi sáng chói, có thể kể đến những người như Pollock. Louis Schanker, Philip Guston
Pollock thực hiện những bức tranh khổng lồ bằng cách vẩy hay đổ sơn đủ mầu trong một cung cách tuyệt đối tình cờ, ngẫu hứng, buông thả tuôn tràn mọi cảm xúc bật lên từ vô thức rồi đổ ra ào ạt trên mặt bố như những nhánh rẽ rối loạn không chủ đích của cuộc đời.
Thật ra trước Pollock , Picasso là người tiên phong từ bỏ kỹ thuật tạo hình cổ điện của ông như thấy trong giai đoạn Xanh ( period blue với the guitarist) để chuyển sang đường lối tối thiểu (minimalist) và hội hoạ tối giản trong đó mọi vật thể thu gọn chỉ còn nhửng hình khối hay đường nét kỷ hà
Nhìn vào chiều sâu của hai đường hướng Abstract Exressionist hay Minimalist chỉ là sự nổi dậy, sự phản bác những áp lực của một xã hội cơ khí càng ngày càng trở thành lãnh cảm, phức tạp, đè nặng lên xã hội làm con người trở thành thụ động, liệt não, lười xuy nghĩ và bối rối trong bất lực.
Minimalist làm sao vẽ được một ý niệm ?!!!

Nói một cách ngắn gọn thì chính yếu trường phái tối giản Minimalist còn được gọi là ngành “nghệ thuật ý niệm- conceptual art” trong đó mọi “nhận thức toàn diện” về thực tại được "ghi nhận qua ngũ uẩn" sẽ đuợc chưng cất, tinh lọc qua “tâm và trí” của người nghệ sỹ để gạt bỏ mọi chi tiết phức tạp chỉ còn lưu lại chất men say của một ý niệm được thị hiện trên khung vải.
Cái thuật ngữ Conceptual này thật khó diễn đạt vì nó là sự kết tinh và định hình cuối cùng của những ý thức, nhận thức, quan điểm.
Thí dụ nhìn người ta có thể giết người bằng cách đâm chém, bắn súng hay bằng những âm mưu thâm hiểm khiến đối tượng cực kỳ đau khổ. Tất cả những hiện tượng nói trên được ghi nhận rồi ngưng tụ lại trong trí óc thành một “Concept về sự độc ác”
Vì chỉ còn lại một ý niệm nên mọi hình thể đều được giản lược tối đa, chỉ còn là một dấu vết khởi đầu để từ đó xây dựng lên một tác phẩm thể hiện cái ý niệm của nhà hoạ sỹ về thực tại hoăc những hiệu ứng tâm linh khi đối diện với thực tại
Sản phẩm của những nghệ sỹ “tối giản” vì thế là thành qủa của những xuy nghĩ không ngừng, một đấu tranh mệt mỏi, gian nan để thanh lọc các vật thể hay thiên nhiên khỏi những chi tiết phức tạp ở ngoại diện từ có có thể truy tầm cái bản thể sâu thẳm, cốt tuỷ của mọi vật thể, mọi hiện tuợng và său đó thể hiện lại trên mặt bố.
Cái quá trình dập phá và gạn lọc lọc này không dễ dàng và đơn giản như mọi người vẫn nghĩ. Nó khó khăn gấp vạn lần vẽ một bức tranh hiện thực bình thường chỉ ghi chép lại thiên nhiên hoặc các vật thể. Vì thế đừng nói rằng những hoạ phẩm tối giản là dễ thực hiện vì hình thức quá đơn giản. Trái lại, nó là sự dằn vặt, thôi thúc từng giây phút của người hoa sỹ tối giản.
Sự thật đây là một ngành nghệ thuật khó học hỏi và khó thực hiện nhất. Cái giá để có một hoạ phẩm “tối giản” thành công là tim óc vắt kiệt, là sự oàn oại tâm hồn của người thực hiện. Trong hội hoạ người ta nói bạn có thể vẽ cái mình nhìn thấy hay vẽ cái mình muốn vẽ.
Giai đọan kế tiếp của quá trình sáng tác tối giản là xếp đặt, dàn dựng lại những “mảnh vỡ độc lập nhưng mang yếu tính cốt lõi” gói ghém trong một tác phẩm hội họa mang một ý nghĩa liền lạc , đặc thù và có khả năng chuyền đạt hay tác động tới cảm quan người coi tranh bằng một thứ logic phi logic”, tức là chỉ có thể cảm nhận trực khởi bằng trực giác.Đây là một thách thức cho cả hoạ sỹ lẫn người coi tranh.
Từ đồ hoạ (graphic design) tới tối giản

