Thứ Hai, 16 tháng 5, 2016

Trần Doãn Nho















Trần Doãn Nho
Tên thật: Trần Hữu Thục
Bút hiệu khác: Thế Quân
Sinh năm 1945, Huế

Nhà văn, nhà thơ, nhà giáo
















Ngẫu nhiên chữ
tình cờ dấu
đắm đuối thời gian

tháng 8/2015

Trần Doãn Nho - Trần Hữu Thục













Tiểu sử

Trần Doãn Nho là bút hiệu thường dùng khi sáng tác (thơ, văn, ký, tùy bút) hay tạp bút; Trần Hữu Thục là tên thật, thường dùng khi viết biên khảo hay phê bình văn học; thỉnh thoảng sử dụng một bút hiệu khác là Thế Quân khi viết tin văn.

Học ở Huế và Sài Gòn. Tốt nghiệp đại học, ngành Triết.

Trước 1975, viết văn viết báo, đi lính, dạy học. Cộng tác với các tạp chí văn học Văn, Vấn Đề, Khởi Hành, Bách Khoa, Tân Văn, Đối Diện.

Sau tháng 4/1975, ở tù cho đến năm 1981. Năm 1993, định cư tại Hoa Kỳ.

Hiện cùng gia đình sinh sống tại Worcester, bang Massachusetts, làm việc cho Sở Giáo Dục Thành Phố.

Bắt đầu viết lại và cộng tác với nhiều tạp chí văn học và website hải ngoại như Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Việt, Thế Kỷ 21, Phố Văn, Gió Văn, Talawas, Gió O








Chiều 29 tháng 4 trên đường Công Lý

thành phố thất thần
bóng tối đến sớm
mây thấp và cửa đóng, đường run
năm giờ chiều, chiếc đồng hồ bứt rứt
tôi đi trong bóng của mình

dinh Ðộc Lập úa
như phế tích âm thầm
góc đường Hồng Thập Tự – Công Lý
toán lính nhảy dù ngồi ăn cơm
lá rơi trên tấm poncho
lá rơi trên ga-men
lá rơi thảng thốt
chiếc áo trận nhòe
ngậm ngùi lịch sử

lá rơi, rơi
mải miết như đùa
như trò chơi
như mơ như thực
cuộc phế hưng bủn rủn phận người.

lính nhảy dù, người ngồi kẻ đứng
súng nghiêng
nhắm vào thành phố vô hồn
những góc đường bối rối
dấu chân chìm

đêm xuống nhanh
cho một ngày mai khác

ngày mai mặt trời vẫn sẽ lên
thành phố khép chặt
lạnh
và quên.

Trần Doãn Nho









Tác phẩm đã xuất bản:







1
Vết xước đầu đời
tập truyện ngắn, Thanh Văn 1995








2
Căn phòng thao thức
tập truyện ngắn, Thanh Văn 1997









3
Viết và Đọc
tiểu luận văn học, 1999










4
Loanh quanh những nẻo đường
 ký và tùy bút, Văn Mới 2000










5
Dặm trường
 truyện dài, 2001










6
Tác giả tác phẩm và sự kiện
 
 tiểu luận văn học, Văn Mới, 2005














7
Từ ảo đến thực
tạp bút, 2006









8
Ẩn dụ, cuộc phiêu lưu của chữ
Khảo luận, 2015





ẨN DỤ LÀ GÌ ?

Sau khi đã công bố 10 chương sách trên DA MÀU (damau.org), nhà văn-học giả TRẦN HỮU THỤC (bút hiệu TRẦN DOÃN NHO) đã giao việc ấn hành cho nhà xuất bản Người Việt. Vào hè 2015 này quyển khảo luận ẨN DỤ, cuộc phiêu lưu của chữ chính thức ra mắt độc giả bốn phương. Bức tranh bìa đậm chất ý niệm trừu tượng của họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi cùng Lời Tựa do nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc cũng góp phần không ít cho phẩm chất chung của tác phẩm này.

Là chỗ thân tình, có lúc là hàng xóm gần nhau, tôi tham gia từ đầu vào quá trình biên khảo khi được tác giả gửi những chương còn trong dạng bản thảo nhờ đọc rồi góp ý . Trong nhiều buổi cà phê hè phố hoăc nhậu nhẹt party, chúng tôi đã có những dịp đàm đạo văn chương hoặc tranh luận học thuật sinh động quanh Ẩn Dụ – chủ đề muôn thuở của triết học về ngôn ngữ cũng như thi pháp học Đông-Tây. Tôi cũng từng đề nghị với nhà văn lột xác hóa học giả này dăm ba ý kiến về thuật ngữ và dịch thuật.

Sau cùng, tác giả ngỏ ý nhờ tôi viết đôi giòng giới thiệu cho cuốn sách sắp in xong. Thế là tôi lại được hân hạnh tiếp tay điểm tô cho đứa con tinh thần của ông bạn. Và tôi xin chấm dứt lời giới thiệu ngắn này bằng bài viết ấy, hôm nay được in lại trên bìa sau tác phẩm:
Từ tư duy đến diễn đạt, con người cần ngôn ngữ làm trung gian. Ngôn ngữ đồng thời là cây cầu chữ nghĩa nối chúng ta vào thế giới. Xuyên qua cầu đôi khi rực chói một hiện tượng lạ – một năng lượng sáng tạo đặc biệt biến cây cầu thành mống trời lấp lánh các sắc màu của thi ca, văn chương, tín ngưỡng… ẨN DỤ là tên của phép mầu ấy và là đề tài học thuật của cuốn sách do nhà văn-học giả Trần Hữu Thục biên soạn.

Từ Aristotle qua Fontanier, Richards, Black, Ricoeur… cho đến Lakoff và Johnson, tác giả đã tra lại nhiều chương về triết học cùng tu từ pháp phương Tây để soi sáng các bí mật xoay quanh ẩn dụ và dụ pháp, vừa chứng minh rằng ẩn dụ không chỉ là các thao tác ngữ nghĩa mà còn là một phương thức tự nhiên gắn liền với hoạt động tư duy và nhận thức. Ưu điểm đáng kể của khảo luận này là nỗ lực tổng hợp những phát kiến của triết học ngôn ngữ cùng khoa học về tri giác (cognitive science) của thế kỷ 20 chung quanh vấn đề ẩn dụ.

Đây là một công trình công phu, với nghệ thuật hành văn sáng tỏ, mạch lạc, rất hữu ích cho các môn Văn, Triết đang cần thêm các chuyên khảo lý thuyết về ngữ nghĩa học và dụ pháp học (tropology) nói chung.

Cambridge, vào hè 2015













9
Cõi Chữ Cõi Người 1 & 2
































Thơ Trần Doãn Nho





Cuồng ngâm

Có một lần ta nhìn sao rụng xuống
Ta ngỡ ngàng nghe thân thể vỡ tan
Ta cúi xuống và không tìm ra ta nữa
Không có ta không có ta cả đến nghìn năm

Ôi lịch sử, ta đã là lịch sử

lịch sử trên tay ta lịch sử trên tóc ta
nghìn năm sau và một nghìn năm trước
có ta rồi và cũng chẳng có ta

cho ta làm tất cả những người đã chết

cho ta làm bóng tối cho ta làm cây xanh
cho ta chết để không bao giờ chết nữa
chỉ có ta một mình chỉ có ta một mình

cho đập vỡ muôn ngàn ngôi cổ mộ

đập vỡ đền đài đập vỡ cả trời mây
để ta nghe một mình con dế mèn ca hát
một mình con chim đập cánh tung bay

có một lần nhìn trời sao ta khóc

ta thẩn thờ đi tìm một khoảng không gian
một khoảng không gian không buồn không tủi
không đau thương không giận không hờn

cho ta đừng bao giờ còn bộ óc

đừng giận đừng vui đừng khóc đừng cười
cho ta ngủ yên dù ở một nơi nào trên mặt đất
ta ru cây cỏ ta ru loài người

đừng nhắc ta về một dòng sông sầu thảm

đừng nhắc ta một lần lập quốc một thuở xâm lăng
đừng nhắc ta một lần thua một lần chiến thăng
gì là nhục nhã gì là oai hùng!

lịch sử ơi lịch sử buồn như bóng tối

nào có gì để bớt có gì để thêm
lịch sử ơi ta đã là lịch sử
lịch sử buồn ôi lịch sử không tim.


(VĂN, 1967)








Ai…

trước mặt rừng kiệt lá
sau lưng phố tạnh người
trời xa mây quánh đặc
đờ đẫn vạt chiều phai

con tim hồng bạt gió
tạt tới chỗ ta ngồi
ngẩn ngơ cành thu muộn
rụng một ngọn chơi vơi

bỏ tim vào trong túi
ta bay hết quãng trời
chạm đến vùng  không tưởng
ấm lạnh phiến tình côi

gió xoáy vào u tịch
nắng rơi động cõi ngoài
ta níu từng hư tự
tặng dữ cuộc chia phôi

ta ngược ta quá vãng
tìm lại chút tinh khôi
xôn xao cơn huyễn mộng
vỗ xuống những ngày vui

sau lưng rừng đã lá
trước mặt phố đã người
vọng âm từ khoảng vắng
ai…….?

 (11/06)










Thơ tình mùa hạ

Em bất ngờ như một món quà
Hồn nhiên nằm ngủ trong thùng thư
Của lạ mỏng tanh em/đồ cổ
Chạm vào lỡ bể một cơn mơ!

Mở em, anh nghe mình chợt ngọt
Trong veo, ngày tháng nở thênh thang
Anh mất tăm trên bờ hư ảo
Thơm tho em chín ửng trời hồng

Bỗng nhiên anh thấy mình …vào hạ
Nắng chói chang soi khắp vỉa hồn
Anh hóa thân anh thành rất mới
Dọn mình ướt đẫm cuộc thanh xuân

Đầu mùa, anh loay hoay xới, xáo
Trồng em vào một khóm hoa tơ
Giữa mùa, em nở tròn một đóa
Ngắt đi, nghe xước vết đau mơ.

Giữ nhau, đời đâm ra bận bịu
Treo nỗi niềm giữa những có/không
Cuối mùa, anh ngồi thiền, nặn chữ
Khóa kín em trong một truyện tình

 (6/2011)








bilal hadfi & paris

hắn nhảy phóc qua bờ thiên đàng
bằng một tiếng nổ
gài sẵn
hắn nhìn ngoái lui
rất khoái
kìa, bờ bên kia
thịt
máu
nở rộ
như pháo bông
tung tóe

địa ngục
chẳng qua là
phía khác của thiên đường

bằng tiếng nổ
hắn có cả hai
cùng một lúc

baby-faced bilal hadfi (*)
ai chế tạo
chiếc mặt nạ thật hoàn hảo
như thế này?


Trần Doãn Nho
11/2015



(*) Paris attacks: First picture of baby-faced suicide bomber Bilal Hadfi who blew himself up at footballstadium
(http://www.mirror.co.uk/news/
world-news/paris-attacks-first-picture-baby-6839522)
















Góc nhạc





Một chút Việt Nam

ca khúc Trần Doãn Nho – Nguyễn Trọng Khôi phối âm, Nguyễn Ngọc Phong trình bày





















Truyện ngắn Trần Doãn Nho


vết xước đầu đời



Qua khỏi đoạn đường đất rợp bóng tre, là con đường rải nhựa. Đứng ở ngã ba, chú Tâm chỉ về phía xa, nơi con đường như một gạch thẳng chạy suốt qua các đồng lúa hai bên:

- Đường này về đâu, cháu?
Lan đáp:
-    Về chợ Bao Vinh.
-    Thế à? Chú chưa hề biết con đường này.
Lan ngước mắt nhìn lên:
-    Chú sinh trưởng ở đây mà.
-   Ờ, nhưng chú ở phố. Ngay ở phố, nhiều con đường chú cũng chưa hề đi bao giờ.
- Cháu cũng tệ lắm. Chỉ biết đường đến trường, đường về chợ và vài đường đi về nhà o, nhà dì. Cháu hiếm khi đi đâu xa.
- Cháu có xe đạp mà?
- Dạ, nhưng mẹ cháu không cho đi nhiều.
Giọng Lan có vẻ buồn. Chú Tâm hơi nghiêng đầu, cúi xuống nhìn Lan. Lan quay đi, nhìn phía xa. Chú Tâm hỏi:
- Chú cháu mình đi uống cà phê nhé.
Lan lắc đầu:
- Không, cháu không biết uống cà phê.
- Thì cháu uống nước, còn chú uống cà phê vậy.
- Nhưng…nhưng mẹ cháu không chịu đâu. Mẹ cháu nói con gái đừng có đi vào quán nước. Như thế là không đứng đắn.
- Ừ. Thì thôi. Chú cháu mình đi dạo vậy.
Hai người đi qua đoạn đường hẹp, đầy ổ gà. Hai bên đường không có ruộng lúa như phần đường bên kia ngã ba. Chỉ có những ao, hồ, cỏ dại và những loại cây chẳng ai biết đến. Xế chiều, nắng vàng rực. Khói lam. Màu hoàng hôn thấp thoáng. Lan bước đi bên chú Tâm, ngập ngừng, lấn cấn. Lan đi bộ trên con đường này nhiều lần, nhưng không hề đi dạo như thế này. Lại chẳng bao giờ đi với một người đàn ông. Chú Tâm cao, Lan thấp. Giọng chú ngọt và ấm. Cách nói của chú cũng khác thường, đôi khi hơi lạ và khó hiểu. Đàn ông hiếm khi tốt lắm, mẹ nhiều lần bảo Lan thế. Phải luôn luôn dè chừng với đàn ông. Chú Tâm đàn ông, nhưng là bạn của mẹ. Vậy thì hề gì, Lan nghĩ.
- Cháu nghĩ gì thế? Giọng chú Tâm nghe dịu dàng.
- Không, không có gì cả. Cháu không biết nghĩ.
Chú Tâm cười:
- Muời sáu, mười bảy tuổi mà không biết nghĩ. Vậy là biết mơ.
- Không, mơ cũng không.
- Không mơ thì cháu sống bằng gì nào?
- Cơm, cá và mẹ.
Chú Tâm cười ha hả, bàn tay chợt bóp nhẹ vai Lan. Lan né người tránh, hơi khó chịu. Chú Tâm nói:
- Cháu làm như cháu mới có ba, bốn tuổi không bằng.
Lan nhìn lên:
- Vậy thì phải sống bằng gì bây giờ?
- Ước mơ. Tuổi của cháu là tuổi ước mơ. Thiếu ước mơ, cuộc đời vô nghĩa lắm. Tuổi chú là tuổi mọi giấc mơ đều tan tành, nhưng chú vẫn mơ.
Lan bâng khuâng:
- Ừ, hình như cháu cũng có ước mơ, nhưng không rõ ước mơ gì. Còn chú, chú mơ gì mà tan tành dữ vậy?
- Nhiều, nhiều lắm. Có lẽ vì tuổi trẻ của chú rộng đường hơn tuổi trẻ của cháu. Thời của chú vui hơn.
- Nhưng tại sao lại tan tành?
- Thì vui thời kỳ đầu lúc còn trẻ, nhưng sau đó thì chiến tranh, loạn lạc, thay ngôi đổi chủ, tù đày, chia ly…
- Chú cũng là “ngụy” chứ gì?
- Ờ, thì đương nhiên là “ngụy” rồi. Thì cháu cũng “ngụy” mà!
Lan cười:
- Cháu là con bác Hồ. Hồi nhỏ cháu vẫn hát “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ” mà chẳng bao giờ gặp cả.
Chú Tâm cười theo:
- Cháu nên nhớ, mơ thì khác với ước mơ nhé. Cháu nằm mơ thấy bác Hồ, còn ngày xưa chú mơ trở thành bác Hồ.
- Làm bác Hồ thì có gì vui mà chú mơ?
- Mơ thành bác Hồ cũng như mơ thành vua vậy thôi.
Lan lại cười:
- Hèn gì mà đời chú chẳng tan tành. Mẹ cháu dặn đừng có mơ mộng bậy bạ. Mơ nhiều, khổ nhiều. Mẹ khổ vì hồi xưa mẹ hay mơ.
Chú Tâm chợt dừng lại, nhìn Lan. Chú đưa bàn tay ra như muốn nắm tay Lan. Nhưng rồi chú rút tay lại. Chú nói:
- Mẹ cháu hơi khắc khe đấy nhé. Mơ nhiều thì khổ, nhưng khổ nhiều không phải vì mơ đâu. Mà lại, làm sao cấm cháu mơ được. Chú biết cháu có mơ đấy, mơ nhiều, nhiều hơn chú và mẹ hồi xưa nữa. Càng khó, càng mơ, càng cấm càng mơ.
Lan im lặng ngẫm nghĩ rồi nói:
- Ừ, để cháu nhớ thử xem.
Hai người đã đi hết đoạn đường từ ngã ba đến bến xe. Chú Tâm hỏi:
- Chú cháu mình qua cầu rồi rẽ lên phố chơi.
- Đi bộ lên phố à?
- Thế cháu muốn đi xe lam?
- Không, mình trở lại đi chú. Mẹ cháu không thích như thế đâu.
- Đi chơi với chú thì có sao đâu mà sợ mẹ.
- Không được. Chú là đàn ông.
Chú Tâm cười:
- Đàn ông thì đã sao. Chú là chú mà. Chú là bạn của mẹ, chứ có phải là bạn của cháu đâu.
Lan quay bước
- Trở lại đi chú.
- Ơ, kỳ thật cái cô bé này!
Nói thế nhưng chú Tâm cũng quay lại. Chú định cầm tay Lan, nhưng Lan tránh. Bàn tay chú chạm nhẹ trên cánh tay cô. Cô rùng mình.
Nắng tắt. Cả vùng ngoại ô lặng xuống. Cây cối như kết vào nhau thành từng chòm, rải rác. Hai người im lặng bước đi. Lan cố đi chậm lại đàng sau. Tự nhiên, cô cảm thấy bối rối. Chú Tâm bước, dáng cao lớn, chênh vênh như muốn ngã về phía trước. Lan có cảm giác như cả một khoảng trời chao đảo theo bước chân chú. Chú, đàn ông trông vững, lớn và đáng tin cậy. Khác với mẹ. Mẹ bao dung, chu đáo, nhưng có cái gì không ổn. Bao giờ mẹ cũng thu vén, tém tủm, tránh trút. Mẹ ngăn, mẹ chặn. Trước và sau. Mẹ sợ mọi thứ. Mẹ đúng, dĩ nhiên. Nhưng Lan buồn.
Chú Tâm dừng lại, dịu dàng:
- Cháu không muốn đi nữa hay cháu sợ mẹ?
- Không, cháu không thích đi xa.
Chú Tâm chép miệng:
- Vậy thì chúng ta về.
Lan dừng lại. Đột nhiên cô chưa muốn về.
- Trời nóng quá, Lan than.
Chú Tâm đề nghị:
- Hay chú cháu mình đi dọc theo cánh đồng bên kia nhé. Cảnh hoàng hôn trên đồng ruộng đẹp quá. Còn sớm mà. Giờ này mẹ đi dạy về chưa?
- Rồi. Giờ này mẹ đang nấu cơm.
Hai người lại bước tiếp về phía cánh đồng. Lúa, gió và mùi thơm. Chú Tâm nói:
- Hôm trước, khi tìm về nhà cháu, chú đi lạc tận đoạn đường này.
- Chú xa Huế bao lâu rồi mà trông bộ quên hết thế.
Chú Tâm bước chậm lại chờ Lan.
- Xa lâu lắm. Hơn nửa cuộc đời chú. Thôi học, lang thang ở Sài Gòn, đi lính, lấy vợ tận Vĩnh Long, rồi ở tù.
Lan cười:
- Một nửa cuộc đời mà sao nghe chú nói gọn gàng thế. Nghe như mấy lần chú kể chuyện đi uống cà phê.
- Cuộc đời nào rồi thì cũng gọn thế thôi. Chỉ có những suy nghĩ của mình là rắc rối. Chú nghiệm, cái gì chưa tới thì tuế toái, phiền phức, còn cái gì qua rồi thì bao giờ cũng lớp lang, thứ tự y như có ai đó đã sắp xếp trước cho mình vậy.
Lan không hiểu lắm, nhưng cố lắng nghe. Lan hỏi:
-  Ý chú muốn nói cái số…
-  Ừ, cái số…không hẳn thế, ý chú muốn nói khác một chút. Cuộc sống nó đơn giản…
-  Mẹ cháu hay nói cái số. Với lại, lúc nào mẹ cháu cũng nói “nếu mà”, “nếu mà”…Nếu mà hồi đó, mẹ đừng làm cái này hoặc mẹ làm cái kia chẳng hạn, thì bây giờ thế này thế nọ. Riết, cứ thấy mẹ quanh quẩn với cái hồi đó. Hồi đó, có chú, có ba…
-  Cái “hồi đó” nào cũng giống nhau thôi. Hồi đó, mẹ cháu cũng như cháu, muời bảy mười tám, mơ mộng, yêu đời và yêu chú.
-  Cháu biết, mẹ cháu thương chú nhất. Mẹ viết trong nhật ký. Nhưng chú không yêu mẹ, chú bỏ đi. Mẹ nói chú bạc tình.
Lan có cảm giác như chú Tâm thở dài. Chú nói:
- Cứ xem như thế đi. Hoặc chú hoặc mẹ cháu, có một kẻ bạc tình.
- Bạc tình. Cái chữ nghe thấy sợ. Theo cháu, chú lấy vợ, mẹ lấy chồng, thế là xong, đâu có chuyện gì nữa.
- Cháu nói như trong cải lương, chú Tâm cười.
Chú Tâm thọc hai tay vào túi quần. Lan vòng tay trước mặt, đi ngang hàng. Tự dưng, cô thấy chú Tâm gần gũi hơn một chút. Và cảm thấy thú. Đi dạo bên cạnh một người đàn ông, Lan có nhiều cảm giác hơn đi với mẹ hay với các bạn gái. Một đôi khi, trên đường đi học về, có vài ba đứa con trai rà xe theo hỏi han lẩm cẩm, Lan thấy sợ, nhưng cũng thích. Không có ai theo, cũng trông. Nhưng nghĩ đến cái chuyện có một người yêu hay một người bạn trai, cô sợ. Cô không hình dung nỗi cái loại quan hệ ghê gớm đó.
Chú Tâm đi sát bên Lan. Lan hỏi:
-  Vợ con chú đâu?
-  Bỏ chú hết, từ khi chú còn ở trong trại cải tạo.
Lan kêu lên:
-  Đến thế lận à!
-  Ừ, đang ở tù mà được ra tòa hai lần để ly dị.
-  Vợ chú đòi ly dị à?
-  Chả lẽ chú đòi? Chú đang ở trong tù mà!
-  Vợ chú thương ai khác sao?
-  Ừ, tay tài xế lái xe cũ của chú.
-  Trời, ghê gớm thế!
-  Cũng không ghê gớm lắm đâu. Mọi chuyện đều có lớp lang cả.
-  Chú có buồn không?
-  Quen rồi cháu à. Buồn không nuôi mình sống được.
Lan thở dài:
- Thế mà mẹ cháu lại sống bằng nỗi buồn, mới lạ. Đôi khi cháu tưởng là nếu không buồn, mẹ cháu không sống được.
Giọng chú Tâm bỗng nghe xa vắng:
- Cũng nên thông cảm cho mẹ cháu. Không phải mẹ cháu sống bằng nỗi buồn đâu, mà bằng kỷ niệm đấy.
- Chẳng hề thấy có bóng ba cháu trong kỷ niệm của mẹ. Nên cháu biết về ba cháu rất lờ mờ. Hình như ông bị máy bay cán chết.
- Ba cháu bị cánh quạt máy bay trực thăng, à quên, máy bay lên thẳng, đụng phải khi đi hành quân.
- Khiếp thật! Lan la lên.
Lan cảm thấy lành lạnh. Gió bây giờ lồng lộng. Cô đi sát thêm vào chú Tâm. Chú Tâm chợt ôm vai cô. Cô để yên.
- Gió quá chú ơi.
- Cháu lạnh à? Tội nghiệp cháu, mất ba sớm.
- Không phải đâu. Tuy không có ba nhưng mẹ cháu lo cho cháu đầy đủ lắm. Mẹ đi dạy, mẹ đi buôn, mẹ làm vườn. Có điều…
- Sao?
- Mẹ khó…
Chú Tâm an ủi:
- Không phải mẹ cháu khó đâu. Mẹ cháu thương cháu đấy.
- Mẹ thương, nhưng mẹ không hiểu cháu.
- Mẹ cháu hiểu cháu, chú biết mà.
Lan đẩy nhẹ chú Tâm ra.
- Không. Mẹ chỉ biết có mẹ thôi.
Lan cắn môi. Cô muốn khóc. Trời sẫm. Đường vắng. Cô bỗng muốn ngã vào lòng chú Tâm. Nhưng cô giật mình, nhẹ gỡ bàn tay thô nhám của chú Tâm vừa đặt lên bàn tay nhỏ nhắn của cô. Mùi áo quần từ nơi chú Tâm tỏa ra khiến cô ngây ngấy. Cái mùi lạ hoắc! Thơm không thơm, hôi không hôi, lại nồng nồng. Cô bồn chồn, lạc dạ, quay mặt đi chỗ khác.
Chú Tâm nhìn cô, ôn tồn:
- Chú có con, chú biết. Cha mẹ bao giờ cũng muốn cho con mình luôn luôn sống hạnh phúc.
Giọng Lan nghe tỉnh khô:
- Cháu không hạnh phúc.
- Mà cháu muốn gì nào?
- Ước mơ, như chú nói.
- Có ai cấm cháu ước mơ.
- Có. Mẹ cháu.
- Cháu nói không đúng đâu.
- Đúng. Ước mơ là ở trong đầu mình. Mình thích thì ước mơ, mẹ cháu làm sao cấm.
Lan ngẩng mặt lên:
- Chẳng lẽ cứ ước mơ rồi để luôn trong đầu ngày này qua tháng khác hay sao!
- Vậy cháu muốn mơ thành thực hay sao? Sự thực buồn lắm cháu.
- Buồn cũng được. Đau cũng được. Cứ nghe người ta nói cuộc đời này nọ, đỏ đỏ xanh xanh vàng vàng mà rồi y như chuyện cổ tích, kể xong rồi hết. Cháu không ham làm công chúa, cháu chỉ muốn có cái gì mà cắn một miếng, nhai một miếng. Còn không thì cầm trong tay một chút thử xem sao.
Chú Tâm dừng lại, nhìn chăm Lan.
- Cháu muốn cắn, muốn nhai cái gì. Chú không hiểu.
Giọng Lan tỉnh queo:
- Cắn chú chẳng hạn.
Chú Tâm cười:
- Đâu có khó gì. Đây, cháu có thích thì cắn đi.
Chú Tâm đưa cánh tay ra. Trong một cử chỉ đột ngột, Lan không ngần ngại gì, ôm cánh tay chú Tâm, cắn một miếng. Chú Tâm kêu “ái” một tiếng, rút tay lại. Lan buông ra, giọng lắp bắp:
- Cháu…cháu…xin lỗi chú. Cháu định thử…thử nhẹ thôi.
Chú Tâm im lặng, nhìn Lan lạ lẫm. Lan nhìn vào mắt chú:
- Chú tha lỗi cho cháu.
Chú Tâm không nói gì. Bóng hoàng hôn làm khuôn mặt chú sẫm lại. Lan không rõ là chú có giận hay không. Một lát, chú nói, giọng như nhỏ hơn bình thường:
-  Trời tối rồi, thôi ta về, cháu.
Lan lẵng lặng đi, người bần thần. Cô kéo cổ áo lại, che ngực. Thấy chú Tâm yên lặng bước, cô hỏi:
- Chú giận cháu đấy à?
- Không đâu.
- Chú không giận, nhưng trông bộ chú chẳng hiểu cháu tí nào, phải không?
Chú Tâm có vẻ lúng túng:
- Ờ, chú không hiểu. Mà chắc có hiểu, nhưng …để chú suy nghĩ đã.
Lan thấp giọng:
- Mà…cháu cũng chẳng hiểu cháu nữa.
Chú Tâm bước nhanh hơn. Lan hỏi:
- Chú đói bụng à?
- Không, nhưng về thôi cả mẹ cháu đợi.
Lan cười:
- Thế là đến phiên chú sợ mẹ cháu.
Chú Tâm im lặng bước. Bóng tốì nhòe nhòe trên dáng chú. Lan thay đổi đề tài:
- Từ ngày có chú về, mẹ cháu thay đổi hẳn.
Đang suy nghĩ gì đó, chợt nghe Lan nói thế, chú quay lại:
- Cháu nói…mẹ cháu sao?
-  Cháu nói mẹ cháu thay đổi hẳn khi có chú về. Hẳn mẹ cháu còn thương chú lắm. Như ngày xưa vậy.
Lan tránh không dùng chữ “yêu”. Chú Tâm nói:
- Chú cũng thấy thường thường vậy thôi. Cái gì cũng muộn màng cả rồi.
Lan nói tiếp ý nghĩ của mình:
- Mẹ cháu độ rày chịu khó ăn mặt hơn, tiêu tiền nhiều hơn. Thỉnh thoảng cháu còn nghe mẹ cháu hát nữa. Trước đây, cứ nhìn mẹ cháu là cháu thấy rầu. Khuôn mặt khi nào cũng như đưa đám, hiếm khi cười. 
-  Tội nghiệp mẹ cháu. Mẹ cháu đôn hậu quá, chân chính quá, nên khổ.
-  Mẹ cháu nói mẹ cháu khổ vì mơ mộng. Theo cháu, mẹ khổ vì mẹ thích khổ, thế thôi.
Chú Tâm cười:
- Ai lại thích khổ bao giờ.
- Thương chú, mẹ khổ. Lấy ba, mẹ khổ. Ba mất, mẹ cũng khổ. Có con, mẹ khổ. Con lớn, mẹ cũng khổ. Nhìn đâu mẹ cũng thấy khổ. Chẳng rõ, chú về đây, mẹ vui được bao nhiêu hôm rồi chưa chừng cũng lại thấy khổ. Mai kia mốt nọ, chú ra đi rồi, mẹ lại khổ thêm.
Chú Tâm nhìn chăm Lan:
- Mẹ cháu nói là cháu còn dại lắm. Dại như cháu còn bằng mười cái khôn.
Lan thở dài:
- Mẹ chỉ biết có mẹ thôi.
Ngưng một lát, cô tiếp:
- Gió chiều hôm lạnh quá, chú há! Chú đi về phía này che bớt gió cho cháu.
Hai người đi vào đoạn đường làng. Trời tối hẳn. Những khóm tre tù mù. Thỉnh thoảng Lan cố đi thật sát vào người chú Tâm, nhưng chú né người, tránh đụng vào cô. Leo lên con dốc đá trước khi vào đầu ngõ, Lan vấp khúc cây, té xuống. Cô vớ được cánh tay chú Tâm, vịn đứng lên, miệng xuýt xoa. Chú Tâm đỡ Lan dậy, cuống quít:
- Trời, có sao không cháu?
Lan không nói gì, bóp tay chú Tâm một cái rõ mạnh, rồi buông ra,giọng run run:
- Không sao chú. Trời tối, cháu không thấy đường. Mà lại, chú đi nhanh quá.


*



Khi hai người bước vào sân nhà, thì đã thấy mẹ Lan đứng ở đó, dáng vẻ bồn chồn. Lan không nhìn rõ khuôn mặt mẹ như thế nào, nhưng cô nghe giọng mẹ lạnh buốt:

- Các người sung sướng quá thể!
Mẹ quay ngoắt đi. Bóng mẹ nhập nhòa biến mất sau cánh cửa nhà bếp. Chú Tâm khựng lại, đứng bất động trong sân, hai tay vẫn đút túi quần. Lan bước vội vào nhà, tìm mẹ, nhưng không thấy mẹ đâu. Hỏi bà ngoại, bà ngoại không biết.
Bữa cơm dọn ra buồn tẻ. Bà ngoại mời:
- Cháu Tâm vào ăn cơm kẻo nguội.
Chú Tâm miễn cưỡng ngồi vào bàn ăn.
- Lan, mời mẹ ra ăn.
Lan vào giường, thấy mẹ về tự hồi nào, nằm yên lặng trên giường. Lan nói:
- Mẹ ra ăn cơm. Ngoại với chú Tâm đang đợi..
Mẹ nói, như một nhát dao cứa vào tay Lan, ứa máu:
- Không mắc mớ gì đến tôi mà mời. Các người cứ ăn đi.
Lan trở ra. Bàn ăn ba người lạnh lùng. Lan nhai cơm nghe đắng. Chú Tâm vân vê cọng rau muống luộc, không buồn chấm nước mắm. Bà ngoại thủng thẳng mút xương cá vụn. Ngọn đèn điện mờ, ánh sáng bị chận lại sau nhiều dãy cột đen bóng, không tỏa được khắp. Lan nhớ đến những bữa ăn chiều thường lệ trước khi chú Tâm đến. Cũng im lặng, nhưng không đến nỗi lạnh lẽo như thế này. Bây giờ, không có mẹ, nhưng bóng mẹ trùm lên cả bữa ăn. Món ăn nào cũng lạnh buốt như giọng mẹ.
Bà ngoại lên tiếng:
- Cháu với Lan đi chơi những nơi nào?
Chú Tâm đặt đôi đũa xuống:
- Dạ, cháu dẫn Lan đi dạo loanh quanh ngoài con đường ruộng. Ở nhà nóng quá.
Bà ngoại nói như giải thích giùm cho mẹ:
- Mẹ cháu không rõ chú cháu đi đâu mà lâu về, mẹ cháu sợ có chuyện gì không hay. Thường thì Lan chẳng bao giờ đi đâu khỏi nhà.
Thấy chú Tâm yên lặng, bà ngoại tiếp:
- Từ hồi chồng mất, con Ánh nhà tui đâm ra đổi tính đổi nết. Sống cô độc, ít bạn bè. Khác hẳn thời con gái. Có cháu về đây, nhà này đỡ lạnh, con Ánh tui trông bộ cũng vui ra.
Ngẫm nghĩ một lát, bà chép miệng:
- Nhà thiếu đàn ông, hiu quạnh lắm. Cháu xem, cột kèo mối mọt lung lay, nhện giăng đầy. Vậy đó, vì không có đàn ông.
Chú Tâm nhìn quanh:
- Nhà này xưa ghê, thưa bác?
- Ừ, xưa lắm, xây đâu từ thời ông cố. Mấy đời rồi.
Im lặng. Ai cũng mong ngóng mẹ, nhưng mẹ không ra. Bữa cơm chấm dứt, uể oải. Bà ngoại hỏi một câu lấy lệ:
- Cháu định về Huế luôn hay rồi lại đi?
- Dạ, mới ra khỏi tù chưa tính gì dứt khoát cả, bác ạ.
- Có định đi xa không? Ra nước ngoài chẳng hạn.
Chú Tâm cười:
- Cũng có nghĩ đến, nhưng không có tiền.
Chú Tâm uống nước xong rồi bỏ ra sân, khuôn mặt còn sững sờ vì thái độ của mẹ. Lan phụ bà ngoại dọn dẹp xong rồi trốn vào phòng, đầu óc rối bời. Cô đem sách vở ra cố ôn bài, nhưng chữ nghĩa trôi tuột đi đâu hết. Chán nản với ý nghĩ không đâu, cô thiu thiu ngủ trên bàn học. Chợt có tiếng động. Cô mở mắt, thấy mẹ nhìn, tia mắt long lanh. Tiếng mẹ rít qua kẽ răng:
- Ai cho phép con đi lăng nhăng với đàn ông ngoài đường?
Lan nhìn mẹ, sững sờ, không biết trả lời thế nào.
- Con không nói hả?
Mẹ bất ngờ tát một cái vào mặt Lan. Lan ôm mặt, không cảm thấy đau, đôi mắt nhìn mẹ không chớp. Chưa bao giờ cô thấy mẹ lạ lùng dường ấy. Mẹ dịu giọng:
- Mẹ hỏi lại, ai cho phép con đi với đàn ông?
Lan tấm tức:
- Con đi với chú Tâm chứ có đi với ai đâu.
- Chẳng lẽ chú Tâm không phải là đàn ông?
Lan cúi mặt ấp úng:
- Thì là…đàn ông, nhưng chú ấy là…là…bạn của mẹ.
Giọng mẹ trở nên chua chát:
-  Đời mẹ đã khổ vì đàn ông, con biết không. Đàn ông không có gì gì đáng tin hết. Họ luôn luôn phỉnh phờ, luờng gạt. Họ không hề biết yêu như đàn bà. Có họ mình cũng khổ, mất họ mình cũng khổ. Mẹ không muốn con gần đàn ông vì không muốn con khổ, con hiểu chưa?
- Chú Tâm cũng như ba con.
Mẹ trừng mắt:
- Ai bảo con thế! Ba con là ba con, chú Tâm là chú Tâm. Nội sự lầm lẫn như thế sẽ dẫn con đi xa, vô cùng nguy hiểm.
Lan im lặng. Cô không hiểu nổi mẹ cô muốn nói gì. Mẹ lại gằn giọng:
- Nhìn vào đây. Trả lời cho mẹ biết, chú Tâm nói với con những gì?
Lan lúng túng, vì sự thực cô không thể nhớ rõ là chú Tâm và cô đã nói những chuyện gì.
- Con không nhớ rõ. Đại khái là nói chuyện học hành, bạn bè…
- Có rủ con đi uống cà phê không?
- Dạ có, nhưng con không đi.
- Có khen tóc con đẹp, mắt con mơ mộng không?
- Dạ không.
- Có hát cho con nghe một bài tình ca nào không?
- Dạ không.
- Có cầm tay con không?
- Dạ không.
- Có hỏi con có người yêu chưa hay không?
- Dạ không.
Giọng mẹ hơi dịu xuống:
-  Thôi được, mẹ hỏi con cho vui thôi, chứ thực ra, mẹ cũng đoán được chú ấy và con nói những chuyện gì rồi. Dàn ông chỉ có chừng ấy chuyện để nói với đàn bà. Họ tán hươu, tán vượn, thêm mắm dặm muối. Họ nói láo hết. Đôi khi họ chẳng hiểu họ nói những gì. Thế mà đàn bà chúng ta vẫn tin, cứ tin. Mẹ nghiệm đời mẹ, mẹ biết. Cả ba con, cả chú Tâm và nhiều người nữa, không có điều gì họ nói với mẹ là thật cả. Láo, từ đầu đến cuối. Con phải nhớ như vậy. Đàn ông, nghĩa là nói láo, con hiểu chưa?
Lan nhìn mẹ:
- Nhưng…nhưng mẹ đem chú Tâm về nhà mà.
Mẹ trừng mắt:
- Ai nói với con mẹ đem chú Tâm về? Chính chú ấy năn nỉ, van vỉ mẹ. Chú ấy bị vợ con ruồng bỏ, cô đơn, chú ấy tìm mẹ. Mẹ thấy tội…
Lan xen vào:
- Mẹ yếu lòng…
Mẹ ngơ ngác:
- Ờ, ờ…phải rồi, mẹ yếu lòng, mẹ tin. Nhưng sao mẹ lại tin nhỉ? Anh ấy …à chú ấy đã bỏ mẹ đi, đã…chú ấy dối mẹ nhiều lần, nhưng biết đâu lần này…
Mẹ ngừng lại, yên lặng. Mẹ không nhìn vào cô. Đôi mắt mẹ bỗng mông lung vô định. Cô sờ một bên má. Cái tát đọng ở đó. Cô không cảm thấy đau, mà nghe rưng rưng. Lần đầu tiên kể từ ngày cô lớn, mẹ tỏ ra giận dữ dường ấy. Cô chẳng thấy giận mẹ, chỉ thấy khó hiểu. Xưa nay, mẹ vất vả, khó khăn, nhưng cái gì mẹ cũng chìu cô. Thế mà bây giờ khác hẳn. Cô có làm gì sai trái đâu! Nhưng khi chợt nhớ đến việc cô cắn vào cánh tay chú Tâm, cô rùng mình. Cô nhìn mẹ, ân hận.
Mẹ hỏi:
- Chú Tâm nói mẹ thế nào?
- Chú nói: Tội nghiệp mẹ, mẹ hiền hậu quá nên mẹ khổ.
Mẹ thở dài:
- Ừ, mẹ thiệt thà. Mẹ dại.
Chợt nhìn vào mặt cô, mẹ trở giọng nghiêm nghị:
- Mẹ dặn con: con đừng tin ở đàn ông, bất cứ là thứ đàn ông nào.
Nói xong, mẹ quay bước ra khỏi phòng. Lan bàng hoàng lắng nghe tiếng chân mẹ đâu đó trong phòng, tự hỏi không biết có phải mẹ đang đi tìm chú Tâm hay không. Cô úp mặt xuống giường, thiếp đi.



Cô thức giấc vào một lúc nào đó trong đêm. Cô vừa trải qua một giấc mơ chắp nối, khi thì thấy chú Tâm bỏ đi, khi thì thấy mẹ đuổi cô đi, khi thì thấy mẹ cô chết. Cô ngồi dậy, định bật đèn, thì bỗng nghe có tiếng thì thào trong đêm vắng. Cô sởn tóc gáy, nghĩ đến ma. Không, tiếng nói chuyện. Cô nén sợ hãi, rón rén bước ra khỏi phòng, đi về phía cửa trước, nhìn ra sân qua những chấn song. Trăng hạ tuần méo mó chiếu xuống vườn một thứ ánh sáng nhờ nhờ, trông quái dị. Không nhìn thấy người nhưng nhận rõ giọng mẹ chen lẫn giọng chú Tâm vẳng lại từ đâu đó sau khóm chìa tàu.

Giọng mẹ nghe như rít:
- Ai cho phép anh rủ rê con bé Lan đi chơi?
- Thì bé Lan, con em cũng như con anh.
- Em không tin anh đã như thế. Anh chứng nào tật đó, rủ rê, tán tỉnh, giọng lưỡi ngon ngọt…
- Trời, em nói anh rủ rê, tán tỉnh con em thế mà nghe được à?
- Sao không! Em biết rõ bụng dạ đàn ông các anh. Cứ nói, cứ khen, cứ hát, cứ hứa cho đã. Anh có biết đâu, đàn bà nhẹ dạ, không tưởng có, giả tưởng thật. Em đây này, chừng này tuổi, cay đắng mùi đời, mà vẫn còn nhẹ dạ, huống hồ con bé Lan.
- Gì mà nhẹ dạ với không nhẹ dạ, Ánh. Em lấy chồng, có con đàng hoàng. Có điều, cái số em chẳng may, anh ấy tử trận.
- Anh biết vì sao em lấy Tuân không. Em trả thù anh đấy, anh biết không. Anh lăng nhăng, bội bạc.
- Thì cứ cho như vậy đi. Nhưng bây giờ, em cũng như anh, nếm đủ mùi đời. Anh tìm về với em tang thương, rách nát…
- Bộ em lành lặn lắm sao!
- Đâu có, anh với em, hai phần đời người hoài phí.
Giọng mẹ cắt ngang, nóng nảy:
- Thôi được rồi. Bây giờ em hỏi đây. Anh có rủ con bé Lan đi uống cà phê không?
- Có, nhưng bé Lan không đi.
- Anh có khen tóc con bé Lan đẹp, mắt con bé Lan thơ mộng không?
- Ồ kià, mắc mớ gì anh lại đi khen mắt với tóc con em.
- Anh có cầm tay bé Lan không?
- Không đời nào.
- Anh có hát cho bé Lan nghe một bài tình ca không?
- Không.
- Anh có nói chuyện với bé Lan về tình yêu, về kỷ niệm hay một cái gì đại loại như thế không?
- Trời ơi, em làm gì mà như thẩm vấn anh vậy. Ý em muốn gì?
- Em không muốn gì hết. Em thương con em, em không muốn nó sa đà vào những chuyện hão huyền.
- Vậy là em ngờ vực anh muốn…
- Em không ngờ vực gì hết. Em không muốn con em khổ như mẹ nó. Anh đừng chối cãi, biện luận. Anh phải nghe em, phải hiểu em.
Im lặng. Sương khuya rớt nhẹ, mơ hồ. Khu vườn mờ ảo như trong truyện liêu trai. Lan bồn chồn theo dõi cuộc nói chuyện trong đêm. Chú Tâm lên tiếng:
- Ánh, em cư xử với anh như vậy là quá thể
Mẹ nức nở:
- Không có gì là quá thể. Em lo sợ…
Tiếng mẹ nhỏ dần. Lan cố lắng nghe, nhưng không nghe được gì nữa. Khóm chìa tàu là một khối đen im lìm. Lan có cảm tưởng như chẳng có gì, chẳng hề có ai đàng sau đó. Một chút gì tái tê, một chút gì đăng đắng, nghèn nghẹn của mùi vị cuộc đời lan vào trong cô. Chỉ là một vết xước. Vết xước đầu đời, nhẹ nhưng buốt. Cô chợt nhận ra một mẹ khác, một mẹ lạ hẳn, một mẹ cô chưa hề biết, chưa hề thấy. Và cô, cô cũng khác. Cô trở thành một người khác.
Lan định trở vào thì nghe giọng chú Tâm:
- Có lẽ anh phải đi.
Trái tim cô chợt đau nhói. Giọng mẹ hốt hoảng:
- Anh đi. Đi đâu? Sao lại đi?
Chú Tâm nói:
- Đi đâu thì cũng phải đi thôi. Rõ ràng là ở lại chỉ làm khổ thêm cho em. Lại khổ cho bé Lan nữa. bé Lan nói đúng, Ánh chỉ tự làm khổ cho mình.
Nghe tiếng mẹ thút thít. Lan quay vào, bần thần, tê dại. Có tiếng động nhẹ đâu đó ở bàn ăn. Cô giật mình, định thần nhìn thì thấy bà ngoại đang ngồi im lặng ở đó. Cô không hỏi han gì, lặng lẽ vào phòng nằm xuống. Tiếng thút thít của mẹ như tràn hẳn vào giấc ngủ đầy mộng mị của cô.


