Nguyễn Hàn Chung
(1951 - ......) Quảng Nam
Bút danh khác: Nguyễn Phong Hàn, Nguyễn Đức Mù Sương,
Nhà Thơ, nhà giáo
Nguyễn Hàn Chung sinh năm 1951 Tại làng Phong Nhị xã Điện An huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Ông còn có các bút danh: Nguyễn Phong Hàn, Nguyễn Đức Mù Sương, Nguyễn Mù Sương. Quê quán ở Điện Bàn, Quảng Nam.
Ông dạy học ở Đà Nẵng từ 1971 – 1975, từ 1975 – 2006 ở Quảng Nam,
năm 2006 đến nay định cư tại Hoa Kỳ.
Thường Dơ Thơ
Tác giả: Nguyễn Hàn Chung
Chẳng hiểu cũng chẳng thấu
chẳng cảm cũng chẳng thấm
thơ là mảnh hồn dơ
gặt giũ bằng ngôn ẩm
Gụt cho sạch vết dơ
chữ chỉ còn xương xẩu
đơn âm và đa âm
quấn thơ vào tiết tấu
Vén cảm lên tới bẹn
lộ lộ sợi mơ màng
nghệ thuật phi hành mỡ
bất ngờ lại ra cơm
người ngàn năm sính chữ
người muôn năm sính thơ
chẳng thấu và chẳng thấm
la quáng quàng dơ thơ
hào tâm đến xuẩn ngốc
dằn vặt đến đui mù
thương những đời thi sĩ
mỏn đời ca cúc cu
làm thơ như chọc huyết
máu loang từ vết đâm
chảy em ra kinh hãi
cảm và thấm âm thầm
những nõn nường bảy búa
dẫu thấu chỉ một dù
hơn ngàn câu héo úa
chỉ tổ thường dơ thơ
Houston
11/11/12
Tác phẩm đã xuất bản:
1
Tìm tôi trong bóng
(NXB Đà Nẵng, 1999).
2
Nói hộ phù du
(NXB Đà Nẵng, 2002).
3
Nghịch lưu của tuổi
(Ebook Da Màu, 2011).
4
Dự cảm rời
(NXB Bản sắc Việt, 2016)
5
Lục bát tản thần
(NXB Bản sắc Việt, 2018).
6
Mót Chữ Trong Kinh 1
(2019)
7
Mót Chữ Trong Kinh 2
(2022)
8
Màu Sương Riêng Rớt
ĐỌC THƠ NGUYỄN HÀN CHUNG
“ Anh là thi sĩ , thơ hay, thơ đúng nghĩa của thơ…Mời đọc thơ Nguyễn Hàn Chung để xem mình sẽ tản thần như thế nào khi đọc thơ của anh”( LUÂN HOÁN)
“Mấy trăm bài thơ của Nguyễn Hàn Chung đều dựa trên cốt lõi trào phúng, giễu nhại của tinh thần Việt Nam, ngay bản thân ông cũng được tác giả đem lên trang giấy soi rọi một cách tận tình không ngần ngại…”(DU TỬ LÊ)
“Dù có giấu kỹ những suy tưởng của mình về trời đất về thế thái nhân tình thì cái chất trữ tình trong máu huyết ông, cái nỗi dằn vặt trong hồn ông vẫn còn đó một cách nguyên vẹn khó phai lợt…”(LƯƠNG THƯ TRUNG)
‘Tác giả nhà thơ ấy , thời gian gần đây “mê hoặc rất lâu” trên hầu hết diễn đàn văn chương hải ngoại, phóng khoáng trao gửi ra giữa đời một chữ tình….qua nhiều góc cạnh kèm một chút thiệt thà , một chút bông lơn, mà đa phần là rút ruột răn đe…”( HỒ ĐÌNH NGHIÊM)
“Đọc thơ Nguyễn Hàn Chung càng đọc càng thấm cái hay ho của ngôn ngữ Việt Nam. Từ cái trong sáng của Nguyễn Du đến cái u minh của NHC thấy thơ ai cũng nằm trong ánh đèn LED” (TRẦN VẤN LỆ)
“Nguyễn Hàn Chung thể hiện cách tân qua cung cách nghiêm nghị pha nghịch ngợm con chữ, ý tình.Ngoài lũy tre , người thân, cõi sau… còn là những hình ảnh dồn nén,tưởng tượng của chốn tình chốn dục, qua cắt ghép số chữ 6-8 qua lên hàng và xuống hàng, nhiều bài khá thành công chứng tỏ tác giả có trăn trở kiếm tìm… hơn 200 bài, một số khá đặc sắc, một số nên đọc lớn tiếng vào buổi bình minh, một số khác chỉ nên đọc khi ở một mình “(NGUYỄN VY KHANH)