Ơ một khía cạnh kỹ thuật thì những hoạ sỹ tối giản như cũng có một quan hệ nào đó với những hoạ sỹ vẽ tranh Graphic design. Cái khác nhau thật tế nhị nằm ở khả năng truyền đạt thông điệp của hoạ sỹ và sự phong phú, thâm thuý của thông điệp.
Tác phẩm graphic design thường chỉ nói lên một mục tiêu rõ rệt và rất giới hạn, trái lại, thông điệp của một hoạ sỹ “tối giản” như Lê Thiết Cương sâu thẳm, ẩn dụ và lung linh biến ảo theo từng cảm quan của người thưởng ngoạn. Nhưng tác phẩm tối giản của ông không là sự sao chép nguyên bản thực tại hay những vật thể mà nhà hoạ sỹ tự tạo ra một thực tại riêng “một thực tại Lê Thiết Cương” không phải thứ thực tại mà ta nhìn thấy. Nó như vậy đó, thực tại Lê Thiết Cương trực diện với người thưởng ngoạn như câu nói của nhà hoạ sỹ tối giản Franc Stella “cái gì bạn đang thấy trước mắt là bạn đang thấy đó” . Chấm hết. Đó là thứ tực tại của riêng tôi bạn muốn vào , mời vào, không cưỡng ép
Đó cũng là sự khác biệt mong manh giữa một nhạc sỹ và một nhạc công, một điêu khắc gia và một nghệ nhân trạm trổ khéo tay.
Từ hội hoạ tới âm nhạc những nghệ sỹ tối giản thách thức quan điểm nghệ thuật cổ điển quy ước và cung đình .
Nhạc cổ điển “theo chủ thể và quy luật tiết tấu” như áp đặt của nhà thờ La Mã (music tonal , cadense impromtu) hoặc hội hoạ Tây Phương từ thời trung cổ qua thời phục hưng đòi hỏi tranh vẽ phải tôn trọng phối cảnh và “tỷ lệ vàng” của một vẻ đẹp “chuẩn”, của một cơ thể cân đối từ đầu tới chân.
Khuôn mẫu gò bó này đã tự giải phóng để chuyển thành nhạc Bach (twelve tones âm giai 12 notes), và nhạc Jazz trong lúc hội họa cũng chuyển từ Ấn Tượng tới thể hiện trừu tượng, vô hình thể, rồi tận cùng kết tinh thành “tối giản” .
Nhìn ở ngoại diện, những bức tranh tối giản đã được thực hiện với việc thu gọn vật thể hay thiên nhiên thành những đường nét, những mảng hình thể (pattern) được lập di lập lại, đè chồng, hoặc được xếp đặt theo một cung cách đặc biệt để diễn đạt một dụng tâm ẩn giấu nào đó của tác giả. Sự ẩn giấu này chờ đợi, thách thức, mời gọi sự khám phá, giao hoà của người coi.
Tính ẩn dụ này trong tranh tối giản của Lê Thiệt Cương vì thế không phải là một món ngon ăn liền mà nó là một “cao lương” rất kén người thưởng thức. Nó là món “kẹo sỏi” cầu kỳ của Nguyễn Tuân trong tùy bút “Hương sỏi”, đòi hỏi một nghi lễ trước khi thưởng thức, ít nhất là phải có một cõi tâm vô chấp, rộng mở. Nếu muốn hưởng thụ ngay thì nên mua một bức tranh nhái, một bức tranh phong cảnh tả chân ngoài chợ và một gói mì ăn liền cũng đủ làm no bụng no mắt.
Tranh tối giản giống như một người con gái đẹp kín đấo , ẩn mật, như tiết lộ tâm tư của chính họa sỹ Lê Thiết Cương về vẻ đẹp của phụ nữ :
“Đàn bà là âm, là nhu, là mềm, là (trốn) ở trong, ở (ẩn) ở dưỡi, là tĩnh.
Tất cả những yếu tố này đều có thể tìm thấy trong tranh tối giản của Lê Thiết cương . một cảnh giới tĩnh mịch nhưng đôi lúc cũng không thiếu nết đam mê trôi nổi như thấy ở những “người nữ”, như những đấm mây trời và “em” trên cầu thê húc.
Những hình thể (figurative) được giản lược, che giấu biến thành những “dạng thức” (pattern), được xếp đặt để tạo thành một ý niệm, để hoạ sỹ làm nổi lên cái thông điệp chính mà tác giả muốn đạo đạt tới người coi.
Kiểu như phát biểu của Lê Thiết Cương khi đứng trước một hoa hậu xinh đẹp làm người mẫu khỏa thân, dục vọng và những chi tiết vật thể tan biến đi thật mau chỉ còn lại, kết tinh trong trí óc của nhà hoạ sỹ cái “ý niệm về một vẻ đẹp hay xấu” vì thế, hàng vạn bức tranh khoả thân từ xưa tới nay, không bức nào giống bức nào vì chỉ còn là một ý niệm được hoạ sỹ ghi lại trên khung vải.
Đúng vậy, như thuật ngữ của phái tối giản Minimalist: chỉ còn là “một ý niệm, một concept) .
Thí dụ bạn thấy một nguời đâm một người khác chết rồi dùng búa dập bể sọ máu me be bết ghê rợn. Cái mà bạn thấy là một hiện tượng vật thể. Cái còn lại trong đầu là một ấn tượng rồi ấn tượng kết tinh lại, chỉ còn một ý niệm (concept) về sự độc ác của con người .
Làm sao vẽ được cái ý niệm độc ác này chính là chủ trương của trường phái tối giản (Minimalist) trong đó có Lê Thiết Cương.
Tranh của Lê Thiết Cương phản ảnh những tiêu chuẩn chính của trường phái Minimalist đó là:
