Thứ Ba, 6 tháng 6, 2023

Phạm Lưu Vũ

 













Phạm Lưu Vũ

Tên khai sinh: Phạm Khắc Lưu
Bút danh khác: Vũ Phong Lưu

(1957 - .....)
Quê: Nam Định
Nhà văn, Kỹ sư xây dựng




Thỉnh thoảng buồn buồn thì viết văn, làm thơ...
Có truyện ngắn, tạp văn, (cả thơ nữa) đăng trên báo Người Hà Nội,
Văn nghệ, Lao động, Evăn.

Nhà xuất bản Phụ Nữ in tuyển tập truyện ngắn và
tản văn của anh vào quý II.2005 có Tựa đề "Chính Danh,".








Cái kết có hậu


NV Phạm Lưu Vũ



Bạn hỏi tôi: Viết truyện ngắn khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ kết. Khó như thế nào? Sau đây là câu chuyện của tôi:

Chủ nghĩa Xã hội kinh điển có một “tuyệt phẩm” là thời bao cấp. Thời ấy có món phở mậu dịch gọi là phở “không người lái”. Cái này mới thực sự kinh điển. Ấy là bát phở chỉ có bánh phở, nước dùng và mấy cọng hành ngò, tuyệt không một miếng thịt. Vậy nhưng nó vẫn là một món quà sang trọng và quí hiếm đối với những cái bụng học trò chúng tôi. Mỗi lần trốn học rủ nhau xuống phố huyện, cái cửa hàng mậu dịch với món phở không người lái trứ danh ấy vẫn luôn là một trong những mục tiêu tối quan trọng, gây háo hức nhất cho chuyến đi. Bấy giờ tôi có một chị người cùng làng làm nhân viên trong cửa hàng mậu dịch ấy. Chỉ nội một việc ấy thôi cũng đã là một điều phi thường. Nói không ngoa tý nào, chị là niềm tự hào của cả làng tôi đấy. Đến nỗi mỗi khi ai đó có việc phải xuống phố huyện, trước khi đi thế nào cũng được nghe những lời dặn dò: “cái ấy, con nhà ấy nó làm ở mậu dịch huyện đấy”. Đi rồi thế nào ở làng cũng túm năm tụm ba kháo nhau: “nhà ấy… hôm nay nó xuống phố huyện, chẳng biết có biết lối mà ghé vào chỗ con ấy… ở mậu dịch không…” Khi trở về thì từ đầu làng tới cuối làng, thế nào cũng hết người nọ đến người kia túm lấy mà hỏi đủ thứ chuyện về chị mậu dịch viên quý hóa muôn vàn tình thương mến ấy.
Có một người làng làm nhân viên ở cửa hàng mậu dịch huyện, có gì phi thường đâu nhỉ, có gì mà cả làng cứ phát rồ lên như thế? Thỉnh thoảng tôi vẫn có cái thắc mắc cỏn con ấy. Vậy mà lắm lúc, chính tôi cũng không khỏi hãnh diện trước đám bạn học về việc có một chị người làng làm trong mậu dịch huyện. Lần nào xuống đó, tôi cũng đem chị ra khoe. Song khổ một nỗi là chẳng lần nào tôi gặp được chị tại đúng cái chỗ thiên đường của những cái bụng rỗng ấy. Tôi đã sắp trở thành một tên khoác lác trong mắt đám bạn thì may quá, lần ấy, tôi thoáng thấy bóng chị phía trong quầy hàng. Mừng quá, tôi vội vàng hét tướng lên gọi chị. Và… niềm tự hào của cả làng tôi (lạy giời) cũng đã kịp nhận ra tôi. Chị quay lại, nhìn tôi nhoẻn cười, lại còn gọi đúng tên tôi ra nữa chứ. Chỉ cần thế thôi. Tôi đã hoàn toàn sung sướng và mãn nguyện, đủ để vênh mặt trước những ánh mắt tin tưởng, nể nang của lũ bạn học.
Song niềm hạnh phúc vô bờ của tôi không dừng ở đó. Hôm ấy chính chị là người đứng quầy, chế từng bát phở rồi đẩy qua một cái khay nhôm. Chúng tôi xếp hàng đứng bên ngoài quầy, thò tay qua cái lỗ tò vò, trao cho chị miếng tích kê nhỏ làm bằng tôn mua ở trước cửa mậu dịch rồi nhận lấy bát phở bưng ra bàn ngồi ăn. Khi đến lượt tôi, chị tỏ ra ưu ái hơn đối với những người khác là tự tay đẩy một bát phở đến cho tôi. Cảm động quá, thậm chí tôi còn cảm thấy hình như chị nháy mắt với tôi một cái rồi mới nhẹ nhàng quay mặt đi chỗ khác. Bát phở không người lái hôm đó cũng vẫn ngon lành như mọi khi. Tôi đã cố tình ăn thật chậm, cốt kéo dài cái sự sung sướng không mấy khi có được như thế này. Khi ăn đến miếng cuối cùng, tôi bỗng bàng hoàng phát hiện có một miếng thịt được dấu dưới đáy bát phở. Đích thị đây là ân huệ mà chị người làng quý hóa đã dành cho tôi. Tôi đã hiểu cái nháy mắt kín đáo lúc nãy của chị. Cảm động đến đờ người, tôi lặng lẽ quay đầu quan sát xung quanh. Lác đác mấy người nông dân áo bạc, cả đám bạn tôi, ai nấy cũng đều đang cúi đầu sì soạp trước những bát phở không người lái của mình. Không một ai biết cái kết tuyệt vời trong bát phở của tôi, đang hiện hữu ngay trước mặt tôi… Ôi miếng thịt dấu dưới đáy bát phở không người lái…

Về sau này mỗi khi tập tọe viết truyện ngắn, tôi đều nhủ rằng dù có là một bát phở không người lái, thì cũng nên có cái kết như bát phở kia, nghĩa là cố mà dấu ở dưới đáy, dù chỉ là một mẩu thịt…












Sách đã xuất bản





1
Luận Ngữ Tân Thư
Nxb Đà Nẵng 2018



Luận ngữ tân thư của Phạm Lưu Vũ, xét về góc độ bạn đọc đơn thuần, thực sự là rất thú vị bởi người đọc thông qua lăng kính của nhà văn, ai cũng thấy cá nhân mình và những người quanh mình trong đó. (Mặc dù Phạm Lưu Vũ “khôn ngoan” mượn giọng truyện xưa để kể - mà thực chất gã sáng tác khiến người đọc u u mê mê cứ tưởng như mình đang được đọc lại lịch sử).
Cái thú vị ở chỗ là trong mỗi một truyện, nếu để ý kỹ, nó đều có những liên quan kết nối với những truyện khác.
Luận ngữ tân thư thật sự là một tập văn lạ. Lạ bởi chỗ từ xưa tới nay chưa có nhà văn nào Dám và Tự tin mượn những tích, những giai thoại cổ xưa thông qua “một góc nhìn tinh quái, thông minh và cũng khá cay nghiệt” để “làm lại một cuộc tư duy” cho bạn đọc như kiểu Phạm Lưu Vũ.
Và tôi tin là trong mỗi chúng ta, sau khi đọc Luận ngữ tân thư, ít nhiều chúng ta chắc chắn sẽ không bị mê mị về cái thứ cổ văn đã khiến chúng ta bị dụ dỗ trong nhiều năm, nhiều thập kỷ.














2
Chiếc Khoen Đồng
Nxb Hội nhà văn 2022


Cuốn sách tập hợp 10 truyện ngắn được tác giả Phạm Lưu Vũ chọn từ vài chục tác phẩm viết trong vòng hai năm gần đây. Với 450 trang in, cuốn sách không chỉ dày dặn về dung lượng mà thực sự “nặng kí” về nội dung. Trong làng văn học Việt Nam đương đại, Phạm Lưu Vũ vốn nổi tiếng từ lâu là một ẩn sĩ của “văn phái thần chưởng” luyện chữ như thể luyện gươm và ngày ngày du ký trong cõi mộng mị vô vi vô cùng của nhiều sắc đạo.

Lần gần đây nhất, ông xuất hiện trong cuộc thi truyện ngắn 2018-2020 của Tạp chí Nhà văn &Tác phẩm và đoạt ngay giải nhất đầy thuyết phục với hai truyện ngắn “Chiếc khoen đồng” và “Giọt lệ Nam Xương” (được chọn in trong cuốn sách này).

Thế giới nghệ thuật của Phạm Lưu Vũ, không phải người với di sản văn hóa hay trong thời cuộc như các tác giả khác, mà là tiên, Phật, thánh thần sống với người. Họ là “quan sát viên” của thế giới người; khi cần thì can thiệp cùng người chống giặc ngoại xâm, giặc cướp hay lũ tham quan ô lại biến thái.

Họ như các hiền giả, tìm cách mang minh triết đến cho con người, thông qua lời tiên tri như chiếc khoen đồng, rằng bản lĩnh và bản sắc một con người, một dòng họ (và suy ra một dân tộc) là không thể mất, dù có thời nó chìm, nó tồn tại trong một hình hài khác, nhưng cứ có nhân nhân (lại) mọc, vô nhân (thì) nhân trẩm(không mọc, biến mất).

Hay như ở “Giọt lệ Nam Xương”, minh triết rằng, dẫu có là Tiên Thánh, là Giời mà trong lúc quốc gia bị đặt trên lẽ hưng vong đánh giặc giữ bình yên cho nước, giữ toàn vẹn lãnh thổ của nước mà không đồng lòng cùng dân tộc, chỉ tìm cách né tránh, định vân du đến cõi cực lạc của riêng mình, thì vẫn sẽ bị Vô vị Chân nhân cai quản địa tiên xứ Nam Diêm phù đề quăng lưới tóm lại, giam vào rọ sắt thời gian đến thành hóa thạch mà sám hối lỗi lầm…

Văn Phạm Lưu Vũ đầy biến ảo trong cái sinh quyển Phật giáo nhưng là Phật giáo hiện đại, dấn thân đồng hành cùng nhân quần và cả giới Tiên Thánh. Có thể nói, tác giả Phạm Lưu Vũ luôn giữ được cho mình một tâm thế văn chương đầy bản lĩnh, vững vàng và một giọng điệu độc đáo, riêng biệt trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện nay.


Đọc Phạm Lưu Vũ









3
Ván Cờ Ba Họ
nxb Hội nhà văn 2024











CHỊ CẢ BỐNG
Phạm Lưu Vũ







Lời giới thiệu: Truyện ngắn Chị Cả Bống xuất hiện đầu tiên trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 8/6/05. Lập tức toàn bộ số báo bị tịch thu. Ông phó tổng biên tập cho in bài “nổi loạn” này bị mất chức. Tác giả đang bị công an hù dọa liên tục. Hiện tại số báo ngày 8/6 này đang được phô tô truyền tay nhanh chóng tại Hà Nội, vượt xa cả số phát hành chính thức là 2000 tờ. Những số báo đã lỡ gởi ra trước khi có lệnh tịch thu mà các đại lý nhanh tay giấu được ngay lập tức được bán với giá gấp 10 lần (20.000 đồng một tờ). Tại Sài Gòn nơi tác giả lấy bối cảnh để viết, giá lên gấp hai mươi, ba mươi lần.

***

Chiều tà, một người đàn ông phóng như ngựa phi nước đại về phía tây thành phố, nơi ấy có nhà tù với cái tên rất đẹp là “Hoà khí”. Tới cổng gác, ông ta trình thẻ căn cước cho lính canh. Sau khi xem chứng minh thư, lính canh dẫn ông vào văn phòng nộp hồ sơ. Một người đứng tuổi đeo kính trắng nhận hồ sơ rồi bảo:

– Dẫn tới khu nhà chờ, đợi thẩm tra hồ sơ, ba tuần sau có kết quả.

Lính canh lại dẫn ông ta đi, khu nhà chờ gồm vài dãy nhà cấp 4 sập xệ và rêu mốc, rất đông người ở kín các gian phòng, đàn ông, đàn bà, lớn bé, già trẻ, đủ cả… Điều kiện sinh hoạt rất tồi tệ song không ai ta thán, đơn giản họ chỉ ở lại đây có vài tuần. Từ khi lập ra khu nhà chờ này không lúc nào vơi người. Ngày nào cũng có người đi lại, ngày nào cũng có người đến. Giống như người đàn ông kia, mọi người chờ thẩm tra hồ sơ, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ được vào tù. Tiêu chuẩn đơn giản nhưng không phải không kỹ càng, chỉ những người lương thiện không dính tý lưu manh nào mới được vào tù. Tất nhiên lũ bất lương đừng hòng bén mảng tới. Chẳng ai lấy làm ngạc nhiên, ở xứ xở này, không có chuyện gì là không xảy ra kể cả những chuyện ngược đời, đơn giản mọi người không những thích đùa mà còn đùa rất dai;

5 giờ rưỡi sáng, kỹ sư Hoàng thức dậy, vợ và đứa con trai mười tuổi của anh đang ngủ say. Đứa con gái 17 tuổi của anh đêm qua không về, chị giúp việc cũng đã dậy từ lúc nào, đèn dưới bếp hắt lên mấy vệt sáng le lói qua khe cửa. Mười phút cho việc vệ sinh cá nhân, 25 phút cho việc mở các loại cửa. Như mọi nhà trong thành phố, từ lâu anh đã biến căn hộ của mình thành một pháo đài. Các cửa sổ ngoài việc lắp chấn song bằng thép dày, còn được giằng ngang ba ống thép to bằng cổ tay, chia đều từ trên xuống dưới. Cửa đi cũng bằng thép đúc, bên ngoài dán một lớp gỗ mỏng. Tính từ trong ra đến cửa, còn năm lớp cửa như thế, tất cả đều có khoá đặc biệt, mỗi cửa gồm ba chiếc khác loại nhau. Mở đến lần cửa cuối cùng thì vợ con anh cũng vừa trở dậy. Những việc chuẩn bị cho một ngày mới diễn ra đã thành nếp. Sau khi dặn dò kỹ lưỡng chị giúp việc hai vợ chồng dắt xe đi làm. Chị kiêm thêm nhiệm vụ đưa con tới trường, chiều về ghé qua chợ mua thức ăn cho ngày hôm sau. Trước khi ra cổng, anh một lần nữa kiểm tra trên người vợ con xem có đeo bất cứ loại trang sức nào không, nhắc vợ cẩn thận kẻo bị cướp… Anh lại lần lượt khoá tất cả các cửa từ trong ra ngoài, trong lúc vợ đứng giữ xe. Đứng bên ngoài thò tay qua các lỗ cửa thực hiện những thao tác của người mù, mười phút nữa cho công việc ấy, xong xuôi vợ chồng con cái chia thành hai ngả phóng xe đi.

Kỹ sư Hoàng làm việc tại một cơ quan thiết kế gần trung tâm thành phố. Mới ngoài 40 mà tóc anh đã gần như bạc trắng, thằng con trai lớn 19 tuổi đang ở trung tâm cai nghiện, đứa con gái thứ hai 17 tuổi đua đòi chúng bạn bỏ cả học đi vũ trường thâu đêm, suốt sáng. Không phải vợ chồng anh không biết dạy con mà là bất lực. Con đường đời biết bao nhiêu cạm bẫy, nó gài khắp mọi nơi, mọi chốn, gài trên mỗi bước chân. Già đời chững chạc như vợ chồng anh, ngày nào cũng phải nhắc nhau từng tí một mà vẫn ngay ngáy lo rằng không biết lúc nào, cái bẫy nào sẽ ụp xuống mình đây?

Kỹ sư Hoàng chợt lạnh người. Có tiếng còi nghe rợn tai, một cảnh sát giao thông bước quả quyết từ trên vỉa hè xuống đường vừa tuýt còi, vừa chỉ thẳng cái dùi cui vằn vện vào mặt anh, một cảnh sát khác ngồi vắt vẻo trên yên xe máy phân khối lớn sơn màu trắng. Chưa kịp hiểu mình có sai luật hay không anh vội đạp phanh, chiếc xe dừng tắp lại.

Kiểm tra giấy tờ!

Người cảnh sát vừa rút chiếc còi ra khỏi miệng vừa giơ tay lên mũ chào như một cái máy, vừa ra lệnh cho anh. Cầm giấy tờ của anh đưa cho anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, anh cảnh sát ấy lại tiếp tục đút còi vào miệng cầm gậy trỏ xuống đường chọn bắt xe khác. Anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, lướt qua đống giấy tờ của một anh khác. Không nói năng anh ta đưa mắt ngó lơ đi chỗ khác như thể chờ ai đến đọc giùm. Cũng như một cái máy, kỹ sư Hoàng dựng xe, móc bóp, rút ra một tờ đẹp đẽ vuông vắn có in hình lãnh tụ, bước tới chỗ anh ta.

Đến cơ quan, vừa kịp giờ làm việc, chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là một thẩm phán toà án, người đang xử lý vụ kiện đòi nợ của cơ quan anh. Bằng một giọng rất lễ phép anh thẩm phán nhắc khéo anh rằng vụ kiện của cơ quan anh sẽ có thể bị đình chỉ vì phía anh chưa nộp chi phí cho việc thẩm tra. Nhân tiện anh ta nhắn rằng bữa nhậu chiều qua vì điện thoại cho anh không được mà anh ta và đám chiến hữu bên viện kiểm soát phải ký nợ nhà hàng một khoản kha khá, lúc nào anh ghé qua thanh toán giùm…

Chiều hôm đó về nhà, kỹ sư Hoàng chưa kịp mừng vì tin cô con gái đã trở về đang nằm bẹp trên gác thì đã nghe vợ mếu máo báo tin chiếc xe máy của chị bị cướp, mẹ con phải đi bộ về. Thực ra chị đã dối anh, chiếc xe máy đó chị đã buộc phải thế chấp để chuộc cô con gái từ cái động của một mụ tú bà, vì cô còn nợ mụ một khoản tiền vay mua son phấn với mức lãi 40 % một ngày. Thế coi như của đi thay người. Kỹ sư Hoàng chưa kịp phát điên lên vì giận dữ thì may quá nhà có khách. Ông trưởng khu phố và mấy cán bộ của Uỷ ban lừng lững bước vào:

– Chúng tôi đến nhắc anh về khoản đóng góp xây nhà tù – Ông trưởng khu vào đề ngay, nhân tiện báo để anh biết tháng trước có xe chở vật liệu đến đây, anh đã thuê thợ sửa nhà mà không xin phép. Uỷ ban đã nắm được việc này, nếu anh không thu xếp ngay thì sẽ bị lập biên bản thu giữ giấy tờ nhà, giấy tờ đất.

Kỹ sư Hoàng ngớ ra, quả thật tháng trước anh có thuê thợ lắp thêm một lần cổng nữa, phải xây mấy mét vuông tường, tưởng việc nhỏ, không phải xin phép, ai ngờ… Thôi đành “thu xếp” cho mấy vị trong Uỷ ban, nhưng còn khoản đóng góp xây nhà tù?

– Can phạm bây giờ nhiều quá – ông trưởng khu phố giải thích. Đấy anh xem, trong nhà gặp lưu manh, ra đường đụng kẻ cướp, đủ các kiểu ăn cướp; rồi còn lũ ăn trộm, lừa đảo cho vay nặng lãi, nhà tù nào cũng chật ních, phải xây thêm. Ngân sách không kham nổi phải áp dụng phương pháp “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Phố ta được giao chỉ tiêu góp vốn xây 500 mét vuông nhà tù, thế mà ngẫm lại vẫn chưa đủ cho số tội phạm của chính phố ta đang nằm trong đó, chưa kể số sắp phải vào tù nay mai…

Đoàn cán bộ khu phố về được một lúc thì lão Tiến cụt giò đến, đó là một lão già vô tích sự nhà kế bên. Lão bị cụt một bên giò từ hồi chiến tranh, giờ sống bằng số tiền thương tật, thỉnh thoảng con cháu dấm dúi gặp chăng hay chớ cho thêm. Suốt ngày chẳng làm trò gì, chỉ hay la cà hết nhà này đến nhà khác kiếm câu chuyện làm quà. Nhà kỹ sư Hoàng là một trong những nơi lão hay mò đến. Lão dở hơi ấy liến thoắng như thể đã tỏ tường mọi chuyện:

– Họ đến đòi tiền đóng góp xây nhà tù phải không? Anh kỹ sư này tôi nói anh xem có đúng không nhé: – Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá, phải góp tiền xây nhà tù cho bọn bất lương ở, lại còn phải nai lưng nuôi chúng nữa, trong khi bọn lưu manh ngày càng chiếm đa số, người lương thiện ngày càng giảm đi. Biết đâu đến một lúc nào đó, những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình. Khi ấy tất nhiên bọn lưu manh tha hồ ở ngoài, vì lương thiện bây giờ đâu có nhiều nhặn gì, vừa bắt chính bọn chúng phải nai lưng ra làm đề nuôi người lương thiện, như thế có phải là công bằng không?