” Nguyễn Hàn Chung là nhà thơ nổi tiếng nhiều năm nay từ trong nước ra tới nước ngoài … thơ tình nhưng không u sầu than thở mà có giọng đùa cợt nên dễ được nhiều người đồng cảm ưa thích” (NGUYỄN XUÂN THIỆP)
“NguyễnHànChung sống trong những trăn trở đó, nên thơ anh khi chạm tới nguồn mạch quê hương ta cảm thấy anh sống lại một cách mãnh liệt nhưng rất hồn nhiên, tiếng lòng của anh bật lên, ta nghe thấy trong sâu thẳm của chữ nghĩa anh dùng, có một tiếng nấc tự đáy lòng phát tiết” (PHANXUÂNSINH)
“Nguyễn Hàn Chung thuộc nhóm những người chủ trương canh tân đổi mới thi ca từ hình thức đến nội dung. Anh dùng chữ cẩn trọng, cân nhắc, nên trong suốt tập thơ, người đọc không thấy những sáo ngữ, những câu chữ mượt mà, bóng bảy, lê thê, sướt mướt. Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Hàn Chung song hành với đời sống ý tưởng gồ ghề mà anh thểhiện” (QUỲNH THI).
“Thơ của Nguyễn Hàn Chung nặng về tự sự, đi thẳng vào lòng người với một phong cách khó lẫn. Đọc thơ Nguyễn Hàn Chung, có cảm tưởng anh viết chỉ để riêng anh đọc, nên trong thơ anh bộc lộ tất cả, thành thật đến trong veo, nhưng… dẫu thế, thơ là sự đồng cảm, đọc lên lại hóa ra anh viết cho mọi người, nhất là những người, trước thế sự đau đớn ,nhăn nhó như thế này không thể không suy nghĩ, không thể không trăn trở.”(TRẦN KỲ TRUNG)
“Ngôn-ngữ trong thơ NHC: ngôn-ngữ tưởng không bao giờ có thể thấy trong thơ. Nhưng NHC đã dùng nó “tỉnh rụi” bình dị và đi vào lòng người lúc nào không hay. Và nó đã chiếm được cảm tình cuả tôi, tôi đón nhận nó như một người bạn lâu năm, bất ngờ gặp lại. Thơ NHC “lột trần”,”bóc vỏ” cuộc đời.Thơ cuả anh là cái gì xung quanh chúng ta, nó ngổn-ngang như sỏi đá, nó chồi lên như lau lách nơi bờ bãi, nó thanh thiên bạch nhật như những cao ốc lừng lững trong cuộc sống cuả thế kỷ hôm nay, nó là trang FB, là cái trạm xăng nơi góc phố, là ly cà-phê buổi sớm, là điếu thuốc đầu ngày, nó mang theo những hoài niệm, nỗi nhớ quê nhà, nó mộc-mạc hiền lành như ruộng luá, bờ tre” (NGHIÊN LONG- TRỌNG NGHĨA)
“Thơ Nguyễn Hàn Chung thấy vần điệu gần gũi mà ý tứ thăm thẳm, lắt léo…Đọc cách này lóe ra hiểu cách khác nhưng dù đi bằng cách nào đi nữa thì con đường đến thơ ông cũng độc đạo. Đó là con đường đầy cảm thông và yêu thương…” (DƯƠNG DIÊN HỒNG)
“Đọc thơ Nguyễn Hàn Chung đã thấy anh ở một nơi rất xa những tự sự buồn vui yêu thương tâm cảm như lời nói ra …chỉ có thơ là còn lại…” (HUỲNH LÊ NHẬT TẤN)