“Xử dụng những đường nét rõ ràng, minh bạch, sắc cạnh khi vẽ những vật thể. Dùng rất ít những hình thể mang tính biểu tượng và những motif này được phối trí theo một logic đặc sắc, thường khi đi ngược lại trực giác nhưng vẫn đạt được mục tiêu trình bầy hay thể hiện cái ý niệm về một thực tại hay một nhận thức của tác giả.
Lê Thiết Cương nói rằng người đã khai ngộ ý niệm về tối giản trong ông là nhà nghệ sỹ tiền bối Đặng đình Hưng .
Điều này có thể phần nào đúng nhưng nhất thiết không thể hiện cụ thể 100% nếu nhìn vào đường nét, mầu sắc của kỹ thuật tối giản “rất đặc thù” trong tranh Lê Thiết Cương như thấy hiện nay.
Dù vậy, tiết lộ của Lê Thiết Cương về bậc thầy đã khai tâm những nét cọ tối giản của ông xét ra cũng có phần nào đúng, vì ở cốt tủy hội hoạ hay nghệ thuật Đông Phương là tối giản.
Người ta có thể tìm thấy điều này trong những bức tranh thuỷ mạc, những bức tranh lụa vẽ hoa, vẽ trúc, vẽ chim trong đó “núi không còn là núi nhưng vẩn là núi , thật ra chỉ còn lại một ý niệm ( một concept về núi) trong trí óc người vẽ và người thửơng ngoạn”
Người nghệ sỹ chỉ nói một nửa, người thưởng ngoạn phải nỗ lực chia xẻ với tác giả trong cái “ý niệm về núi” qua sự uyển chuyển lung linh của từng nét cọ đậm nhạt xa gần, nét ẻo lả trên một cành lá, một đám mây vương đỉnh núi, một cánh hoa vừa rụng, như câu thơ cổ :
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu”
Mùa thu đã về tràn đầy rồi đó, dù chỉ trong một cánh lá vừa rơi. Đó là cách diển tả “ngôn tại ý ngọai” bẩm sinh của Đông Phương”.
Đối với Đông phương, nói thẳng, nói toạc móng heo là cách hành xử thô bỉ, thiếu tế nhị. Truyền thống này ngự trị trong cách ưng xử, cách xuy nghĩ của ngươi Đông Phương, trong đời sống, trong văn học và nghệ thuật.
Cái cung cách “ngôn tại ý ngoại này” có thể thấy trong tranh bìa Lê Thiết Cuong vẽ cho tiẻu thuyết Hương của Nguyễn Thuỵ Kha. Đằng său bức tranh này là vả một cuộc tình thơ mộng và bi thiết giữa một người lính Cộng Sản và một thiếu nữ miền Nam em của một sỹ quan Cộng Hoà. Cuộc tình nở ra như một cành hoa đẹp mong manh nhưng cũng dữ dội, chói loà đam mê trong cái bóng bom đạn và nỗi chết rồi tắt mau trên cái nền đổ nát tan hoang của cổ thành Quảng Trị, trong oan trái thù hận đẩy họ mãi xa nhau ngàn trùng, có lẽ chỉ còn mãi trong nhau một hình bóng huyễn hoặc và một hi vọng còn mãi có nhau như mầu trời xanh biền biệt vẫn vượt trên mọi tang thương thù hận
Có thể đây là cái ý niệm cuối cùng, cái concept còn lại trong đầu hoạ sỹ nên Lê Thiết Cương đã thể hiện thành hai hình người một nằm ngang, một nằm dọc của hai hướng đi đối nghịch, ngăn cách, trên một nền trời xanh tuyệt đối không một tì vết khác biệt.
Hai con người, một người vật thể còn nán lại nơi trần thế con nhận ra dấu vết hình hài, người kia đã tan vào cõi không, giản lược chỉ còn một ký ức vô hình trong tâm trí nguời ở lại. Nhìn kỹ bức tranh nguời ta sẽ nhận ra sự dàn dựng có dụng ý này với hai mái đầu đan vào nhau một thật, một huyễn... ”Em ơi...em con mãi trong tâm trí anh!!!”
Cái dấu ấn “tối giản để che giấu” này thật ra đã ăn sâu trong tiềm thức người Á Châu như một yếu tính bẩm sinh, ngay cả cái yếu tính tối giản bẩm sinh này còn thăng hoa thành một nhân sinh quan chủ về chữ “nhàn”, về một hạnh phúc đơn sơ, thư giãn, dung dị, để tiến tới một thức tỉnh toàn diện của một thân tâm an lạc.
Tranh thủy mạc, chơi núi non bộ, tranh tối giản là sự thể hiện quan điểm tìm về đơn sơ như bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Ngừơi khôn nguời đến chốn lao sao
Như các cụ đã nói : “Vạn dặm giang sơn thu nhất sích” (cả cuộc đời, cả thiên nhiên có thể thu vào một chậu cây cảnh, một núi non bộ, một nét phẩy trong một cánh hoa, một ngọn núi ẩn trong mây của bức tranh thuỷ mạc.)
Truờng phái tối giản Minimalist cũng chủ trương tương tự .
Đỉnh của tối giản Đông Phương là 10 bức tranh thiền “thập mục ngưu đồ”.
Những bức tranh tối giản này diễn tả quá trình của một người đi tìm cõi Tâm của mình đã bị thất lạc, như người mất trâu đi tìm trâu để cuối cùng thấy rằng mất còn vô nghĩa chỉ còn lại cái ý niệm gọi là “Tâm Không” được thể hiện theo cung cách tối giản chỉ còn một vòng tròn của “tánh không”.
Tranh Lê Thiết Cương- nhạc New Age

