Xuân Tiên
Phạm Xuân Tiên
(28/1/1921 - 2/6/2023)
thọ 102 tuổi
Nhạc Sĩ
Chờ Một Kiếp Mai
Một chiều ngoài trời u ám
Mưa rơi hiu hắt lắng mơ hình bóng
Xót xa ngân trong cung đàn
Ngày vui năm xưa đâu còn ?
Rồi một ngày nào xa nhau
Hẹn cùng trăng nước nhớ câu nguyện ước
Nhớ khi chia tay đôi đường
Lòng còn vương vấn !
Lạnh lùng ngày ngày năm tháng
Dần dần phai úa nỗi thương niềm nhớ
Trách ai quên câu mong chờ
Hẹn nhau dưới ánh sao mờ !
Đàn ơi dù người xa cách
Nhạc còn tha thiết những khi chiều vắng
Nhớ chăng đêm nao
Đôi lòng hòa tiếng tơ vàng !
Chiều buồn về nhạc dâng ý thơ! [ D ]
Cung đàn nhớ nhung lời thề xưa !
Còn đâu tiếng lòng ?
Còn đâu hình bóng một mùa chờ mong ?
Hẹn ngày nào về trong giấc mơ !
Ôi buồn nhớ nhung một chiều xưa !
Hồn say đắm rồi
Chờ ta theo với người em ngoài phương trời !
Không gian u ám phai tâm hồn !
Em ơi hãy đến vui cung đàn !
Xa xôi thương nhớ giấc mơ tàn
Theo tiếng hát lắng trôi thời gian !
Chờ đợi người về một kiếp mai !
Mơ màng tới câu "tình đừng phai"
Trần gian phũ phàng, buồn theo năm tháng
Tình duyên đành lỡ làng !
Xuân Tiên (tên đầy đủ: Phạm Xuân Tiên; 28 tháng 1 năm 1921 – 2 tháng 6 năm 2023) là một nhạc sĩ có nhiều đóng góp cho nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975. Ngoài sáng tác nhiều bản nhạc có giá trị được nhiều người yêu thích như "Khúc hát ân tình", "Duyên tình", "Về dưới mái nhà",... thì ông còn có khả năng chơi 25 loại nhạc cụ, đồng thời cải tiến và sáng tạo một số nhạc cụ mới.
Tiểu sử
Ông sinh tại Hà Nội. Năm 6 tuổi, ông bắt đầu học âm nhạc Trung Hoa với cha và sau này học nhạc phương Tây với người anh cả.[1] Năm lên 10, ông còn được cha thuê người dạy tuồng và nhạc cải lương.[2] Thời gian ban đầu khi còn ở miền Bắc, ông chơi chủ yếu là các loại kèn sáo phương Tây. Cuối năm 1942, ông cùng anh trai là nhạc sĩ Xuân Lôi theo gánh cải lương Tố Như vào miền Nam trình diễn, ở Sài Gòn và lục tỉnh.[2] Trong quá trình đi trình diễn nhạc và sinh sống ở nhiều miền, ông đã thu thập được kiến thức về các loại hình âm nhạc của ba miền. Ông còn tìm hiểu về nhạc của Lào và Campuchia.[2]
Xuân Tiên có khả năng chơi 25 loại nhạc cụ, cả phương Đông lẫn phương Tây.[3] Ông có thể sử dụng hầu hết các nhạc cụ cổ truyền Việt Nam, Thái Lan, Lào và Campuchia.[2]
Năm 1952, cả gia đình ông di cư vào Sài Gòn kiếm sống bằng nghề nhạc cho đến 30 tháng 4 năm 1975.
Giai đoạn từ năm 1944 đến năm 1975, ông điều khiển nhiều dàn nhạc nổi tiếng từ Bắc vào Nam: dàn nhạc Hà Nội (1944-1946), Nam Định (1951 – 1952) và các đài phát thanh tại Sài Gòn gồm Pháp Á, Sài Gòn, Mẹ Việt Nam (1952 – 1975).
Năm 1986, ông được bảo lãnh sang Úc. 10 năm đầu ông sống tại thủ đô Canberra, sau chuyển về khu Cabramatta ở ngoại ô Sydney.[2][3]
Những năm tháng cuối đời, ông được chăm sóc tại tại Viện dưỡng lão Australian Vietnamese Aged Care Services (AVACS) ở khu Smithfield[4] – một khu cũng ở ngoại ô Sydney, thuộc Hội đồng thành phố Fairfield. Ông qua đời ngày 2 tháng 6 năm 2023, hưởng thọ 103 tuổi.
Sự nghiệp
Cải tiến, sáng tạo nhạc cụ
Sáo tre vốn dĩ chỉ có sáu lỗ. Năm 1950, Xuân Tiên đã cùng Xuân Lôi cải tiến loại nhạc cụ này thành hai loại là 10 lỗ và 13 lỗ có khả năng chơi được nhiều âm giai khác nhau. Người chơi sáo 10 lỗ cần dùng 10 ngón tay và có thể chơi tất cả những bán cung, vì thế sáo không bị giới hạn trong bất cứ âm giai nào. Sáo 13 lỗ dùng để tạo ra những âm thanh thấp hơn khi cần. Hiện hai loại sáo này đang được trưng bày tại Musée de l'Homme, Paris, Pháp.[2]
Năm 1976, lúc còn ở Việt Nam, ông chế tác cây đàn 60 dây chơi được tất cả âm giai. Tiếng đàn tương tự tiếng đàn tranh nhưng mạnh và chắc hơn.