Kỹ sư Hoàng phì cười vì cái lý sự ấy của lão Tiến cụt, vừa lúc ấy, chuông điện thoại trong nhà đổ dồn, vợ anh nghe xong, mặt tái mét ra báo tin dữ:

– Anh tới ngay bệnh viện Chúng Sinh. Thằng Phúc con chị cả bị cướp giật té xe, chấn thương sọ não đang nằm cấp cứu trong ấy.

Chị Cả Bống là chị gái kỹ sư Hoàng ở dưới quê, anh chị có ba thằng con trai thì hai thằng lớn theo bố làm nghề xin đểu kiêm trấn lột ở bến đò Đuôi Cáo bị đâm lòi ruột, chết cả ba bố con từ năm kia. Cũng là cái số thôi. Làng khối người làm nghề ấy hoặc hao hao nghề ấy mà có sao đâu, chỉ thỉnh thoảng lại thấy đi ở tù, vài năm về còn lưu manh hơn trước. May còn lại một mình thằng út tên Phúc ngoan, hiền, học giỏi. Năm ngoái đỗ đại học lên ở ký túc xá. Nó thương cậu mợ Hoàng nghèo nên không muốn nhờ vả. Chị Cả bán hết mảnh vườn còn lại sắm cho nó cái xe máy cũ làm phương tiện đi lại. Hôm ấy đang làm cỏ ngoài đồng có người gọi về cái trạm điện thoại công cộng ở đầu làng báo tin nó bị nạn. Chị nghe nhắn lại mà muốn quỵ luôn xuống ruộng. Vội vã chạy về nhà, chị vét vội mấy bơ lạc, bơ gạo nếp cho vào mấy cái bao ruột tượng tất tả chạy ra bến đò Đuôi Cáo. Vừa mới mon men gạ bán ở các hàng quán quanh đó, bất ngờ gặp mấy anh quản lý thị trường, chị bị bắt vào trụ sở. Lạy van thế nào họ cũng không nghe, còn dẫn hết “nghị định 01” đến “thông tư 04” gì đó ra đọc sang sảng vào hai cái tai đã chỉ còn nghe thấy tiếng lùng bùng của chị. Kết quả mấy bơ lạc ấy bị tịch thu vì lý do bao bì không có nhãn hiệu hàng hoá!

Thật khốn khổ cho chị, chỉ do cuống lên vì đứa con cuối cùng còn sót lại đang gặp nạn, muốn bán tống bán tháo mấy món tài sản ít ỏi ấy cho thật nhanh để lấy tiền đi xe lên thành phố. Chứ có phải chị buôn gian bán lận gì đâu ? Còn tiền thuốc thang, nói dại, nếu nó bị nặng chị chưa biết sẽ trông vào đâu, một viên thuốc cảm bằng cái cúc áo bây giờ giá bằng ba bốn cân thóc. Giờ thì ngay đến việc lên nhìn mặt con cũng bị chặn đứng lại rồi. Không có tiền ai người ta cho chị đi xe hàng trăm cây số? Càng nghĩ chị càng quýnh quáng chân tay, cuống cuồng, đứng chôn chân một chỗ, đầu óc mụ đi, mắt ráo hoảnh, vô hồn nhìn phía trước như một bức màn sương… bỗng từ trong cái màn đục lờ ấy, một bóng trắng hiện ra quằn quại, máu bê bết hiện ra chập chờn lúc xa xa, lúc ập ngay trước mặt, gió lạnh quất gai người. Phảng phất màu tanh của máu tươi. Tai chị nghe rõ ràng tiếng kêu cứu của đứa con trai. Chị bàng hoàng nhận ra đó là tiếng rên từ địa ngục, tiếng của một âm hồn không còn ở cõi nhân gian này nữa:

– Mẹ ơi, con chết rồi. Họ đang mổ bụng con. Mẹ ơi…

Chị cả Bống hốt hoảng lao tới, giơ hai tay túm lấy bóng con, chợt cái bóng như có người giằng lấy, chập chờn quăng qua quăng lại trước mặt chị rồi mờ dần mờ dần, vẫn còn ri rỉ tiếng kêu cứu của oan hồn, rồi tất cả lịm đi. Cả tiếng kêu cứu lẫn cái bóng máu me chợt tắt ngấm bởi một tràng cười ré lên sằng sặc như của lũ ma quỷ nhưng không phải vọng lên từ địa ngục, tiếng cười ấy rõ ràng đang ở cõi nhân gian hiện hữu này…
Chị cả Bống sau này phát điên không về làng nữa, cứ lê la liếm láp ở quanh cái bến đò có cái tên rất ấn tượng là bến đò Đuôi Cáo ấy. Nhưng chị không điên ngay lúc đó, có người chứng minh là sau khi ra khỏi trụ sở ban quản lý thị trường chị vẫn còn tỉnh táo nhớ ra trong người còn sót mấy đồng tiền lẻ. Chị lần vào trạm điện thoại công cộng gọi điện báo cho cậu em trai. Đó là tất cả những gì chị làm được cho đứa con. Sau đó chị mới phát điên.

Kỹ sư Hoàng đến bệnh viện Chúng Sinh thì trời đã tối. Tìm tới phòng cấp cứu, anh hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, cô hộ lý mặc blu trắng bảo:

– Biết ai là phúc với hoạ gì ở đây. Đi mà hỏi trực ban.

Phòng cấp cứu rộng mênh mông, đầy những giường là giường, giường nào cũng ít nhất hai người nằm trở đầu đuôi. Đủ các kiểu tai nạn, vỡ đầu, gãy chân, lòi ruột, lòi xương. Ánh đèn nê ông trắng bệch soi loang lổ những máu me bông gạc. Nồng nặc một thứ mùi vừa tanh tanh máu, vừa ngầy ngậy thuốc tây. Bóng những blu trắng đi qua lại giữa các giường như ma trơi. Làm sao nhận ra đứa cháu bây giờ ?

Kỹ sư Hoàng vội vã đến phòng trực ban. Phòng trực ban cấp cứu nằm cuối dãy hành lang đầy những kẻ nằm người ngồi vạ vật rất chi là bệ rạc. Trong phòng có mấy người cũng mặc blu trắng đang chụm đầu bàn bạc nhỏ to:

– Cái mật hôm trước bán vội quá. Ngay hôm sau có người tới trả cao hơn cả chục triệu, tiếc đứt ruột – một người nói

– Cái này đếch bán nữa, đem ngâm rượu. Hũ rượu trước hết con mẹ nó rồi. Mấy lão hen suyễn kinh niên uống vào là khỏi, để giành bán cho các lão ấy. Gớm họ vừa chi tiền vừa cám ơn rối rít ấy chứ – một người khác nói

– Thôi được rồi! Người thứ ba nói – các ông xuống làm ngay đi, thằng này căn cước ghi rõ ràng: – 19 tuổi. Đã kiểm tra, đảm bảo còn nguyên dương ( đàn ông chưa xuất tinh lần nào) chết do chấn thương sọ não vừa được mấy phút. Cái mật này mới tuyệt hảo, để quá hai tiếng có mà hỏng mẹ nó cả chì lẫn chài. Đã điện thoại cho bên công an rồi, họ bảo cứ mổ đi, có gì đừng “quên” họ là được.

Hai người kia vội vã đứng dậy lao nhanh ra khỏi phòng, vừa lúc ấy kỹ sư Hoàng bước vào:

– Bác sĩ làm ơn cho hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, 19 tuổi, sinh viên năm thứ hai, nghe nói bị chấn thương sọ não có cấp cứu ở đây không, nằm giường số mấy? Tôi là cậu ruột cháu – kỹ sư Hoàng vừa hỏi vừa tự giới thiệu

Anh bác sĩ còn lại trong phòng thoáng một chút giật mình. Anh ta làm như nghĩ ngợi điều gì rồi ngập ngừng:

– Tên Phúc, sinh viên, 19 tuổi.. A… anh… à bác ngồi chờ cháu một lát.

Linh cảm thấy có gì nghiêm trọng xảy đến với đứa cháu, lại cứ tưởng anh bác sĩ kia vì thông cảm với nỗi đau của mình mà chưa nỡ nói ngay. Kỹ sư Hoàng vừa lo sợ vừa cảm động nhìn anh bác sĩ đang cúi gằm mặt, tay lần giở một cuốn sổ to tướng chậm rãi lần một hồi. Mồ hôi đã toát ra lấm tấm trên khuôn mặt đỏ như gà chọi, anh bác sĩ chợt ngẩng lên bảo:

– Trong sổ này không thấy có tên Phúc. Bác ngồi đây chờ cháu đi lấy sổ khác. Nhớ là đừng đi đâu đấy.

Nói xong anh ta gập sổ rồi vội vã ra khỏi phòng, không quên đóng sập cửa lại, còn một mình trong phòng, kỹ sư Hoàng lòng như lửa đốt. Bỗng chuông điện thoại reo vang, một hồi, hai hồi… chừng như người đầu dây bên kia có việc cần gọi cho bằng được. Kỹ sư Hoàng do dự giây lát rồi nhoài người với lấy cái ống nghe, định nói cho bên kia chờ lát nữa gọi lại. Vừa áp ống nghe lên tai, kỹ sư Hoàng chợt nghe ngay một giọng nói dằn từng tiếng:

– Trực ban cấp cứu phải không? Bảo với pháp y rằng cái mật lần này tuyệt đối không được bán nghe chưa! Chú Sáu bên Uỷ ban đăng ký rồi đấy.

Kỹ sư Hoàng chưa kịp hiểu mô tê ra sao thì người đầu dây bên kia đã dập máy. Sau khi định thần suy nghĩ kết hợp với mấy câu cuối nghe được loáng thoáng lúc mới bước vào phòng, kỹ sư Hoàng chợt lạnh người với một nỗi nghi ngờ. Anh với cuốn sổ lúc nãy mở ra. Ngay giữa trang cuối cùng, rõ ràng có tên nạn nhân Nguyễn Hồng Phúc, 19 tuổi, sinh viên, té xe, nhập viện lúc… giờ… ngày – người đưa đến: Phạm văn A – bạn cùng lớp. Bỗng cánh cửa sịch mở, anh bác sĩ khi nãy ùa vào. Nhìn thấy cuốn sổ trên tay kỹ sư Hoàng, anh ta thoáng một giây bối rối rồi lập tức liến thoắng:

– Cháu quên không đọc trang cuối, đúng là có…

Anh ta chưa kịp nói hết câu kỹ sư Hoàng đã ngắt lời:

– Tôi biết hết rồi, anh không phải giải thích

Rồi chẳng muốn nói gì thêm, nữa kỹ sư Hoàng ném trả cuốn sổ, hấp tấp lao nhanh ra khỏi phòng, anh bác sĩ hé cửa ngó theo, hơi lắc đầu, mỉm một nụ cười ý nhị rồi đóng cửa lại, ung dung quay vào. Chuông điện thoại lại reo, anh ta cầm lấy ống nghe:

– Dạ… dạ… à thế ạ… Báo cáo, xong xuôi cả rồi ạ. Thế thì chú nói chú Sáu chuẩn bị rượu tốt để ngâm, cháu sẽ bảo anh em mang sang ngay bây giờ ạ.

Kỹ sư Hoàng xuống đến nhà xác thì Phúc đã nằm trong ngăn lạnh. Một không khí thê lương sặc mùi tử khí. Nền nhà vương đầy những bó nhang cụt, những cục nến gãy, những mẩu giấy tiền vàng mã… làm quang cảnh nơi đây giống như vừa xảy ra một vụ cướp. Viên quản lý nhà xác nghe trình bày, quan sát anh từ đầu đến chân bằng cặp mắt âm u như cặp mắt quỷ rồi chẳng nói chẳng rằng, ông ta lừ lừ tiến đến kéo một ngăn tủ ra. Kỹ sư Hoàng lạnh toát người nhìn trân trân cái xác… “Đúng thằng Phúc rồi, chị Cả ơi, khổ thân chị quá”… Không giữ nổi bình tĩnh, anh khuỵu xuống gục đầu vào ngăn tủ. Mùi máu tanh tưởi ập vào giác quan. Anh chợt tỉnh, ngẩng phắt lên, lấy tay lật manh áo trước bụng đứa cháu… một vết mổ cẩu thả còn chưa khít miệng với mấy mũi khâu vội vàng, dúm dó:

– Các người đã mổ cháu tôi… các người đã… Tôi sẽ kiện, kỹ sư Hoàng gào lên trong nước mắt

– Híc… viên quản lý nhà xác cất tiếng, giọng cũng âm u như phát ra từ bụng gã – Tha hồ cho ông kiện, tất cả những cái chết bất đắc kỳ tử thế này đều phải mổ hết, luật pháp quy định như vậy. Hừ có mà điên mới đi kiện luật pháp. À mà tôi đã vi phạm nội quy khi cho ông xem xác, lấy gì chứng minh ông là người nhà bây giờ? Mời ông đi khỏi đây. Nói xong gã đưa tay đóng sập ngăn tủ lại

– Nhưng tôi… kỹ sư Hoàng chưng hửng… vậy còn cháu tôi?

– Trước hết phải có giấy tờ chứng minh ông là người nhà của nạn nhân đã, rồi sau đó phải làm đầy đủ thủ tục mới mang được lấy xác ra khỏi đây. Mà ông định cõng xác trên lưng mang về hay sao? Viên quản lý lạnh lùng phán.

Kỹ sư Hoàng có vẻ hiểu ra những việc cần làm, anh thất thểu bước ra khỏi nhà xác gọi điện về nhà bảo vợ chuẩn bị căn cước, sổ hộ khẩu lên phường xin giấy chứng nhận rồi tìm đến một tiệm bán quan tài. Ông chủ tiệm quan tài có tên “Nhân nghiã đường” hăng hái đón khách. Chỉ vào đống quan tài đủ các kiểu loè loẹt đang bày la liệt, bảo kỹ sư Hoàng:

– Tuỳ bác chọn cái nào thì chọn. Bác cho biết địa chỉ, số nhà, giờ khâm liệm… chúng tôi sẽ cho người đến lo liệu.

– Không phải liệm ở nhà mà là ở nhà xác bệnh viện chúng sinh. Kỹ sư Hoàng ngắt lời

– Thế thì không được rồi. Ông chủ Nhân nghiã đường lắc đầu – tôi không bán được cho bác đâu, cũng không làm gì được hết.

– Tại sao lại như thế? Kỹ sư Hoàng kinh ngạc thốt lên?

– Chắc đây là lần đầu tiên nhà bác có người chết ở bệnh viện – ông chủ Nhân nghiã đường giải thích – bệnh viên có luật của họ, muốn lấy được xác ra phải có cửa. Quan tài mua tiệm nào do họ chỉ, khâm liệm, ma chay… tất tần tật do người của họ làm hết. Có thế họ mới ăn chứ, độc quyền mà.

– Té ra phải như vậy. Kỹ sư Hoàng cay đắng nghĩ rồi rời khỏi tiệm “Nhân nghiã đường”. Quay lại chỗ nhà xác chờ một lúc lâu thì vợ anh mang giấy tờ tới. Mấy đứa bạn học của Phúc biết tin cũng đã tìm đến, mang theo nhang hoa và trái cây. Lúc này đêm đã gần khuya, mắt đỏ hoe vợ anh mếu máo:

– ối anh ơi, vẫn chưa thấy tăm hơi chị cả đâu, em đến nhà ông chủ tịch nói mãi ông ấy mới ký cho cái giấy chứng nhận, lại vừa đóng lệ phí, vừa bồi dưỡng hết mấy trăm. Cháu nó nằm đâu để em vào thắp nén nhang cho cháu.

Kỹ sư Hoàng dẫn vợ và đám bạn của Phúc vào, trình mớ giấy tờ cho viên quản lý.

Gã này săm soi một lát rồi lắc đầu:

– Không được, trường hợp này công an còn phải điều tra, vả lại khi nãy ông còn định kiện tụng gì nữa cơ mà? Sáng mai đến giải quyết

– Chẳng lẽ để đứa cháu lạnh lẽo qua đêm không một chút khói nhang an ủi linh hồn? kỹ sư Hoàng lúc này đã mụ mẫm hết tinh thần, cụt què cả ý chí, anh chỉ còn biết vớt vát như một cái máy:

– Tôi xin ông, ấy là tôi chót nhỡ mồm. Tôi không kiện tụng gì đâu. Mọi việc giao cho các ông “lo” hết. Chỉ mong sao mang cháu về nhà…

– Vậy thì về viết cam đoan đi, viên quản lý hạ giọng – nhưng cứ phải sáng mai mới giải quyết. Không có giấy của công an thì bố tôi cũng không dám giao xác cho các người.

Sáng sớm hôm sau. vừa thò mặt đến cổng nhà xác bệnh viện Chúng Sinh đã có mấy kẻ mặt mũi rất chi là khả nghi túm lấy kỹ sư Hoàng.

– Xác của bác là xác tai nạn giao thông phải không? Giá chót tám triệu, chúng em lo mọi thủ tục chiều lấy xác ra… quan tài khâm niệm 12 triệu nữa bao trọn gói – một người trong bọn bảo

– Tại sao lại phải đến chiều? Làm ngay trong sáng nay không được sao? kỹ sư Hoàng hỏi lại

– Hì các bác này đúng là chưa “chết” lần nào. Phải đợi công an người ta hoàn tất hồ sơ chứ… một người khác giải thích – mà chúng em phải đưa bác đến làm tờ khai, chiều lấy được là con nhanh, với điều kiện phải có bồi dưỡng… không thì cứ đợi đấy.

Đám người ấy quả là thạo việc, rốt cục chiều hôm ấy kỹ sư Hoàng cũng đưa được xác đứa cháu về nhà sau khi đã được khâm liệm cẩn thận. Vẫn không thấy bóng dáng chị cả đâu, linh tính xảy ra chuyện chẳng lành, kỹ sư Hoàng bàn với vợ cùng mấy đứa bạn của Phúc trông nom nhang khói, để anh về làng đón chị Cả lên.

Có mấy kẻ lạ mặt lảng vảng ngoài cổng nghiêng ngó hỏi thăm, mấy đứa bạn của Phúc chạy ra nghe ngóng rồi vào bảo:

– Mấy thằng cò nghiã địa bác ạ. Nó bảo đất chôn mặt tiền lối đi là 12 triệu, phía trong tám triệu, chưa kể tiền lo giấy phép chôn và công đào huyệt lấp đất xây mộ, tuỳ theo to nhỏ tính riêng. Nếu túng tiền thì chôn đứng. Chôn đứng rẻ hơn một nửa, tất nhiên đất rộng chỉ bằng 1/3. Nghiã địa bây giờ khối người phải chôn như thế, thành ra đầy những ma đứng, linh hồn đứng, đứng vĩnh hằng.

Vội vã phóng về quê, kỹ sư Hoàng hoảng hốt lạnh người khi hàng xóm bảo chị Cả Bống đã lên thành phố từ chiều hôm qua, mấy nhà khác thấy anh về đổ đến hỏi thăm. Có người chợt nhớ ra bảo:

– Sáng nay đi chợ thấy ở bến đò Đuôi Cáo có ai nhang nhác bác Cả Bống ấy. Hay là bác sang tìm thử xem.

Không kịp suy tính, kỹ sư Hoàng vội vã lao sang bến đò, tìm khắp các hàng quán hỏi thăm, ai cũng lắc đầu. Chợt anh nhìn thấy dưới bờ sông sát mép nước, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi ném những nắm cát xuống dòng sông… kỹ sư Hoàng vừa nghi hoặc, vừa thận trọng tiến lại gần… “Ai như chị Cả? Anh cất tiếng gọi… một tiếng, hai tiếng… Người đàn bà chợt quay phắt lại… Đúng là chị, chị nhìn anh với đôi mắt thất thần, khuôn mặt răn reo, lem luốc cát. Bỗng chị lảo đảo lao đến, ôm chầm lấy anh, gào lên nức nở:

– Ối! Con ơi, con về với mẹ đây rồi, người ta cướp cái gì của con, con chết có đau không? Con về đây báo oán mẹ… mẹ không đến được với con… con ơi

Cứ thế chị gào mãi, gào mãi, tiếng gào rợn cả một khúc sông. Kỹ sư Hoàng hai tay nâng khuôn mặt chị, miệng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại:

– Em đây mà, Hoàng đây mà!