*



Vừa tỉnh giấc, mở mắt, Lan vội vã bước ra khỏi phòng, nhìn quanh nhà. Chiếc giường nhỏ kê cạnh cửa sổ, nơi chú Tâm ngủ không chăn, không chiếu. Không có cái mũ lớn treo đầu cửa. Không có mấy tờ báo nằm trên bàn. Không có đôi dép dưới kệ sách. Không có cái áo sơ mi vắt trên ghế. Không có cái “xắc” nhỏ ở góc nhà. Thiếu chúng, căn nhà như trống trơn. Thế là chú Tâm đã đi! Cô đứng lặng người một lát, như để cho cái cảm giác buồn loáng thoáng đâu đó thấm sâu hơn vào trong người. Cô đi xuống bếp, thấy bà ngoại ngồi một mình, nhìn vơ vẩn ra sân. Thấy cô, bà ngoại lên tiếng:

- Chú Tâm đi rồi, Lan.
Lan im lặng. Như sợ Lan chưa nghe, bà ngoại lại nói:
- Chú Tâm đi rồi.
- Dạ, còn mẹ cháu đâu?
- Chắc là tiễn chú Tâm đi.
- Sao ngoại không nói chú ấy ở lại chơi cho vui. Có chú, nhà vui hơn.
- Ờ, thì vui hơn. Nhưng quyền của hai người, ngoại không có ý kiến.
- Chú Tâm ở chơi được tháng chưa ngoại nhỉ?
- Cỡ đó. Ngoại không nhớ rõ.
Bà ngoại chỉ chỗ phơi quần áo ngoài vườn:
-  Còn cái áo chú Tâm phơi đó. Hai người đi rồi, ngoại mới nhớ ra có cái áo chưa giặt, ngoại đem ra giặt.
Ngừng một lát, ngoại chép miệng: 
- Biết chú ấy ở đâu mà đưa chừ!.
Nhìn cái áo, Lan chợt nhớ đến mùi đàn ông phảng phất đâu đây. Cô hỏi vu vơ:
- Không biết chú ấy có trở lại không nhỉ?
Bà ngoại cười buồn:
- Ai mà biết. Đàn ông rộng chân rộng cẳng hơn đàn bà.
- Ngoại có thích chú Tâm về lại không?
Ngoại dứng dậy, thở ra:
- Ngoại không rõ lắm. Mà nhà có đàn ông thì cũng vui.
Nhà có đàn ông thì cũng vui. Có lẽ thế, Lan nghĩ.


(1995)









Con mắt thủy tinh



Khi lật đến bản nhạc ” Tình khúc thứ nhất”, Trang bỗng đột ngột nhớ đến Quyền, cô nữ y tá ở Tổng-y-viện Cộng-hòa. Dáng cô bé nhỏ nhắn như quá lỏng lẻo đàng sau cái blouse rộng thùng thình. Trang gọi đùa cô bé là con mèo. Cô bé cười, mắt nhấp nháy nửa muốn cười nửa trông thật buồn. Những ngày cuối cùng ở Tổng-y-viện, Trang nhờ Quyền mua giùm bản nhạc và Quyền đã mua bản “Tình Khúc Thứ Nhất”. Trang đọc không rõ chữ phải nhờ Quyền đọc giùm. Quyền đọc nhưng không hát. Băng trên mặt được gỡ ra, trong ánh sáng mù mờ của căn phòng, Trang cũng loáng thoáng nhận ra dáng Quyền đi lui đi tới lẫn lộn với những cái blouse  trắng khoác ngoài hành lang.

Bây giờ chắc Quyền cũng vẫn vậy và quên Trang rồi như quên những người khác đến nằm ở đó rồi đi. Ngày rời Tổng-y-viện, Trang không thấy rõ là Quyền buồn hay vui. Ừ mà buồn hay vui ta cũng hết làm được gì. Trang nhướng người vói lấy cây guitare trên vách, ngồi xếp bàn, đàn phành phạch. Từ hôm bà má làm rơi xuống nhà, cây đàn nứt một đường, nên đổi tiếng. Thế mà cây đàn của Lộc ở Sài-gòn bể một lỗ lại có tiếng kêu hay hơn. Trang cười một mình, cao giọng hát ” tình yêu theo gió mây trôi…” Tiếng phành phạch rời rạc không đuổi kịp tiếng hát. Buổi sáng thật yên tĩnh. Tiếng máy nước chảy ở đằng đập nước vang ầm  ì, ầm ì. Sáng nào, Trang cũng ra bờ sông đàng sau nhà rửa mặt, nhìn lên phía đập không thấy rõ gì hết, nhưng Trang cảm thấy lòng thật nhẹ nhàng và bình thản. Những đám cỏ bên kia sông dã mọc lại xanh rờn, lẫn trong những cuộn thép gai. Sông không rộng, nhưng Trang không biết chắc là những tấm bảng vẽ hình đầu lâu với  hai khúc xương tréo nhau còn không. Chắc là còn, nhưng chúng lẫn trong đám cỏ, vì cái trụ sở xã bên kia sông bây giờ được đề phòng cẩn thận. Hồi Tết, toán quân trên núi về đã bơi qua sông để tấn công, những người chưa qua được thì ở bên này bắn rát để yểm trợ. Hồi mới trở về, Trang còn thấy những vết cháy đen ở hai bên bờ sông. Nhà Trang sập mất nửa phía sau. Từ đó đến giờ, vùng Trang ở thật yên. Trang thấy thảnh thơi như mình chưa hề có một thời gian dài cầm súng đi hành quân.

Ngoài đường, có tiếng lao xao của những người  đi chợ sáng về. Trang nhìn bóng nắng chiếu qua thềm nhà, nghĩ thầm chắc cũng còn sớm. Giờ này Hiền chưa bãi học. Trang loay hoay những ngón tay bấm “gam”  rê, rồi đàn xành xạch. Tiếng những nốt nhạc kêu khô khan dưới ngón tay bấm vụng về. Nhiều lúc, Trang ấm ức tức tại sao hồi trước Trang không học đàn. Bây giờ, muộn quá, lỡ ngày nào đây không thấy rõ “nốt” thì thật chán. Cái ngày đó… cái ngày đó… Trang phải làm gì đây. Nếu có vợ thì nó có còn thương hay buồn tình bỏ đi. Trang phải nhờ ai đi lãnh lương. Bà má lẩn thẩn của Trang làm sao vào tận Saigon lãnh thế. Phải chi chính phủ thương hàng tháng nhờ ai đó mang lại. Nghĩ như vậy, Trang thấy xốn  xang như có kim chích chích trong ruột. Đúng là Trang thừa thãi và vô dụng quá rồi. Phải chi Trang cứ nằm lì dưới hố bom đó.

Có bóng người đi vào. Trang nghiêng mặt nhìn, thấy bà má đi chợ về. Trang hỏi :

- Sáng này mạ mua đồ ăn chi vậy ?

- Thịt cá nhiều lắm, trưa nay tụi bây ăn đã đời.  Mà thằng Du chắc có đến không?

- Đến, thế nào nó cũng đến. Ở nhà không biết làm gì nó cũng buồn chớ, mạ!

Bà má đi xuống nhà bếp. Chiếc áo đà bà mặc bốn năm năm rồi trông cũ hẳn. Bà chỉ còn một mình Trang. Chị Trang lấy chồng ở tận trong Nam. Hồi bị thương nằm ở Tổng-y-viện, Trang gắng gượng viết thư về nói với bà Trang vẫn bình an. Lúc mới ở nhà thương ra, trở về, Trang nói  là Trang thành thương phế binh, bà có vẻ sửng sốt, nhìn khắp thân thể Trang rồi cười thật lớn  “Bậy nà, bậy nà, con làm mạ hết hồn.” Trang không biết nói sao, suốt một đêm không ngủ, sáng hôm sau, Trang mới can đảm nói thật. Bà run run rờ mó lên đôi mắt Trang rồi la lên “trời ơi, trời ơi.” Bả khóc ngất, miệng cứ lảm nhảm “trời  ơi, trời ơi”. Trang đau  ruột bỏ di ra bờ sông và thấy hoang mang vô kể.

Trang đứng dậy, ôm đàn ra phía cửa. Mấy đứa nhỏ trong xóm Trang tần ngần nhìn Trang đàn. Trang khoát tay :

- Vào đây chơi tụi bây.

Có tiếng thằng bé cười khúc khích rồi nói :

- Vô đi bây, vô trong coi nhạc sĩ mù đàn.

Nghe nói, Trang nhăn mặt hỏi thằng bé:

- Ai nói với mầy vậy hả ?

Thằng bé bỏ chạy ra ngoài, vừa nói lớn:

- Con Vân nói đó, con Vân nói đó.

Trang nhìn mấy đứa nhỏ, thấy con Vân đúng núp đàng sau mấy đứa khác. Trang gọi:

- Vân, lại anh hỏi đi.

Con Vân không chịu vào. Trang nói:

- Vân, có phải em nói không?

- Không, tui không nói. Thằng Khúc bịa ra rồi đổ hô cho tui đó.

Trang cười cười:

- Anh không nói gì đâu. Cứ vô đây chơi. Chị Hiền đã về chưa Vân?

Vân đáp :

- Chưa, trưa chị mới về.

Mấy đứa nhỏ đứng ngần ngừ giây lát rời kéo nhau bỏ đi. Tự dưng Trang mỉm cười. Thể nào ta cũng nhạc sĩ mù rồi. Nhưng nếu ta cứ đàn dở mãi như thế này thì làm sao mà kêu là nhạc sĩ. Liệu Hiền có thương mãi một nhạc sĩ mù không. Trang nhớ ra chưa bao giờ Trang can đảm nói với Hiền về tương lai của con mắt còn lại. Trang cứ sợ Hiền buồn, Hiền chán. Hiền còn nhỏ quá, mới mười tám tuổi. Trang vẫn nghĩ thế, nhưng không biết đàng sau cái khuôn mặt trông ngây thơ đó, Hiền đã thực sự có một cái gì người lớn chưa. Nếu Hiền người lớn rồi, biết đắn đo suy nghĩ,  biết chọn lựa, hẳn Hiền sẽ không muốn quen Trang nữa cũng nên. Trang cứ ngay ngáy lo một sự tuyệt vọng ở ngày mai, một sự tuyệt vọng Trang đã hình dung ra sẵn rồi, nhưng chắc không khỏi làm Trang bỡ ngỡ và đau đớn. Những lúc đầu, khi chợt có ý nghĩ không mấy sáng sủa đó, Trang hoảng hốt tột độ.Trang thấy hết hẳn rồi. Cuộc đời như đứt đoạn. Trang thấy thấm thía cái khuôn mặt tê tái của Phước và câu nói “xe phi-nỉ, xe phi-nỉ” khi Trang gặp hắn chống nạng đi lãnh lương. Nhưng dần dà, Trang bình tĩnh lại. Dù sao, Trang cũng thầy mình cần nuôi hy vọng ở một cái gì đó, không rõ rệt. Trang yên tâm,  mơ có ngày Trang sẽ đàn thật hay và hát thật hay. Ít ra, nếu được như vậy, thì Trang cũng có điều hãnh diện với Hiền – mà biết đâu, Hiền lại chẳng thế mà hãnh diện với bạn bè.

Mơ ước của Trang thật giản dị, giản dị như đám rau khoai héo úa buổi chiều, chỉ cần một đêm mát trời là sáng hôm sau ngó tươi rói, những cọng lá non đưa ngu ngơ ngu ngơ khi gió thổi qua. Có lúc Trang bỗng thấy mình yêu đời chi lạ, đến nỗi khi nghĩ đến sự thiếu hụt vô lý trên cơ thể mình, Trang cũng không có một chút xốn xang.

*

Trang cất đàn, bỏ đi ra ngoài sân. Ánh nắng chói lòa. Sự im lặng như bao trùm cả một vùng. Cái lay động bất chợt của cành lá như thể cũng để tôn kính sự im lặng đó. Nhiều buổi sáng, Trang không làm gì hết, cứ ôm gối, nhắm mắt nằm nghe cái im lặng như thấm dần mãi trong mọi sự vật. Thỉnh thoảng tiếng con chim sẻ kêu ngoài bờ tre, tiếng máy nước ì ầm, tiếng lá bàng rơi thoảng đâu đó trên mái nhà cũng hòa lẫn trong im lặng. Trang hơi rùng mình khi nhớ đến cái im lặng nặng nề, kỳ bí, bất trắc của những đêm dừng quân, cái im lặng làm người ta thấp thỏm, sợ sệt. Đôi lúc, Trang có cảm tưởng những ngày tháng như thế sao nó mơ hồ, xa xăm quá sức. Thêm vào đó là một vẻ gì vô lí. Trang thực không còn nhở rõ tại sao hồi đó, bên cạnh những cái chán chường, mệt nhọc, Trang lại cũng có những cái hứng thú, say sưa kỳ dị. Ừ, tại sao? Tại những tiếng nổ liên hồi, dồn dập hay tại những tiếng thét, tiếng hò hét lanh lảnh? Hay tại cái ấm ức tức tối khi thấy thằng bạn đồng đội vừa chạy đó, bỗng ngã lăn ra bất động. Hay thực sự là Trang có căm thù những khuôn mặt đó. Trang không nhớ rõ gì hết.
Trang nhìn ra đường, thấy có bóng người đi vào cửa ngõ. Tiếng lịch kịch của cái nạng gỗ làm Trang nhận ra Du. Trang bước tới vỗ vai Du:
- Bữa nay trông cậu xài cái này rành quá há!
Du cười:
- Đâu có, nhiều bữa đi nhiều về tê cánh tay thấy mẹ. Sáng nay cậu không đi đâu chơi sao?
- Ở nhà tập đàn mà.
Trang dìu Du vào nhà.  Trán Du lấm tấm mồ hôi. Trông Du già hẳn đi. Du vịn vào bàn, một tay để cặp nạng gỗ dựng cạnh vách tường rồi ngồi xuống ngựa. Ống quần chân trái đu đưa, đu đưa. Sư mất mát như thế quả lộ liễu. Lúc nào, Du cũng nhìn thấy sự mất mát của mình. Lúc nào, ngườí ta cũng nhìn rõ sự mất mát của Du. Trang có cảm tưởng Du tội nghiệp hơn mình. Những sợi râu trên cằm Du đã đen, lởm chởm. Nỗi bức rức, xót xa thường trực đã làm mọc râu và da mặt như cứng hẳn đi. Du đưa hai tay vuốt mặt ngáp, rồi nằm ngửa xuống. Cái ống quần chân trái lại đu đưa. Du đưa chân còn lại kéo lên. Trang im lặng nhìn Du một chốc, rồi nói:

- Trưa này, bà má làm đồ ăn thịnh soạn lắm cậu. Có “xà-lách xon” với thịt bò, cậu thích không?
Du cười nhẹ, giọng dã dượi:
- Mình thì ăn gì cũng được. Mình không kén ăn như­ cậu  đâu. Còn nhớ hồi trước ở trong Nam mãi, thấy thèm rau khoai luộc, với nước ruốc chi lạ. Về đây, cứ bắt bà má làm món đó hoài.
Trang bỏ đi ra ngoài sân, giặt khăn lau mặt. Trang mang khăn ướt vào cho Du nói lau cho mát mặt và đỡ cay mắt. Du lấy khăn đắp hẳn lên mặt. Trang nhìn ống quần trái của Du dồn lại một chỗ rồi quay đi lấy cặp nạng gỗ của Du đi thử. Mới cặp vào nách bước hai ba bước, Trang đã nhăn mặt. Trang cười hỏi:

- Hồi mới tập đi, chắc cậu đau lắm hả ?

- Đau thấy mẹ, đôi lúc muốn nằm một chỗ cho khỏe. Nhưng thấy chán lại thích đi, đau cũng ráng mà đi. Bây giờ thì đỡ rồi.

Giọng má Trang từ dưới bếp: “Du đến đó hả, đói bụng chưa. Bác bưng cơm lên.Cơm chín rồi”. Trang nói lớn: “đói rồi mạ “. Một lát, má Trang mang mâm cơm để lên ngựa, nói:

- Ngồi ăn đây cho tiện. Du, dậy ăn Du.

Du chống tay ngồi dậy, cười:

- Bác chu đáo quá. Bác ngồi ăn luôn cho vui.

- Không bác còn mệt, chưa ăn được. Thiệt tình nghe cháu.

Du đáp vội vã:

- Dạ thiệt tình chớ bác.

Trang kéo ghế ngồi. Du ngồi, chân để thõng xuống đất, ống quần chân trái đu đưa. Trang cố tránh nhìn vào cái ống quần đó. Vừa nhai mấy cánh xà-lách, Trang vừa nói :

- Tuần sau tụi mình lại phải Sài Gòn đổi phép rồi hả? Lương thì bữa nay chắc có rồi.

- Mệt thấy mẹ, què quặt thế này mà tháng nào cũng phải đi lãnh lương. Lương lãnh xong về đến nhà đã gần hết. Tức cái mình ghê đi. Khập khễnh leo lên cho được máy bay, rồi leo xuống cho được máy bay là hết muốn lương với lương.

- Hôm trước mình đọc trong mục khiếu nại của tờ báo gì đó, thấy tụi nó viết thư mong được nhận giấy phép và lương ở địa phương, không thì cực khổ quá chừng. Chẳng biết ra sao?

Du cười nửa môi:

- Cậu còn đỡ hơn mình.

- Đỡ gì. Chập choạng chập choạng, chỗ nào tối tối là chẳng thấy cái gì hết. Có lần lên máy bay, quờ quạng mãi, chút nữa là mấy thằng Mỹ đẩy mình xuống rồi.

Ăn cơm xong, Du và Trang nằm ngửa xuống ngựa. Nhắm mắt chập chờn, Trang cảm thấy nóng, mồ hôi chảy rịn trên cơ thể. Trang ngồi dậy, dụi mắt, lại thấy cái ống quần trái bơ vơ của Du. Trang chợt nhớ tới anh chàng Biệt động quân đẹp trai thường gặp ở chỗ lãnh lương. Anh chàng cụt cả hai chân đến tận đầu gối, mặt mày sáng sủa trắng trẻo, luôn luôn phải di chuyển trên một chiếc xe đặc biệt. Mỗi lần gặp anh chàng về, Trang lại thấy xốn xang, bứt rứt. Trang thấy mình có hạnh phúc hơn, dù là thứ hạnh phúc mờ mịt. Trang cởi áo, nằm xuống lại, nhớ đến những buổi trưa nóng bức và đầy tiếng động trên căn gác của Lộc ở Sài Gòn. 

*** 

Trang mang kiếng vào mắt rồi ra đi. Ba bốn giờ chiều mà nắng vẫn còn chói lòa. Tiếng ve kêu vào những chiều cuối hè nghe đã rời rạc, ít ỏi. Chúng sắp dần dà biến mất trên các cây nhãn, cây cau, bờ tre. Những chiếc vỏ khô bấu chặt vào thân cây cũng sẽ không còn. Trang nghĩ thấy cũng hay hay, suốt mùa hè, chúng đua nhau hợp tấu vang trời làm khuây khỏa những giấc ngủ trưa, làm vui vẻ đám trẻ con, rồi hết mùa, chúng bặt tiếng và cũng không ai tìm thấy vết tích chúng ở đâu. Trang đi dọc con đường dưới bóng hàng tre. Đường làng thưa thớt bóng người. Cây cỏ như dã dượi dưới ánh nắng. Khung cảnh trông thanh bình nơi một làng quê ở thời buổi này vẫn có một vẻ gì bất ngờ đôi khi làm người ta bỡ ngỡ. Trang băng qua đường để vào nhà Hiền. Giờ này chắc Hiền mắc võng ở mấy cây cau sau vườn nằm đọc Tiền-phong hay Phụ-nữ gì đó. Hiền có chút nôn nao nào để chờ đợi Trang đến hay không? Hay cô bé đang lim dim mắt mơ những giấc mơ thật xa.

Trang gặp con Vân ở cửa, hỏi chị Hiền ngủ rồi hả? Con Vân cười chúm chím không trả lời. Trang đi vào nhà thấy Hiền đang xõa tóc gội đầu ở bể nước sau nhà. Trang đến gần, gọi nhỏ:

- Cô bé.

Hiền ngẩng mặt lên thấy Trang, cười không nói gì. Trang hỏi:

- Đi đâu hết mà ở nhà một mình vậy,cô bé?

Hiền lấy tay rũ rũ tóc cho bớt nước. Giọng Hiền có vẻ bất bình:

- Cái anh này, khi nào cũng cô bé, cô bé. Người ta lớn thế này mà bé gì!

Trang cười nhắc lại câu hỏi. Hiền nói:

- Chú em lên tỉnh, mạ em về Sãi ăn kỵ. Chị Mai có lẽ ngủ đâu trên nhà.

Trang đến bàn học của Hiền, lấy mấy cuốn vở của Hiền ra xem. Một lát, Hiền đến kéo ghế ngồi đối diện với Trang. Hiền lấy mấy cuốn vở xếp lại, Trang giữ không chịu. Hiền giẫy nẩy:

- Không biết đó, vở người ta học có gì mà xem.

- Trời ơi, xem của Hiền chút không được sao. Ai chê ai khen gì đâu.

Nói thế nhưng Trang cũng không giằng lấy vở nữa để cho Hiền xếp. Trang vẫn mang kiếng ngồi nhìn chăm Hiền. Những sợi tóc còn ướt nước. Mấy nốt ruồi nhỏ gần dưới cằm. Khuôn mặt Hiền không buồn không vui, làm sao Trang có thể biết được những ý nghĩ trung thực của Hiền về Trang như thế nào. Những ý nghĩ đó có khác xa những ý nghĩ hồi trước ngày Trang thành thương phế binh không. Trang băn khoăn mãi mà không bao giờ hỏi thẳng Hiền được. Mà hỏi thẳng chắc Hiền cũng không nói. Cô bé bao giờ cũng ít ăn ít nói. Từ trước cũng vậy, tuy thương Trang nhưng không bao giờ Hiền bày tỏ rõ rệt những sự săn đón, vồn vã nên bây giờ Trang không đo lường được mức độ tình cảm của Hiền. Năm trước, dạo Trang về nghỉ phép, có một bữa, Trang cầm tay Hiền hỏi “Có thương anh không?”, Hiền cứ ậm ừ mãi không trả lời. Khi Trang ở xa thỉnh thoảng có gửi thư, Hiền cũng chẳng viết được một vài giòng thương yêu nào cả.

Trang rủ Hiền:

- Đi ra đàng sau hồ chơi đi Hiền.

- Tóc tai thế này mà đi đâu!

- Ra có gió hong tóc khô chứ gì. Cô bé lại khó tính rồi.

Hiền cười chúm chím. Trang đứng dậy đi trước. Hiền ngần ngừ một lát rồi cũng đứng dậy đi. Cả hai theo lối mòn trong vườn Hiền, xuyên qua đám tranh đã mọc cao, đến bờ hồ có những tảng đá lớn, phẳng phiu. Hồ không rộng lắm, nước đục. Những lá sen nổi trên mặt nước trông đã tàn. Hai người ngồi ở hai tảng đá cạnh nhau, dưới bóng những cây nhãn cành lá rậm rì. Gió thổi lất phất, những sợi tóc Hiền bay bay. Trang cảm thấy nôn nao, bồi hồi. Kỷ niệm thơ ấu như những làn sóng gợn trên mặt hồ, êm đềm, nhưng xa xăm. Trang thấy chúng như mất cả liên hệ với hoàn cảnh hiện tại của Trang. Mơ ước của Trang bây giờ không xa hơn khoảng cách giữa Trang và Hiền. Trang đột ngột thấy ân hận và tiếc nuối. Hiền ở đó thật gần, thật ngây thơ. Còn Trang, những ao ước tầm thường cũng thành hình khó khăn giữa những mặc cảm. Trang đòi hỏi ở Hiền những gì, nếu không chỉ là sự chờ đợi, chờ đợi đầy khắc khoải trong giâc mơ, trong ý nghĩ. Sự vồ vập, tha thiết  của Trang sẽ có ích gì, nếu Hiền bỗng chân thực bày tỏ sự nghi ngờ về tương lai đối với Trang?

Hiền im lặng, ngồi vuốt ve những sợi tóc. Khi nào thì Trang được phép hôn lên đó. Biết đâu có thể lại chẳng bao giờ. Trang nói:

- Nè, Hiền, thứ ba anh lại đi Sài Gòn đó. Hiền thích mua gì ở Sài Gòn không?

- Em biết gì trong đó mà thích.

- Ờ để vào trong đó, thấy có gì anh mua về cho Hiền. Nhưng Hiền phải nhận, chứ không được từ chối nghe.

Hiền không nói gì. Trang nói:

- Hiền ơi, sao lúc nào Hiền cũng khó tính vậy. Nhiều lúc Hiền làm anh buồn quá. Hiền nghĩ bây giờ anh còn chi ngoài những kỷ niệm và tình thương giữa Hiền và anh. Anh cứ băn khoăn mãi không biết Hiền bây giờ nghĩ sao về anh…

Trang định nói thật nhiều, nhưng bỗng dưng Trang ngừng lại nhìn Hiền. Hiền vẫn im lặng nhìn xa xa, đôi môi có vẻ như muốn cười. Trang sốt ruột, muốn cầm tay Hiền rồi nói thật những bứt rứt của mình, bó buộc Hiền phải nói. Nhưng Trang chỉ hỏi:

- Sao Hiền, Hiền nói với anh đi.

Hiền cúi mặt, trả lời ngập ngừng:

- Em…em chẳng biết nói gì cả.

Cả hai lại im lặng. Một lát, bỗng Hiền cười nhìn Trang:

- Này, anh Trang, sao anh cứ mang kính hoài chi vậy?

- Anh mang quen rồi.

- Gỡ ra đi anh, em ghét ai ngồi nói chuyện mà mang kính, khó chịu lắm. Bộ anh sợ em thấy con mắt của anh sao.

Trang nhắc lại, giọng lửng lơ:

- Sợ thấy con mắt của anh…

Trang không gỡ kính. Thói quen của Trang khởi đầu từ mặc cảm. Ra đường, Trang không muốn người ta thấy rõ sự thiếu hụt của mình. Trang sợ cứ  mỗi lần ai nhìn lên mặt Trang thấy con mắt giả, lại hỏi han, bàn tán mà trong ý nghĩ có lẽ không khỏi có cảm giác thương hại.

Hiền lại nói:

- Anh không thích gỡ kính ra à?

Trang nhìn chăm Hiền và tự dưng thấy khó chịu. Trang gỡ kính ra, nói:

- Hiền ác lắm!

- Em tên Hiền sao mà lại ác được.

Trang cảm thấy xót xa. Trang nhìn Hiền, ấm ức không biết đàng sau khuôn mặt dó, Hiền nghĩ những gì về mình. Phải chăng Hiền sợ ta buồn nên cứ ấm a ấm ớ. Trang bỗng như thấy Hiền ở quá xa tầm tay, ở quá xa mơ ước của mình. Thế mà lâu nay Hiền vẫn im lặng. Trang bỗng nói như van lơn:

- Hiền ơi, Hiền biết anh khổ lắm không. Đêm nào nằm cũng mơ thấy Hiền. Anh thương Hiền lắm, anh biết Hiền không thương anh, Hiền sợ cái tương lai đen tối của anh, phải không?

Hiền nhìn lên mặt Trang rồi vội vã cúi xuống. Trang rùng mình. Trang lượm những hòn sạn ném xuống mặt hồ. Những gợn sóng vòng tròn lớn dần rồi tan mất. Thứ hạnh phúc mà những lúc tâm hồn thanh thản Trang nghĩ đến, quả càng lúc càng mờ mịt. Như con ngõ cụt. Đường đi phía trước không có, mọi cố gắng len lỏi đều dừng lại ở thất bại. Còn trở lui hía sau thì muôn đời không thể được. Trang nghĩ tới nơi lãnh lương của Trang vào những ngày cuối tháng. Từng người, từng nhóm người đứng đầy sân chờ đợi đổi giấy phép và lãnh lương. Những chiếc xe ba bánh vận động di chuyển bằng tay, những cái nạng gỗ, những ống quần, ống tay thừa thải đu đưa, những vết thẹo dài nằm vắt ngang mặt, những khuôn mặt dị dạng, hốc hác, sứt mẻ…Ở giữa đám người đó, Trang thấy mình quá đầy đủ, quá hạnh phúc. Trang còn đủ tay, đủ chân, còn đủ cả khuôn mặt, còn có thể lấp liếm sự thiếu hụt bằng cái kính râm. Ra đường, trước mặt mọi người, Trang không có gì khác họ, thua họ. Giữa đám người đó, Trang không thấy mình cần phải than van. Nỗi cực nhọc, tủi hờn của Trang làm sao bằng cái anh chàng Biệt động quân đẹp trai cụt cả hai chân, làm sao bằng người đàn ông bị mất hẳn gần nửa cái mặt. Bây giờ, trước Hiền, Trang lại thấy mình không có gì hơn những người đó. Ý nghĩ chợt đến làm Trang thảng thốt.

Trang nhìn Hiền, nói:

- Hiền, Hiền nhìn thẳng vào mặt anh đi.

Hiền nhìn Trang, khuôn mặt nửa như bình thản nửa như đăm chiêu. Trang bỗng thấy Hiền không ngây thơ chút nào. Trang hỏi Hiền, giọng thật buồn:

- Sao, Hiền có thấy sợ con mắt giả của anh không?

Hiền đột ngột cúi xuống rồi quay đi chỗ khác. Trang nhắc lại câu hỏi. Hiền đáp thật nhỏ:

- Không, có gì đâu mà sợ. Em đã từng thấy rồi chớ.

Một lát, Hiền lại nói:

- Anh Trang, tại sao anh không coi em như một người em gái?

Trang thấy xúc động. Khi Hiền quay mặt lại, Trang thấy má Hiền ươn ướt. Trang nghe trong lòng bàng hoàng. Trang lượm hòn đá ném xuống mặt hồ. Những vòng tròn lớn dần, tan loãng.

Hiền bỗng đứng dậy rồi nói “thôi em về trước”. Trang đeo kính vào, im lặng. Trang định nói thêm nhiều điều với Hiền, nhưng lại thôi. Hiền ngần ngừ giây lát rồi vội vã đi. Trang vẫn ngồi lại ở tàng đá một mình, xót xa và băn khoặn. 

*** 

Ăn cơm tối xong, Trang ôm đàn ra ngồi trước hiên, mò mẫm bấm “gam” rê, đàn xành xạch. Bóng tối đã tràn đầy. Trang không nhìn rõ gì được hết. Tiếng dế đâu đó đã vang lên rích rích. Thứ ba lại đi Sài Gòn đổi giấp phép và lãnh lương. Mua một cái gì tặng Hiền, “người em gái” đây.Trang không hết băn khoăn về thái độ của Hiền lúc chiều. Hiền đã bộc lộ dứt khoát thái độ tình cảm của Hiền khi muốn Trang xem như em gái? Càng băn khoăn, Trang lại càng bứt rứt, xót xa. Mơ ước được cưới Hiền chừng như quá khó khăn.

Trang ngừng đàn, nhìn vào trong bóng tối. Giá như bây giờ có Hiền đứng một bên, Trang cũng không nhận ra. Trang có cảm giác như con mắt còn lại của mình càng ngày càng yếu đi. Nhất định là có ngày Trang không thế thấy rõ được gì hết. Một viễn ảnh như vậy làm sao Trang đòi hỏi một tình yêu ở Hiền. Sự thiếu hụt của Trang có che giấu được gì hơn cái ống chân cụt ngủn của Du. Phải chi, Trang cứ nằm lì dưới hố bom đó. Phải chi Trang đừng ham hố nhoài người lên đuổi theo tên địch thù đang lẩn tránh đó. Khi tỉnh dậy trên phòng cấp cứu, Trang nghe con mắt bên trái mình đau nhức  dữ dội. Tuần sau, vị bác sĩ nói là Trang phải hy sinh hẳn con mắt bị thương để bảo toàn con mắt còn lại. Trang xúc động đến khờ người. Trang lắc đầu, nhưng cuối cùng vì quá nhức nhối, Trang phải quyết định. Nằm rên giường giải phẫu, Trang nghe tiếng dao, kéo xào xạo. Mổ xong, viên y tá đỡ Trang ngồi dậy, Trang thấy hết nhức nhối. nhưng chợt nhìn thấy con mắt đỏ hỏn, đầy máu  của mình nằm trong giỏ rác, trang kinh hoàng, xót xa đến cực độ. Trang ngất đi.

Trang đứng dậy đi cất đàn. Trang lại ngồi ở bàn, vặn sáng ngọn đèn dầu, lấy tấm kính lớn, nhìn lại khuôn mặt mình. Con mắt giả làm bằng thủy tinh lồ lộ, rõ ràng. Nó lớn hơn con mắt còn lại. Nó bệch bạc, vô lý, nhạt nhẽo. Trang nuốt nước miếng, cuống họng chợt khô đắng. Trang đưa ngón tay rờ rẫm lên con mắt thủy tinh, nhích nhích rồi gỡ ra. Trang run rẩy nhìn khuôn mặt của mình mờ mờ trong tấm kính. Một lổ hổng đầy gân máu, đỏ lòm. Trang hoảng hốt. Chưa bao giờ Trang thấy khuôn mặt mình quái đản như vậy. Đột nhiên, Trang có cảm tưởng nó không phải của mình, nó xa lạ, kỳ dị. Trang hấp tấp gắn mảnh thủy tinh vào lổ hổng con mắt, rồi đi nằm. Suốt đêm, Trang bị ám ảnh bởi khuôn mặt của mình, không ngủ được.

 (Tạp chí Văn, Sài Gòn 1969)




























Sài Gòn,
tháng ngày trôi nổi


Đầu năm 1982.

Sau khi được “trả quyền công dân”, nghĩa là nắm được mảnh giấy để đi lại hợp pháp sau một thời gian dài chờ đợi, tôi vội vã rời Huế, tìm vào miền Nam, cái túi chứa của đất nước. Miền Nam hiền hoà, hiếu khách, được thiên nhiên ưu đãi, là một chốn bao dung cho đủ mọi thành phần, mọi miền đất nước. Trốn nợ, vào Nam. Bỏ chồng, vào Nam. Kiếm sống, vào Nam. Đói, vào Nam. Rét, vào Nam. Bị truy nã, vào Nam. Sau 1975, dường như cả đất nước tìm cách vào Nam. Đất lành, chim đậu. Miền nam, từ xưa, đã là nơi ôm ấp, che chở cho mọi đứa con của đất nước, vì lý do này hay lý do khác không thể ăn yên ở yên ngay tại nơi chôn nhau cắt rún của mình. Một hình thức Nam tiến.

Trước tiên, tôi tìm đến Bình Dương. Không xong. Lại tìm về Trị An. Không xong. Tìm đến nương rẫy sâu trong rừng Long Khánh. Cũng không xong. Xuống Bạc Liêu, Cà Mâu, Rạch Giá. Về Mộc Hóa, Long An. Lại không xong. Không xong, không phải vì đất không lành, người không tốt, mà chính vì ngay tại trong lòng mình nữa. Cuối cùng, quay ngược trở lại Sài Gòn. Thì ra với tôi, Sài Gòn có cái thân thương riêng của nó. Chính Sài Gòn vẫy gọi tôi vào. Sài Gòn, dù sao, là nơi ít có vẻ cộng sản nhất trong một đất nước đang đắm chìm trong phòng thí nghiệm Cộng Sản. Sài Gòn là nơi có thể trở thành vô danh, trở thành một phần tử của đám đông, trở thành mất tên. Sài Gòn lẩn quất, che dấu. Đi giữa đường phố Sài Gòn, ta tạm thời có thể yên tâm. Một người như mọi người. Đó là đặc điểm của Sài Gòn. Ngay cả trong những lúc chính quyền Cộng Sản o ép nhất, Sài Gòn vẫn là nơi ẩn náu lý tưởng nhất. Tại đó, dịp này hay dịp khác, thỉnh thoảng đâu đó, tôi tình cờ gặp một số khuôn mặt – bạn bè có, người quen có, người cùng trại tù có, trốn cải tạo hoặc vượt ngục – hiện bị truy nã tại địa phương.


Tôi không “trốn cải tạo”, không “làm phản động”, nhưng đời sống ở Huế gay gắt, khó khăn quá, và bị đám công an địa phương ngày đêm rình rập dòm dỏ quá, nên đành bỏ đi. Một mình. Bỏ gia đình ở lại. Cũng là một cách trốn. Lúc đầu, tôi tìm đến nhà một số người quen, một số bạn cũ. Nhưng chẳng nơi nào ở yên được, vì chính sách hộ khẩu rất chặt chẽ, công an khu vực lại ngày đêm canh chừng, soi bói, nên dù thân đến đâu, người ta cũng phải e dè. Thôi thì đành chọn một cách sống mới là: không ở đâu hết. Nghĩa là cứ lang thang trên đường phố, tới đâu hay đó. Đó cũng là một cách trốn: trốn ngay trên đường phố. Bắt chước một số người quen, tôi sắm một cái xách nhỏ, trong đó luôn luôn có sẵn một số vật cần thiết: áo quần lót, kem bót đánh răng và vài thứ linh tinh khác. Tiện đâu xâu đấy. Nhà nào tá túc được một đêm thì cứ tá túc. Bằng không, khi thì ở trong công viên, khi thì dưới thềm nhà một ai đó, khi thì bến tàu, khi thì bến xe, có khi ngủ ngay trong hay trên trần xe chở khách, khi thì ngoài thềm một cơ quan hay một công ty nào đó.



Cuối cùng, tôi tình cờ gặp lại một người bạn thân. Anh trốn cải tạo, lang thang nhiều năm ở Sài Gòn. May mắn thay, một gia đình người quen vượt biên, để lại cho anh một túp lều nằm sâu trong một khu dân cư quận Tân Bình. Vùng này vốn là vùng đất hoang ngày xưa. Do không ai là chủ nên người ta biến thành nghĩa trang, chôn cất thân nhân. Thời chiến tranh, những người lưu tán từ các vùng quê lên, thấy chỗ nào trống là dựng tạm mái lều để ở. Thành thử nhà ở và mồ mả “chung đụng” nhau. Cư dân ở đó vẫn có thói quen nhậu ngay trên mộ “láng giềng” và ngủ lại đó luôn. Mồ mả và cư dân trở thành quen thuộc.



Khi nào kẹt là tôi tìm về “nhà” anh. Nhà chật, không có chỗ, túng quá đêm về, tôi về đó và kiếm một ngôi mộ, che mùng nằm ngủ. Mộ ở đây phân chia giai cấp, mặc dù cái chết lúc nào cũng bình đẳng. Có mộ giàu, mộ nghèo. Bởi thế, là mộ đấy, nhưng thật ra, trong lúc nhiều mộ bị bỏ hoang, không hương không khói thì nhiều mộ chẳng khác gì ngôi đền, có mái che, có cột trụ, có hình rồng phượng rất đẹp. Có mộ còn có cả bàn ăn, ghế ngồi. Nền và phần phía trên mộ lát gạch hoa phẳng phiu, bóng loáng. Nhiều mộ xưa hoặc khá xưa, loại cổ mộ, không hề thấy bóng thân nhân. Những ngôi mộ mới, thân nhân thường đến thăm viếng nên hương hoa, vật phẩm để lại thường xuyên. Có khi thân nhân để lại nguyên cả mâm đồ cúng với đủ thịt thà, cây trái, cơm gạo. Những tay ăn xin thường đi săn lùng đồ cúng trên những ngôi mộ, nhất là những ngôi mộ mới, nằm khuất sau các bụi cây. Những ngôi mộ này, đồ ăn bao giờ cũng nhiều, có lẽ vì thân nhân ít sợ bị lấy cắp. Dân vô gia cư ở Sài Gòn không thiếu kẻ thường xuyên ngủ trên mộ. Chính cái đám dân lang thang này đã che chở cho tôi được tạm “ẩn cư” khá dài ngày ở khu này, dù không thường xuyên lắm. Công an phường, công an văn hóa mở nhiều đợt truy quét khu mộ, nhưng lúc nào cũng vơ phải đám vô gia cư, nên về sau thường làm lơ, vì chẳng kiếm được “xơ múi” gì. Nhiều đêm, thao thức không ngủ được, nhìn ánh trăng tỏa sáng trên những ngôi mộ chen chúc nhau, tôi có cảm giác sự sống và sự chết quả là gần gũi. Cõi âm và cõi dương cũng chỉ là “một” trong cái thế giới nhiễu nhương này.



*

Việc đầu tiên của tôi là đi bán áo quần. Đúng ra là đi bỏ mối áo quần. Độ này, ở Sài Gòn, sau một thời gian cấm đoán nghiêm ngặt mà không đi tới đâu, chính quyền thành phố có phần nới lỏng chút xíu về kinh tế, để cho người dân được buôn bán. Đúng ra thì nhà cầm quyền làm lơ để cho tư nhân bung ra buôn bán chút ít nhằm điều hòa việc lưu thông hàng hoá trước viễn cảnh của một sự bế tắc hoàn toàn. Các chợ có hơi rộn rịp trở lại. Khách vào khách ra có phần tự do đôi chút. Trước đây, cán bộ thuế đi rảo cùng khắp. Một số mặc đồng phục, có huy hiệu thuế đeo trên áo. Một số khác, ăn mặc giả dạng, rình rập, phục kích người mua cũng như người bán để tịch thu hàng hoặc đánh thuế. Họ có quyền bắt giữ từ một cặp gà cho tới vài đôi vớ. Đi bỏ mối, hàng dấu đã đành. Mua về dùng cũng phải dấu.Vì lỡ bị bắt vào trạm thuế, bị đánh thuế oan uổng. Kiện tụng thì mất công bỏ việc, mà chưa chắc đã đi tới đâu. Lúc này, nhân viên thuế chỉ bắt giữ những vụ buôn bán lớn, những lô hàng lớn. Họ được phân công ở một số vị trí nhất định, và phải mặc đồng phục.

Dù thế, chẳng có quy định nào cụ thể, rõ ràng, cho nên “sớm nắng chiều mưa”, hàng vẫn có thể bị bắt đánh thuế bất cứ lúc nào. Chở hàng đi dọc đường, mang hàng vào chợ phải rất cẩn thận. Áo quần, tôi lấy ở nơi người chị họ. Biết tôi không có vốn, chị cho tôi đi bỏ mối. Bỏ được cái nào, ăn cái đó. Số còn lại mang về. Tôi tìm mối ở nhiều chỗ, cho gối đầu thoải mái. Chợ An Đông, chợ quận Tám, chợ Kim Biên, chợ Đại Quang Minh, chợ Bà Chiểu. Còn chiều về, mang áo quần lên chợ La Kay, trải bán dọc lề đường, vừa bán vừa chuẩn bị chạy trốn công an. Với chiếc xe đạp không lấy gì làm tốt cho lắm, tôi đạp suốt ngày vòng vòng trên các ngả đường Sài Gòn, từ chợ này qua chợ khác. Hai tuần đầu, công việc tương đối chạy đều, ổn định. Sáng bỏ hàng, chiều ghé lấy tiền. Vốn đưa lại bà chị, lời mình giữ. Nhưng đến tuần thứ ba, bắt đầu có trục trặc. Một bạn hàng ở chợ Kim Biên bỏ sạp. Ba ngày sau, một bạn hàng khác ở chợ Bà Chiểu cũng biến mất. Sau này tôi mới biết cả hai đều đi vượt biên. Một tuần sau, lại thêm một người nữa ở Kim Biên bỏ chợ. Mất không gần hai chục bộ áo quần. Tôi hoàn toàn rơi vào khủng hoảng. Vốn không có, lời cũng không. May mà bà chị họ thông cảm, bỏ qua. Vì rõ ràng không phải lỗi ở tôi. Thấy bấp bênh quá, tôi chào thua, bỏ nghề. Bà chị họ tốt bụng đó, sau này cũng bị bạn hàng quỵt luôn mấy vụ, mất vốn, bỏ hẳn nghề buôn áo quần.



*

Trong lúc hoàn toàn bối rối, một anh bạn, nguyên giáo sư cấp ba, lại là bạn tù, đang bán vé số, rủ tôi bán vé số. Túng biến tùng quyền, tôi không suy nghĩ, nhảy ngay vào “nghề” bán vé số. Đây là một nghề tương đối đơn giản, ít vốn, có lẽ không cần cả vốn. Chỉ có việc lấy vé số từ người bỏ mối, bày một cái bàn nhỏ ra bên lề đường, ngồi bán. Lời ăn, lỗ thì trả vé lui. Thực ra, đó chỉ là cảm giác ban đầu. Chẳng có nghề nào là đơn giản cả.



Qua trung gian anh bạn, tôi lấy vé từ một thương lái tương đối dễ chịu: gối đầu một ngày cho vé tỉnh (vé từ các tỉnh đưa lên bán ở Sài Gòn). Riêng vé thành phố Sài Gòn, vì là địa phương, nên khá dễ dàng: bỏ tiền lấy vé, buổi chiều vé nào không bán được, mang trả lui trước giờ xổ. Bù lại, số lượng bán không được nhiều. Tôi mượn một cái “bàn” nhỏ, cột sau xe đạp, chạy loanh quanh nhiều đường để quan sát. Đường phố gần như ngập tràn các bàn bán vé số. Nhiều nơi tập trung thành một tụ điểm với hàng chục bàn kế nhau. Có nơi còn dựng tấm bảng thật lớn, gắn đèn sáng choang, để ghi kết quả xổ số. Đến giờ xổ, dân chơi số đề, dân mua số chen chúc nhau, đợi người bán vé ghi kết quả từng lô trúng lên bảng (trực tiếp truyền thanh từ radio). Có những nơi, toàn bộ gia đình tham gia trực tiếp và toàn thời gian cho việc bán vé số. Anh bạn tôi cũng vậy. Hai vợ chồng và hai đứa con thay phiên nhau trực bàn. Vì bán một vài trăm vé như tôi thì không nói làm gì, còn bán lên đến vài ngàn vé như anh bạn thì công việc cũng lắm đa đoan: nhận vé, kiểm vé, đánh dấu vé, trả vé, đổi tiền trúng cho khách, lập sổ ghi vé, ghi kết quả xổ số. Đó là chưa kể, nếu bạo gan nhận ghi thêm số đề cho bọn đầu nậu Chợ Lớn dấu mặt, thì công việc còn nhiêu khê hơn, trong đó có cả việc che mắt hoặc hối lộ công an đường phố, công an khu vực.

Thấy nơi nào cũng nhiều bàn quá, tôi chọn một đoạn vắng vẻ trên đường Cao Thắng, chênh chếch chùa Tam Tông Miếu, cách một đoạn khá xa với tụ điểm bán vé số ngả tư Cao Thắng-Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ). Từ, một người bạn mới quen, giúp tôi đóng lại bàn ghế và đóng một tấm bảng để ghi kết quả xổ số. Địa điểm này, trong ý nghĩ tôi, là nơi dễ bán vé vì chỗ thoáng, ít hàng quán chung quanh, đường lại rộng, hai chiều (đường Cao Thắng, Nguyễn Đình Chiểu đều một chiều). Cạnh đó, lại có một gốc cây lớn nằm trên lề đường rộng, bạn bè ai cũng có thể tạt ngang, ngồi tán gẫu.