Khuynh hướng tối giản không chỉ giới hạn trong hội hoạ mà còn lan tràn sang lối sống hàng ngày của người Tây Phương nhất là âm nhạc.
Một khuynh hướng âm nhạc đang phát triện mạnh được gọi là nhạc New Age . (không nên nhầm lẫn với nhạc New Wave của thập niên 70-80). Nhưng nhạc sỹ New Age nổi tiếng có thể kể như Yanny, David Arkenstone
New Age music cũng chủ trương tối giản trong phần giai điệu (melody) nhưng đẩy mạnh tối đa phần hoà âm và phối khí với đủ loại âm thanh điện tử , các loai nhạc cụ mà mục tiêu chính là “hướng vào không gian vô tận và huyền nhiệm” để tạo một cảm quan buông xả , an lạc khi thiền định.
Nết chính yếu của nhạc New age tương tự như tranh tối giản đó là giản lược việc mô tả vật thể nhưng lại đẩy mạnh sự phong phú của cái “nền” hoà âm hay trong hội họa là “cái nền đầy mầu sắc của chất liệu sơn, của vật liệu (matiere) do họa sỹ taọ dựng, của vải bố đủ loại, các loại giấy, các loại bột mầu.”
Tranh của Lê Thiết Cương không bao giờ thiếu, nếu không nói như một hiện diện bắt buộc của cái “nền hoà sắc tạo bởi những khối mầu sắc kỷ hà đôi khi tràn lấn trong toàn thể bức tranh, đó, cái gọi là chủ đề của tranh âm thầm nhạt nhoè đi hoăc chỉ hiện diện như một cái cớ, một gợi khởi đầu”.
Những mảng mầu sắc này cũng như trong nhạc New Age mở cảm quan của người coi tranh và một cõi mênh mang rộng lớn vì ngay chính chủ thể cũng tan vào biến trong cái nền hoà âm màu sắc này.”
Đó là một cảm giác kỳ lạ khi xem tranh và cũng là khác biệt nổi bật giữa “tối giản Lê thiết Cương” và trường phái Minimalis vốn không chủ vào việc dùng mầu sắc hoặc chỉ dùng hai mầu đen trắng. Lê thiết Cưong vẫn vận dụng mầu sắc cho cái nền hoà âm sắc mầu trong tranh tối giản nhưng rất hạn chế và tạo sự khác biệt nhờ chính những vật liệu dùng để vẽ (vải bố, giấy bồi) và cách tạo “matière”
Ngắm nhìn một bức tranh của Lê Thiết Cương một hồi lâu người coi sẽ bị mất hút vào cái nền mầu sắc này cùng với sư tan chẩy của chủ thể của bức tranh .
Nói đơn giản hình hoạ chỉ là cái cớ, “một cái cớ rất không logic chút nào“ nhưng lại được chứa đựng trong cái “rất logic của toàn thể bức tranh” nhờ sự xếp đặt những khối hình thể và mầu sắc tạo một cảm quan hoang mang, trôi dạt rất đặc thù trong từng bức tranh dù không thể định hình hay ý thực là tại sao lại cảm nhận như vậy.
Chính vì thế mà những tác phẩm của Lê Thiết Cương không có tên vì không thể đặt một tên chính sác cho một ý niệm, một cảm quan, hoặc ngược lại, người thưởng ngoạn có thể chủ quan đặt cho bức tranh bất cứ tên gọi nào tùy tâm.
Hình họa kỷ hà mang tính biểu tượng một con cọp mầu đỏ ánh mắt buồn trên cái nền mầu xanh và một ngọn đền dầu mầu vàng. Tại sao? Đừng hỏi vì tất cả nhũng motif đó chỉ là một cái cớ để bầy tỏ một toàn thể cái “đẹp” của bức tranh.( nên nhớ đẹp sấu tuỳ người đối diện, tuỳ duyên)
Một bức tranh khác, một con cọp vàng mang hình ảnh một con cọp cam phận với nỗi uất ức đỏ rực trong nhưng khung sắt giam cầm, gợi nhớ tới con cọp trong bà thơ “nhớ rừng “ của Thế lữ. Đó là tôi nghĩ thế, đoán thế, cảm thấy như thế.
Tranh một cặp tình nhân bên tháp rùa dưới một góc cây mà bóng mát che chở toả rộng trong toàn thể bức tranh.
Tranh tối giản với cách bố trí những vật thể không những được biến thành những hình khối kỷ hà đường nết sắc cạnh mà còn được phối trí, dàn dựng theo một logic cưỡng ép.
Thí dụ một mặt người lật ngược, con mắt lang thang ở một góc nào đó của bức tranh, những con cá, chiếc đèn dầu con chim, con chó chiếm cứ bất cứ nơi nào, trong gương mặt người, con cọp ngự trên nóc giáo đường, chiếc thánh giá rơi ở một nơi nào đó
Bức Biển Sống chỉ có hai mầu, một biển xanh một trời mầu hồng nhạt đặc biệt với một mặt trời mầu xanh và một con cá xanh lơ lửng giữa trời.
Có những nhận xét cho rằng sự phối trí (bố cục) và những motif trong tranh tối giản mang nhiều “kịch tính”
Tất nhiên là thế vì đây chính là dụng tâm của trường phái tối giản. Không gian của bức tranh tối giản đã gạn lọc tối đa những chi tiết vật thể nên đúng là không gian “kịch”.
Nhân vật của kịch, ngôn ngữ kịch, khung cảnh của một vở kịch là một lựa chọn, được tỉa sén, xếp đặt “rất kịch cỡm” nhưng một khi đã bước vào không gian của kịch thì những chi tiết kịch lại chẳng kịch chút síu nào.
Điều này cũng đúng với những dàn dựng tưởng như phản logic của tranh tối giản với những mặt người bay lơ lửng, những con mắt nằm ngang nằm dọc, con cọp trên nóc giáo đường, một mặt người có vẻ là thiếu nữ , một mắt ngang, một mắt dọc có những bậc thang băng ngang. Tai sao lại có bậc thang băng ngang mặt. Đừng hỏi, chỉ biết rằng đây là một bức tranh đẹp, nó vẫn làm ấm lên bức tường một nét sinh động thư dãn mà không hiểu tại sao.
Tự do và bình đẳng