Năm 1980, ông cải tiến cây đàn bầu cổ truyền với thân đàn làm từ trái bầu dài làm hộp khuếch âm. Đàn này đã nhiều lần được đem đi triển lãm ở Úc, thường được gọi là đàn bầu Xuân Tiên.[2]
Sáng tác ca khúc
Xuân Tiên sáng tác ca khúc từ trước năm 1945, tức là thuộc lứa nhạc sĩ thời kỳ tiền chiến, với các ca khúc như "Chờ một kiếp mai" viết chung với Ngọc Bích và "Trên kiếp hoa" (1939 – 1942).[5] Ông chủ trương đào sâu vào nhạc Việt, dùng kỹ thuật và nhịp điệu phương Tây nhằm cải tiến và làm giàu nền nhạc của mình.[2] Ông cũng chú trọng giai điệu của bài hát, thường sử dụng âm hưởng lạc quan yêu đời, ca ngợi quê hương dân tộc và nếu có buồn thì cũng chỉ là chớm buồn. Ông cho rằng quan trọng nhất là sáng tác phải "hoàn toàn không giống ai".[2] Tuy vậy, điều này không có nghĩa là ông chỉ viết về nhạc vui. Ông cũng có những bài hát mang sắc thái nhớ nhung về một mối tình xa xưa, về nỗi mất mát trong đời, hay một quá khứ vàng son không trở lại như "Chờ một kiếp mai", "Hận Đồ Bàn", "Xa quê hương",... Những bài này được viết bằng một loại ngôn ngữ gợi cảm, xa vắng và cất cánh với những âm điệu, tiết tấu rất cân phương và hoàn chỉnh.
Xuân Tiên nhận xét rằng đa số các ca khúc của mình mang âm hưởng miền Bắc và miền Trung Việt Nam, chỉ có một số ít là miền Nam như "Cùng một mái nhà", "Khúc nhạc đồng xanh" hay "Đất Việt". Bài hát nổi tiếng nhất của ông là "Khúc hát ân tình" được sáng tác sau Hiệp định Genève 1954 trong bối cảnh nhiều người dân miền Bắc di cư vào Nam sinh sống. Bài hát kêu gọi mọi người dù là từ miền nào thì cũng hãy sống thân ái với nhau, đồng thời cũng ngợi ca tình yêu không phân biệt Bắc – Nam.[2] "Hận Đồ Bàn" (ký chung với Lữ Liên) là bài hát mà ông đặt mình vào địa vị một người dân Chăm-pa, có nội dung ai oán về sự kiện kinh đô Đồ Bàn của nước Chăm-pa bị quân Đại Việt phá hủy vào năm 1471. Đầu thập niên 1970, bài này từng bị Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cấm biểu diễn công khai do ông tin rằng bài hát có "tác động siêu nhiên thâm hiểm có thể dẫn đến sự sụp đổ của nền cộng hòa". Ca sĩ Chế Linh (người Chăm) hát bài này cũng nhân đó mà bị cấm biểu diễn công khai.[6]
Ông có hai tập nhạc đã xuất bản. Tập đầu tiên là Duyên tình (năm 2000) gồm toàn bộ sáng tác của ông trước năm 1975. Tập thứ hai là Dâng nắng (năm 2007) gồm 16 bài.
Năm 2006, Xuân Tiên cùng với hai nhạc sĩ Thanh Sơn và Nguyễn Ánh 9 được vinh danh trong chương trình Paris By Night 83 – Những khúc hát ân tình vì đã có những đóng góp giá trị đối với nền tân nhạc Việt Nam.
Làm thơ
Xuân Tiên còn có tập thơ Trên kiếp hoa được Nhà xuất bản Ba Vì in ở Canada năm 1997.[2]
Tranh cãi về bài hát "Duyên tình"
Bài hát "Duyên tình" tuy được ký tên chung là "Xuân Tiên & Y Vân" nhưng theo Xuân Tiên thì toàn bộ nhạc và lời đều của ông. Việc ký tên chung là do Xuân Tiên nhờ Y Vân bán hộ bài này nhưng nhà xuất bản yêu cầu phải ký tên chung để Y Vân lĩnh tiền về. Do là bạn bè với Y Vân nên Xuân Tiên đồng ý.[2] Về phía gia đình Y Vân, nhạc sĩ Y Vũ (em trai của Y Vân) khẳng định "Duyên tình" là tác phẩm do Xuân Tiên và Y Vân viết chung, và rằng hai ông không chỉ là đồng tác giả của "Duyên tình" mà còn viết chung bài hát "Về dưới mái nhà".[7] Bà Trần Thị Minh Lâm (vợ Y Vân) cho hay rằng trong nhà bà "ai cũng biết đó là nhạc phẩm của Y Vân" và sau khi nhạc sĩ Y Vân qua đời thì "nhiều hãng băng đĩa đã phát hành bản nhạc này và họ cũng chỉ ghi một tên tác giả là Y Vân". Nhà bà không có bản gốc của bài "Duyên tình" nên không rõ liệu có tác giả thứ hai hay không, nhưng sau khi tham vấn nhạc sĩ Thanh Sơn và ca sĩ Ngọc Cẩm vợ nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết thì nhà bà được biết bài này là của Y Vân. Vợ Y Vân cho phóng viên báo Thanh Niên xem danh sách 92 ca khúc Y Vân do Cục Bản quyền Việt Nam cấp tại Hà Nội ngày 30 tháng 9 năm 1995, trong đó ghi "Duyên tình" là của Y Vân, còn "Về dưới mái nhà" và "Đường đi lối về" là sáng tác chung với Xuân Tiên.[7] Cũng theo tờ Thanh Niên, sau khi đăng tải bài báo này, có độc giả đã mang bản nhạc được cho là bản gốc tới tòa soạn, trong đó ghi rõ bài "Duyên tình" là nhạc Xuân Tiên, lời Y Vân.[8] Tờ nhạc "Duyên tình" do Nhà xuất bản Diên Hồng (địa chỉ: đại lộ Lê Lợi, quận Nhứt, đô thành Sài Gòn) giữ bản quyền niên khoá 1959 – 1960 đã ghi bài "Duyên tình" có "nhạc của Xuân Tiên, lời của Y Vân".[9]