Ngày đầu tiên, tôi đi thật sớm, bày bàn ra. Vé sắp theo đơn vị xổ số và theo cặp. Vé Thành Phố (tức là Sài Gòn) một phía, vé các tỉnh một phía. Trong 200 vé, tôi lấy 100 vé Thành Phố, vì vé Thành Phố có thể trả lại được trước giờ xổ, nếu bán không hết. Riêng vé tỉnh, phải mua đứt, lời ăn lỗ chịu. Mỗi vé bán ra 2 đồng. Chẳng biết lấy từ gốc là bao nhiêu, thương lái bỏ lại cho chúng tôi khoảng từ 1 đồng 85 đến 1 đồng 92 (tức là mỗi vé lời từ khoảng 13 hào đến 8 hào) tùy loại vé. Nói chung thì vé Thành Phố bán không chạy bằng vé các tỉnh như Tây Ninh, Tiền Giang, Đồng Nai. Lô độc đắc của Thành Phố ít tiền thưởng hơn vé tỉnh. Vé Thành Phố lại ít cặp, chỉ có cặp 10, trong lúc vé của Tây Ninh, Đồng Nai, Tiền Giang cặp 20, rồi 30, 50 và sau này lên đến 100. Một lý do khác, vé tỉnh nhiều cặp “rin” hơn. Cặp “rin” là cặp trong đó, tất cả vé của nó mang cùng một số. Cặp không “rin”, tức là cặp thường, thì các vé của nó chỉ mang 3 hoặc 4 con số đuôi giống nhau, còn hai con số đầu thì khác.



Trong số vé tỉnh, vé Tây Ninh bán chạy nhất. Chạy đến độ, ngày nào có xố số Tây Ninh thì vé các nơi khác bán ế hẳn đi. Chính vì thế mà có lúc, vé Tây Ninh bị nhà cầm quyền thành phố cấm bán ở Sài Gòn. Cấm bằng thông tư hẳn hoi. Vé Tây Ninh biến mất khỏi các bàn bán vé, trở thành vé lậu, tiêu thụ ở Sài Gòn dưới dạng bán chui. Những người hâm mộ vé Tây Ninh phải tìm mua với giá chợ đen, có lúc lên đến 5 đồng/1 vé. Người ta săn lùng vé Tây Ninh để mua trong lúc công an cũng săn lùng vé Tây Ninh để bắt người và tịch thu vé. Chính vì thế, sau này, Thành Phố và các tỉnh phải thương lượng nhau để thống nhất về chính sách xổ số: mỗi tuần một tỉnh hay thành phố chỉ được mở xổ số hai lần tối đa, xen kẽ lẫn nhau theo một lịch trình có sẵn và chấp nhận tiền lô độc đắc bằng nhau. Chỉ riêng số cặp thì tùy nghi. Ấy thế mà rồi vé Tây Ninh vẫn bán chạy.

Dọn bàn xong, tôi kéo ghế ngồi lùi vào sâu phía trong, kế bức tường, nhâm nhi cốc cà phê, phì phà điếu thuốc Đà Lạt và ngắm nghía người người qua lại trên đường. Thỉnh thoảng, có một người đi honda hoặc xe đạp tạt ngang, lựa vé, lấy một hoặc hai cái. Vài người bạn quen, biết tôi khai trương bán vé số, ghé mua một vài cái gọi là ủng hộ tinh thần, ngồi lại đấu hót một hồi, rồi dông. Đến gần trưa, thấy vé bán chẳng được bao nhiêu, tôi bắt đầu sốt ruột. Thay vì ngồi sát tường, nhìn vu vơ đợi khách, tôi bắt đầu kéo ghế ngồi sát bàn, mắt nhìn từng người qua lại với hy vọng họ sẽ ghé lại mua vé. Tôi cảm thấy người ta sao vô tình lạ lùng. Hàng ngàn, hàng ngàn người đi qua đi lại, ấy thế mà chẳng ai thèm chú ý đến bàn vé số của tôi. Xe chạy ngoài đường chẳng nói làm gì, những người đi bộ, biết bao người đi sát cái bàn vé số của tôi, mà làm như chẳng hề biết rằng có một bàn vé số ở đó. Tôi ngồi ngáp vắn, ngáp dài. Thỉnh thoảng nhìn những bàn vé số phía bên kia đường, thấy có xe cặp vào hoặc có người vào lựa vé, tôi lại càng sốt ruột hơn. Kiểm điểm lại vé, tôi chỉ mới bán được có 30 vé. Vé TP không nói làm gì, vì có thể trả lại. Vé tỉnh mới phiền, vì mua đứt. Nắng trưa Sài Gòn làm nhừ người. Tôi đờ đẫn nhìn mông lung. Một vài khách bộ hành đứng, ngồi nghỉ dưới gốc cây, kế bàn vé số. Một người đàn ông trung niên nhìn những tấm vé số một cách hờ hững. Không hiểu ông ta nghĩ gì, bỗng bước tới lật từng tấm vé số, nhìn ngắm săm soi, rồi về lại chỗ ngồi của mình.



Sau buổi trưa, thời gian trôi qua nhanh. Giòng xe cộ không ngớt tuôn về mọi phía. Một giờ. Một giờ rưỡi. Hai giờ. Hai giờ rưỡi. Ba giờ rưỡi phải mang vé còn lại về trả cho thành phố nếu không muốn bị lỗ. Bốn giờ rưỡi xổ. Những cọc vé vẫn nằm một cách lặng lẽ trên mặt bàn. Lâu lâu mới có một người khách tạt vào mua một hoặc hai tấm.Dưới nắng và nóng, những tấm vé số khô, cong lên ở phía mép. Buổi sáng, chúng nằm thẳng nếp, gọn gàng, tươi mới, đợi chờ. Những con số. Vâng, những con số như có tiếng nói. Chúng uốn éo, ngúc ngắc. Không phải mỗi một con số mà là sự nối kết của chúng. Những số đuôi, nào là 2748, 8532, 6954 hoặc hai con như 65, 73, 84, vân vân, tóm lại là những con số bất kỳ, không có gì đặc biệt, con số nào cũng có vẻ “dễ trúng”. Con nào cũng nằm đó, tràn trề hy vọng. Con số nào cũng sống động. Con số nào cũng có thể biến ước mơ thành sự thật. Con số nào cũng chứa đựng những thần bí của sự đổi đời. Con số nào cũng thay đổi được kiếp người, thay đổi số phận.



Nhưng giờ này, sau một buổi phơi nắng, chúng nằm im, chịu trận. Chúng bị hất hủi. Người đi đường không hề biết đến chúng. Ngay cả tôi, tôi cũng xem chúng như không có. Chúng có thể biến đổi thân phận một ai đó, nhưng tuyệt đối không dính dấp gì đến thân phận của tôi. 1543, 76589, 54672…hay gì…gì…nữa đều giống nhau, tuyệt đối giống nhau. Chúng cần phải được bán đi. Càng sớm càng tốt. Có lẽ không ai hất hủi những tấm vé số chưa xổ bằng người bán vé số trong những lúc ế khách như thế này.

Trong lúc bối rối, anh bạn tôi tìm đến. Chỗ anh và chỗ tôi chỉ mất vài phút đi bộ.



– Sao, bán được bao nhiêu vé rồi?



– Mới bán được có 38 vé, ông ơi!



– Trời, có 200 vé mà bán không hết à?



Tôi thở dài:


– Biết làm sao được. Người ta không mua, chứ có phải tại mình không muốn bán đâu. Còn ông thì sao?

– Hết từ lâu rồi.

– Bán sao mà tài thế! Bao nhiêu vé?

– Hai ngàn.

– Trời! Hai ngàn vé mà y như hai chục vé không bằng.

– Ông chưa so sánh với tôi được đâu. Tôi bắt đầu bán từ chiều hôm trước. Bán đến 11 giờ đêm trước. Lại quen khách rồi. Địa điểm thuận lợi nữa. Mà thôi. Ông lùa hết vé mang sang chỗ tôi bán. Bảo đảm ông, sẽ hết.

Tôi không tin lắm vào lời hứa đó, nhưng lúc này những lời động viên như thế rất tốt. Tôi thu dọn hết chiến trường, dắt xe đạp và cả bàn qua chỗ anh bạn. N. giúp tôi sắp xếp lại vé trên bàn của anh ta. Nơi đây, hầu hết các bàn bán vé đều sạch nhẵn. Chủ nhân lật úp bàn, đi mất. Chỉ còn lẻ tẻ vài bàn nhỏ, số lượng vé chẳng còn bao nhiêu. N. sắp vé số rất cẩn thận, thứ tự, vé loại nào ra loại đó. N. giải thích:

– Ông phải tạo sự thuận tiện cho khách dễ lựa. Có người thích Thành Phố, có người thích Tây Ninh. Có người mua vé lẻ, có người mua vé cặp. Họ không có nhiều thì giờ. Tạt vào, mua xong, dọt ngay. Nhiều người lựa cho có lựa, vì họ làm sao biết được vé nào chắc chắn trúng, vé nào không. Bởi thế, bày vé số như bày hàng tạp hóa vậy. Đẹp mặt, ưa nhìn, khiến họ không định mua cũng phải mua. Định mua một cái, nhưng rồi rút thành hai cái. Vé số là thứ hàng hóa co dãn. Mua bao nhiêu cũng được, mà không mua cũng được. Nên nhớ là nhiều người, không mấy ai ra đường với ý định đi mua vé số. Thấy vé số họ mới mua.

Tôi vui vẻ ghi nhận lời giải thích đầy kinh nghiệm thương trường đó của anh bạn. Vừa bày bàn xong là đã có người đến mua. Mười vé. Lát sau, có người vào lựa vé, không mua, bỏ sang bàn khác. Cứ thế, số khách ghé tương đối đều đặn. Chồng vé vơi dần. Ba giờ mười lăm.Tôi lại bồn chồn:

– Ba giờ rưỡi phải đi trả vé. Vé Thành Phố còn đến 70 cái.

N. cười:

– Còn nước còn tát. Có bồn chồn cũng vô ích. Kiên nhẫn, đợi tụi “bao chót”

– Bao chót?

– Ừ, để xem.

Mấy bàn kia bây giờ đã bán sạch. Cả đoạn đường, chỉ tôi và một chị ở gần phía đầu đường là còn vé. Một vài người ghé lại, mua vài vé. Ba giờ rưỡi. Còn đến 70 vé Thành Phố và gần 20 vé Tây Ninh. Thời gian không cho phép chần chờ nữa. Tôi quyết định thu xếp đi trả vé. Tôi để vé Tây Ninh, nhờ N. bán giúp. Định đi thì một chiếc honda ghé lại. Một người đàn ông trung niên, đeo kiếng đen, bộ dạng của một tay mánh mun thành đạt, dở kiếng, lựa lấy lệ, lùa hết vé Tây Ninh, nói như ra lệnh:

– Tính tiền. À, còn cặp Thành Phố nào nguyên không?

– Còn, nhưng không có số “đẹp”.

– Nhằm nhò gì. Lấy luôn hai cặp Thành Phố.

Anh ta nhìn con số trên vé một cách không mấy quan tâm, rút tiền trả, rú xe vọt đi. Tôi ngơ ngác nhìn theo, chưng hửng trước cái cách mua vé nhặm lẹ, dễ dàng như thế: gần cả năm chục cái.

Tiếp đó, hai thanh niên ghé vào cùng lúc. Người nào cũng đòi lấy hết số vé còn lại. Rốt cuộc, tôi phải năn nỉ hai người “cưa” đôi (chia đôi). Thế là vé bán sạch, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Lúc đó là kém 15 phút đầy 4 giờ. N. nhìn tôi cười một cách hãnh diện:

– Tôi nói đâu có sai. Đó là những người “bao chót”, ông hiểu chứ. Có người săm soi chọn lựa từ bàn này đến bàn khác, mong mua cho được cái vé mà họ nghĩ là sẽ trúng. Lại có những người như mấy tay vừa rồi, chỉ đi mua vào những phút cuối cùng. Họ tin rằng những gì người ta chê có thể chứa đựng sự may mắn.

*

Tính sổ lại ngày đầu tiên bán vé số: lời gần hai chục đồng. Hơn bù thua, trung bình mỗi vé lời 10 hào. Thời giá hồi đó: một ly cà phê con cóc, một đồng rưỡi. Thuốc Đà Lạt (loại thuốc bình dân, phổ thông), hai đồng rưỡi/gói. Một bữa ăn tại quán cơm bình dân, 4 đến 5 đồng.

Hôm sau, rút kinh nghiệm, tôi dời bàn bán vé đến tụ điểm. Lúc đầu, tôi cứ nghĩ mình ngồi lẻ loi một mình tại một nơi có cây cao, bóng cả, lề đường rộng thì dễ có khách. Hóa ra, khách chỉ thích ghé vào những tụ điểm bán vé vì có lẽ nơi đó, nhiều bàn vé số, dễ lựa chọn. Người ta thích lựa vé số, lựa những số mà do linh tính hay do tưởng tượng họ nghĩ rằng sẽ trúng. Lựa bàn này không có vé vừa ý, bước ngay qua bàn khác, vừa nhanh vừa thuận tiện. Hơn nữa, những tụ điểm thường dễ gợi sự chú ý của người qua đường. Dường như người ta có cái tâm lý là mua vé ở những tụ điểm có vẻ dễ trúng hơn là ở các bàn lẻ loi trên đường. Chính vì thế, dân bán vé thường tập trung thành từng cụm, nơi đó dân mới ra nghề, cò con (như tôi) bám vào đám “lớn” vì họ có khách hàng quen thuộc. Đó là lý do tại sao ngồi một mình ở nơi xa không hấp dẫn khách mua.

Không dễ kiếm ra một chỗ, cuối cùng tôi phải ngồi chen chúc giữa một “khu vực” vô cùng chật hẹp với đủ thứ hàng hóa lỉnh kỉnh: chè, cháo, phở, nước mía và các bàn bán vé số ngồi kế nhau tưởng như vô tận. Hầu như tôi chỉ có một khoảng nhỏ, vừa đủ đặt chiếc bàn và chiếc ghế để ngồi. Lâu lâu phải xích qua bên này, xích lại bên kia một chút, vì hoặc là người ta che chắn mình hoặc mình che chắn người ta. Không gian chừng như thu nhỏ lại, không còn chỗ để ngã người, suy tưởng. Chẳng còn chỗ cho bè bạn, người quen tạt vào đấu hót cho qua thì giờ và đỡ sốt ruột. Tôi lọt giữa một xóm chợ với đầy đủ ý nghĩa nhất của nó. Người ta chen chúc nhau, mua mua bán bán. Cãi vã ồn ào. Rộn rịp. Sôi động. Nhưng phải nhận rằng khách lúc nào cũng đông. Uống cốc nước. Ăn cái bánh bao. Mua bì chè, gói thuốc, tờ báo và…vé số.

Ở vị trí mới này, với số lượng khách hàng vào ra tương đối thường xuyên, tôi bị buộc phải ngồi một chỗ, nên có dịp quan sát cái cách người ta mua vé số. Một số người mua rất lơ đãng. Hình như mua cho có mua. Có thể họ mua xong, bỏ túi quần rồi quên luôn, không bận tâm đến việc dò kết quả. Họ uống nước, dư tiền thối, mua đại một vé. Thấy mời mọc quá, mua một vé. Có người rút tiền ra mua mà dường như chẳng chú ý đến cái mà mình vừa mua. Lại có người mua xong, để vé số trên bàn, châm thuốc hút hay nói chuyện rồi quên luôn, đứng dậy đi. Ngược lại, có người chọn lựa rất kỹ. Họ săm soi từng con số, số hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn. Có một ông, nhiều ngày liên tiếp, đi từ bàn này qua bàn khác, dở từng tấm vé số, rồi lẩm bẩm một mình và…đi luôn. Có thể anh ta không tìm thấy con số mình muốn chăng?

Chính điều này giúp tôi hiểu tại sao người ta mê số đề. Chơi số đề, sau này được nhà nước một vài địa phương gọi một cách mỹ miều và hợp pháp là “số tự chọn”, mình có quyền chọn cái số mà mình muốn một cách thoải mái. Đó là cách chơi số của Hoa Kỳ như ta biết bây giờ. Có người nhất định mua cho được cặp “rin”, cặp “nguyên” của Tây Ninh hoặc Đồng Nai. Đây là loại khách sộp. Thường thì đám này chỉ ghé lại những bàn lớn, vì ở đó nhiều cặp nguyên hơn, và cũng vì có nhiều cặp để lựa hơn. Trong số này, có người chỉ chuyên chơi loại Tây Ninh hoặc Đồng Nai, hoặc Tiền Giang. Họ “kết” một loại số nào đó. Có kẻ đặt tiền cọc trước để có cặp rin, vì sợ hết. Trong thời buổi gạo châu củi quế này, tôi chứng kiến nhiều tay chơi vé số như một trò tiêu khiển vô cùng thượng lưu. Rõ là ném tiền qua cửa sổ. Họ đi xehonda (hồi này có chiếc honda cũ là quá sang), tạt vào quầy vé, lấy mấy cặp vé, mỗi cặp là một cọc vé, trị giá cả nửa hoặc một chỉ vàng. Họ mua một cách tỉnh bơ, không đắn đo lựa chọn, không tiếc tiền. Tôi chẳng rõ họ mong muốn cái gì. Có người không sẵn tiền mặt, rút ra cả chỉ vàng đang đeo nơi ngón tay để mua vé số. Khi chiều đến, họ tạt ngang nhìn kết quả, thấy trật, cầm cả xấp vé xé vụn, rồi rú xe vọt đi. Tưởng thế rồi thôi, họ không còn chơi nữa. Không, tuần sau hoặc đôi khi vài hôm sau, họ lại tạt vào, mua tiếp những cặp khác (có khi cả trăm vé) để rồi chiều lại xé.

Sáng mua chiều xé! Không hiểu từ lúc nào, bốn chữ này đọng lại trong trí tôi. Buổi sáng, những cọc vé số nằm nghiêm nghị, thứ tự trên các bàn vé số. Chúng sạch sẽ, mời mọc. Mỗi một tấm chứa đựng một thế giới kỳ diệu, đầy hứa hẹn, mơ ước. Những con số kết dính vào nhau (quanh đi quẩn lại cũng 10 con số!) kỳ diệu lạ lùng. Không hiểu sao tôi nghĩ đến bốn chất căn bản (N,H,O,C) kết xuôi kết ngược để tạo thành vô số chủng loại khác nhau trong học thuyết về di truyền. Chúng mỏng mảnh, vô tri, nhưng hứa hẹn một cuộc đổi đời ghê gớm. Chúng mở ra những chân trời lớn rộng. Thế mà chiều đến, chúng nằm ngổn ngang, tan nát, vô dụng, biến thành rác rưởi bay tung toé khắp nơi. Người ta dừng lại, dò và “dụt” bỏ.

Cách dò vé và xé vé cũng khác nhau. Có người nhìn rất nhanh, liếc liếc bảng kết quả và nhẹ nhàng vứt bỏ y như ta vứt bỏ một miếng giấy lộn. Có người dò rất cẩn thận, nhất là những người mua một, hai vé. Họ nhìn chăm chú những con số trên bảng kết quả rồi lại cẩn thận nhìn những con số trên tấm vé của mình, y như chúng có thể biến đổi lẫn nhau. Dò ở bảng này, chưa thỏa mãn, lại đi đến bảng khác dò lại y như mỗi bảng có một kết quả khác nhau. Có người dò bằng cách dùng tay che hàng số và “nặn” dần từng con số trên tấm vé của mình từ hàng đơn vị trở lên y như người ta “nặn” con bài tẩy trong bài xì phé. Họ là những ngươì mua vé số “mù” – nghĩa là họ nhắm mắt mua theo may rủi, mua không lựa chọn. Nhìn họ chầm chậm “nặn” từng con số, tôi thâm cảm được hết cái ước mơ trúng số của họ lớn lao, sâu sắc đến dường nào. Tất nhiên là họ nghèo: một anh xích lô, một chị bán hàng rong, một ông lão, một tay học sinh hay một anh chàng bộ đội.

Tôi để ý thấy một anh chàng bộ đội, năm ba bữa ghé lại khu vực tôi mua số. Đến giờ xổ, anh ta ghé lại đây, mua một cốc nước trà đá, đợi dò kết quả. Anh chàng bộ đội này mang hình ảnh khá điển hình của một người miền Bắc ngơ ngác tản bộ trên đường phố Sài Gòn: áo quần bộ đội bạc thếch, dép râu, chiếc mũ cối và mặt mày thụng ra, ngơ ngác y như không hiểu mình đang lạc vào xứ sở nào! Gần cả chục năm trôi qua từ khi chiến thắng, dường như Sài Gòn vẫn còn lạ lùng đối với dân miền Bắc, nhất là đối với những người lần đầu tiên mới đến Sài Gòn. Với họ, Sài Gòn là một thế giới hay một nước khác hẳn. Anh chàng bộ đội bưng ly nước, tìm một góc khuất kế hàng rào gần tường, thận trọng moi từ trong chiếc bóp nhỏ tấm vé số, vuốt cho thẳng, trải bảng kết quả photocopy nhỏ trên đất, lấy bàn tay che số, bắt đầu “nặn” từng con, để rồi lần nào cũng như lần nào, buông tấm vé xuống đất với một bộ mặt thẫn thờ, thiểu não. Anh ta không buồn uống hết cốc trà đá, trả ly, lờ đờ đi đến trước tấm bảng kết quả, nhìn chăm vào đó như cố tìm hiểu xem quanh đi quẩn lại có chừng ấy con số mà sao mình không thể trúng được.

Cách xé vé của anh này còn hiền từ. Nhiều người xé vé một cách giận dỗi, y như chúng là thủ phạm gây nên nỗi thất vọng riêng của mình. Có người, sau khi cẩn thận rà soát lại các lô số trúng với các tấm vé của mình, xé toạt nguyên xấp rồi ném mạnh xuống mặt đường, rú xe vọt đi một cách tức tối. Có người cầm từng vé xé vụn, khuôn mặt tái đi, đôi mắt trừng trừng nhìn vào tấm vé số cho đến khi những mảnh giấy vụn bay tan tác dưới mặt đường. Nhìn khuôn mặt và cách xé vé, đôi khi tôi tưởng như có thể đoán được hết những câu nguyền rủa mọc lên trong đầu họ.

Và từ đó, tôi hiểu được hết những hy vọng mà họ ôm ấp từ khi mua tấm vé số cho đến khi xổ nó lớn lao, tha thiết đến dường nào. Hy vọng mọc lên trong tâm hồn y như người ta thổi hơi vào cái bong bóng, lớn dần, lớn dần và…nổ. Cứ thế, ngày lại ngày, sau khi cơn tuyệt vọng và giận dữ dịu đi, thì cái hy vọng đó chẳng biết từ đâu, mọc lại. Thế rồi, sáng hôm sau – có người ngay tối hôm đó- lại lần mò ra bàn vé số, tìm cách nhịn tiêu một khoảng tiền nào đó, và bắt đầu lựa những con số. Mầm hy vọng mong manh kia lại được thổi hơi vào cho căng phồng lên. Những con số vô tri, vô duyên trên mảnh giấy in đen đúa đó bắt đầu lung linh, nhảy múa. Chúng lấp lánh những chân rời viễn mộng. Một căn nhà đẹp. Một chiếc xe đạp mới. Một chiếc xe honda. Một cô người yêu xinh xắn hay một chuyến vượt biên an toàn sang bên kia thế giới. Tóm lại, đổi đời.

Sáng hy vọng, chiều thất vọng.Hy vọng và nỗi hăm hở dâng lên rồi vụn vằn theo những tấm giấy vụn. Sáng mua chiều xé. Buổi chiều, khung cảnh các bàn vé số như bãi chiến trường sau một trận ác chiến. Giấy vụn vé số bay tan tác, trắng đường. Bao nhiêu tiền mồ hôi nước mắt, bao nhiêu tiền dành dụm cũng tan theo. Nhiều lần, sau giờ xổ, ngồi nhìn hàng ngàn, hàng chục ngàn tấm vé số lăn lóc đó đây, tôi chợt thâm cảm hết cái vô nghĩa của cái nghề bất đắc dĩ này. Tôi đang bán ước mơ để độ nhật. Một người bán ước mơ lại chẳng hề mơ. Tôi đang tồn tại trên giấc mơ của người khác. Chính cái cảm giác bất thường này khiến tôi một hôm, sau khi thối tiền lại cho khách mua hai tấm vé số, bất chợt thốt lên với khách:

– Mua đi anh, sáng mua chiều xé!

Một lần khác, khi mời một người khách mua một cặp “rin”, tôi lại đùa:

– Cặp “rin” đây anh, sáng mua chiều xé!

Nhiều lần khác, như một quán tính, sau khi bán xong cho khách, tôi lại thốt lên: “sáng mua chiều xé”. Tôi xem đó là một câu nói đùa vô hại cho đến một hôm, anh bạn tôi tình cờ sang chơi và nghe được. Anh ta liền gọi tôi ra quán nước và “rầy la”:

– Ông buôn bán gì mà kỳ lạ như vậy? Ông nên nhớ rằng, ông đang kinh doanh, đang bán hàng. Bán hàng thì phải khen hàng mình tốt, phải nịnh khách, phải làm cho họ tin rằng mình có đồ tốt. Bán vé số, ông luôn luôn phải tạo cho khách cái ấn tượng rằng nhất định họ sẽ trúng số. Bất kể khách lạ hay khách quen, kể cả bạn bè và người thân của mình. Phải làm cho họ vui vẻ họ mua. Đừng để cho bất cứ ai có cảm giác rằng họ mua vài tấm vé của mình vì họ thương hại mình, muốn giúp mình, mà họ mua là vì họ có thể trúng số. Mua một cái, phải khích lệ họ mua hai cái. Mua 10 cái khuyến khích họ mua cho đủ cặp, vì họ sẽ trúng số. Phải gieo niềm hy vọng trúng số vào trong tim họ. Họ phải trúng số chứ không phải là sáng mua chiều xé.

– Nói thấy ngượng quá. Làm sao mà trúng được. Xác xuất trúng số quá nhỏ. Hồi chưa bán vé số, tôi cũng có hy vọng trúng số. Bây giờ bán vé số, thì chẳng khi nào nghĩ mình sẽ trúng số. Còn một vé cũng chẳng muốn giữ vì biết chắc rằng không bao giờ trúng cả.

– Cái ông này, họ trúng hay trật thì có liên quan gì đến mình. Xác xuất nhỏ lớn cũng chẳng dính líu gì đến việc bán vé số của mình cả. Họ mua rồi họ xé là chuyện của họ. Việc của mình là bán càng nhiều càng tốt. Bán nhiều vé lời nhiều. Ông bảo sáng mua chiều xé là phá vỡ cái mầm mống hy vọng trong tâm họ, làm họ mất vui thì làm sao họ mua vé cho ông!

– Họ vẫn tiếp tục mua mà.

Tôi nói cứng thế, nhưng thực ra trong thâm tâm tôi thấy nhận xét của N. hoàn toàn đúng. Vả lại một vài ngày sau, tôi nhận thấy một vài khách quen không ghé lựa số ở bàn tôi.

– Ông thấy chứ – anh bạn tôi lại “lên lớp” một lần nữa – khách bao giờ cũng thích nghe lời nói ngọt, nghe lời khích lệ. Điều ông biết, ai cũng biết cả. Nhưng hy vọng là một trong những động lực của cuộc sống, nhất là trong tình hình hiện nay. Hy vọng trúng số còn có vẻ thực tế hơn là hy vọng được lên Thiên Đàng hay Niết Bàn.Vậy hà cớ gì không giúp họ nuôi thêm hy vọng. Họ có hy vọng, chúng ta có tiền. Buôn bán là tận dụng nghệ thuật nói láo. Nói láo ở đây chẳng hại ai cả. Vì quyền mua hay không là của họ. Giúp người ta nuôi dưỡng hy vọng và làm mới lại hy vọng ấy là nghệ thuật bán vé số.

Thấm thía lời vàng ngọc của người bạn, tôi bắt đầu nuôi dưỡng niềm hy vọng của khách hàng. Tôi không còn thụ động ngồi trên ghế, lơ đãng nhìn khách qua đường, rồi có ai tới thì xé vé, thối tiền một cách miễn cưỡng. Tôi mời chào những người qua đường. Tôi học cái lối cười cầu tài của những bà sồn sồn bán hàng tạp hóa trong chợ. Cười cả khi khách nghiêm nghị. Cười cả khi khách nhăn mặt. Cười cả khi khách bực bội. Tôi bắt đầu tập ăn nói trơn tru, xuôi cũng được, ngược cũng xong. Miễn sao lọt lỗ tai người nghe. Lạt mềm buộc chặt. Đến bây giờ tôi mới thấm thía một điều: một lời nói láo ngọt ngào chứa đựng nhiều sự thật hơn cả sự thật, vì người ta thích lời nói láo ngọt ngào hơn sự thật cay đắng. Nhất là bịa đặt về một điều trừu tượng như Thượng Đế, Niết Bàn, kiếp sau và …vé số chẳng hạn. Nói đúng ra, không phải người ta bịa đặt về con số, mà giúp người ta dựng một giấc mơ, nuôi lớn giấc mơ đó. Một giấc mơ chẳng bao giờ thành sự thật, đó là trúng số. Thực ra, cũng có nhiều người trúng số. Vì có đến những mấy chục lô trúng. Nhưng giấc mơ trúng số thực sự bao giờ cũng là trúng số độc đắc. Chỉ có trúng số độc đắc mới đáng gọi là đổi đời.Còn những lô trúng khác thì cũng bất quá như những trò cờ bạc ăn thua hàng ngày, còn đó, mất đó.

Một anh bạn tôi, trốn về từ vùng kinh tế mới, phát biểu như sau:

– Tuy xác xuất trúng qua nhỏ, 1/1000.000 cho mỗi lần xổ, nhưng nếu thử làm một con tính, ta vẫn có thể thực hiện ước mơ được. Này nhé, mỗi tuần có 7 ngày, mỗi ngày có tối thiểu 3 đơn vị xổ số. Nghĩa là trong một tuần có 21 lần xổ. Sẽ có 21 người trúng số độc đắc. Một năm ta sẽ có 21x 52 tuần = 1092 người là triệu phú. Tại sao tôi không hy vọng rằng tôi sẽ là một trong 1092 người đó, vì tôi giả thiết rằng không ai trúng hai lần độc đắc. Ước mơ trúng số không nên đặt trên một lần xổ mà trên một thời gian dài.

– Như thế, anh phải mua số liên tục, không bỏ sót một kỳ nào, một đơn vị nào.

– Tất nhiên. Tôi mua đúng 1092 cái một năm, không nhiều hơn.

– Sao anh không mua nhiều hơn để tăng tỉ lệ xác xuất.

Anh ta cười:

– Tôi chưa hề trúng số bao giờ, dù là trúng hai con số đuôi, nhưng tôi có linh cảm rằng trúng độc đắc là trúng độc đắc. Vì trúng độc đắc là cái “trời cho”, là “godsend”. Một món quà từ trên trời rơi xuống. Nó nhắm ngay mình mà rơi, không thể ai khác. Ở đây, không có xác xuất nào hết. Tôi không cần xác xuất. Tôi chỉ cần mua một lần một vé và đợi…trời cho.

– Anh nên nhớ người ta xổ từng con số chứ không xổ một lần sáu con. Tôi nói xác xuất ở từng con số.

– Không nhằm nhò gì. Tôi đã nói trời cho là trời cho. Từng con số phải rơi vào đúng vị trí của nó để tạo thành con số trúng cho mỗi số phần được chọn. Con số trúng là một sứ điệp. Vì nó đổi đời. Nó tái sinh một kiếp người, tái sinh cả một gia đình. Nó ban cho con người một số phận khác. Tôi không nói chuyện tốt xấu, nhưng chắc chắn sẽ có một số phận khác. Mà một số phận khác thì anh thấy rõ, đâu có thể là xác xuất được. Số phận là một cái gì được ban phát chứ không thể là ngẫu nhiên mà có được.

Tôi không rõ là anh bạn có tôn trọng lời anh ta nói không, nghĩa là mua liên tục tất cả các kỳ xổ số, mỗi lần chỉ một vé …cho đến khi trúng. Cũng chẳng rõ anh đã trở thành một trong 572 người chưa, vì tôi không còn gặp anh nữa, sau một vài lần anh ghé lại. Có một điều anh bạn không biết cái tỷ lệ anh đưa ra trên chỉ là lý thuyết.

Thực tế là hầu như các lô trúng độc đắc thời đó đều bị tập đoàn mafia trong đường dây xổ số khống chế. Họa hoằn lắm, họ mới thả nổi một vài lần để cho một ai đó trúng. Nhiều vụ việc đổ bể, dính líu đến nhiều quan chức tai to mặt lớn trong các Ủy Ban Nhân Dân tỉnh, thành phố, ngân hàng, tài chánh. Có vụ dính đến các quan chức trung ương ở Hà Nội. Nguyên nhân của các vụ đổ bể phần lớn xuất phát từ các tranh chấp phe phái, kiểu “trâu cột ghét trâu ăn”. Lâu lâu lại rộ lên một vụ gian lận xổ số. Một số viên chức mất chức, một số ngồi tù. Rồi đâu lại vào đấy. Nghĩa là trước sau gì, tập đoàn mafia vẫn không chế việc xổ số, bằng cách này hoặc cách khác.

Thời đó, khoảng giữa thập niên 1980, các tỉnh miền Nam, tiền lời lấy từ xổ số đóng vai trò rất quan trọng trong ngân sách của tỉnh, thành phố. Các tỉnh miền Bắc cũng tìm cách học theo, nhưng làm một cách dè dặt vì thiếu kinh nghiệm, và dân cũng chưa có thói quen chơi vé số, số đề và cán bộ cũng chưa biết cách làm ăn theo kiểu tập đoàn quyền lợi. Có nơi, đó là ngân sách chính. Bởi thế, đảng ủy các tỉnh, thành phát huy kinh doanh xổ số đến tối đa bằng cách in thêm vé, nghĩa là tăng số vé cặp, từ cặp hai, ba rồi đến cặp năm, mười rồi đến cặp 20,30, 20 và đến cặp 100 và tăng tiền lô độc đắc để dụ người mua. Chính những món tiền lời béo bở đó mà hết “băng” này rớt thì có “bằng” khác lên thay.

Nhưng họ khống chế bằng cách nào? Lúc đầu, đám đầu nậu mánh mun bên ngoài bỏ tiền ra hối lộ ban phụ trách xổ số để mua đứt một số trúng nào đó, nghĩa là ban xổ số làm sao để cho ra con số trúng mà họ muốn. Về sau, nhận thấy việc bố trí cho ra sáu con số trúng đã định trước dễ bị lộ, họ thay đổi cách. Họ chỉ mua đứt ba hoặc bốn con số thôi, còn những số còn lại họ bỏ tiền ra mua hết ngay từ trong kho trước khi tung ra bán ngoài thị trường. Nghĩa là họ giảm bớt tiền thu nhập lại. Tóm lại, dù cách này hoặc cách khác, người mua vé chỉ được trúng những lô nhỏ. Cái tỷ lệ của ông bạn tôi chỉ còn rất thấp so với lý thuyết. Trời hay nói theo kiểu anh bạn,godsend, cũng chào thua!

Nói cho rõ ra, thủ đoạn làm ăn của đám mafia có nhiều lắt léo bên trong. Nhà nước lại là nhà nước độc quyền, bao cấp nên mỗi khi có vụ gì đổ bể, họ chỉ cho xì ra trên báo chí nhà nước một vài chi tiết tượng trưng, còn thì là dàn xếp nội bộ.

*

Nghề gì, kể cả nghề chơi cũng lắm công phu, nghĩa là phải biết đầu tư thì giờ, tiền bạc, tri thức vào đó. Nghề bán vé số cũng thế. Một cái vé số, tuy nó là rất “nguội” (một mảnh giấy con con, in ấn lem luốt, số thì rất dễ cạo sửa), nhưng lại là mặt hàng “nóng”. Giữ nó, phải đẩy đi càng nhanh càng tốt, vì để đến giờ xổ thì chỉ biết…xé. Ôm vài ba lần, với dân cò con như tôi, là bay hết vốn. Tôi đã trải qua vài lần ôm như thế. Lần đầu tiên, một cơn mưa tầm tã bất ngờ vào lúc hai giờ chiều, kéo dài cho đến tối đã khiến cho tôi “ôm” gần một trăm vé. Lần khác, chủ quan, bán tà tà đợi đám bao chót, không ngờ, hôm đó, chẳng có con ma nào tới bao chót. Ôm một xấp vé chẳng muốn dò, vì biết chắc rằng chẳng thể nào trúng. Vài ngàn vé cũng chẳng trúng, nói gì vài chục vé hay một trăm vé! Ngay cả việc chỉ trúng hai con số đuôi. Sau này, rút kinh nghiệm, khi thấy trời mưa là tôi vội vã dẹp bàn, mang vé đi bán dạo trong các quán cà phê, quán ăn.

Bán ở đâu cũng thế, dẻo miệng là ăn tiền. Tôi vận dụng trí nhớ, nhớ lại cách bàn đánh số đề “Đa Kim” trên nhật báo Hòa Bình thời trước 75. Thực tình, tôi không phải là dân chơi số đề, nhưng hồi đó, đọc thấy vui vui nên nhớ. Tôi kết hợp thêm việc đoán điềm giải mộng. Tóm lại, để củng cố niềm tin của khách, tôi bịa đủ thứ. Đoán ngược, đoán xuôi, thêm mắm dặm muối cốt để làm đẹp những con số vô tri vô giác trên tấm vé số, cốt biến chúng thành ra một thiên đường đầy mơ ước để mời chào người mua. Nhất là những con số xấu, khó chơi như vì một lần ba, bốn con số giống nhau liên tiếp như 0000, 1111. Dân bán vé số rất kỵ những loại vé đó, vì khó bán. Thường thường, dân bỏ mối tìm cách tống những loại vé đó cho các cò con như tôi, còn các cặp “rin”, số đẹp họ bỏ cho các mối ruột của họ, những mối “lớn”. Để dễ bán những vé số loại này, tôi sưu tập kết quả xổ số nhiều đợt của nhiều tỉnh, thành cho thấy loại số “đặc biệt” đó vẫn thường xuất hiện, và lại xuất hiện khá thường xuyên. Xác xuất khá cao. Có lần, một lô trúng độc đắc, không biết có sự bố trí nào trước không, mang sáu con số 1.

Đó thời gian đầu. Về sau, khi đã quen mối quen lái rồi, tôi chẳng cần phải dẻo miệng nữa. Vì dù chậm, dù nhanh, trừ những trường hợp đặc biệt như trời mưa bất ngờ chẳng hạn, còn không thì ngày nào tôi cũng bán hết vé. Số lượng vé bán tăng dần. Có ngày tôi lấy đến 500 vé mà cũng bán hết. Vé đẹp, vé xấâu, cặp “rin”, cặêp thường đều bán được tất. Nhìn con số vé cặp của các đơn vị xổ số tăng lên, tôi nhận ra rằng nhu cầu tiêu thụ vé số vẫn chưa đạt đến mức chót của nó. Nghĩa là, đối với dân tình hồi đó, vé số –ngoài cơm gạo mắm muối – đã trở thành nhu yếu phẩm hàng ngày trong đời sống của mọi người. Người ta có thể nhịn các thứ khác, kể cả mặc, nhưng hình như không thể nhịn được ăn và …mua vé số. Cứ nhìn cái quang cảnh buổi chiều sau giờ xổ số (sau 4 giờ rưỡi) tại các tụ diểm vé số, ta sẽ hiểu được cái nhu cầu đó nó lớn lao và cấp thiết như thế nào. Chưa kể, nếu ta chịu khó đi sâu vào các con hẻm, các khu nhà đông dân cư, khu ổ chuột, chuyện vé số và số đề nằm thường trực trong đời sống hàng ngày của mọi người. Quanh các bàn phở, hủ tiếu, cà phê, quán nước, sáng mới bửng mắt đã nghe lao xao bàn về các giấc mơ, các điềm báo …liên quan đến mua vé số và đánh số đề. Một anh chàng đạp xích lô tâm sự:

– Tôi vẫn nghĩ, chắc mình không bao giờ trúng được vé số đâu. Thay vì mua vé số, tôi bỏ ống số tiền đó hàng ngày trong một năm thì có thua gì mình trúng số, dù là số nhỏ. Ấy thế mà, không nhịn được anh ơi. Ngày nào không có tấm vé số dằn túi thì y như thiếu cơm, thiếu thuốc vậy. Có lúc, nhịn thèm, nhất định về nhà nằm ngủ, nhưng rồi sau đó, suy lui tính tới cũng phải chạy ra đường bỏ túi vài tấm. Không có chúng trong túi, mình thấy như mình có lỗi, bụng dạ bâng khuâng, đứng ngồi thắc thỏm, anh à.

Một ông khách “sộp” lại phát biểu:

– Tôi “ghiền” vé số. Tôi chỉ cần trúng vài mánh lớn là còn hơn trúng độc đắc nữa. Nhiều lúc tôi cũng chẳng hiểu mình có muốn trúng số hay không nữa. Tôi khoái chọn số và dò số, giống như khoái ngồi vào chiếu bạc vậy.

Đó là nói về những người chơi vé số.

Một ông bạn cũ, còn được lưu dung dạy học, tình cờ thấy tôi ngồi bán vé số, bèn ghé vào. Sau một vài câu hỏi thăm xã giao, vỗ vai tôi cười rồi ghé sát vào tai, nói nhỏ:

– Ông đúng là đã thi hành rất sâu sát khẩu hiệu của nhà nước ta. Thời buổi này, ta không còn đánh Tây, đánh Mỹ, đánh Tàu nữa mà là đánh bạc. Cả nước đi buôn, toàn dân đánh bạc!

Chẳng biết ông bạn học được câu nói này ở đâu, nhưng thật khá hợp thời, hợp cảnh.

Đi buôn và đánh bạc vốn là điều đại kỵ trong xã hội Cộng Sản. Thế nhưng, trong thời buổi mà các thử nghiệm gọi là “xã hội chủ nghĩa” trong một nước Việt Nam thống nhất hoàn toàn bị phá sản, xã hội phát sinh ra nhiều phản đề tác động từ trong bộ máy nhà nước ra ngoài, từ thượng tầng đến hạ tầng xã hội. Một trong những phản đề tích cực nhất là buôn bán tư nhân. Sự chênh lệch giá cả giả tạo từ giá chỉ đạo của nhà nước với giá thị trường, giữa vùng này và vùng khác khiến mọi người trở thành con buôn một cách rất tự giác, dù hoàn toàn không chính thức: mánh mun, móc ngoặc, tuồn hàng, chuyển hàng lậu, trốn thuế…Có một nền kinh tế tư nhân tồn tại bên dưới nền kinh tế chỉ huy. Chính nó, oái oăm thay, nuôi sống xã hội.

Xổ số, nói cho cùng cũng là một cách buôn bán. Buôn bán ở đây còn mang tính cờ bạc. Máu chơi vé số đúng là máu đánh bạc, dù trông nó có vẻ hiền từ hơn, dễ chấp nhận hơn. Đối với một thiểu số, đôi khi người ta mua vé cầu may. Nhưng hầu hết, sau cái cầu may đó, là nghiện. Chọn số, chơi số, nuôi số, rồi số cặp, số đuôi làm phát sinh số đề. Tôi không muốn nói đến cái lợi cái hại của trò chơi xổ số (chơi xổ số thực ra là một hiện tượng xã hội, một hình thức làm kinh tế như ở Hoa Kỳ), nhưng chỉ muốn nhấn mạnh đến một hiện tượng trái khoáy trong xã hội Cộng Sản: tiền lời xổ số trở thành một trong những ngân sách chính của nhiều địa phương, lại còn chi viện cho trung ương.

Xổ số trở thành một trò mánh mun của các quan chức, một trò đánh bạc phổ thông lôi kéo được sự tham gia vô cùng tự giác của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là giới nghèo. Càng nghèo, càng thiếu lại càng thích chơi vé số và số đề. Và cũng từ đó, nghề bán vé số trở thành nghề kiếm sống cho một bộ phận lớn những người không biết tìm ra được cách gì để sống giữa một thời buổi nhiễu nhương nhất của lịch sử. Trong đó không thiếu người trở về từ các trại tù và vùng kinh tế mới. Càng trái khoáy hơn, nhiều người giàu lên từ nghề bán vé số (kể cả số đề). Anh bạn tôi là một trong những trường hợp điển hình. Từ chỗ lang thang vô định như tôi, sau một thời gian dài ở tù trở về, toàn bộ gia đình ở ngoài đường suốt nhiều năm,homeless trăm phần trăm, nhờ bán vé số đã mua nhà tậu xe và sống qua được một trong những giai đoạn tệ hại nhất của xã hội.

Người bán vé số ngồi tràn ngập các ngả đường Sài Gòn với đủ thứ bàn lớn, bàn nhỏ. Đó là chưa kể các người bán vé số dạo trong các quán ăn, quán cà phê, cửa hàng. Bán vé số trở thành phong trào. Chính số lượng đông đảo người bán vé số đã khuyến khích các tỉnh, thành phố đua nhau ra vé, tăng số lượng vé. Và cũng chính điều đó khuyến khích người người mua vé số. Trên khắp các ngả đường Sài Gòn, hình ảnh các bàn bán vé số trở thành rất quen thuộc. Đi bất cứ đâu, ta cũng có thể thấy cái bàn bán vé số. Hàng ngàn, hàng ngàn bàn lớn, bàn nhỏ. Sau chiếc bàn là một người im lặng ngày này qua ngày khác. Hình ảnh đó chìm khuất, lẫn lộn giữa vô số những hình ảnh quen thuộc khác trên đường phố Sài Gòn: nước mía, xe phở, nước ngọt, trứng lộn, sách báo, bong bóng…Vào nghề bán vé số rồi, mới thấy cái thầm lặng bên ngoài đó chứa đựng một bên trong vô cùng sôi động, vì lưu lượng tiền bạc lưu thông trên thị trường vé số rất lớn.

Ngồi sau các cọc vé số tinh tươm đợi chờ khách đến, tôi luôn luôn có những cảm giác lẫn lộn. Tôi bán cho họ nhưng điều giả tưởng, một điều hầu như không hề có thật. Hơn ai hết, đối với người bán vé số, không ai nghĩ đến chuyện trúng số, vì họ biết rằng không thể trúng số được. Cảm giác tôi chắc nịch. Không phải khó trúng, mà là không trúng. Mua một tấm vé số là mua một cái vô nghĩa. Nhưng chính cái vô nghĩa đó lại chứa đựng một điều vô cùng có ý nghĩa: giấc mơ. Con người mơ, tiếp tục mơ và mãi mãi còn mơ. Ngay cả trong những lúc tuyệt vọng nhất.

