Trần Hải Minh
(1962 - .....) Hà Nội
Hoạ sĩ
Một người nghệ sĩ không thể nào sống hời hợt, phải phấn đấu và luôn nghiêm túc trong công việc, đừng vẽ giống bất kỳ ai trên thế giới và không lặp lại chính mình.
THM
Họa sĩ Trần Hải Minh sinh năm 1962 tại Hà Nội
1977 – 1982 Sinh viên hệ trung cấp Mỹ thuật 5 năm tại Đại học Mỹ Thuật Việt nam
1982 Thi đỗ vào trường Đại Học Mỹ thuật Việt Nam hệ Đại học, bảo lưu để thực hiện nghĩa vụ quân sự
1982 – 1984 Thực hiện nghĩa vụ quân sự, phục vụ tại Bộ tư lệnh pháo binh QĐND Việt nam
1985 Sinh viên năm thứ 1 tại Đại học Mỹ Thuật Việt nam
1985 – 1986 Học tiếng Đức tại Đại học Ngoại ngữ Hà Nội
1987 – 1993 Sinh viên Đại học Nghệ thuật Berlin – (Kunstshochule – Weissensee)
1993 Tốt nghiệp khoa Hội họa trường Đại học Nghệ thuật Berlin
1992 – 1997 Sống và vẽ tại Berlin
1997 tới nay, Sống và vẽ tại Berlin và Thành phố Hồ Chí Minh
11.12 – 17.12. 2021 Triển lãm tranh – hội họa trừu tượng biểu hiện của họa sĩ Trần Hải Minh tại Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Bảo tàng Mỹ Thuật Thành phố Hồ Chí Minh 97 Phó Đức Chính, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ 5:30 chiều, ngày 11 tháng 12 năm 2021 Khai mạc Triển lãm tranh – hội họa trừu tượng biểu hiện của họa sĩ Trần Hải Minh.
Làm chủ bút pháp sáng tạo và nhất quán trong cách thể hiện, họa sĩ Trần Hải Minh với con đường biểu hiện nghệ thuật độc đáo, trong khoảng hai năm 2020 – 2021 đã sáng tác hơn 70 bức tranh khổ lớn và nhỏ chất liệu acrylic, sơn dầu trên toan. Triển lãm lần này “trưng bày” những cung bậc cảm xúc, để người xem được nhìn thấy những tác phẩm thăng hoa trong im lặng. Trần Hải Minh được học tập và nghiên cứu phong cách trừu tượng biểu hiện* với những bậc thày của hội họa thế giới khi anh là sinh viên tại Berlin. Đã nhiều năm qua, anh cặm cụi làm việc, sáng tạo, thực hành nghệ thuật trong không gian riêng tại M Galery Thành phố Dĩ An – Bình Dương.
Người họa sĩ dồn tất cả tâm huyết sáng tạo cho nghệ thuật trừu tượng biểu hiện. Cô đơn, tài hoa và luôn trăn trở với nghệ thuật sáng tạo, điều này thúc đẩy anh tìm một “cõi riêng” cho không gian sống và thực hành nghệ thuật của mình. Hội họa Trần Hải Minh như những bản nhạc giao hưởng, bút lực của anh khi bùng nổ, tràn trề cảm xúc, khi tiết chế đúng lúc, đúng thời điểm, tất cả màu sắc và âm thanh hòa quyện thành bản giao hưởng đẹp đẽ thăng hoa. Màu sắc là ngôn ngữ của phong cảnh, của tâm trạng, của toàn bộ nhận thức của Trần Hải Minh về thế giới vật chất. Màu trong tranh Trần Hải Minh là thế giới nội tâm của anh. Là bình minh, là hoàng hôn và những đêm cô đơn trong thế giới hội họa, hay những trăn trở suy tư về cuộc sống, có cả tính biểu hiện và sự trần trụi cảm xúc. Chiều sâu và sự thu hút trong tranh trừu tượng biểu hiện của Trần Hải Minh luôn hiện hữu mạnh mẽ, vì ở đó ta luôn nhìn thấy một không gian mở ra. Luôn có một góc trời, có những góc gợi hình ảnh một vật thể từ thiên nhiên, con người… Không gian không phải là 2 chiều phẳng bẹt, mà luôn gợi đến 3 chiều, một không gian mở ra. Đó cũng là một điều mới của Trừu tượng Biểu hiện mà ít hoạ sĩ vẽ theo cách này. Đó cũng là sự khác biệt của Trần Hải Minh.
Trần Hải Minh đi con đường độc đạo, để bộc lộ sự sáng tạo từ con người của mình. “Tôi qua trời Âu học để trở thành nghệ sĩ người Việt có kiến thức châu Âu, không phải thành một nghệ sĩ châu Âu. Chính những đường nét táo bạo, màu sắc mạnh mẽ và sự tự do trong cách vẽ, mới thể hiện được bản ngã sáng tạo của người họa sĩ. Trần Hải Minh đã dành gần như cả cuộc đời mình cho trường phái trừu tượng biểu hiện, để anh có thể tự hào về những bức tranh của mình. Những bức tranh nói lên bản thân anh là ai và những thăng trầm mà anh đã trải trên con đường đã chọn.
Sáng tạo, sáng tạo, đó là chứng chỉ duy nhất của tài năng!
Câu nói này của anh, thể hiện quan điểm sáng tạo, sống và làm việc của họa sĩ Trần Hải Minh.
*Chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng (Abstract expressionism)
Xem Tranh Trần Hải Minh
Triển lãm tranh ‘Trần Hải Minh 2022’ -
cuộc phiêu lưu cùng ‘trừu tượng biểu hiện’
Trần Hải Minh là họa sĩ từng nhận học bổng đi du học ngành hội họa tại Đức ở tuổi 24. Kể từ khi về nước năm 1997, Trần Hải Minh giữ ngọn lửa “tiên phong” đưa phong cách hội họa trừu tượng biểu hiện về Việt Nam và liên tục triển khai các hoạt động triển lãm để đưa phong cách này tới gần hơn với công chúng yêu hội họa.
Họa sĩ Trần Hải Minh cùng các bạn nghề trong buổi khai mạc triển lãm.
Ở triển lãm “Trần Hải Minh 2022” lần này, vẫn là acrylic, sơn dầu trên toan, nhưng họa sĩ Trần Hải Minh “ưu tiên” những bức tranh khổ lớn như thể trút hết tâm can. Tranh của họa sĩ Trần Hải Minh được đánh giá là tạo nên những kịch tính thị giác khi người họa sĩ chồng lên nhiều lớn sơn khiến màu sắc ẩn hiện, tạo ra chiều sâu huyền ảo, khiến người xem muốn biết những gì ẩn ở bên trong.