Tự do và bình đẳng cũng là hai yếu tính của tranh tối giản.
Người họa sĩ tách khỏi mọi thực tại, mọi biến cố, không chủ tâm thuyết phục người coi. Phía người thưởng ngoạn cũng không bị cưỡng bức vào một cảm quan nào khi coi tranh, mặc dù cả hai phía, người vẽ và người coi vẫn tìm đến nhau rất tình cờ trong một cảm thông đồng điệu.
Tranh của Monet, Van Gogh, Gauguin mặc dù rất phóng khoáng nhưng đường nét và mầu sắc của những tác phẩm ấn tượng này như vô tình vẫn muốn xô đẩy người coi vào một cảm quan của người vẽ.
Tranh những đống rơm của Monet từ sáng tới chiều cho thấy cái ý niệm hoang mang và tuyệt vọng của “chiều thời gian” vẫn lạnh lẽo qua, tranh của Van Gogh với nỗi cô đơn hiu quạnh, những đồng hoang cỏ cháy của giấc mộng đời, đàn quạ đen chợt xà xuống như một đe dọa bí mật, tranh của Paul Gauguin rực rỡ niềm hoan lạc như thủa hồng hoang giữa địa đàng.
Đấy là những không gian ít nhiều mang tính quy phạm (ép buộc) cảm quan của người coi. Trái lại, tranh tối giản là hoàn toàn tự do, bình đẳng. Người coi mất hút, lạc lối trong thế giới của hoạ sĩ và chính hoạ sĩ cũng thất lạc trong những đường nét và mầu sắc của mình. Những bức tranh tối giản vì thế đã hoà tan trong không gian sống của con người một cách êm ả lạ thường.
Hiện nay tranh tối giản Minimalist rất thịnh hành tại Tây Phương nhất là tại những đô thị vì môi trường sinh sống càng ngày càng xa rời thiên nhiên. Những căn hộ cao ốc không khác gì những phòng giam cô lập, tẻ lạnh vì thế người ta cần làm ấm lên những bức tường với những bức tranh để mở ra những không gian thoát ly nho nhỏ. (evasion space). Đó là nhu cầu trang trí nội thất.
Nhu cầu trang trí trong những “hộp cao ốc” là chuyện bắt buộc và cũng không nên quên tranh vẽ ở căn bản là để trang trí dù đó là tranh của một danh hoạ hay tranh vẽ trên vách đá thạch động từ thủa hồng hoang.
Cái yếu tố trang trí này thường không được nói tới vì e rằng làm giảm giá trị của những tác phẩm hội hoạ nhưng sự thực, trang trí là yếu tính nền móng của nghệ thuật tạo hình và càng nổi bật trong những tác phẩm tối giản.
Nhu cầu trang trí này cần phải hoà nhập, thích nghi với môi sinh của con người. Trong phạm vi này tranh tối giản thích hợp nhất vì luôn luôn chiều theo cảm quan của người thưởng ngoạn.
Hiện nay thì tranh tối giản của Lê Thiết Cương chưa đạt tới mức “thượng thừa tối tối giản” của trường phái Minimalist Tây Phương vì tranh của Cương vẫn còn vận dụng nhiều mầu sắc và những “motif” (những hình ảnh biểu tượng) quen thuộc với văn hóa Việt Nam: một mái chùa, một giáo đường, những người con gái mắt một mí, con trâu, cái nón, cánh diều.