Song chị đâu có nghe, đâu có thấy, chỉ một mực gào tên con… dần dần tiếng chị khản đặc chỉ còn như tiếng thở lào phào… Người chị bỗng lả đi, từ từ khuỵ xuống. Kỹ sư Hoàng quỳ xuống theo, hai chị em ôm nhau quỳ trên bãi cát, hoàng hôn bắt đầu buông, trăng chiều rực lên đỏ thẫm. Qua màn nước mắt, anh cảm thấy tất cả không gian như chìm trong biển máu, bên tai anh chợt vọng lên văng vẳng giọng nói của lão Tiến cụt hôm trước:

– Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá… biết đâu đến một lúc nào đó những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình.














CHUYỆN MỘT NGƯỜI TỬ TÙ


Quản giáo tên Điều người to béo ục ịch, trên cổ có ngấn thịt xệ ngay dưới cằm như người quấn một chiếc khăn quàng có hoa lốm đốm, lúc nào cũng phập phồng. Hôm làm thủ tục nhận bàn giao một tử tù, thấy người này gầy gò, đầu nhẵn thín không một cọng tóc, biết lai lịch đây là một nhà sư, Quản Điều nghĩ bụng mình sẽ phải kiêm nghề thợ cạo đây. Đưa người tử tù vào phòng biệt giam, trước khi rời khỏi phòng, Quản Điều cất giọng ồ ồ, làm rung cả khối thịt:
- Ông có quyền yêu cầu được cạo tóc hàng ngày. Đích thân tôi sẽ làm việc ấy.
Không ngờ người tử tù giọng hiền từ trả lời:
- Cám ơn cán bộ. Không cần đâu.
Quản Điều ngạc nhiên:
- Vậy ông sẽ nuôi tóc trở lại? Hay là ông muốn hoàn tục trước khi thi hành án?
Người tử tù vẫn đáp, giọng thản nhiên:
- Tôi đã thế phát (xuống tóc) từ nhiều kiếp rồi, kiếp này không dám làm phiền đến quý cán bộ.
Nhảm nhí, Quản Điều nghĩ bụng. Mấy ông nhà sư tin có luân hồi, đó là mê tín dị đoan. Để xem đầu tóc ông ta sẽ như thế nào. Quản Điều nghĩ vậy rồi bước nhanh ra khỏi phòng, khóa cửa lại cẩn thận, tránh nói chuyện với tử tù đến câu thứ ba, phép trong trại là thế.
Mặc dù vậy, nhưng Quản Điều vẫn dự trù sẵn một bộ dao cạo. Để ý một ngày, hai ngày rồi ba ngày…, đến nửa tháng sau, sọ người tử tù vẫn nhẵn thín, không một cọng tóc. Quản Điều nghĩ quái lạ, chả lẽ ông ta đã xuống tóc từ những kiếp trước thật?
Nguyên Quản Điều không biết, mà có biết cũng chả bao giờ tin. Có một con xén tóc hoa, chỉ nhỉnh hơn hạt đậu, hàng ngày vẫn bay vào trong phòng theo lối cửa thông gió. Con xén tóc cần mẫn bò khắp sọ người tử tù, xén cụt từng mẩu tóc nhú ra. Con xén tóc bay vào mỗi khi người tử tù cất lên tiếng niệm: “Mâu Tử”. Mâu Tử là một vị Tổ của nhà sư này chăng? Có thể như thế lắm. Mãi sau này, trong một lần nói chuyện với đệ tử, nhà sư bảo rằng chỉ có thể gặp Mâu Tử trong những lúc thiền định, gặp được Ngài thì sẽ thấu suốt chuyện nghìn năm như trong lòng bàn tay. Còn khi ấy, chỉ biết rằng trong lúc con xén tóc đậu trên hộp sọ thì người tử tù ngồi yên bất động, trong đầu ông nghĩ những gì, niệm những gì… thì không ai biết được.
Mùa đông năm ấy thời tiết lạnh buốt, gió bấc gào rú, quay cuồng khắp núi rừng Tam Tinh, cả bầu trời xám xịt chụp xuống. Căn phòng biệt giam có chiếc bệ xi măng, người tử tù mặc chiếc áo phong phanh ngồi bất động, da dẻ vẫn hồng hào. Quản Điều mặc mấy lần áo len mà vẫn run lên vì lạnh, môi tím ngắt. Đến giờ nhận ca, Quản Điều đứng bên ngoài nhòm vào, quái lạ, tên tù kia không biết rét là gì chăng? Nghĩ rồi rút từ trong túi áo bông ra một chùm chìa khóa, lách cách mở cửa bước vào trong phòng, cẩn thận khám xét khắp người tử tù theo quy định. Khám xong, lại rút từ túi kia ra một cuốn sổ với chiếc bút bi, cúi đầu lúi húi ghi chép: ngày… tháng… năm… vào hồi… giờ, tình trạng phạm nhân… Chép xong, bỗng bên ngoài chấn song thép cửa thông gió có tiếng quạ kêu. Quản Điều giật mình nhìn ra, mấy con quạ đen tuyền đang bám chấn song nhòm vào trong phòng. Quản Điều rợn người, bụng nghĩ chắc người tử tù này sắp sửa phải thi hành án… cho nên lũ quạ bắt đầu tìm đến. Quản Điều quay mặt nhìn người tử tù, thấy ông nhoẻn một nụ cười, gương mặt vẫn hồng hào. Xì, cố tỏ ra khí phách giả vờ đây, đến lúc ấy, chắc lại nhũn người ra, bước còn không nổi, quản Điều nghĩ bụng rồi đút cuốn sổ và bút vào túi áo, đoạn bước ra khỏi phòng, khóa lại cẩn thận.
Ngồi trong trạm gác, nghĩ mãi về nụ cười của người tử tù, càng nghĩ càng cảm thấy có gì quái lạ. Quản Điều cứ ngọ ngọay không chịu nổi, liền rời khỏi trạm, bước về phía phòng biệt giam, đứng bên ngoài hỏi vào:
- Này!
Người tử tù từ từ quay nhìn ra. Quản Điều hỏi ngay:
- Ban nãy lũ quạ đến đậu ở lỗ cửa nhòm vào, cất tiếng kêu. Quạ kêu là cái điềm sắp có người chết. Ông là tử tù, thì người chết ở đây chẳng phải ông thì là ai? Cớ sao ông lại cười?
Người tử tù lại nhoẻn miệng cười, cất giọng từ tốn đáp:
- Hì, tôi cười vì không phải chúng đến để báo tin về cái chết của tôi, mà chúng mách tôi một việc khác.
Quản Điều ngạc nhiên, hỏi tiếp:
- Hừm! Ông cứ làm như hiểu được tiếng quạ ấy. Vậy chúng mách ông việc gì?
Người tử tù trả lời, giọng nhẹ như không:
- Chúng mách với tôi rằng lúc ấy, ông đang đứng quay lưng lại, khẩu súng lục ở ngay trước mặt tôi, ông đã quên không cài nắp. Chúng bảo tôi chỉ việc rút súng ra… là có thể thoát khỏi đây, và lũ quạ cũng có cái ăn…
Quản Điều nghe nói giật nảy mình, rợn buốt dọc sống lưng. Sờ tay xuống bao súng, quả nhiên mình vẫn quên chưa cài nắp. Mất cảnh giác quá. Thật hú hồn hú vía…
Ớ mồm ra không nói lại được câu nào, quản Điều bèn quay người bước về trạm gác, lập tức thảo ngay một tờ trình gửi ban chỉ huy trại, nội dung: tử tù tên… phòng số… mới xuất hiện âm mưu vượt ngục, thậm chí còn muốn tự tử. Đề nghị…
Tờ trình được gửi lên. Ban chỉ huy trại hội ý cấp tốc, hội ý xong, liền điều ngay một tổ, vũ trang đến tận răng, lập tức xuống khu biệt giam, cùng quản Điều vào trong phòng cùm chân người tử tù gầy gò lại.
Người tử tù từ đó bị cùm suốt 24/24, chỉ mở mỗi ngày không quá 15 phút trong lúc đi vệ sinh. Nhưng Quản Điều thì ngày hai lần phải mang cơm nước vào tận trong phòng, không để ngoài cửa thông gió như trước nữa.
Trong một lần như thế, không biết do trời xui đất khiến thế nào, mà vừa đặt khay cơm xuống sàn xi măng trước mặt người tử tù rồi lùi lại vài bước, Quản Điều buột miệng:
- Chả hiểu kiếp trước tôi với ông có duyên nợ gì, mà giờ phải làm người cơm bưng nước rót cho ông, lại phải canh từng bữa ăn cho ông như thế này?
Vừa buông lời xong, Quản Điều chợt thấy mình lỡ mồm. Nói thế, khác nào mình công nhận có luân hồi, đúng như luận điệu của bọn nhà sư. Chẳng lẽ mình cũng bị nhiễm mê tín dị đoan từ tên tử tù này hay sao? Nghĩ rồi Quản Điều chăm chú nhìn đối phương, xem thái độ của ông ta như thế nào? Người tử tù không có phản ứng gì, chỉ nhoẻn một nụ cười, y hệt nụ cười hôm nghe thấy tiếng quạ. Chỉ nụ cười cũng khiến Quản Điều giật mình, bất giác đưa tay xuống sờ vào bao súng, xem hôm nay mình có quên cài nắp hay không. Bao súng đã cài rất cẩn thận.
Trở về trạm gác, Quản Điều lại vẩn vơ nghĩ mãi về nụ cười. Nghĩ mãi không chịu nổi, Quản Điều lại bước về phía phòng biệt giam, lần này tỏ ra từ tốn hơn:
- Này ông, ban nãy tôi buột mồm nói ra câu ấy khiến ông mỉm cười. Tại sao ông cười?
Người tử tù từ từ ngẩng đầu lên, trả lời:
- Tại câu nói của cán bộ đúng quá, đúng quá.
Quản Điều phát cáu:
- Hừm! Đúng cái con khỉ. Tôi chỉ lỡ mồm nói thế thôi. Chả có kiếp trước kiếp sau mẹ gì đâu.
Nói xong, định dợm bước quay trở về trạm gác, thì đã nghe tiếng người tử tù:
- Kiếp trước tôi là người cơm bưng nước rót cho cán bộ, trọn một năm…
Câu nói này mới làm Quản Điều cáu thực sự, liền nói lớn như quát:
- Nghĩa là ý ông bảo kiếp trước tôi cũng là tử tù như ông bây giờ?
Người tử tù vẫn từ tốn, hơi lắc đầu trả lời:
- Kiếp trước cán bộ không những không phải tử tù, mà là thiện trí thức của tôi.
Ý nói không phải tử tù đã chặn cơn giận của Quản Điều lại. Nhưng ba tiếng “thiện trí thức” làm Quản Điều ù tai, chả hiểu đó là cái giống gì. Nhưng mà thôi, trong một phiên trực đã trao đổi quá ba câu là vi phạm quy định của trại rồi. Quản Điều quyết định chấm dứt câu chuyện, quay người bước nhanh về trạm gác.
Trở lại trạm gác, vẫn không sao dứt nổi những suy nghĩ vẩn vơ về câu nói của người tử tù. Một ý nghĩ chợt đến làm Quản Điều toát mồ hôi hột, nhỡ ông ta đã luyện được phép thuật của phù thủy, mà hại mình để vượt ngục thì sao? Nhớ lại hồi mới ra trường, Quản Điều được phân công ở một trại giam mãi trên Tây Bắc. Có một phạm nhân người dân tộc cũng bị biệt giam, cậu quản giáo bấy giờ cũng trạc tuổi Quản Điều, một hôm mang cơm vào cho phạm nhân, trong khay có một quả trứng vịt, tên phạm nhân không ăn đến quả trứng ấy. Lúc dọn ra, cậu quản giáo kia không nỡ vứt đi, bèn bóc ra ăn. Ăn xong, ngồi trong trạm gác một lúc thì thấy có gì cựa quậy ở trong bụng, lát sau lại nghe tiếng vịt con kêu chíp chíp, phát ra từ cuống họng. Cậu quản giáo hoảng sợ, vội vàng chạy tới phòng biệt giam hỏi phạm nhân kia, ông ta bảo:
- Quả trứng cán bộ vừa ăn đã nở ra con vịt. Nó lớn nhanh lắm, chỉ vài giờ nữa sẽ đạp thủng bụng cán bộ mà chui ra.
Cậu quản giáo càng hoảng loạn, năn nỉ xin ông ta bày cho cách để thoát. Ông ta yêu cầu phải mở cùm, mở khóa để ông ta ra khỏi phòng cái đã, rồi mới bày cách cho. Cậu quản giáo không còn cách nào khác, để cứu mạng, buộc phải làm theo lời ông ta. Tên phạm nhân ra khỏi phòng, trước khi biến vào rừng, y cũng không quên dặn cậu quản giáo:
- Ra khỏi cổng trại, đi về phía Nam, gặp cái đầm đầu tiên thì xuống ngâm mình dưới nước, rồi khạc ba tiếng thì sẽ thoát khỏi tai vạ.
Cậu quản giáo làm theo. Quả nhiên đến tiếng thứ ba thì khạc ra một con vịt con, đã mọc lông ống, bơi lội tung tăng. Thật hú vía…
Câu chuyện làm rúng động cả trại giam lúc bấy giờ. Quản Điều vì thế hãi vùng cao, cạy cục mãi mới xin đổi được về đây.
Nhưng người tử tù này là nhà sư, nom ông ta có vẻ hiền lành, đức độ, chả lẽ lại dùng thuật phù thủy như tên phạm nhân kia. Ý nghĩ ấy làm Quản Điều tạm thời yên tâm. Nhưng… có một chỗ làm Quản Điều lại thấy nhấp nhổm, lo lắng. Ấy là ông ta bảo kiếp trước, ông ta cũng cơm bưng nước rót cho mình trọn một năm. Cứ như thể ông ta đã biết rõ quy định của riêng trại này, các quản giáo phụ trách phòng biệt giam, cứ một năm lại đổi một lần, nguyên tắc là không bao giờ quay trở lại phòng cũ, nếu người tử tù kia vẫn chưa thi hành án…
Chả lẽ chuyện mê tín luân hồi kia là có thật? Kiếp trước ông ta quả đã cơm bưng nước rót cho mình một năm? Không thể nào như thế được. Nhưng dù sao thì cũng phải phòng trước mới được. Quản Điều nghe nói người tu hành quý nhất là sự yên tĩnh, yên tĩnh để ngồi thiền, phải ngồi thiền thì mới thành đạo… Một người thành đạo thì ảnh hưởng đến cả thời thế, chứ chả riêng gì một trại này. Vậy phải nghĩ cách chặn lại mới được. Và Quản Điều đã nghĩ ra. Liền ngồi viết ngay một tờ trình, xin trên cấp cho bốn chiếc loa, treo bốn góc trong phòng giam, mở loa 24/24, đặc biệt là các chương trình thời sự…
Sáng hôm ấy đúng ngày Phật Đản. Chương trình thời sự của đài phát thanh phát một bài dài, đưa tin về các hoạt động chào mừng ngày Đức Phật Đản sinh của Giáo hội, trên khắp các chùa chiền trong nước. Quản Điều liền mở hết công suất, bốn chiếc loa đồng thanh hét lên dữ dội, cả khu biệt giam ầm ầm, sóng âm làm cho các tán lá cũng phải rung lên, những chiếc lá đã vàng rụng lả tả. Lúc vào mở khóa cùm cho người tử tù đi vệ sinh, Quản Điều để ý, thấy thần sắc người này vẫn tỉnh như không. Một nhà sư thì không thể dửng dưng trước ngày đản sinh Đức Phật của mình như thế được. Đợi người tử tù xong việc, Quản Điều liền cất tiếng hỏi:
- Sáng giờ ông ngủ à?
Người tử tù trả lời:
- Không, thưa cán bộ.
- Vậy ông biết hôm nay là ngày gì không?
- Tôi ở đây làm gì có thời gian, thưa cán bộ.
Quản Điều đưa tay chỉ lên bốn chiếc loa:
- Nhưng đài phát thanh vừa đưa tin về các hoạt động nhân ngày Phật Đản… Chả lẽ ông không nghe thấy?
Người tử tù lại nhoẻn một nụ cười. Lần này Quản Điều cảm thấy chấn động. Người tử tù trả lời:
- Tôi nghe, mà không nghe, thưa cán bộ.
Trong lòng đầy thắc mắc và nghi ngờ, giá ở ngoài kia thì Quản Điều sẽ vặn hỏi, tranh luận cho kì được. Nhưng đã trao đổi quá ba câu, vượt quá quy định của trại nên Quản Điều đành im lặng, chấm dứt câu chuyện rồi lui ra.
Giống mấy lần trước, lần này nụ cười của người tử tù lại làm Quản Điều suy nghĩ mãi. Tới gần trưa thì không chịu nổi nữa, bèn bước về phía phòng biệt giam cất giọng như tra hỏi:
- Này ông, sáng nay, lúc tôi thông báo hôm nay là ngày Phật Đản, ông lại nhoẻn mồm cười là có ý gì?
Người tử tù vẫn trả lời giọng từ tốn:
- Tôi cười vì Phật sinh, cũng như không sinh, thưa cán bộ.
Quản Điều bắt đầu cáu:
- Hừm! Ông bảo nghe mà không nghe thì còn tạm tin được. Chứ Phật sinh mà không sinh thì ai thèm tin? Chả lẽ ở ngoài kia là một lũ ngu hết cả hay sao?
Người tử tù vẫn từ tốn:
- Ngày nào cũng là ngày Phật Đản cả. Cho nên nói sinh, cũng như không sinh.
Hừm! Thế này thì quá lắm. Chẳng lẽ Đức Phật của các ông đã choán hết cả những ngày lễ trọng đại của đất nước, không chừa ra ngày nào cả hay sao? Thế này thì đích thị là phản động, chứ không phải chuyện đùa. Nhưng đây chỉ là ý nghĩ, Quản Điều không nói ra mồm, mà quay ngoắt lại, hầm hầm bước về trạm gác.
Đang cơn tức tối, Quản Điều lập tức lấy giấy bút, viết một tờ trình lên ban chỉ huy trại, trình bày về tư tưởng phản động rất nguy hiểm của người tử tù, đề nghị trên sớm cho thi hành án đối với trường hợp này… Tờ trình viết xong, nhưng Quản Điều chưa gửi đi ngay, mà gấp lại, đút vào ngăn kéo.
Tối hôm đó, vừa về đến nhà, vợ Quản Điều đã hớn hở khoe:
- Hôm nay Phật Đản, chúng em đi lễ chùa, nghe quý khầy (vợ Quản Điều vốn nói ngọng) giảng pháp hay lắm anh ạ.
Quản Điều vốn chả bao giờ quan tâm chuyện mê tín dị đoan của đàn bà, nhưng cũng bâng quơ hỏi lại:
- Giảng cái gì?
Vợ Quản Điều kể:
- Quý khầy giảng rằng Đức Phật sinh cũng như không sinh…
Quản Điều nghe đến đây, bỗng giật mình. Sao y hệt câu nói của người tử tù? Liền hỏi giật giọng:
- Thầy còn giảng gì nữa?
Vợ Quản Điều tưởng bị cụt hứng, nghe chồng hỏi lại hớn hở khoe tiếp:
- Quý khầy giảng ngày nào cũng là ngày Phật Đản cả.
Nghe đến đây thì Quản Điều chẳng những rùng mình, mà còn cảm thấy rợn người. Cứ như thể người tử tù kia đã phân thân làm hai nơi, một thân nói cho Quản Điều nghe, một thân nói cho vợ nghe. Thế này thì còn nguy hiểm gấp vạn lần phép thuật phù thủy ở trên mạn ngược chứ chả chơi. Ý nghĩ ấy làm Quản Điều hoang mang thật sự, toát cả mồ hôi hột. Cô vợ không biết điều đó, nên cứ hồn nhiên khoe tiếp:
- Giảng xong, quý khầy còn cầm một xấp ảnh tặng cho mọi người. Bà thì được ảnh Phật A Di Đà, bà thì được ảnh Quan Âm Bồ Tát…, còn em thì được tấm ảnh này…
Quản Điều ngó tấm ảnh, một chú bé hồng hào, mũm mĩm, một tay trỏ lên trời, một tay trỏ xuống đất. Đó là ảnh Đức Phật Đản sinh.
Tấm ảnh làm cơn hoang mang của Quản Điều cũng dịu đi phần nào. Còn một sự trùng hợp nữa, sao bây giờ Quản Điều mới chợt nghĩ ra. Số tù của người tử tù ấy là 365, vừa đúng bằng số ngày trong năm.
Bấy nhiêu sự trùng hợp mà vẫn tình cờ, thì tình cờ không phải tình cờ. Ý nghĩ ấy làm Quản Điều trằn trọc suốt đêm, sáng hôm sau dậy muộn, cuống cuồng phóng xe đến trại thì đã chậm mất mười lăm phút. Cậu phụ quản giáo trực đêm thấy hai mắt Quản Điều thâm quầng, tỏ ra thông cảm với thủ trưởng của mình nên không nói gì, chỉ lặng lẽ làm thủ tục giao ca rồi rời khỏi trại. Việc đầu tiên, Quản Điều liền mở ngăn kéo ra. Tờ trình mới viết hôm qua đã không còn ở đó nữa.
Quản Điều giật mình, lao ra cửa định gọi cậu phụ quản giáo lại để hỏi. Nhưng cậu ta đã phóng xe đi mất hút. Mà cậu ta cũng không dám lục lọi chiếc ngăn kéo, kỉ luật của trại đã quy định như vậy. Thế thì tờ trình ấy biến đi đâu? Đang rối trí thì có người tới, chưa thấy người đã thấy tiếng oang oang từ ngoài sân, tiếng của Quản Đạt.
Quản Đạt là người tiếp theo, sẽ thay thế Quản Điều vì sắp đến hạn một năm. Quản Đạt thản nhiên bảo:
- Sáng sớm nay ghé qua đây, tình cờ thấy tờ trình ông viết ở trong ngăn kéo, tôi đem lên phòng giám đốc nộp hộ cho ông rồi. Ông viết đúng lắm, phản động là rất nguy hiểm, nhà sư càng nguy hiểm. Thi hành án sớm cho anh em mình đỡ vất vả. Tôi chúa ngại canh giữ tử tù…
Câu nói làm Quản Điều rùng mình. Lạ thật, sao hôm nay ta lại rùng mình nhỉ? Quả thực sáng nay Quản Điều chưa có ý định nộp tờ trình ấy, chính vì những sự trùng hợp kia. Vội hỏi lại:
- Thế giám đốc đã đọc chưa?
Quản Đạt hơi cụt hứng, trả lời:
- Lúc ấy giám đốc chưa đến, tôi cứ để trên bàn. Nhưng sao…?
Quản Điều không trả lời, chỉ túm áo Quản Đạt kéo vào trạm, ấn xuống ghế rồi nói:
- Ông ngồi đây trông hộ tôi một lát.
Rồi lao lên phòng giám đốc, Quản Đạt nhìn theo, lắc đầu không hiểu ra làm sao.
Lên tới khu văn phòng, Quản Điều chả cần ý tứ như mọi lần, liền mở ngay cửa phòng giám đốc, bước vào. Trên bàn làm việc của giám đốc trại, bên dưới con tì hưu vẫn dùng để chặn giấy là mặt bàn trống trơn, không có tờ giấy nào.
Quản Điều bắt đầu cảm thấy hơi mất bình tĩnh, liền tiến ngay tới, liều lĩnh lục lọi ở mấy đống công văn, giấy tờ xếp bên cạnh. Đang lục thì có tiếng nói, làm Quản Điều giật bắn người:
- Cậu tìm tờ trình kia phải không? Tớ đã đóng dấu hỏa tốc và kí chuyển lên Cục thi hành án rồi. Xe công văn vừa rời khỏi đây…
Người nói chính là giám đốc trại. Quản Điều hơi thẫn thờ, cố trấn tỉnh lại rồi nói, nửa thật nửa dối:
- Vâng, à… vâng. Tôi định lấy lại để bổ sung thêm một chút…
Giám đốc bảo:
- Không sao, có gì cần bổ sung, cậu cứ về viết thêm tờ trình nữa. Sáng mai tớ cũng có việc phải lên Bộ, sẽ mang nộp trực tiếp. Đó là trách nhiệm của trại…
Quản Điều còn biết nói gì nữa? Chỉ còn nước chào giám đốc rồi trở về vị trí của mình. Buổi sáng hôm ấy vào mở còng cho người tử tù, Quản Điều cảm thấy như có lỗi gì đó, lập cập mãi mới mở được khóa. Ngẩng lên nhìn người tử tù, nét mặt nhà sư vẫn bình thản như không.
Gần trưa hôm đó, một tin dữ bay về trại, chiếc xe văn thư trên đường lên Cục thi hành án, tự dưng bốc cháy giữa đường, may cho lái xe và sĩ quan áp tải lao ra kịp nên không việc gì…
Ngay đầu giờ chiều, giám đốc trại gọi Quản Điều lên, bảo phải soạn gấp tờ trình khác, để sáng mai kịp mang nộp lên trên.
Quản Điều ngồi trong trạm gác, còn đang băn khoăn, chưa biết viết lại tờ trình như thế nào, thì lại một tin dữ nữa ập đến. Giám đốc trại bị đột quỵ trên bàn làm việc, xe cấp cứu phải chở ngay lên bệnh viện…
Bấy nhiêu sự trùng hợp làm Quản Điều bị thuyết phục hoàn toàn. Chiều hôm ấy hết ca trực, Quản Điều xuống chào người tử tù rồi mới ra về. Lần đầu tiên, Quản Điều gọi người ấy bằng Thầy. Nét mặt nhà sư vẫn bình thản, như không hề nhận ra sự thay đổi ấy.
Ai ngờ những sự trùng hợp vẫn chưa dừng ở đó. Có một chuyện mà Quản Điều và cả trại không ai biết. Rằng giám đốc trại không phải bị đột quỵ. Chiều hôm ấy đang ngồi làm việc, bỗng dưng có cơn buồn ngủ ập đến, làm viên giám đốc đổ ập nửa người trên xuống mặt bàn, hai cánh tay duỗi ra, gạt phải con tì hưu vẫn dùng để chặn giấy. Con tì hưu rơi xuống nền nhà, trúng đầu con chó mực đang nằm liu riu. Trong lúc mơ màng, viên giám đốc cứ như thể chứng kiến chuyện xảy ra tiếp theo. Thấy con chó mực giật mình, mắng con tì hưu:
- Mày đạp vào đầu tao, tao sẽ đập vỡ đầu mày làm bảy mảnh…
Con tì hưu một chân trước che mồm “suỵt, suỵt…”, một chân trỏ ngược lên bảo con chó mực:
- Ông chủ đang ngủ gật…
Ý con tì hưu bảo tại ông chủ ngủ gật, nên đã gạt phải nó. Nhưng con chó mực tỏ vẻ không nghe, cứ một mực gầm gừ, nghiến răng lại mà bảo:
- Tí nữa ông chủ thức dậy, tao sẽ đập đầu mày vỡ làm bảy mảnh.
Con tì hưu hãi quá, kêu lên:
- Mồm mày độc lắm, nói ra cái gì thường đúng cái đó. Tí nữa ông chủ thức dậy, đầu tao sẽ vỡ làm bảy phần mất. Vậy tao sẽ ngăn không cho ông chủ thức dậy nữa…
Kết quả mọi người trong trại ngỡ viên giám đốc bị đột qụy, phải cấp tốc chở vào bệnh viện để cấp cứu. Đến bệnh viện rồi, viên giám đốc vẫn li bì.
Tối hôm đó về nhà, vợ Quản Điều bất ngờ hỏi:
- Hôm nay giám đốc của anh bị đột qụy có phải không?
Quản Điều giật nảy mình, hỏi:
- Sao em biết?
Cô vợ nhanh nhảu:
- Khầy em bảo.
Lại ông thầy chùa. Ông ta nghe tin ở đâu thế cơ chứ? Liền hỏi:
- Hôm nay em lại đi chùa à? Sao ông thầy ấy lại biết nhanh thế nhỉ?
Cô vợ nói liến thoắng:
- Tin đồn thì bao giờ chả nhanh hả anh? Nhưng khầy còn nói một việc khác nữa cơ…
- Khầy nói cái gì? – Quản Điều hỏi dồn.
Cô vợ cố tình thủng thẳng:
- Khầy bảo không phải ông giám đốc bị đột qụy đâu. Ông ấy bị giữ mất hồn đấy. Muốn cho ông ấy hồi tỉnh, thì phải lấy đất sét bọc đầu con tì hưu trên bàn làm việc của ông ấy lại…
Giá như trước kia, thì Quản Điều sẽ mắng cho cô vợ một trận, vì cái tội mê tín dị đoan. Nhưng bây giờ thì không dám. Có phải người tử tù kia lại phân thân lần nữa chăng?
Hôm sau đến cơ quan, Quản Điều không nói với ai, cứ lẳng lặng kiếm một ít đất sét, bí mật lên phòng giám đốc trại, bọc đầu con tì hưu lại theo lời dặn của cô vợ.
Tối hôm ấy về nhà, cô vợ lại hớn hở, giọng liến thoắng như một cái máy:
- Hôm nay khầy bảo sẽ có người đứng ra hòa giải chuyện xích mích giữa con tì hưu với con chó mực. Nhưng phải ba ngày nữa, thì giám đốc của anh mới hồi tỉnh được.
Đến lúc này thì trong óc Quản Điều không còn chỗ cho sự nghi ngờ nữa. Ba ngày sau, tin từ bệnh viện báo về, viên giám đốc quả đã tỉnh lại…
Quản Điều nghe tin, lập tức lao lên phòng giám đốc, vừa mở cửa, nhòm lên bàn làm việc, Quản Điều lập tức rợn cả xương sống. Phần đất sét bọc trên đầu con tì hưu đã vỡ tung, đếm được đúng bảy mảnh.
Giám đốc trại thoát khỏi cơn đột quỵ, nhưng không hiểu sao cứ nằng nặc làm đơn xin nghỉ hưu sớm, vì lý do sức khỏe. Cấp trên phải điều người khác về thay. Đợi mấy hôm cho giám đốc mới nắm bắt công việc, Quản Điều mới bắt tay vào việc viết lại tờ trình. Nhưng nội dung không phải đề nghị sớm thi hành án đối với người tử tù nguy hiểm, mà đề nghị bãi bỏ hình thức cùm chân trong phòng biệt giam, vì người tử tù đã “cải tạo tốt” và có ý thức hợp tác…
Từ đó, Quản Điều về nhà không thấy cô vợ đả động gì đến ông “khầy” ở chùa làng nữa. Nhưng cô ta lại khoe chuyện khác, rằng mình có mang, tính ra đúng vào cái ngày có lễ Phật Đản. Quản Điều cũng mừng, thầm mong nó là con giai, vì cả họ đang mong có thằng nối dõi tông đường…
Tất cả mọi sự thay đổi của mình đối với người tử tù Quản Điều giấu kín trong lòng, không hé răng nói ra với ai. Rồi cái “nhiệm kì” một năm cũng đã hết, Quản Điều bàn giao nhiệm vụ cho Quản Đạt. Bấy giờ Quản Điều mới quyết định nói hết mọi chuyện cho Quản Đạt nghe, và căn dặn Quản Đạt hãy vì mình mà đối xử tốt với người tử tù. Quản Đạt chỉ hơi bất ngờ, nhưng rồi cũng nhất nhất vâng lời.
Lúc vĩnh biệt người tử tù, Quản Điều đến trước cửa phòng biệt giam, đứng chào thầy rất cung kính. Nhân đó hỏi:
- Thầy từng nói kiếp trước con là “thiện trí thức” của thầy. Vậy “thiện trí thức” nghĩa là gì vậy?
Người tử tù trả lời ngắn gọn:
- Là người đã khiến ta đi vào con đường thiện, bằng bất cứ lối nào.
Quản Điều cúi đầu ngẫm nghĩ, nhất thời chưa hiểu được ngay. Thì ngẩng đầu lên, bất ngờ nhìn thấy một con xén tóc hoa bé tí, đang bò trên cái sọ bóng loáng của người tử tù. Quản Điều chợt ngộ ra điều gì đó, liên buột mồm nói:
- Vậy kiếp sau, nếu có duyên gặp lại, thì thầy hãy độ cho con nhé?
Người tử tù trả lời, chỉ ba từ, như đã chuẩn bị sẵn từ lâu:
- Tất nhiên rồi.
Quản Điều nghe ba tiếng mà tưởng như vừa được ba viên kim cương, liền thò tay vào túi áo ngực, lấy ra một tấm ảnh đã ép plastic, cầm hai tay đưa tặng người tử tù. Đó là tấm ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát mà Quản Điều đã nói vợ xin từ ngôi chùa làng. Người tử tù im lặng nhận lấy, nhìn Quản Điều bằng ánh mắt đầy từ bi. Quản Điều còn tỏ ra lưu luyến, cố hỏi câu cuối cùng:
- Thầy có còn điều gì dặn con nữa hay không?
Người tử tù vẫn im lặng, chỉ trả lời bằng ánh mắt, vẫn đầy từ bi, rồi từ từ quay lưng lại, bước vào phòng giam. Hình ảnh cuối cùng Quản Điều nhìn thấy, là số tù của thầy, con số 365.
Quản Đạt ghi nhớ sự kí thác của Quản Điều nên chăm sóc người tử tù rất chu đáo, không xảy ra sơ suất gì. Hôm nhận được tin vợ Quản Điều sinh con trai, thằng bé mũm mĩm, nom y hệt tấm ảnh Đức Phật Đản sinh, Quản Đạt cũng đem điều đó thông báo với người tử tù. Đôi mắt người tử tù lấp lánh một niềm vui, song chỉ lóe lên trong chốc lát.
Rồi thời hạn một năm của Quản Đạt cũng kết thúc. Quản Đạt tới chào từ biệt người tử tù trước khi bàn giao cho Quản Giáo mới. Ai ngờ không chỉ là sự chia tay, mà còn kèm theo một tin dữ. Quản Điều vừa mới bị tai nạn giao thông, trên đường phóng xe tới trại. Và đã không qua khỏi.
Người tử tù nghe tin, vẫn tỏ ra bình thản, chỉ đưa tay lên ngực niệm câu: “Adidaphat” rồi thong thả quay lưng lại. Lần đầu tiên Quản Đạt giật mình khi nhìn thấy con số quen thuộc trên lưng người tử tù. Tính từ ngày Quản Điều bàn giao cho mình, tới hôm nay vừa đúng 365 ngày.
Nhưng quản giáo mới cũng không cần phải đợi hết “nhiệm kì”. Mấy tháng sau người tử tù được phóng thích. Lý do gì thì không ai biết được, và cũng không cần thiết phải phỏng đoán…
Bốn mươi năm sau…
Khu trại giam đã trở thành một phần của Tổ đình Tam Túc. Trên núi dưới hồ, tòa ngang dãy dọc, phong cảnh lộng lẫy, bề thế như bồng lai phim ảnh, hàng năm đón không biết bao nhiêu đoàn người lũ lượt hành hương. Quản Đạt lúc này về hưu đã lâu, giờ xin vào Tổ Đình làm một chân lao công quét dọn. Hôm ấy quét một đống lá khô vào góc sân, vừa châm lửa đốt thì trong đoàn khách du lịch, có một ông già từ từ tách ra, bước về phía đống lửa.
Đó là một nhà sư già. Quản Đạt ngẩng mặt nhìn lên, giật bắn mình khi nhận ra, đó chính là người tử tù ngày trước…
Quản Đạt vội vàng chạy đi kiếm một hòn đá, phủi sạch rồi đặt xuống cạnh đống lửa, mời nhà sư ngồi.
Hai người truyện trò thân mật, như hai cố nhân tình cờ gặp lại. Bỗng nghe ba tiếng “Cộ, Cộ, Cộ”, Quản Đạt giật mình nhìn xuống. Giữa hai người là một con cóc cộ to bằng vốc tay, có cái cổ lốm đốm phập phồng ở đâu đã nhảy đến ngồi chỗ đó từ lúc nào. Nhà sư cũng chăm chú nhìn con cóc, bất ngờ ngài cất tiếng, y như nói một mình:
- Tất nhiên rồi.
Quản Đạt còn chưa kịp ngạc nhiên, thì lại nghe con cóc kêu lên ba tiếng: “Cộ, Cộ, Cộ”. Thế rồi nó nhổm mình lên, đánh vút một cái, nhảy thẳng vào giữa đống lửa.
Quản Đạt hết sức kinh ngạc, vội vàng tìm que bới đống lửa để cứu con cóc. Nhưng nhà sư đã đưa tay ngăn lại.
Con cóc vẫn ngồi im phăng phắc giữa đống lửa cháy ngùn ngụt, một lát thì thành than. Nhà sư cũng đứng dậy, chia tay Quản Đạt. Trước khi đi ngài còn cầm tay Quản Đạt, dặn hãy đem hòn than, tức xác con cóc ra chôn cẩn thận ở bìa rừng.
Năm sau không thấy nhà sư hành hương ra Tam Túc nữa. Tuy nhiên, ngài đã nhận được tin nhắn của Quản Đạt…
Rằng đúng chỗ chôn xác con cóc năm ngoái, đã mọc lên một bông sen đất.