Trong buổi khai mạc triển lãm “Trần Hải Minh 2022”, khi trao đổi với các họa sĩ cũng như người xem tranh, họa sĩ Trần Hải Minh nhấn mạnh tuyên ngôn sáng tác anh luôn theo đuổi: “Sáng tạo là chứng chỉ duy nhất của tài năng”.
Tác phẩm "Lúa vàng".
Họa sĩ Trần Hải Minh sinh năm 1962, tại Hà Nội. Ngay trước thời điểm lên đường tới Berlin (Đức) du học, anh có cơ may được xem triển lãm hội họa có sự tham gia của các hoạt sĩ lớn như Wilhem Nay, Emil Schmacher, Sigmar Polke, Ansem Kiefer… Cùng với đó, anh được các thầy giáo cho phép tự chọn phong cách, trong đó có những trào lưu nghệ thuật rất mới lạ. Từ những sách vở rất hiếm trong thư viện của trường, Trần Hải Minh đã nhận thấy tiếng gọi của phong cách trừu tượng biểu hiện và đã dứt khoát đi con đường này.
Tác phẩm "Biển".
Tác phẩm "Mùa hoa phượng".
Gần 30 năm miệt mài theo đuổi con đường riêng, họa sĩ Trần Hải Minh dần hé lộ những tác phẩm mà anh gọi là “thăng hoa trong im lặng” đến với công chúng yêu hội họa bằng những cuộc triển lãm. Đến nay, họa sĩ Trần Hải Minh đã tổ chức gần 40 cuộc triển lãm cá nhân và triển lãm nhóm.
Tác phẩm "Bình minh".
Triễn lãm tranh hội họa trừu tượng biểu hiện” Trần Hải Minh 2022” của họa sĩ Trần Hải Minh diễn ra từ ngày 11 - 21/4 tại Gallery Art Space - Đại học Mỹ Thuật Việt Nam (42 Yết Kiêu, Cửa Nam, Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Tranh Trần Hải Minh
Họa sĩ Trần Hải Minh tổ chức triển lãm cá nhân thứ ba15:00, 02/07/2023
Trong không gian Bảo tàng Mỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh, họa sĩ Trần Hải Minh đã tổ chức triển lãm cá nhân thứ ba của mình với các tác phẩm thuộc trường phái Biểu hiện trừu tượng (Abstract expressionism).
Họa sĩ Trần Hải Minh không phải là cái tên xa lạ trong giới nghệ thuật Việt Nam với ba triển lãm cá nhân được tổ chức trong nước. Ông từng có thời gian du học tại Đức, tốt nghiệp Học viện Nghệ thuật Berlin và hoạt động nghệ thuật tại đây từ năm 1987 đến 1997, sau khi học xong Trung cấp Mỹ thuật Hà Nội và sau hai năm thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Họa sĩ Trần Hải Minh
Thời gian học tập tại nước ngoài cũng là giai đoạn thống nhất nước Đức trên nhiều phương diện, từ chính trị, xã hội đến văn hóa. Vì thế, cũng như các nhà văn và nghệ sĩ khác, ông đón nhận tinh thần tự do hiện đại và chủ nghĩa Hậu hiện đại trong sáng tác.
Chính thức trở về Việt Nam định cư và hoạt động nghệ thuật chính tại Sài Gòn từ năm 1997, nhưng ông đã có cho mình triển lãm cá nhân đầu tiên được tổ chức trong nước vào năm 1995 tại trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam tại Hà Nội.
Hành trình nghệ thuật của Trần Hải Minh thể hiện rõ nét qua sự chuyển biến từ phong cách Biểu hiện (Expressionism) sang Trừu tượng. Có tên gọi “Trần Hải Minh – Ý niệm và Biểu Hiện”, triển lãm cá nhân thứ ba của ông gồm có 60 tác phẩm Biểu hiện trừu tượng mà ở đó, mỗi bức tranh là một “tâm cảnh”-một loại phong cảnh tinh thần-đầy xao động và biến động, với bút pháp mạnh mẽ, lưu loát và biến ảo hiếm thấy…
Triển lãm được tổ chức tại Bảo tàng Mỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh, diễn ra từ ngày 2 – 9/7/2023 với sự hỗ trợ và đồng tổ chức của Gallery Medium.
Thực hiện: Hoàng Lê
Chúng ta đang đứng trước một ngã ba...
Bạn đọc đã có dịp gặp Trần Hải Minh cách đây 3 năm trong một bài báo có tên "Hội hoạ thật sự là cái gì đó rất ê chề!" trên tuần báo Thể thao-Văn hoá xuất bản tại Việt Nam năm 2000. Trần Hải Minh là người được học hội hoạ từ nhỏ, được đi du học và sống 13 năm tại châu Âu (CHLB Đức) rồi trở về sống tại Sài Gòn, hiện đang chuẩn bị khai mạc một gallery riêng của mình, gallery "M". Nhưng câu chuyện của chúng tôi hầu hết lại đề cập tới những vấn đề thời sự của nghệ thuật tạo hình Việt Nam và thế giới.
1. Nếu có thể coi nghệ thuật như một hành trình nhận thức thì hội hoạ Việt Nam hiện tại đang ở đâu trên bản đồ nghệ thuật thế giới?
Có thể hình dung hội hoạ Việt Nam ở thời điểm này như trên một con đường và đang đứng trước một ngã ba. Rẽ phải sẽ là con đường dẫn đến những đô thị nghệ thuật (nhưng đó là con đường dài xa lắc với không ít trắc trở, rủi ro) còn rẽ trái sẽ đến ngay một thị tứ sầm uất bán mua -"thị tứ gia công và xuất khẩu tranh vẽ". Đường đến đó an toàn, ngắn và ít rủi ro. Ngày hôm nay, phần đông hoạ sỹ Việt Nam đã ồ ạt rẽ trái theo bản năng, họ không cần tiếng gọi của lương tâm nghề nghiệp vang lên từ phía bên phải. Hơn bao giờ hết, "củ cà rốt" đã kêu gọi họ một cách thiết tha!Họ có quyền và đầy đủ lý do để làm như vậy - và mặc dù cũng biết được đó là cái ngõ cụt nghệ thuật - không có đường ra- nhưng đó là cuộc sống! Chẳng ai trách họ cả vì tất nhiên người ta ai cũng phải sống.
Còn chúng ta đang nói về nghệ thuật. Con đường bên phải vắng bóng người, ai đi trên đó đều đáng được tôn trọng vì đã dám dấn thân (và họ cũng có những vấn đề của họ, sau đây chúng ta sẽ bàn đến - đặc biệt là những người trẻ).