“Tôi khám phá trong anh khát vọng yêu thương mãnh liệt, yêu thương thân phận con người phải quay cuồng giữa cõi nhân sinh hỗn loạn, yêu đến độ đụng vào đâu cũng bục ra cả khối xót xa, trăn trở, ray rứt…” (NGÔ THỊ MỸ LỆ)
“Nhịp thơ hổn hển gấp gáp mà mộng mị đìu hiu. Thi ý vướng mắc trong hư huyễn đời người, nên dễ gì mà không đau. Điệp từ ngữ – cú pháp, cách ngắt câu xuống dòng bất thường lại là ưu điểm hay gặp trong tập thơ. Kệ đi! Miễn nhà thơ nỗ lực làm mới thi pháp, cách tân thể điệu để tránh sa vào lối mòn là đã hết lòng với nghiệp thơ, với bản sắc văn hóa Việt.” (NGUYỄN THOẠI VY)
“Nguyễn Hàn Chung, một ngòi bút tài hoa đã khắc họa một cung bậc tình cảm tinh tế trong thiên hình vạn trạng yêu-nhớ-hận-quên của cõi đời này.” (TRẦN HẠ VY)
BẠT
(MÓT CHỮ TRONG KINH I)
Khi nhắc tên Nguyễn Hàn Chung. Chẳng còn ai xa lạ với danh xưng này. Anh hiện ra, khoác áo thi nhân đi trên con đường tự chọn. Thoạt đầu là lữ thứ đơn độc xuống núi, rời khách điếm tửu lầu chẳng mấy lâu thì cớ sự đã thôi còn nguyên trạng. Ngựa hý dặm dài, đã có không ít người lao xao đang thúc vó câu sau bóng chữ anh đánh rơi đâu đó. Hình ảnh một nhà thơ, hãy nên khởi đi bằng lối ví von đó. Rõ nghĩa hơn, người mang tên Nguyễn Hàn Chung đã gây nên tiếng vang từ độ.
Khi nói tới thơ, người ta thường đưa ra một nhận định sơ khởi: Đó là thể loại chắt lọc, giản lược chữ, trong khi ở văn xuôi muốn diễn đạt cùng một trạng huống cảm xúc buộc phải viết dài ra. Rườm lời nhưng chưa hẳn đã thâu tóm đủ. Bởi thơ, tuy ngắn, lại có lúc mở được một cảnh giới khác. Thú vị và bất ngờ. Nhà văn Thảo Trường trước đây từng trả lời câu hỏi “Nhận định về truyện ngắn”. Ông cho hay: “Câu nói hay nhất là câu nói ngắn nhất. Viết truyện ngắn là dùng thứ kích thước nhỏ để dựng nên một vấn đề có khi… rất lớn”. Một bài thơ thường ít chữ hơn văn xuôi. Điều đó ai cũng rõ. Và do lẽ đó người ta vẫn sắp hạng thơ đứng cao hơn các thể loại dụng chữ khác. Ở lãnh vực hội hoạ, từ ngàn xưa danh hoạ Leonardo da Vinci có nói: “Giản đơn là thứ rất mực cầu kỳ”. Muốn vẽ được, thể hiện ra sự đơn giản, anh phải dày công tập luyện. Thơ Haiku là gì? Phải chăng là một thứ rất mực cầu kỳ, bởi nó đơn giản tới tận cùng sự giản đơn. Một hòn sỏi rơi xuống giếng sâu. Chấm hết. Anh có nghe được tiếng khuấy động hồi âm? Anh có cảm thấu cái tịch lặng “xôn xao” tiếp theo?
Thơ vốn ngắn, có người đang muốn làm ngắn, muốn giam giữ thơ bằng hình thức chỉ bốn câu thôi. Không thể 5, chẳng cho 6, đừng nên 7, 8… Dạ thưa, người đó là nhà thơ Nguyễn Hàn Chung. Thi nhơn vừa chọn hơntrăm bài,gom lại,làm cho chúng cái giấy khai sinh bằng tên gọi “mót chữ trong kinh”. Bốn chữ này cũng là thứ cầu kỳ trong giản đơn. Chữ mót đã hay mà kinh là đại diện cho những lời răn thậm nghiêm túc. Nhà thơ mót được gì?
ngồi bên gái đẹp
càng thấy mình già
mà tìm gái xấu
suốt đời không ra.