ĂN CƠM NHÀ … (3)


Cả làng bảo ông ngu. Nhưng ngu cỡ nào thì không ai biết. Không biết gọi là “bất tri”. Tất nhiên, tôi cũng dự vào cái hàng “bất tri” ấy. Ông là hàng xóm của tôi, hai nhà sát nhau, cách có một hàng râm bụt. Gà nhà ông ỉa bên sân nhà tôi, chó nhà tôi sủa khi người lạ vào ngõ nhà ông, mèo nhà ông ăn vụng cá kho trong bếp nhà tôi… Gần nhau đến nỗi nhà bên này thở dài thì nhà bên kia nẫu ruột. Vậy mà ngót năm chục năm giời, tên tôi, ông cố không nhớ, tuổi tôi, ông quyết không hay. Thậm chí tôi còn ngờ rằng cả đến cái mặt tôi, đối với ông, chắc gì đã không là mặt lạ. Một hôm sang nhà ông chơi, ông trỏ mặt bảo:

– Này anh kia. Người học nhiều gọi là “học giả”.

Người biết nhiều gọi là “trí giả”.

Người đức cao gọi là “đức giả”. Thế ngược một trăm tám mươi độ với “đức giả” là gì biết không?

Thấy tôi ngần ngừ, ông trả lời luôn:

– Ngược lại với “đức giả” là… “đểu giả”.

Tôi giật thót người, cứ tưởng ông ám chỉ mình chăng.

Rồi ông giảng:

– Đó là những chữ “giả” công phu. Phải khó khăn lắm, kỳ công lắm, thậm chí phấn đấu cả đời, may ra mới đạt được. Thế mà đạt được rồi lại phải hết sức giữ gìn, hết sức tu luyện, phải tiếp tục phấn đấu mới có thể giữ được. Lơ đễnh một chút là tụt mất ngay, có khi còn đảo ngược một trăm tám mươi độ ấy chưa biết chừng. Vì thế mới có những “học giả” chẳng thấy “học” đâu, toàn thấy… “dạy” đời cả…

Tôi còn đang nghệt mặt, chưa kịp hiểu gì thì ông lại chuyển hướng:

– Kiến thức của anh chưa đủ để hiểu những chữ “giả” công phu. Vậy có những chữ “giả” không công phu đây, chắc là anh hiểu chứ?.

Rồi không cần nghe tôi trả lời, ông giảng tiếp

– Có người chẳng mấy khi đọc cái gì. Thế mà cầm một tờ báo bất kỳ lên, lập tức được gọi ngay là “độc giả”. Lại có người chẳng biết nghe bao giờ, thế mà cứ bước chân vào bất cứ hội trường nào, cũng lập tức không là “diễn giả” thì cũng thành “thính giả”. Tuy nhiên, “diễn giả” thuộc loại chữ “giả” lưỡng tính, ái nam ái nữ. Nghĩa là có khi công phu, có khi không công phu.

Tôi chợt nghĩ biết đâu có lúc mình cũng làm “diễn gi”, bèn hỏi:

– Khi nào thì công phu, khi nào thì không công phu?

– Biết mười nói một là chữ “giả” không công phu. Ngược lại biết một nói mười mới là chữ “giả” công phu. Làm “thính giả” dễ hơn vì chỉ việc vểnh tai nghe. Thậm chí nếu có trót ngủ gật, cũng vẫn có chữ để định nghĩa đàng hoàng.

Tôi buột miệng thắc mắc:

– Ngủ gật thì còn biết gì nữa. Ngủ gật là ngủ gật, chẳng lẽ lại còn tên gọi nào khác?

Ông tỉnh bơ trả lời:

– Ngủ gật thì gọi là… “thức giả” hiểu chưa?

Tôi giật mình vì cái “kiến giải” bất ngờ ấy. Thậm chí còn hiểu quá cái điều ông vừa nói. Đến mức chợt “ngộ” ra rằng công phu đến cỡ như ông, thì xứng đáng phải gọi là… bậc “ngu giả”.