Con đường rẽ phải hôm nay không còn rào chắn nhưng tiếc thay lại ít người đi. Và ngày hôm nay một đám đông hoạ sỹ trẻ, trước khi khởi hành, họ tự nhiên nhìn sang bên trái theo bản năng. Chỉ có một số ít hướng sang bên phải, đó là những người mong muốn đến với nghệ thuật thực sự.
2. Chúng ta cũng phải nhắc đến một thế hệ họa sỹ thời chiến tranh. Họ cũng là những người đầy lý tưởng và được đào tạo kỹ, giờ đây họ đang ở đâu?
Họ dừng lại ở chỗ rẽ của hai con đường Rẽ phải xưa kia có rào cản - còn rẽ trái thì lúc trước là con đường đầy cỏ dại – họ dừng lại theo mệnh lệnh. Họ có thể vẽ theo phong trào, họ có những đề tài của họ nhưng họ đã có những đóng góp nhất định không thể phủ nhận.
3. Có một số đã can đảm vượt qua nhưng bị "ngắt ngọn" quá sớm, thành quả mới ở mức thể nghiệm. Và thật nghiệt ngã, họ chỉ tồn tại như những huyền thoại và vì những lý do ít nhiều mang tính lịch sử và xã hội hơn vì là nghệ thuật của họ. Anh nghĩ sao về điều này?
Chị muốn nhắc đến các họa sĩ như: Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên…? Không, họ không bị "ngắt ngọn". Trong một ý nghĩa nào đó, họ đã tỏ ra kiên cường và đã phát triển thành những cây đại thụ của nền hội họa Việt Nam. Họ đã làm xong phần việc của mình, cống hiến của họ trong lịch sử hội hoạ Việt Nam cận đại là không nhỏ.Và chúng ta thử nhìn lại mà xem. Họ đã rẽ phải, vượt qua bariere và tiến lên, tuy rằng chưa đến đích nhưng tên tuổi của họ ngày hôm nay xứng đáng được nhắc đến một cách trân trọng. Ngày hôm nay chẳng còn rào cản, nhưng thế hệ của tôi và những người trẻ hơn thì đang chen lấn nhau để rẽ trái, đó là lý do để thế hệ tiền bối càng đáng trân trọng. Họ là những tấm gương cho tất cả chúng ta, những họa sỹ (hay những người hy vọng trở thành họa sỹ) và đặc biệt cho những ai muốn dùng nghệ thuật để mưu danh cầu lợi.
4. Gần đây Việt Nam xuất hiện một số thể loại nghệ thuật mới như performence, installation hay media-art cùng với một thế hệ hoạ sĩ - nghệ sĩ "tiên phong" cho trào lưu này. Theo quan điểm của anh, nó "rẽ phải" hay "rẽ trái"?
Vâng, đó là những khuynh hướng sáng tác mới ở Việt Nam hay châu Á- nhưng nó đã có ở châu Âu từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Joseph Beuys tiếp thu những ý tưởng cách tân của M.Duchamp đã đẩy những loại hình nghệ thuật này đến đỉnh điểm. Installation có thể coi như đứa con của hội hoạ và điêu khắc. Sau đó còn được các học trò của Beuys như Kiefer hoàn thiện và làm thành sáng chói. Installation là nghệ thuật của các nghệ sĩ đã thành thục về kỹ năng hội họa và có kiến thức vững vàng về điêu khắc, bởi vậy là thể loại nghệ thuật khó khăn dành cho những nghệ sĩ chuyên nghiệp.
Còn performance là một thể loại khác hẳn, không dính dáng gì đến hội hoạ hay điêu khắc. Khi Beuys hoàn thiện nó, nhằm mục đích bàn giao cho công chúng yêu nghệ thuật, ông đã xác định 2 hình thức trình diễn:
1- Trình diễn không có lời thoại (hình thức này phải rất ấn tượng, súc tích và ngắn).
2- Trình diễn có lời thoại (hình thức này có thể dài nhưng lời thoại phải cuốn hút người xem và phải chuyển tải những tư tưởng cụ thể hay những ẩn dụ nhất định).
Ngày hôm nay ở châu Âu, công chúng đã tiếp thu và đảm nhiệm thể loại nghệ thuật này. Performance dễ thực hiện: chỉ cần có một ý tưởng nào đó về nội dung, sau đó luyện tập một chút là có thể trình diễn, không nhất thiết phải là nghệ sỹ chuyên nghiệp mới làm được (đó cũng là một trong những thành tựu của performance). Nó làm cho những ngày nghỉ cuối tuần hay những kỳ nghỉ dài của công chúng yêu nghệ thuật trở nên phong phú và có văn hoá hơn. Bởi vậy có thể gọi perfomance là "nghệ thuật ngày Chủ nhật". Như vậy, ý tưởng ban đầu của Beuys: "Mang nghệ thuật đến thẳng công chúng" đã được thực hiện và duy trì. Ngày hôm nay, bên cạnh những nghệ sỹ nghiệp dư hay chuyên nghiệp vẫn trung thành với những ý tưởng trong sáng và đầy tính nhân bản của Beuys, đã xuất hiện nhiều cá nhân lợi dụng thể loại nghệ thuật này để mưu cầu danh vọng. Họ có lẽ là những con người ít nhiều bệnh hoạn, mạo danh nghệ thuật để thực hiện những hành vi đôi khi đồi bại, điên khùng, thậm chí là ngu ngốc : ăn đất cát, nằm trong tảng nước đóng băng, nhảy từ nhà cao tầng, đeo cột thu lôi đi dưới trời giông, tụ tập trong phòng kín để khỏa thân và vẽ lên thân thể những hình ve thô tục, hoặc ngang nhiên giễu cợt tín ngưỡng của người khác. Họ hành động chỉ vì bế tắc, bất tài và ham hố danh vọng. Nhưng kết quả là họ chỉ đưa ra những thông điệp của sự dốt nát mà thôi. Lẽ ra họ nên hiểu rằng sự tôn trọng của công chúng chỉ dành cho những nghệ sỹ chân chính, những lao động nghệ thuật nghiêm túc nhằm cống hiến cho sự khai mở tri thức và sự tiến bộ của nhân loại.
Còn media-art là tổng hợp những thể loại kể trên cộng thêm phần hình ảnh của video và phần âm thanh - audio. Cũng khó có thể làm tốt nếu như không vững vàng về kỹ năng ngôn ngữ và thể hiện. Nếu không đủ tầm, những “tác giả” này thường được xem là "hoạ nhất trường nhạc, nhạc nhất trường hoạ"!
Đó tạm gọi là những trào lưu "mới mẻ" hiện tại ở châu Á chúng ta, nhưng rõ ràng chẳng còn mới với châu Âu. Chúng ta hãy tiếp nhận nó một cách điềm tĩnh – đừng ồn ào về những "cách tân" đã lỗi thời này!