Danh mục ca khúc
Chờ anh bên đồi
Chờ anh em nhé[10]
(Xuân Tiên & Nhật Bằng)
Chờ một kiếp mai
(Ngọc Bích & Xuân Tiên)
Cung sầu
Cùng một mái nhà
(Xuân Tiên & Nhật Bằng)
Dâng nắng
Duyên tình
(Xuân Tiên & Y Vân)
Đất Việt
Đêm trăng mơ
Đón mùa xuân mới
Đường đi lối về
(Xuân Tiên & Y Vân)
Đường lên non
Giọt lệ sông Hương
Hận Đồ Bàn
Hoài vọng
Hồn tha hương
Lòng người xa quê
Lửa ấm
Lửa rừng
(nhạc Xuân Tiên, lời Thanh Nam)
Khói mây
(nhạc Xuân Tiên, lời Song Hương)
Khúc hoan ca
Khúc nhạc đồng xanh
Mây chiều
Mong chờ[11]
Mộng vàng
Mơ bóng người xưa
Mùa lá vàng
Ngát hương thanh bình
Ngày đầu năm
Ngõ xưa
Nguồn sống bao la
(Xuân Tiên & Thy Vân)
Nhắn mây
Nhắn bạn
(Xuân Tiên & Nhật Bằng)
Nhịp sống vui
Những người tôi thương
Sầu thu
Tiếng bình minh
Tiếng hát đường xa
Tiếng hát trong sương
Tiếng trống trong rừng sâu
Tiếng vọng tâm hồn
Tìm trăng đô thị
Tình và gió
Tình viễn khơi
Trăm năm hạnh phúc
Trăng khuya
(Xuân Tiên & Y Vân)
Trên kiếp hoa
Trung Thu
Vần thương
Về dưới mái nhà
(Xuân Tiên & Y Vân)
Vương vấn
Xa quê hương
(Xuân Tiên & Đan Thọ)
Xuân muôn thuở
Xuân qua
Xuân tự do
Chú thích
^ Lời của nhạc sĩ trong chương trình Paris By Night 83, thu hình ngày 27 tháng 5 năm 2006 tại rạp Charles M. Schulz ở Knott's Berry Farm, Buena Park, California, Hoa Kỳ.
^ a b c d e f g h i j k l “Phỏng vấn nhạc Sĩ Xuân Tiên nhân dịp kỷ niệm 65 năm âm nhạc & ra mắt CD của nhạc sĩ”. Việt Báo. Westminster, California. ngày 25 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2014.
^ “AVACS Newsletter (January 2021)” (PDF). AVACS.
^ “Tiểu sử Xuân Tiên”. phammusic.free.fr. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2014.
^ Eric Henry, University of North Carolina (2005). “Phạm Duy and Modern Vietnamese History”. Southeast Review of Asian Studies. XXVII. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2014. Thiệu believed that the song possessed a malign supernatural influence that might lead to the loss of the republic.
^ a b Hà Đình Nguyên (ngày 20 tháng 2 năm 2006). “Nhạc của ai ? Lời của ai ? - Bài 2: "Duyên tình" đến lúc ly hôn ?”. Thanh Niên. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2014.
^ “Phản hồi liên quan đến ca khúc Duyên tình”. Thanh Niên. ngày 28 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2014.
^ “Tờ nhạc "Duyên tình"”. Hợp Âm Việt.
^ Viết trong chiến dịch "Tố Cộng diệt Cộng" năm 1955.
^ Viết trong hoàn cảnh sau khi cùng đi với ban nhạc Tao Đàn ra lưu diễn tại Huế.
Tưởng nhớ nhạc sĩ Xuân Tiên
Quá trình rèn luyện kỹ năng sử dụng nhạc cụ và kiến thức nhạc học
1927 Mandoline, nhạc lý Tây phương và Trung Hoa
1936 Clarinette, Saxophone và Sáo Tây, hoà âm tây phương
1941 Các nhạc cụ cổ truyền Việt Nam, Thái Lan, Lào và Cam Bốt
Khảo sát âm nhạc ba miền Bắc, Trung, Nam
1941-46 Trumpet, Trombone, Banjo, Guitar, Violin, Xylophone, Vibraphone, Piano, Accordeon,
Button accordeon, Bandoneon.
Trình tấu
1941-42 Trình tấu Clarinette, Saxophone và Sáo Tây từ Bắc chí Nam
Xuất bản
1949 Các sách Tự học Kỹ Thuật Ðộc Tấu Clarinette, Saxophone và Sáo Tre
Cải tiến sáo tre
1950 Cùng với bào huynh là nhạc sĩ Xuân Lôi cải tiến sáo tre thành hai loại 10 lỗ và 13 lổ có
khả năng bao gồm nhiều âm giai khác nhau, kể cả âm giai dị chuyển.
Hai loại sáo này hiện được tàng trữ tại Musée de l'Homme, Paris, France.
Ðiều khiển dàn nhạc
1944-46 Hà Nội: Victoria, Muolin Rouge, Hotel Splendide và Lucky Star
1951-52 Nam Ðịnh: Văn Hoa
1952-75 Sài gòn: Văn Cảnh, Ðại Kim Ðô, Blue Diamond, Eden Rock, Palace Hotel,
Bách Hỷ
Làm việc với các đài phát thanh
1952-75 Pháp Á, Sàigòn, Quân Ðội, Mẹ Việt Nam
Sáng chế các loại nhạc cụ mới
1976 Sáng chế cây đàn 60 dây có khả năng bao gồm tất cả các âm giai. Kỹ thuật trình tấu
tương tự như cây đàn Tranh, nhưng tay phải để gảy giai điệu và tay trái để đệm hợp âm
1980 Sáng chế căy đàn bầu mới với trái bầu dài làm bằng hộ khuếch âm. Ðàn này đã được
đem ra trình tấu nhiều lần ở Úc Ðại Lợi.