Phạm Lưu Vũ








Liêu Thái phỏng vấn Phạm Lưu Vũ

Văn chương = 50% tiểu thừa + 50% đại thừa



Về văn chương Việt, Phạm Lưu Vũ phát biểu: “Tất cả đều đáng đọc. Đọc rồi mới biết cái nào nên vứt đi. Một khi anh đã vứt đi, nghĩa là anh đã giữ lại cho mình một cái gì đó – nó trả công cho việc đọc, và cho cả việc bỏ công vứt đi. Những kẻ đang kêu gào rằng văn chương xứ ta không có tác phẩm nào ra hồn chính là những kẻ chẳng bao giờ chịu đọc hoặc đọc mà chẳng hiểu gì. Cái tư duy nhược tiểu ấy cứ sau mỗi cuộc chiến tranh, nó lại tăng dần lên theo cấp số nhân“. Sau ngày ra mắt tác phẩm Luận ngữ tân thư [1] hôm 8.7.2007 tại Sài Gòn, ông dành cho độc giả những ý kiến thẳng thắn này.

Liêu Thái: Ngay cái đầu đề, xin ông cho biết tại sao là Luận ngữ tân thư, mà không phải là Luận ngữ nào khác?

Phạm Lưu Vũ: “Luận ngữ“ là bắt chước, là “đạo“ của các bậc tổ sư. Còn “tân thư“ là thân phận của tư tưởng [tân thư = thân tư].

Liêu Thái: Là nhà văn, ông có suy nghĩ gì khi quyết định chọn Nhà xuất bản Giấy Vụn làm “bà đỡ“ cho Luận ngữ tân thư – tác phẩm in cá nhân đầu tiên của ông?

Phạm Lưu Vũ: Xứ ta ở trong “hội“ mới được coi là “nhà văn“. Vì vậy tôi không phải “nhà văn“. Chả có chọn lựa nào ở đây cả. Tại Lý Đợi “quyết định“ đấy chứ. Cũng xin đính chính rằng đây không phải “tác phẩm in cá nhân“ đầu tiên của tôi.

Liêu Thái: Đa số tác phẩm của ông đã xuất hiện trên talawas – phải chăng vì thế mà có nhịp cầu với Giấy Vụn ngày hôm nay? Những người trong Nhà xuất bản Giấy Vụn làm việc theo nguyên tắc nào?

Phạm Lưu Vũ: Không có chuyện “nhịp cầu“. Phạm Lưu Vũ tôi cực ghét cái “hình ảnh“ đó, bởi nó từng được xây bằng những… “thây rơi“. Tất cả là do “duyên“, Đức Phật dạy thế. Những người trong Nxb Giấy Vụn làm việc theo nguyên tắc… của họ.

Liêu Thái: Họ vẫn bỏ tiền ra tài trợ ông 30 quyển đầu tiên như lâu nay, bao cả chuyện layout, làm bìa và mỹ thuật chứ?

Phạm Lưu Vũ: Tất nhiên! Té ra điều này bạn biết trước tôi rất lâu.

Liêu Thái: Ông có gặp khó khăn nào trong vấn đề ấn loát theo con đường mà hiện nay được xem là chính thống (xin giấy phép xuất bản, in tại một nhà in có giấy phép hoạt động hẳn hoi…) không?

Phạm Lưu Vũ: Câu hỏi đầy tính chất “khiêu khích“. Tôi đã “xin giấy phép“ bao giờ đâu mà biết nó có khó khăn hay không.

Liêu Thái: Đi vào tác phẩm, là người đọc, tôi thấy nó chuyển tải quá nhiều vấn đề và đụng chạm đến những vấn đề cốt tủy trong tư tưởng. Vậy, với tư cách của tác giả, ông muốn độc giả của mình quan tâm tới những điều gì nhiều nhất?

Phạm Lưu Vũ: Mỗi người hãy luôn quan tâm đến chính mình. Lão Tử có nói: “Tự biết mình là thông; Nhìn vào mình là minh; Thắng được mình là cường…“.

Liêu Thái: Có lần ông phát biểu trong bàn nhậu: “Văn chương mà đọc hời hợt thì bằng ỉa cứt vào mặt tác giả!“. Đây không phải bàn nhậu, ông còn giữ ý kiến này không?

Phạm Lưu Vũ: Lại khiêu khích. Đấy là một lối nói quá trong lúc… bia. Nếu quả thực như thế thì mặt tôi… đầy cứt. Xin sửa lại là: “Văn chương mà đọc hời hợt thì… thôi“.

Liêu Thái: Thực chất văn của ông cà rỡn, nghe quen quen nhưng rất khó đọc. Sao ông lại viết thứ văn khó khăn như vậy?

Phạm Lưu Vũ: Những ai “cà rỡn“ mới thấy văn tôi “cà rỡn“. Tôi chưa bao giờ “cà rỡn“ trong lúc viết văn. Còn “khó đọc“ ư? Tôi không nghĩ như vậy.

Liêu Thái: Ông đang cố tình lật ngược những vấn đề đã được xem là kinh điển, giá trị ổn định, là nguồn gốc dân tộc Việt? Luận ngữ tân thư dường như đâu chỉ đặt lại vấn đề về giá trị đạo đức của thời xưa rích trong Sử ký, thời Bách Việt?

Phạm Lưu Vũ: Thế nào là “kinh điển“? Thế nào là “giá trị ổn định“?… Câu hỏi có tính “giáo khoa“ này tôi đã trả lời thông qua tác phẩm.

Liêu Thái: Câu chuyện về thánh nhân, về Khổng Tử, về nước Việt, về Việt vương, về làng Kinh… Có phải là những hình ảnh khơi gợi “tính kinh điển“; có phải nó cũng mang thông điệp nào về cái gọi là đạo đức đương thời hoặc giả từa tựa như vậy?

Phạm Lưu Vũ: Xin dùng chính câu hỏi của bạn làm câu trả lời.

Liêu Thái: Vấn đề của một nhà văn Việt Nam hiện nay, theo ông là gì?

Phạm Lưu Vũ: Là chấp hành nghiêm chỉnh điều lệ của Hội Nhà văn. Là “sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật“, v.v…

Liêu Thái: Những tác phẩm hay những kiểu tác phẩm như thế nào là đáng đọc? Như thế nào là đáng vứt đi? Có thể ví dụ?

Phạm Lưu Vũ: Tất cả đều đáng đọc. Đọc rồi mới biết cái nào nên vứt đi. Một khi anh đã vứt đi, nghĩa là anh đã giữ lại cho mình một cái gì đó – nó trả công cho việc đọc, và cả cho cả việc bỏ công vứt đi. Những kẻ đang kêu gào rằng văn chương xứ ta không có tác phẩm nào ra hồn chính là những kẻ chẳng bao giờ chịu đọc hoặc đọc mà chẳng hiểu gì. Cái tư duy nhược tiểu ấy cứ sau mỗi cuộc chiến tranh, nó lại tăng dần lên theo cấp số nhân. Tôi mà đã đọc thì “văng“ cả sách. Vì thế không ví dụ được.

Liêu Thái: Dường như trong văn học chính thống (văn học trung tâm) thời nay, có quá nhiều thứ đáng vứt đi nhưng lại được nâng bi một cách quá đáng. Ông thì nghĩ sao?

Phạm Lưu Vũ: Người đóng thuế trước sau cũng sẽ biết tiền thuế của mình bị lãng phí ra sao. Tôi cũng thế.

Liêu Thái: Nghe ra ông có nhiều bức xúc lắm! Vậy có phải Luận ngữ tân thư là một kiểu thủ dâm văn chương cho đỡ buồn trong những ngày cái đẹp bỏ đi hoang theo tiếng gọi của lăn loàng và bản năng sợ hãi?

Phạm Lưu Vũ: Bạn quá lạm dụng từ ngữ đấy. Câu hỏi nghe vừa đểu vừa “sến“. Tôi công khai cho mọi người đọc mà gọi là “thủ dâm văn chương“ ư? Chớ có từ bụng mình mà suy ra bụng người khác.

Liêu Thái: Và sự thật của văn chương, theo quan niệm của ông?

Phạm Lưu Vũ: Công thức của tôi là: Văn chương = 50% tiểu thừa + 50% đại thừa.

Liêu Thái: Hiện nay ông đang làm gì? Công việc viết văn có làm ông tốn tiền và nguy cơ mất việc (vì kiểu viết và in ấn hơi bị “náo“, dễ bị soi mói, xem lưng của ông)?

Phạm Lưu Vũ: Bắt chước cụ Hữu Loan, rằng hiện tôi đang cố… làm người. Chả có gì phải lo “mất việc“. Cũng chả có ai “soi mói“ hoặc “xem lưng“ tôi cả, trừ những người thích soi mói… như bạn.

Liêu Thái: Thật ra ông muốn nói gì với xứ Việt qua hình tượng mà ông xây dựng nên trong cái “xứ ảo“ Bách Việt của mình; và ông muốn nói gì về Bách Việt, hay Đại Việt? Ông là ai trong tác phẩm của mình (nếu có)?

Phạm Lưu Vũ: Tôi muốn nói những điều như tác phẩm đã thể hiện (cả trong lẫn ngoài). Tôi là 24 chữ cái trong tác phẩm của mình.

Liêu Thái: Cái nhìn của ông về đạo đức Việt trong cái gọi là “Việt hóa những gì có thể“ để tìm bản sắc của một dân tộc có lịch sử mấy ngàn năm dân ngu khu đen (gồm cả ông và tôi)?

Phạm Lưu Vũ: Lại phải dẫn Lão Tử ra đây: “Thất Đạo nhi hậu Đức; Thất Đức nhi hậu Nhân; Thất Nhân nhi hậu Nghĩa; Thất Nghĩa nhi hậu Lễ“. Tôi xin viết thêm để trả lời câu hỏi này: “Thất Lễ nhi hậu… Nay“.

Liêu Thái: Tại sao ông lại đưa bài tạp luận về Văn chiêu hồn xuống cuối tác phẩm? Sắp đến tiết tháng Bảy, ông muốn nói gì với những linh hồn Việt đang bơ vơ vất vưởng bên kia thế giới, và những thân xác đang chen chúc sống trên trần thế này ư?

Phạm Lưu Vũ: Tùy bạn hiểu thế nào thì hiểu. Cũng như những bạn đọc khác vậy.

Liêu Thái: Tôi thấy sách có đề giá 50.000 VN đồng. Liệu, có bán được giữa lúc màng trinh còn phải tiếp thị, mà cơ hội tiếp thị của ông thì mỏng như đức Tấn Bình công vậy?

Phạm Lưu Vũ: Việc ấy bạn đi mà hỏi Lý Đợi. Nếu cảm thấy đắt quá thì mua làm quái gì. Inrasara đặt mua… 1 cuốn đầu tiên rồi đấy.

Liêu Thái: Sau Luận ngữ tân thư, ông có định “đẻ“ tiếp đứa con tinh thần nào khác thông qua bà đỡ Giấy Vụn?

Phạm Lưu Vũ: Lại một “thuật ngữ“ mà tôi rất ghét. Cái gì là “đứa con tinh thần“? Đối với tôi, văn chương của chính mình mà có khi nó là… bố mình, thậm chí ông nội mình ấy chứ. Nói “đứa con tinh thần“ là coi thường độc giả. Rằng độc giả chỉ đáng xem giò xem cẳng, chỉ đáng học… con mình thôi. Câu hỏi dở xin miễn trả lời.

Liêu Thái: Những ý ông cần nói thêm, cần làm rõ, cần thêm câu hỏi… thì xin cứ tự nhiên.

Phạm Lưu Vũ: Những ý cần nói thêm tôi chả dại gì mà nói ra trong một bài phỏng vấn.

Liêu Thái: Cuối cùng của một bài trao đổi văn học, đương nhiên rồi, về tiểu sử: ông là ai?

Phạm Lưu Vũ: Tôi là Phạm Lưu Vũ. Trong đó Lưu là tên bố, Vũ là tên thằng con giai đầu của tôi.


[1]Luận ngữ tân thư (Tạp luận–Tạp bút–Tạp văn–Truyện ngắn) của Phạm Lưu Vũ. Nhà xuất bản Giấy Vụn. Email: nxbgiayvun@yahoo.com. Chịu trách nhiệm xuất bản: Lý Đợi. Tranh bìa: Internet. Trình bày: La Hán Phòng Studio. In photocopy 50 cuốn, khổ 13.5cm x 19cm. Sài Gòn 7.2007. © 2007 Phạm Lưu Vũ & Giấy Vụn. Giá: 50.000 đồng










Phạm Lưu Vũ trên Văn chương việt


Tổng số tác phẩm: 99
Đám mổ bò (truyện ngắn)
Áo gấm đi đêm (truyện ngắn)
Bài ca cuộc sống (truyện ngắn)
Cái Kết Có Hậu (truyện ngắn)
Chính danh (truyện ngắn)
Chuyện làng Kinh (truyện ngắn)
Chuyện vịt (truyện ngắn)
Hai anh em (truyện ngắn)
Kẻ vô thừa nhận (truyện ngắn)
Liệt nữ (truyện ngắn)
Linh vật (truyện ngắn)
Ngón tay phật tổ (truyện ngắn)
Nhà hiền triết (truyện ngắn)
Tai ngược (truyện ngắn)
Tần Doanh Chính (truyện ngắn)
Tảng thịt tế (truyện ngắn)
Thạch ngôn (tạp văn)
Tửu địa (truyện ngắn)
Vai diễn cuối cùng (truyện ngắn)
Xuất xứ (truyện ngắn)











THƠ VUI CỦA PHẠM LƯU VŨ


CHÂN DUNG

Trung Trung Đỉnh

Làng văn có một anh giai
Văn chương bò mộng, hình hài thiếu nhi
Nửa đời là những chuyến đi
Có khi gặp bến, có khi lạc rừng
Có khi giữa cuộc tưng bừng
Đọc thơ như thể cắm sừng vào thơ
Có khi chợt hóa ngẩn ngơ
Hỏi anh lính trận bây giờ còn thiêng?

.
Phạm Ngọc Tiến

Chàng đầu trọc không hề sư sãi
Thích thì chơi chẳng hãi thằng lào
Mặt nom cũng đáng anh hào
Tàn đen đốm đỏ vận vào cuộc chơi

Giật mình nhớ một thời chinh chiến
Máu văn trường không thiến là may
Để mà có một hôm nay
Ngồi mơ cho thế giới này… muôn năm

Trên trang sách chó nằm la liệt
Giữa phim trường bò chết vì đâu?
Thà rằng một kiếp mõ trâu
Còn hơn cái hội lau nhau ma làng

Khi hăng máu mình chàng chấp bốn
Lúc tiểu đường chạy trốn chẳng xong
Đã thành một kiếp đàn ông
Thì xem giời đất cũng không là gì.


Đỗ Chu

CHÂN DUNG KÉP

Ngồi nghe chuyện bác Đỗ Chu
Mới hay thiên hạ vốn… ngu như bò
Giữa đường gặp bác Ninh Hồ
Mà không đến nỗi phát rồ là may
Làng “văn” từ bấy đến nay
Vẫn gờm hai bác là tay… nhất nhì
Kinh Bắc là xứ diệu kỳ
Sinh ra một lúc… tù tì hai tên.


PHẠM LƯU VŨ
Nguon theo nguyentrongtao













Bên kia lời nguyền
Phạm Lưu Vũ ‘đi tìm nhân vật’ Tạ Duy Anh


.


Nhà văn Tạ Duy Anh tuổi con lợn, nhưng lại mang dáng dấp của một con… tinh tinh, lúc nào cũng như vừa ở rừng về. Phòng làm việc không có chân dung lãnh tụ, nhưng lại có tới ba chân dung của chính lão. Ba bức chân dung ấy không giống nhau, thế là không phải một. Nhưng bức nào cũng chính là lão, thế là không phải khác. Không phải một, song cũng không phải khác là một chân lý của mọi sự tồn tại trong vũ trụ này, vậy mà người có duyên cũng phải mất nhiều đời may ra mới hiểu được. Nay lão trình bày cùng một lúc, ngay trước mặt mình thì không thể xem thường. Một bức do thi sĩ Nguyễn Quang Thiều vẽ, một bức do họa sĩ Văn Sáng vẽ, bức thứ ba do con rể lão. Họa sĩ Văn Sáng vẽ, lấy cảm xúc từ hình hài của lão thi sĩ Bùi Giáng, tức là ăn mày. Thi sĩ Nguyễn Quang Thiều vẽ, lấy cảm xúc từ gương mặt của tiều phu, tức là tiên nhân. Con rể lão vẽ, lấy cảm xúc ngay trong đời thực, tức là bố vợ. Tôi trỏ ba bức chân dung ấy, bảo: đây là ba đời, quá khứ (kiếp trước), hiện tại (kiếp này) và vị lai (kiếp sau), đều Tạ Duy Anh cả. Con rể vẽ như "đấm bố vợ" (hiện tại) thì không nói làm gì, họa sĩ vẽ như nhìn thấu quá khứ, thi sĩ vẽ như nhìn thấy thời vị lai. Thế là gồm đủ “tam thế”


Hs Hồng Hưng vẽ


Tạ Duy Anh sống rất “nắn nót” (chữ dùng của chính lão), bởi luôn cảm thấy trong mình có gì đó xộc xệch. Lão có vấn đề ở tiền đình, cái cơ quan giữ thăng bằng, giúp lão biết đầu phải đội trời, chân phải đạp đất. Song lúc nó lên cơn xộc xệch thì đôi khi phải ngược lại, hoặc nằm dang chân dang tay trên sàn nhà mà vẫn lo bị… ngã. Hôm nọ đến chơi, cô em Thu Uyên, hồ lô của Nhà xuất bản kéo tôi ra một góc, ghé tai tôi thì thầm, kể có lần bắt gặp chú Anh đang đi dạo trên… trần nhà, đầu chúc xuống đất, tay cầm quyển Đông Ki Sốt, đang lẩm nhẩm đọc, em sợ quá, trợn mắt ngã lăn quay, ngất lịm không biết gì nữa, khi tỉnh lại thấy chú ấy đã ngồi trước bàn làm việc, như không có chuyện gì…

Tạ Duy Anh biết mình có chứng đó, may có chứng đó, nên có loại sách phải chúc đầu xuống đất thì đọc mới thấy… xuôi, xuôi cả luân thường lẫn đạo lý… Cho nên Tạ e ngại nếu bất ngờ tỉnh lại giữa chừng, mà rơi cắm đầu xuống nền nhà thì nguy to. Thế là y đội mũ bảo hiểm, cài dây đàng hoàng suốt ngày, ngay trong lúc làm việc, chỉ trừ những lúc thi hành “tứ khoái” là ăn, ngủ… thật là “nắn nót” đến thế là cùng. Chứng lộn ngược này của y là bẩm sinh, cho nên không thể chữa được, phải chịu hết kiếp làm… Tạ Duy Anh thì mới xong. Bạn học cùng phổ thông với y là Nguyễn Quốc Hùng kể với tôi, rằng lúc nhỏ Tạ quặt quẹo lắm, đẻ ra chỉ tám lạng, thì riêng cái đầu đã… 7 lạng rưỡi. Càng lớn nom càng kì quái, cái đầu càng to quá khổ, đến nỗi có cảm giác không phải đầu y gắn vào thân y, mà chính chân tay y mới gắn vào cái đầu, khiến một bước đi là một bước vấp, mang cái đầu mới vất vả làm sao. Sở dĩ y phải “nắn nót”, phải đội mũ bảo hiểm cả đời là vì như vậy. Quốc Hùng còn kể rằng bà mẹ y bảo lúc còn bé, bế y chỉ cần bế cái đầu, tứ chi không đáng kể gì. Đến nỗi cho đến khi y lên 6, ngày nào mẹ cũng phải cầm đầu y giơ lên, rồi dùng tay kéo ngũ chi… kéo suốt như thế, cho nên mới được cái hình hài tàm tạm như bây giờ…”.

Đó là “thân mạng” của Tạ Duy Anh. Thế còn “văn mạng”?