*

Như thường lệ, đêm đó, sau một ngày dài lăn lộn trên đường phố, liệu không tìm ra một nơi nào tá túc qua đêm, tôi lại tìm về chỗ tạm cư thường lệ của tôi là “nhà” nguời bạn trong khu mộ. Từ đường Lạc Long Quân, tôi đạp xe vào một con đường hẻm khá lớn, cây cối um tùm. Đêm mùa thu. Trời dịu mát. Trăng thượng tuần tỏa ánh sáng dịu dàng lên khu Tân Bình hoang vắng nửa khuya. Những mái nhà thấp nằm lẫn lộn giữa các lùm cây. Đường ngang ngõ dọc lung tung. Đúng ra đó là những lối đi, chạy vòng vèo quanh các ngôi mộ. Im lặng. Càng đi sâu vào càng im lặng. Không có một chút Sài Gòn nào sôi động trong khu vực vốn đã từng là nghĩa trang này. Người chết, người sống thảy đều im lặng. Nhà nằm bên cạnh mồ mả. Hầu hết đều là nhà xây dựng theo kiểu tạm cư, vách gỗ, mái lá. Nhiều ngôi nhà của người sống ở đây không thể sánh được với những ngôi mộ. Nhất là những ngôi mộ cổ. Có ngôi rất lâu đời, ngày tháng đề từ cả thế kỷ trước, nằm nghênh ngang như thách thức với thời gian. Theo năm tháng, thành quách chung quanh, nền và bia mộ đều ngả sang màu nâu, lổ đổ như tổ ong. Có lẽ vì thế mà dưới bóng trăng, chúng mang dáng vẻ thần bí của những lâu đài nào đó trong chuyện cổ tích.

Như mọi khi, nhà chật, tôi phải treo mùng ngủ ngoài trời bên ngôi mộ. Trăng đẹp, rượu ngà ngà, cơ thể mệt nhoài, tôi thiếp đi. Một lúc nào đó, tôi bị đánh thức bởi nhiều tiếng động, tiếng la hét và tiếng súng lên đạn lách cách. Tôi vùng dậy, chưa kịp định thần thì một tay công an đã xông tới, dí súng vào màng tang bắt tôi đứng yên, trong lúc một tay công an khác còng tay tôi lại. Mùng, xách, xe đạp được đám du kích phường vơ hết thành một đùm, vứt lên chiếc xe ba gác đậu gần đó. Tất cả bọn, chừng mười mấy người, toàn những kẻ vô gia cư, bị áp tải về trụ sở công an phường.

Sáng hôm sau, lần lượt mọi người được gọi lên khai báo và làm kiểm điểm. Thì ra, công an phường phối hợp với công an văn hóa quận, mở một cuộc hành quân truy quét đám đào mộ chuyên nghiệp ăn trộm nữ trang, vòng vàng, đồ đạc của người chết. Lúc này, việc đột nhập mộ đang là một phong trào khá thịnh hành ở vùng này. Không thể kiếm chác gì được từ người sống, họ tìm cách kiếm ăn từ người chết. Thế là những kẻ vô gia cư chúng tôi bị dính.

Sau hai ngày bị giữ lại tại trụ sở công an, tôi mất đứt 500 vé số, chiếc xe đạp và nhiều thứ lặt vặt khác. Biến cố này chấm dứt nghề bán vé số của tôi và cũng dứt luôn những ngày lang thang vô định trên đường phố Sài Gòn.

Trần Doãn Nho

Trích từ bút ký “Loanh quanh những nẻo đường”, nxb Văn Mới, California, Hoa Kỳ, 2000.















Khoảng trống bâng khuâng

                                                      
Chưa đầy nửa tháng sau khi đến vùng New England giá lạnh, Doãn đã tìm được việc làm, đúng như lời quảng cáo của cô bạn khi rủ rê chị sang đây. Rời vùng nắng ấm phương Nam ra đi không làm chị mấy vui, nhưng chị muốn chứng tỏ cho Hùng, chồng chị, là chị không còn muốn dùng dằng nữa. Chị muốn chọn thực tế: dứt khoát chia tay với Hùng. Để đứa con trai ở lại, chị dẫn theo đứa con gái đang còn học high school.
            Ngày đầu tiên đi nhận việc, cô bạn chở chị đến hãng rồi đi làm.  Cô bạn dặn:
            - Có một số người Việt làm trong hãng. Tạm thời chưa có xe, tôi chở bà đi hàng ngày. Chiều, tôi có nhờ người chở bà về. Cuối tuần này, cố đi tìm xe mua rồi hẳn hay.
            Vào làm thủ tục giấy tờ, chị đụng ngay một tay supervisor người Á Đông. Mặt mày láng bóng, thân hình cao lớn, điệu bộ bệ vệ. Tóc hớt cao. Đại Hàn, chị nghĩ thầm. Anh ta lặng lẽ đưa giấy tờ cho chị điền vào, rồi tiếp tục làm việc với cái máy vi tính. Xong xuôi, bằng một thứ tiếng Anh khá sánh sõi, anh ta giải thích cho chị một số chính sách của hãng về giờ giấc làm việc, lương bổng, nghỉ phép...Anh ta nói vắn tắt, mắt không nhìn thẳng vào mặt chị, rồi chấm dứt bằng một câu hỏi đầy  nguyên tắc: 
-    Any question, Mm?
-    No, chị đáp. 
Thì có gì đâu mà thắc mắc, chị bực dọc nói thầm trong trí.
            Sau đó, anh ta im lặng dẫn chị xuống khu vực làm việc, giới thiệu cho group leader là  một thanh niên Việt nam, rồi đi ngay. Tay này trông bộ khó chơi, chị nghĩ.  Cũng chẳng sao, mình đâu phải thứ lười nhác gì mà sợ.          
            Sau khi đã làm quen với công việc được giao, chị bắt đầu nghĩ về người đàn ông.  Khuôn mặt anh ta cứ như níu kéo mãi ý nghĩ của chị. Nó gợi cho chị về một cái gì rất mơ hồ, nhưng dai dẳng. Chị cố xua đuổi ra khỏi đầu óc để tập trung làm quen với công việc mới mẻ. Nhưng vô ích. Thỉnh thoảng, khi nghe tiếng bước chân đi vòng vòng của anh ta trong khu làm việc, chị liếc nhìn. Lạ thì thật lạ, mà quen thì cũng thật quen. Cảm giác lẫn lộn đó cứ thoắt biến thoắt hiện trong đầu óc chị. Cuối cùng, chị  quả quyết: dứt khoát anh ta phải giống một ai đó trong số những người chị quen biết, có thể là quen thân.
Giờ giải lao, chị hỏi những người cùng làm thì được biết anh ta cũng là người Việt với cái tên nửa nạc nửa mỡ: Bruce Phung. Anh ta đến nhận việc ở đây chỉ chừng năm, sáu tháng.  Đặc điểm  của anh ta là: không bao giờ dùng tiếng Việt, kể cả đối với những công nhân không hề biết một tiếng Mỹ nào. Anh ta chỉ nói tiếng Anh, và khi cần, nhờ thông dịch.  Có người ngờ rằng anh ta không biết nói tiếng Việt. Nhưng đa số cho là anh ta biết, nhưng không muốn nói. Mất gốc, đôi ba người thì thào như vậy.  Tuy thế, không ai ghét anh ta, vì anh ta cư xử rất công bằng, đôi lúc có phần dễ dãi đối với công nhân là khác. Anh ta không bao giờ la mắng to tiếng.
            Biết được gốc gác như thế, chị lại càng đoan chắc anh ta phải quen lắm. Lúc đầu chỉ là những thắc mắc bình thường. Dần dà, biến thành một ám ảnh. Chắc chắn là  một cái gì đó trên khuôn mặt khiến chị bứt rứt. Trong khi thoăn thoắt đỡ những đoạn dây điện cắt ngang từ trong máy, chị tập trung đầu óc để nhớ. Chị điểm lại những người đàn ông chị đã gặp, đã quen. Những người chị có cảm tình cũng như chị ghét. Lục lại ký ức đôi lúc là một trò chơi thú vị, giúp quên mệt nhọc trong công việc, mà  thời gian lại qua mau. Lần lượt hết người này đến người khác hiện ra. Họ đến, họ đi. Họ cười, nói.  Họ đi đâu, về đâu, trải qua nhiều chặng thời gian khác nhau? Mỗi người một đặc điểm, một tính cách.  Mỗi người mang đến cho chị những cảm giác khác nhau. Có người thì nét điển hình nằm trong cử chỉ (một cái huơ tay chẳng hạn). Có người nét điển hình nằm ở trong câu nói, tiếng cười. Người thì ân cần tận tụy. Kẻ thì nghiêm nghị. Người thì chơn chất. Kẻ thì  thì sỗ sàng, trắng trợn.  Đàn ông, thứ sinh vật kỳ lạ, đã mang lại cho chị bao nhiêu thú vị, nhưng cũng không thiếu điều phiền hà. Họ nhìn ngắm, rình rập, gạ gẫm, tán tỉnh. Chị yêu một người, rồi một người nữa rồi một người nữa. Nhưng trước sau, dù yêu hay không, chị  thích mọi người đàn ông. Chị thích nhìn thấy sự  tiếc rẽ trong mắt họ, nhìn thấy sự  thèm muốn, khát khao, mê mẩn tràn đầy trên khuôn mặt họ. Chị thích nghe những lời khen của họ, dù đôi lúc, chi biết rất rõ chúng chỉ toàn là những lời sáo rỗng. Nhưng, dù gì đi nữa, khi mọi chuyện đã xong,  mọi người đều dễ thương, tội nghiệp. Họ đều xứng đáng được chị  nhớ về bằng những ý nghĩ tốt đẹp. Có lẽ chỉ trừ Hùng. Hùng là hiện tại. Mà hiện tại thì bất ưng. Quá khứ mất rồi nên đẹp. Quá khứ chẳng hề làm phiền chị. Chúng lặng lẽ, tịch mịch, hồn nhiên, nằm sâu trong đáy ký ức. Thích thì chị kéo nó lên, không thì vùi nó xuống. Chị tùy nghi. 

Tưởng là như thế, nhưng mà lạ, anh chàng supervisor này, chị không cách gì nhớ ra. Chị lầm chăng?

  *

            Ký ức là một đống hỗn tạp. Cái không muốn tìm, chúng tự dưng trồi lên: những Hải-tóc-quăn, những Hoàng, những Tùng-bủn-xỉn, Biên-thất-tình...cứ lù lù xuất hiện, dập mãi không được. Còn cái muốn tìm, chúng nhất định biến mất, y như thể chúng chẳng hề có mặt trong cuộc đời.  Rồi bỗng đùng đùng, trong một lúc nào đó, chúng trào ra, ngập ngụa, như con nước mùa đê vỡ. Trào không kịp cản.
            Một hôm, vào giờ ăn trưa thường lệ, chị muốn gọi điện thoại cho đứa con, nhưng cái điện thoại trả tiền duy nhất trong hãng bị một anh chàng chiếm lấy, giữ chặt dể nói chuyện.  Chị đứng đợi hoài, sốt ruột vì giờ lunch sắp hết. Bỗng từ  đâu đó trong văn phòng, anh chàng supervisor xuất hiện, hỏi chị:
            - You need telephone ?
            - Yes.
            Anh ta vẫy chị vào văn phòng, chỉ cái điện thoại  trên bàn. 
Gọi xong, chị quay lại nhìn anh ta, nói bằng tiếng Việt:
            - Cám ơn ông.
            - Không có gì.
            A, tiếng Việt! Lần đầu tiên, chị nghe anh ta nói tiếng Việt và thấy anh ta cười. Khi quay lưng bước ra cửa, một tia sáng chợt lóe lên trong ký ức mù tăm của chị. Chị quay lui nhìn anh, đột ngột kêu lên:
            - Thảo, anh Thảo. Cám ơn anh Thảo.
            - Không có gì.
            Trả lời xong, anh ta cúi xuống đống giấy tờ trước mặt.
            Cái nhếch mép làm phần môi  trên  phía bên phải nhích lên  khiến cái miệng như hơi méo đi một chút là của Thảo, chứ không thể của ai khác. Dấu tích nhỏ nhoi này đúng là một tia sáng xuyên vào tầng sâu xa nhất  của ký ức, đánh thức dậy tất cả mọi điều tưởng như đã yên ngủ hay tan biến hẳn. Cái nhếch môi ấy, chao ôi, là dễ ghét! Nó ngạo mạn, bất cần đời. Nó thách thức, mỉa mai. Nhưng chính cái nhếch môi ấy, chị nghĩ, lại có dính đến một phần đời của chị.

        *                                                                            

            Thực ra, đâu phải chỉ là một cái nhếch môi !
            Thuở đó, dễ chừng cũng đã gần ba mươi năm, một hôm, bỗng nhiên Doãn khám phá ra có một gia đình đến ở cạnh nhà, chênh chếch về phía trái vuông cửa sổ phòng cô. Nói bỗng nhiên, vì chỉ đến buổi chiều hôm ấy, sau một giấc ngủ trưa hè mệt mỏi, cô thức dậy mở toang cửa sổ,  chợt nghe tiếng dội nước ào ào phía bên kia hàng chìa tàu. Cô nhìn sang và đỏ mặt vì nhìn thấy một thanh niên đang tắm. Thân hình anh ta cao lớn, khá lực lưỡng, với những bắp thịt rắn chắc  đẫm nước dưới ánh nắng nồng. Cô vội khép cửa lại, băn khoăn tự hỏi anh chàng này từ đâu đến. Cô hỏi mẹ, mới hay có một gia đình đâu từ dưới quê lên xin che lều ở tạm để lánh bom đạn. Họ ở đó đã hai tuần rồi. Chỗ ở là góc của một ngôi đền đổ nát, từ lâu bỏ hoang, nơi mà thuở bé, cô vẫn thường ra  nhảy dây, chơi lò cò hay đuổi bắt với đám trẻ con hàng xóm. Cô tự nhủ: may mà mình đã lớn, chứ không thì tức biết mấy, vì bị mất chỗ chơi đùa.
            Dần dà, cô biết gia đình đó có bốn người: một bà mẹ trung niên lam lũ, và ba đứa con, hai trai một gái. Cái lều che tạm như một cái cây, lớn dần. Lúc đầu, chỉ đâu có vài miếng tôn che quanh, trên lợp ít tấm tranh. Chừng  tháng sau,  mở cửa nhìn sang, cô bỡ ngỡ khi nhìn thấy ở đó là một căn nhà tương đối đàng hoàng, có cửa ngõ, có mái. Cái cảnh nấu nướng, tắm rửa ở ngoài trời không còn nữa. Tất cả sinh hoạt biến đâu mất đằng sau ngôi nhà. Cũng từ đó, cô thấy mấy người con cắp sách đi học.  Gia đình mới và ngôi nhà  điềm nhiên hòa nhập vào trong cuộc sống thường ngày của xóm cô. Nói đúng hơn, không phải là xóm cô, mà là xóm sau, nơi  từ khi bắt đầu lớn, cô không hề đặt chân đến nữa. Chỉ cách có một hàng rào, mà cái xóm sau đó như thể là một thế giới khác, càng lúc càng xa lạ với cô, mặc dù hàng ngày cô vẫn nhìn ra  lối đi, vẫn thấy đám trẻ con nô đùa và những người lớn vô ra trong xóm. Mọi ngươi vẫn còn đó, nhọc nhằn kiếm sống. Cuộc sống nghèo hèn cùng với những cái tên nghe cũng chẳng mấy vui: chị Mận kẹo kéo, bà Dần mù, ông Bảy xích lô, chị Chắc bánh bèo,  mụ Thu bún bò, thằng Vẻ sẹo...Với sự tham dự của gia đình mới, xóm có thêm tên: mụ Bầm mắm ruốc và con Mượn lùn.  Nhà cô thuộc xóm trước, giàu có, bề thế. Ngay cái tên của cô, nghe cũng có vẻ giai cấp: Lai Doãn.
            Một hôm, trên đường đi học về, gặp mưa giông, cô chạy vào trú mưa ở một góc phố và quen với Mượn, cô con gái của cái gia đình mới ngụ cư đó. Mượn trạc tuổi cô, nhưng học thua cô hai lớp ở trường bán công thành phố. Ở quê, chiến tranh làm việc học hành của Mượn bị gián đoạn. Qua trò chuyện, cô đâm ra có cảm tình với cô gái nhà nghèo này. Hai người thân nhau.  Nhờ thế, cô có dịp trở lại xóm sau, ghé thăm nhà người bạn nghèo. Lần đầu tiên vào nhà Mượn, cô khiếp đảm: nền nhà  lổ chổ, lồi lõm, những chiếc ghế cáu bẩn, nhớp nhúa, bếp núc ám khói, chỗ ngủ là mấy chiếc giường tre ọp ẹp, ly chén thì thô tháp, chiếc mùng ngủ cáu bẩn, vá chằng vá đụp, nước uống thì đựng trong cái chum với  chiếc gáo dừa nhìn phát lợm. Đã thế còn thêm mùi ruốc kho, mùi đất, mùi tranh tre, mùi cá kho tanh tao. Tất cả hòa lẫn nhau làm cô cảm thấy như muốn nghẹt thở.  Một lần thôi, cô tự nhủ. Gặp nhau chơi đâu đó ngoài đường là được rồi.
            Nhưng, cô lại đến, vì thấy Mượn vui tính. Đến nhiều thành quen. Quen rồi đâm nghiện. Vài lần một tháng.  Rồi hàng tuần.  Sau đó thì hầu như ngày nào cũng đến. Có ngày vài lần. Lúc đầu, cô còn dùng lối cửa ngõ, phía trước nhà cô, đi vòng theo con hẻm nhỏ để vào nhà Mượn.  Sau, để cho tiện và mau, cô trổ  lối đi tắt ngang qua một khoảng hở trong hàng chìa tàu.  Nếu thích, cô đi xuống nhà bếp, vạch lá, chui ngang là đến ngay cửa trước nhà Mượn. Cô khoái mọi sinh hoạt bình dân nhưng hấp dẫn của gia đình mới ngụ cư này. Ăn cơm nguội với nước mắm. Luộc khoai. Nấu chè. Nằm võng đọc truyện. Học bài dưới ánh đèn dầu hay ngồi giữa đất làm bài, vân vân. Và tâm sự vụn.  Hóa ra nhà nghèo có những thứ thú vị riêng.  Đến một lúc, cô kinh ngạc nhận thấy cô đâm ra mê căn nhà của Mượn còn hơn nhà mình. Được ăn uống tự do. Được nghe những lời tán tụng quê mùa, nhưng chân thật của bà mẹ nghèo. Được cô bạn gái vui tính, ân cần, sẵn sàng chìu cô. Lại được có người anh của Mượn để hỏi han bài vở. Cô lại càng kinh ngạc hơn khi  khám phá ra cô còn có một ước mơ kỳ quặc khác:  ước mơ được nghèo như Mượn. Cô nói ý nghĩ đó với Mượn thì Mượn cười nghặt nghẽo:
            - Doãn muốn mỉa mai mình chăng ?  Có ai lại thích được nghèo.  Còn cái gì đau đớn hơn cái nghèo đâu, Doãn ?  Mà lại, muốn giàu thì khó, chứ muốn nghèo thì quá dễ.
            - Nào, bày cho mình đi. Làm sao để được nghèo ?
            - Thì...thì...thì..Mượn lúng túng. Để mình suy nghĩ đã. Ừ, thì ..sao nhỉ ?
            - Thấy chưa, đâu có dễ.  Nhiều lần, mình cũng suy nghĩ thử xem có cách gì để được nghèo, nhưng khó quá.
            Đúng là cô có suy nghĩ về những cái cách để được nghèo. Thậm chí, đôi lúc, chuyện đó đi cả vào trong giấc mơ.  Nhưng dường như cô không tìm hiểu tại sao cô lại cứ băn khoăn về chuyện đó như thế.   

            Một hôm, thứ bảy, như thường lệ, cô sang nhà Mượn chơi. Chuyện trò, làm bài, nấu ăn. Suốt buổi chiều. Khi trở về nhà, tự dưng, cô  bâng khuâng. Một cảm giác rất mới lạ. Như thiêu thiếu một cái gì. Đứng trên phòng,  nhiều lần cô mở cửa sổ nhìn vơ vẩn xuống nhà Mượn. Trời nhá nhem tối. Hàng chìa tàu có những nhánh cao vươn lên. Căn nhà tranh buồn bã lẫn với những bức tường rêu phong của ngôi đền cũ. Đêm đó, cô khó ngủ. Hôm sau, cô lại sang nhà Mượn. Ở lại chơi lâu hơn.  Khi về, cũng vậy, cô man mác buồn. Đầu nhưng nhức muốn đau. Cô mệt,  không muốn ăn. Mẹ sờ đầu, hỏi cô có muốn đi khám bác sĩ không. Cô đáp là chẳng có gì.
            Hôm sau nữa, cô định sang nhà Mượn, nhưng cô mở cửa sổ nhìn  một hồi lâu, rồi chần chừ không muốn đi.  Đến chiều, Mượn đứng bên kia  gọi. Cô uể oải chui qua hàng rào. Mượn nấu chè khoai trộn đậu phụng đãi cô. Cô ăn cầm chừng, nhìn quanh, hỏi:
            - Bác đi chợ à ?
            - Ừ, mẹ mình đi bán. Giờ này đâu đã về, Doãn biết mà.
            - Còn thằng Tống đâu không thấy ?
            - Câu cá sau hồ, có lẽ. Nó như con sóc, chẳng khi nào chịu ở yên một chỗ. Ngày nào cũng như ngày nào, không chịu ở nhà.
            Cô bối rối , hồi hộp hỏi tiếp:
            - Còn anh, anh gì... à anh Thảo, phải anh Thảo không, anh đi học nhỉ ?
            Mượn phá lên cười:
            - Doãn độ này lẩm cẩm quá. Bữa nay nghỉ hè, làm gì mà đi học. Anh về làng học thi.
            Trời, về làng, hèn gì! Cô cố húp hết chén chè, nói giọng ra vẻ lơ là:
            - Anh đi lâu vậy mà Mượn không nhớ à ?
            Mượn vỗ vai cô:
            - Anh có việc của anh, mình có việc của mình. Mà lại, anh là anh chứ bồ bịch chi mà phải nhớ? Ờ, mà có. Thiếu anh, mình cũng có hơi mệt với việc nhà. Nhưng không sao. Để cho anh học. Về làng học yên tĩnh hơn.
            - Anh chịu khó nhỉ ?
            - Ừ, lên đây, anh học nhảy hai lớp đó, vì ở quê bị trễ hai năm. Năm nay thi tú tài bán.
            Đêm đó về, cô tự thú với lòng mình:  cô nhớ anh Thảo của Mượn. Thì ra lâu nay, cô thích đến chơi với Mượn chỉ vì cái anh chàng Thảo này. Cô tự hỏi: chẳng lẽ mình mà lại, mà lại....cái anh chàng Thảo đó. Đúng là cô phải ghét cái anh chàng nhà nghèo mà khó thương đó chứ! Gặp cô, thấy cô chào, anh ta chỉ gật đầu nói nhỏ “chào cô”, rồi đi mất. Hỏi anh ta một bài toán khó, anh ta chỉ vẻ vội vàng, xong là đi ngay.  Cô ở nhà trên, anh ta xuống nhà dưới.  Cô ở trong bếp với Mượn, thì anh ta ra ngoài sân. Thỉnh thoảng, cô nhìn anh ta, nói một câu pha trò gì đó, anh ta chỉ cười nửa môi.  Phần môi trên phía bên phải hơi nhếch lên, nhìn thấy ghét không chịu được. Nhiều lần, tức quá, cô ăn mặc thật đẹp, xuống nhà Mượn.  Anh ta vẫn thế, nhìn cô chào qua loa rồi bỏ đi, không thèm ngắm nghía, không tỏ ra bối rối, không...gì cả. Thỉnh thoảng, cô dò hỏi Mượn xem anh ta có bình phẩm gì về cô không, Mượn cho biết anh ta chẳng nói gì cả. Qua lời Mượn, cô chỉ biết anh ta vừa đi làm vừa đi học. Học hành siêng năng, chăm chỉ. Ai kêu việc gì cũng đi làm: dạy kèm, phụ thợ nề, bốc vác...
            Anh chàng vắng mặt cả tháng trời. Mấy ngày đầu, cô chỉ hơi buồn buồn. Dần dà, cô nhớ. Rồi nhớ quay, nhớ quắc. Từ căn phòng, cô mở cửa nhìn qua hàng chìa tàu, trông ngóng. Mượn gọi, cô chần chừ không muốn đi. Nhìn đâu, cô cũng thấy anh chàng Thảo. Đầu húi cao, chiếc áo sơ mi trắng mỏng, sờn. Chiếc quần xanh nội hóa, bạc thếch. Chiếc xe đạp đàn ông, không có chắn bùn, để trơ ra hai bánh xe trông giống người ốm ở trần. Khi đi, dáng hơi khum về phía trước. Giọng nói  chắc nịch. Anh ta đi đi về về. Thỉnh thoảng cô thấy, thỉnh thoảng cô không thấy, nhưng biết chắc anh ta ở đâu đó, quanh cô. Cô yên trí vui chơi, học hành, ngủ ngáy. Giờ anh ta đi rồi, cô thấy mọi thứ trong đời trông chênh vênh, lấp lửng. Ngày, cô nghe chung quanh lao xao liếng xiếng  như thể sắp có chuyện gì xảy ra. Đêm, cây cối, nhà cửa, ghế bàn lặng im thin thít, y như sợ hãi một ai.
            Anh chàng trở lại. Nắng vỡ òa cùng với tiếng ve kêu ầm ĩ. Hàng chìa tàu lớn thêm một đoạn. Xóm sau, người vô ra tấp nập. Đám trẻ con cũng túa ra đường rộn ràng chơi giỡn. Thảo về. Cô xuống Mượn chuyện trò ríu rít. Lại nấu chè. Chiên cơm.  Luộc khoai. Làm bánh. Thảo vẫn thế, không biểu lộ một cái gì khác đối với cô. Nhưng bây giờ cô chẳng lấy đó làm phiền.  Sao cũng được, miễn Thảo quanh quẩn ở đâu đó. Cô thích mọi thứ nơi anh ta. Dáng đi. Điệu nói. Thái độ nghiêm nghị, pha chút kiêu ngạo vô lý. Cái nhếch môi bất cần đời. Cái áo sờn. Cái quần cũ. Chiếc xe đạp vứt ngoài đường không ai thèm lấy. Cô yêu mến căn nhà tồi tàn này. Mùi đất. Mùi ẩm mốc. Ghế giường xọp xẹp, cáu bẩn. Chiếc mùng vá chằng vá đụp. Son quánh, chén đũa, ly tách rẻ tiền cái sức, cái mẻ, cái móp. Những bữa ăn vô cùng đạm bạc:  rau dền chấm nước ruốc, cơm nguội chan nước mắm ớt, cá cấn kho khô, canh bắp chuối, bánh canh bột lọc nhân đậu, không tôm thịt. Cô thương bà mẹ tóc rối, khuôn mặt già trước tuổi, hai bàn tay cục mịch xắt chuối, quậy cám heo, rửa rau, giọng nói nhà quê chơn chất, khi nào cũng “cô cô tui tui” với cô.  Mượn vui tính, chân thành. Thằng Tống ngoan ngoãn.
            Và cô đâm phiền với cái sạch sẽ, ngăn nắp, phú quý của nhà cô. Cái nền nhà lót gạch hoa láng bóng trông vô duyên tệ.  Tủ buýp phê với bao ly, tách, tượng, bình hoa, máy nghe nhạc, quạt trần trông thừa thãi. Cô cũng không ưa những ông, những bà ăn mặc sang trọng, bạn bè của ba má thường đến nhà cô, rượu trà, nhậu nhẹt, cười đùa sảng khoái. Cô ghét đám bạn học của anh cô, chị cô và cả của cô. Cô cũng ghét luôn cái trò  tặng quà, rủ đi cắm trại, đi xi nê, đi picnic.
            Cô thích nghèo. Thích lạ lùng. Thích da diết. Thích hết thảy những gì mà cái nghèo sản sinh ra: sự chơn chất, bẩn thỉu, thiếu thốn. Thích Thảo. Vì sao? Cô không rõ vì sao. Trong thâm tâm cô, cô ao ước một ngày vật đổi sao dời thế nào dó để cô có thể yêu Thảo thoải mái và lấy Thảo.
            Hè năm đó, Thảo thi đậu tú tài bán. Cả nhà Mượn vui. Cô vui. Ngoài cái vui vì thấy gia đình Thảo vui, cô có một cái vui riêng khác: chiếc bằng tú tài nâng Thảo lên một bậc, khiến khoảng cách giữa hai gia đình thu hẹp lại, nhờ đó, biết đâu, ước mơ của cô có thể thực hiện được. Nhưng đùng một cái, gia đình Thảo ra đi. Đột ngột. Đi hẳn. Không thư, không từ, không liên lạc. Căn nhà và toàn bộ người trong gia đình Thảo biến mất y như chẳng hề có ở đó.
            Cô bàng hoàng, ngã bệnh.                                                                  
*

            Đúng là Thảo của chị mấy chục năm về trước. Chính cái nhếch môi của anh đã nhắc chị nhớ lại những ngày tháng xa xưa đó, mà bao năm rồi, chị không hề nhớ. Chị yêu. Đó là một thứ tình yêu đầu đời, lặng lẽ và đơn giản, vô cùng đơn giản.  Một tình yêu đơn phương, theo kiểu nói thời thượng hồi đó. Nếu Thảo còn ở đó, thì sao chẳng rõ. Thảo đi rồi, mọi thứ như tan vỡ , vụn vằn trong đời chị. Cô học trò Lai Doãn mười bảy tuổi mất phương hướng. Buồn. Chán. Đau đớn. Hụt hẫng. Chênh vênh. Dường như có cả năm trời sau, cô mới lai tỉnh.
            Một hôm, chị có việc vào gặp Thảo để điều chỉnh chuyện lương bổng.  Sau khi xong, chị đứng lại, ngập ngừng hỏi:
            - Xin lỗi, nếu tôi nhớ không lầm thì ông là ông Thảo, anh của Mượn, ở kế nhà tôi hồi đó.  Tôi là Lai Doãn.
            Anh ta tỏ vẻ hơi ngạc nhiên,  nhìn chăm chị một lát, rồi nói:
            - Lai Doãn. Cô Lai Doãn. Tôi nhớ. 
            Chị định hỏi thêm đôi điều nữa, nhưng anh ta đã cúi đầu xuống trên đống giấp tờ, tiếp tục làm việc. Chị bực mình, đi ra, lẩm bẩm: “Cũng chẳng khác gì ngày xưa, cái anh chàng dễ ghét này”. Từ đó, chị không có ý định hỏi thêm anh ta bất cứ điều gì nữa.
            Chừng một tháng sau, chị nhận được một hộp nhỏ gửi qua đường bưu điện. Đó là một hộp giấy cứng, gói ghém cẩn thận.  Mở hộp, một tấm thiệp kèm theo một lá thư ngắn rơi ra. Chữ viết nắn nót, tròn trịa:

            Tháng 3/19…         
Cô Lai Doãn,
            Đáng lẽ món quà này sẽ đến với cô vào ngày sinh nhật  của cô nửa năm sau, ngày 18 tháng 9.  Nhưng món quà này đã đợi cô quá lâu, đến những hai mươi sáu năm, sáu tháng và ba ngày.  Tôi nhận ra cô ngay khi cô vừa mới đến làm việc, dù có ít nhiều thay đổi.  Đôi mắt cô, như ngày nào, dễ gì quên được!  Gia đình tôi không còn ai.  Bà già mất trước 1975.  Mượn và đứa em út chết trên đường vượt biên.  Tôi sang đây từ năm 1975.
            Xin được hoàn lại cố chủ, như một gợi nhớ về những ngày xưa không thể nào tìm lại được.  Chúc cô vui.

                                                                        Phùng Tiến Thảo.
 
Đọc xong, chị ôm lấy ngực, cảm thấy ngộp thở. Chị run run mở hộp quà. Xé hết băng keo dán, chị sửng sốt khi thấy chẳng có gì ngoài một lô toàn những mảnh giấy học trò cũ rích, một số ảnh vàng ố, ít sợi tóc, và cuốn sổ ghi chép nhỏ. Và tất cả đều là của chị. Chị vội vàng cầm những tấm ảnh lên xem. Thì ra là ảnh chị chụp hồi nhỏ: ảnh chụp riêng, ảnh chụp chung với Mượn. Còn những mảnh giấy thì là nét chữ chị viết đủ hình dáng: vuông có, tròn có, hình chữ nhật có, hình nhiều cạnh có...Chúng được cắt xén cẩn thận  quanh những chữ ký, hoặc những hàng chữ mà chị viết bậy bạ cho vui khi ngồi trên bàn hay ngồi đâu đó ở nhà Thảo. Nhiều nhất là chữ ký. Ký ngang, ký dọc. Có những giòng chữ đại loại như “đêm buồn”, “những chiều vui”, “chiều nắng đổ ngoài hiên”, “trời, chè ngon quá”, “có cái chi đây mà quên mất”, “cái con khỉ”, “tình chỉ đẹp khi còn dang dở”...Những hàng chữ viết nguệch ngoạc, vu vơ.  Cũng có những trang giấy nháp làm toán đại số, hình học, mấy bài thơ học trò chị chép cho Mượn, cuốn sổ nhỏ ghi nhạc, thơ và những việc phải làm trong ngày, các ngày giỗ, ngày nghỉ học. Lục lọi hết thảy những thứ để trong hộp, chị có cảm giác như tất cả những vết tích gì mà chị để lại nhà Thảo đều được Thảo thu gom lại, cất giữ, không sót một thứ gì, kể cả những sợi tóc, hẳn là vương vãi vô tình đâu đó trên trang giấy mà chị viết ngày nào.
            Ôi, Thảo! Chị kêu lên, đôi mắt nhòe nhoẹt. Cả một thời mộng mị hiển hiện trở lại. Vuông cửa sổ. Hàng chìa tàu. Lối đi ngoằn nghoèo vào xóm. Ngôi nhà tồi tàn với mùi đất, mùi ẩm mốc. Rồi mùi ruốc kho. Cơm chiên. Khoai luộc. Chè chuối. Và anh chàng Thảo đi vào đi ra áo sờn quần bạc. Ôi, cái nghèo yêu dấu biết bao nhiêu! 
            Tình yêu! Phải, tình yêu. Chị bâng khuâng nhìn vào khoảng không và tự  hỏi: có phải món quà này là lời tỏ tình kỳ lạ nhất mà chị nhận được vào cái tuổi mà tình yêu chỉ còn là một âm vang không còn mấy ý nghĩa. Thảo ơi, nếu Thảo biết được rằng, hồi đó, cô bé Lai Doãn mười bảy tuổi  đã quay quắc như thế nào khi bỗng Thảo không còn ở đó nữa y như thể Thảo đã biến mất khỏi trần gian. Cô bé đau. Cô bé chết đứng chết ngồi bên vuông cửa sổ, khi nhìn qua hàng chìa tàu, chỉ thấy bức tường gạch cũ rêu phong, cây bông sứ  khẳng khiu, chơ vơ, buồn thảm. Cô bé nhớ mùi ruốc kho, mùi cám lợn, mùi chè khoai, nhớ chiếc bàn gỗ sần sùi với hai chiếc ghế đẩu mà có lần cô bé suýt bị rách quần khi ngồi xuống vì bị cái đinh sút ra ngoài, móc phải. Cô bé cứ ngồi bần thần ngắm mải cái khoảng trống nơi hàng rào mà cô bé chui qua chui về biết bao nhiêu lần. Thảo đi rồi, cái khoảng trống dần dần bị bít lại vì những nhánh chìa tàu đâm chỉa ra. Có lần, cô bé tức, cô bé tìm cách bẻ hết chúng đi. Nhưng làm sao được, chỉ một thời gian ngắn sau, chúng mọc ra lại. Chúng vô tình, cô bé biết. Nhưng mỗi lần mở cửa sổ ra nhìn, cô bé cứ có cảm giác như chúng đồng lõa với Thảo, cố tình khép lại, khép hẳn đi của cô bé một đoạn đời. Cô bé đau lòng lắm, vì cô bé biết cô bé đã yêu. Cô bé ngã bệnh. Rồi cô bé lành. Tức quá, cô bé tìm cách quên. Và quên được. Hai mươi sáu năm (Thảo nhắc cô bé mới biết, đã hai mươi sáu năm). Thời gian quá dài, đủ để vùi chôn tất cả, sá gì những kỷ niệm mong manh thuở đầu đời.

             Trong thoáng chốc, chị hóa thân thành cô bé Lai Doãn ngày nào. Chị rươm rướm nước mắt, thẩn thờ nhìn ra ngoài. Phố xá. Xe cộ. Buyn- đinh. Mọi thứ chung quanh đều giàu có, no đủ. Hình dáng anh chàng supervisor mặt mày trắng trẻo, bệ vệ và xa cách. Tìm đâu ra mái tranh, con đường hẻm, cây bông sứ, ngôi đền cũ. Còn đâu anh chàng Thảo cục mịch, nghèo hèn và dễ ghét. Còn đâu  mùi... nghèo. Và tìm đâu ra hàng chìa tàu với cái khoảng trống bâng khuâng để chị chui qua chui về một thời tuổi thơ mộng mị ! 

                                                                                                                    

Ký “Một đêm”, trong “Loanh quanh những nẻo đường”, bản dịch Anh ngữ Tôn Thất Quỳnh Du trên tạp chí văn học Úc “Meanjin” số 2/2015:






















Họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi ghi








Phỏng vấn


















Trò chuyện cùng Trần Hoài Thư
về Thư Ấn Quán & Thư Quán Bản Thảo

Trần Doãn Nho




Tôi quen với Trần Hoài Thư từ trước năm 1975. Trước hết, đọc nhau qua tờ Văn, Bách Khoa. Sau, gặp nhau ở Huế đôi lần, khi anh về phép. Cà phê, cà pháo, đấu láo chuyện nước chuyện nhà, chuyện văn nghệ văn gừng linh tinh. Rồi anh ra đi, trở lại chiến trường máu lửa. Còn tôi vẫn ở thành phố học hành, rong chơi. Văn chương của anh là văn chương của chiến trận, của con người nằm giữa cái chết và cái sống. Văn chương tôi là văn chương thành phố, văn chương của một người suy gẫm…chuyện đời.

Hai mươi mấy năm sau, chúng tôi gặp nhau lại tại Mỹ. Nhiều lần, qua các sinh hoạt văn chương. Thỉnh thoảng, anh ghé nhà tôi chơi. Tôi cũng đôi lần ghé thăm anh, ở một nơi khá yên tĩnh của thành phố Plainfield, tiểu bang New Jersey. Nhà chỉ có hai vợ chồng. Hiện nay, cả hai anh chị đều đã về hưu. Ngoài những sinh hoạt bình thường hàng ngày và chăm sóc hai đứa cháu nội, anh, với sự tiếp tay vô cùng nhiệt tình của chị, đều dành hết thì giờ để lo chuyện văn chương.

Khác với nhiều người khác, ngoài chuyện góp mặt bằng những sáng tác mới, anh dành hết thời gian, cặm cụi làm một công việc mà không ít người cho là …vô ích và lỗi thời: lục tìm, in lại những tác phẩm đã xuất hiện ở miền Nam trước năm 1975. Bất chấp những lời đàm tiếu, anh vẫn …đường ta ta cứ đi. Kết quả là cho đến nay, anh đã xuất bản được:

– Bộ Văn miền Nam (4 tập, tổng cọng 2200 trang)

– Bộ Thơ miền Nam (5 tập, tổng cọng khoảng 3000 trang) gồm: Thơ miền Nam thời chiến (tập I &II), Thơ tình miền Nam, Lục bát miền Nam, Thơ tự do miền Nam.

– Chiến tranh Việt Nam & Tôi (thơ Nguyễn Bắc Sơn)

– Thơ Vũ Hữu Định toàn tập

– Kỷ vật cho em (thơ Linh Phương)

– Túy ca (thơ Hoàng Hương Trang)

– Bốn tập thơ của Hoài Khanh

– Những tháng năm cuồng nộ (truyện dài cùa Khuất Đẩu)

– Tuyển truyện Sáng Tạo

– Văn các số 121, 132, và số chủ đề Thanh Tâm Tuyền.

– Tuyển truyện Một Thời Ý Thức

– Cúi mặt (truyện dài của Bùi Đăng, do Thái Phương xuất bản năm 1969)

– Đốt tuổi (thơ Phan Nhự Thức)

– Điệp khúc tình yêu & trái phá (thơ Kiệt Tấn)

– Tuyển truyện Y Uyên

– Lẽo đẽo một phương quì (thơ Từ Thế Mộng)
– Đan tâm (thơ Phạm Ngọc Lư)
– Vũ trụ thơ I & II (tiểu luận của Đặng Tiến)
và:
– Tạp chí Thư Quán Bản Thảo. Tạp chí ra 2 tháng ra một số, hiện nay đã vào năm thứ 10. Số mới nhất là 41 phát hành tháng 2-2010, có chủ đề liên quan đến di sản văn chương miền Nam.

Theo tôi, đó là một công trình lớn, nếu không nói là lớn nhất, ở Hải Ngoại về mặt bảo tồn một nền văn học đã bị bức tử.

*

Nhân một buổi gặp gỡ bạn bè đầu năm Canh Dần, hai chúng tôi trò chuyện với nhau về công việc làm đầy ý nghĩa của anh trong thời gian qua. Xin ghi lại để chia xẻ cùng bạn đọc.

Trần Doãn Nho (TDN): Ta hãy bắt đầu bằng cái tên. Theo tôi biết, hiện có hai cái tên, một là Thư Quán Bản Thảo (TQBT) và một là Thư Ấn Quán (TAQ). Đó là hai cách gọi của cùng một công việc hay là để chỉ hai việc khác nhau?

Trần Hoài Thư (THT): Hai tên để chỉ hai công việc khác nhau, anh à. Chúng tôi có hai cơ sở. Một là Thư Quán Bản Thảo, tạp chí văn học nghệ thuật. Và một là Thư Ấn Quán, cơ sở xuất bản. Thư Quán Bản Thảo là một tạp chí. Số 1 được thực hiện xong vào tháng 10-2000, dày khoảng 100 trang. Ban chủ trương gồm 4 người, mà ba người đều tuổi ngựa (sinh năm 1942). Khi báo chuẩn bị gửi thì biến cố 9/11 xảy ra. Tôi phải tháo bìa làm lại, thêm trang phụ bản về hai tòa nhà “TWIN TOWERS” đang ngùn ngụt trong lửa khói. Thư Quán Bản Thảo số ra mắt, như thế, mang một dấu ấn lịch sử rất đặc biệt. Từ 100 trang cho số 1,2, tăng lên 200 trang cho số 3, và số mới nhất (41): 255 trang !

TDN: Anh là một trong bốn người. Vậy ba người kia là ai, thưa anh?

THT: Phạm văn Nhàn, Trần Bang Thạch và Cao Vị Khanh.

TDN: Tại sao lại là Thư Quán/Bản Thảo?

THT: Bây giờ, không giấu gì anh. “Bản thảo” tôi lấy từ Ý Thức Bản Thảo, tên một tạp chí bất định kỳ trong nước ra một năm một số, mục đích là phổ biến văn chương nghệ thuật rất hạn chế trong vòng anh em thân hữu từng cọng tác với tạp chí Ý Thức trước 1975. Nó nói lên một điều: những người cầm bút trẻ thời trước 1975, vẫn tiếp tục viết, vẫn còn say mê với chữ nghĩa. Tôi đã tìm qua hai chữ Bản Thảo một ý nghĩa bi tráng hơn: văn chương bộ lạc. Và tôi đã dùng tiếng “bản thảo” này như một sự cảm thông, chia xẻ với anh em cầm bút trong nước. Còn Thư Quán thì anh chắc hiểu rồi. Thư là tên tôi. Vậy thôi.


TDN: Văn chương bộ lạc! Nghe ngồ ngộ. Anh nói rõ hơn ý nghĩa của cụm từ này được không?

THT: Anh hãy nghĩ đến một nhóm người mất hết buông bản, dắt dìu nhau giữa một thế giới không thuộc về của họ. Ở Mỹ chúng ta vẫn hằng nghe về bộ lạc da đỏ. Họ tụ tập với nhau, nhảy múa và hát những bài hát cổ truyền quanh lửa trại. Ở đây, không phải nhảy múa mà là sáng tác, văn chương…

TDN: Thì ra thế. Vậy ta có thể nói, anh thành lập Thư Quán Bản Thảo và Thư Ấn Quán là để cho cái bộ lạc thời đại này khỏi bị tiêu diệt, đúng không? Bằng cách in lại những tác phẩm cũ trước 1975, mà anh gọi là “Tủ Sách Di Sản Văn Chương Miền Nam.”

THT: Đúng mà không đúng, anh à. Tạp chí Thư Quán Bản Thảo không nhất thiết chủ trương sưu tập để đăng lại những tác phẩm của các tác giả cũ. Với khoảng 230 trang, chúng tôi thường dành 100 trang cho một chủ đề nào đó. Ví dụ chủ đề Nguyễn Bắc Sơn (số 20), Nguyễn Nho Sa Mạc (số 26), Hoài Khanh (24), Phan Nhự Thức (số 27), Từ Thế Mộng (số 29), Lê văn Trung (số 34) hay Vũ Hữu Định, Trần Dzạ Lữ, “Thơ văn khói lửa” hay Y Uyên v v… Phần còn lại dành cho những bài vở mới sáng tác do thân hữu gởi về đóng góp. Tạp chí dự trù ba tháng ra một số, nhưng vì sự đón nhận cũng như lòng thương mến của người đọc quá nồng nhiệt nên đổi thành hai tháng. Sau gần hai năm, vì điều kiện sức khỏe không cho phép, nên đổi thành tạp chí bất định kỳ. Chỉ một mình tôi lo từ A-Z nên cho dù muốn duy trì liên tục, cũng không được anh à. Ngoài phần chủ đề, tạp chí cũng có những ấn bản đặc biệt gồm những tác phẩm sưu tầm nhằm giúp người đọc có cái nhìn toàn bộ về sự nghiệp của tác giả. Ví dụ chủ đề Hoài Khanh, tôi in thêm 3 tập thơ của ông truớc 75 làm phụ bản : 1) Thân phận 2) Lục bát 3) Gioù baác, treû nhoû ñoùa hoàng vaø deá để tặng độc giả khi có yêu cầu.