Những ca khúc phổ thông nhất
1939-42 "Chờ một kiếp mai", "Trên kiếp hoa"
1952-62 "Khúc hát ân tình", "Hận Ðồ Bàn", "Về dưới mái nhà", "Duyên Tình"
1963-83 "Ðường đi lối về", "Xa quê hương", "Ðất Việt"
1987-95 "Lòng người xa quê", "Tiếng bình minh", "Tiếng trống trong rừng sâu"
Nhà văn Trần Đình Lương biên soạn
Thực sự dòng sông ấy không dài về mặt địa lý, nhưng lại hun hút về mặt lịch sử, về máu và nước mắt đã tuôn theo năm tháng chiến tranh khốc liệt. Thời gian từ ngày những con người “từ phương Bắc.. qua dòng sông tới nay đã khá xa, đủ cho ta sự bình tĩnh để nhìn về một biến cố lịch sử và từ đó hiểu rõ hơn về sự phát triển lớn mạnh của một trào lưu văn học nghệ thuật tại miền Nam Việt Nam vào ngày đó.
‘Mai sau còn có bao giờ’.. * Về mặt văn học, năm 1987 nhà văn Võ Phiến đã dựng ‘ một lá phướn’ cho ‘ hai mươi năm văn học Miền Nam’ trong đó có nhiều điều cần biết về văn học và hòan cảnh sáng tác của các văn nghệ sĩ.
Còn về mặt nghệ thuật, về âm nhạc, thì chưa thấy ai làm công việc đó. Có chăng là một số bài nhận xét rải rác trong các tạp chí văn nghệ hải ngoại, thường nặng về cảm tính và nhẹ phần chuyên môn.
Tôi vẫn mong vô cùng được đọc một công trình biên khảo nghiêm túc về âm nhạc Việt Nam trong thời kỳ này. Đấy là thời kỳ được mùa của những ca khúc nở rộ. Nhiều lạ lùng và cũng hay lạ lùng. Hình như không tuần nào là người ta không nghe thấy những sáng tác mới. Chưa ai làm công tác thống kê những con số, sáng tác ít nhất phải kể tới hàng ngàn, con số nhạc sĩ phải kể tới hàng trăm. Để cạnh nhạc 20 năm ấy với nhạc tiền chiến trước kia, ta thấy có nhiều sự khác biệt. Khác biệt vô cùng cả về nhạc và lời. Ngôn ngữ của những ca khúc thời sau đã trở nên mới mẻ hơn, hiện thực hơn, âm điệu cũng phong phú và đa dạng hơn trước. Còn hơn như thế nào về mặt âm nhạc thì đó là lãnh vực nghiên cứu của các vị chuyên môn sau này.
Cho đến nay, hơn 20 năm nữa đã trôi qua, nhạc của những ngày hội lớn ấy vẫn còn lẽo đẽo theo gót những con người Việt Nam đi tứ xứ và vẫn lai rai xuất hiện tại quê nhà. Vậy mà những con người làm nên nền âm nhạc ấy thì rất ít khi được nhắc tới, và thỉnh thoảng cái cảnh ‘vàng bay mấy lá’ vẫn diễn ra.
Tôi viết những dòng này như một lời tri ân tới một trong những nghệ sĩ tài hoa ngày đó, đã làm giàu cho tâm hồn tôi, đã cho tôi thấy cuộc đời đẹp hơn, có ý nghĩa hơn qua những lời ca, nét nhạc
Tôi được may mắn gặp nhạc sĩ Xuân Tiên, dù khá muộn màng, được nghe ông kể chuyện ngày xưa và rồi cùng một nhóm anh em yêu nhạc hát lại nhạc ông trong một niềm bồi hồi ‘tha hương ngộ cố tri’. Thực sự mà nói chúng tôi ngày ấy rất còn nhỏ chỉ hát nhạc ông chứ đâu được hân hạnh quen biết với ông mà dám nói tới hai tiếng cố tri!
Sau nhiều lần gặp nhạc sĩ Xuân Tiên, chúng tôi đều đồng ý với nhau rằng ông còn rất trẻ, trẻ hơn chúng tôi rất nhiều.
Ở ông cái ‘nguồn sống bao la’ của những 50 vẫn còn cuộn chảy, vẫn reo vui và tươi mát. Ông yêu đời lắm. Tiếng cười ông cất lên là thấy ngay sự sảng khoái, vô ưu. Tới nay ông vẫn tiếp tục sáng tác, vẫn làm đàn, chơi đàn, thổi sáo mà chẳng cần ai biết ai hay. Tinh thần lạc quan bát ngát đó là tinh thần xuyên suốt toàn bộ ca khúc của ông, tính cách của ông và điều này không hề tùy thuộc vào hoàn cảnh. Lớp văn nghệ sĩ ‘di cư’ 54 sau những năm đầu ‘dựng một mùa hoa’ rồi sau đó cũng lắng xuống dần vì những khó khăn của chính trị và xã hội. Nhạc sĩ Xuân Tiên thì không như vậy. Trước sau ông vẫn rộn ràng với đất trời và con người. Có thể nói tình yêu quê hương và những con người của quê hương là hai chủ đề chính trong nhạc Xuân Tiên. Ông tỏ bày điều ấy rất hồn nhiên, thẳng thắn: ‘Ta yêu nước ta, ta yêu muôn đóa hoa.’. Những địa danh của đất nước vì thế đã trở nên thân mật, gần gũi và tràn đầy sức sống:
‘Đi về Hà Tiên tắm biển xanh, qua đường về Châu đốc, Gò công miền Tây lộng gió trăng mơ màng, lúa thơm hương nồng. Đây dòng Cửu long vẫn oai hùng, Đây dòng Đồng Nai vẫn êm ấm…’
Ông không sáng tác nhiều về tình ca đôi lứa, nhưng lại chủ ý viết cho nhiều đôi lứa, cho nhiều con. Những con người trong nhạc của ông thường là những con người trẻ mà ‘tình yêu nước nung nấu’, đi bên nhau, thương yêu nhau, ngồn cạnh nhau trong ánh lửa hồng bếp cũ: Đi lớp lớp đi lớp lớp người đi, theo tiếng gió đưa tiếng hát gần xa.. ‘Người ơi mau về đây, về bên bếp hồng tay cầm tay..’