5. Anh nhận xét gì về các cuộc triển lãm installation, performance và những đại diện tiên phong của nó ở Việt Nam?
Ở châu Âu, trước khi đến với installation thì người nghệ sỹ đã rất vững vàng về kỹ năng hội hoạ hay thậm chí đã là những danh hoạ như A.Tapies. Ở Việt Nam thì dường như ngược lại: không vẽ được thì "sắp đặt" và bao giờ cũng có lời biện minh rất giống nhau: "Không gian hai chiều không đủ cho tôi…". Nhưng như tôi đã nói, installation dường như là đứa con được sinh ra từ hội họa và điêu khắc. Nếu chưa vẽ được đàng hoàng, không hiểu biết kỹ càng về điêu khắc mà định làm "sắp đặt" thì sẽ ra sao nhỉ? Họ nói sao thì nói, nhưng tôi biết chắc chắn họ chưa bao giờ là họa sĩ theo ý nghĩa đích thực của từ này. "Sản phẩm" của họ, bởi vậy tùy tiện và thiếu khả năng tạo hình –không có ngôn ngữ của điêu khắc, yếu về hội họa, lờ mờ về ý tưởng – đôi khi nhầm lẫn giữa décoration (trưng bày sản phẩm hàng hóa) và installation. Điều đó là hiển nhiên, vì với thực trạng của hội họa Việt Nam hiện tại sẽ rất khó có thể có những phẩm installation có giá trị.
Tôi đã nhận xét về installation của Việt Nam. Còn performance ở Việt Nam thì khác hẳn với những gì mà tôi đã xem và được học ở châu Âu (tuy không phải là tất cả nhưng phần lớn). Ở ta, các cuộc "trình diễn" đã diễn ra một cách ngẫu hứng, không có một ý tưởng, một thông điệp cụ thể hay ẩn dụ nào. Người trình diễn tuỳ tiện đi lại, nói hát, khóc i ô... Có khi họ diễn rất lâu (mà cũng chẳng có lời thoại), cuộc trình diễn dài hay ngắn là tuỳ vào sức khoẻ của người diễn!(?)
Cuối cùng, người xem ra về và chẳng hiểu người diễn định nói gì với mình, vì thực ra người diễn cũng có ý tưởng nào đâu! Có chăng là một ý tường mù mờ, lẫn lộn giữa sân khấu kịch và vũ đạo (mà lại toàn những động tác tồi), hay có thể nhầm là một màn múa nền cho một bài hát (mà thiếu ban nhạc) hoặc một tiết mục tạp kỹ- ảo thuật nào đó.
Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng phải tôn trọng công chúng. Nghệ thuật tự cổ kim là để phụng sự con người. Ngày hôm nay, có thể họ (công chúng ở Việt Nam) chưa có thời gian, điều kiện để nghiệm trải nghệ thuật như ở các quốc gia tiên tiến, nhưng sau đây thì họ sẽ biết – khi đó họ sẽ coi thường những nghệ sĩ đã đưa ra cho họ những món ăn tinh thần dỏm.
Tôi rất ngỡ ngàng khi nói chuyện cùng các hoạ sĩ trẻ. Họ hiểu mù mờ về lịch sử mỹ thuật, thiếu kiến thức về văn học và càng không có chút kiến thức nào về triết học Tất nhiên họ còn trẻ, không thể đòi hỏi những nghiệm trải sâu sắc từ cuộc sống, tài năng thì đuối nhưng nhiệt tình thì lại dư thừa!…Cuộc đời của người hoạ sỹ thường phải trải qua 3 giai đoạn: tuổi 20 rèn luyện kỹ năng, tuổi 30 tập sáng tạo, tuổi 40 sáng tạo (nếu như có thể), nhưng các nghệ sĩ trẻ ở Việt Nam thì một phần lớn do quá sốt ruột, đã bỏ qua hầu hết quá trình tập luyện mà chỉ muốn có ngay cái mà họ muốn. Họ rất khác nhau nhưng lại giống nhau ở một điểm: dường như hầu hết các hoạ sĩ trẻ không sao bình tĩnh được trước cám dỗ của danh vọng và tiền bạc. Hầu như ai cũng muốn nổi tiếng và giàu có tức khắc. Họ phải biết rằng đó chính là những rào cản trên con đường tiến đến những giá trị đích thực của nghệ thuật. Ở đây tất nhiên phải nói đến cái lỗi của những giáo trình đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng mỹ thuật Việt Nam đã bỏ qua những kiến thức cần thiết về các trào lưu nghệ thuật hiện đại (vốn dĩ đã tồn tại cả 40 - 50 năm).
6. Về cơ bản, tôi không đồng ý với anh. Danh vọng là một nhu cầu chính đáng. Trong số những người mà anh nói tới, có những người rất hồn nhiên, hồn nhiên đến tội nghiệp. Điều đáng ghi nhận là họ vừa học vừa làm (và có thể làm sai, đúng không?). Nếu có thể ví von : nghệ thuật thể nghiệm của chúng ta hiện nay giống như một lán trại nhỏ dưới tán rừng rậm rạp âm u thì tôi thích những người hành động theo câu châm ngôn: "Thà đốt lên một que diêm còn hơn là ngồi mãi trong bóng tối". Anh không thấy sự xét nét, đa nghi, sự so đo, mặc cảm và những kinh nghiệm vẻ vang của quá khứ vào lúc này chính là những rào cản lớn nhất hay sao?
Tất nhiên cần phải cổ vũ, khích lệ, ủng hộ những nghệ sĩ theo huynh hướng này (đặc biệt là những nghệ sĩ trẻ) nhưng cần phải nói thẳng những mặt trái của vấn đề (đó cũng là điều mang lại lợi ích cho họ). Ngược lại, những người muốn theo đuổi khuynh hướng này cũng phải học hỏi nhiều hơn nữa, Không được học thì không có lỗi. Được học mà không học không đến nơi đến chốn thì là một cái lỗi. Còn học không đến nơi đến chốn mà mang ra "trưng diễn" thì lại là lỗi lớn hơn. Lý thuyết " một que diêm" có ý nghĩa gì khi cả một cánh rừng chưa sáng? Phải là cả một bó củi hay rất, rất nhiều bó củi thì mới có thể làm sáng cánh rừng. Tất nhiên, không phải dễ dàng gì để có thể tập hợp được "những bó củi".