Riêng cơ sở Thư Ấn Quán không nhất thiết xuất bản sách trong Tủ Sách Di Sản Văn Chương Miền Nam. Chúng tôi còn xuất bản những tác phẩm mới của bạn bè ở trong nước, những người không có điều kiện để xuất bản. Chúng tôi thay mặt họ tặng biếu độc giả Thư Quán Bản Thảo và thân hữu của tác giả. Ngoài ra chúng tôi tìm cách chuyển về họ chừng 5, 10 tập để làm quà.


TDN: Như thế thì, Thư Quán Bản Thảo theo đúng chủ trương “chỉ biếu, không bán”, theo như lời giới thiệu? Mà nếu không bán, thì anh có nguồn tài trợ nào không?

THT: Mọi việc đều miễn phí. (Cười) Cứ hy sinh đừng đi du lịch bằng cruise sẽ có đủ tiền in hai tác phẩm cho bạn bè. Dễ lắm mà! Nói đùa với anh cho vui.

Đúng như anh nói, tạp chí Thư Quán Bản Thảo và hầu hết các tác phẩm do Thư Ấn Quán xuất bản đều được rao: “Chỉ tặng khi có yêu cầu”. Có nghĩa là chúng tôi chỉ gửi đến quí vị nào muốn đọc, chứ không tặng bừa bãi. Đổi lại, họ cho chúng tôi tấm lòng ưu ái ân cần. Chính cái tình giữa người đọc và tác giả mới quan trọng. Có những người đọc ở Mỹ về nước, tìm đến tác giả mà thăm hỏi. Khi bão lụt, những người đọc hỏi thăm qua chúng tôi về tình trạng người viết trong nước ra sao. Họ giúp người cầm bút cũ miền Nam trong nước hiểu được là họ không bị bỏ rơi, sáng tác của họ vẫn được đón nhận ở hải ngoại.

Tôi kể ra đây một trường hợp để nói lên cái tình sâu đậm này. Một người cựu sĩ quan nhảy dù gởi thư đến chúng tôi cần tìm tác giả bài “Biên cương hành” là nhà thơ Phạm Ngọc Lư để tỏ lòng cám ơn, vì năm 1972, khi anh bị thương trên đồi Thường Đức ở Quảng Nam, trong lúc chờ trực thăng tới bốc, anh đã đọc bài thơ này trên Văn, và có ý nghĩ viết thư tỏ lòng cám ơn sau khi về hậu cứ vì bài thơ đã diễn tả đúng với tâm trạng anh lúc ấy. Giờ đây, được đọc lại trên TQBT, anh muốn nhờ chúng tôi tạo nhịp cầu.

Và mới đây, hôm 11 tháng 3/2010, thêm một người đọc nữa hỏi thăm về nhà thơ Lê văn Trung. Anh ấy kể đã thuộc những câu thơ của Lê Văn Trung trong tù và mang trong tâm trí đến bây giờ. Nói tóm lại, TQBT ít ra cũng là một mái nhà còn lại cho anh em cầm bút cũ tìm đến, nương tựa, gìn giữ nhau.

Riêng câu hỏi: Nguồn tài trợ ở đâu? Xin trả lời: người đọc. Họ tiếp trợ tạp chí qua tem thư hay những món quà lì xì vô điều kiện. Và nhất là chúng tôi có thể in số lượng tùy theo nhu cầu của người đọc từ phương pháp “Print-On-Demand” (In theo yêu cầu), cộng thêm cái nhà in mà tôi tự lập, từ những program mà tôi tự viết, với những sáng kiến mà tôi tự nghĩ hầu in ấn được mau chóng, tự động hóa. Đó là lối đánh giặc nhà nghèo anh à.

Nói thì nói thế, chúng tôi cũng có bán. Các sách bán là các bộ sách dày, in ấn rất tốn kém, lại đòi hỏi công sức rất nhiều như bộ Văn Miền Nam, bộ Thơ Miền Nam. À quên nữa, có một cuốn rao bán là “Tuyển truyện Y Uyên”, mục đích để lấy tiền làm quỹ cho việc tu bổ tượng đồng nhà văn Y Uyên. Khi số tiến ấn định đã đạt, chúng tôi ngưng bán ngay.


TDN: Anh cho biết qua cách làm việc của anh trong việc in ấn và phát hành.

THT: Sau mười năm kinh nghiệm, tôi đã thu thập hiểu biết khá nhiều trong lãnh vực in ấn. Về keo, về giấy, về bìa, về cách dàn trang (layout), về nhu liệu (software) nào nên dùng hay không nên dùng, về những cơ phận của máy in… Tất cả đều tự học qua biết bao nhiêu lần thất bại. May mắn tôi có ít nhiều kinh nghiệm về điện toán nên áp dụng nó tối đa trong việc in ấn. Giờ đây, nếu anh đưa tôi một CD hay gởi tôi một hồ sơ (file), thì bảo đảm chỉ hai giờ sau là anh có tối thiểu bốn tập đàng hoàng (từ khi bắt đầu dàn trang, trình bày bìa, in trang ruột, đóng và cắt). Tất cả đều có khuôn mẫu (template) sẵn. Sau đó, tôi gởi sách tặng, hay rao trên trang mạng Thư Quán Bản Thảo. Vì không đặt nặng lợi nhuận nên không bận tâm mấy đến việc phát hành. Ai thích, hỏi, thì tôi in. Có sẵn trong máy. Chỉ việc bấm nút rồi cần 10 phút là xong ngay. Vậy thôi. Bà xã tôi hay đùa với bạn: Anh Thư nhà tôi “lấy công làm lỗ”!

TDN: Không lỗ đâu, mà còn lời nữa. Lời tình bạn, lời văn chương.

Bây giờ hãy trở lại chuyện in ấn. Như vậy, để tự làm, anh phải sắm một cái máy in, đúng không? Anh dùng loại máy in gì? Nếu là “bí mật nghề nghiệp” thì…

THT: Chẳng có bí mật nghề nghiệp gì ở đây hết. Hiện tại tôi có 4 máy in loại HP 5SI để in trang ruột. Loại máy in này là loại máy in dùng trong văn phòng khác với loại máy in trong xưởng. Nó rất phổ thông cách đây chừng 10 năm, vận tốc 24 trang/ một phút. Có thể in duplex (hai mặt). Bây giờ nó đã lỗi thời. Kỹ thuật đã chế các loại máy có thể in trên 100 trang /một phút. Vì lỗi thời nên nó được bán rất rẻ. Trên trang mạng Ebay, tôi mua khoảng 100 đô la một máy, cọng thêm cước phí chuyên chở khoảng 100 đô la nữa. Sau đó tháo ra, tha từng cơ phận xuống dưới tầng hầm rồi lắp lại. Anh nghĩ xem, mỗi cái máy nặng hơn trăm pounds, tức là cả 50 ki-lô, làm sao mà khiêng, trong khi tôi một thân một bóng, chẳng có ai tiếp trợ và nhất là với cái thân hình “kinh tế mới” của tôi! Phải dùng trí óc anh à.

Riêng máy in màu để làm bìa, tôi đã thử rất nhiều loại máy, và tốn tiền khá nhiều cho mực màu laser. Cuối cùng tôi chọn máy HP CP1215. Rẻ lắm. Nhưng mực bột rất mắc. Chính vì thế, tôi mới mua những “chip” made in china, khoảng 2 đô la để dùng lại (refill). Đúng là Cộng Sản chơi tư bản. Công ty Mỹ muốn ăn tiền ở việc bán mực bột laser, nên làm “tiêu nhanh”, “tiêu lẹ” mực, còn Cộng Sản Tàu thì chế loạichip mới thế vào chip cũ, ta cứ tha hồ mặc sức in!

Ngoài máy in ra, còn những kỹ thuật khác cũng rất quan trọng không kém. Ví dụ:nhu liệu (software) chạy máy in loại HP thì khác với máy in loại Dell. Ví dụ: vì không dùng dây nối (wireless), đôi khi các dữ liệu (data) bị nghẽn, ngừng một lúc rồi in lại, do đó trang in cũng bị hỏng. Nhất là tôi có sáng kiến dùng loại giấy dán tường (wallpaper) để thế bookcloth (vải bọc dán bìa cứng) vì giấy dán tường là loại giấy không thấm nước. Hơn nữa nó đã là một tác phẩm nghệ thuật để ta khỏi mất công nhờ họa sĩ vẽ tranh bìa. Có điều, làm sao để in khổ lớn (khổ tabloid, 11×17) bằng một loại máy in nhỏ hơn (khổ 8.5×11) trong khi một mặt là keo khi chạy qua máy in rất dễ bị cuốn vào trục? Tôi đã nghĩ đến nát óc mới tìm ra cách. Tôi cũng mua nhiều sách về bookbinding (đóng sách) để học hỏi. Nhưng thú thật sách chỉ giúp về phương diện tiêu khiển thì giờ chứ không phải cho một mạng lưới (network) nhiều máy in, không dây nối (wireless), phải kiểm soát chặt chẽ dữ liệu (data) vì có khi chúng bị tắt nghẽn trên đường đến máy in đặt ở xa. Với hệ thống 4 máy in này, tôi có thể in được chừng 50 tập (mỗi tập 200 trang) mỗi ngày. Tuy nhiên cái quan trọng nhất là đóng, dán, cắt. Tôi phải tự làm từng tập. Hơi keo bốc nồng nặc, thêm cái máy cắt cỗ lỗ sĩ. Rồi bìa phải xếp (folding) trước khi dán vào gáy sách. Riêng Bô Thơ Miền Nam thì vất vả bội phần. Anh có tin là trong những chuyến đi xa, nhà tôi làm tài xế và tôi ngồi ở băng sau, khâu những tập dày gần cả ngàn trang không? Nhiều khi tôi ao ước được trúng số để có tiền in bên Hồng Kông. Nhưng vì không thể đợi trúng số, nên đành phải gắng làm. Vì nếu mình không làm thì ai làm. Nghĩ lại, tôi không hiểu tại sao mình có thể chịu đựng được…

TDN: Chỉ trong vòng có mấy năm mà thực hiện hai bộ Thơ và Văn hàng ngàn trang, từ sưu tầm đến đánh máy, dò đọc chính tả, dàn trang, làm bìa, rồi in, đóng, dán, cắt… và mang ra bưu điện! Khiếp thật!

THT: Hai năm và tổng cộng gần 5000 trang, anh à.


TDN: Đó là chuyện in ấn. Còn chuyện sưu tầm, tìm kiếm lại tác phẩm của những tác giả trước 1975, và một số tác phẩm sau này của các tác giả còn ở trong nước, anh phải làm sao?

THT: Những tác phẩm trong tủ sách Di Sản Văn Chương Miền Nam phần lớn là chúng tôi sưu tầm, và tác giả không còn giữ. Trước khi in, chúng tôi cố gắng liên lạc với tác giả hoặc thân nhân tác giả. Có người đồng ý, có người không. Ví dụ chúng tôi đã có dự án sưu tầm thơ Nguyễn Tất Nhiên sau khi hoàn tất dự án sưu tầm thơ Vũ Hữu Định nhưng cuối cùng không thể thực hiện được, mặc dù tôi có sưu tập thêm một số bài thơ thất lạc của ông. Cũng như muốn tái bản tập thơ Mắt cỏ của Hoài Lữ, nhà thơ đã tử trận ở Bình Chánh vào năm 20 tuổi, nhưng niềm mong ước cũng không thành.

Tưởng cũng cần nói với anh là những tác phẩm in lại này chúng tôi đều không bán, in để tặng, hoặc cố tìm cách chuyển về nước để người nhà có dịp để trên bàn thờ trong ngày giỗ kỵ, ví dụ thi phẩm Vàng lạnh của Nguyễn Nho Sa Mạc hay tác phẩm Tuyển truyện thời chiến của Y Uyên.

Còn những sách sau 1975, đối với anh em trong nước, không có phương tiện, tôi in giúp, thay mặt họ tặng thân hữu ở hải ngoại. Tính đến nay, tôi đã in 20 tác phẩm như vậy.

Riêng đối với Bộ Văn/Thơ Miền Nam, chúng tôi bán vì quá tốn công, tốn sức. Sách nào cũng gần 800 trang. Tôi chỉ chú trọng vào sáng tác đăng trên các tạp chí thay vì tác phẩm của tác giả. Tôi muốn đưa người đọc có cái nhìn thực tế hơn về vai trò của các tạp chí văn học miền Nam trong việc bồi dựng nền văn chương thời chiến. Tôi nghĩ vai trò của tạp chí cũng quan trọng lắm chứ.

TDN: Như thế là anh khác với Talawas. Talawas đã đưa lên mạng khác nhiều tác phẩm của văn chương miền Nam trước 1975, tất cả đều là sách.

THT: Đúng thế. Anh hẳn biết, thời chúng ta, những người mang bộ đồng phục lính như tôi, phải viết văn làm thơ trong những điều kiện khó khăn nghiệt ngã, luôn luôn ở ngoài tiền tuyến. Khi nào được về một thị trấn quận lỵ mà nhìn cô hàng quán là hạnh phúc rồi, huống chi là được về ngồi ở quán Kim Sơn, La Pagode của Sài Gòn. Tiền đâu, phương tiện đâu, ai quen biết để thay mặt mình mà xuất bản sách? Trường hợp bản thân tôi, tập truyện đầu tay “Nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang” do Ý Thức xuất bản, tôi phải lấy địa chỉ ở hậu cứ của đại đội 405 thám kích sư đoàn 22 Bộ binh!

Hơn nữa, không phải nhìn vào số lượng tác phẩm hay bài vở đăng báo mà đánh giá. Có tác giả chỉ xuất hiện một hay hai bài, nhưng để đời. Đó là trường hợp của Chinh Ba với truyện ngắn “Bài thơ trên chiếc xương cụt” đã đi trên Da Màu cách đây vài tháng. Có tác giả gởi bài thơ khóc bạn mình tử trận ở Pleime chưa kịp thấy bài thơ đăng trên báo, thì đã theo bạn về bên kia thế giới! Đó là nhà thơ Phan Huy Mộng với bài “Người chết ở Pleime” trên tạp chí Văn. Làm việc này chúng tôi muốn trả lại danh dự cho họ, không thể để họ bị chìm trong quên lãng trong khi tên họ xứng đáng được để ở ngoài bìa tạp chí!

TDN: Anh sưu tầm và chọn lựa bài vở và tác giả theo tiêu chuẩn nào? Làm sao tìm và tìm ở đâu?

THT: Đây không phải là cuộc tuyển chọn theo đúng ý nghĩa của nó. Đây chỉ là sưu tập những sáng tác có nguy cơ bị mai một trên các tạp chí văn học miền Nam, như chủ trương của chúng tôi: phục hồi nền di sản văn chương miền Nam. Còn việc tuyển chọn, thì ít ra, các sáng tác trên cũng hơn một lần được sàng lọc từ những ban tuyển đọc, hay các vị chủ bút đầy kinh nghiệm. Chúng tôi chỉ đọc lại thêm một lần nữa.

Còn câu hỏi làm sao mà tìm được? Xin thưa trước khi thực hiện dự án, tôi gửi điện thư đến nhiều bạn hữu, nhờ họ giúp đóng góp tài liệu, và nếu có thể cho chúng tôi biết những tác giả xứng đáng. Một “bồ” thư viện sống là nhà thơ Thành Tôn. Anh đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc đề nghị, giới thiệu, và đóng góp bài vở. Ít khi thấy một người lại có một tầm hiểu biết về văn học miền Nam như thế. Ngoài ra còn có một vài bạn ở trong nước nữa. Họ giới thiệu giùm chúng tôi qua những tạp chí mà họ lưu giữ. Hoặc đề nghị những tên tuổi mà họ đã mang dấu ấn trong tâm trí để chúng tôi sưu tầm. Cuối cùng là nguồn thư viện.

Hễ rảnh là tôi lái xe đến thư viện. Mưa, nắng tuyết giá gì cũng đi. Thư viện đây là thư viện đại học Cornell ở vùng thượng tiểu bang NewYork (Upper New York) cách chỗ tôi ở khoảng 5 giờ lái xe. Thư viện có hai tòa nhà riêng biệt lưu trữ sách báo Á Châu nói chung và Việt Nam nói riêng. Đó là thư viện Krock , nằm phía sau thư viện chánh Olin, giờ mở cửa tùy theo chu kỳ học của sinh viên. Gần đến kỳ thi giữa khóa hay thi cuối khóa, thư viện mở cửa 24/24. Trong số sách báo miền Nam được lưu trữ ở đây, tạp chí Bách Khoa là đủ bộ nhất. Còn đa số các tạp chí, báo hằng ngày thì được lưu trữ ở thư viện Annex, tọa lạc ngoài vòng đai của trường. Giờ mở cửa từ 9 AM- 4PM. Ở thư viện này, không thể vào trong để lục sách, khác với thư viện Krock, có thể tự do vào.

Vào đây mới hiểu thế nào là sự trân quí của dân tộc bản xứ đối với văn hóa nhân loại. Không thể tưởng tượng nỗi ở đây lại lưu trữ những nội san, giai phẩm như Trưng Vương, Gia Long, Chu văn An, Quốc Gia Nghĩa Tử. Ngay cả tờ truyền đơn chiêu hồi dạo nào, vẫn được lưu trữ! Thật không thể tưởng tượng được, phải không anh. Cám ơn đất nước này, vì ít ra, nó giữ giùm văn học miền Nam mình sau đại nạn 30-4-1975. Cũng cần nói thêm, thư viện không chỉ lưu trữ sách báo miền Nam, mà của cả miền Bắc trước 1975 nữa. Sách vở nằm bên nhau, tác giả nằm bên nhau, không phân biệt, kỳ thị.

Ngoài Cornell ra, tôi còn tìm đến đại học Yale ở tiểu bang Connecticut cách nhà khoảng ba tiếng lái xe. Ở đây dù không dồi dào như Cornell nhưng Bách Khoa, Văn, Vấn Đề, Văn Học, Trình Bày, Tiểu thuyết thứ Tư xem như đầy đủ. Khác Cornell, muốn vào thư viện phải đóng tiền (26 đô la/tháng). Thư viện là một ngôi lầu rất cao. Có lần tôi đang ở tầng cao nhất thì chuông cứu hỏa báo động. Thang máy ngừng chạy. Chỉ một mình tôi chạy bộ xuống lầu. Và khi xuất hiện, bà xã tôi đứng đợi ở đó, khóc vì quá mừng!

Thường tôi rời nhà đi Cornell vào lúc 4 giờ sáng. Vì đường phần lớn là đường núi, mùa tuyết có khi cách một, hai feet cũng không thấy mặt nhau, lại thêm sương mù dày đặc nữa. Đèn pha thì bất lực. Đã thế lại thêm chứng buồn ngủ khi lái xe. Tuy nhiên, (cười), mình nguyên là lính thám kích mà. Đêm còn lội nước lụt cả mấy cây số để xâm nhập mật khu, và quà chiến thắng là nồi cơm nấu lở dở của lính Bắc:Cơm nóng thầy trò ăn đở đói/ Ha hả cười cơm của nhân dân…thì cái chuyện này chỉ là chuyện lẻ tẻ (cười). Khi buồn ngủ quá, ghé quán bên đường, nhìn cô bán hàng Mỹ mặc áo hở ngực mà “mần” thơ: (rung đùi đọc)

Tôi mang châu thổ về gieo giống

Trồng lấy trường sơn ở khắp nhà

Lập chiếc am thờ nơi đất mới

Cho những người đã chết hôm qua

Cô hàng đừng cúi. Tôi đâm dục

Nơi này ta phải biết phòng thân

How much, nhìn lên phần vú ngực

Cà phê này tính cả tà dâm…


Còn nữa, như khi trở lại nhà, bên mình là hành trang gồm những bài văn, bài thơ của bạn bè mà mình tìm lại thì lòng vui lắm. Anh hãy tưởng tượng, trở về trong đêm, qua những thị trấn vào mùa Lễ, đèn đuốc được trang hoàng, có lẽ bếp sưởi đang cháy đỏ, tôi không hiểu trong nhà, và ngoài xe, ai ấm cúng hơn ai?

TDN: Nghe anh nói khiến tôi đâm ra thèm làm Thư Quán Bản Thảo và Thư Ấn Quán với anh. Nhất là cái phần How much, nhìn lên phần vú ngực của anh.

THT: À, anh có hỏi tôi về cách sưu tầm. Tôi dùng scanner và laptop. Scanner tuy chậm nhưng đỡ tốn tiền copy. Đọc. Scan. Rồi đọc. Rồi scan…. Còn cái màn tìm người xứng đáng để bỏ vào sách thì cũng mất rất nhiều thời giờ. Ví dụ, khi nghe một người nữ độc giả bảo ngày xưa chị có đọc một bài rất hay, đến nỗi bây giờ chị vẫn còn nhớ, là tôi ghi nhận, cố tìm mọi cách sưu tầm cho bằng được. Đó là nhà văn Đào Trường Phúc với bài Tạ từ trên Bách Khoa! Và khi tìm được tôi mới hiểu tác giả sáng tác bài văn tuyệt vời này khi ông mới 19 tuổi! Một trường hợp khác là nhà thơ Hoài Lữ với tác phẩm Mắc cỏ. Ông tử trận vào năm 20 tuổi tại Bình Chánh, Gia Định. Nhà phê bình Đặng Tiến đã nhắc giùm và tôi đã tốn biết bao thì giờ để tìm tòi cho bằng được.

Sau đó, đến màn đánh máy thì còn gay go gấp bội. May mà có các bạn bè độc giả của Thư Quán Bản Thảo. Họ giúp đỡ chúng tôi tối đa. Anh thử tưởng tượng, với bộ Văn Miền Nam bốn tập trên 2200 trang, nếu một mình tôi mà đánh máy chắc sẽ còn khuya mới xong, vậy mà rốt cuộc, chỉ bốn tháng là hoàn tất nhờ bạn đọc nghe lời kêu gọi của tôi mà tiếp sức. Có sáu người đánh máy, bốn người ở hải ngoại, hai người trong nước!

Riêng về thơ, tôi và anh Phạm văn Nhàn chia nhau đánh máy. Tưởng tượng hai ông lão đều sinh năm 1942, phải ngồi lọc cọc gõ trên 2000 trang cũng phải khủng khiếp lắm chứ !!!

TDN: Đúng là khủng khiếp! Tôi thì lâu lâu mới tự đánh bài viết của mình, mà cũng muốn khùng luôn, huống chi anh. Nếu không có một tấm lòng đối với văn chương, với bạn bè thì quả không làm nổi.

Bây giờ, ta thử quay sang một đề tài khác. Anh vốn là một người lính, đa phần sáng tác của anh đều dính dáng đến đời lính và người lính. Mặt khác, anh cũng giành cho những đồng đội cũ rất nhiều ưu ái. Phải chăng, với anh, chỉ có người lính và đời lính mới đáng cho anh quan tâm trong sinh hoạt văn chương?

THT: Tôi viết về lính, thứ nhất, vì thời chúng tôi – thế hệ chiến tranh- lính là nhân vật chính. Thứ hai, người lính miền Nam bị guồng máy của chế độ Cộng Sản bắt bớ, giam cầm, cho đến đám nhà văn tự hào là ngòi viết trung thực cũng tìm cách bôi nhọ đến độ ghê tởm. Thứ ba, tôi là người lính đánh giặc thật sự, nên cố gắng phơi bày những kinh nghiệm có thật để những người không có dịp tiếp cận chiến trường,thật sự biết thế nào là nỗi lòng của người lính. Sự thật dù là sự thật, nhưng nếu không có ai nói lên sự thật ấy, thì sự thật cũng khó thành sự thật. Trong thời chiến tranh, tiếng nói của người lính chúng tôi đã bị át bởi kỷ luật, lệnh lạc, bởi tiếng nổ, lửa khói, còn trong thời hòa bình, thì bị dập tắt, nếu không nói là bị đè ra, khóa miệng bởi sự trả thù, bôi nhọ một cách hèn hạ. Tôi là nhà văn ở trong cuộc được may mắn, nên dù muốn dù không, phải dùng ngòi bút mình để viết lên tiếng nói ấy.

TDN: Có nghĩa là, đối với anh, chỉ có văn chương trước 1975 của miền Nam Việt Nam, đặc biệt là văn chương về chiến tranh và đời lính, mới đáng được nghiên cứu? Anh đã từng phát biểu ở trang mạng Talawas rằng “Thảm kịch về chiến tranh ở trên quả đất này chỉ bằng một góc của thảm kịch Việt Nam.”

THT: Thưa anh, đáng nghiên cứu lắm chứ. Bởi vì sau 1975, văn chương về người lính miền Nam đã bị tận diệt. Sách vở tạp chí bị đốt hủy thì lấy chứng cớ đâu để nói lên tính cách nhân bản của nền văn học thời chiến. Đáng nghiên cứu, vì bộ máy nhà nước cũng như mấy ông nhà văn nhà thơ trong hàng ngũ thắng trận luôn luôn trắng trợn vu cáo văn chương chúng tôi là văn chương thực dân kiểu mới, là văn chương đồi trụy, nọc độc văn hóa, vân vân để những khối óc ngây thơ luôn luôn bị tiêm nhiễm. Tôi biết có người sẽ bảo chuyện cũ mấy mươi năm rồi vẫn còn nhắc lại, mất thì giờ. Nhưng sự thật ai trả lại cho chúng tôi đây, hở? Ai biện hộ giùm cho những lời vu cáo người lính thám báo được viết trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh hay trong Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái? Ai?


Chẳng hạn đoạn sau đây của Hồ Anh Thái trong truyện ngắn vừa nói:

“Cuối cùng, điều Hoa không ngờ đã tới. Cô chỉ nghĩ rằng bọn thám báo sẽ lôi Hùng đi làm tù binh để tiếp tục lấy khẩu cung. Nhưng thằng cầm con dao găm của anh đã cúi xuống rạch một đường thành thạo trên bụng Hùng. Anh quằn quại hét lên một tiếng rùng rợn. Ở trên cao, Hoa nghiến chặt răng gần như ngất đi. Hai thằng kia đè chặt chân tay Hùng cho thằng mổ bụng moi tim gan ra. Chúng nổi lửa nướng tim gan ăn ngay tại chỗ. Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.”

Vai trò thám báo là tuyệt đối giữ bí mật để làm nhiệm vụ săn tin hay chỉ điểm máy bay oanh tạc đơn vị địch. Họ bị đẩy vào những chỗ mà có lẽ mỗi lần ra đi là ít khi có ngày về. Bởi không ai có thể bảo vệ họ được trừ họ. Vậy mà ở đây, cảnh năm tên thám báo bắt một tù binh loại chính qui, nhởn nhơ với một bữa yến tiệc ăn tim gan và tinh hoàn người, giữa thanh thiên bạch nhật, đầy ổ kiến lửa (chúng tôi hay dùng cụm từ này để chỉ một mục tiêu khó nuốt, thường ám chỉ nơi có sự xuất hiện đơn vị chính qui Bắc Việt). Lại tỉnh bơ nổi lửa đốt cho khói bốc lên để “lạy ông tôi ở bụi này”! Biết viết văn là bịa, nhưng bịa vừa vừa thôi chứ, ông Hồ Anh Thái ơi. Và thiên chức nhà văn ở đâu? Bịa trắng trợn như thế ai mà tin được!

Tôi bỗng liên tưởng đến những giọt nước mắt chảy trên má của người tù binh nào đó của chiến trường Bình Định vào những năm cuối của thập niên 60, như qua bài thơ của Trang Châu sau đây:


Nước mắt kẻ thù
nó bị thương
bị bắt sống
mọi người đòi giết nó:
nó núp trong hầm
với một khẩu tiểu liên
cầm chân cả trung đội:
nó bắn ngã chúng tôi một người
bắn bị thương hai người khác
tôi đọc nét căm hờn
trên những khuôn mặt đồng đội
mọi người đòi giết nó
tên du kích vùng khốn nạn
gài lụu đạn lùm cây bờ ruộng
giết những người bắt cá mò tôm


nó nằm đó
mình bết bùn
máu cánh tay nhầy nhụa
tránh những tia nhìn nổ lửa
những báng súng gờm gờm
nó nằm chờ
một phát súng vào đầu
một lưỡi dao rạch bụng
một cái đạp xuống hố sâu
nó nằm chờ nằm chờ
tử thần

nhưng
chỉ có bàn tay vuốt dịu căm hờn
bàn tay băng bó vết thương
bàn tay vỗ về an ủi
nó nằm chờ tử thần
sững sờ bắt gặp tình thương
đồng loại
đôi mắt sát nhân vụt bỗng hiền từ
nhen hai dòng lệ nhỏ

trong cuộc chiến hôm nay
cho tôi xin chiến đấu không hận thù
xin những vết thương bình đẳng
cho tôi đổi một trăm chiến thắng
lấy một giọt nước mắt kẻ thù

Trang Châu (Bên bờ Kinh Sáng 17-2-67)

(trong Dấu vết chiến tranh)

Ôi cho tôi đổi một trăm chiến thắng lấy một giọt nước mắt kẻ thù! Còn gì là nhân bản hơn, còn gì tình người hơn. Không phải lời ước ao trên phát xuất từ một y sĩ tiền tuyến là Trang Châu, nhưng nó phát xuất trái tim của miền Nam. Đó là bản chất của con người. Đó là cõi lòng thấm đầy Chúa và Phật. Không phải như từ trái tim đen từ những kẻ sống chỉ biết căm thù! Và căm thù mãi mãi!

TDN: Đọc một số bài viết ngắn của anh (trên Talawas), tôi có cảm tưởng là anh không có mấy thiện cảm đối với việc phê bình. Lý do chính, theo anh, là người phê bình có khi không hề biết đến hiện thực mà tác giả mô tả. Anh viết: “Phê bình, trước hết anh phải đặt mình vào không gian và thời gian của tác phẩm. Và thứ hai anh phải có ít nhiều kinh nghiệm.” Ở một bài khác, anh viết: “Như vậy, kinh nghiệm là một yếu tố rất cần trong việc phê bình, hay đánh giá một tác phẩm. Có lẽ, nếu nhà phê bình đã từng lội qua những con suối đen và lạnh buốt của Trường Sơn, đã nếm vi trùng sốt rét, buổi xế trưa…”.

Rất dễ dàng đồng ý với nhận xét đó của anh. Tuy nhiên, nếu vậy, liệu ta có thể phê bình một tác phẩm ra đời rất lâu trong quá khứ? Liệu có thể phê bình một tác phẩm mà tác giả ở một xứ khác, một thời điểm khác? Và liệu một người trẻ lớn lên sau chiến tranh có thể viết phê bình về các tác phẩm của chính Trần Hoài Thư? Vì làm gì họ có kinh nghiệm về những gì anh đã kinh qua.

THT: Khi tôi nêu ý kiến này là tôi chỉ đề cập đến các tác phẩm viết về chiến tranh VN. Có một vị phê bình, cho Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là tác phẩm hay nhất viết về chiến tranh Việt Nam. Tôi nghĩ nếu vị ấy biết rõ về vai trò thám báo của quân đội VNCH, chắc sẽ không bao giờ cho vào danh sách “hay nhất” ấy.

Vì không có kinh nghiệm, mới cho là hay nhất, mới dịch ra tiếng Tây, tiếng Mỹ, mới được dựng thành phim, mới là sách gối đầu giuờng cho những nhà biên khảo. Tôi nhớ đến một lần, tôi bị một thanh niên Mỹ trẻ cùng làm việc chung, hỏi rất ngây thơ: “Tại sao lính miền Nam lại tàn bạo như vậy?”. Tôi hỏi: “Tại sao mày biết?” “Tôi đọc trong Nỗi buồn chiến tranh (Sorrow of war),” anh ta trả lời.


Với anh ta, tôi còn giải thích vai trò thám báo để anh ta hiểu. Còn biết bao nhiêu người khác cũng mang câu hỏi như anh ta sau khi đọc Sorrow of war? Còn con cháu tôi? Liệu chúng có cúi đầu mặc cảm là con cháu của những kẻ sát nhân tán tận lương tâm như đã mô tả trong tác phẩm của Bảo Ninh hay Hồ Anh Thái ?

Ông bà chúng ta có câu, nghĩ rất có lý: Không biết thì dựa cột mà nghe. Phải không, thưa anh.

TDN: Tôi đồng ý với nhận xét đó, nhưng dù sao, cũng cần có những nhà phê bình chuyên nghiệp, những người không biết gì ngoài sách vở và chữ nghĩa chứ!

THT: Theo tôi, người phê bình là nhịp cầu mang độc giả đến tác phẩm, hơn nữa là người thay mặt độc giả. Người phê bình là cần thiết, như anh thấy rồi. Chính vì cái lỗ hổng to lớn về tác phẩm nhận định phê bình, mà sau chiến tranh, người đọc cũng như người tha thiết muốn tìm hiểu về nền văn học thời chiến trước 1975 rất khó khăn trong việc tham khảo, để cho những Lữ Phương, Thạch Phương, Vũ Hạnh, Trần Trọng Đăng Đàn hay những bài viết về nhận định, phê bình trên Văn Học Hà Nội làm mưa làm gió… Hể mở sách ra là “giòng văn học yêu nước cách mạng”, là “nọc độc văn hóa”, “văn chương thực dân kiểu mới”… Đìều này không phải là không có lý vì sách báo tạp chí miền Nam trở thành tro bụi thì lấy gì mà tham khảo! Bởi vậy, khi tìm được bài điểm sách của Trần Hữu Thục viết về tập truyện của Văn Lệ Thiên (Lê văn Thiện) trên tạp chí Tân Văn trước 1975, tôi mừng lắm anh ơi. Mừng là ít ra cũng có một người còn viết về một tác giả trẻ ngoài vòng đai, nhưng buồn là nó rơi vào trong cõi mênh mông quên lãng. Anh biết không, Lê văn Thiện bây giờ là nông dân 100% ở Việt Nam, và anh ấy vẫn còn viết. Mặc dù sau này, ở hải ngoại, có những người cố gắng tìm đến nền văn học thời chiến như Đặng Tiến với những bài nhận định về Nguyễn Bắc Sơn, Vũ Hữu Định, Nguyễn Xuân Thiệp, Từ Thế Mộng, Thơ Miền Nam trong thời chiến v.v..hay Trần văn Nam, Nguyễn Vy Khanh với những nhận dịnh về nền văn học chiến tranh … và ở trong nuớc có Nguyễn Lệ Uyên với những bài viết về Linh Phương, Phạm Ngọc Lư, Y Uyên, Vũ Hữu Định v.v… Tuy nhiên, họ phải viết trong nỗi khó khăn vì tài liệu, bài vở, báo chí để tham khảo rất hạn chế. Có điều, qua các bài, hay tác phẩm nhận định ấy, nếu người đọc muốn biết về văn chương và tác giả trước 1975, thì sách báo đâu mà đọc? Lấy gì để chứng minh trong khi sách báo bị tận diệt?

Đó cũng là lý do chúng tôi cố gắng sưu tập những bộ Văn và Thơ Miền Nam. Dù muộn nhưng mà có còn hơn không.


TDN: Trong một bài viết trên Talawas, anh cho rằng “Sự thành công của tác phẩm không phải chỉ tùy thuộc vào năng khiếu ngôn ngữ. Còn có những yếu tố khác tạo thành. (…) trong đống chất liệu bề bộn, người viết văn phải biết cách tuyển lựa những chất liệu thích hợp nhất, giá trị nhất, và phổ quát nhất (…). Sau đó mới nghĩ đến chuyện sử dụng bút pháp.” Tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Tuy nhiên, anh lại nói thêm : “Như vậy, chữ nghĩa chỉ là phụ. Cái chánh là viết thật, viết đúng, viết bằng hơi thở của mình.” Làm sao ta có thể viết đúng, viết thật khi mà ta không biết cách viết? Nghĩa là câu kéo lủng củng, chữ dùng không chính xác, viết sai chính tả…hay không biết cách diễn đạt.

THT : Như vậy anh “chê” các ông Lê Ngộ Châu (Bách Khoa), Trẩn Phong Giao (Văn) chọn bài à?

Đây là ví dụ cho “bút-pháp-hơi-thở” chẳng văn phạm gì ráo của tôi viết khi đang hành quân:

Xin tha lỗi cho tôi, các bạn. Tôi không còn đủ sáng suốt để sáng tạo câu văn ý lạ. Tôi đang nằm trong quân y viện đây. Đêm buồn lắm. Đêm buồn lắm. Lính của tôi nằm nhiều trong đó. Hai thằng nằm tại nhà vĩnh biệt. Hai thằng mất tích. Và những thằng bị thương đang nằm ở đây. Đêm buồn lắm. Đêm buồn lắm. Ngày hôm đó, ngày 9 tháng 5 thì phải. Mặt trời thì hừng hực lửa. Chỉ có mặt trời mới thấy bọn tôi. Tôi nằm trong bụi, mặt dầm dề máu và đùi găm đầy miểng lựu đạn, cả mông tôi cũng vậy. Tôi nhìn lên cao cầu khẩn Tổ Tiên Ông Bà, Nam Mô Quan Thế Âm Lạy Trời Lạy Chúa. Nhìn mặt trời, cho con sống. Sống. Tôi vùng dậy chạy. Đạn rít dưới chân. Đạn xẹt trên đầu. Tôi lộn nhào. Lê lết. Bò trườn. Tôi nhào xuống bờ suối. Đạn đuổi theo. Nó canh kỹ. Ló đầu ra. Tắc bùm. Thụt đầu vào. Chạy. Lăn.Tội nghiệp thân thể mày chưa, Thư. Gầy ốm thế kia. Cha mẹ nưng niu bồng ẳm nuôi con bây giờ ầm ầm, tạch đùng, bập bập bập, bò, hai cùi tay vấy máu, bò ngửa, bò sấp, bò hai chân, bò hai tay. Bụi gai vừa xê dịch. Tắc bùm. Đ.M, quân chó đẻ. Mày giết tao mày hả dạ lắm sao. Tao để dành viên đạn cuối cùng. Tự sát.

(Trích Nhật Ký Hành Quân, Trần Hoài Thư, Văn số 114, tháng 9 năm 1968)


TDN: Một đoạn văn như thế không thể bảo chữ nghĩa là phụ được. Nếu chỉ có kinh nghiệm sống không thôi mà không có kinh nghiệm đầy mình về chữ nghĩa, không thể diễn tả chiến trường một cách sống động như vậy. Tôi đã đọc bài viết này của anh hồi đó, trên Văn. Đối với một người được may mắn ở thành phố như tôi, những trang văn nóng hổi như thế của anh, hay của Y Uyên, Phan Nhật Nam, Lê Bá Lăng… viết từ chiến trường quả là một món ăn tinh thần quý giá. Chúng giúp bọn sinh viên chúng tôi biết thế nào là chiến tranh thật sự, là sự gian khổ thật sự của những người chiến đấu, nhờ đó, mà chúng tôi có thể học hành và …đấu láo chuyện trên trời dưới đất.

THT: Cám ơn anh.

TDN: Chiến tranh Việt Nam chấm dứt đã 35 năm. Tất cả đều thay đổi: đất nước, con người, hoàn cảnh. Thế hệ của chúng ta già đi và một thế hệ trẻ, mới toanh lớn lên. Bao nhiêu nước chảy qua cầu. Có những người vẫn viết, vẫn suy nghĩ như cũ. Có những người thay đổi cách viết theo thời gian, theo sự vật và sự việc. Anh suy nghĩ gì về sự đổi mới trong văn chương: cách viết, cách tiếp nhận, cách suy nghĩ…?

THT: Sáng tạo là một việc làm rất cần thiết cho nhà văn/thơ của mọi thời. Dù là ý tưởng hay dù là hình thức. Những bài thơ của Thành Tôn, Cung Trầm Tưởng, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Viên Linh cách đây 40, 50 năm đã nói lên sự không ngừng làm mới thể thơ lục bát. Và bây giờ, nhờ vào word, unicode, hay photoshop, hình thức cũng uyển chuyển và linh động bội phần. Tuy nhiên, nếu nói rằng cái chủ đích của tác phẩm là truyền đạt ý nghĩ, tư tưởng mà tác giả cố gắng gởi gắm đến với người đọc, thì theo tôi, trước hết, đừng nên buộc người đọc phải lao tâm khổ trí mà tìm hiểu. Tôi lấy ví dụ qua một bài tản mạn của tác giả Nguyễn Anh Khiêm về những từ tân… văn hóa:

Sao người ta say mê từ “là” quá trớn trong khi từ này cấm kỵ trong tiếng Việt ngày trước, nhất là không được đặt trước tính từ làm vị ngữ, bổ ngữ vì nó thừa thải, dở tệ.Cũng không thiếu hài hước khi nghe các từ ngữ phát sinh theo nhu cầu bẻ quẹo tin tức như “nới rộng biên độ giá xăng” tức “xăng tăng giá”, “điều chỉnh chỉ số giá tiêu dùng” tức “tăng vật giá, “khiếu kiện đông người” là “biểu tình”, “ngưng việc tập thể” là “đình công”, “nông dân có khó khăn” là “nông dân điêu đứng”, “chi tiền chưa đúng đối tượng” là “ăn chặn tiền tết của người nghèo…”

Tôi không hiểu những từ này thuộc loại tân từ hay tân hình thức không, sao mà tôi thỉnh thoảng lại gặp trong những bài thơ mới bây giờ. Cố hiểu nhưng thật khó làm sao !!!

TDN: Thế hệ mới lớn hoàn toàn khác chúng ta trong suy nghĩ, trong đời sống lẫn trong cách viết.

Chúng ta có nên để lại cho lớp trẻ gánh nặng quá khứ hay để cho họ sống và viết với hoàn cảnh và thời đại và tâm tình của họ hiện nay y như chúng ta đã từng sống và viết với thời đại và tâm tình của chúng ta trước đây?


THT: Đối với những người viết trẻ, đặc biệt những người viết ở hải ngoại, tôi rất ngưỡng phục. Không ngưỡng phục sao được, khi mỗi ngày 8 tiếng đồng hồ môi miệng họ phải dành cho tiếng Anh, tiếng Mỹ. Họ là những người mang sức sống cho chữ nghĩa, qua kiến thức mà họ du nhập, và qua tấm lòng thiết tha với tiếng mẹ mà họ có lẽ rất khó khăn để gìn giữ. Thơ văn của họ bấy giờ là sự chia xẻ kiến thức, và niềm vui, lẫn học hỏi như môi trường mà họ có mặt, không tháp ngà, không chiếu trên, chiếu dưới… Với lớp già như tôi có vẻ chịu thua, lép vế trước sự không ngừng sáng tạo, đổi mới trên hành trình văn chương chữ nghĩa của họ.

Có điều, đôi khi kinh nghiệm cũng cần thiết lắm chứ. Nếu không cần thiết thì tại sao các công ty kiếm người cần tìm những nguời có kinh nghiệm hay trong cácresume, kinh nghiệm được tô vẽ hàng đầu !

Tâm sự quá nhiều. Anh đã đặt cho tôi những câu khỏi quá gai góc, mà trả lời có khi bị hiểu lầm. Nhưng mà tôi chỉ biết bấy nhiêu, trả lời trong tầm hiểu biết giới hạn của mình. Xin anh và bạn đọc có gì đừng chấp trách là tôi dạy khôn. Xin thành thật cám ơn trước.

TDN: Chưa xong đâu, anh Thư. Tôi còn một câu hỏi cuối cùng: dự tính của anh trong những tháng ngày sắp tới?

THT:Sẽ cố tiếp tục sưu tầm và xuất bản các tác phẩm và tác giả sống và viết ngoài vòng đai. Và dĩ nhiên, vẫn viết văn, làm thơ, vẫn in sách của bằng hữu, và của mình, vẫn xúc tiến tạp chí Thư Quán Bản Thảo mặc dù không còn thường xuyên như trước. Tuy nhiên, còn tùy thuộc vào điều kiện sức khỏe nữa. Mấy tháng nay tôi bị “gout”, khi bớt, khi phát làm ngăn trở không ít những điều mình mong ước.…



(Thực hiện tháng 3/2010)












Họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi ghi















Tiểu luận





Tác giả/cuộc thăng trầm
 Trần Hữu Thục


Có lần, tôi gửi cho tờ tạp chí nọ một bài viết không có tựa đề. Người chủ biên không chịu cho đi với một bài viết “cụt đầu” như thế. “Trông kỳ lắm. Để trống phía trên một bài viết vừa trông kỳ quặc vừa không cân đối, không đẹp”, anh ta nói. Lần sau, tôi gửi một bài khác. Lần này, bài có tựa đề, nhưng không để tên tác giả. Người chủ biên lại càng không chịu. “Không thể tưởng tượng một bài viết lại không có tên tác giả. Độc giả nhất định sẽ thắc mắc”, anh nói. Tôi bảo thì cứ xem như tác giả là vô danh – Vô danh thị – như những bài thơ khuyết danh ngày xưa vậy. Anh bảo: chẳng thà anh để “vô danh thị”. Có chữ “vô danh thị” trông nó dễ chịu hơn; không có gì thì trông như người ta ra đường mà không mặc quần vậy. Tôi nói: để chữ “vô danh” thì cũng xem như có danh rồi. Tôi muốn vô danh thật, nghĩa là hoàn toàn không có gì hết. Không được đâu, anh cương quyết.

Một lần khác, tôi gửi anh bài nữa. Lần này, không tựa đề, không tên tác giả. Anh giãy nãy lên, bảo tôi chơi trò lập dị. “Không giống con giáp nào cả”. Tôi bảo tôi không lập dị. Tôi muốn cách tân thôi. Anh bảo: OK, nếu anh muốn cách tân thì anh phải giải thích đàng hoàng. Người ta cách tân, người ta có luận điểm, có lý thuyết, anh muốn cách tân, anh cũng phải giải thích rõ ràng. Tôi bảo: đồng ý là phải có luận điểm, nhưng còn tùy. Lối cách tân này không cần luận điểm, vì nếu phải giải thích thì tính cách cách tân trở nên vô nghĩa. Anh không chịu. Tôi giữ vững lập trường, cố thuyết phục anh cho tôi thử nghiệm, nhưng vô ích. Thế là tôi đành phải đề tên mình vào …như thường lệ.

Đó là chuyện một cái tên. Hãy thử đẩy trí tưởng tượng xa hơn: một tờ tạp chí không có tên gọi, không ghi địa chỉ tòa soạn, không có tên người đứng làm chủ bút, chủ nhiệm, không có danh sách cộng tác viên, chỉ gồm toàn các bài viết. Nghĩa là chỉ còn là những văn bản thuần túy, y như một bản cổ văn đào xới lên từ đâu đó. Nghe thật phi lý y như một người sinh ra không khai sinh, không lý lịch, không quá khứ. Chắc chắn là không ai chấp nhận.