Những nhạc phẩm như thế thật rất quí hóa vì không có nhiều trong nhạc Việt Nam. Người ta có thể cùng nhau hát những ca khúc như vậy trong những buổi họp mặt chung với tâm hồn thật thoải mái. Những bản tình ca đôi lứa thì chúng ta không thiếu, nhiều vô cùng, nhưng lại không có chỗ đứng trong các buổi sinh hoạt cộng đồng!
Thành công đặc biệt với những ca khúc đi tới hết sức tươi sáng như vậy, nhạc sĩ Xuân Tiên quả đã có vị trí của riêng ông trong nền âm nhạc miền Nam thời kỳ 54-75.
Nói như thế không có nghĩa là ông chỉ ‘chuyên trị’ về nhạc vui. Ông không đơn giản như vậy đâu. Những bài hát mang sắc thái nhớ nhung về một mối tình xa xưa, về nỗi mất mát trong đời, hay một quá khứ vàng son không trở lại như Xa Quê Hương, Chờ Một Kiếp Mai, Hận Đồ Bàn… đã được viết bằng một loại ngôn ngữ gợi cảm, xa vắng và cất cánh với những âm điệu, tiết tấu rất cân phương và hoàn chỉnh.
Tôi rất ngạc nhiên là sau bao nhiêu năm biến đổi tôi và các bạn tôi vẫn có thể nhớ lại dễ dàng các bản nhạc tình cảm loại này. Những tác phẩm đã để lại dấu ấn sắc nét trong tâm hồn chúng ta như thế thì phải là những nghệ phẩm rất đáng kể.
Ngày ấy, người đã từ phương Bắc ra đi vượt qua con sông dài, tìm ra ‘một nhà thân ái’ và từ đấy say mãi trong mối ‘duyên tình’ này.
Ở vào thời điểm giao thừa của thiên niên kỷ, chúng ta dù ở nơi đâu, có lẽ cũng vẫn hướng về mái nhà thân ái ấy, vẫn khát khao thấy lại ánh lửa hồng bếp cũ với những ‘nụ cười chan chứa, vai kề vai’ mà quên đi những sông dài, biển rộng sau lưng.
Trần Đình Lương
Sydney, 11 - 99
Cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Xuân Tiên –
“Cây trường sinh” của tân nhạc Việt Nam
Đông Kha
Nhạc sĩ Xuân Tiên là tác giả của những ca khúc nổi tiếng là Hận Đồ Bàn, Khúc Hát Ân Tình, Về Dưới Mái Nhà, Duyên Tình, Chờ Một Kiếp Mai, Mong Chờ… Ông là nhạc sĩ sống thọ nhất của tân nhạc Việt Nam, đã mừng đại thọ 100 tuổi hồi đầu năm 2021.
Tuy là tác giả của nhiều bài hát nổi tiếng, nhưng nhạc sĩ Xuân Tiên tự nhận rằng đối với ông sáng tác chỉ là nghề tay trái, và nghề chính của ông là nhạc công chơi đàn trong các ban nhạc, với khả năng sử dụng nhuần nhuyễn đến 25 loại nhạc cụ khác nhau, cả nhạc cụ cổ truyền lẫn của Tây, trong đó thành thạo nhất là kèn saxophone.
Nhạc sĩ Xuân Tiên tên thật là Phạm Xuân Tiên, sinh ngày 28 tháng 1 năm 1921 tại Hà Nội, trong gia đình có 6 anh em trai, người anh kế của ông chính là nhạc sĩ Xuân Lôi (sinh năm 1917) nổi tiếng với ca khúc Nhạt Nắng (viết chung với Y Vân). Nhạc sĩ Xuân Tiên thuở ấu thơ Cha của ông từng có thời gian qua Trung Quốc để học một số nhạc cụ cổ truyền Trung Hoa, giống với nhạc cụ của Việt Nam nhưng khác một chút về âm điệu, sau đó về lại Việt Nam dạy nhạc ở hội Khai Trí Tiến Đức của Phạm Quỳnh (cha của nhạc sĩ Phạm Tuyên) và Phạm Duy Tốn (cha của nhạc sĩ Phạm Duy). Từ năm 6 tuổi, nhạc sĩ Xuân Tiên đã được cha dạy về nhạc cụ cổ truyền, nhưng chỉ là học về âm điệu, còn lại thì đa phần là do ông mày mò tự học, đầu tiên là đàn mandoline.
Tuy biết đàn nhưng ban đầu nhạc sĩ Xuân Tiên vẫn không biết nốt, nhờ có anh cả là Xuân Thư tốt nghiệp Viễn Đông Nhạc Viện của Pháp ở Hà Nội nên đã hướng dẫn căn bản cho ông về ký âm pháp, sau đó ông mua tờ nhạc của Pháp về tự nghiên cứu thêm về ký âm. Lớn hơn một chút, nhạc sĩ Xuân Tiên mua kèn saxo cũ về tự học, và đó trở thành nhạc cụ mà ông yêu thích và chơi thành thạo nhất.