7. Theo tôi, lúc này điều chúng ta muốn chống lại nhất là sự giả dối. Sự ngây ngô không đáng ghét bằng sự giả vờ tinh thông. Dường như phê bình nghệ thuật bây giờ rất dễ có một nhận xét chung, vĩnh viễn đúng trong mọi trường hợp: " Cái trò này Tây nó làm từ đời nào rồi!". Những nhà phê bình thường chạy sau những nghệ sỹ và kêu lên như vậy hoặc hô hoán là "bị đô hộ"hoặc "lai căng”,“thiếu bản sắc" v.v… Tôi dám chắc ít nhất là một nửa số người đã từng nói những câu đó chưa bao giờ bước chân ra nước ngoài, hoặc nếu có ra nước ngoài thì cũng chỉ là "cưỡi ngựa xem hoa" chưa đủ ngoại ngữ lẫn tâm thức để xem đến nơi đến chốn một "trò" nào do "Tây" thực sự làm chứ chưa nói đến chuyện hoà nhập và nghiệm trải nền văn hoá của phương Tây. Anh nghĩ gì về điều này?
Ai nói như vậy thì đừng vẽ bằng sơn dầu, đừng nghe nhạc giao hưởng, đừng xem phim, đừng mặc Âu phục, đừng đi máy bay,đi ôtô… nữa. Sao họ không chỉ mặc áo the, mang khăn đóng và đi bộ? Có lẽ họ là những người thụ hưởng thì muốn nhưng đổ mồ hôi sôi nước mắt thì không. Một số học giả bảo thủ khi nói đến sự tiếp thu những tinh hoa của phương Tây đã vội vã dùng từ "bị đô hộ" đầy tự ti. Tôi tự hỏi, tại sao không dùng từ "tiếp thu" đầy tự tin? Có biết bao giá trị phương Đông mà người châu Âu đã nồng nhiệt tiếp nhận (hay tiếp thu): Albert Einstein, cha đẻ của thuyết tương đối đã rất say mê Kinh Dịch, Van Gogh thán phục tranh khắc bản của phương Đông xa xôi, G. Klim đã khai thác triệt để những motiv và cách xử lý mảng dẹt của hội hoạ Nhật Bản ( hội hoạ mặt phẳng, không cần đến những khái niệm của không gian ba chiều) hay Tapies đã say mê, áp dụng và khai thác triệt để thuật thư pháp của những nước theo truyền thống Nho giáo phương Đông. Theo tôi, không nên hạn hẹp và giáo điều. Chủ nghĩa "dân tộc hẹp hòi" không thể tồn tại trong đời sống nghệ thuật.
Cái gì hay, tốt, mang lại nhữntg ý nghĩa nhân bản thì chúng ta hãy cố gắng tiếp thu một cách có chọn lọc và kỹ lưỡng như có thể. Tiếp thu được thì hãy cố gắng làm theo cho tốt. Đó gọi là kế thừa chứ không phải "lai căng" hay “bị đô hộ".
Tôi cũng có một nỗi lo sợ mơ hồ rằng: Biết đâu khi châu Á đã cường thịnh thì chính những người thích dùng từ "bị đô hộ" kia sẽ vùng lên trả thù? Khi đó, biết đâu ï những người này sẽ trở thành những cai ngục đáng sợ của những người châu Âu đến lượt mình “bị đô hộ”! Bởi vậy theo tôi, hãy dùng từ "tiếp thu","kế thừa" thay cho từ "bị đô hộ","lai căng" thì có hậu hơn. Chúng ta hãy tiếp thu cái hay của người khác để khắc phục cái dở của mình, học hỏi cái đẹp của người khác để điều chỉnh cái xấu, cái chưa hoàn thiện của mình, khi đó sẽ có tiến bộ.
Tôi nhớ câu chuyện ngụ ngôn phương Đông "Lữ khách và người chỉ đường". Người lữ khách hỏi một cụ già: "Thưa cụ, đường đi ở đâu?". Cụ già trả lời: "Cứ đi rồi sẽ có đường". Nhưng câu chuyện ngụ ngôn này đáng tiếc lại không phù hợp với nghệ thuật tạo hình châu Á hiện nay. Châu Á chúng ta chưa thể đi tiên phong về nghệ thuật tạo hình hiện đại. Đó là đương nhiên…. Nhưng nếu không phải là những người tiên phong, mở đường thì hãy đi vững buớc, thẳng thắn, đúng hướng trên con đường mà người khác đã khơi mở. Nếu có điều kiện sánh vai cùng với họ thì tốt, nhưng nếu đi sau một chút thì cũng có sao đâu, miễn là đàng hoàng khi đi trên con đường đã được khai phá kia.
8. Nhân tiện xin hỏi. Anh là một trong những người được Nhà nước chọn đi du học ở nước ngoài về nghệ thuật tạo hình. Sau hơn 13 năm học tập và làm việc như một hoạ sĩ chuyên nghiệp tại một trong những kinh đô lớn của nghệ thuật, đâu là con đường mà anh chọn? Việc lớn nhất anh và bạn bè có thể làm để thúc đẩy nhanh quá trình phát triển và hội nhập nghệ thuật Việt Nam ngay lúc này là gì?
Tôi đã tự chọn con đường của mình từ trước đây 17 năm tại Berlin (lúc đó còn là Đông Đức) khi lần đầu tiên tôi được xem triển lãm hội hoạ của các họa sỹ theo trường phái "Hậu hiện đại" (Postmodernism). Khi đó, tôi đã thật sự bàng hoàng. Và đó đã là một cú sốc mạnh mẽ cho hành trình nghệ thuật của tôi.
Từ đó đến nay, tôi làm việc theo đường hướng của trào lưu này. Đó là một đường hướng hoàn toàn mới mẻ trong nghệ thuật tạo hình. Người nghệ sỹ đã vươn tới bầu trời tự do trong sáng tạo, không gian ba chiều liền mạch, những đối tượng và hình ảnh cụ thể đã không bị sao chép lại một cách máy móc lệ thuộc. Hoàn toàn tự do nhưng những tác phẩm vẫn làm người ta nhớ đến những phương pháp biểu đạt mãnh liệt của những họa sỹ theo khuynh hướng Biểu hiện hay đến tính nghiêm cẩn của hội hoạ Paul Klee. Về xử lý không gian hai chiều cũng như chất liệu hội hoạ, những bức tranh theo khuynh hướng này đã có những bước tiến đáng kể, mặt phẳng (hay không gian hai chiều) đã không còn tuân theo các quan niệm cố hữu. Trên bề mặt để vẽ (không nhất thiết phải là vải mà có thể là gỗ, gỗ láng xi măng, sắt hay những chất liệu tương tự ), họa sỹ có thể cào rạch, đốt thủng, đắp dày, treo những đồ vật, v.v... Tóm lại, tất cả đều tuỳ thuộc vào xúc cảm và quan niệm của từng cá nhân. Bức tranh có thể có hình ảnh hoặc không có hình ảnh, có thể có tên hoặc không có tên… Tác phẩm tất nhiên không sao chép lại những hình ảnh cụ thể nào đó, mà được vẽ ra từ ký ức, trí tưởng tượng của cá nhân người họa sĩ. Nhưng cũng như mọi thể loại nghệ thuật khác, cuối cùng nó vẫn phải mang đến một thông điệp tinh thần cho người thưởng thức. Tôi đã trở về sống trên mảnh đất này và đã tiếp xúc với nhiều họa sỹ Việt Nam nhưng rất tiếc là có rất ít người biết đến postmodernism (chủ nghĩa hậu hiện đại). Bởi vậy, tôi không muốn những thành tựu của postmodernism cũng đến với chúng ta muộn mằn như installation và performance. Từ nhiều năm nay, tôi đã cố gắng giới thiệu với giới sáng tác cũng như công chúng thưởng ngoạn về các khuynh hướng hiện đại và hậu hiện đại trong nghệ thuật tạo hình bằng các bài dịch, bài viết, các hình ảnh từ sách báo… và sắp tới đây sẽ là hội hoạ của tôi.