Thông thường, khi đọc, mục đích của việc đọc là thu nhận kiến thức, là thưởng thức những ý tưởng hay, những câu văn đẹp, là tìm xem cách giải quyết những vấn đề trong đời sống. Nếu quả tình đó là mục đích duy nhất của việc đọc, thì ta đâu có cần phải biết ai viết. Cũng đâu cần phải có một tựa đề. Ấy thế mà người ta không chịu. Không tựa đề, không tác giả có thể làm người đọc mất định hướng và do đó, có thể làm mất hứng thú của việc đọc. Tại sao? Tại vì độc giả muốn biết aiđẻ ra những ý tưởng đó, ai chịu trách nhiệm những điều đã viết ra, vì sao ai đó lại viết ra như thế, và với mục đích gì? Không những thế, độc giả còn muốn biết nhiều hơn: ai đó viết bao nhiêu bài rồi? Những bài kia hay, dở thế nào? Có nhất quán không? Vân vân và vân vân. Đôi khi, việc tìm hiểu lai lịch của bài viết quan trọng không thua gì chính bài viết.

Ấy, tác phẩm bao giờ cũng quyện vào tác giả, như bóng với hình: Truyện Kiều Nguyễn Du, nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc Phạm Duy, thơ tình Nguyên Sa, thơ Hồ Xuân Hương, tùy bút Nguyễn Tuân, truyện chưởng Kim Dung, thơ Lý Bạch…Nói như thế có nghĩa là không có thơ nào là thơ nào, nhạc nào là nhạc nào, văn nào là văn nào, nghĩa là không có thơ hay văn một cách chung chung, nặc danh. Mỗi người có một thứ nhạc, một thứ thơ, một thứ văn. Style, c’est l’homme[1] Văn là người. Đọc văn là đọc người. Không có người sao thành văn?!

Nhưng (lại nhưng!), trong đời sống, có vô số điều ta tưởng như là hiển nhiên, tưởng chừng như xuất phát từ một nguồn gốc căn bản nào đó, có giá trị bất biến, từ đó, chúng dường như biến thành những nhãn hiệu, những khái niệm mà mỗi lần nhắc đến, lại hiện ra như những điều tất yếu. Chẳng hạn, ta vẫn nghe những cụm từ như: bốn ngàn năm văn hiến, con cháu bà Trưng bà Triệu, người anh hùng áo vải Quang Trung, Chân Thiện Mỹ, nên thơ, tự do, nhân quyền, dân chủ, sáng tạo, anh hùng, hậu sinh khả úy, văn dĩ tải đạo, vân vân. Thực ra, chúng không hề hiển nhiên mà được viết ra từ một người hay một nhóm người nào đó trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó, dưới một quan điểm nào đó rồi được lập đi lập lại vô số lần, riết chúng biến thành những ý niệm, hay những sự kiện bất biến đến nỗi khi sử dụng, người ta không cần thắc mắc, không cần tra cứu nguồn gốc. Thậm chí có người còn xem đó là “chân lý”, mà nếu ai có nói khác đi, lập tức bị phản ứng. Chẳng hạn như có ai bảo: “dân tộc Việt Nam chỉ có 2000 năm văn hiến” hay “bà Trưng bà Triệu” là người Tàu hay Quang Trung không phải là “anh hùng áo vải”, chắc thế nào cũng bị cho là hạng người mất gốc hoặc không học sử nước nhà!

Cũng như mọi sản phẩm của con người, văn chương là một quá trình. Và khái niệm tác giả không hề hiển nhiên như ta thường nghĩ, mà xuất hiện từ từ theo các điều kiện khách quan của xã hội loài người. Có thể nói, tác giả là một cuộc hành trình dài xuyên qua lịch sử.

Tác giả, một sản phẩm lịch sử

Tác giả, tiếng la tinh là auctor. Conrad de Hirsau, nhà văn phạm học thế kỷ thứ 11, giải thích: “Auctor được gọi như thế là từ động từ augendo, có nghĩa là gia tăng (augmenter) vì, do ngòi bút, người ấy mở rộng những sự kiện hay lời nói (dits) hoặc tư tưởng của tiền nhân…”. Chữ Auctor còn là người “mang sự bảo đảm cho tác phẩm”. Từ đó phát sinh ra chữ auctoritas, có nghĩa là thẩm quyền (autorité), chỉ một sự liên hệ giữa tác giả và tác phẩm. Tác giả là người mà qua tác phẩm có một thẩm quyền. Vì thế mà tác giả được hiểu vừa là nhà văn vừa là một thẩm quyền. Đó là lý do khiến nhà văn không chỉ được đọc mà còn được kính trọng[2].

Theo “Le trésor de la langue française”[3], tác giả có hai nghĩa: 1. là nguyên nhân đầu tiên hay nguyên nhân chính của một sự việc – từ đó đồng nghĩa với người sáng tạo (créateur), người bày mưu (instigateur), người phát minh (inventeur); 2. trong lãnh vực nghệ thuật, khoa học và văn chương, là người, do tình cờ hay do nghề nghiệp, viết một tác phẩm (œuvre) có tính nghệ thuật.

Vào thời Hy Lạp cổ, người ta chưa có khái niệm về tác giả mà chỉ biết đến cảm hứng. Cảm hứng là một món quà thiêng liêng đặt vào nhà thơ (aède) để gửi đến thính giả, nên cảm hứng cũng chính là Thần hứng. Thần hứng xuất phát từ Thần Thi (La Muse). Thần Thi là vị thần ẩn nấp trong nhà thơ (on-theos) gây nên cảm hứng khiến nhà thơ nói ra hay đọc lên. Như thế, Thần dùng nhà thơ như một phương tiện. Nghĩa là chính Thần Thi là động lực thúc đẩy việc hình thành những câu thơ, chứ nhà thơ không làm gì cả. Ông ta chỉ là người đọc thơ (rhapsode). Quan niệm này rõ ràng xuất phát từ niềm tin tôn giáo, cho rằng cá nhân là vô nghĩa và không hiện hữu. Chỉ có thần thánh mới có ý nghĩa, mới hiện hữu. Do đó mà những Homère, Hésiode, Pindare không được xem như là những tác giả mà là những phát ngôn viên cho Thần Thi.

Vào thời Trung Cổ, tuy vai trò của thần thánh đã mờ nhạt đi, nhưng cá nhân vẫn còn là những thực thể vô danh. Trong lúc các văn bản về kiến thức, tri thức lại cần có tên tác giả để bảo đảm sự chính xác và tin cậy thì các văn bản văn chương phần lớn thường là vô danh, một mặt là vì không có tài liệu lưu trữ, mặt khác, là do quan niệm thời bấy giờ cho cá nhân là vô nghĩa. Vả lại, các tác phẩm không phải do sáng tác mà chỉ sao chép lại những câu chuyện cũ mà người ta được đọc hay được nghe kể lại. Thảng hoặc, nếu có ai sáng tác ra một cái gì mới, họ không có khuynh hướng dùng tên mình, mà dùng một tên tưởng tượng hay tên một ai đó đã nổi tiếng rồi. Một khi được sáng tác, bản văn trở thành của chung, để mở, sẵn sàng cho mọi thay đổi. Người sao chép có quyền sửa đổi thêm thắt cho hợp ý của mình. Rốt cuộc, chẳng có bản văn nào gọi là đúng nguyên tác. (Chính vì thế mà sau này, vào thế kỷ 16, 17, người ta thường cho văn chương Trung Cổ là tầm thường, hỗn tạp, tối tăm. Mãi cho đến thế kỷ 19, người ta mới khám phá lại chúng và đánh giá cao vì tính chất dân gian và huyền thoại của chúng). Việc sao chép nằm trong tay các tăng lữ, cha cố vì vào giai đoạn này, chỉ có giới này là có thẩm quyền, vừa về tri thức lẫn chuyên môn và địa vị xã hội. Có thể nói văn chương thời kỳ này trước hết là văn chương của tầng lớp tăng lữ và phong kiến.

Mãi cho đến thế kỷ thứ 13, với các tác phẩm của Dante Alighieri (1265-1321), theo Antoine Compagnon[4], khái niệm về tác giả bắt đầu xuất hiện trong tư tưởng kinh viện, do sự phân tích nguyên lý nhân quả, xem xét lại tương quan giữa “tác giả thần” và “tác giả người” trong các bản kinh văn. Người ta nhận thấy rằng các kinh văn này cũng sử dụng cho người trần tục, như trong tập trường thi của Dante Alighieri (1265-1321): La Divine Comédie. Đây là một truyện thơ gồm ba phần (Enfer, Purgatoire, Paradis) kể lại chuyến du hành tưởng tượng, trong đó nhân vật chính được viết ở ngôi thứ nhất, bị lạc xuống địa ngục, chứng kiến đầy đủ các cảnh thụ hình của những kẻ phạm tội, trải qua lò luyện ngục và cuối cùng được cứu chuộc để lên thiên đàng. Qua tác phẩm này, Dante được nhà bình luận văn chương đầu thế kỷ 14 Guido da Pisa xem là một “tác giả người”. Sự ngăn chia giữa thần và người đã phần nào thu hẹp dần. Guido da Pisa chỉ rõ ý hướng của Dante trong các tác phẩm của mình là muốn cứu vớt con người ra khỏi cảnh khổ bằng cách thuyết phục họ đừng làm điều sai trái, hướng họ đến chỗ làm điều tốt và đưa đến một đời sống sung sướng ở thiên đàng. Tuy tác phẩm chứa đầy những ẩn dụ tôn giáo, con người đã hiện ra trong La Divine Comédie của Dante như một cá nhân với tinh thần trách nhiệm về số phận của mình.

Đến Michel Montaigne (1533-1592), thì khái niệm tác giả mới thực sự tách khỏi truyền thống thần thánh. Montaigne dùng chữ “tác giả” theo hai nghĩa: 1. ở số nhiều, đi theo một tính từ để chỉ những người khác, những tác giả hay những tác giả lớn; 2. còn ở số ít, để chỉ chính ông. Không có gì quá đáng khi nói, với Montaigne, thì khái niệm về tác giả hoàn toàn đảo ngược một cách sâu xa[5

Sự đảo ngược đó chắc chắn là chịu ảnh hưởng của một biến cố xảy ra một thế kỷ trước đó, thế kỷ thứ 15, làm đảo lộn mọi hình thái sinh hoạt của con người, tạo thành một động lực quan trọng thúc đẩy nền văn minh đồng thời tạo ra tiền đề cho sự xác lập của vai trò tác giả: phát minh ra máy in năm 1436 rồi phát minh ra giấy năm 1440. Những khám phá này đưa đến sự thiết lập một ngôn ngữ mới. Viết tay cũng là viết ra chữ, nhưng chữ ở đây giống như những ký hiệu thủ công, gắn liền với cá nhân, ngay cả khi chúng được chép lại thành nhiều bản giống nhau. Nhưng khi in, thì chữ biến thành những con chữ. Chữ (và qua đó, tư tưởng) đượcnhìn thấy, chứ không còn được nghe. Chúng trở nên một biểu tượng bền vững, tách khỏi cái mà nó biểu tượng, thuộc về một thế giới khác có tính cách khách quan gọi là “thế giới chữ nghĩa”[6]. Do nằm trong một hình thức ổn định với cùng một khổ giấy, chạy từ trang này qua trang khác, chữ không thể chen trước chen sau một cách tùy tiện, rườm rà như khi nói mà là một thứ ngôn ngữ sắp xếp theo tuyến tính, được bố trí theo chức năng, biến chúng thành câu kéo với các từ loại được phân bố, tách bạch rõ ràng khiến cho những ý tưởng vô hình trở nên dễ hiểu và dễ truyền đạt: ngôn ngữ trở thành tiêu chuẩn hóa. Lời nói trôi qua, chữ viết đọng lại, trở nên thường trực và đi vào vĩnh cửu. Các bản in được xem như một thứ chân lý ướp lại để dành cho hậu thế. Chữ in trở nên một biểu tượng trung tính, không thể tách rời của tiến trình sáng tạo. Như thế là với kỹ thuật in, lần đầu tiên ngôn ngữ văn chương trở thành văn bản.

Sự ổn định của hình thức văn bản đưa đến hai hệ quả hết sức quan trọng:

– Vai trò của các người sao chép, tức là các cha cố biến mất. Kèm theo sự biến mất đó là sự giảm thiểu ảnh hưởng của tôn giáo trên tư tưởng (và qua đó trên các tác phẩm).

– Các văn bản trở thành tài liệu (để lưu trữ và tra cứu) không thể và không dễ dàng thay đổi theo ý riêng từng người, do đó đòi hỏi sự xác định nguồn gốc: người sao chép hay người viết ra, tức là tác giả. Sự nặc danh trở nên không thể chấp nhận được.

Nhưng quan trọng nhất là quá trình thương mại hóa chuyện viết lách. Những gì viết ra bây giờ được in thành sách, tức là tác phẩm và có thể bán để kiếm lợi nhuận như các vật dụng khác. Chữ nghĩa trở thành hàng hóa. Việc sản xuất hàng loạt tác phẩm đưa đến quyền xuất bản tức là quyền sản xuất: đó là quyền của các nhà in và nhà sách tìm cách bảo vệ quyền lợi kinh tế của họ. Họ sẽ mất lợi nhuận nếu những tác phẩm in ra không được tư hữu hóa thường trực. Các tác phẩm đầu tiên xuất hiện dưới hình thức in là những kiệt tác thời Thượng Cổ (Antiquité), được các nhà bác học biên soạn lại. Những người này, tuy không sáng tác nhưng có công biên soạn đi kèm theo những lời bình phẩm, nên được xem như tác giả và được bảo vệ bằng một loại đặc quyền tương tự như tác quyền ngày hôm nay. Bảo vệ thứ đặc quyền đó trở thành lý do chính đáng để bảo vệ quyền lợi kinh tế của các nhà xuất bản. Muốn thế, họ phải biến tác phẩm trở thành tài sản vĩnh viễn của nhà xuất bản bằng cách trả cho các tác giả (người sao chép) một số tiền nào đó xem như mua tác quyền qua một thỏa thuận giữa hai bên.

Một vấn đề nẩy sinh: kẻ gọi là tác giả có quyền gì nhận rằng những ý tưởng do anh ta sao chép lại hay viết ra là của riêng mà những người khác không có quyền sử dụng trong lúc họ cũng nghĩ cùng một điều như thế? Nói khác đi, tại sao lại ban cho cá nhân sự độc quyền tư tưởng như một tài sản?

Câu hỏi đó, phải đợi đến thế kỷ thứ 18 là thời kỳ Ánh Sáng (Lumières) ở Âu châu, khi khái niệm về quyền tác giả đi đôi với “tài sản tri thức” được xác lập về mặt pháp lý và triết lý lúc trào lưu cá-nhân hóa các ý tưởng (individualisation des idées) đã chinh phục đời sống tri thức ở đó, mới có câu trả lời chính thức. Về mặt pháp lý, do đòi hỏi của các nhà xuất bản, các luật sư ở Anh đã khái niệm hóa những ý tưởng về tác giả, cho rằng những ý tưởng văn chương phải được xem như một loại tài sản như tài sản vật chất. Theo họ, ý tưởng thực ra là không quan trọng mấy, nhưng chính cái cách đặc biệt mà người ta phát biểu ra chúng mới đáng kể. Cái cách đặc biệt đó được gọi là văn phong. Chuyển văn phong thành ra một bất động sản thường trực, họ cho rằng những văn bản văn chương được xem như một thứ tài sản mà tác giả vĩnh viễn có quyền trên đó.

Về phương diện triết lý, Emmanuel Kant (1724-1804), trong một tiểu luận nhan đề là “De l’illégitimité de la contrefaçon des livres” (Về tính bất hợp pháp của việc giả mạo sách), phân biệt loại “diễn ngôn phi-vật chất” (discours immatériel) và “yếu tố hỗ trợ vật chất” (support matériel). Theo Kant, “Tác phẩm, một mặt là một sản phẩm vật chất của nghệ thuật, có thể sao chép (bởi người sở hữu bản sao một cách hợp pháp) và do đó, có một quyền thực sự; và mặt khác, nó là một diễn ngôn đơn giản do nhà xuất bản mang đến cho công chúng, không ai có quyền tái xuất bản nếu nó không được phép của tác giả, như thế chủ yếu là một quyền cá nhân”. Kant cẩn thận nêu lên sự khác biệt giữa tác phẩm văn chương với các tác phẩm nghệ thuật tạo hình. Nghệ thuật tạo hình là một sự vật vật chất (như bức tranh chẳng hạn), nên nó có thể sao chép được nếu sở hữu nó một cách hợp pháp trong lúc đặc điểm của việc xuất bản một tác phẩm văn chương “là buôn bán một hàng hóa không phải nhân danh của riêng nó (tác phẩm) mà là thực hiện một dịch vụ nhân danh một cái khác, cái khác đây là tác giả”[7]. Với cách định nghĩa này, có lẽ Kant là người đầu tiên sử dụng từ “dịch vụ” (affair) để chỉ những hoạt động trao đổi hay buôn bán các sản phẩm phi vật chất như văn chương hay tư tưởng.

Sự lên ngôi của tác giả

Với sự xác lập về pháp lý và triết lý như thế, đến giữa thế kỷ thứ 19, khoảng từ năm 1830 đến 1850, văn chương bắt đầu mang một giá trị tự thân, được giải phóng khỏi tôn giáo và ngay cả thay thế luôn vai trò của tôn giáo. Khái niệm văn chương được chính thức thừa nhận thời gian này trở thành phổ thông và tồn tại đến ngày nay. Nói cách khác, các khái niệm hiện đại về văn chương và nhà văn là những khái niệm đã được định hình từ đầu thế kỷ thứ 19. Sau nhiều thế kỷ lệ thuộc vào giai cấp cầm quyền, trước là giới tăng lữ, quan lại và rồi giới trưởng giả, sau 1789, nhà văn không còn muốn làm một kẻ ăn bám vào một giai cấp ăn bám (parasite d’une classe parasite) nữa. Từ đó, sự truyền thông giữa văn chương và tôn giáo hoàn toàn bị cắt đứt. Họ hoàn toàn tự do trong sáng tác. Các tác phẩm của họ được công chúng nồng nhiệt đón nhận và bản thân họ được kính trọng. Không những thế, trong một số trường hợp, nhà văn trở thành anh hùng, thậm chí là những vị thánh của thế kỷ 19. Văn chương bây giờ chỉ dành cho văn chương. Người ta gọi đó là sự tục hóa văn chương (sécularisation de la littérature).

Sự hình thành và phát triển của các định chế văn chương như hàn lâm viện, các nhà in và nhà xuất bản góp phần rất lớn trong tiến trình tục hóa đó. Ngoài ra cũng phải kể đến sự xuất hiện của một loại tác phẩm đặc biệt: từ điển. Bản thân tự điển không phải là văn chương nhưng rất hữu ích cho những người viết lách và ngược lại, biến những ngôn ngữ mới do nhà văn, nhà thơ sáng tạo ra trong các tác phẩm của họ thành ngôn ngữ chính thức. Tất cả sinh hoạt đó đưa đến chỗ hình thành một thực thể hoàn toàn mới: văn giới (champ littéraire). Nhờ đó, văn chương trở nên tự động, độc lập. Người ta bắt đầu xem viết văn là một nghề: nghề văn (profession des lettres). Người viết văn là văn nhân (homme des lettres). Cùng lúc đó, có sự tách rời giữa nghệ thuật viết văn và các loại kiến thức bác học khác. Người ta xem sự sáng tạo và tính mới mẻ càng lúc càng có giá trị hơn là sự thông thái. Hư cấu đâm ra hay hơn là kiến thức. Từ đó mà văn chương thêm một đặc tính mới, tồn tại và tồn tại một cách mạnh mẽ cho đến nay: sự sáng tạo. Người ta cho rằng chỉ có sáng tạo văn chương mới xứng đáng gọi là sáng tạo, vì nó nằm ngoài các quy luật tự nhiên, nó đem lại cái mới cho cuộc đời. Nó đòi hỏi tài năng, óc tưởng tượng và sự cảm nhận sâu sắc với cuộc sống chứ không phải chỉ sự chịu khó, cần cù hay được chỉ vẻ là ai cũng có thể đạt được như trong các ngành khoa học. Bởi thế, những phát minh khoa học thay đổi thế giới không quan trọng bằng một tác phẩm văn chương. Tên tác giả, từ đó gắn liền với phẩm tính sáng tạo là tính cách riêng biệt dành riêng để chỉ nhà văn. Từ địa vị của một người sao chép, nhà văn trở nên một người sáng tạo nghệ thuật.

Do vai trò được nâng lên, tác giả hoàn toàn có thẩm quyền trên tác phẩm của mình. Đó là một quyền tinh thần, hiện hữu trong ý thức, mang tính cách của một ý thức hệ: ý thức hệ tác quyền. Chính ý thức hệ này dẫn đến hình thức “bản quyền”, một thứ quyền có tác dụng lớn lao trong thực tế đối với các sản phẩm văn chương nói riêng và nghệ thuật nói chung về sau này. Bản quyền là quyền dành cho những ai đã công bố ra những ý tưởng mới lần đầu tiên và khi đã được xác nhận một cách nào đó, hoặc do công luận hoặc về mặt pháp lý, những ý tưởng đó là tài sản vĩnh viễn của họ, gắn liền với tên tuổi của họ. Khái niệm danh nhân hay thiên tài là để chỉ những người đã khám phá ra các ý tưởng mới bằng tài năng riêng biệt của họ mà những người khác không thể có được, là hệ quả của khái niệm bản quyền hay tác quyền. Chính cái ý thức hệ này đã tiếp tay nuôi dưỡng vai trò chủ đạo của tác giả trong lãnh vực văn chương.

Quyền tác giả, từ lãnh vực tinh thần, sớm trở thành một quyền thực sự được bảo vệ về mặt luật pháp. Sau cuộc cách mạng 1789, nhà nước tư sản bãi bỏ tất cả đặc quyền của các tổ chức hay cá nhân không phải là tác giả. Hai đạo luật công bố vào các năm 1791 và 1793 đưa ra những điều khoản quy định khá chi tiết các quyền lợi về tinh thần và vật chất của tác giả, bảo đảm một thứ quyền gần như tuyệt đối trên những gì họ sáng tác. Có điều khoản xác định rõ rằng “tài sản thiêng liêng nhất, cá nhân nhất trong tất cả các tài sản là tác phẩm sinh ra từ trong tư tưởng của nhà văn” (…) Trong khi tác giả còn sống và vài năm sau khi họ chết đi, không ai có quyền xuất bản hay trình diễn mà không có sự đồng ý trước của họ”. Từ đó, hạn từ “tài sản” đã được áp dụng để chỉ quyền của tác giả trên tác phẩm của mình và được gọi là tài sản tri thức (propriété intellectuelle). Chẳng hạn như quy định sau đây: “Suốt đời mình, tác giả được hưởng độc quyền khai thác tác phẩm của mình dưới bất cứ hình thức nào và kiếm lợi nhuận từ đó. Khi tác giả chết, quyền này vẫn duy trì cho những người liên hệ của ông ta trong cùng năm và còn kéo dài cả đến 60 năm sau đó”. Một quy định khác: “Tác giả hưởng quyền được kính trọng tên tuổi, phẩm chất và tác phẩm của mình. Quyền này gắn liền với bản thân tác giả. Quyền này là vĩnh cửu, không thể sang nhượng và tuyệt đối”. Những quy định căn bản về quyền tác giả từ thời đó vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay[8].

Vì xem tác giả là đầu mối, là nguyên nhân cụ thể hiển nhiên nhất của tác phẩm, cho nên giải nghĩa đời sống và cá tính của tác giả là một trong những phương pháp xưa nhất trong nghiên cứu văn chương. Sainte-Beuve (1804-1869) được xem là nhà phê bình đầu tiên thế kỷ 19 hình thành nên phương pháp tiểu sử (méthode biographique). Theo ông, tiểu sử là một trong những loại hình văn chương, viết theo phương pháp sử học, dùng để soi sáng tác phẩm[9], đồng thời là yếu tố chính trong việc khảo sát sự sáng tạo, cho nên còn được gọi là “chân dung văn chương” (portrait littéraire). Ngược lại, người ta cũng dùng tác phẩm để soi sáng cuộc đời tác giả nơi mà những nguồn thông tin khác không đủ. Phương pháp đó chi phối các nghiên cứu văn chương suốt cả một thời gian rất dài. Hệ quả tất yếu là nhiều công trình nghiên cứu văn chương thường được xoay quanh tác giả và tác phẩm hơn là các vấn đề mà tác phẩm gây ra. Vì thế mà chẳng lạ gì khi nào có một nhà văn hay nhà nghệ sĩ nào vừa nằm xuống là không thiếu những bài viết kể lại đủ loại kỷ niệm (thật pha cùng hư cấu) mà người viết có với tác giả khiến cho tác giả gần như che khuất tác phẩm. Rất nhiều bài viết về Trịnh Công Sơn khi người nhạc sĩ tài hoa này vừa nằm xuống cho thấy nhân cách, cá tính, hoàn cảnh sinh hoạt cũng như những biến cố trong cuộc đời TCS chiếm phần lớn, nếu không nói là rất lớn. Lớn hơn hẳn chính cái mà người ta muốn ca ngợi: nhạc (đúng hơn là lời nhạc) của một người có tên là TCS.

Sở dĩ thế là vì người ta xem liên hệ tác giả – tác phẩm là liên hệ nhân quả. Tác giả viết nên văn bản. Không thể có văn bản nếu không có tác giả. Tác giả vừa là nguyên nhân vật chất (tiêu tốn thì giờ để viết, để đánh máy, để sửa chữa..) vừa là nguyên nhân phi vật chất (tạo ra tư tưởng, ý niệm, tạo ra những hình ảnh, những nhân vật hay sự kiện) trong quá trình tạo ra văn bản. Cho nên văn bản, một khi ra đời, là thành phần bất khả phân ly với tác giả. Những gì đáng gọi là hay ho, là sáng tạo, là thẩm mỹ của tác phẩm đồng thời cũng là những gì hay ho, sáng tạo, thẩm mỹ của tác giả. Tất nhiên, những gì dở dang, xấu xa, tầm thường của tác phẩm cũng biểu lộ cái dở dang, xấu xa, tầm thường của chính tác giả. Và ngược lại, bản thân và cuộc đời tác giả cũng được xem là mẫu mực để đánh giá tác phẩm. Ta vẫn thường nghe những nhận định đại loại như “Anh ta/cô/bà ta viết dở lắm” hay “Nhà thơ ấy làm thơ hay lắm” vân vân. Y như thể cái hay cái dở là tác giả, chứ không dính líu gì đến văn bản. Do đó, bất cứ cái gì không ăn khớp giữa tác giả và tác phẩm đều được xem xét, phân tích, bàn cãi, soi rọi đủ mọi mặt với mục đích giải thích sự trục trặc và tìm cho ra những liên hệ hợp lý.

Tác giả cũng còn được hiểu như một thẩm quyền, một giá trị, có khi là một tiêu chuẩn đạo đức. Với cái nhìn đó, tác giả không chỉ là một cá nhân mà còn là một cá nhân cao nhất, một mẫu mực cho các cá nhân. Khuôn mặt tác giả chính là biểu hiện của giá trị văn chương, thậm chí chính là văn chương. Do đó, khi đề cập đến một thứ văn chương hay ho, tuyệt tác thường phải đi kèm theo tên tác giả đưa đến một ý tưởng (có vẻ như vô thức) rằng tác giả là văn chương, chứ không phải tác giả viết văn chương. Khi còn sống thì được vinh danh khi chết thì được tưởng niệm. Tên tác giả trở thành một cách thế hiện hữu, một diễn ngôn bên trong một xã hội. Điển hình như ở Nga, qua hơn một thế kỷ văn chương, nhà văn bao giờ cũng giữ một địa vị rất được kính nể. Văn chương là tiền tuyến của những phong trào đối lập muốn thay đổi chế độ chính trị hay các chính sách. Trong hoàn cảnh đó, nhà văn trở thành lương tâm của quốc gia. “Trong văn chương Nga, nhà văn thường được xem là nhà giáo”, theo nhà văn Vladimir Makanin, nguyên chủ tịch ban giám khảo giải Booker Nga. Sau khi xuất bản độ vài tác phẩm, nhà văn “bắt đầu giảng dạy cho người ta về đủ thứ chuyện trên đời: từ chuyện bầu cử cho đến chuyện bếp núc, chọn nghề và vô số chuyện linh tinh khác trong đời sống”. Chẳng lạ gì, trong thời kỳ Cộng Sản, chính quyền Liên Sô lợi dụng truyền thống đó, bó buộc các nhà văn phải viết theo đường lối xã hội chủ nghĩa, ca ngợi Đảng và chủ nghĩa Cộng Sản nhằm quy tụ quần chúng. Nhà văn nào vâng lời sẽ được cho phép in ấn thả giàn, được o bế, quảng cáo, tâng bốc trong lúc những nhà văn khác thì bị trù dập, cấm đoán, bắt bớ, dọa nạt, trục xuất hay bị thủ tiêu.

Quan hệ tác giả/tác phẩm còn biểu hiện một điều vô cùng quan trọng khác: bảo đảm tính “hiện thực” của những hư cấu, nghĩa là cho những hư cấu một lý do hiện hữu, tạo một liên hệ tất yếu giữa ảo và thực. Tình trạng phi lý của một cô Kiều đẹp đẽ, đàng hoàng, đã thề non hẹn biển với một người tình lý tưởng, lại đi bán mình chuộc cha rồi trở thành gái điếm, được bảo đảm bởi chính một con người: Nguyễn Du. Chẳng thế mà mà có người lớn lối: Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn (Chế Lan Viên). Như thế, tác giả không chỉ là người sản xuất và người bảo đảm cho ý nghĩa mà còn là động lực trong sự phát triển của ý nghĩa, là chỗ dựa vững chắc nếu không là chỗ dựa duy nhất cho ý nghĩa của văn chương. Ta không lạ gì trước đây, khi học về văn trong các trường trung học, cuộc đời của tác giả và quan niệm sống của tác giả được xem xét trước tiên và trở thành tiêu chuẩn chính để đánh giá tác phẩm.

Sự đồng nhất tác giả/tác phẩm khiến cho các hành vi, thái độ, quan điểm của tác giả – nhất là những tác giả hiện còn sống – được dư luận đặc biệt quan tâm theo dõi. Các phát biểu hay hành động của họ về mọi mặt có những giá trị biểu tượng rất cao, nhất là có quan hệ mật thiết đến giá trị của chính những tác phẩm. Trường hợp của Phạm Duy hay Trịnh Công Sơn trong thời gian vừa qua đối với công luận cho thấy quan hệ tác giả/tác phẩm chặt chẽ đến mức độ nào. Thái độ chính trị thể hiện qua cuộc sống cũng như qua các phát biểu đã ảnh hưởng khá nặng nề trong cách đánh giá hoặc đánh giá lại các tác phẩm của họ, đối với nhà cầm quyền Cộng Sản trước đây cũng như những thành phần chống Cộng tại hải ngoại hiện nay: những bài ca hay nhất của họ trở thành mất giá trị. Một số người tìm thấy cái dở của những tác phẩm mà có lúc đã từng được xem là hay và quyết liệt từ chối đọc, sử dụng hay trình diễn chúng. Ngoài ra, có một số tác giả ở hải ngoại mà tác phẩm từng được ca ngợi, nhưng khi một trong những tác phẩm được tác giả đồng ý cho in ở trong nước, là lập tức tác giả đó bị liệt vào thành phần đối nghịch, đón gió trở cờ và tất cả các tác phẩm khác đều được nhìn dưới một góc cạnh tiêu cực.

Nhân đây, ta cũng cần ghi nhận một sự kiện: thời VNCH, hầu hết các tác phẩm trước 1945 của những tác giả sống dưới chế độ Cộng Sản miền Bắc (trừ một số tác phẩm nặng tính chất tuyên truyền của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi…) đều được tái bản và một số được đưa vào chương trình dạy văn của học sinh, từ tiếu học đến trung và đại học và được đánh giá xứng đáng với giá trị nghệ thuật và vai trò của chúng trong lịch sử văn học. Từ Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Anh Thơ cho đến Thế Lữ, Nguyễn Tuân…Rõ ràng là các tác phẩm đó được đánh giá y như chúng hoàn toàn độc lập đối với lập trường và hành vi chính trị hiện đương của các tác giả. Nhờ thế mà thế hệ chúng tôi lớn lên ở miền Nam thời đó biết khá rõ giá trị văn chương của từng tác giả, để làm cơ sở đối chiếu với những sáng tác đầy tính chất tuyên truyền, phi-văn chương sau này của họ. Cũng cần ghi nhận ngay bản “Quốc Ca” VNCH (được đổi lời) được sử dụng tại miền Nam hồi đó và tại hải ngoại hiện nay cũng được ghi tên tác giả là Lưu Hữu Phước vốn là một người Cộng Sản. Mới đây, nhà thơ Nguyễn Đăng Thường đưa lên “Talawas” một Phụ Lục “Thay lời phi lộ” là lời của nhà xuất bản Hoa Tiên khi cho tái bản tại miền Nam các tác phẩm Lửa thiêng của Huy Cận năm 1967, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư năm 1968, Quê ngoạicủa Hồ Dzếnh năm 1969…Lời phi lộ cho thấy nhà xuất bản đã tách rời văn bản ra khỏi con người tác giả[10

Sự suy đồi của tác giả

Nhưng có thực, văn bản là hoàn toàn đồng nhất với tác giả hay không? Nói khác đi, văn bản, trong thực tế, có hoàn toàn là công trình của chính tác giả viết nên nó không?

Trước hết, ta thử trở lại một câu hỏi căn bản: Viết là gì?

Viết là ghi ra những gì ta có trong đầu thành chữ. Đó là những cụm từ, những ý tưởng, những hình ảnh hình thành trong đầu. Có phải đó là những chữ, những cụm từ hay những ý tưởng ta tạo ra không? Chắc chắn là không. Để có thể viết ra một trang giấy chẳng hạn, trước hết ta phải thông thạo về ngôn ngữ mình viết, nghĩa là biết cách dùng từ, biết văn phạm, biết cách diễn đạt hình ảnh và ý tưởng sao cho phù hợp thì khi đọc, những người khác mới hiểu được những gì ta viết. Muốn thế, cách duy nhất là phải học cách dùng ngôn ngữ và kiến thức trong đời sống từ người khác và nhất là từ trong sách vở. Do đó, nói là ta viết, ta “sáng tác”, thực tế là gần như ta lập lại, bắt chước hay nói cho văn vẻ, ta “trích dẫn” ngôn ngữ có sẵn của những người đi trước. Một bài văn, một cuốn sách chứa đựng tất cả những chữ đã có sẵn trong từ điển. Các ý tưởng, các hình ảnh trong đó cũng đã được những người khác dùng rồi. Mỗi câu ta dùng thường được “mượn” từ một nơi nào đó, của một ai đó mà ta đã từng đọc, từng nghe qua tích lũy trong ký ức. Mỗi ý tưởng, mỗi hình ảnh cũng thế. Thoạt nghe, thoạt viết ra, ta tưởng như mình vừa “khám phá” ra một điều gì rất mới lạ chưa từng ai viết, y như thể điều đó là của riêng mình. Thực tế, ta chỉ “sao chép” mà ta không để ý.

Hãy đọc lại thử những bài thơ (nhất là thơ vần) dù mới sáng tác, ta sẽ thấy không thiếu các cụm từ, các ý tưởng hầu như đã được đọc đâu đó hàng bao nhiêu lần rồi, nhưng được bố trí một cách khác mà thôi. Lý do là vì có nhiều ý tưởng hay đặc ngữ vốn cũng do một “ai đó” đã khai sinh nhưng rồi được nhiều người sử dụng đến nỗi đã trở thành phổ thông, trở thành cách nói chung mà ai dùng cũng được. Ta chẳng ngạc nhiên khi đọc những cụm từ hay ý tưởng trùng hợp khi tả về mùa thu, về tình yêu, về nỗi mong chờ, sự chia cách…Không lạ gì nhiều bài thơ tình sau này đọc lên cứ thấy hao hao, khi thì TTKH khi thì Nguyên Sa khi thì Xuân Diệu. Những bài thơ về tranh đấu, về lòng yêu nước lại hao hao những Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán. Mà kể cả những TTKH, Nguyên Sa, Xuân Diệu hay Hoàng Cầm, Quang Dũng có thể cũng hao hao y như “sao chép” lại từ đâu đó, nếu không từ những bản văn Việt thì cũng từ bản văn Tàu hay Tây mà ta không biết. Những người tài hoa và khổ luyện thì sự “hao hao” không thấy hay ít thấy (hay nói một cách khác là khéo dấu). Những người ít khổ luyện, dễ dãi thì cái “hao hao” trở thành bắt chước, một hình thức “lắp ghép” chữ nghĩa không hơn không kém. Văn xuôi cũng thế. Thử đọc một trang văn xuôi của bất kỳ một tác giả nào đó, xem cách diễn tả về mùa thu hay mùa hè, trời mưa hay trời nắng hay cách đối thoại và cử chỉ của đôi trai gái yêu nhau…chẳng hạn, ta sẽ thấy ngay tính “hao hao” như thế từ tác giả này qua tác giả khác, về từ ngữ, cách đối thoại cùng hình ảnh và ý tưởng. Đó là chưa kể cách phân đoạn, cách xuống dòng, bố cục, tóm lại là vấn đề kỹ thuật, không khác gì nhau mấy. Không phải là tác giả muốn đạo văn nhưng đó là cách viết thích hợp nhất, cách viết tiêu chuẩn để diễn tả một cái gì đó. Lâu lâu, cũng có người thỉnh thoảng “phá cách” bằng cách đảo ngữ, cắt chữ, cắt câu hay cố tình kéo dài câu, hay không dùng dấu chấm dấu phết, vân vân. Nhưng như ai đã từng kinh qua chuyện viết rồi sẽ thấy ngay, người viết không có nhiều chọn lựa lắm trong việc thay đổi các cấu trúc căn bản của câu, chữ.


Nói đâu xa, bài viết như bài mà quý vị đang đọc đây cũng không có gì khác hơn. Thực tế là tất cả những gì đã viết ở trên và ngay dòng chữ vừa viết và sắp viết ra sau đây, tôi cũng đang sao chép lại những câu, chữ về cách viết lý luận mà tôi tích lũy hay trích dẫn từ hàng ngàn nguồn khác nhau. Cứ xem cách tôi nêu tên tác giả, ghi chú về tác phẩm của họ cùng các trích đoạn nguyên văn (dịch lại) đã chiếm hết phần chính của bài viết. Sau đó là những câu, những đoạn tôi viết lòng vòng, trong các phần chuyển đoạn, chuyển ý hay rào trước đón sau, có mục đích kéo dài bài viết hay khiến cho bài viết trông tròn trịa, hầu hết đều là “bắt chước” từ cách viết của nhiều tác giả mà tôi đã thuộc nằm lòng. Đó là chưa kể biết bao nhiêu đoạn văn và ý tưởng mà tôi đã “ăn gian” vì đã nhại lại ý của một ai đó nhưng thay đổi cách viết (paraphrase) để cho khỏi mang tiếng đạo văn, để có vẻ là “của mình”. Còn các truyện ngắn hay truyện dài tôi đã viết, ngoài những gì tôi thuộc nằm lòng do đọc nhiều, thú thật, rất nhiều khi bí, tôi đi tìm truyện của nhiều tác giả (Tây, Tàu, Mỹ, Anh…) học cách viết, cách diễn đạt của họ rồi cho vào bài viết của mình. Còn ý tưởng thì, nói thật, tôi đều nhái đi nhái lại những ý tưởng, các quan niệm xuất phát từ triết lý đông tây kim cổ mà tôi có dịp nghiền ngẫm hay đã từng đọc qua. Đôi khi, đọc những ý tưởng mình đã viết ra, ngẫm lại, cũng chỉ là “thuật nhi bất tác” như người xưa đã nói. Dường như chẳng có gì mới lạ!


Ai dã từng viết văn đều trải qua kinh nghiệm này: cảm hứng. Rất nhiều khi một câu thơ, một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu, bắt ta phải viết ra. Có khi cả một đoạn văn dài, chữ nghĩa tuôn ào ào ra trang giấy đến mức tưởng chừng như ta viết không cần suy nghĩ. Tại sao vậy? Chính là ngôn ngữ làm chủ. Chúng vận dụng ta như một phương tiện. Nói như ngày xưa: thần hứng. Hay nói một cách khác: nhập tâm, xuất thần. Chẳng có thần nào cả. Theo các nhà ngôn ngữ học, tất cả chỉ xuất phát từ tính chất tự động của ngôn ngữ. Qua kinh nghiệm nói, giao tiếp, đọc và suy nghĩ, ngôn ngữ đi vào trong tâm thức cá nhân, tồn tại ở đó. Khi vận dụng, chúng sẽ tự động trào lên để cho chúng ta viết ra. Nguyên Sa, Xuân Diệu, Huy Cận, Hoàng Cầm không “làm” thơ. Nguyễn Tuân, Mai Thảo, Võ Phiến không “viết” văn, tôi (Trần Hữu Thục) không “viết” bài tiểu luận này. Chính ngôn ngữ Việt Nam đã mượn họ, mượn tôi viết để thể hiện ra những văn bản.


Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên thấy tôi “chê bai” những tên tuổi lớn trong văn chương VN rồi lại tự chê bai mình! Không đâu, tôi đang quảng diễn lại quan điểm của những nhà cấu trúc luận. “Trong khi chủ nghĩa lãng mạn cũng như các khuynh hướng nhân bản khác xem tác giả là cội nguồn của văn bản – người sáng tạo ra văn bản, nên thay vì chú ý đến văn bản, nhà phê bình thường tập trung vào tác giả, cấu trúc luận có quan điểm hoàn toàn trái ngược, bất cứ một bản văn nào hoặc bất cứ một hệ thống biểu đạt nào đều không có nguồn gốc; tác giả thuần túy là người sống trong những cấu trúc đã tồn tại từ trước (pre-existing structures – langue) mà nhờ vào nó, họ viết nên một câu văn hay một câu chuyện – những đơn vị của ngôn ngữ (parole). Do vậy, ngôn ngữ nói lên tư tưởng của con người chứ không phải con người diễn đạt tư tưởng qua ngôn ngữ, như quan điểm của Saussure:chính ngôn ngữ sáng tạo ra tư tưởng”[11].


Nhận định trên đây của Nguyễn Minh Quân, có thể nói, đã tóm tắt những nét chính yếu của trào lưu tư tưởng hiện đại về vai trò của tác giả. Bây giờ, hãy trở lại với hành trình của tác giả trong lịch sử.


Sau một thời gian dài được nâng lên đỉnh cao, kể từ cuối thế kỷ 20, vai trò của tác giả như là một nguyên tắc sản xuất, giải thích văn bản dần dần bị che mờ bởi những khám phá mới về các đặc tính của văn chương, đặc biệt là vai trò của ngôn ngữ. Tác giả – mà xuyên qua đó là tính cá nhân – không còn được xem như là chất liệu độc quyền trong sự hình thành văn bản. Thay vào đó, tính phi cá nhân, tính trung tính (neutre) và nặc danh (anonymat) đã được chính các “tác giả” như Stéphane Marllarmé (1842-1898), Paul Valéry (1871-1945), Marcel Proust (1871-1922) rồi Samuel Beckett (1906-1989) hay Maurice Blanchot (1907-2003) đề cao và xem như là chủ đạo.



Mallarmé, trong “Crise de vers”[12] cho rằng “tác phẩm tinh ròng bao gồm sự biến mất tiếng nói của nhà thơ, nhường chỗ cho ngôn ngữ”[13]. Do đó, mục đích lý tưởng của nhà thơ là “loại trừ tác giả”, làm sao cho tác phẩm là “chữ ký tắt phóng đại của thiên tài, vô danh và hoàn hảo như là một hiện hữu của nghệ thuật”. Tác giả, theo ông, là phải tự xóa trước văn bản. “Nhà văn, từ những đau đớn, nhọc nhằn mà hắn khoái trá, hay từ những niềm vui, phải tự dựng nên thứ kịch tính tri thức ở văn bản”. Còn Paul Valéry thì cho rằng văn chương vốn sống động như một giòng thác và tác giả là người chẳng viết gì cả. Vì theo ông, “Tất cả sản phẩm văn chương là sản phẩm hỗn tạp” (….). “Tất cả tác phẩm là tác phẩm của nhiều điều khác hơn là một tác giả”[14].



Marcel Proust, qua tác phẩm “Contre Sainte-Beuve”[15], được xem là người đầu tiên đưa ra một cái nhìn hiện đại tương đối rõ ràng về vai trò của tác giả. “Contre Sainte-Beuve” là một tác phẩm “lai”, vừa hư cấu vừa phê bình, được Gallimard xuất bản năm 1954, mấy chục năm sau khi Marcel Proust đã qua đời. Đây là một tác phẩm gây ra khá nhiều tranh cãi, trong đó, Proust dành ra nhiều phần[16] trực tiếp đề cập đến công việc phê bình của Charles Augustin Sainte-Beuve, nhà phê bình Pháp nổi tiếng thế kỷ 19 này. Trong nhiều bài viết trước đó, Proust đã phê phán một cách thẳng thừng cách giải thích tác phẩm và cuộc đời của các nhà văn lớn thời ông. Lầm lẫn lớn nhất của Sainte-Beuve, theo Proust, là ông ta “hiểu lầm tính sáng tạo của các thiên tài và tính phi thực của các đối thoại”. Proust dành nguyên phần “The Method of Sainte-Beuve” để bác bỏ phương pháp phê bình của Sainte-Beuve. Proust trích dẫn lại quan niệm của Sainte-Beuve: “Tôi không quan niệm văn chương là một cái gì riêng biệt hay ít nhất là tác khỏi phần còn lại của tác giả và bản chất của ông ta. Nếu người ta không hỏi tác giả một số câu hỏi nào đó và nhận được những câu trả lời, dù đó chỉ là những lời tâm sự riêng tư, thì người ta không thể nào chắc chắn nắm vững hoàn toàn về tác giả, ngay cả khi những câu hỏi này dường như hết sức xa cách với bản chất những gì họ viết”[17]. Nghĩa là, theo Sainte-Beuve, ta phải biết quan niệm của tác giả về tôn giáo, thiên nhiên, về phụ nữ, về tiền bạc, anh ta giàu hay nghèo, đời sống hàng ngày ra sao, có những thói hư tật xấu nào,vân vân. Proust cho rằng phương pháp tiểu sử của Sainte-Beuve là sai lầm vì không biết một điều căn bản, tác phẩm là “sản phẩm của một cái tôi khác hơn cái tôi mà chúng ta biểu lộ trong các thói quen của chúng ta, trong đời sống xã hội chúng ta, trong những thói xấu của chúng ta”. Bằng cách đi sưu tập thông tin về đdời sống của tác giả, Sainte-Beuve đã khiến cho cái tôi vốn đã làm nên tác phẩm bị che mờ, bị khuất lấp, bị đặt nằm dưới những cái tôi bên ngoài không liên hệ gì đến tác phẩm. [18]


Những quan điểm trên đã phần nào làm cho hình ảnh của tác giả mất đi vị thế hàng đầu mà nó đã có trong suốt thế kỷ 19. Nhưng vai trò tác giả bị đặt thành vấn đề một cách có hệ thống và gây ảnh hưởng lâu dài về sau xuất phát từ một nhà ngữ học Pháp: Ferdinand de Saussure, người được xem như là cha đẻ của ngành ngữ học thế kỷ 20 cũng như lý thuyết Cấu Trúc Học hiện đại. Tuy cơ cấu học áp dụng vào nghiên cứu văn chương chỉ nở rộ vào thập niên 1960, ngôn ngữ với những vấn đề, bí ẩn và hàm ý của nó, đã trở thành vừa là mẫu mực vừa là ám ảnh đối với sinh hoạt trí thức của thế kỷ 20. Có thể nói cấu trúc học là một dự tính suy nghĩ lại mọi sự một lần nữa xuyên qua ngôn ngữ học.