Tả “thân mạng” của ai thì cũng dễ, bởi vì thân mạng là vô thường, chả có lúc nào giống lúc nào, lúc bé chỉ làm “nhân” cho lúc lớn, lúc lớn làm “nhân” cho lúc già, hôm qua làm “nhân” cho hôm nay… nhân quả thường không giống hệt nhau, cho nên “thân mạng” thì viết thế nào cũng được, cứ việc tùy theo thuận nghịch mà tả. Tả những kẻ tròn trĩnh, nhẵn thín như củ khoai luộc còn như thế, huống hồ tả người méo mó, dị hình như Tạ Duy Anh. Nếu có ai thắc mắc, rằng ông tả không giống như tôi thấy, thì cãi rằng lúc ông thấy khác lúc tôi thấy… Nhưng tả “văn mạng” thì không thể tùy tiện như thế được, so với “thân mạng” là vô thường, thì “văn mạng” là không vô thường, chữ nghĩa nó vẫn còn sờ sờ ra đấy, cứng như bia đá, trơ như bia miệng… thì phải thận trọng, dò dẫm lắm may ra mới ít bị mắc lỗi. Đang định bắt đầu bằng một truyện ngắn, khá đình đám mổ bò, là “Bước qua lời nguyền”, thì bỗng xảy ra chuyện lạ, kinh dị như ma ám, như nhập đồng, khiến tôi phải bắt đầu bằng một truyện khác. Như sau:

Truyện ngắn “Bước qua lời nguyền” tôi đọc đã lâu, chừng vài chục năm trước đây, cảm giác tức anh ách từ bấy, giờ vẫn còn trở lại, nhưng cụ thể như thế nào thì tôi không nhớ, bèn lục lọi trên mạng, tìm đọc lại lần nữa mới được. Gõ từ khóa “Tạ Duy Anh”, màn hình hiện ra như sao sa. Nhưng truyện ngắn đầu tiên của Tạ Duy Anh đập vào mắt tôi, không phải “Bước qua lời nguyền”, mà là “Gã lộn ngược”. Tôi rùng mình, rợn người. Sao lại có chuyện trùng hợp kinh dị như thế? Rõ ràng tôi vừa viết chi tiết Tạ Duy Anh đi “dạo” trên trần nhà, đầu chúc xuống đất, tay cầm quyển sách... Câu tôi viết: “Chứng lộn ngược này của y là bẩm sinh, cho nên không thể chữa được, phải chịu hết kiếp làm… Tạ Duy Anh thì mới xong” vừa mới ráo mực, không ngờ chính y đã viết truyện ngắn “Gã lộn ngược” này cách đây cũng vài chục năm. Bạn tin hay không thì tùy, rằng khi viết ra chi tiết đó, tôi hoàn toàn chưa đọc truyện “Gã lộn ngược” của y, và cũng không hề biết y có truyện này. Vồ lấy máy gọi ngay, y cười lớn mà bảo, rằng chính y cũng tưởng tôi đã đọc truyện đó, cho nên mới “bịa” ra chi tiết “lộn ngược” ấy. Và cái sự “tưởng” lầm đó, chắc không chỉ mình Tạ Duy Anh. Thế là việc của ma quỷ, hay là chuyện thần tiên?


Chân dung Lão Khổ Tạ Duy Anh của hs Nguyễn Hồng Hưng


“Gã lộn ngược” là một truyện ngắn xuất sắc về lập tứ, bỡn cợt về tình huống và úp mở về chi tiết… một lối viết (sau này) rất đặc trưng của Tạ Duy Anh. Một gã trai cường tráng vật vã, song lại cảm thấy trong mình có gì không ổn, bèn đi hết phòng khám nọ đến phòng khám kia… mà tuyệt không tìm ra bất kì một triệu chứng của bất kì một căn bệnh nào. Cuối cùng gặp một cô bác sĩ, đây là chỗ bỡn cợt về tình huống, và… những cuộc làm tình kì thú theo kiểu của… chuồn chuồn, tức là lộn ngược giữa bệnh nhân và bác sĩ đã diễn ra, đây là chỗ úp mở về chi tiết. Kết thúc ở màn đánh ghen của tay chồng cô bác sĩ, túm hai chân anh chàng dốc ngược đầu xuống đất. Cái “nhân duyên” đặc biệt đó đã giúp cho anh ta “ngộ” ra, rằng mình hoàn toàn khỏe mạnh, chả bệnh tật gì, chỉ có điều mỗi anh ta xuôi, còn tất cả mọi người đều… lộn ngược. Đây là chỗ xuất sắc về lập tứ, đến nỗi có lẽ phải xếp Tạ Duy Anh vào hàng “Độc Giác”, tức là tự mình đã giác ngộ ra sự điên đảo của cả thế giới này.

Trước Tạ Duy Anh, ít người dám rụt rè và run rẩy xuống đò, sang hẳn phía bên kia của dòng sông minh họa (chữ dùng của nhà văn Nguyễn Minh Châu). Có người cắm sào để hưởng lộc như Nguyễn Quang Sáng, có bác dừng lại để phán xét như Đỗ Chu, lại có ông chôn chân để nghe ngóng như Nguyễn Khải… Thậm chí có vị tiến một bước lại lùi ba bước như Nguyễn Tuân… Riêng Nguyễn Huy Thiệp thì đi liền một mạch, song lại sớm… đứt hơi. Tóm lại mãi chưa ai tìm ra thuật ngữ nào để thay thế chữ “minh họa” của Nguyễn Minh Châu. May quá có “Bước qua lời nguyền” của Tạ Duy Anh. Có thể dùng tiêu đề truyện ngắn ấy như một “thuật ngữ”, để phân biệt, để chỉ bờ phía bên kia của dòng sông minh họa, nơi trồng nên “văn mạng” của Tạ Duy Anh.

Truyện ngắn “Bước qua lời nguyền” nếu rút gọn lại còn một chữ, thì đó là chữ “đồng”. Thêm chữ nữa thì là “đồng chí”, rút còn một đoạn thì là: “Trong năm gia đình đầu tiên đặt tên “Đồng” cho làng tôi, có ông tổ bốn đời của tôi. “Đồng” có nghĩa là cùng một lòng, cùng một chí hướng và cùng lấy một họ”. Lập tứ kín đáo mà xuất sắc, mãi tới gần cuối truyện mới thò ra, rất “Tạ Duy Anh” là ở chỗ này, tư tưởng quái kiệt cũng ở chỗ này. Cái “làng” kinh dị ấy thực ra là một cõi giới, gồm những loài chúng sinh quái đản, là "thú" mà không nằm trong "ngũ thú” (bất thú), là người mà không phải người (phi nhân), cũng không phải dạ xoa (bất quỷ), không phải khẩn la na, không phải ma hầu la già... Loài chúng sinh ấy do một cái tên rất trừu tượng và mong manh là “Hứa” cầm đầu. Cho nên mới xảy ra bao nhiêu chuyện, từ chuyện cướp bát cơm nguội, đến chuyện đấu tố của lũ học trò, chuyện trâu mộng húc nhau… cuối cùng là giấc mơ (chỉ là giấc mơ đấy thôi) vùng lên của tên “Tư”, trả thù lão “Hứa”, theo kiểu hò hét cho hả lòng hả dạ. Hứa ở đây tóm lại là… hứa lèo. Tư ở đây là tư hữu, là quyền có của riêng, đã bị cái “Hứa” nó giáng cho những đòn chí mạng. Lối đặt tên làng, tên nhân vật của Tạ Duy Anh đã tạo ra những tình huống bỡn cợt, những chi tiết úp mở như bộ ngực của Quý Anh, con gái lão Hứa là như thế.

Thế nhưng đọc “Bước qua lời nguyền”, vẫn có cảm giác tức anh ách, không phải vì cốt truyện chưa hài lòng, không phải vì tức hộ nhân vật… mà tức chính… tác giả, bởi vì gã bắt ta đọc chữ của gã, đầy hứa hẹn rồi để đấy, trỏ cho ta bao nhiều kì quan, song dắt ta đi rồi bỏ lại giữa đường. “Bước qua lời nguyền” không phải là một truyện ngắn, mà là một phần của tiểu thuyết, của những bộ tiểu thuyết trường thiên…

Tại sao nói “Bước qua lời nguyền” không phải truyện ngắn? Bởi vì cái kết chưa có hồi kết và cái tứ bất khả kì cùng của nó. “Bước qua lời nguyền” là một điềm báo của văn học, về một loài nghiệt chủng sinh ra từ làng “Đồng”. Đồng là cộng nghiệp, là một hồn vía chung cho cả một cộng đồng, có hưng, suy, sinh, diệt… có sức sống riêng, y như một giống hữu tình. Nhưng “đồng” mấy thì cũng như con sư tử, trong bụng chứa đầy những con trùng, dẫu oai hùng đến mấy, mà không biết đến điều đó, thì trước sau cũng đến lúc nằm… chờ chết mà thôi. Chỉ một cái tên làng “Đồng”, “Bước qua lời nguyền” đã đặt một chân sang bờ bến của vị lai, để vẽ nên làng quê Việt Nam qua cái nhìn của vô thức, mô tả làng quê Việt Nam qua cái biết của giác tri… Nếu không phải thiên tài thì cũng do quỷ thần đã xui khiến nên như thế. Cũng như Jules Verne ngồi trên bờ mà viết “Hai vạn dặm dưới đáy biển”, nhưng đáy biển thì đo mãi cũng hết, chứ “đồng…” thì đo đến bao giờ? Cho nên nói cái “tứ” này bất khả kì cùng là vì lý do đó.

Về mặt “hiện tượng”, “Bước qua lời nguyền” chỉ nói lên chữ “Đồng”, còn bản thể thì vẫn là chữ “Khổ”, không ra ngoài chữ “Khổ”. Nếu bảo là “truyện ngắn” thì nó là “Bước qua lời nguyền”, bảo là “truyện dài” hay tiểu thuyết, thì nó là… “Lão Khổ”. Định nghĩa ngắn, dài hay tiểu thuyết… không liên quan đến số chữ, số trang. Có khi trăm trang vẫn là truyện ngắn, mà nửa trang vẫn là truyện dài. Cả không gian lẫn thời gian cũng thế, tả một nước… vẫn là truyện ngắn, mà tả một làng vẫn thành tiểu thuyết... Cũng như đi một mình, trên con đường đạo, thì ngồi xe lớn, vẫn là tiểu thừa, rủ theo người khác cùng đi, thì ngồi xe nhỏ vẫn là đại thừa. Thôi chuyện này dành cho các nhà lý luận phê bình. “Lão Khổ” của Tạ Duy Anh là truyện dài, tiểu thuyết, hay cái gì đó… thì còn tùy người đọc. Đối với tôi, đây là “Khổ” qua cái thấy của người trí, không giống với cái thấy của kẻ bất tri. Người trí thấy “nhân” của Khổ, kẻ bất tri thấy “quả” của Khổ. Cho nên cụ bá của làng văn chương là Hoàng Ngọc Hiến bảo nhân vật lão Khổ của Tạ Duy Anh “khổ” một cách hồn nhiên, tự tại (trước khi chết cũng phải đái một bãi cho đàng hoàng…). Một cụ bá khác là Bọ Lập, tả lão Tạ mà nghĩ đến “Lão Khổ”, cứ sau một kiếp nạn, lại tả đến nụ cười. Bọ Lập cũng không quên tả lão Tạ tìm vợ bằng cách… đánh hơi, như voi, như ngựa, như rái cá, thuồng luồng… trong vòng năm phút. Nguyễn Quang Lập đọc văn, đọc người thật là tinh quái, ít ai bì kịp. Đó cũng là cách đọc của những người trí. Tiếc cho các vị gác cổng nền văn chương, lại đi đọc Lão Khổ bằng cái đầu bất tri, thì chỉ thấy cái “quả” đen tối bề ngoài, mà không thấy cái “nhân” sâu thẳm, lồng lộng ở phía trong. Quả của Khổ là khổ sở, khổ sở chỉ khiến ta tuyệt vọng, bế tắc, không có đường ra. Nhân của Khổ là Khổ lý, thấy Khổ lý sẽ khiến ta tìm được lối ra…

Vậy thì có thể nói chính “Lão Khổ” là “nhân”, Tạ Duy Anh là “quả”. Chỗ này hơi khác vị tiền bối là Nam Cao. Với Nam Cao, thì với Chí Phèo là “nhân”, mà Nam Cao là “quả”, Chí Phèo “đẻ” ra Nam Cao. Chính mồm Lão Tạ cũng đã từng cung ra, rằng nhân vật “lão Khổ” lấy nguyên mẫu từ ông cụ thân sinh. Thế thì đúng là “Lão Khổ” đã đẻ ra Tạ Duy Anh, cả thân mạng lẫn… văn mạng. Ngược lại với Lão Tạ, cách đây hơn chục năm, tôi cũng viết về một lão nhân vật, nhưng đặt tên Lão Sướng. Lão Sướng hàng ngày được một con bò nó kéo đi trên đường, đếm lần lượt tám mươi mốt cái xóc trong… mơ. Lần cuối cùng dang dở, chưa đếm xong thì gặp kiếp nạn… Không còn con bò kéo đi nữa, chỉ còn lại mỗi đoạn dây thừng để bám vào... Lão Sướng không “đẻ” ra tôi như Lão Khổ đã đẻ ra Lão Tạ. Viết đến đây, lại nghĩ về chuyện thân mạng và văn mạng, đều do nghiệp nó quyết định cả. Hai món ấy lúc thọ nghiệp, lúc tạo nghiệp… cứ thế hoán đổi tít mù, nhanh như điện chớp. Hễ thân mạng thọ nghiệp thì văn mạng tạo nghiệp và ngược lại. Thân mạng do nghiệp nó tặng, cho nên nhìn thấy nhưng mà giả, văn mạng do nghiệp nó hành, cho nên không nhìn thấy nhưng mà thật. Tặng nhiều thì hành ít, tặng ít thì hành nhiều... Cứ xem cái hình hài nguệch ngoạc của Lão Tạ, thì biết món quà tặng ấy của “nghiệp” nó bủn xỉn và cẩu thả biết nhường nào. Bù lại, xem “văn mạng” của Lão Tạ, thì cũng biết cái sự hành của “nghiệp” là rất hào phóng và công phu


Trên giá sách của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên.


Công phu như thế nào?

Ở chỗ nghiệp phú cho Lão Tạ cái khả năng lộn ngược. Đây là “quả” của một nhân duyên đặc biệt, rất đặc biệt. Gồm ba món: đọc lộn ngược, nghĩ lộn ngược, và học lộn ngược. Đọc thuộc về phúc, nghĩ thuộc về đức và học thuộc về duyên. Phúc, đức, duyên… gồm đủ cả. Thế mà bảo chẳng công phu thì là cái gì? Ngày trước Khuất Nguyên cũng vớ được một trong ba món lộn ngược này, đó là nghĩ lộn ngược. Cho nên ông mới thấy cả thiên hạ đục, chỉ mỗi mình ta trong. Thế là Khuất Nguyên có đức, đức tức là trí, cho nên mới viết được Ly Tao, Sở Từ… Nhưng tiếc rằng Khuất Nguyên không biết đọc lộn ngược, thế là vô phúc, không biết học lộn ngược, thế là vô duyên. Vô phúc nên mới biến thành một kẻ ngu trung, vô duyên nên lời nói không bao giờ lọt vào tai vua... Tóm lại có trí mà vô phúc, vô duyên, thì cũng chả dùng vào việc gì, đến nỗi phải nhảy xuống sông Mịch La để làm mồi cho cá. Nay Lão Tạ gồm đủ cả ba món thì chúng ta cứ việc yên tâm, rằng Tạ Duy Anh sẽ quyết không nhảy xuống ao mà tự tử đâu.

Nghĩ xuôi là hướng lên phía ngọn, nghĩ lộn ngược là hướng trở về gốc. Ngọn thì lúc nào chả rung rinh, nghiêng ngả, gió chiều nào quay chiều nấy… Duy có gốc thì vẫn… y nguyên. Tuy nhiên gọi là “gốc” cũng nhiều loại “gốc” lắm, có gốc của cây, gốc của cành, của nhánh… gọi là thụ căn, chi căn, bàng căn… Chỉ có duy nhất một gốc rốt ráo, gốc cây gọi là thủy căn. Viết về Khổ như những Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Công Hoan… mà chỉ thấy “quả”, không thấy “nhân” đâu, hoặc cùng lắm cũng chỉ lờ mờ những cái “nhân” giả, “nhân” chưa rốt ráo, thì tức là mới hướng đến chi căn, bàng căn… mà thôi.

Nhân nhắc đến các bậc tiền bối, những “cây đa”, “cây đề” một thuở trong làng văn chương, đã biến thành những thanh củi gộc, để nhóm lên lò lửa của “cách mạng vô sản”. Trong số ấy có một người, trong tác phẩm của mình, ngài cũng đã chạm đến thủy căn. Người ấy là Nam Cao. Một hôm ngài về gặp tôi, gương mặt có tới… ba con mắt. Con mắt ở giữa tròn xoe, nằm ngay giữa trán, từ đó tuôn ra một luồng gió lạnh, từ nghĩa địa thổi về. Tôi rùng mình, té ra không phải con mắt, mà là một lỗ thủng. Ngài trỏ vào cái lỗ thủng ấy, hỏi mi có biết ai đã bắn không? Tôi gật đầu vô thức. Ngài hỏi tiếp, thế mi có biết bắt đầu từ cái gì không? Tôi trả lời, cũng trong vô thức, rằng bắt đầu từ Vũ Đại. Ngài bảo, thế là mi đã biết đọc ngược rồi đấy. Nói xong ngài biến mất. Tôi giật mình tỉnh dậy, trong tay đang cầm cuốn “Lão Khổ” của Tạ Duy Anh. Té ra “Lão Khổ” là cụ thể hóa “Chí Phèo”, là kiếp sau của làng Vũ Đại. Thế tức là Nam Cao viết Chí Phèo, để dự báo trước tương lai của làng Vũ Đại, rồi sẽ biến thành làng “Đồng” đấy chứ? Đâu phải ngài tố cáo chế độ cũ? Mà các nhà bình tán văn chương đời sau nhân cơ hội túm lấy, vu cho “Chí Phèo” của Nam Cao là “hiện thực phê phán”, để bắt cả những đời sau phải đọc theo cách của mình? Trong khi làng Vũ Đại là kiếp trước, Đồng là kiếp này, của… vẫn cái “làng” Vũ Đại ấy. Phải biết đọc lộn ngược, thì mới thấy rõ chỗ này, càng chứng kiến nhiều càng rõ. Viên đạn đã tạo nên con mắt thứ ba của Nam Cao, khiến ngài không còn cơ hội để cải chính điều đó. May quá có Tạ Duy Anh với “Lão Khổ”, cho nên ngài đã có thể yên lòng.

“Chí Phèo” của Nam Cao thực ra rất khó đọc, nằm trong một cốt truyện rất dễ đọc, dễ đến nỗi ai cũng tưởng mình biết đọc. Chính tôi ngày trước cũng tưởng mình biết đọc, mãi đến khi đọc Lão Khổ của Tạ Duy Anh, mới giật mình hiểu ra thâm ý của Nam Cao. Ngài thật là bậc kì tài. Đây là dạng văn chương đánh lừa, một trong những thú chơi văn của các đại tác gia ngày trước, gọi là văn chương “gài mìn”. Những quả mìn nằm sâu dưới đất, có khi hàng chục năm, trăm năm… đến một lúc nào đó, hội đủ “duyên” thì nó mới nổ “bùm”… Nói “văn dĩ tải đạo”, thì người đọc văn cũng tương tự như người đi cầu đạo vậy. “Chí Phèo” của Nam Cao tài đến mức, khiến khối bậc học giả trở nên lẩm cẩm, loay hoay mãi đi tìm “nguyên mẫu” của cái làng Vũ Đại. Trong khi Vũ nghĩa là vũ công, là múa may, đánh giết… Đại vừa có nghĩa là to, vừa có nghĩa là rộng lớn… trùm khắp. Thế thì còn phải đi tìm làng Vũ Đại ở đâu nữa? Nó ở ngay đây, luôn bên cạnh ta. Trùm khắp không gian thì làng tức là nước, trùm khắp thời gian thì Đại bao gồm cả quá khứ, hiện tại và vị lai. Chán cho các học giả, đến một cái tên làng cũng còn chưa hiểu, lại cứ loay hoay đi tìm, thì đó là hậu quả của lối chỉ đọc được mỗi phần ngọn, mà chả biết gốc ở đâu vậy. Qua thời Vũ Đại, thì đến thời Đồng... Cho nên nói “Lão Khổ” của Tạ Duy Anh là tiếp theo “Chí Phèo” của Nam cao là vì như vậy.

Vì thế không cần ngạc nhiên khi đọc “Lão Khổ”, thấy Lão Tạ rất ảnh hưởng lối viết trong “Chí Phèo” của Nam Cao. Cụ Chánh trong Lão Khổ có bóng của cụ Bá trong Chí Phèo, Tư Vọc có bóng của Binh Chức… Chỉ có điều tả dinh cơ của cụ Chánh có hào lũy, có tòa ngang dãy dọc… là sai bét, là nghe hơi nồi chõ. Tạ Duy Anh bằng tuổi tôi, thì cũng chỉ nghe các cụ kể lại, chứ nào đã gặp một cụ Chánh, cụ Bá… nào đâu? Nghe các cụ kể lại và học trong sách giáo khoa, phần “văn học hiện thực phê phán” của những đại tác gia như vừa kể ở trên. Học như thế nào? Đây nói về cái “duyên” học lộn ngược của Lão Tạ. Viết đến đây, tôi lại phải nghiêng mình đảnh lễ một bậc tiên tri nữa trong làng văn thuở trước, đó là cụ Ngô Tất Tố. Cụ kết thúc Tắt Đèn bằng cái tiền đồ “tối đen như mực” của chị Dậu. Các nhà sư phạm túm ngay lấy chỗ này để dạy học trò rằng đó là tố cáo chế độ cũ. Có biết đâu rằng gã học trò Tạ Duy Anh lại hiểu lộn ngược. Gã bảo không, cái tiền đồ “tối đen như mực” ấy là cụ Ngô Tất Tố đã “tiên tri”? Điều đó phải chăng đã khiến cụ phải tự tử, như Khuất Nguyên ngày trước? Đấy, học lộn ngược nó ghê như thế đấy.