Thời điểm đó hầu như không có người Việt Nam chơi saxo, ngoại trừ một số ít người Pháp chơi trong ban nhạc. Không có người để theo học hỏi, thầy dạy người Pháp thì học phí quá đắt, nên ông lại chủ yếu tự mày mò để học. Có một thời gian vào thập niên 1930, anh cả Xuân Thư của ông vào Huế để lấy vợ là một khuê nữ hoàng tộc, Xuân Tiên đã theo vào sống một thời gian. Nhân lúc này có gánh hát cải lương Phụng Hảo danh tiếng của miền Nam ra Hà Nội diễn đi ngang qua Huế, Xuân Tiên đi xem và thấy trong đoàn hát có một ban nhạc người Phi Luật Tân có người thổi kèn saxo, ông liền xin theo gánh hát, tham gia ban nhạc, mà chủ yếu là để theo học lỏm môn kèn saxo, chỉ bằng cách nhìn và bắt chước theo. Được một thời gian, gánh hát trở lại vào Nam, ông vào theo được ít tháng thì trở lại ra Hà Nội tham gia gánh cải lương Tố Như năm 1940.
Cùng trong năm 1940, ở tuổi 19, nhạc sĩ Xuân Tiên lấy vợ cùng tuổi là Hoàng Thị Hương và chung sống hạnh phúc với nhau suốt hơn 80 năm. Có thể nói vợ chồng nhạc sĩ Xuân Tiên là đôi vợ chồng cùng sống hơn trăm tuổi hiếm hoi trên thế giới. Cụ bà Hoàng Thị Hương đã qua đời ở tuổi 100 vào ngày 18/6/2021. Vợ chồng nhạc sĩ Xuân Tiên năm 2015, được chính quyền ở Úc trao chứng nhận 75 năm bên nhau Cuối năm 1942, nhạc sĩ Xuân Tiên cùng anh trai là nhạc sĩ Xuân Lôi theo gánh hát Tố Như vào miền Nam trình diễn ở Sài Gòn và lục tỉnh. Trong quá trình đi trình diễn nhạc và sinh sống ở nhiều miền, ông đã thu thập được kiến thức về các loại hình nhạc của các miền khác, có điều kiện tìm hiểu và nghiên cứu thêm âm nhạc cổ truyền của các vùng miền.
Thời trẻ, những anh em Xuân Tiên đều chăm chỉ tập luyện thể thao và đều có thân hình lực lưỡng. Vì siêng năng luyện tập, đặc biệt là vật tay, nhạc sĩ Xuân Tiên lúc đó đi diễn thường xuyên thách đấu vật tay với dân địa phương, đều thắng cả. Sau này, có võ sĩ Trung Quốc sang Việt Nam thấy vậy cũng thi với Xuân Tiên, thì sau đó Xuân Tiên cũng thắng nốt. “Lực sĩ” Xuân Tiên Từ năm 1942 đến 1946, ông trở về Hà Nội và chơi nhạc trong các ban ở vũ trường đang mọc lên rất nhiều. Năm 1946, trong thời gian đi tản cư, Xuân Tiên và anh trai Xuân Lôi lập ban nhạc Lôi Tiên đi diễn lưu động và đàn cho gánh cải lương Bích Hợp. Thời gian theo gánh hát của Bích Hợp Từ năm 1949 tới 1950, hai anh em lên tận vùng Thái Nguyên nhập vào ban văn hoá vụ với trưởng ban là Hoài Thanh. Ông có dịp gặp gỡ các văn nghệ sĩ nổ tiếng như: Phan Khôi, Tố Hữu, Thế Lữ, Văn Cao, Canh Thân, Lê Hoàng Long, Quốc Vũ, Nguyễn Tuân.
Năm 1951 hai anh em ông đi Nam Ðịnh làm việc ở dancing Văn Hoa. Ít lâu sau với một thành phần 12 nhạc sĩ, ông cùng họ làm việc tại nhà hàng Le Coq d’Or. Ðỗ Văn Ngọc, Xuân Tuấn, Xuân Lôi, Xuân Tiên, Văn Bính, Lê Chuyên. Dancing Văn Hoa năm 1952 Năm 1952, một người bạn cũ của Xuân Tiên là nhạc sĩ Ngọc Bích vào Nam, sau đó viết thư gửi ngược lại cho Xuân Tiên mời vào Sài Gòn tham gia chung ban nhạc đang cần người ở Cinema Văn Cầm. Nhạc sĩ Xuân Tiên viết trong hồi ký: “Tôi đã từng đi và từng sống ở mọi miền đất nước, thấy miền nam khí hậu ấm áp, dân tình hiền hòa, trong khi Hà Nội lạnh lắm không thích. Lòng tôi đã muốn đổi vào Sài Gòn làm ăn, có dịp sẽ vào làm trước để thăm thú công việc, rồi sẽ dời cả gia đình vào sau. Thế là tôi vào Sài Gòn với Ngọc Bích. Bấy giờ thì tôi đã có thể thuê nhà, sắm sửa đồ đạc đầy đủ sẵn sàng để đón vợ con vào, tiếp đó đón anh Xuân Lôi, rồi sau đó đón cha mẹ vào. Ông bà thân sinh tôi không chịu đi vì còn bà nội già không muốn rời xa quê hương. Các anh em tôi kẻ trước người sau đều vô Sài Gòn làm nhạc và sinh sống tại đây từ năm 1952 ngoại trừ anh cả Xuân Thư. Thế là ông bà thân sinh và anh Xuân Thư ở lại miền Bắc rồi kẹt luôn ở đó sau khi chia đôi đất nước.”