9. Và tôi cũng được biết trong vài ngày tới anh sẽ khai trương gallery cá nhân, Gallery "M". Vậy cụ thể anh chỉ bầy tranh của anh hay anh cũng sẽ tổ chức triển lãm với các họa sỹ khác? Và anh cũng sẽ giới thiệu gallery của anh ở nước ngoài chứ?
Vâng, đúng như vậy. Gallery "M" sẽ được khai trương trong một vài ngày tới. Trước hết, tôi sẽ chỉ triển lãm những tác phẩm của tôi, bao gồm: hội họa, Installation, điêu khắc gốm, đồ họa (in đá, khắc kẽm, khắc gỗ, in lưới..vv..) Nhưng sau đó, tôi sẽ tổ chức triển lãm những hoạ sĩ mà tôi đánh giá cao tác phẩm của họ. Sẽ có bẩy người (5 hoạ sỹ và 2 nhà điêu khắc) sẽ thường xuyên triển lãm ở gallery của tôi, cũng như khi có điều kiện thì các họa sỹ đương đại Đức (trước hết sẽ là những người bạn Đức của tôi ở Berlin) cũng sẽ triển lãm ở đây. Tôi nghĩ lúc này cần phải trình bày cho công chúng những tác phẩm có giá trị nghệ thuật (hoặc hướng đến nhừng giá trị nghệ thuật) thực sự ø cần thiết, còn mới mẻ và hiện đại đến đâu chúng ta sẽ bàn sau. Mục đích là để công chúng có thể phân biệt nghệ thuật thật sự và nghệ thuật giả mạo, cũng như thế nào là hiện đại thật sự và hiện đại giả mạo. Điều đó có thể cũng chỉ là hy vọng, nhưng chúng ta có quyền hy vọng chứ?
Xin cảm ơn anh.
(Người thực hiện:TƯỜNG VÂN)
Góp ý với Trần Hải Minh
Như Huy
Trước hết, phải khẳng định ngay rằng động cơ của bài viết này của tôi không nhằm mục đích ngăn cản ước muốn mang những thành tựu hậu hiện đại đóng góp cho nghệ thuật Việt Nam của Họa sĩ Trần Hải Minh. Bài viết này được viết với mục đích chỉ ra một số sai lầm về mặt học thuật cũng như nhằm phê phán cái thái độ trịch thượng “múa gậy vườn hoang” của họa sĩ Trần Hải Minh trong cuộc phỏng vấn do nhà báo Tường Vân thực hiện. (Xem bài Chúng ta đang đứng trước một ngã ba...)
Có thể thấy rằng trong các phát ngôn của mình, họa sĩ Trần Hải Minh (người tự nhận là đã đi theo chủ nghĩa hậu hiện đại từ cách đây 17 năm) rất thích thú với những bài giảng moral khụng khiệng về đạo đức cũng như những siêu tự sự (metanarratives) lãng mạn về một loại nghệ thuật cao (high art) phục vụ con người. Tuy nhiên, thật đáng hài hước, chủ nghĩa hậu hiện đại thật ra lại chính là một nỗ lực để từ khước toàn bộ những dạng siêu tự sự về tính chất chung (universality) theo kiểu cái loại nghệ thuật cao đó, cái mà họa sĩ Trần Hải Minh ảo tưởng. {Nhân tiện đây, cũng xin lưu ý với họa sĩ Trần Hải Minh là, không có một trường phái chung nào mang tên là trường phái hậu hiện đại trong nghệ thuật như anh nói cả. Chỉ có chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) và những trào lưu nghệ thuật được sinh ra trên tiền đề của chủ nghĩa ấy. Ví dụ như Anselm Kieffer là một nghệ sĩ của chủ nghĩa hậu hiện đại, tuy nhiên ông làm việc theo trường phái biểu hiện mới (neoexpressionism), cũng như một số nghệ sĩ Đức khác như Penck, Sigmar Polke, Baselittz hay là Joerg Immendorff; hay một trường phái nghệ thuật khác cùng thời điểm và có nhiều liên hệ với trường phái “biểu hiện mới” là “transavantguardia” (tạm dịch là liên tiền phong) với các nghệ sĩ Italia tiêu biểu như Enzo Cuchi, Sandro Chia hay Clemente (xem thêm: Irving Sandler, Art of the Postmodern Era: From the Late 1960s to the Early 1990s – chapter 9: "The Italian Transavantguardia and German Neoexpressionism").Và như thế, theo tôi hiểu, hoàn toàn không có cái gọi là “trường phái hậu hiện đại” như Trần Hải Minh khẳng định rằng đã xem cuộc triển lãm của các họa sĩ của trường phái đó cách đây 17 năm.}
Họa sĩ Trần Hải Minh cũng dành rất nhiều ngôn ngữ mạnh mẽ (chứng tỏ sự phẫn uất cao độ) khi đề cập tới những cái (mà anh) gọi là sự ngu ngốc và vô đạo đức của những nghệ sĩ thường tụ tập trong phòng kín để khỏa thân, vẽ những hình ngô nghê lên người, chế giễu tín ngưỡng của người khác, v.v... (Theo tôi hiểu, đây là lời chê bai của Trần Hải Minh dành cho những tác phẩm của những nghệ sĩ hậu hiện đại xuất sắc nhất như Marina Abramovich, Ulay, Nam Jun Park, Yoko Onno, John Cage, Vito Acconci, Bill Viola, Gilberg and Georger, Peter Campus, Mike Kelly, Jim Shaw, Paul Mc Cathy, Bruce Nauman, Guenter Brus, Matthew Barney, Damien Hirst, v.v... – những tác phẩm có đầy dấu hiệu như của thứ nghệ thuật vô đạo đức mà họa sĩ Trần Hải Minh chê bai). Tôi không hiểu nếu anh Trần Hải Minh biết rằng: không chỉ có tụ tập ở trong phòng làm trò khỏa thân với nhau, mà một số những kẻ “vô đạo đức” hơn nữa còn rủ rê nhau khỏa thân trước đông người cơ; thậm chí có đứa còn là trùm vô đạo đức khi quay phim và chụp ảnh cảnh thủ dâm hay cảnh làm tình của (thật là tởm!) đàn ông với nhau và đem ra triển lãm; đặc biệt có những đứa còn (ôi thương tâm thay!) đang tâm xẻ đôi thịt của những con vật hiền lành không làm hại ai như bò chẳng hạn, rồi sau đó đem ngâm trong hormone cho công chúng xem. Không biết anh sẽ phẫn uất (đến phát ngất) đến thế nào nữa.