Tại sao nói đọc thuộc về phúc? Đời con người ta mong có dùi để mà cắm, có cơm để mà ăn, cũng như có sách để mà đọc… thế chẳng thuộc về phúc là gì? Thế nào là nghĩ thuộc về đức? Có căn để mà nghĩ, căn lành thì nghĩ đúng, căn bệnh hoạn thì nghĩ sai… căn tính như thế nào đều phụ thuộc vào công đức trong quá khứ cả… thế chẳng thuộc về đức là gì? Thế nào là học thuộc về duyên? Gặp được minh sư để theo, gặp được chính đạo để học, gặp được bạn hiền để chơi, gặp được vua sáng để thờ… thế chẳng thuộc về duyên là gì? Có ba món ấy thì làm thầy thiên hạ còn được nữa, huống hồ chỉ làm thợ, song chớ có làm quan, người làm quan chả mấy khi đọc sách, kẻ đọc sách chả mấy khi làm quan. Thế còn làm văn? Đấy đấy… Ba món ấy chính dành cho kẻ làm văn, đúc nên kẻ làm văn, như Nam Cao, như Lão Tạ… Làm văn bằng chân chính hẳn hoi, không phải chân phụ. Làm văn là dấn thân, cho nên là một việc khó. Tại sao nói khó? Bởi vì bất chấp cường quyền, bất chấp dối trá, bất chấp hội hè thế tục… văn học bao giờ cũng thực hiện chức năng của mình, như một chuỗi tương tục, không gián đoạn của cả ba đời, quá khứ, hiện tại và vị lai. Chuỗi tương tục của lớp lớp những thế hệ nối tiếp truyền thừa gọi là lịch sử. Chuỗi tương tục của mỗi cá thể, mỗi số phận gọi là kiết sử. Những nhân vật trong văn học đã trở thành kiết sử như chị Dậu, anh Pha, Chí Phèo, lão Khổ… Cho đến những số phận đang hiện hữu ngoài đời kia… rồi cũng sẽ trở thành những kiết sử như thế.

Văn chương tạo nên nhân vật, không phải để mua vui, mà để làm ra những kiết sử, để đời sau soi vào, thấy mình đang lặn ngụp trong góc tối của luân hồi, chứ không phải thiên đường, không phải Tịnh độ… Nhà văn phát hiện ra tình huống, nhân vật bằng ý thức của mình. Nhưng muốn làm cho nhân vật trở thành kiết sử thì ý thức không làm được. Ý thức chỉ có thể lấy kiết sử của người khác, đem về làm nhân vật của mình, như trường hợp của Nguyễn Huy Thiệp trong truyện ngắn “Huyền thoại phố phường…”. Hoặc tự mình đem cái trước của mình để xào nấu nên cái sau như trường hợp của Alexandre Duyma, văn của thiên tài này gồm khá nhiều bộ, song chỉ cần đọc một bộ là đủ, bởi tất cả đều na ná như nhau, cùng một chủ đề… Viết bằng ý thức chỉ có thể làm ra những thứ văn xoàng xĩnh hạng ba, hạng tư… mà kinh Pháp Hoa gọi là “thế tục ca ngâm” mà thôi.

Vậy không viết bằng ý thức thì viết bằng cái gì? Ý thức thì không ai giống ai, nhưng có cái sâu hơn ý thức, đó là tiềm thức, sâu hơn nữa là vô thức. Ý thức là ngụy tâm, hay còn gọi vọng tâm, nó luôn có gián đoạn nên văn ra được vài hôm đã có mùi thiu, đọc không vào nữa, để trên giá sách thì kiến nó tìm đến. Tiềm thức tuy chưa phải chân tâm, song nó không gián đoạn nên văn để cả đời cũng chưa thiu, đời sau vẫn có thể đọc được. Sâu hơn tiềm thức còn vô thức. Vô thức là chân tâm, chân tâm là bất khả tư nghì, có thể làm ra vạn vật… còn được nữa, huống hồ chỉ dăm ba con chữ. Vô thức vừa là những kiến thức của riêng từng cá thể, vừa của cả cộng đồng, những ai đã đọc phân tâm học của S. Freud thì đều biết điều này, nếu đọc cả Duy thức học Phật Giáo thì còn biết rõ hơn nữa. Văn do vô thức (tức chân tâm) làm ra lúc nào cũng tươi, không bao giờ thiu, dù người làm ra đã trở thành thiên cổ. Đọc văn của chân tâm không khác gì đọc đạo lý, có thể quên ăn cũng không cảm thấy đói. Sáng tạo văn học có quy luật ấy, cũng giống như quy luật của người tu đạo, phải dùng chân tâm để tu thì mới có hy vọng, dùng vọng tâm để tu thì chả khác gì nấu cát mong thành cơm, sách Phật đã dạy thế…

Đang viết về Lão Tạ mà đoạn trên không nhắc gì đến văn của Tạ Duy Anh là cớ làm sao? Không nhắc nhưng chính là nói về văn của Lão Tạ đấy. Tạ Duy Anh phần lớn viết bằng Tiềm thức, có lúc Vô thức, cho nên đọc văn của gã ít khi thấy Tạ Duy Anh hiện lên, mà chỉ thấy Lão Tạ. Tạ Duy Anh đã hóa thành Lão Tạ vậy. Thế nhưng vẫn có lúc ý thức của Tạ Duy Anh nó thò vào trang viết của Lão Tạ. Viết văn mà vừa viết vừa bình thì còn chỗ đâu cho nhà phê bình nữa? Đối với người đọc cũng thế, vừa viết vừa bình khác nào nấu món ăn đem lên, ngon dở đều ở mồm người ta, sao lại có thể lấy cái ngon trong mồm mình, nhét sang mồm thực khách được? Ví dụ đoạn văn sau đây trong Lão Khổ: “Cứ thế tuổi thơ của thằng bé quằn quại trong khát vọng và tuyệt vọng” là nhận xét của nhà phê bình, hay là cảm nhận của người đọc, chứ đâu phải của tác giả? Nếu là của tác giả, thì hóa ra ông kiêm cả việc của thầy giáo dạy văn hay sao? Nếu là người biên tập cuốn này, tôi sẽ cương quyết cắt bỏ đoạn dở thầy dở thợ ấy. Oái oăm thay, Tạ Duy Anh lại là nhà biên tập trứ danh, một “mụ đỡ” mát tay cho rất nhiều tác phẩm văn học đương đại. Ý thức của Tạ Duy Anh còn thò vào những chỗ nào nữa? Thò vào những chỗ kết. Ý thức bao giờ cũng rất mạnh, như sóng biển dào dạt, dữ dội ở phía trên, khiến vô thức cứ bị đè xuống dưới sâu mãi, sâu mãi… Đây là lý do khiến nhiều tác phẩm của Lão Tạ có cái kết rất… dở dang, suýt thì trở thành những tác phẩm… đầu voi đuôi chuột. “Bước qua lời nguyền” cũng thế, “Lão Khổ” cũng thế mà sau này, cả “Mối Chúa” cũng thế… Đặc biệt, trong tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật”, Tạ Duy Anh phải dùng đến bốn chuyện cổ tích có chủ đề lừa đảo để thay cho phần “giảng văn” của mình.

Giờ nói đến cuốn sách xuất sắc này: “Đi tìm nhân vật





“Đi tìm nhân vật” là một cuốn sách khó đọc. Khó đọc không phải vì nó cao siêu mà vì nó khó nhằn. Khó nhằn không phải vì nó không ngon, mà vì nó khó nuốt. Khó nuốt không phải vì nó khô khan, mà vì nó khó có thể khiến cho bất kì người nào cũng có thể thích. Ngay trang đầu tiên, Lão Tạ đã dẫn câu của thánh Paul: “Nỗi sợ giống như cái gai đâm sâu vào da thịt ta”, và viết ra cuốn sách này để tưởng nhớ 2 bậc thầy là Dostoiepxki và Nam Cao. Với Nam Cao thì tôi hoàn toàn yên tâm, vì cái “tạng” văn chương của ông hợp với những kẻ ngu như tôi lắm. Nhưng với Dostoiepxki thì tôi phải cảnh giác, và khuyên người khác cũng nên cảnh giác như tôi. Đọc tác phẩm của Dos, nhẹ thì cũng bị tâm thần, nặng thì tẩu hỏa nhập ma. Ngoài ra, nếu không cảm thấy thần kinh mình có vấn đề, thì cũng có cảm giác mình là một tên ăn cắp, hoặc vừa phạm phải một tội ác nào đó… rất kinh. Đến nỗi có người vừa buông cuốn “Tội ác và hình phạt” của Dos xuống, ra phố mua thức ăn, nom thấy bóng công an, cứ tưởng tới bắt mình, vội cuống cuồng bỏ chạy, luồn qua mấy con ngõ, vẫn thấy bóng công an đuổi theo, cuối cùng… quên cả lối về.

Cuốn sách mỏng, chưa đầy 300 trang, “Đi tìm nhân vật” của Lão Tạ là loại văn cũng chứa đầy chất tẩu hỏa nhập ma như Dos, đồng thời lại có chất hiện thực kì ảo, chập chờn và trêu ngươi của Kapka, có du đãng nửa mùa của Nam Cao, có đĩ bợm thập thành của Vũ Trọng Phụng... Món văn chương trộn Dos với Kapka, thêm tí Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… vào làm gia vị, thì tất nhiên phải ngon tuyệt hảo, nhưng khó đọc, khó nhằn, khó nuốt… là đúng rồi còn gì. Lão Tạ quả là một tay đầu bếp lão luyện, băm nhát nào ra nhát nấy, một mình múa bút như múa dao, kể chuyện như không hề có chuyện… Một người học ở trường viết văn Nguyễn Du ra, nếu không biết lối học ngược, mà cứ răm rắp xuôi theo những bài giảng ở nhà trường, thì làm sao có thể viết nổi cuốn sách này?


Hs Thành Chương vẽ TDA


Không địa chỉ, không thời gian, không cả cốt truyện… Cứ như thế, bữa tiệc “Đi tìm nhân vật” được từ từ dọn ra khiến người đọc sốt ruột. Bình về cuốn sách này, khó có thể kể lại nội dung, bởi… làm gì có cốt truyện mà kể. Có những chi tiết đặc sắc, rùng rợn, ngay ở đầu sách, kì công viết ra rồi… bỏ đấy, như chi tiết nhai thịt con chim bồ câu và “cắm phập” vào cô gái dở người. Chi tiết ấy té ra chỉ dùng để chuẩn bị tâm lý cho nhân vật, cho cả người đọc rồi biến mất, một đi không trở lại. Còn nhiều chỗ như thế, đặc sắc đấy, nhưng chỉ dùng một lần, đến nỗi chả cần phải đặt tên nhân vật, chỉ gọi bằng cái danh phiếm chỉ, như cô chủ quán, thằng bé bán thuốc rong… Cũng bởi Tạ Duy Anh có tính lười đặt tên nhân vật, loại văn chương tâm thần này phải viết như gió cuốn, chỉ dừng lại nghĩ một cái tên, cũng đủ làm cảm hứng bị chững lại, như gió gặp phải bờ tường... Ngay cả nhân vật chính xưng “tôi”, cũng phải mãi tới một phần ba cuốn sách, thì cái tên “Chu Quý” mới xuất hiện. Chu Quý xuất hiện và sống cho đến con chữ cuối cùng của cuốn sách, còn các nhân vật khác hầu hết đều chết cả. Nếu “Lão Khổ” loay hoay tìm cho mình một kiểu chết, thì ở đây thống kê những cái chết. Toàn những cái chết như… không. Chưa thấy ai tả chết như Tạ Duy Anh, cho nhân vật của mình chết mà chả tốn đến một dòng, chỉ vài chữ là xong, trừ duy nhất cái chết bằng cách hóa thân của nhân vật nữ có tên Thảo Miên. Đây là chỗ “thăng” của ngòi bút Lão Tạ, y như một kiểu “thăng”, để kết thúc một cuộc… lên đồng.

Nếu chứng kiến một cuộc hầu đồng cũng cần phải cảnh giác, bởi không khéo “đồng” nó sẽ nhập vào mình, thì đọc “Đi tìm nhân vật” cũng tương tự như vậy. Nhưng tôi đã có cách “hóa giải”. Cách ấy nằm trong chính giọng của Tạ Duy Anh, một lối văn giễu nhại và trào lộng không lẫn đi đâu được. Đọc “Đi tìm nhân vật”, dù biết chắc chắn là Lão Tạ bịa, thì vẫn cứ bị lừa, không khéo còn bị ma nhập, nhất là những đoạn có mùi, những pha “lên đỉnh” và rên rỉ… Nhưng nếu biết Lão Tạ viết ra, chỉ cốt để “giễu nhại” cuộc đời này mà thôi thì sẽ không hề gì. Từ đầu đến cuối cuốn sách, tình huống gay cấn nhất thì cũng chỉ diễn ra trong phòng một mụ Tú Bà, hấp dẫn nhất thì cũng chỉ những chi tiết về cái chết bí ẩn của ông bố… Nhưng vẫn luôn có những chỗ bất ngờ. Đó là sự biến hóa. Từ một thằng “Tôi” đi tìm hiểu về cái chết bí ẩn của một thằng bé đánh giày, thoắt biến thành một kẻ bí ẩn, đã gây ra bao nhiêu chuyện, từ lừa đảo, ăn cắp, đến… thủ phạm đã đâm chết chính thằng bé đánh giày nào đó. Cuối cùng chính cái thằng “Tôi” ấy, viết bài báo nổi tiếng về cái thằng “Tôi”, loay hoay tìm hiểu cái thằng “Tôi” ấy là ai… Giễu nhại, trào lộng và hoạt ngôn đến thế là cùng.

Truyện “Lão Khổ” của Tạ Duy Anh còn vắt giữa hai thời kì trong, đục (thực ra đều đục cả, chỉ đục khác kiểu mà thôi). Riêng “Đi tìm nhân vật” thì đã chuyển hẳn, không còn nằm trong một thời kì văn học hầu hết chỉ gồm ba món Phong, Nhã, Tụng, mà Nguyễn Minh Châu gọi là “văn học minh họa”. “Đi tìm nhân vật” không có ba món ấy. Vậy nó chứa món nào? Phong, Nhã, Tụng là một bệnh dịch thống trị văn học, hủy hoại văn học, bẻ cong tư duy và triệt tiêu sáng tạo… nó có tính lây lan nên gọi là “Dịch tả truyện”. Nó tự coi mình là “hình nhi thượng”, tự vẽ ra bản chất rồi ca tụng bản chất… bất cần vô vàn những “hiện tượng” tâm thần của nhân quần diễn biến như thế nào. Hiện tượng tâm thần là “hình nhi hạ”, là những cái tồn tại mà không nom thấy nếu đui, không nghe thấy nếu điếc, không ngửi thấy nếu bị tịt mũi… Giống như ma nhưng không phải là ma. Nếu "Hình nhi thượng" là chuyện trên trời, thì “Hình nhi hạ” là chuyện dưới đất. “Hình nhi hạ” hoàn toàn xa lạ với Phong, Nhã, Tụng. Dưới đất là hiện tượng, hiện tượng cũng là bản thể, nó không lây lan nhưng có tính truyền thừa, có truyền thừa nên gọi là “thổ tả”. “Đi tìm nhân vật” thuộc về “thổ tả truyện”. Lão Tạ là truyền thừa của những Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… vậy.

Viết đến đây, mới chợt nhớ có lần, một “nhất độc bách tác” của thiên hạ là Ngô Quốc Kỳ bảo tôi: “Lão Tạ có gai đấy, đó là một cây xương rồng. Chỗ khắc nghiệt, khô cằn thường mọc lên những giống có gai. Xương rồng không cần tán, chả cần sum suê, chỉ cần một cái thân chứa đầy nhựa sống, thì phải biến cành lá thành… gai, để giữ gìn cái thân ấy vậy. Muốn tìm hiểu điều đó, ông hãy đọc “Đi tìm nhân vật” của gã”. Ồ, tại sao tôi lại không nhớ ra nhỉ? Kỳ Ngô giả là “nhất độc bách tác”, đã nói thế hẳn phải có lý do… Hình hài của Tạ Duy Anh hiện lên trong tôi, như một cây xương rồng biết đi, giống cả hình thức lẫn nội dung, ngũ chi như những cái gai đã đành, cả giọng nói, điệu cười… cũng đều nhọn hoắt cả, chỉ duy nhất có một chỗ nhẵn bóng, đó là cái “quả” trán như một vạt đồi, trơn đến nỗi ruồi đậu vào cũng bị trượt chân.

Nhớ tới điều này khiến tôi có thể giải thích, rằng tại sao “Đi tìm nhân vật” của Lão Tạ là khó đọc, bởi vì “Đi tìm nhân vật” không viết theo lối diễn nghĩa, thì cũng không thể đọc theo kiểu diễn nghĩa được, phải đọc theo lối “tự chứng” thôi. Thế nào là đọc kiểu “tự chứng”? Trước tiên phải chọn tư thế cái đã. Hạng mọt sách thường hay nằm đọc, chứ không mấy khi ngồi, ngồi đọc nghiêm ngắn là tư thế đọc của các cụ hủ nho ngày trước. Nằm đọc, nhưng không được nằm ngửa. Nằm ngửa là tư thế của tử thi, dễ bị ma quỷ nó nhầm mình cũng… là tử thi, thì nó sẽ lân la, rủ rê mình theo nó lúc nào không biết. Cho nên phải nằm nghiêng. Đây là tư thế nằm đọc của các bậc thánh nhân. Ngày trước, Khổng tử cũng cho phép các học trò được nằm để đọc sách, nhưng phải nằm nghiêng, cấm không được nằm ngửa là vì lo lũ học trò sẽ biến thành một đống tử thi, chứ Khổng không biết rằng ngay cả chư Phật cũng nằm nghiêng khi nhập Niết Bàn. Nhập Niết Bàn là nhập Pháp giới, là nhập vào trí tuệ vô thượng… Nằm nghiêng thì nhập vào trí tuệ vô thượng còn được nữa, huống hồ chỉ nằm đọc sách mà thôi đâu, cho dù nó có khó đến đâu. Bắt đầu nằm nghiêng về bên phải, chán thì lại lật bên trái… cứ lật đi lật lại như thế, thì lật thân cũng như lật sách, phần “tự chứng” trong đầu thế nào nó cũng xổ ra, sẽ có kết quả.

Xong tư thế rồi đến phần “tự chứng”. Thế nào là “tự chứng”? Đọc diễn nghĩa để trả lời câu hỏi: “nó viết cái gì nhỉ?”. Thì đọc “tự chứng” để trả lời câu hỏi: “cái gì nó viết nhỉ?” tức là phải đi tìm "thằng" viết. Tìm “cái viết” là tìm ở bên ngoài, tìm “thằng viết” mới là tìm ở bên trong, xoay ngược cái đọc (cũng tức là cái nghe) vào bên trong, ấy gọi là “phản văn văn tự tính” vậy. Khi đó, thằng viết ra những thứ ấy té ra không phải Lão Tạ… nữa, mà cũng chính là Ta… Tự tính của cái Ta lúc nào cũng chứa đủ công đức, của mọi kiếp nhân sinh… thì một chứ đến mười Lão Tạ, hay Dos, hay Kapka… kia cũng không thể bịa thay cho ta được. Giống như đọc tranh, người đọc tranh để trả lời câu hỏi: “nó vẽ cái gì nhỉ?”, tức là đi tìm cái vẽ, thì sẽ rất thích tranh kiểu thời Phục Hưng… Nhưng với câu hỏi: “cái gì nó vẽ nhỉ?” thì mới là đi tìm thằng vẽ… đó là lý do khiến nhiều người thích tranh trừu tượng…

Kỳ Ngô giả còn bảo tôi, thứ văn như kiểu “Đi tìm nhân vật” bây giờ ít người có thể viết ra được lắm. Thế nghĩa là “cõi viết” lơ thơ, cũng bởi vì “cõi đọc” lác đác. Viết và Đọc là hai cõi, đắp đổi cho nhau mà làm “nhân”, làm “quả” vậy. Kẻ viết có căn tính, thì kẻ đọc cũng có căn tính. Căn tính của mỗi người là vô cùng sai biệt, đại khái có cả thảy năm cấp, tính từ thấp lên cao, ở đây chỉ nói tới hai cấp dưới cùng, là tạng căn và thủy căn. Chúng ta ngồi trong sinh diệt, thì ai cũng có tạng căn, như đã được “lập trình” sẵn, từ thủy căn mà lập nên. Tạng căn chỉ được lập ở kiếp này, trong khi thủy căn thì có từ vô thủy. Oái oăm thay, tạng căn có cái “lý” riêng của nó, quyết không giống với cái “lý” của thủy căn. Vì thế đọc bằng tạng căn thì chỉ thấy có sinh diệt, phải đọc bằng thủy căn thì mới thấy sinh tức vô sinh… Nghĩa là đọc bằng tạng căn là đọc diễn nghĩa, đọc bằng thủy căn là đọc tự chứng vậy. Đọc thì như thế mà Viết cũng tương tự.