Tuy nhiên việc viết nhạc chỉ là công việc phụ nên ông sáng tác không nhiều, mà công việc chính là tham gia trong nhiều ban nhạc và làm việc cho tất cả các đài phát thanh tại Sài Gòn, chơi nhạc cho các hãng phát hành băng và đĩa hát, đến đêm thì đến chơi nhạc tại các vũ trường cho đến năm 1975. Ông là trưởng ban nhạc tại các phòng trà – vũ trường là Kim Sơn, Văn Cảnh. Blue Diamond, Eden Rock, Mỹ Phụng, Palace Hotel, Bách hỷ, Tour d’Ivoire, Đại Kim Đô, Maxim’s.
Thời gian làm trong ban nhạc đài Tiếng Nói Quân Đội, ông có dịp theo đoàn đi trình diễn ở nhiều nước: – Năm 1955 sang Lào dự hội chợ That Luang, cùng đi và cùng biểu diễn chung với ban nhạc của Mỹ. – Năm 1956 sang Thái Lan trình diễn nhạc tại đài phát thanh Bangkok. – Năm 1961 sang Phi Luật Tân biểu diễn tại trường đại học Manila. Thời gian cuối thập niên 1960, vì tình trạng an ninh phòng trà bị chính quyền đóng cửa một thời gian, ban nhạc Xuân tiên chuyển sang chơi nhạc tại các club Mỹ.
Tuy sáng tác không nhiều nhưng các ca khúc của nhạc sĩ Xuân Tiên rất đa dạng và có nhiều bài nổi tiếng, đặc biệt là đều mang đậm tính dân tộc, được cảm hứng từ những làn điệu của quê hương của cả 3 miền. Bài hát nổi tiếng có âm điệu xứ Bắc của ông là Duyên Tình, Khúc Hát Ân Tình, còn làn điệu âm hưởng dân ca Nam Bộ có Cùng Một Mái Nhà và Khúc Hát Đồng Xanh. Nhạc âm hưởng Huế có các ca khúc Mong Chờ, Tiếng Hát Trong Sương. Ngoài ra ông còn có ca khúc nổi tiếng Hận Đồ Bàn mang hơi thở của dân Chàm vùng Nam Trung Bộ.
Nói về hoàn cảnh sáng tác Hận Đồ Bàn, nhạc sĩ Xuân Tiên kể lại rằng trong thời gian theo gánh hát, ông và anh là nhạc sĩ Xuân Lôi có điều kiện đi dọc đất nước và tìm hiểu về các âm điệu nhạc dân tộc các miền. Một lần đi qua vùng Bình Định, ông ấn tượng với những tháp Chàm rêu phong đứng chơ vơ hiu quạnh. Sau nay khi đã vào Sài Gòn và làm việc trong đài phát thanh, vì muốn sáng tác một ca khúc có chủ đề khác biệt so với các nhạc sĩ đồng nghiệp đa số viết về tình yêu đôi lưa, nhạc sĩ Xuân Tiên nhớ lại Tháp Chàm năm xưa, nên quyết định ra lại miền Trung để tìm hiểu dân Chàm, nghiên cứu sâu hơn về âm điệu, về phong tục lịch sử nơi đây để viết Hận Đồ Bàn.
Riêng bài hát Mong Chờ, nhạc sĩ Xuân Tiên kể lại hoàn cảnh sáng tác như sau: “Thời gian tham gia ban nhạc đài Tiếng Nói Quân Đội, toàn ban văn nghệ ra Huế biểu diễn một đêm. Sau khi diễn xong, có ông nhạc sĩ đàn Huế có con gái ông là ca sĩ của Đài Phát Thanh Huế vì thích bản nhạc Khúc Hát Ân Tình mà mời tôi và ông Vĩnh Phan xuống thuyền chơi với ông một đêm. Cùng đi có một ông bạn nhạc sĩ cũng chơi đàn Huế tại Đài Phát Thanh Huế, cùng xuống thuyền hòa nhạc chơi.
Tôi cũng chơi nhạc Huế với các ông ấy và cô ca sĩ ca, ăn uống, có các hàng quà ở thuyền đi bán đêm. Ăn xong chúng tôi chia nhau ngủ ở hai thuyền ghép lại với nhau. Ông Vĩnh Phan, cô ca sĩ và tôi ngủ một thuyền. Cô ca sĩ và tôi thức không ngủ nói chuyện đến sáng, rồi bố con cô ca sĩ mời tôi và Vĩnh Phan về nhà ăn quà sáng rồi tiễn chúng tôi ra máy bay để về Sài Gòn. Tôi về Sài Gòn rồi cứ nhớ mãi buổi gặp gỡ đó với dư âm Huế và cô ca sĩ đó, nên tôi mới sáng tác ra bản nhạc Mong Chờ.”
Bài hát nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của nhạc sĩ Xuân Tiên phải kể đến là Khúc Hát Ân Tình, được sáng tác khoảng năm 1958, trong bối cảnh nhiều người dân miền Bắc di cư vào Nam sinh sống sau Hiệp định Genève năm 1954. Bài hát kêu gọi mọi người dù là từ miền nào thì cũng hãy sống thân ái với nhau, đồng thời cũng ngợi ca tình yêu không phân biệt Bắc-Nam.