Theo Saussure, ngôn ngữ là một hệ thống gồm những ký hiệu (signs). Ký hiệu gồm có hai phần: một phần chỉ ý nghĩa, gọi là phần được biểu đạt (signified) và một phần chỉ vật quy chiếu, tức là chữ hay một dấu hiệu nào đó gọi là phần biểu đạt (signifier). Tương quan giữa hai phần là một tương quan võ đoán (arbitrary), giữa chữ và vật, khiến tách văn bản ra khỏi môi trường chung quanh và làm cho nó trở thành một vật tự động. Đó là một vương quốc đóng kín, là một hệ thống tương quan giữa những ngôn từ (verbal relationships), không dính líu gì đến hiện thực bên ngoài. Mỗi một ký hiệu trong hệ thống sở dĩ có nghĩa chỉ vì một lý do đơn giản tiềm ẩn ngay ở trong hệ thống: nó khác với những ký hiệu khác. Từ “cat” chẳng hạn, tự nó chẳng có nghĩa gì cả, nhưng nó có nghĩa vì nó khác “cap”, “cad” hay “bad”. Như thế, trong ngôn ngữ, chỉ có sự khác nhau là quan trọng. Nghĩa không nằm một cách bí mật bên trong chính nó mà nằm trong tương quan với những ký hiệu khác. Nó có tính “chức năng” (fonctional), do sự khác biệt với các dấu hiệu khác. Cơ cấu học tin rằng hiện thực và kinh nghiệm về nó là hoàn toàn tách biệt hẳn nhau.


Như thế, trái ngược hẳn với quan niệm cho rằng tác giả là một người (cụ thể) nào đó viết tác phẩm là để diễn tả chính mình, là tổ chức kinh nghiệm mà mình có trong khi giao tiếp với hiện thực vào một văn bản, biến chúng thành ý nghĩa để truyền đạt đến người đọc, thì đối với những nhà lý thuyết về ngôn ngữ, văn chương là một cơ cấu ngôn từ tự động (autonomous verbal structure), hoàn toàn cắt đứt khỏi bất cứ quy chiếu nằm bên ngoài nó[19]. Ý nghĩa không đơn giản chỉ là những gì được “diễn tả” hay được “phản ảnh” trong ngôn ngữ, mà trái lại, được “sản xuất” bởi ngôn ngữ. Không phải là ta có kinh nghiệm rồi sau đó mới được trang bị với chữ. Chúng có ý nghĩa vì chúng ta đã có một ngôn ngữ chứa đựng chúng rồi. Ý nghĩa là sản phẩm của ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ là cái gì luôn luôn bị “trượt” do đó, ý nghĩa không ổn định, không luôn luôn giống nhau.


Ngữ học cơ cấu ảnh hưởng nhiều đến các nhà Hình Thức Luận Nga (Russian Formalists) vào đầu thế kỷ thế kỷ 20 (từ thập niên 1920), dù bản thân phong trào này không thuộc xu hướng Cấu Trúc Luận (Structuralism). Họ nhìn các văn bản văn chương một cách cơ cấu (structurally), tuy nhiên chỉ trên phần hình thức, mà không chú ý đến các luật tắc và cấu trúc tiềm ẩn, nằm sâu bên dưới các văn bản. Tuy nhiên, một trong những người trong nhóm, Roman Jakobson, cung cấp một mắt xích quan trọng nối liền trào lưu Hình Thức Luận Nga và các trào lưu cấu trúc học hiện đại. Văn chương, đối với họ, là một sản phẩm tự động, không dính líu gì tới bên ngoài. Cái làm một tác phẩm trở thành tác phẩm văn học là do “tính văn chương” (literariness) của nó chứ không phải là do tác phẩm hay tác giả. Jakobson cho rằng các từ ngữ rút ý nghĩa của chúng từ sự sắp xếp của chúng bên trong một tác phẩm (bài thơ chẳng hạn), chứ không phảì từ những quy chiếu bên ngoài chúng. Văn phong là phương tiện mà nhà văn mượn để dùng nhằm tạo sự cân bằng đối với ngoại giới, nhưng thế giới mà nó tạo ra không dính dáng gì đến cái thế giới của sử học hay địa lý. Một khuôn mặt nổi bật khác của nhóm Hình Thức Luận Nga, Viktor Shklowsky, cho rằng những tác phẩm văn chương tựa như những bộ máy. Chúng là kết quả của một hoạt động, trong đó, một kỹ năng đặc biệt chuyển những nguyên liệu thành một cơ cấu phức tạp thích hợp với một mục đích đặc thù nào đó. Điều này tách văn chương khỏi sự dính líu đến bản thân tác giả và cả độc giả và bối cảnh phát sinh ra chúng. Nghệ thuật, cũng theo Shklowsky là “tổng số những thủ pháp (devices) mà nguời nghệ sĩ vận dụng để làm nên tác phẩm của ông/bà ta”. Cũng theo ông, “Nghệ thuật là một cách trải nghiệm tính nghệ thuật của một vật, còn vật đó như thế nào thì không quan trọng”


Hầu như cùng một lúc nhưng ở một chân trời khác là phong trào Phê Bình Mới (New Criticism). Trường phái này, lúc đầu xuất hiện ở Anh sau đó phát triển mạnh ở Hoa Kỳ từ 1940 với một nhóm các nhà phê bình văn chương Hoa Kỳ hầu hết đều dạy ở các đại học miền Nam sau Đệ Nhất Thế Chiến như John Crowe Ransom, William Wimsatt, Monroe Beardsley, Cleanth Brook rồi kéo dài đến giữa thập niên 1960. Phần lớn các nhà Phê Bình Mới không biết gì về Hình Thức Luận Nga, nhưng lại có nhiều quan điểm tương đồng về nghiên cứu văn chương. Văn chương được hiểu là những gì chỉ tồn tại trong văn bản. Họ bài bác tất cả những hình thức diễn ngôn phi văn chương, nghĩa là những gì không có trong văn bản, thay vào đó, nhấn mạnh đến vai trò của cấu trúc cũng như mối liên hệ nội tại chứa đựng trong đó. Đối với Wimsatt và Beardsley, chỉ có những con chữ trên trang giấy là quan trọng, còn tất cả những gì lấy từ bên ngoài văn bản đều hoàn toàn vô giá trị. Họ cho rằng những kiến thức ngoại-văn-chương cũng như kiến thức về văn học sử đều không mấy cần thiết đối với phê bình văn học. Với họ, chỉ có một thứ lịch sử cần thông thạo, đó là lịch sử của chữ. “Nghĩa của những con chữ là lịch sử của chữ và tiểu sử của một tác giả, cách dùng chữ của hắn ta và những liên tưởng mà chữ có đối với hắn là một phần của lịch sử và nghĩa của chữ”, theo Bearsdley và Wimsatt[20]. Mặt khác, ngay cả cho dù họ quan tâm đến ý nghĩa của văn bản (điều này khác Hình Thức Luận Nga), thì ý nghĩa đó cũng không nằm ngoài văn bản. Họ bài bác mỗi tác phẩm chỉ có một ý nghĩa duy nhất (là ý nghĩa do tác giả định đặt) mà nhấn mạnh đến tính đa nghĩa. Một tác phẩm “chỉ có một ý nghĩa duy nhất” là điều mê tín”, theo Ivor Richards.


Tóm lại, đối với những nhà Cấu Trúc Luận, Hình Thức Luận Nga hay Phê Bình Mới Mỹ, một tác phẩm văn chương chính là văn bản, nghĩa là những con chữ. Những con chữ đó nằm trong một cấu trúc nội tại. Do đó, toàn bộ ý nghĩa của chúng gắn liến với những con chữ và hình thức cấu trúc đó. Những gì nằm ngoài đều là phi văn chương. Với tính cách là một cấu trúc, văn bản là một sản phẩm phi cá nhân, hoàn toàn nặc danh. Cho nên các yếu tố lịch sử, tâm lý học, xã hội, đạo đức, chính trị…đều không có ảnh hưởng gì trong nghiên cứu văn chương. Và quan trọng nhất, tác giả không đóng một vai trò gì đáng kể trong tác phẩm. Tác giả không còn được xem là thứ “thiên tài đặc dị” như các nhà lãng mạn chủ nghĩa tôn vinh hay “thư ký thời đại” như các nhà hiện thực chủ nghĩa phong tặng. Với họ, tác giả chỉ còn là những người thợ thủ công, kẻ nắm vững các kỹ thuật làm mới ngôn ngữ và các phương pháp tự sự, biết cách sắp xếp các vật liệu ngôn từ một cách hoàn hảo mà thôi[21].


Cái chết của tác giả

Tác giả không những mất vai trò chính mà có lúc, còn bị giết chết. Người đầu tiên đưa tác giả lên đoạn đầu đài là Roland Barthes qua một bài viết đầy ấn tượng: “La mort de l’auteur”[22]. Người ta gọi đó là một “biến cố văn chương”, xảy ra đúng vào lúc có cuộc nổi loạn của sinh viên và người lao động năm 1968 ở tại Paris. Sự giết chết tác giả, đánh dấu sự chuyển dịch từ lý thuyết Cấu Trúc Luận đến lý thuyết Hậu Cấu Trúc (Poststructuralism) hòa cùng với phong trào chống độc đoán (anti-autoritaire), chống lại nhà cầm quyền thời bấy giờ là chính phủ De Gaulle.

Theo nhà phê bình thuộc khuynh hướng cấu trúc học này thì, tác phẩm (work) và văn bản (text) là khác hẳn nhau[23]. Tác phẩm là một thành phần của sản phẩm văn chương, chiếm một khoảng không gian nào đó (như xếp nằm trên giá sách của thư viện), tức là một cuốn sách, trong lúc đó, văn bản thuộc về lãnh vực phương pháp. Barthes lấy cách Lacan phân biệt giữa “la realité” (hiện thực) và “le réel” (cái có thực) – theo đó, hiện thực thì được trưng bày còn cái có thực thì được giải thích -, để phân biệt giữa “tác phẩm” là cái để trưng bày còn “văn bản” là một tiến trình giải thích theo một số quy luật nào đó; tác phẩm có thể giữ trong tay, còn văn bản thì được giữ trong ngôn ngữ hay nói cách khác thì văn bản chỉ hiện hữu trong chuyển động của diễn ngôn. Nói cho rõ ràng hơn thì chính văn bản mới là tác phẩm thực sự, còn cái gọi là tác phẩm chỉ là hình thức vật chất bên ngoài của nó, tức là cuốn sách.

Văn bản, theo Barthes, không phải là những hàng chữ phóng ra một ý nghĩa “thần bí” nào đó nhưng là một không gian đa chiều trong đó, có vô số bản văn trộn lẫn và đụng độ lẫn nhau. Văn bản bao gồm những con chữ xếp vào nhau thành một cấu trúc nào đó mà ta có thể nhìn thấy ngay, nếu cần tìm cần hiểu thì căn cứ vào đó chứ khỏi phải mất công đi tìm đâu xa. Nói một cách khác, văn bản là văn bản, chẳng có cái gì bí ẩn chứa đựng đâu đó bên dưới những con chữ. Đó là một chuỗi những trích dẫn rút ra từ vô số trung tâm văn hóa khác nhau qua một quá trình gọi là viết. Như thế, viết đơn giản chỉ là một hành động “trích dẫn”, chứ không phải là sáng tạo, vì những gì tồn tại qua văn bản, thực ra, chẳng có cái nào gọi là mới cả. Ngôn ngữ là những gì có sẵn đâu đó trong sách vở hay trong việc giao tiếp hàng ngày rồi. Như thế, một văn bản được tạo thành bởi nhiều bản viết khác nhau, rút ra từ nhiều nền văn hóa khác nhau và đi vào những tương quan hỗ tương về đối thoại, nhại văn, tranh cãi. Vậy thì xem xét một văn bản không phải là giải đoán (deciphered) mà là tháo gỡ (disentangled). Ở điểm này, Barthes loại bỏ hẳn tất cả những yếu tố nào không thuộc về ngôn ngữ. Ông nói rõ: Viết, là đạt đến điểm, nơi mà chỉ có ngôn ngữ tác động, trình diễn.

Vậy thì người viết nằm ở đâu? Theo ông, không có một chủ thể viết thực sự, mà chính sự trình diễn, sự tác động của ngôn ngữ tạo ra một hình thức “chủ thể”. Và chủ thể này không hề là một người bằng xương bằng thịt nào đó mà đơn giản chỉ là một chủ thể trần thuật hay là một chủ thể theo nghĩa văn phạm có mặt cùng với lúc đang viết hic and nun, nghĩa là ở đây và bây giờ. Nó tự đủ với chính nó, không cần cái gì ở bên ngoài xác định, để khiến cho ngôn ngữ kết hợp lại nhau. Cái viết không ngừng ấn định ý nghĩa và cùng lúc không ngừng làm cho nó biến mất, triển hạn.

Tóm lại, về phương diện ngữ học, tác giả chẳng có gì khác hơn là “cái viết cụ thể”, nghĩa là ngôi vị “tôi” trong văn bản chẳng có gì khác hơn là cái cụ thể đó nói “tôi”[24]. Như thế thì không có một “tác giả” nào nói cả mà chính ngôn ngữ “nói”[25]. Tác giả chỉ đóng vai trò của một là kẻ ghi chép (copier) có nhiệm vụ trộn lẫn các bản viết. Đó là một “tồn tại trên giấy” (un être de papier) chứ không phải là một cá nhân thực sự theo nghĩa tâm lý học. Từ đó, Barthes không ngần ngại khẳng định: Tác giả không sáng tạo gì cả, hắn chỉ lắp ghép[26]. Với một cái nhìn như thế, văn bản không hề là phương tiện để nhà văn diễn tả về chính mình. Những gì mà ta tưởng là chuyển dịch những điều bên trong nhà văn thành con chữ, tự nó chỉ là một cuốn tự điển đã được hình thành rồi, con chữ này chỉ có thể giải nghĩa được là nhờ con chữ khác và cứ thế đến vô cùng, từ câu đến câu từ văn bản đến văn bản, vân vân.


Như đã đề cập ở phần trên, tác giả là một khuôn mặt mới, một sản phẩm của tiến trình lịch sử. Việc cho tác giả đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành văn bản, theo Barthes, xuất phát từ một quan niệm sai lầm nhô lên từ thời Trung Cổ với chủ nghĩa thực nghiệm Anh, chủ nghĩa duy lý Pháp và niềm tin cá nhân vào thời kỳ Phục Hưng, lúc mà người ta khám phá ra uy thế của cá nhân như một chủ thể – không những là chủ thể hành động của mình mà còn là chủ thể lịch sử. Tác giả thường được xem như là quá khứ của tác phẩm, là kẻ cưu mang tác phẩm, hiện hữu trước tác phẩm, suy nghĩ đau đáu, sống cho nó y như quan hệ giữa cha và con. Từ đó, tác giả ngự trị trong lịch sử văn học, đưa đến việc các nhà văn tìm cách đồng nhất mình vào tác phẩm qua nhật ký hay hồi ức. Sự hiểu sai về vai trò của tác giả đưa đến sự hiểu sai về công việc phê bình, vì nhà phê bình tự cho mình làm một công việc quan trọng là khám phá ra tác giả (và những hoàn cảnh của hắn: xã hội, lịch sử, tâm lý…) nằm bên dưới tác phẩm. Thế là khi tác giả được tìm thấy, được soi sáng (bằng các chi tiết về cuộc đời, quan niệm, hành vi…) thì tác phẩm xem như được “giải nghĩa” và thế là thành công. Bởi thế, Barthes cho rằng không có gì ngạc nhiên là về phương diện lịch sử, sự ngự trị của tác giả cũng là thời kỳ ngự trị của nhà phê bình.


Nhưng nếu tác giả không đóng vai trò gì thì tại sao có sự hiện diện của văn bản? Barthes cho rằng văn bản chỉ có một chỗ, nơi mà tất cả số lượng đó nhắm đến, đó là độc giả. Sự thống nhất của văn bản nằm ở chỗ đến là độc giả, không phải nơi xuất phát là tác giả[27]. Độc giả là không gian nơi mọi trích dẫn tạo nên bài viết không bị mất. Và nơi đến này không còn có tính cá nhân: độc giả thì không lịch sử, không tiểu sử, không tâm lý. Đó đơn giản chỉ là một ai đó giữ lại với nhau trong một lãnh địa duy nhất tất cả dấu vết mà văn bản được dựng nên. Barthes kết luận bài viết: Phê bình cũ không bao giờ chú ý đến độc giả mà cho tác giả là nhân vật duy nhất. Đó chỉ là một huyền thoại. Phải lật đổ huyền thoại này: sự khai sinh ra độc giả phải được trả bằng cái chết của tác giả[28].


Một năm sau bài viết gây chấn động của Barthes là một bài viết khác của Michel Foucault, đề cập đến cùng một vấn đề: “Qu’est-ce qu’un auteur”[29] (Tác giả là gì?). Cũng như Barthes, ngay trong phần mở đầu bài viết, Foucault khẳng định rằng việc cá nhân hóa vào thời điểm đặc biệt nhất trong lịch sử của văn chương, triết lý và khoa học đưa đến sự hình thành khái niệm về tác giả. Nhưng Foucault quả quyết ngày nay, cái viết đã khác trước. Viết không còn là để bày tỏ, diễn đạt một điều gì đó. Viết tự quy chiếu với chính nó, tuy nhiên không phải là trong hình thức nội tính (intériorité) mà là “đồng hóa với thứ ngoại tính phơi mở riêng của nó”(sa propre extériorité déployée). Điều đó có nghĩa viết là “một trò chơi của các ký hiệu được sắp xếp dựa theo bản chất của cái biểu đạt (tức là các con chữ) hơn là dựa theo nội dung được biểu đạt của nó (tức là ý nghĩa)”. Viết tự mở ra như một trò chơi chắc chắn vượt ra ngoài quy luật. Trong việc viết, điều quan trọng không phải là xuất phát từ sự biểu lộ của hành vi viết, cũng không phải là ghim chủ thể viết vào trong ngôn ngữ, mà là mở ra một không gian, nơi mà chủ thể viết không ngừng biến mất”. Cách nói có phần tối nghĩa của Foucault, thực ra, chỉ là thế này: viết không phải là phương tiện để diễn đạt những xúc động hay ý tưởng của một ai đó gọi là tác giả. Vì viết không có nghĩa là truyền thông giữa tác giả và độc giả như ta thường quan niệm, trái lại chỉ là sự lưu thông của ngôn ngữ chính nó, bất chấp sự hiện hữu của tác giả và độc giả. Như thế thì khái niệm viết trong cách dùng hiện nay, theo ông, dường như là chuyển những “đặc tính thực nghiệm” của tác giả thành một “nặc danh siêu việt” (anonymat transcendental). Nghĩa là tác giả biến mất.


Ở đây, ta thấy cách phân tích của Foucault khác hẳn cách lý giải của Barthes. Tuy không bài bác quan điểm của Barthes, nhưng thay vì khẳng quyết cái chết không thể cứu vãn được của tác giả, Foucault tra vấn ngược lại về vai trò của nó. Trước hết là tác phẩm bao giờ cũng phải đi kèm theo một cái tên riêng và vì thế, dù muốn dù không, ta phải xét đến cách dùng cái tên riêng đó. Xin lưu ý, Foucault muốn nói tới cái “tên riêng” (nom propre) của tác giả chứ không phải là tác giả. Cái tên riêng đó đóng vai trò gì? Tên riêng của tác giả, theo ông, dao động giữa hai cực: sự chỉ định một cá nhân nào đó/và sự diễn đạt quy cho các ý tưởng gắn liến với cái tên đó. Nhưng nhất định hai cực đó không đồng nhất nhau, chỉ nối với nhau qua một liên hệ đặc thù. Tên riêng của tác giả giúp tập hợp một số bài viết, một số sách, xác định nguồn gốc chúng với mục đích tách chúng ra cho khỏi lẫn lộn với tác phẩm của những người khác, đồng thời xác định mối liên hệ giữa các văn bản. Nói khác đi, tên tác giả là vật biểu đạt kèm theo văn bản để cho thấy nó khác biệt với các văn bản khác. Những văn bản có kèm theo tên tác giả chỉ nhằm tạo ra sự chú ý chứ không tạo ra một giá trị văn hóa nào. Nó nằm ở mé ngoài của văn bản, nghĩa là tự nó, nó chẳng góp gì nhiều vào giá trị của chính văn bản.


Tên tác giả, mặt khác, tiêu biểu cho một cách hiện hữu nào đó của diễn ngôn[30]. Nó nhằm mục đích cho thấy diễn ngôn không phải là thứ ngôn ngữ sử dụng hàng ngày đến đến đi đi, mà ngược lại, là một thứ ngôn ngữ phải được tiếp nhận một cách nào đó trong một nền văn hóa nào đó vào một khoảng thời gian nào đó. Kết quả là, trong một nền văn minh như nền văn minh hiện nay, có một số diễn ngôn được gọi là tác giả trong lúc một số khác thì không. Chẳng hạn như một lá thư riêng có người ký tên, nhưng người đó không là tác giả; một hợp đồng có người ký tên, nhưng người đó cũng không là tác giả; một văn bản vô danh dán trên tường có lẽ có ai đó viết nên, nhưng đó vẫn không được xem là tác giả. Tác giả phải là một cách thế hiện hữu, cách thế luân chuyển và vận dụng của những diễn ngôn nào đó bên trong một xã hội.


Như thế thì, tác giả, theo Foucault, chẳng phải là một con người cụ thể nào đó mà là một chức năng mà ông gọi là “chức năng tác giả” (fonction auteur). Nó giống như là một cơ cấu hay một tập hợp bao gồm những niềm tin hay những giả định nào đó điều khiển sự sản xuất, lưu thông, sắp xếp và tiêu thụ văn bản. Foucault phân biệt ra bốn đặc điểm của chức năng tác giả:


1. Chức năng tác giả gắn liền với sự chiếm hữu và hình thức chiếm hữu đó liên hệ đến luật pháp. Khác với khi diễn ngôn được quy cho các chuyện thần thoại, các văn bản bắt đầu kèm theo tên tác giả nhằm mục đích trừng phạt con người mang tên đó trong trường hợp văn bản có chứa đựng nội dung vi phạm các quy định có sẵn. Chỉ khi xem những gì viết ra là tài sản của một ai đó cụ thể thì người ta mới có cớ để áp dụng hình phạt (tịch biên tài sản, bỏ tù…). Trong nền văn hóa hiện nay, diễn ngôn không phải là một sự vật, một sản phẩm hay một của cải mà là một “hành vi” (acte) được quy cho là thiêng liêng hay trần tục, hợp pháp hay bất hợp pháp, sùng đạo hay báng bổ thần thánh.


2. Chức năng tác giả không có tính phổ quát và bất biến cho tất cả mọi diễn ngôn. Chẳng hạn những bài cổ thi, ca dao, truyện cổ tích không cần tác giả vì tính cách cổ xưa và phổ thông là những tiêu chuẩn bảo đảm cho giá trị của chúng. Các bài viết về khoa học cũng không cần tác giả, nếu đã được chứng minh là đúng. Tuy thế, những gì viết ra có tính văn chương, phải cần có tên tác giả mới bảo đảm được giá trị. Ngay cả một câu thơ cũng cần phải biết là do ai làm ra.


3.Chức năng tác giả không tự hình thành một cách ngẫu phát như là đặc quyền của một diễn ngôn nơi một cá nhân mà là kết quả của một vận hành phức tạp kiến tạo nên một hiện thực hữu lý nào đó (un certain être de raison) mà ta gọi là tác giả. Cách hình thành một “triết gia” hay một “nhà thơ” thì khác nhau. Cách hình thành một “tác giả” xưa thì khác “tác giả” ngày nay.


4.Một văn bản luôn luôn mang một số dấu vết nào đó được quy cho tác giả, chẳng hạn như các đại danh từ, các động từ hay trạng từ chỉ thời gian và nơi chốn hay các chi tiết mang tính cá nhân, nhưng đó chỉ là cách kể chuyện của người kể chuyện (narrateur) và người kể chuyện là một “cái tôi khác” (alter ego) so với nhà văn thực sự. Tất cả mọi diễn ngôn mang chức năng tác giả đều bao gồm nhiều “cái tôi” khác nhau.

Như thế, mục đích của phân tích tác phẩm không phải là dựng lại cái mà tác giả đã nói hay muốn nói, không phải là dựng lại phổ hệ của những tri thức cá nhân (chẳng hạn như nguồn gốc, ảnh hưởng, hành vi và phản ứng của tác giả) phù hợp với những đối tượng của lịch sử văn chương, nhưng là diễn tả sự hình thành những ý tưởng, những điều kiện của các diễn ngôn, để thực hiện một thứ “kháo cổ học của tri thức” (archéologie du savoir). Tất cả diễn ngôn, cho dù là địa vị, hình thức, giá trị của chúng như thế nào và cho dù người ta đối xử với chúng như thế nào, sẽ diễn ra trong cái mà Foucault gọi là “sự nặc danh của tiếng thì thầm”[31]. Rốt cuộc, theo Foucault, đến lúc đó, người ta sẽ không còn hỏi, chẳng hạn, “Ai viết, ai diễn đạt…?” mà sẽ hỏi “Cách hiện hữu của loại diễn ngôn này là gì?”. Nghĩa là, người ta chẳng còn thắc mắc ai là kẻ viết nên tác phẩm.



Đi tìm tác giả

Tóm lại, vai trò của tác giả đối với tác phẩm có thể tóm lược trong hai mối quan hệ:

– Tác giả – ngôn ngữ – văn bản: tác giả sử dụng ngôn ngữ để viết nên văn bản nhằm diễn tả những gì mình suy nghĩ về hiện thực. Quan hệ này khiến tác giả trở thành chủ thể của văn bản.

– Ngôn ngữ – tác giả – văn bản: Ngôn ngữ “sử dụng” tác giả hay mượn tác giả hay qua trung gian của tác giả như là một phương tiện để tạo nên văn bản. Quan hệ này đẩy tác giả vào phía sau, biến tác giả thành một chức năng hay đi xa hơn, biến tác giả thành một xác chết.

Trong lúc không ai tin rằng tác giả đã chết đi (theo Barthes) hay sẽ biến mất (theo Foucault) thì việc dùng ngữ học áp dụng trong phân tích văn chương như ở mối quan hệ sau phần nào đã góp phần làm suy yếu hẳn vai trò của tác giả, tước đi vầng hào quang mà họ đã được phong tặng một cách nhiệt tình vào thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20. Trong các phương pháp phân tích văn chương sau này, ta thấy là tác giả (tiểu sử, quan niệm, cá tính…) được đề cập đến như là một yếu tố chú giải chứ không còn là yếu tố chính trong việc phê phán giá trị thực sự của một tác phẩm văn chương. Tác giả không còn là văn chương, không còn là tác phẩm (của chính họ). Một nhận định như thế, tuy có thể làm thương tổn đến công lao của người sáng tác, nhưng mặt khác, trong nhiều trường hợp, khiến ta đến với các tác phẩm nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng trong một tâm thế thoải mái và vô tư. Chẳng hạn như khi hát nhạc Trịnh Công Sơn hay Phạm Duy hay khi đọc các tác phẩm của một số nhà văn tiền chiến trước khi họ trở thành đảng viên Cộng Sản.

Một trong những quan niệm mà những nhà Phê Bình Mới tấn công mạnh mẽ nhất để hạ bệ tác giả là quan niệm cho rằng “ý định” của tác giả chi phối ý nghĩa chính của văn bản, thường được gọi là “intentionalism” (ý hướng tính) hay “authorial meaning”(ý nghĩa dựa theo tác giả). Trong một bài viết chung có tựa đề là “Intentional Fallacy”(Ngụy luận về Ý định), William Wimsatt và Monroe Beardsley gọi quan niệm đó là một “ngụy luận”, hoàn toàn thiếu cơ sở thực tế. Trong lúc hai ông không phủ nhận rằng khi sáng tác, tác giả có thể có một ý định nào đó, muốn nói lên một cái gì đó, nhưng ý định đó là không “sẵn sàng” (available) cũng không “đáng mong muốn” (desirable) như là một tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm văn chương vì văn bản tự nó biểu lộ một thẩm quyền cao hơn hẳn ý định có trong đầu tác giả, một bài thơ chẳng hạn. Một bài thơ, theo hai ông, không “hiện hữu một cách tình cờ”, các con chữ phải xuất phát từ “một đầu óc, chứ không phải từ một cái mũ”. Nhưng dùng điều đó như là nguyên nhân rồi xem như là một chuẩn mực để đánh giá bài thơ là một điều sai lầm. Đánh giá một bài thơ cũng như đánh giá một món tráng miệng hay một cái máy, điều quan trọng là nó có hiệu quả hay không. Một món tráng miệng gồm có bơ, sữa, trứng…, một cái máy gồm những đồ phụ tùng như đinh vít, con ốc, xi-lanh…thì một bài thơ gồm những con chữ. Đánh giá chúng là đánh giá cái chúng hiện có, chẳng hạn như với món tráng miệng thì xem mùi vị ra sao, với cái máy thì xem cách vận hành như thế nào, nghĩa là dựa trên những đặc tính của chúng chứ không phải của người chế tạo ra chúng. Cũng thế, đánh giá một bài thơ là đánh giá sự kết hợp ngôn ngữ trong bài thơ đó. “Một bài thơ không phải là muốn nói một cái gì mà là hiện hữu”[32](…) “Một bài thơ chỉ hiện hữu xuyên qua ý nghĩa của chính nó – vì môi trường của nó là những con chữ -, nó hiện hữu, giản dị hiện hữu theo cái nghĩa là chúng ta chẳng cần phải thăm dò xem nó định nói gì. Thơ là thành quả viết lách theo đó một liên hợp ý nghĩa được vận dụng ngay tức khắc”. Ở đây, cũng như một số các nhà cơ cấu học ở trên, Wimsatt và Beardsley quy tư tưởng và các cảm xúc của một bài thơ không phải cho một con người cụ thể mà là cho một tác giả hư cấu được gọi là “người phát ngôn kịch tính” (dramatic speaker)[33].

Sự tấn công liên tục của Phê Bình Mới, Cấu Trúc Luận và Hậu Cấu Trúc, dẫu vậy, không làm tiêu ma hình ảnh của tác giả trong giới phê bình hàn lâm chủ trương tác phẩm gắn liền với tác giả. Một trong những nhà nghiên cứu tiêu biểu cho xu hướng này là E.D. Hirsch. Qua tác phẩm “Validity in Interpretation”,[34] trong khi không phủ nhận tính chất đa nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật như các nhà ngôn ngữ học chứng minh, ông quả quyết rằng nếu không có ý hướng của tác giả như một kẻ dẫn đường thì không thể có một phân tích đứng đắn và đầy đủ về tác phẩm. Luận điểm chính của Hirsch là sự khác biệt giữa nghĩa (meaning) và ý nghĩa(signification). Nghĩa là “cái được trình bày bởi văn bản, là cái tác giả muốn nói khi ông ta sử dụng một chuỗi những dấu hiệu đặc thù”, còn ý nghĩa là để chỉ “tương quan giữa cái nghĩa này với một người hay là với một ý niệm hay là với một tình trạng hay với bất cứ điều gì có thể tưởng tượng được”[35]. Vì là tương quan nên ý nghĩa thay đổi tùy theo từng người, từng thời điểm và hoàn cảnh khác nhau, ngay cả đối với tác giả. Như thế, một tác phẩm vừa bao hàm nghĩa của tác giả vừa chứa đựng ý nghĩa nằm ngoài chủ định của tác giả. Nếu loại bỏ hẳn tác giả ra khỏi văn bản như là thành phần xác định cho nghĩa của văn bản sẽ đưa đến chỗ không còn một nguyên tắc đầy đủ nào hiện hữu để phê phán tính hợp lý của sự phân tích. Sự khảo sát “văn bản muốn nói lên điều gì” trở thành sự nghiên cứu cái mà nó nói với cá nhân người phân tích. Nếu tác giả biến mất trong lúc nhà phê bình vẫn còn đó thì hóa ra việc phân tích được họ tự nhận là “mới mẻ, sáng tạo, kiểu cách và tinh xảo” thực ra chỉ chứa đựng thứ sở thích riêng của nhà phê bình mà thôi[36].


Ta nhận thấy rằng cách lý giải của Hirsch rõ ràng là có tính dung hòa. Tuy nhiên, trong thực tế, làm sao để ta biết được ý định của tác giả xuyên qua một tác phẩm? Nếu ta có thể tìm ra ý định đó ngay trong tác phẩm, thì rõ ràng là ta không cần phải bàn đến ý định của tác giả nữa. Nếu tác giả còn sống và trong điều kiện có thể tiếp xúc được dễ dàng, ta có thể hỏi cho ra lẽ, nhưng khi tác giả nói rõ ra ý định của mình thì ta cần gì phải đọc hay nghiên cứu tác phẩm nữa. Ngoài ra, không có gì bảo đảm rằng những điều tác giả phát biểu về ý định của mình là hoàn toàn đáng tin cậy và phù hợp với nội dung tác phẩm. Còn đối với những tác giả đã chết rồi hay không thể nào tiếp xúc được thì đành chịu. Vả lại, như các nhà ngôn ngữ học đã vạch ra, nghĩa không hẳn là một kinh nghiệm riêng tư cũng không phải là một cái gì tất định, không tự nhiên, mà là sản phẩm của những hệ thống ý nghĩa được chia sẻ[37].

Tác phẩm của Hirsch lập tức gây ra một đợt tấn công khác từ các nhà Phê Bình Mới, điển hình là Monroe Beardsley. Ông viết thêm một cuốn sách mỏng khác đầy tính cách khiêu khích có tựa đề “The Possibility of Criticism”[38] tiếp tục phê phán mạnh mẽ quan niệm “ý định” của Hirsch. Bearsdley đưa ra ba luận cứ chứng minh ý nghĩa của văn bản không lệ thuộc vào ý định của tác giả. Trước hết, chúng ta có thể đọc và hiểu một văn bản độc lập với ý định của tác giả, chẳng hạn như những văn bản do máy vi tính tạo ra (computer-generated texts) hoặc những lỗi về in ấn (typographical errors) vẫn có nghĩa. Thứ hai, ý nghĩa của một văn bản có thể thay đổi sau khi tác giả chết. “Nếu ý nghĩa trong văn bản ngày hôm nay (của một câu thơ nào đó chẳng hạn) không thể được xem giống như ý định của tác giả, suy ra rằng ý nghĩa của văn bản không hề giống như ý nghĩa của tác giả”. Ý Bearsdley muốn nói rằng với thời gian, có những từ hay cụm từ có nghĩa mới hay mất đi nghĩa cũ khi tác giả còn sống, khiến cho ý nghĩa của câu văn biến đổi đi, nằm ngoài ý của tác giả. Và cuối cùng, văn bản có chứa đựng những ý nghĩa mà tác giả không hề biết, từ đó suy ra là nghĩa văn bản không hề đồng nhất với ý định của tác giả[39].

Như thế, khi nói tác giả không phản ảnh con người thật và ý định của mình, không phải vì tác giả kém hay cố tình dối trá mà là vì đó là bản chất của chuyện viết lách: tính đa nghĩa, tính tự động của ngôn ngữ. Dù con người tác giả như thế nào và dù tác giả nỗ lực hết mình để thể hiện một ý định nào đó vào trong văn bản, thì nói như Valéry, “ý định của tôi chỉ là ý định của tôi, còn tác phẩm là tác phẩm”. Về vần đề này, Luis Borges còn đi xa hơn, khi cho rằng một tác phẩm lớn là tác phẩm phải vượt lên trên ý định của tác giả. Vì theo ông, một tác phẩm gắn liền với ý định của hắn là một tác phẩm dở[40].

Đến đây, tôi nhớ lại một kinh nghiệm thuở thiếu thời. Hồi đó, là dân tỉnh lẻ, nên rất mê sách báo ở Sài Gòn. Qua các tác phẩm văn chương, tên các tác giả xuất hiện đối với tôi đều là những vầng hào quang, ngay cả với những tác giả mà tôi không mấy yêu thích. Tôi chỉ mong có một ngày nào được vào Sài Gòn, đi tìm thăm và bắt tay với những người mà tôi ngưỡng mộ. Rồi, tôi vào Sài Gòn và lần lượt gặp. Và lần lượt thất vọng. Trái với những gì mà tôi hình dung ra tác giả này tác giả nọ dựa trên những bài thơ, những truyện ngắn hay truyện dài và những bài tiểu luận nhiệt tình mà tôi đọc, khi gặp, tôi đối diện với những con người cụ thể trông khác, khác xa và trong vài trường hợp, trái ngược. Thay vì là những mẫu người điển hình, tiêu chuẩn như tôi hằng hình dung qua các trang văn, thơ thì lại gặp những người …y như những con người mà tôi vẫn thường gặp hàng ngày. Nghĩa là cũng …vậy vậy. Cũng thế, sau này, đến lượt khi tôi có tác phẩm in ra, rồi tôi gặp vài người đã đọc và có người tỏ ra sửng sốt khi khám phá ra tôi chẳng dính dáng gì đến cái nhân vật mà anh ta nghĩ rằng đó chính là tôi.

Tôi tin đó là kinh nghiệm khá phổ biến của nhiều người: con người thật của một tác giả không phải là tác giả. Đúng như nhận định ta đã đọc ở phần trên của Marcel Proust: tác phẩm là “sản phẩm của một cái tôi khác hơn” cái tôi ở ngoài đời. Hay nói như Paul Valéry, nhà thơ Pháp: “Tác phẩm không bao giờ cho phép ta tìm đến được một tác giả thật. Nhưng tìm đến một tác giả ảo” (auteur fictif)[41]. Tôi tâm đắc với nhận định này của nhà thơ tài hoa nước Pháp. Về sau này, nhiều nhà nghiên cứu cũng có sự phân biệt như thế. Umberto Eco phân biệt “tác giả thực nghiệm”, tức là loại “tác giả tiểu sử” (auteur biographique), “tác giả lịch sử” (auteur historique) với tác giả hư cấu hay “tác giả mẫu” (auteur modèle). Barthes xem tác giả là một “tồn tại trên giấy”. Foucault xem tác giả là một chức năng hay là một “alter ego”, tức là “một cái tôi khác”.

Xem thế thì nói cho rõ ràng hơn, cái gọi là tác giả của một tác phẩm (văn chương hay phi văn chương) là khác với con người thật ở ngoài đời. Cũng con người đó, khi sáng tác, nghĩa là khi viết, anh/cô/bà ta hành xử như một tác giả, sống trong một thế giới không giống gì với cuộc sống “trần tục” trước hoặc sau đó của anh/cô/bà ta. Thế giới đó cũng đầy đủ thất tình lục dục, đầy đủ trăng sao hoa cỏ…, một dạng bản của thế giới bên ngoài, nhưng hoàn toàn không dính dáng gì đến thế giới bên ngoài. Bước vào thế giới đó, hắn mơ mộng, yêu đương, hẹn hò, làm tình, chiến đấu, mơ ước một cái gì cao đẹp, thuần khiết vân vân…nhưng bước ra khỏi thế giới đó, hắn đối diện với một hiện thực hoàn toàn khác: con đang khóc, vợ đang cằn nhằn, hay xe đang hư, nhà đang dột. Bước vào đó, hắn làm nên những câu thơ tình diễm tuyệt cho một “em” hay một “anh” nào đó nhưng bước ra, hắn trở lại là một anh chồng có bà vợ đang ngồi đợi hắn chở đi chợ hay đang nấu cơm dưới bếp, mặt mày đỏ gay, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Bước vào đó, hắn viết những câu thơ tha thiết về một quê hương đã mất và bước ra khỏi đó, hắn vội vã điện thoại cho một thằng bạn nói say sưa về bữa nhậu ngày mai. Tóm lại, giữa bàn viết và cánh cửa phòng là hai thế giới chẳng ăn nhập gì nhau. Giữa trang giấy hay màn hình computer và khung cảnh chung quanh là một khoảng cách, có lúc rất mênh mông. Biên giới giữa cả hai có lúc chẳng khác gì cái nút on/off trên máy tính. On trên tác phẩm thì là off với thế giới chung quanh. Và ngược lại.


Không nắm vững tính cách này có thể tạo ra những ngộ nhận vô cùng trầm trọng, đưa đến những đánh giá sai lầm về văn chương hay đưa đến tâm trạng thất vọng về tác giả như tôi đã đề cập ở trên khi trực tiếp đối diện với con người thực của tác giả. Đó là đánh đồng một nhân vật nào đó hay một quan điểm nào đó hay một hành vi nào đó hay một cách diễn tả nào đó hay một sự kiện nào đó trong (các) tác phẩm với chính tính cách, quan điểm, hành vi của chính con người tác giả ngoài đời. Chẳng hạn như cho rằng một cây bút nữ (theo xu hướng nữ quyền – feminist-) làm thơ hay viết chuyện tình dục là một thiếu phụ dâm đãng, cho một cây bút mà tác phẩm luôn luôn xiển dương đạo đức là một nhà đạo đức học, cho những người làm thơ tình ướt át là một nhân tình lý tưởng, hay những kẻ văng tục trong văn chương là một tay đâm thuê chém muớn. Sự thực là, không thiếu những cây bút nữ quyền là những người phụ nữ bình thường, đức hạnh hay tác giả những truyện đạo đức lại là một tay lừa thầy phản bạn hay những kẻ văng tục trong văn chương lại là những nhà mô phạm hay những người làm thơ tình ướt át lại chẳng bao giờ biết yêu!


Sự khác nhau giữa tác giả và con người thật có thể ví như là sự khác nhau giữa người tình và người vợ (hay người chồng). Khi đến với người tình, nàng hay chàng xuất hiện trước người kia như một nhân vật tiểu thuyết, cả về nhân dáng lẫn cung cách. Từ lối ăn mặt cho đến lời ăn tiếng nói, cử chỉ đều được “hư cấu” (vô thức hay ý thức) cẩn thận để chinh phục đối tượng của mình. Nhưng khi trở về lại với vợ hay chồng thì mọi chuyện đều khác, khác hẳn, thậm chí hoàn toàn tương phản. Mọi hư cấu đều lần lượt bỏ lại đàng sau để chỉ là những chuyện đời thường tủn mủn, tẳn mẳn vẫn đều đặn diễn ra hàng ngày giữa hai người.

Có thể hình dung một sơ đồ như sau:

Con người thật/tác giả —————> văn bản


Như thế thì giữa con người thật và văn bản (hay tác phẩm) có quan hệ với nhau qua tác giả như một trung gian. Mà vốn tác giả thì khác con người thật, vậy thì văn bản khác với con người thật của tác giả là điều tất nhiên. Đã thế, không phải mỗi tác giả chỉ có một văn bản, mà có thể có nhiều văn bản khác nhau; mỗi văn bản xuất phát từ một “tác giả” khác nhau. Con người cụ thể chỉ có “một” nhưng phân thân ra nhiều tác giả, mỗi tác giả có một “nhân dáng” khác nhau, thậm chí có lúc “nhân dáng” này còn mâu thuẫn với “nhân dáng” kia.




Cái “nhiều” (tác giả) trong cái “một” (người thật) cho ta một phương tiện để đánh giá tính cách phong phú trong sự nghiệp văn chương của một người. Thử tưởng tượng, nếu một tác giả viết hàng chục cuốn truyện hay làm hàng trăm bài thơ mà cuốn nào hay bài thơ nào cũng từa tựa nhau từ văn phong cho đến đề tài, từ bố cục cho đến ý tưởng, thì nản biết bao nhiêu. Nói một cách khác, nếu một người chỉ có một tác giả duy nhất từ truyện này đến truyện khác, từ bài thơ này đến bài thơ khác, thì rõ ràng là nhà văn hay nhà thơ đó thiếu hẳn tính sáng tạo, vốn là đặc điểm của văn chương.

Nguyễn Hưng Quốc, khi viết về Võ Phiến, đã đề cập đến nhiều Võ Phiến khác nhau: nhà viết truyện, nhà tùy bút, nhà tạp luận, nhà phê bình văn học, nhà lý luận văn học. Mỗi “nhà” như vậy lại có nhiều văn bản, xuất phát từ nhiều “tác giả” khác nhau. Như thế, toàn bộ sự nghiệp của Võ Phiến là một tổng hợp phức tạp gồm nhiều “tác giả Võ Phiến” khác nhau. Chắc chắn là con người thật của Võ Phiến đã để lại nhiều dấu vết trên sự nghiệp đó, nhưng cũng chắc chắn rằng tổng hợp đó không hề phản ảnh của một con người thật ngoài đời của Võ Phiến.

Cách lý luận trông như lòng vòng đó, thực ra, phản ảnh tính cách phức tạp trong mối quan hệ từ người sáng tác cho đến người đọc:

Con người cụ thể/tác giả —————–> văn bản ——————-> người đọc.