Có thể vì cái mỹ cảm hội hoạ của người Việt vẫn còn mang nhiều nét bảo thủ. Trái lại, với Tây Phương thì không có một hạn chế nào trong mức tối giản thí dụ có những bức tranh chỉ toàn mầu đen hay mầu trắng, hoạc một nét cọ đơn sơ đột xuất.
Với Lê Thiết Cương thì chưa thể nói chắc ông sẽ đứng yên tại chỗ gặm nhấm cái thành quả và vị thế của mình trong giới cầm cọ Việt Nam, một vị thế khá ổn định và đình đám mà ông đã xây dựng suốt 30 năm qua hay một lần nữa Lê Thiết Cương sẽ có một đột phá nào đó như khi ông từ bỏ lối tạo hình quy ước để lại lạc vào một “bến lạ”.
Chưa thể nói chắc vì ông còn trẻ và đang có chiều hướng thiên về những tư tưởng đạo học nhất là của Phật giáo, thiền tập hoặc mải mê nghiên cứu về không gian học (cosmologie). Chiều hướng này tất nhiên đã ảnh hưởng vào những sáng tác của ông trong tranh, trong đồ gốm, và điêu khắc.
Hiện tại, giới thưởng ngoạn có cảm giác như Lê Thiết Cương đang lưỡng lự một lựa chọn nào đó, bước đi của ông như có vẻ chậm lại một chút, nghe ngóng, tìm tòi vì có thể con đường mở vào “bến lạ” từng đưa Lê Thiết Cương lên đỉnh cao đã bắt đầu có những giấu hiệu bế tắc.
Một trong những diễn biến như báo hiệu một đổi dời trong cung cách “Tối giản Lê Thiết Cương” đó là việc mà ông gọi là “Phổ hoạ truyện Kiều” với 24 bức tranh mô phỏng những tình tiết chính trong truyện Kiều .
Tất nhiên đây là một tham vọng lớn lao và khó khăn. Trước đó, hai ông nhạc sỹ Phạm Duy và Trần Quảng Nam từng “liều mạng” thử thách việc phổ nhạc Truyện Kiều nhưng không mấy thành công.
Riêng Lê Thiết Cương với 24 bức tranh phổ Truyện Kiều tôi nghĩ ông cũng không thành công trong việc thể hiện tinh thần và văn chương của truyện nhất là qua đường lối tối giản. Lý do vì tình tiết hoặc tâm lý nhân vật quá phức tạp, tế nhị để gói ghém trong 24 bức tranh. Càng khó hơn khi phải thực hiện với giới hạn tối giản về mầu sắc và hình hoạ.
Cái gọi là “phổ hoạ Truyện Kiều”, thiển nghĩ chỉ là một nỗ lực vô vọng trước những bế tắc mà Lê Thiết Cương đang đối đầu sau 30 năm theo con đướng tối giản nơi bến lạ và đang tìm một bến lạ khác.
Nếu cái tham vọng thể hiện tinh thần Truyện Kiều và văn chương tuyệt tác của Nguyễn Du qua 24 bức “phổ hoạ” tối giản không đạt được mục tiêu thì lại thành công trong một phó sản đó là những bức tranh “giảm độ tối giản” trong phổ họa Kiều vẫn đẹp, nếu người ta quên đi được cái ám ảnh “phổ hoạ”.
Sau phổ họa truyện Kiều, có thể ông sẽ phải tiến lên tới tột cùng của tối giản với những thể hiện mang cái “tính không” của những thiền giả, của những đạo gia Phật giáo hoặc chấp nhận trở lại với những tác phẩm gần gũi hơn với những “vật thể” trong đời thường như những thiếu nữ sinh đẹp đang ở bên cạnh ông trong căn nhà nghe nói giá cả triệu đô.
Họa sĩ và đời sống