Giải thích về những tác phẩm của những nghệ sĩ bị Trần Hải Minh chê là ngu ngốc thì thật là dài dòng và tôi e điều đó không cần thiết cho bài viết ngắn này. Có rất nhiều cuốn sách đã xuất bản với mục đích tổng kết hoặc nghiên cứu kỹ lưỡng những trào lưu nghệ thuật cuối thế kỷ 20 có thể cung cấp thông tin về những vấn đề ấy. Tuy nhiên, theo hiểu biết hạn hẹp của tôi, tôi xin gợi ý vài cuốn khá có ích:
1. Frank Popper. Art of the Electronic Age (London: Thames and Hudson, 1997). [Đặc biệt nên xem các chương 3, 4, 5].
2. Klaus Biesenbach, Anthony Huberman & Amy Smith (eds.). Video Art (New York: P.S.1 Contemporary Art Center, Museum of Modern Art, 2002).
3. Irving Sandler. Art of the Postmodern Era: From the Late 1960s to the Early 1990s (Colorado: Westview Press, 1996).
4. Uta Grosenick & Burkhard Riemschneider. Art Now: 137 Artists at the Rise of the New Millennium (L.A: Taschen America Llc, 2002).
Nếu rỗi rãi, mong họa sĩ Trần Hải Minh, bớt chút thời gian quý báu để xem những cuốn sách đó, ngõ hầu có thể nhận diện thực sự được những bọn vô đạo đức nhất – những bọn mà nếu đem so tội lỗi của chúng với tội lỗi của cái bọn mà anh chửi rủa thì thật sự những trò vô đạo đức của bọn bị anh chửi chỉ còn là nhỏ như con thỏ.
Tất nhiên họa sĩ Trần Hải Minh có quyền vẫn khinh những bọn vô đạo đức như vậy, cho dù chúng vẫn đang là những nghệ sĩ tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hậu hiện đại và có tác phẩm trong tất cả các bảo tàng danh tiếng nhất ở Mỹ hay Châu Âu, xuất hiện trong bất cứ cuốn sách tổng kết hay dự báo nào của nghệ thuật thế kỷ 20 (cũng như bắt đầu thế kỷ 21) và luôn có mặt ở bất cứ sự kiện nghệ thuật nào lớn trên thế giới. Thậm chí một số đứa vô đạo đức, như Bill Viola chẳng hạn (đứa rất hay chụp ảnh cởi truồng), còn được giảng dậy chính thức trong các trường nghệ thuật ở phương tây. Tuy nhiên, nếu những nghệ sĩ nói trên không hợp luân lý của anh, anh cần phải đưa ra những lý lẽ xác đáng hơn để minh chứng cho cái chủ nghĩa hậu hiện đại của riêng anh, cái chủ nghĩa hậu hiện đại tạo ra loại nghệ thuật (như anh nói): trong sáng, hợp đạo đức và đầy tình nhân bản, để chống lại cái chủ nghĩa hậu hiện đại “đồi bại, hư hỏng, điên rồ, ngu ngốc …” (lời Trần Hải Minh) của các nghệ sĩ vừa nói tới ở trên.
Tuy thế, cũng xin lưu ý với anh, cái người mà anh ca ngợi nhiệt liệt là đã tạo ra loại nghệ thuật đầy tính nhân bản – cái ông Beuys ấy – thỉnh thoảng (chắc là lợi dụng lúc anh không để ý) cũng làm lắm trò nhố nhăng lắm đấy, tỷ dụ như: quét sơn lên mặt, ngồi hàng giờ bất động tay ôm con mèo, hoặc ném cả chục ký mỡ lên một cái ghế và bắt mọi người xem...
Thật ra cái kiểu định nghĩa “múa gậy vườn hoang” của Trần Hải Minh rất tiêu biểu cho lối suy nghĩ nói chung của phần đông các nghệ sĩ Việt Nam, nhất là một số nghệ sĩ được học ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ quay trở về Việt Nam sau khi không chịu (hay là không thể) hòa nhập được vào cuộc sống nghệ thuật mới của một xã hội đã thay đổi tận gốc rễ. Cái lối suy nghĩ ấy chứng tỏ chính sự hoang mang (nói như cách của chính Trần Hải Minh) trước ngã ba đường của các nghệ sĩ nói trên. Rẽ sang bên trái thì buộc phải bỏ hết đi những tín điều cũ kỹ và có vẻ như phải bắt đầu lại từ con số không; rẽ sang phải thì không dám, bởi chính tính giáo điều và sức ỳ của mình không cho phép. Và vì thế, họ chọn con đường ở giữa lò dò vừa đi vừa quát mắng ầm ĩ để an toàn trong thế lưỡng nan. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, họ cũng không quên mơn trớn cả quá khứ lẫn tương lai để ve vãn cái vai trò người trưởng tràng hòa giải (xin xem những nhận xét về cái gọi là “các bậc thầy quá khứ hay và các nghệ sĩ trẻ đi vào con đường sáng tạo của Trần Hải Minh trong bài phỏng vấn đã dẫn).
Cái lối suy nghĩa theo kiểu: “cắt nghĩa các sự kiện rất phức tạp xẩy ra theo ý mình” phải chăng chính là tiêu biểu cho lối cắt nghĩa của các vị kiểm duyệt trước những sự kiện mà họ không hiểu (không cố gắng và chịu khó học và lao động để hiểu). Xin lấy dẫn chứng:
Trần Hải Minh định nghĩa
- Installation: đứa con của nghệ thuật và điêu khắc.