Nói về quan điểm sáng tác của mình, nhạc sĩ Xuân Tiên nói trong một lần trả lời phỏng vấn: “Nói chung thì trong sáng tác, tôi rất chú trọng đến giai điệu và thể điệu của bài hát. Giai điệu được giải nghĩa một cách nôm na là cấu trúc của những câu nhạc sao cho có đầy đủ nhạc tính và phẩm chất của hòa âm, để mình nghe thấy hay, dù cho không cần lời hát, chỉ hòa tấu nbng nhạc cụ không thôi cũng thấy hay. Nếu không có giai điệu hay thì không thể có bài hát hay được. Còn thể điệu thì ví dụ như điệu valve, tango, rumba… Nhạc Việt mình vốn nghèo về thể điệu, cho nên tôi chủ trương dùng nhiều thể điệu khác nhau cho những ca khúc để tạo những đổi mới ngay trong chính những tác phẩm của mình. Tôi thích những âm hưởng lạc quan yêu đời, tôi yêu những lời hát ca ngợi quê hương dân tộc. Tôi cũng có làm những loại nhạc tình yêu lứa đôi và nhạc buồn nhưng không có sầu thương ủy mị quá. Có buồn những cũng chỉ là chớm buồn chút thôi. Đối với tôi, điều quan trọng nhất trong sáng tác là mình không được lặp lại của người khác, mà mình cũng không được lặp lại chính mình, nghĩa là mỗi một tác phẩm của mình phải hoàn toàn không giống ai.”
Sau năm 1975, nhạc sĩ Xuân Tiên ở lại Việt Nam. Ông kể về thời gian khó khăn đó như sau: “Tất cả các nghệ sĩ đều phải đi học tập 21 ngày tại nhà hát lớn. Tất cả các nghệ sĩ đều lao đao sống chật vật gượng gạo. Chúng tôi, một số nhạc sĩ giỏi họp nhau lại thành lập một ban nhạc để hợp tác với ban kịch nói Kim Cương. Trình diễn phần đầu, phần thứ 2 là kịch. Đi trình diễn khắp trong nước, rất được công chúng hoan nghênh nhưng đồng lương thì rẻ lắm. Cố gượng gạo làm để sống qua ngày. Làm nhiều mà không đủ tiền nuôi gia đình, may mà vợ tôi buôn bán tạm để nuôi gia đình. Vậy mà ban nhạc chúng tôi cũng kéo dài được 5 năm mới nghỉ được gánh Kim Cương. Ban hát cải lương Minh Tơ thấy tôi nghỉ ở ban Kịch Nói Kim Cương, mới mời tôi về làm. Tôi cùng Lang Thoại Nguyên và Xướng người Trung Hoa về làm Minh Tơ, là ban hát cải lương Hồ Quảng. Được hơn một năm thì tôi nghỉ về làm phòng trà tại một tụ điểm được mấy tháng thì có giấy gọi đi định cư ở Úc.”
Mười năm đầu nhạc sĩ Xuân Tiên sống tại Canberra, được ban nhạc người Úc mời chơi nhạc tại các club. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, ông nghỉ và ở nhà nhận sửa chữa tất cả các loại kèn sáo, khách hàng là các trường học, trường nhạc, các ban nhạc tư nhân. Nghề này không có trường dạy ở Úc, mà nhờ Xuân Tiên phải tự sửa những nhạc cụ của mình trong bao nhiêu năm theo nghề nhạc mà thành thạo và có kinh nghiệm. Làm được 10 năm thì ông dọn về Sydney mà nghỉ hưu từ đó đến nay.
Ngoài đóng góp lớn cho âm nhạc miền Nam trong 2 mảng sáng tác và trình diễn, nhạc sĩ Xuân Tiên còn là người có nhiều cải tiến và sáng tạo các loại nhạc cụ dân tộc. Sáo tre vốn dĩ chỉ có sáu lỗ. Năm 1950, ông đã cùng với anh là Xuân Lôi cải tiến loại nhạc cụ này thành hai loại là 10 lỗ và 13 lỗ có khả năng chơi được nhiều âm giai khác nhau. Người chơi sáo 10 lỗ cần dùng 10 ngón tay và có thể chơi tất cả những bán cung, vì thế sáo không bị giới hạn trong bất cứ âm giai nào. Sáo 13 lỗ dùng để tạo ra những âm thanh thấp hơn khi cần. Hiện hai loại sáo này đang được trưng bày tại Musée de l’Homme, Paris, Pháp. Năm 1976, ông chế tác cây đàn 60 dây chơi được tất cả âm giai. Tiếng đàn tương tự tiếng đàn tranh nhưng mạnh và chắc hơn.
Năm 1980, ông cải tiến cây đàn bầu cổ truyền với thân đàn làm từ trái bầu dài làm hộp khuếch âm. Đàn này đã nhiều lần được đem đi triển lãm ở Úc, thường được gọi là Đàn bầu Xuân Tiên. Đàn bầu Xuân Tiên Gia đình Xuân Tiên sau khi di cư vào Sài Gòn năm 1952 có thể gọi là một đại gia đình, với 2 vợ chồng, mẹ vợ, 8 người con, ngoài ra ông còn nhận nuôi 4 người cháu ruột (con của người anh thứ 2) và 2 người làm, tổng cộng 17 người, một tay Xuân Tiên làm việc để chu toàn cho tất cả bằng sức lao động hăng say và miệt mài, bằng tài năng và cố công nghiên cứu trau dồi kiến thức.
Nhạc sĩ Xuân Tiên nói rằng ông có quan niêm có tiền là để xài cho thoải mái đời sống, cho nên ông không bao giờ giàu, cũng không bao giờ mang tiếng keo kiệt. Bao giờ cũng sung túc, nhưng không bao giờ lo lắng giữ của. Tới bây giờ ông càng cảm thấy thoải mái, không phải là một thứ gì trong đời sống. Có lẽ là vì sự thoải mái trong suy nghĩ đó là một phần bí quyết cho sự trường thọ của ông.
Ngoài ra, điều quan trọng hơn cả là ông vẫn giữ thói quen tập thể dục thường xuyên từ thời trẻ cho đến tận lúc bách niên, và nếu hình thân hình lực lưỡng của ông như trong tấm ảnh này, không ai nghĩ đó là một cụ già đã ngoài 90.
Sáng ngày 2/6/2023, nhạc sĩ Xuân Tiên tạ thế ở tuổi 102.
Đông Kha
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của quý văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.