Hoạ sĩ ngày trước thường chỉ nổi danh hay thành công sau khi đã chết. Modigliani chết vì bệnh lao, Van Gogh chết vì tự tử bằng súng, Paul Gauguin chết vì ma túy và bệnh tim la (syphilis). Chỉ một số ít may mắn như Claude Monet hay Picasso và.... sao không kể thêm hậu sinh Lê thiết Cương, ngay từ giai đoạn sung mãn nhất cuộc đời cũng đã có một vị thế vững vàng với căn nhà bạc triệu đô ở trung tâm thủ đô.
Ở cái góc Hà Nội này thì quả thật Lê thiết Cương là một tiếng nói có trọng lượng trong sinh hoạt văn học nghệ thuật “đỉnh” của đất Tràng An, thể hiện như phát biểu của chính ông trong một talk show:
“Giống như tôi (ý nói sống sung mãn vật chất và có vị thế) cũng hơi khó vì tôi có bệ đỡ. Đơn giản, tôi là người thành công, tôi nói người ta nghe dù có khó chịu đến mấy người ta vẫn để ý, để tâm, còn người khác thì chưa chắc.”
Tranh của Lê Thiết Cương thì “tối giản” nhưng đời sống thật của Cương thì chẳng tối giản chút nào, từ những bộ quần áo diêm dúa, mầu sắc trái lề, cho đến phụ tùng, chiếc bật lửa hút xì gà Havana, chiếc đồng hồ thông minh, những chiếc nhẫn dị hình. Ăn uống cũng vậy, ăn phải ngon, món nào cũng phải đúng quy cách thực hiện truyền thống, uống rượu cũng phải là thứ rượu mà ông cho là xứng tầm đẳng cấp !!! . Tôi hoang mang không biết rượu nào mới đúng đẳng cấp của ông? Chivas 18, 20, Cordon bleu, Martel... Với tôi chai rượu ngon nhất là một lần nào đó được ngồi uống rượu với vài người bạn tri kỷ hay một lần giữa bom đạn, cùng vài anh bạn lính uông rượư đế “Ông già bật ngửa” trong nón sắt pha coca mà sao ngon quá". Thời bao cấp, mấy ông đỉnh cao văn nghệ nước ta như Văn Cao, Nguyễn Tuân mà vớ được chai Johnny Walker là như đã vớ được tiên tửu.
Đã vẽ tối giản thì khó khăn quá làm gì cho đời thêm rối trí.
Cũng đúng.!!!... nhưng mọi thành công cũng như chiếc mề đay vinh quang luôn có mặt trái của nó. Lê Thiết Cương được mô tả trong giới quen biết là “dị tính, cực đoan” phần nào hơi chảnh.
Tôi có cảm giác cái cung cách này chỉ là bề ngoài mà ông “dụng tâm trình diễn để tô vẽ và củng cố vững chắc hơn cái ghế do chính ông thiết kế và đang ngồi” hơn là bản chất thực của ông nếu nhìn vào cách đối xử của ông với những bậc thầy cũ, những người mà ông kính nể vì kiến thức hoặc tài năng. Ông cũng yêu thơ, nhạc một cách rất hồn nhiên và chân thành.
Lê Thiết cương mới thiết kế và triển lãm một loạt những chiếc ghế lập thể rất mỹ thuật, rất hoành tráng nhưng chắc chắn chỉ để “phô trương” thôi, không phải để ngồi vì mong manh quá, không có một giá trị chân thật và vũng vàng nào!!!!
Có lần tôi định tâm sự với Lê Thiết Cương là: “Ấy...tôi cũng đã từng sống trong những căn nhà mà tính theo thời giá căn nhà 39 Lý Quốc sư của ông cùng phải trên triệu đô... Ấy...vậy mà đã hai lần vứt bỏ nhẹ nhàng không một chút bận tâm vì cuộc đời có nhiều điều giá trị hơn... mất còn thì cũng chỉ là (không) mà thôi”.
Nhận xét của Lê thiết cương về đàn bà thì khỏi nói vì “sai bét”, vì trong cái tối giản của nhan sắc là một khu rừng đầy kỳ bí mà nếu chỉ lượn vòng ngoài như một anh chàng độc thân vui tính thì vẫn “ổn”. Nên thận trong khi bước vào.
Lê thiết Cương yêu thơ, yêu nhạc và thời gian sau này ông thiên hẳn về việc học hỏi, nghiên cứu đạo Phật về khoa học hiện đại và vũ trụ học, với những nhận xét khá tinh tế về quan niệm “tính không” cụ thể trong cuộc sống, trong sự truy tìm ý nghĩa của hạnh phúc, được in trong một sách luận bàn về tranh gốm của ông.
Hi vọng sự chuyển hướng tâm linh này rồi đây sẽ thể hiện không chỉ trong phong cách sống của ông mà còn có trong những nét cọ những tác phẩm tương lai.
Hết.