TDA & Thành Chương


“Đi tìm nhân vật” viết về những cái (sẽ) Có, mà đều từ cái (vốn) Không sinh ra cả. Câu chuyện về thằng bé đánh giày bị giết, ở khu phố G. mở đầu cuốn sách, nếu cứ tưởng hứa hẹn sẽ là một cuốn truyện hình sự, vụ án, trinh thám… thì sẽ thất vọng. Bởi vì những điều đó hoàn toàn không phải chủ đề, càng không phải tư tưởng của cuốn sách, bởi với những chủ đề ăn khách đó, thì chỉ có thể lập tứ, mà khó có thể lập ngôn… nói gì đến tư tưởng. Trong tác phẩm “Lâu Đài”, Kapka cũng mở đầu bằng một sự “hứa hẹn” tương tự. Như một sự “khởi tâm động niệm”, và từ đó, hiện lên trùng trùng những ki ốt, siêu thị, nhà hàng, nhà thổ… và những con người (không cần danh), “mà cuộc sống… ở phố G. nhộn nhịp từ sớm tinh mơ cho tới tận đêm khuya”. Từ đó “Đi tìm nhân vật” bày ra vô số chi tiết, hay có, dở có, mùi mẫn có, nhạt có, rất có lý cũng có, vô lý đùng đùng… cũng có. Tất cả chỉ là “mồi”, để “dử” người đọc bước vào một thế giới khác, một cái “kiến” khác, ngay ở đây, bên cạnh ta chứ chả phải đi đâu. Ngay ở đây, thế tại sao hàng ngày ta bàng quan làm vậy? Bởi vì tạng căn của con người ta vốn vậy. Nó chỉ hướng ta tới những chỗ “có lý”, không bao giờ cho ta tiếp xúc với những cái “vô lý”. Cho nên Kapka đã bắt Gregor Samsa, một nhân viên bán hàng, trong một sáng thức dậy, bỗng thấy mình biến thành con côn trùng khổng lồ. Từ đó phải tập làm quen với cái “kiến” của côn trùng… Lão Tạ không nghiệt ngã như Kapka, không biến ai thành côn trùng, song thực ra cũng chả khác gì côn trùng, từ những gã vô danh, cô chủ quán, người đàn ông “chẳng làm gì cả” bên trong chiếc cổng sắt… đến ông Bân, tiến sĩ N… Và cuối cùng, chính nhân vật xưng “Tôi”, có cái tên “Chu Quý” ấy cũng liên tục biến hình, từ người kể chuyện biến thành nhân vật trong chuyện, để những nhân vật trong chuyện tha hồ thêu dệt nên “một gã điên điên nào đó…”, cứ gọi là vô hồi kì trận, thật giả tít mù… Viết như thế mà bảo hấp dẫn cũng đúng, mà bảo chán phèo cũng đúng. Chỉ có điều nếu đọc bằng căn tính diễn nghĩa, mà tâm thần không bị loạn xà ngầu thì mới là chuyện lạ.

Nói Lão Tạ là “truyền thừa” của các tiền bối “hiện thực phê phán” thì không sai, song cũng có phần thiệt thòi cho lão. Bởi vì lão đã khảng khái chịu tiếng là “truyền thừa”, để thực hiện một sứ mệnh lớn hơn, đó là giải thiêng. Gã đã nhận ra rằng các tiền bối “hiện thực phê phán” thực ra rất ngây thơ, cứ tưởng mình ra sức phê phán đời trước, thì đời sau sẽ tốt lên? Nhầm to. Đời sau chỉ lợi dụng tác phẩm của các vị để tuyên truyền, chứ không phải để tránh lặp lại những điều tệ hại ấy. Càng đời sau tệ hại càng dày đặc, đàng hoàng hơn và… khủng khiếp hơn. Nếu các vị tiền bối vì ngây thơ nên nhắm đến hiện thực để phê phán, thì Lão Tạ không mắc cái lỗi rất chân đất mắt toét ấy. Lão Tạ cũng nhắm đến hiện thực đấy, nhìn qua cứ tưởng để phê phán, song thực ra không phải. Lão Tạ dùng hiện thực để giải thiêng. Nghĩa là văn học “Bước qua lời nguyền” là “hiện thực giải thiêng” vậy. Giải thiêng như thế nào? Đọc xong “Lão Khổ”, gấp cuốn sách lại, chỉ muốn lạy giời, giá như đừng xảy ra những chuyện “vang dội”, động trời… như thế, cũng như đọc xong A Q của Lỗ Tấn, thì lạy giời, giá như đừng xảy ra cách mạng Tân Hợi… Giải thiêng là như thế. Còn như thế nào nữa? Thay thằng Khùng này bằng thằng Khùng khác, thiếu một thằng Khùng thì không được (truyện “Thi tuyển Khùng”). Như thế nào nữa? Công phu mài dao, mài độc một con dao, ngày này qua ngày khác, không cần biết xung quanh động tĩnh như thế nào, cuối cùng chỉ để… chém ruồi (truyện “Chém ruồi”)… Nom cái hình hài xương rồng của Lão Tạ, rõ thật là:

Giời thu cái mã bề ngoài

Thì đem bù lại cái tài bên trong

Văn thì lấy đấu mà đong

Võ thì ruồi nhặng cũng không là gì

Xương rồng gai góc, nom xấu xí là thế, nhưng vẫn có thể làm cảnh. Một đụn xương rồng đặt trên bàn, gọi là cây cảnh cũng được mà gọi là tĩnh vật cũng được. Xương rồng là ranh giới giữa động và tĩnh vậy. Ranh giới này vô cùng mong manh, cách nhau chỉ “nửa đường tơ”, nhưng “đất trời liền ngăn cách” (Tam Tổ Tăng Xán). Lão Tạ biết mình sinh ra không phải để “kế tục” nhập nhằng, mà là “tương tục”. Tương tục khác với kế tục. Trong một chuỗi tương tục, thì cái trước chỉ làm “nhân” cho cái sau. Cái trước diệt, cái sau mới sinh. Cho nên Lão Tạ một khi đã giải thiêng những sự kiên cố cố đỉn (truyện “Ngôi nhà của cha tôi”), giải thiêng những tư tưởng, huyền thoại… thì nhân tiện, giải thiêng luôn cả các vị tiền bối của mình. Vũ khí “hiện thực phê phán” của các ngài tưởng sắc bén là thế, được lợi dụng rầm rĩ là thế, cứ tưởng là “thay trời hành đạo”… đấy. Thế mà cuối cùng, thành quả chỉ là những… xác ruồi, chém ngang lưng, chém rất chính xác (kiểu "chém treo ngành" của Nguyễn Tuân). Cả Lỗ Tấn cũng thế, mà cả cách mạng Tân Hợi cũng thế.



Văn học giải thiêng, nếu có, thì cũng có tục giải và thắng giải. Còn một thứ hạ đẳng, dưới nữa là tối giải, nhưng không nói ở đây, sợ đụng chạm. Những giận, thương, giải sầu, chia vui hay thỏa chí tang bồng… đều là tục giải cả. Tục giải là văn của phàm phu, tức là của tạng căn, từ tạng căn mà làm ra, tạng của người nào có văn của người nấy... Hiện thực phê phán hay hiện thực lãng mạn… đều như thế cả. Chỉ có giải thiêng mới chạm đến thắng giải mà thôi, bởi vì giải thiêng phải từ thủy căn mà làm ra, văn của thủy căn, là một người có thể nói hộ cho nhiều người vậy.

Nhưng cũng cần lưu ý, rằng “hiện thực giải thiêng” của Lão Tạ không giống với văn giải thiêng của một số người khác, ví dụ văn Nguyễn Huy Thiệp. Văn Nguyễn Huy Thiệp thực ra chỉ là nói ngược, chưa phải giải thiêng. Ví dụ nhóm Mở Miệng… thực ra là đem cái tục, đè lên cái thiêng, cũng chưa phải giải thiêng… Lão Tạ tuy giải thiêng rất nhiều đấy, nhưng không phải tất cả, chỉ giải thiêng những cái cần phải như thế mà thôi. Cái thực sự khởi ra từ thủy căn của con người, thì không thể giải thiêng, bởi vì chính nó mới hóa giải những mối hận truyền thừa của những kiếp làm người. Truyện ngắn “Luyện thành cao thủ”, một truyện ngắn mát lạnh, như một ngọn gió lành, giữa trưa hè ngột ngạt là một thông điệp nói về điều này.

Tất cả đều tương đối, là vì có tuyệt đối. Nếu không có tuyệt đối, thì cũng không có tương đối và ngược lại. Những học giả phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của cái tuyệt đối là tự phủ nhận mình. Mà chả cứ học giả, ngay cả Phật cũng thế. Phật nếu chỉ nói vô Ngã, tức là phủ nhận hoàn toàn cái Có, thì cũng là Phật tự phủ nhận mình. Cho nên sở dĩ có Phật, là vì có chúng sinh. Cuối cùng Phật vẫn chỉ ra rằng có Ngã, chứ không phải vô Ngã, nhưng là một cái Ngã khác, không phải cái Ngã mà chúng sinh hằng nghĩ. Ai đó nếu cứ loay hoay đối chiếu với cái thực, thì sẽ rất khó tiếp cận với “Đi tìm nhân vật”. Tạ Duy Anh viết những hiện thực như “Đi tìm nhân vật”… là để giải thiêng, nhưng không xóa bỏ hoàn toàn cái thiêng. Bởi vì vẫn có cái thiêng. Truyện ngắn “Luyện thành cao thủ” là một trong những trường hợp như thế.

Có thể nói với “Đi tìm nhân vật”, Lão Tạ đã ở hẳn phía bên kia của “lời nguyền”. Trong khi nhiều người mới thò được một chân sang, loay hoay một hồi rồi lại rút chân về, chả biết phải làm gì tiếp theo, ngoài việc tiếp tục cái truyền thống Phong, Nhã, Tụng của văn học minh họa. Ở bên kia lời nguyền, mà nhìn về bên này, thì sự thật mới nhiệm màu và sáng tỏ làm sao. Y như cụ Ức Trai ngày trước đã viết:

“Núi cao núi thấp mây biết

Cây cứng, cây mềm, gió hay”.

Ở bên ấy Lão Tạ nhìn thấy gì? Nhìn thấy “Đất mồ côi”. Nếu “Tội ác và hình phạt” của Dostoiepxki là câu chuyện của một nhà, thì “Đất Mồ Côi” cũng viết về một nhà, chủ yếu là một nhà, xoay quanh một nhà, trải tới 4 đời. Nếu trong lúc đọc “Tội ác và hình phạt” mà ra đường có cảm giác sợ cảnh sát. Thì đọc “Đất Mồ Côi” còn choáng hơn thế nữa, choáng đến mức tối tăm mặt mũi, kinh đến nỗi không dám động đến miếng thịt, thậm chí đập quả trứng cũng phải run tay…

Nhưng Dostoiepxki viết về một nhà trong một thời, còn Tạ Duy Anh thì viết một thời trong một nhà. Nếu Dostoiepxki viết như tâm thần, thì Tạ Duy Anh viết như ma quỷ, viết một cách bất chấp luân thường, khiến đọc xong, nhìn làng quê nào cũng mang dấu vết của tội ác, của loạn luân, loạn tặc và… loạn xà ngầu...

Viết “Đất Mồ Côi” phải có trái tim cứng như thép, cái đầu lạnh như băng, có lập trường ghê tởm và khinh bỉ cái ác chắc như kim cương. “Đất Mồ Côi” viết cho hả dạ, tả một lần chưa hả, còn tả bổ sung, còn nhắc đi nhắc lại... đến nỗi làm lộn xộn cả bố cục. Ám ảnh hơn tất cả những gì mà Dostoepxki đã viết trong "Tội ác và hình phạt", trong "Đầu xanh tuổi trẻ"... rùng rợn hơn Kapka trong “Hóa Thân”... nghẹt thở hơn G. Macket trong “Trăm năm cô đơn”...

Ngay cả yếu tố sex khá đậm đặc trong cuốn sách, cũng chỉ là “phương tiện” mà thôi, Tạ Duy Anh sở dĩ tả chi tiết, tả trần trụi… là để cho bõ ghét, bõ khinh, bõ ghê tởm… Chứ không phải để hấp dẫn độc giả.

Một xác chết chìm dưới đáy ao, tất phải nổi váng lên. Nếu chỉ tả mỗi lớp váng, tức là chỉ nhìn thấy “quả”, chưa động gì đến “nhân”, nghĩa là chưa chạm tới cái xác ở dưới đáy ao. Trong “Đất Mồ Côi”, Tạ Duy Anh đã tả chính cái xác thối rữa ấy.

Nhà lí luận phê bình Văn Giá đã nói rất đúng khi ông bảo “Đất Mồ Côi” phải gọi là “Đất Chết”, là “sự mô tả đầy rẫy những cái chết”… Đúng vậy. Nhưng tại sao phải chết như thế? Thì ông không nói. Ông nói là “hiện thân của bạo lực”… Cũng đúng thế. Nhưng bạo lực gì? Ông cũng không nói ra. Tóm lại Văn Giá đã phát hiện ra một cuộc lột truồng. Nhưng lột truồng ai?...

Nữ trùm shipper sách trứ danh Sao Mai nhận định “Đất mồ côi” là “bom nguyên tử”. Lúc đầu tôi nghĩ cô nàng cứ “hoắng” lên thế. Đến khi đọc, thì tôi công nhận cô ả nói đúng. Nhưng cô cũng không nói quả bom ấy dội vào đâu? “Đất mồ côi” không những giải thiêng, mà còn giải độc vậy.

Trên mạng từng có một bài viết công phu, tổng quan và đầy chất lý luận, học thuật về “Đất mồ côi” tính cho đến thời điểm này, đó là của học giả Quách Hạo Nhiên, đăng trên Viet-studies. Ngay từ đầu, ngài Quách đã có một nhận định rất kì vọng về tư tưởng của “Đất mồ côi” là “Tham Vọng Lý Giải Căn Tính Dân Tộc”. Nhưng liền sau đó, ngài nói toạc ra sự thất vọng của mình: “Hay Là Sự Ôm Đồm Và Lạm Dụng Kỹ Thuật Tiểu Thuyết Của Tạ Duy Anh”.

Hs Hải Kiên vé


Tôi không đồng tình lắm với cả sự kì vọng lẫn thất vọng nói trên của ngài Quách, đặc biệt là sự thất vọng. Nói Tạ Duy Anh “ôm đồm” thì có thể được, song nói Tạ Duy Anh “Lạm dụng kĩ thuật tiểu thuyết” thì không đúng. “Đất mồ côi” là một tiểu thuyết không dùng kĩ thuật tiểu thuyết. Huống hồ lại còn nói “Lạm dụng” hả ngài Quách? Nếu Lão Tạ dùng kĩ thuật tiểu thuyết, thì đã không bị nhà văn Văn Chinh chê là “không có ngôn ngữ nhân vật”. Quả như vậy, chỉ cần đọc đoạn đối thoại giữa kẻ sắp giết người là chú Tỉnh, và kẻ sắp bị giết là lão Đỗ (tr. 284-tr. 289), sẽ thấy ngôn ngữ của 2 đối thủ này là… giống hệt nhau, bởi vì nó là ngôn ngữ của… Tạ Duy Anh. Hay đọc những bức thư, nhật kí của nhân vật… toàn thị là ngôn ngữ văn chương của Tạ Duy Anh. Ngay cả những giáo huấn, chỉ thị… của các ông Đội cải cách… thì cũng đều là văn của Tạ Duy Anh cả. Đây mới chính là sự độc đáo của Lão Tạ khi đặt bút viết “Đất mồ côi”. Tại sao nói độc đáo? Bởi vì Lão Tạ không viết bằng ý thức, như hầu hết các nhà tiểu thuyết khác, mà viết bằng vô thức, hoặc có lúc, viết bằng tiềm thức. Ý thức tạo ra sự sai biệt, bởi vì ý thức chỉ nhìn thấy hiện tượng. Vô thức… rất ít khi tạo ra sai biệt, bởi vì vô thức nhìn sâu đến bản chất. Không cứ người viết, mà ngay cả người đọc cũng vậy. Đọc bằng ý thức sẽ đòi hỏi phải có sự sai biệt, phải có ngôn ngữ nhân vật… song đọc bằng vô thức thì không cần để ý đến chuyện đó.

Lại nữa, nếu Tạ Duy Anh “Lạm dụng kĩ thuật tiểu thuyết” như ngài Quách nói, thì bố cục của cuốn sách đã không có vẻ lộn xộn như vậy. Không lồng ghép vào mạch truyện cho nó cuốn hút, nín thở… lại đi kể “hành trình ra đời” của từng nhân vật chính, thế thì đâu phải là “kĩ thuật tiểu thuyết”, thưa Quách tiên sinh?

Tại sao lại xảy ra cái bố cục “phi tiểu thuyết” như vậy? Bất kì ai đã “Chứng” được giai đoạn lịch sử khủng khiếp ấy, tất sẽ có lối nghĩ và viết như vậy. Giống như một người bị mất trộm, ra cổng chửi mắng kẻ trộm một hồi, quay vào nhà làm việc khác, lúc sau nghĩ thêm điều gì, lại quay ra chửi tiếp… cứ thế, cứ thế…

“Đất mồ côi” cho ta thấy những cái Ác kinh khủng, không cái nào giống với cái nào, đầy rẫy trong từng dòng, từng trang… Nhưng hoàn toàn không phải Tạ Duy Anh muốn qua đó để lý giải “Căn tính dân tộc”. Tạ Duy Anh mô tả cái Ác, để nhằm tới một cái khác. Đó là cái Si. Nếu người đọc chỉ quan tâm tới những đoạn mô tả những hành động bắt, trói, xử bắn, bổ sọ… thì chỉ thấy cái Ác, mà lướt qua phần dẫn chuyện, lướt qua những suy nghĩ của nhân vật (những chỗ này cố nhiên là của TDA rồi), và lướt qua những “giáo huấn” (thực ra cũng của TDA), những khẩu hiệu… thì sẽ không thấy cái Si. Đây mới chính là “Căn tính dân tộc” mà Tạ Duy Anh muốn lý giải, thông qua cái Ác. Cái Ác dẫu thế nào thì cũng chỉ là hiện tượng, không bao giờ là bản thể. Chính cái Si mới là bản thể, cũng tức là Căn tính… bởi vì từ Si sẽ sinh ra Tham, ra Ác, ra loạn luân, ra quái đản… cái Ác có thể bùng phát một vài thời kì, rồi tắt lịm… song cái Si thì vẫn còn đó. Cho nên cái Si mới ghê gớm. Chính cái Si mới kéo những tai họa của dân tộc từ thời đó, dài… không biết đến bao giờ. “Đất mồ côi” chính là muốn cảnh báo điều đó đấy. Thế nghĩa là Tạ Duy Anh (nếu quả có) tham vọng lý giải “Căn tính dân tộc”, thì là thành công đấy chứ?

Nghĩa là “Đất mồ côi” đọc đi chỉ thấy Ác, đọc lại mới thấy Si. Nghĩa là “Đất mồ côi” có thể xem là Trại súc vật viết ngược. Trại súc vật đọc vật ra người, “Đất mồ côi” đọc người ra vật. Đều nói về Si cả.

Nếu các cụ “hiện thực phê phán” đã ra người thiên cổ cả, thì “Bước qua lời nguyền” của nhà văn họ Tạ đã khai sinh ra “hiện thực giải thiêng”. Đến “Đi tìm nhân vật”, thì “hiện thực giải thiêng” đã khẳng định mình. Cho đến “Đất mồ côi” thì “hiện thực giải thiêng” đã bước lên đến đỉnh cao, tức là giải độc vậy.


Phạm Lưu Vũ
















Ns Phó Đức Phương & Phạm Lưu Vũ






Nt Nguyễn Quang Thiều & Phạm Lưu Vũ






Phạm Lưu Vũ & Nv Phạm Xuân Nguyên








Nguyễn Xuân Diên & Phạm Lưu Vũ



















Trở về











MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.