(chụp bóng)
Người đọc bắt đầu sinh nghi. Kinh gì vậy cà? Cứu khổ? Không. Cứu nạn? Không. Kinh tụng về tình yêu chăng? E là vậy. Vì hơn ai cả, nhà thơ Nguyễn Hàn Chung là người thiết tha yêu, mê man yêu, đắm đuối yêu. Ngây dại. Một sự mù loà gần như giả bộ, gần như bỡn cợt. Nổi bật ở thơ anh, cô đọng lấy một chữ “hóm”. Đơn cử bài “Hỏi”:
quen nhau chừng đổi đôi năm
chưa gặp gỡ chưa trăm trăm bữa nào
chưa xì lác chưa bài cào
nói yêu chết bỏ có tào lao không.
Ngoài “tào lao”, tôi đặc biệt thích chữ “văn minh” qua lối so sánh của nhà thơ:
nhớ em hồi nhỏ chơi thân
tắm sông tắm giếng truồng trần giỡn anh
ai đời cái bọn lưu manh
đem quần lót biến em thành văn minh.
(em thành văn minh)
Trang kinh sau đây mới đích thực là kinh, chẳng phải dễ để mót ra những chữ trùng lập cố tình, tạo ra chuỗi âm vọng tựa tiếng chuông ngân nga:
một chiều cô độc
một cô liêu
một tiếng chiều im
một tiếng chiều
một tiếng chiều xiêu
trong một tiếng
một chiều xiêu đổ
một chiều xiêu
(một tiếng chiều)
Kinh sách hoặc kinh ngạc hay kinh khủng thảy đều có thể hiện tới trong sát na “một chiều”, trong hữu hạn “một tiếng”. Mà dù là kinh gì đi nữa, buộc nó ẩn dấu chút ngờ vực và rồi anh phải đam ngộ nó. Tựu thành một thứ triết lý, chứng minh rằng chẳng có gì bất hoại ở đời này. Cách minh chứng của Nguyễn Hàn Chung thật cô đọng, thật thơ. Từ đó, dẫn mê man tới vô thường. Ngoài ra, nhà thơ rất tài ba ở thuật hoán đổi, xáo trộn thời gian. Bản luân vũ thoắt sáng thoắt trưa thoắt chiều, khó nắm bắt khung thời gian chính xác:
đêm gói em
chừa đôi mắt ấy
cầm lòng không đậu
mịt sương bay
tôi vừa chạng vạng
thành khuya khoắt
cứ dỗ tôi rằng
em …
sớm mai
(dỗ)
Khi mang chủ đích chọn in một thi tập chứa toàn thơ bốn câu, cha đẻ nó, nhà thơ Nguyễn Hàn Chung đã tự làm khó anh, đã tự vạch ra một lằn ranh giới hạn để “đêm nằm vo cái tiêu điều thở ra”. Nhà thơ tâm sự:
thả bác học với bình dân
trộn mòn sáo với cách tân khuấy rồi
bắc lên lửa tốt nước sôi
cho lòng ai nhuyễn nhừ rồi húp ngon.
(canh lòng thả)
Đó là phương cách sáng tác từng thử nghiệm qua, trong khi thơ bốn câu chỉ là một hình thức, một vỏ bọc nhỏ có khi chứa một thứ… rất lớn. Như vậy nhà thơ rất giàu có tính ẩn dụ, thật hồ đồ nếu anh mãi tìm đâu là “nước sơn” đâu là “tốt gỗ” trong khi nhà thơ đã nhân cách hoá vật thể chung quanh, cốt để tô đậm một tình ý.