Đông Duy
Sài Gòn 2023




Phổ hoạ truyện Kiều









Đông Duy & Phan Nguyên











Photo


Dương Tường, Nguyễn Thuỵ Kha, Lê Thiết Cương







Lê Thiết Cương, Hoàng Hưng, ...., Đặng Thái Sơn




Lê Thiết Cương & Nguyễn Huy Thiệp


GIÁ CỦA MÁU
Nguyễn Huy Thiệp

Lê Thiết Cương là một trong những họa sĩ hiếm hoi đi theo lối vẽ tối giản. Đạt được sự thành công như anh không dễ. Lối vẽ này đòi hỏi sự tự tin và minh triết trong ý thức của người vẽ. Sự gợi cảm chính là yếu tố quyết định cho những bức tranh có “ đứng” được hay không? Trong khi bệnh chung của nhiều họa sĩ ở ta là sự đa ngôn, rườm lời, không biết kết thúc ( not finish) thì Lê Thiết Cương đã xuất sắc ở chỗ luôn biết cách dừng lại đúng lúc cho những bức tranh của anh. Sự tiết chế thái quá của một họa sĩ chuyên nghiệp từng hành nghề lâu năm thường đưa người ta đến tình trạng khắc kỷ, bởi vậy - để đạt được trạng thái bình tĩnh, bình thản, chủ động trong hưng phấn sáng tạo - người vẽ bắt buộc phải đa dạng mình bằng một nội tâm phong phú, bằng tri thức hiểu biết, bằng một đời sống thực; anh ta phải “ ăn thịt mình”, anh ta buộc phải nạp điện liên tục cho các “ khoang ắc quy” trong tinh thần và tình cảm, anh ta buộc phải dấn thân, phải chấp nhận một số phận không dễ dàng.
Đấy chính là những bức tranh có giá của máu.
Bài viết của Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp về Triển lãm cá nhân “ Chuyện của Lan” của Hoạ sĩ Lê Thiết Cương năm 2008 tại Thanh Bình Gallery, Tràng Tiền, Hà Nội. Bài viết in trong vựng tập “ Chuyện của Lan”
Nguồn: Nguyễn Huy Thiệp





Nt Lê Thiết Cương, Hs Phan Nguyên, Nguyễn Thuỵ Kha, Nam Dao
ảnh Lê Nuôi Hà Nội 2022















Họa sĩ nổi tiếng tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương


Bùi Trang Chước • Bùi Xuân PháiCát Tường • Công Văn Trung • Diệp Minh Châu • Dương Bích Liên • Hoàng Lập Ngôn • Hoàng Tích Chù • Huỳnh Văn Gấm • Lê PhổLê Văn ĐệLương Xuân NhịMai Trung ThứNam Sơn (hoạ sĩ) • Nguyễn Đỗ CungNguyễn Gia Trí • Nguyễn Khang • Nguyễn Phan ChánhNguyễn Sáng • Nguyễn Thị Kim • Nguyễn Tư Nghiêm • Nguyễn Tường Lân • Nguyễn Văn Tỵ Phan Kế AnTạ TỵTô Ngọc Vân • Trần Đình Thọ • Trần Văn CẩnVũ Cao Đàm









Trở về










MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.