- Performance: làm cho những ngày nghỉ cuối tuần hay những kỳ nghỉ dài của công chúng yêu nghệ thuật trở nên phong phú và có văn hoá hơn
- Media art: là tổng hợp những thể loại kể trên cộng thêm phần hình ảnh của video và phần âm thanh - audio.
Tôi hoàn toàn ngạc nhiên về cách cắt nghĩa các trào lưu nghệ thuật nói trên của họa sĩ Trần Hải Minh. Nó thật sự như một kiểu nói chuyện của các ông thầy bói mù lòe nhau trong lúc đang sờ chân voi vậy. Xin được phép hỏi anh Trần Hải Minh: Anh lấy tư liệu từ đâu để có thể có những định nghĩa độc đáo như thế ?
Về phần tôi, dù hiểu biết có hạn hẹp, cũng xin cung cấp cho anh Trần Hải Minh một bảng so sánh những đối nghịch về niềm tin của chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa hiện đại trong tác phẩm nghệ thuật. Theo tôi, chính từ những tiền đề đối nghịch đó (những tiền đề được xây dựng trên những niềm tin hoàn toàn khác biệt) mà những trào lưu hay trường phái khác nhau và khác trước hoàn toàn đã ra đời.
Phê bình gia văn chương Ihab Hassan đã đưa ra một loạt danh sách của những khái niệm đối nghịch giữa hai niềm tin vào tác phẩm của chủ nghĩa “hiện đại” và chủ nghĩa “ hậu hiện đại”:
Hiện đại (modernism)* Hậu hiện đại (postmodernism)
Mang tính hình thức (đóng, liên kết bên trong) Giải hình thức (mở, giải liên kết)
Form (conjunctive/closed) Antiform (disjuntive, open)
Được thiết kế Ngẫu nhiên
Design Chance
Tác phẩm như đích cuối Tác phẩm như hành trình, trình diễn, tính “ đang diễn ra”
Art Object/finished work) (process/performance/happening)
Sáng tạo Giải sáng tạo, giải cấu trúc
Creation/Totalization Decreation, decontruction
Được thiết kế Ngẫu nhiên
Design Chance
Tác phẩm như đích cuối Tác phẩm như hành trình, trình diễn, tính “ đang diễn ra”
Art Object/finished work) (process/performance/happening)
Sáng tạo Giải sáng tạo, giải cấu trúc
Creation/Totalization Decreation, decontruction
Tập trung Rải rác
Centering Dispersal
Lọc thải, loại bỏ Liên kết
Selection Combination
*[Xin lưu ý rằng bản thân những khái niệm được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt trên đây có thể không chính xác lắm về mặt ngôn ngữ (cái không phải là chuyên môn của bản thân tôi). Mong các nhà dịch thuật, nếu có thể, đính chính và tìm ra những cách diễn đạt chính xác hơn, mang tính chuyên môn cao hơn. Rất cảm ơn].
Như vậy, có thể thấy cái định nghĩa về Installation của Trần Hải Minh là: “đứa con của hội họa và điêu khắc” là hoàn toàn vô trách nhiệm và rất ngây ngô.
Installation hoàn toàn không phải là đứa con (thậm chí là một đứa con rơi) của điêu khắc và hội họa. Về bản chất, nó được tạo ra với một niềm tin ngược hẳn lại với niềm tin vào tính chất “art as object” của điêu khắc (sculpture) và hội họa (painting). Nói một cách khác, installation chính là sự đổ vỡ sâu sắc của niềm tin vào tác phẩm nghệ thuật như đích đến hoàn mỹ cuối cùng chứa đựng mọi nguyên lý về cái đẹp, cái mang tính biệt lập (autonomy) với xã hội (niềm tin của những nhà formalist. được cổ vũ và ca ngợi bởi Greenberg). Ngoài ra, installation còn mang cùng với nó tính chất sân khấu (theatricality) – cái được nhà phê bình Michael Fried đề cập trong bài viết trên Art Forum: Art and Objecthood (Summer 1967)– đó là tính chất mà các tác phẩm điêu khắc (sculpture) hay hội họa (painting) theo tinh thần “art as object” hoàn toàn không có và không “tiềm ẩn có”.
Installation (cũng như video art, computer art, communication art, laser and holographic art, performance art, conceptual art …) chính là con đẻ của một niềm tin mới, cũng như điêu khắc và hội họa đã là con đẻ của một niềm tin khác.
Tất nhiên, họa sĩ Trần Hải Minh có thể khăng khăng installation là đứa con của điêu khắc và hội họa. Không ai trách gì anh. Tuy nhiên, như thế, theo logic của anh: con chim sẽ là đứa con của con cá và con tắc kè. Từ đây, chúng ta có thể áp dụng thao tác định nghĩa của Trần Hải Minh để làm một định nghĩa khác về họ hàng các loài vật như sau:
Con gà là do con bò đẻ ra, con chồn là do con cá đẻ ra và rốt cục con thỏ chính là tổng hợp của con chim và con ngựa - chỉ thêm có cái tai dài.
Trước khi kết thúc bài viết nhỏ này, một lần nữa tôi muốn khẳng định lại rằng tôi hoàn toàn không có ý kiến gì về nỗ lực muốn trở thành nhà hậu hiện đại của họa sĩ Trần Hải Minh, thậm chí, tôi dám nói tôi còn là người hoan nghênh nhiệt liệt cái tinh thần “dấn thân” ấy nhất là khi so sánh nó với cái tình trạng triền miên của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện đại tác động trên bề mặt nghệ thuật thị giác Việt Nam.
Vâng, họa sĩ Trần Hải Minh rất có thể trở thành nhà hậu hiện đại. Nhưng xin anh nhớ cho: không phải bằng cách phát ngôn khệnh khoạng và tùy tiện về những việc mình không hiểu rõ, mà bằng cách lao động, suy nghĩ và học.
Họa sĩ nổi tiếng tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Bùi Trang Chước • Bùi Xuân Phái • Cát Tường • Công Văn Trung • Diệp Minh Châu • Dương Bích Liên • Hoàng Lập Ngôn • Hoàng Tích Chù • Huỳnh Văn Gấm • Lê Phổ • Lê Văn Đệ • Lương Xuân Nhị • Mai Trung Thứ • Nam Sơn (hoạ sĩ) • Nguyễn Đỗ Cung • Nguyễn Gia Trí • Nguyễn Khang • Nguyễn Phan Chánh • Nguyễn Sáng • Nguyễn Thị Kim • Nguyễn Tư Nghiêm • Nguyễn Tường Lân • Nguyễn Văn Tỵ • Phan Kế An • Tạ Tỵ • Tô Ngọc Vân • Trần Đình Thọ • Trần Văn Cẩn • Vũ Cao Đàm
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.