tôi mút mùa thu
trên ngón tay
của em
vừa đếm lá chiều nay
mùi hương
lá
trộn
mùi hương
ngón
hong ấm trần gian
điếng dại này
(lá@ngón)
Hương ngón? Nghe lạ chăng? Mút mùa thu? Nghe đặng không? Đừng tìm lời phân giải. Thơ vốn là thế. Tách biệt ra, chỉ đọc và cảm nó. Anh cảm khi bắt gặp ở thơ vừa dấy lên một cung bậc mơ hồ, chỉ có vậy, tập chao lòng trước bao điều phi lý, thậm chí vô lối. Vận động của lý trí đòi nhảy ra ăn thua đủ, mổ xẻ rạch ròi sẽ khiến bài thơ tắt thở. Lẽ tất nhiên, một nhà phê bình sẽ chẳng tài nào gánh thêm chức phận kẻ làm thơ. Một người sắc sảo việc phân tích này nọ làm sao họ có được lối thuật tả phù chú, vẽ nên cảnh sắc thơ mộng và súc tích như trong bốn câu “trước hồ tịnh tâm”:
tiếng hồ im
đến mong manh
một tàn sen
rớt
cũng thành âm giai
đáy hồ
thấp thoáng cân đai
mặt hồ xiêm áo
một hai chú chuồn
Đó không phải là một trang kinh thì gọi là gì? Rất huyễn hoặc mà cũng rất chắt chiu ngôn từ. Giàu liên tưởng khi dùng chữ “cân đai” thấp thoáng đọng dưới đáy hồ. Hồ Tịnh Tâm còn gọi Hồ Tĩnh Tâm vốn là nơi ngày xưa làm chốn giải trí của vua triều Nguyễn ở cố đô Huế. Một cái nhìn tinh mắt về xiêm áo phù du.
Trước đây, nhà thơ Nguyễn Hàn Chung có viết nên thi tập “lục bát tản thần”. Nó lăn lộn ra chốn “giang hồ” và nó khiến nhà thơ chịu chết. Chết một “thương hiệu” lạ thường mà người đọc gán ghép vào anh: “tản thần”. Tôi nghĩ là người đọc đã thương yêu nhà thơ khi gọi thế. Và tôi tin nhà thơ lấy làm vui khi nhận tiếng ong ve nọ,“mót chữ trong kinh”, với tôi là một tựu thành từ niềm vui ấy. Biến đổi ra một “cuốn kinh” vớihơn hai trăm bài kệ chừng như dễ tụng, nam phụ lão ấu đều lĩnh hội được đôi điều khi bước vào cảnh giới thoạt trông là bông lơn, nhưng giấu sau chữ là một thành tâm sám hối. Sám hối về những lỡ làng trên cuộc lữ, giữa quan hệ gái trai, tình nhân hoặc vợ chồng. Phả vào chút nghịch ngợm, hà hơi thêm chất tự trào, thấp thoáng một lay động của hình ảnh ông Tú Xương mãi đương cự những éo le mà đời luôn bày biện.
Nhiều người coi thơ là những hạt ngọc, tôi đọc thơ bốn câu của tác giả Nguyễn Hàn Chung với ý nghĩ rằng đó là chén cơm trắng, gắp bỏ gia vị với đồ “mặn” ra, những hạt gạo kia thơm dậy một tấm lòng thiết tha yêu đời, yêu người, thậm chí thuần hậu yêu một hình ảnh tưởng chừng chỉ còn nằm trong hoài niệm, hư ảo, ngoài tầm tay. “mót chữ trong kinh” là một nỗ lực đi tìm vẻ đẹp mong manh mà thơ Nguyễn Hàn Chung là nhịp cầu, trải thân cho những ai hằng tin yêu thương có thể trấn áp, hoá giải bao muộn phiền.
Tôi chỉ là người đọc thơ bình thường. Nghĩa là tôi chỉ biết “mút ngón tay” chỉ trăng. Nghe Phật cười độ lượng: Ta nào có rao giảng điều gì đâu? Một người đọc vui thú khi được góp mặt, núp bóng đằng sau “mót chữ trong kinh”.
em lá trong tôi chập choạng chiều
vẫn thèm riêng sớt một lời yêu
thèm yêu như giọt sương trên lá
yêu thoáng hôn hoàng lặn mất tiêu.
(thèm yêu)
Nhà thơ Nguyễn Hàn Chung là một người hạnh phúc, tôi đoan chắc như vậy khi lạc chân vào cõi thơ anh vây lối. Tôi chưa hề nhìn ra nỗi đau khổ tột cùng như bao nhà thơ khác khi viết về tình yêu. Cho dù Nguyễn Hàn Chung vui gượng, tôi vẫn thích nụ-cười-giả-bộ-buồn mà anh thổ lộ. “mót chữ trong kinh” là mót lấy cái bi hài đầy thành thực. Tôi cảm ơn anh về nụ cười, với tôi, thơ anh chưa hề đánh mất niềm lạc quan.
Hồ Đình Nghiêm Montréal, tháng 11, 2019.
Trang thơ của Nguyễn Hàn Chung
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.