Trong quan hệ giữa văn bản và người đọc, tác giả chỉ có một, văn bản chỉ có một nhưng người đọc thì nhiều, tuổi tác khác nhau, trình độ khác nhau, có thể ngôn ngữ khác nhau, kinh nghiệm đời sống khác nhau và do đó cách hiểu tất phải khác nhau. Nếu giữa văn bản và người đọc cách nhau một thời gian dài nữa thì sự khác nhau càng khó lường. Hơn nữa, tùy cách đọc mà văn bản sẽ xuất hiện một cách khác nhau. Đọc để thưởng thức, các con chữ có thể sẽ hiện lên trông hiền lành và vô hại nhưng đọc như một nhà phê bình khó tính thì chúng có thể hiện lên như những ẩn số x, y, z, đọc như một nhà ngữ học thì chúng sẽ hiện ra những là chủ từ, động từ, đặc ngữ…; đọc trong tâm thế một kẻ muốn giết thời gian thì người ta tìm ý chứ không cần quan tâm đến chữ (và nghĩa) nhưng đọc như một nhà đạo đức thì săm soi từng câu từng ý xem thử chúng độc hại ở chỗ nào. Như thế, đối với người đọc, hiểu cho trọn vẹn văn bản là điều không dễ dàng gì, nói gì đến việc tìm cho ra nhân dáng và ý định đích thực của tác giả. Giới hạn việc nghiên cứu ngay tại văn bản có lẽ là điều không tránh khỏi, dù đứng trên quan điểm nào, vì văn bản đã trở thành hiện thực độc lập ngay sau khi nó ra đời. Nói như Valéry, khi tác phẩm xuất hiện, sự phân tích tác phẩm bởi chính tác giả của nó không có gì bảo đảm là có giá trị hơn các cách giải thích khác.

Dẫu vậy, khi nghiên cứu hay thưởng thức một tác phẩm, thường ta chỉ đối diện với cái đã hoàn tất là văn bản. Và quên đi một quan hệ vô cùng mấu chốt: quan hệ giữa tác giả và văn bản. Tất nhiên, người ta có quyền quên (và phải quên) một quá trình phức tạp – phức tạp hơn nhiều so với quá trình nghiên cứu văn bản – là sáng tác. Khi sáng tác, không phải tác giả “sao chép” hay “trích dẫn” ngôn ngữ một lần là xong mà phải trải qua thời gian suy nghĩ, kinh qua vô số trạng thái tâm lý khác nhau, kinh qua nỗ lực tìm tòi, chọn lọc chữ nghĩa, viết rồi xóa rồi viết rồi xóa, thay đổi từng chữ, từng câu nhằm diễn tả đến tận cùng những gì mình muốn diễn tả. Có tác phẩm ra đời ngay nhưng không thiếu tác phẩm chỉ có thể ra đời sau nhiều năm, nhiều chục năm và có khi cả đời người. Mỗi câu mỗi chữ, dù vay muợn hay dù tìm ra, dù sao chép hay trích dẫn đều xuất phát từ tim, từ óc, từ nỗi đam mê vô bờ đối với chữ nghĩa. Chính vì thế, theo tôi, viết là một giao thoa sống động giữa con người/tác giả – hay nói như Foucault, chức năng tác giả – và ngôn ngữ. Cả hai cùng chi phối và cùng làm chủ lẫn nhau.

Sự hoàn thành văn bản là một quá trình vật lộn giữa con-người-thật và con-người-tác-giả, giữa đời sống và chữ nghĩa. Như thế, văn bản bao giờ cũng được hoàn tất qua một quá trình thai nghén và thể nhập lâu dài vào ngôn ngữ. Không thai nghén, không thể nhập, không sống tâm thế của một kẻ thoát ly ra khỏi thế giới đời thường, người ta chỉ là một con người mà không thể là tác giả. Trong trường hợp đó thì các lý thuyết văn chương chỉ là tiếng nói ném vào khoảng không. Thành thử, dù tác giả đã chết hay còn sống dưới con mắt của những nhà phê bình, thì người ta vẫn tiếp tục sáng tác. Và trong khi sáng tác, chắc chắn không tác giả nào băn khoăn tự hỏi: phải chăng sáng tác là một hành vi tự đào huyệt chôn mình?

Chính trong câu hỏi không hề được đặt ra đó mà rốt cuộc, người ta lại tìm thấy cái tưởng như đã mất: tác giả. Kể cả người quả quyết “Tác giả đã chết” là Roland Barthes.

“Văn bản là một thần vật. Và thần vật này muốn tôi. Văn bản chọn tôi, bằng toàn thể tính cách của những cửa lưới vô hình, những màn chắn chọn lọc: từ vựng, các trích dẫn, tính khả độc, vân vân; và, dù bị mất hút giữa một văn bản (…), luôn luôn có một cái khác, đó là tác giả.

Với tư cách là một định chế, thì tác giả đã chết: địa vị dân sự của hắn, tiểu sử cá nhân của hắn đã biến mất; bị truất quyền sở hữu, chúng không còn gây trên tác phẩm của hắn thứ phụ quyền đáng sợ mà lịch sử văn chương, học thuyết của nó và công luận vốn có trách nhiệm định hình và làm mới; nhưng trong văn bản, ở chừng mực nào đó, tôi muốn tác giả: tôi cần khuôn mặt hắn, vì hắn cần khuôn mặt tôi.”[42].

Dẫu vậy, có một điều không thể không nhắc đến: sự xuất hiện thần kỳ của mạng lưới điện toán toàn cầu (Internet) trong thời gian gần đây. Cũng như sự ra đời của máy in vào thế kỷ 15, mạng lưới điện toán toàn cầu (Internet) biến khái niệm “hypertext” của Theodor Nelson[43] thành hiện thực. Khác với loại văn bản cũ (do máy in tạo ra) là nằm theo đường thẳng (tuyến tính) và không thể chuyển đổi, lắp ghép hay sao chép trực tiếp, hypertext – nghĩa là siêu văn bản điện tử – sử dụng kỹ thuật số là loại văn bản phi-tuyến tính, có thể nối kết, chuyển đổi, sao chép…tự do, tức là loại văn bản trên mạng lưới hiện nay. Với hypertext, ngôn ngữ được vận dụng theo một chiều kích mới, đa dạng, đa chiều, khiến cho mọi nguồn thông tin có thể tập trung trong cùng một mạng lưới, mà ai cũng có thể sử dụng được. Điều đó làm mất đi tính cách độc quyền về văn bản của chủ nhân của nó. Nó phá vỡ hình thức của cái gọi là chân lý. Ý nghĩa được hiểu một cách hoàn toàn khác trước. Siêu văn bản trở nên một thứ bản thảo đã biên tập (palimpsest) gồm những lớp ý nghĩa khác nhau. Điều đó đưa đến một tình trạng gần như vô chủ. Do đó, chuyện đạo văn và tác quyền không còn được hiểu như cũ. Độc giả có thể trở thành tác giả, người tiêu thụ trở thành kẻ sản xuất và ý nghĩa của các văn bản không còn là những thứ bất biến, hoàn tất một lần là xong xuôi. Tất cả trở thành là một tiến trình. Cũng như sự ra đời của karaoké khiến cho ai cũng có thể trở thành ca sĩ, thì mạng lưới điện toán khiến cho ai cũng có thể trở thành tác giả. Chỉ cần copy & paste, nghĩa là ghép xuôi ghép ngược bài vở của một ai đó trên Internet và emailtùm lum là trở thành tác giả và gây ảnh hưởng trong dư luận, khác hẳn cái thời cặm cụi chép tay hoặc lóc cóc gõ trên máy rồi gửi đi, chờ đợi dài cổ câu trả lời của tòa soạn.

Mặt khác, chính sự xuất hiện dễ dàng và đơn giản của cái gọi tác giả đồng thời cũng xóa mờ đi vị thế mà tác giả (thực sự) có trước đó. Các văn bản trên mạng lưới (cùng với tên tác giả) y như một thế giới ảo, một thế giới chung – một thứ cha chung không ai khóc. Cầm một cuốn sách với mùi thơm của giấy, với tên tác giả nằm ở đàng trước, đàng sau, trên gáy, với số trang, với từng tờ giấy…, ta cảm thấy sức nặng và công trình của người làm ra nó, của tác giả. Cuốn sách là tác phẩm, nó là của một con người cụ thể với những chi tiết sinh động về cuộc đời về quan niệm sống…Bây giờ lên mạng, ta chỉ thấy toàn chữ và chữ, muốn đọc bao nhiêu cũng được, nối từ bài này đến bài khác, từ tài liệu này đến tài liệu khác, từ tác giả này đến tác giả khác, tưởng chừng như vô tận. Trong cái kho chung “vô tận của trời cho” đó, biên giới giữa dở và hay, giữa văn chương nghệ thuật và thời sự, giữa tác phẩm lớn và tác phẩm nhỏ, giữa tác giả và kẻ đạo văn trở nên mỏng manh, mờ nhạt dường như chẳng còn phân định được. Muốn lấy, muốn gửi, muốn chép, muốn tìm và muốn cả “sáng tác” đều quá dễ dàng. Các văn bản đụng độ lẫn nhau, giao thoa lẫn nhau, sao chép lẫn nhau, chen chúc lẫn nhau. Chúng – cùng với những cái tên gọi là tác giả – gần như nổi trôi mờ mịt, nếu không muốn nói là hầu như bị biến mất trong cái thế giới mênh mông của thứ kỹ thuật số phù du hư ảo (digital ephemera).

Trước tình hình đó, xin lập lại một nhận định của Foucault để kết luận bài viết này: “Từ thế kỷ 18, tác giả đã đóng vai trò của người điều tiết hư cấu, thứ vai trò đặc biệt của thời đại kỹ nghệ và tư sản, của chủ nghĩa cá nhân và của quyền tư hữu. Tuy thế, nếu tính đến những biến chuyển lịch sử đang diễn tiến, chức năng tác giả không nhất thiết ổn định trong hình thức của nó hay trong tính phức tạp của nó hay trong sự hiện hữu của nó. Ngay vào thời điểm xã hội chúng ta đang thay đổi, chức năng tác giả sẽ biến mất theo một cách thức sẽ cho phép thêm một lần nữa tính hư cấu và những văn bản đa nghĩa của nó tái vận hành theo một kiểu thức khác, … đó sẽ không còn là là kiểu thức của tác giả nữa, tuy rằng kiểu thức đó đang xác định và có lẽ đang thử nghiệm. Tất cả diễn ngôn – cho dù là địa vị, hình thức, giá trị của chúng như thế nào và cho dù người ta chịu đựng chúng như thế nào – sẽ diễn ra trong sự nặc danh của tiếng thì thầm”[44].

Câu này Foucault viết vào năm 1969, lúc mạng lưới điện toán toàn cầu mới chỉ là một ý niệm.


Trần Hữu Thục

* Bài viết này đã in trên tạp chí Hợp Lưu số 95, tháng 6&7/2007, được tác giả sửa chữa và bổ sung tháng 11/2007.

[1] Để hiểu rõ hơn xuất xứ và ý nghĩa thực sự của nhận xét này, xin xem Phan Huy Đường “Văn khônglàngười”,Website“ĂnMàyVănChương” 

(http://amvc.free.fr/niv1/niv2/VanKhongLaNguoi.htm)

[2] Antoine Compagnon, Qu’est-ce qu’un auteur?, http://www.fabula.org/compagnon/auteur1.php.
Đây là tài liệu gồm 12 bài được soạn thảo khá công phu mà Compagnon dùng để giảng dạy cho sinh viên ở Pháp và là một trong những tài liệu chính tôi sử dụng để viết bài tiểu luận này, đặc biệt là về vai trò của nhân vật được gọi là tác giả qua lịch sử văn học Tây Phương.

[3] Le trésor de la langue française, xem ở: http://atilf.atilf.fr/tlf.htm

[4] Antoine Compagnon, tài liệu đã dẫn, bài số 5, “L’Auctor médiéval”

[5] Antoine Compagnon, tài liệu đã dẫn, bài số 6, “Les jeux de la naissance”

[6] Thử so sánh bài viết trên những tờ “bích báo” (báo dán trên tường) hay những tờ tạp chí chép tay thuở học trò với bài viết khi được in ra trên một tờ tạp chí sẽ cảm nhận ra sự khác biệt đó.

[7] Antoine Compagnon, tài liệu đã dẫn, bài số 9, “La propriété intellectuelle”

[8] Có sự khác nhau về quan niệm tác quyền (copyright) của Anh và tác quyền (droit de l’auteur) của Pháp. Tuy nhiên, đây không phải là đề tài được bàn trong bài viết này

[9] La biographie éclaire l’oeuvre

[10] Xem “Trả lời Tuý Vân” của Nguyễn Đăng Thường, Talawas ngày 30/3/2007.

[11] Nguyễn Minh Quân, “Lý thuyết và phê bình văn học đương đại: từ cấu trúc luận đến giải cấu trúc”, xem ở Tiền Vệ (tạp chí Việt)

http://www.tienve.org/home/viet/viewVietJournals.do?action=viewArtwork&artworkId=33

[12] Stéphane Mallarmé, Crise de vers,http://www.tierslivre.net/litt/mallarmCDV.html

[13] L’oeuvre pure implique la disparition élocutoire du poète, qui cède l’initiative aux mots

[14] Toute l’oeuvre est l’oeuvre de bien d’autre choses qu’un “auteur”, Paul Valéry,Tel Quel, Oeuvres, dẫn theo Antoine Compagnon, dixième lecon, phần “Modernité et effacement de l’auteur”

[15] Marcel Proust, Contre Sainte- Beuve, trong “Mr. Proust, on Art and Literature”, Sylvia Townsend Warrer dịch, nxb Carroll & Graf Publishers, Inc., NY, từ trang 94-89 ; có đối chiếu với một vài trích đoạn tiếng Pháp trên Internet, chẳng hạn như ởhttp://agora.qc.ca/mot.nsf/Dossiers/Charles-Augustin_Sainte-Beuve

[16] Chẳng hạn như các chương The Method of Sainte-Beuve, Sainte-Beuve and Beaudelaire, Sainte-Beuve and Balzac…

[17] Sách đã dẫn, trang 98-99

[18] Sách đã dẫn, trang 100. Thực ra, theo Marc Escola, Proust đã không hiểu đúng hoàn toàn phương pháp của Sainte-Beuve. SB đề cập đến sự khởi nguyên (genèse) của tác phẩm. Đó là điểm bí ẩn xây dựng nên cái gọi là “thời điểm quan trọng của kiệt tác đầu tiên” (le moment critique du premier chef-oeuvre): điểm phân chia tác giả thành hai, trong đó, phần sáng tạo ra tác phẩm được SB gọi là “hiện hữu thứ hai” (seconde existence), cái không khác gì mấy với quan niệm về cái tôi sáng tạo của Proust. Mục đích của phương pháp SB là tạo một sự liên tục giữa con người và nhà văn trong lúc vẫn không xóa bỏ dấu ấn của một sự bất liên tục của hai hiện hữu. (Xem “Proust contre Sainte-Beuve”,http://www.fabula.org/atelier.php?Proust_contre_Sainte-Beuve)

[19] Xem Jonathan Culler, Ferdinand de Saussure, phần “Saussure’s Theory of Language”, nxb Cornell University Press, Ithaca NY 1986

[20] William Wimsatt and Monroe Beardsley, The Intentional Fallacy, trong “The Verbal Icon”, nxb Methuen & Co LTD, London 1970, trang 10

[21] Về các tóm tắt và một vài trích dẫn về Cấu trúc luận (structuralism), Hình thức luận Nga (Russian Formalism) và Phê Bình Mới (New Criticism), xem ở “The Continuum Encyclopedia of Modern Criticism and Theory”, được biên soạn bởi nhiều tác giả do Julian Wolfreys làm tổng biên tập, nxb The Continu um International Publishing Group Inc, NY 2006. Tiếng Việt, xem ở trang mạng “Tiền Vệ”, phần “Các lý thuyết phê bình văn học” (Nguyễn Hưng Quốc):http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3822

[22] Roland Barthes, The Death of the Author, bản dịch tiếng Anh của Stephen Heath từ “La mort de l’auteur”, trong “Image-Music-Text” , nxb “Hill and Wang”, New York, từ trang 142-148. Dù không có nguyên bản tiếng Pháp trong tay, những trích dẫn trong tiểu mục này, người viết có sử dụng một số trích đoạn bằng tiếng Pháp lấy từ một vài trang mạng lên hệ đến bài viết “La mort de l’auteur”.

[23] XemRoland Barthes, From Work to Text, bản dịch tiếng Anh của Stephen Heath, trong “Image-Music-Text” , từ trang 155-164

[24] L’auteur n’est jamais rien de plus que celui qui écrit, tout comme Je n’est autre que celui qui dit “Je”

[25] C’est le langage qui parle, ce n’est pas l’auteur

[26] L’auteur n’invente rien, il bricole.

[27] Le lecteur, non l’auteur, est le lieu òu l’unité du texte se produit, dans sa destination au lieu de son origine.

[28] Donner un Auteur à in texte, c’est imposer à ce texte un cran d’arrêt, c’est le pourvoir d’un signifié dernier, c’est fermer

l’écriture – La naissance du lecteur doit se payer de la mort de l’Auteur

[29] Michel Foucault, Qu’est-ce qu’un auteur?, trong “Foucault, Dits et Écrits , Volume I, 1954-1975”, Gallimard, Paris 2001, từ trang 817-849

[30] Diễn ngôn (discourse) là một ý niệm đóng một vai trò khá quan trọng trong toàn bộ tư tưởng của Foucault. Nói một cách tổng quát, diễn ngôn được dùng để chỉ định những hình thức biểu tượng, mật mã, quy ước và các thói quen của ngôn ngữ sản xuất ra những ý nghĩa đặc biệt trong một nền văn hóa ở một giai đoạn lịch sử nào đó. Nói cách khác, diễn ngôn được xem như là một cách định chế hóa tư tưởng trong xã hội, cho phép người ta nhìn mọi sự mọi vật dưới một hình thức nào đó, kể cả chân lý. Diễn ngôn ảnh hưởng trên tất cả quan điểm của chúng ta, không ai có thể thoát ra khỏi nó. Ví dụ, tùy thuộc vào xã hội và văn hóa mà ta nhìn những phong trào du kích chống Tây phương dưới hai diễn ngôn khác nhau: những kẻ khủng bố hay là những kẻ chiến đấu cho tự do. Cũng thế, cùng một vấn đề (chẳng hạn như nhân quyền) diễn ngôn của người Việt hải ngoại khác hẳn với diễn ngôn của người Việt trong nước dưới chế độ Cộng Sản hiện nay. Nói khác đi, diễn ngôn được chọn lựa cung cấp cho ta từ vựng, các đặc ngữ và cả cách truyền đạt để ta sử dụng. Foucault còn dùng các thuật ngữ “discursive practices” và “discursive formation” trong khi phân tích về các định chế đặc biệt và các hình thành nên trật tự của chân lý hoặc cái được thừa nhận như là hiện thực trong một xã hội nào đó. (Xem thêm “The Archaeology of Knowledge”, Sheridan Smith dịch, nxb Pantheon Books, A Division of Random House, New York, 1972)

[31] Anonymat du murmure, Michel Foucault, bđd, trang 839-840

[32] A poem should not mean but be

[33] William Wimsatt and Monroe C. Beardsley, bđd, trang 4

[34] Eric Donald Hirsch, Validity in Interpretation, New Haven and London, Yale University Press, 1967

[35] Eric Donald Hirsch, bđd, trang 8

[36] Eric Donald Hirsch, sđd, trang 3

[37] Northrop Frye, Anatomy Criticism, dẫn theo Terry Eagleton, “Literary Theory, An Introduction”, University of Minnesota Press, Minneapolis 1983, trang 106

[38] Monroe C. Beardsley, The Possibility of Criticism, Detroit: Wayne State University Press, 1970.

[39] Monroe C. Beardsley, bđd, tr. 19-20

[40] Dẫn theo Antoine de Compagnon, bđd, douzième lecon, “L’auteur et le droit au respect”

[41] Dẫn theo Antoine de Compagnon, bđd, douzième lecon, “L’auteur et le droit au respect”

[42] Roland Barthes, The Pleasure of Text, Richard Miller dịch, nxb Hill and Wang, NY, 1975, tr. 27

[43] Hypertext do Theodor Nelson sáng tạo ra vào năm 1963 trong một bài báo. Ý tưởng hypertext đến từ chỗ: làm sao chắp nối những ý tưởng rời rạc lại với nhau thành một cơ cấu mới mà khỏi phải sao chép lại mất thời gian. Từ ý tưởng đó, ông suy nghĩ cách tạo ra một mạng lưới điện tử toàn cầu, một thứ thư viện quốc tế để cho tất cả mọi người đều có thể sử dụng được. Sau này ông triển khai ý niệm đó trong “Literary machines” (máy văn chương). Cái nhìn của ông dính dáng đến sự thực hiện cái gọi là “docuverse” (document universe = vũ trụ tài liệu): các dữ kiện tích trữ một lần, không hủy bỏ vì các thông tin có thể nối kết với bất cứ đâu. Xem thêm “Về văn học hypertext” của Nguyễn Minh Quân, Tạp chí Việt (Úc châu) số 6, được đưa lên trang mạng “tienve.org”, mục “tạp chí Việt” .

[44] Michel Foucault, bđd, trang 839-840





















Phan Nguyên & Trần Doãn Nho
Sài Gòn 2015














Phan Nguyên và những dấu tay người
06.11.2015
Trần Doãn Nho




Ngẫu nhiên chữ
Tình cờ dấu
đắm đuối thời gian

tháng 8-2015


Sáng hôm đó, thay vì đi uống cà phê ở ngoài, Phan Nguyên rủ tôi về nhà. “Nhà”, thực ra, trông như một phòng triển lãm. Tranh sáng tác của anh treo đầy. Có bức khá lớn, choán gần hết nửa bức tường. Trong số tranh treo, đặc biệt nhất là những bức in dấu bàn tay, được đóng khung cẩn thận. Số lượng “tranh” này khá nhiều, không thua các bức tranh khác. 

Nhiều bức đóng khung rồi, chưa có chỗ treo cũng như một số bức khác chưa đóng khung, được anh cất giữ cẩn thận. Có thể nói, đó là một bộ sưu tập độc đáo: “tranh” dấu bàn tay. Phan Nguyên tỏ ra rất thích thú và hào hứng khi giới thiệu với tôi loại “tranh” này. Chả thế mà, sau đó, anh đề nghị tôi thực hiện việc lấy dấu bàn tay trước khi uống cà phê. Tôi cảm thấy hơi bất ngờ vì tưởng chỉ là đến trò chuyện lang bang về văn học nghệ thuật. Không sao. Sẵn sàng thôi. Công việc đơn giản và nhanh chóng: một nhúm cà phê, loại để uống liền, hòa nước, trộn đều, đợi một lát cho sánh lại, đổ lên hai bàn tay, xoa đều rồi in hai bàn tay xuống một tấm giấy trắng loại đặc biệt, giữ một lát, chờ khô. 

Xong, viết vài giòng cảm hứng tùy thích để ghi nhớ ngày thực hiện dấu bàn tay, ký tên. Thế là hai bàn tay tôi đã được nằm vào bộ sưu tập. 

Đó là phương cách “sáng tác” loại “tranh” này của Phan Nguyên. 

Anh cho biết, cũng như trường hợp của tôi hôm nay, anh thường đề nghị lấy dấu bàn tay của anh chị em văn nghệ sĩ bất cứ khi nào có dịp, “qua những buổi gặp gỡ vô tình hay cố ý với bạn bè bằng hữu” -“tây” cũng được mà “ta” cũng được”– và ở bất cứ đâu. Dựa trên “tiêu chuẩn” nào? Chẳng có tiêu chuẩn nào hết. Chỉ cần “họ đã có những tác phẩm hay, đẹp để lại cho đời và cho thế hệ mai sau” và “đã đóng góp cái phần tinh túy nhất của con người, của chính mình cho văn học nghệ thuật Việt Nam hay thế giới nói chung.” Anh không tìm cách “săn lùng” cho được những tác giả thành danh hay nổi tiếng do tài năng hoặc do tù tội chẳng hạn để đưa vào bộ sưu tập của mình. Cũng “không phân biệt tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, chính kiến.” Nếu có một cái gì đó gọi là tiêu chuẩn thì chẳng qua “chỉ là tình cờ duyên nợ của một kiếp người mà thôi,” theo anh. 

Đối với những anh chị em văn nghệ sĩ mà anh không có dịp gặp thì sao? Phan Nguyên cho biết, anh lấy dấu bàn tay bằng cách nhờ bạn bè. Chẳng hạn, ở Canada, anh nhờ nhà thơ Hoàng Xuân Sơn thực hiện giúp. Qua điện thư, anh chỉ vẽ cách làm; làm xong, gửi cho anh qua đường bưu điện. Bằng cách này, anh đã có dấu bàn tay của một số khá nhiều anh chị em văn nghệ sĩ ở Canada như Song Thao, Luân Hoán, Trang Châu, Hồ Đình Nghiêm, vân vân.




Trang mạng của Phan Nguyên, “Mượn dấu thời gian”, là nơi lưu giữ nhiều tài liệu văn học nghệ thuật Việt Nam và đồng thời cũng là nơi lưu giữ bộ sưu tập dấu bàn tay này. Có thể xem đó là một bộ sưu tập phóng lên trong không gian ảo. Anh vốn đã từng làm việc ở Pháp nên tựa đề này cũng có tiếng Pháp: Emprunt Empreinte, viết tắt là E.E, một hình thức “chơi chữ” trong tiếng Pháp có nghĩa là “mượn dấu”. Anh muợn dấu tay để ghi lại vết tích của thời gian. Mỗi người có một dấu vân tay riêng. Tất nhiên, với mắt trần, vân tay nào cũng như vân tay nào, hao hao giống nhau. Chỉ là những đường ngang, nét dọc, đường cong. Theo những nhà tướng số, chúng là dấu chỉ định mệnh mỗi người. Đối với công an, dấu vân tay chứa đựng lý lịch của một người. Nhưng dưới mắt Phan Nguyên, chúng là "di vật"của từng tác giả, một "chứng tích" của thủ bút, một "chứng từ" của thời gian.” Mỗi người đến, hiện diện rồi ra đi, nhưng Phan Nguyên muốn giữ chúng lại bằng cách “nhặt nhạnh” chúng như những “mẩu thời gian rơi rớt,” chứng tích cho những gì đã đến, đã trôi qua. Nghệ thuật là cái gì còn lại sau khi tất cả đã bị cuốn trôi vào trong cõi vô định. Nhìn những dấu vân tay được lồng khung treo đầy tường của các anh chị em văn nghệ sĩ, tôi nghĩ đến những vết hằn của hiện hữu được ghi khắc trên dòng thời gian. 

Trong bộ sưu tập này, ta tìm thấy đủ dấu vân tay của những nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà báo, nhà giáo, điêu khắc gia, họa sĩ, kinh tế gia, nhà khảo cổ; họ ở trong nước, ngoài nước, thuộc khuynh hướng này, khuynh hướng kia, cũ, mới, tả hữu; họ còn sống hay đã qua đời, vân vân …có đủ. Nhìn dấu vân tay từng người, tưởng tượng đến những thế hệ sau, khi lần giở lại những trang quá khứ, tìm gặp một tác giả nào đó, nhìn thấy dấu vân tay của người đã khuất, hẳn phải đọng lại nhiều cảm khái, hơn là chỉ nhìn khuôn mặt hay đọc một câu văn hay một dòng thơ. 

Bộ sưu tập là một cuộc hội ngộ văn chương nghệ thuật thú vị. Vì thực ra, nó không chỉ gồm có dấu vân tay mà còn có thủ bút của từng tác giả: một đôi dòng cảm hứng và có khi là những câu thơ. Nhiều câu thơ làm ngay tại chỗ, nhưng đọc lên, nghe rất đậm đà và thú vị, phản ảnh đúng phong cách của từng tác giả. 



• Phạm Thiên Thư (nhà thơ):
Buồn buồn tôi hỏi cái tôi
Cái vừa đến - Cái đi rồi - Lạ nhau! 





• Khế Iêm (nhà thơ):
Từ thuở tuổi tác như đồng nát
Sương khói xây thành trăng mộ bia
Ta uống say khướt nước quẩn bách
Theo gió ra ngoài biên giới kia 






• Song Thao (nhà văn):
Mực đen giấy trắng đời thừa
Phóng tay ta cứ viết bừa cho vui 






• Chân Phương (nhà thơ):
Ngòi bút có sau bàn tay
Bàn tay có sau hòn đá
Hòn đá có sau lửa trời
Lửa trời có sau Hiện Tại 






• Nguyễn Duy (nhà thơ):
Nhớ nhau mình lại vuốt ve tay mình 






• Lê Thánh Thư (Họa sĩ/nhà thơ): 
Bài khẩu cung
(Vấn & Đáp)
Mày tự khai
Hay mày không
Mày phản động
Hay mày không
Mày muốn sống
Hay mày không
Mày tự do
Hay mày không

Tau khi không
Tau khi có
Tau nào có
Tau nào không
Có có
Không không
Nỏ không
Nỏ có 







• Thường Quán (nhà thơ):
Giấy thấm trưa thưa rào ưu ủ nắng
Chim sâm ca dấu ấn nâu mong
Tình để bạn nước xanh lạc lặn
Nhà xoay lưng vạn nỗi ngả lòng






Và dưới đây là dấu vân tay của nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn, còn được mệnh danh là“Sơn biển” (khác với “Sơn núi”/Nguyễn Đức Sơn):


Vân tay rớt xuống trắng mây
Cuối đời để lại ngón tay đủ mười


“Cuối đời”! Phải chăng là một lời tiên tri. Hai câu thơ này nhà thơ viết vào tháng 7/2014 trên dấu vân tay của anh do Phan Nguyên thực hiện tại Phan Thiết vào tháng 7/2014, đúng một năm trước ngày anh từ giã cõi đời, tháng 7/2015. Nguyễn Bắc Sơn ra đi theo dòng thời gian, nhưng dấu vân tay còn để lại. 

Bộ sưu tập đã khá nhiều, nhưng vẫn còn thiếu. Phan Nguyên cho biết nhiều nhà văn, nhà thơ ở Hoa Kỳ vẫn còn chưa có dấu tay trong bộ sưu tập. Anh rất muốn có dấu vân tay của họ nhưng chưa có cơ hội đặt chân đến Hoa Kỳ. Anh giao tôi mấy gói cà phê và nhờ tôi giúp lấy dấu vân tay của một số nhà văn nhà thơ mà một trong số đó anh tha thiết muốn có ngay là nhà văn lão thành Võ Phiến. Tôi hứa. Nhưng do ở xa, tôi chưa kịp thực hiện thì Võ Phiến đã vĩnh viễn ra đi tháng 9/2015 vừa rồi. Tiếc thay. Bộ sưu tập thiếu mất một người! 

Đành vậy! 






Trần Doãn Nho, sinh trưởng ở Huế, định cư ở Hoa Kỳ năm 1993, hiện cư ngụ tại thành phố Worcester, bang Massachusetts. Cộng tác với nhiều tạp chí văn học trong nước (trước 1975) như Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Vấn Đề và ngoài nước như Văn Học, Hợp Lưu, Văn, Talawas, Da Màu, Tiền Vệ, Thế Kỷ 21… Đã xuất bản tám tác phẩm gồm truyện ngắn, truyện dài, ký và tùy bút và biên khảo văn học. Tác phẩm mới nhất, “Ẩn dụ, cuộc phiêu lưu của chữ” do Người Việt xuất bản năm 2015, là tập biên khảo với tên thật là Trần Hữu Thục. 


















THÍCH TUỆ SỸ,
KHUÔN MẶT TIÊU BIỂU CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM

TRẦN HỮU THỤC


Như một lời cầu nguyện kính gửi đến Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
trong những ngày Thầy nằm trong bệnh viện.
(Trần Hữu Thục)
Tôi quen với Thầy Tuệ Sỹ tại Huế, năm 1965. Lúc đó, cả hai chúng tôi đều ở lứa tuổi 20.
“Tôi thú vị nhìn người bạn mới quen trong bộ áo quần nhà tu bạc màu, cũ kỹ. Giọng nói nhỏ nhẹ. Dáng bước thong dong. Chiếc áo nâu lất phất. Một nhà tu. Như thực như giả. Như có như không. (…) Hình ảnh một chú tiểu, vừa có cái nét lãng đãng của một người nghệ sĩ, lại không thiếu vẻ siêu thoát của một nhà tu. Nhìn Thầy, tôi có cảm giác như mọi ràng buộc, mọi quy lệ, mọi giáo điều đều vỡ vụn. Thầy đi, Thầy sống y như thể không có ai, không có gì, không từ đâu và đến đâu cả.”[1]
Sau này, gặp lại nhau nhiều lần ở Đại Học Vạn Hạnh, thập niên 1970, Thầy vẫn thế:
“Thầy sống, vui chơi, học đạo và làm việc một cách bình thường, đơn giản, không màu mè, khách sáo. Vẫn bộ nâu sồng. Vẫn thân hình mảnh dẻ. Vẫn ánh mắt tươi vui. Vẫn nụ cười dung dị, bình thản. Như độ nào. Một nhà tu. Một nhà trí thức. Một nghệ sĩ. Một người bạn. Một con người. Thầy nhìn mọi sự kiện, mọi vấn đề dưới con mắt thản nhiên, không mấy băn khoăn, ray rứt. Thỉnh thoảng, Thầy đưa ra vài nhận xét dí dỏm, tinh nghịch. Tất cả quyện làm một trong Thầy, gọn gàng, sinh động.”[2]
Mùa hè năm 1983, tôi ghé thăm Thầy ở chùa Già Lam.
“Thầy nằm đó, thân hình ép sát xuống tấm phản gỗ lớn. Người như chẳng còn gì, ngoài xương và da. Ốm o, mảnh dẻ. Chỉ có khuôn mặt là vẫn vậy, như xưa, chỉ có khác là xương xẩu hơn, làm nổi bật thêm đôi mắt to và chân mày đậm. Tôi nhìn chăm Thầy, cảm động nói:
- Thầy không khác…
Thầy nhổm dậy, nhìn tôi, hỏi:
- Thế nào, ông ở tù chứ?
- Sáu năm. Ra tù năm 1981.
- Ta cũng ra tù năm 1981.
- Thầy làm gì mà ở tù?
- Lý do chính thì ta không biết. Nhưng lý do phụ là cư trú bất hợp pháp, không có hộ khẩu. Ta bây giờ chẳng còn là ta nữa. Không hộ khẩu. Không giấy tờ. Không công dân. Không quê hương. Không gì hết!”[3]
Tháng 4/1984, tôi ghé lại chùa Già Lam, thì nghe tin Thầy đã bị bắt trước đó mấy hôm. Từ đó cho đến giờ, tôi không hề gặp lại Thầy. Không gặp, nhưng Thầy vẫn đâu đó bên tôi.
*
Cuộc đời, hành trạng và sự nghiệp văn hóa lớn lao, độc sáng của Thầy đã được đề cập đến một cách cụ thể và đầy đủ qua các bậc thức giả như Văn Công Tuấn, Thích Phước An, Vĩnh Hảo, Tâm Thường Định, Phạm Công Thiện, Tuệ Hạnh, Nguyên Siêu, Lê Mộng Nguyên…và nhất là thầy Thích Nguyên Siêu, mà bài viết “Hòa Thượng Tuệ Sỹ, Trí Siêu, những thiên tài lỗi lạc” của Thầy đã cung cấp nhiều tài liệu và chi tiết khả tín, rất có ích cho những ai muốn nghiên cứu sau này.
Với tư cách là một người ngưỡng mộ và cũng là một người bạn thời tuổi trẻ, tôi xin chia sẻ cùng quý độc giả một vài điều suy ngẫm riêng của mình về một số các sáng tác (thơ, văn), các bài chính luận cũng như các công trình biên khảo của Thầy mà tôi đã có dịp được đọc qua.
Tuệ Sỹ, nhà thơ
Tuệ Sỹ là một nhà thơ, theo nghĩa chính xác nhất của từ ngữ này. Không những sáng tác thơ, Tuệ Sỹ còn bình thơ: Tô Đông Pha, Quách Tấn, Bùi Giáng, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn, Hoài Khanh...Thơ Thầy khá nhiều, về đủ đề tài, kể cả tình yêu. Trừ những bài chính luận hay biên khảo về Phật Pháp đòi hỏi phải sử dụng thứ ngôn ngữ mực thước để tránh hiểu lầm, tôi nhận thấy, hễ bình thơ hay viết bất cứ gì thuộc về cuộc nhân sinh, ngôn ngữ của Tuệ Sỹ luôn luôn hàm chứa chất phóng túng, tự do và phơi mở. Chính điều này đã khiến cho Thầy, dù là một nhà tu đức cao vọng trọng, lại vẫn rất gần gũi với mọi người.
Bàn về thơ Tô Đông Pha, Tuệ Sỹ viết:
“Từ tâm tình đến cuộc tình, từ cuộc tình đến cuộc chơi, rồi từ cuộc chơi đến cuộc hẹn; thế là, đang lân la, bỗng đột ngột phát hiện một phương trời viễn mộng, xa xôi. Trong cõi đó, lữ khách bao giờ cũng thấy mình đang bươn bả ra đi, đi biền biệt, đi triền miên, tưởng như không bao giờ có bến bờ để đổ lại; nhưng, đi và đi mất, trong từng khoảnh khắc, cái đến và nơi đến, đã đến tự bao giờ. Cuộc tình chia phôi từ độ đó.” (…) “Đó là tình thơ trong cuộc thơ và cõi thơ; không quyết là của Đông Pha hay không là của Đông Pha. Nhưng người chơi thơ, mở cuộc giao tình với cuộc thơ, ban đầu chỉ như đi tìm một cõi mộng đơn sơ; rồi đột ngột, và sững sờ, cảm khái như một mối sầu cô lữ, thấy mình lưu lạc ở một phương trời đọa đày viễn mộng.”[4]
Tuệ Sỹ là như thế! Thích thú với cung cách độ lượng đó, tôi luôn đọc thơ Tuệ Sỹ như Tuệ Sỹ, một nghệ sĩ, không như một nhà tu. Thơ Tuệ Sỹ, trước hết và trên hết, là thơ của một con người sống giữa trần gian với tất cả những thuộc tính rất trần gian: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục. Thầy viết về phận người, về tình yêu, về thế sự, về tù đày, về tuyệt vọng, về đau khổ, tiếc nuối, nhớ nhung, mơ ước, hy vọng. Chỉ nói riêng về mặt từ ngữ thôi, ta cũng đã thấy thơ Thầy nhuốm đầy mùi vị nhân sinh: du thủ, mỏi mòn, ân tình, tàn thu, tóc huyền, tóc rối, tóc em rung sương chiều, gót chân em nắng vàng, môi hôn, mắt biếc, gầy hao, trơ vơ…
Về điểm này, quan điểm Thầy rất rõ ràng. Theo Thầy, “…một tác phẩm xứng đáng với một kích thước rộng lớn, nó phải khởi lên từ cảm hứng của thực tại; vì rằng, ngay qua đó, người ta sẽ thấy một cách như thực đâu là tiếng nói của thực tại và đâu là tiếng nói của lòng người: thực tại tức là lòng người. Và cũng từ đó, người ta sẽ tìm thấy đâu là khát vọng sâu xa đang ẩn kín trong lòng người. Một tác phẩm mà không đủ sức chấn động lòng người để mở ra một thế giới như vậy không thể xứng danh là một tác phẩm văn học.” Do đó, “một tác phẩm văn học phải đặt hết tâm tình và cảm xúc ngay ở hình thức phô diễn.” Không phân biệt giữa nội dung và hình thức, tính cách phô diễn là “cả một thế giới sống thực triền miên.”[5]
Tiễn một người bạn là tiễn một người bạn:
- Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình, nước lạnh sao? (Tống biệt hành)
Đã nói “Em” thì là em, không thể ai khác:
- Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn
Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt
Mờ phố thị những chiều hôn suối tóc
Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa. (Nhớ dương cầm)
- Tóc em tung bay sương chiều khói biếc
Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng
Tình hay mộng khi Trường sơn xa hút
Ðến bao giờ mây trắng gởi tin sang (Nhớ con đường thơm ngọt môi em)
Đã là uất ức (của một tù nhân) thì là uất ức (của tù nhân):
- Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
Lời ai ru trào máu lệ bi thương
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương (Dạ khúc)
Uất ức nhưng vẫn mơ mộng:
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều. (Tôi vẫn đợi)
Phân tích bài thơ này, nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhận định, “Bài thơ không hề là một lời tố cáo đầy phẫn nộ, lại không phải là một bài hịch. Không phải là một tiếng sấm. Ngược lại, như tôi đã so sánh ở trên, đây là những lời ru hiền hòa, lời vỗ về của mẹ, lời thì thầm của lá, của hoa, của cây cỏ. Không phải là mũi nhọn công phá vào vách khám mà là một làn hương tỏa lên trên, len qua kẽ ngục và tỏa rộng lên trời cao.”[6]
Tôi đồng ý với Nguyễn Mộng Giác.
Nếu lưu ý, ta sẽ nhận thấy Tuệ Sỹ rất hiếm những bài “thơ (tải) đạo”: quảng bá giáo lý hay răn dạy đạo đức. Do đó, thơ Thầy ít thuật ngữ và ý niệm tôn giáo, không có cái “chay” (tịnh) của một nhà tu, trái lại, “mặn” (mà) nhân tình thế thái:
Trong ta là núi là rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi (Thân phận/trong Tô Đông Pha)
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về (Lô Sơn/trong Tô Đông Pha)
Ngay cả khi diễn tả một vị sư xuống núi, “Hạ sơn”, ta cũng thấy toàn mùi vị trần gian: sờn, mòn, hờn, đường cùng, bóng tối, rưng rưng, trầm, ho, ác mộng.
Ngày mai sư xuống núi
Áo mỏng sờn đôi vai
Chuỗi hạt mòn năm tháng
Hương trầm lỡ cuộc say
Bình minh sư xuống núi
Tóc trắng hờn sinh nhai
Phương đông mặt trời đỏ
Mùa hạ không mây bay
Ngày mai sư xuống núi
Phố thị bước đường cùng
Sư ho trong bóng tối
Điện Phật trầm mông lung
Bình minh sư xuống núi
Khóe mắt còn rưng rưng
Vì sư yêu bóng tối
Ác mộng giữa đường rừng
Nói như thế không có nghĩa là Tuệ Sỹ không có thơ đạo, thơ thiền. Nhưng thay vì nặng về từ ngữ, Tuệ Sỹ sử dụng một bút pháp khác, có tính cách “thơ” hơn, chứa đựng nhiều hình ảnh hơn, do đó, sống động và cụ thể hơn:
Thời gian đi khấp khiểng
Để rụng phấn rơi hồng
Tơ nắng dài tâm sự
Bồi hồi mộng vẫn không
Chỉ có 20 chữ, nhưng chúng trộn lẫn màu sắc, tâm tình, ý thức và cảm xúc vào nhau, tạo nên một mùi vị lạ, có vẻ “thoát tục”, “thiền”; mùi này đậm hay nhạt, tùy theo cách cảm nghiệm của mỗi người.
Đó là nét rất riêng của Tuệ Sỹ. Nhưng “thiền” nhất, theo tôi, nằm trong bài thơ dài 13 khổ, Thiên Lý độc hành.[7] Đa phần các khổ thơ được làm theo lối tứ tuyệt (bốn câu), diễn tả bước du hành của một người lữ khách cô độc, khởi đầu ở chỗ:
Ta về một cõi tâm không
Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn
Một mình và tâm không, lữ khách đi, hết ngày đến đêm, hết mưa đến nắng, hết mùa đến mùa, qua đèo, qua rừng, qua suối, qua triền đá, bờ lau, nếm trải đủ thứ mùi đời, với một dấu hỏi không nguôi ném vào cuộc nhân sinh: ta là ai? chờ ai? đợi ai? từ đâu? về đâu?
- Đã mấy nghìn năm đợi mỏi mòn
Bóng người cô độc dẫm hoàng hôn
Bởi ta hồn đá phơi màu nắng
Ôm trọn bờ lau kín nỗi buồn
- Từ thuở hồng hoang ta ở đâu
Quanh ta cây lá đã thay màu
Chợt nghe xao xuyến từng hơi thở
Thấp thoáng hồn ai trong khóm lau
Bài thơ kết thúc bằng một lời nhắc nhở bất ngờ:
Khi về anh nhớ cài quai nón
Mưa lạnh đèo cao không cõi người
Đọc xong, tôi cảm thấy thấm thía, nhưng không rõ thấm thía cái gì! Vì phải “cài quai non” hay vì cái cảnh “mưa lạnh đèo cao” lại “không cõi người”? Hiệu ứng thơ thuờng mông lung như vậy.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Tuệ Sỹ…yêu. Yêu, nên làm thơ tình. Một nhà tu làm thơ tình, quả là điều xưa nay hiếm! Tuy số lượng không nhiều, nhưng những bài thơ tình của Tuệ Sỹ rất…tình: thắm thiết, da diết, nồng nàn.
Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa
Nghe tình ca trên giọt sương tan
Bóng tôi xa đêm dài phố thị
Nhớ con đường thơm ngọt môi em
Hai câu thơ và cả tựa đề của nó, “Nhớ con đường thơm ngọt môi em”, nghe phảng phất Nguyên Sa. Thơ tình Tuệ Sỹ có thể là về một người mà mình yêu, có thể là về một bóng hình, một nhân dáng nào đó, cũng có thể là nỗi nhớ vu vơ về một “Em nhỏ”:
Ôi nhớ làm sao, Em nhỏ ơi!
Từng đêm ngục tối mộng Em cười
Ta hôn tay áo thay làn tóc
Nghe đắng môi hồng lạnh tím người!
(…)
Cho ta chút nắng bên song cửa
Ðể vẽ hình Em theo bóng mây. (Cho ta chép nốt bài thơ ấy)
Đôi khi chỉ là một gặp gỡ tình cờ:
Mắt em quán trọ của ngàn sao
Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào (Quán trọ của ngàn sao)
Cũng có thể chỉ là một ấn tượng thoáng chốc:
Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao. (Thoáng chốc)
Nhưng có lúc lại là một nỗi nhớ vô cùng sâu sắc:
Công Nương bỏ quên chút hờn trên dấu lặng
Chuỗi cadence ray rứt ngón tay
Ấn sâu xuống ưu phiền trên phím trắng
Nửa phím cung chỏi nhịp lưu đày (Những điệp khúc cho dương cầm)
Thắm thiết đến thế thì thôi!
Dẫu vậy, như ta biết, trong đời sống, Tuệ Sỹ không hề vướng vào con đường tục lụy. Lời thơ, tuy rất tình, nhưng nếu đọc kỹ, chúng chẳng hề mang mùi tục lụy. “Em”, “tóc rối”, “môi em” hay “nụ hôn” chứa đựng vẻ tinh khôi của một thứ tình cảm lý tưởng. “Yêu” mà không “lụy”. “Tình” nhưng không “dục”. Đó là “tình yêu thuần khiết” (amour platonique), thứ tình cảm trai gái hoàn toàn không dính líu đến quan hệ thân xác hay những hình thức lãng mạn khác (hẹn hò, quà tặng...). Điều này không phải là hiếm hoi đối với những người hiến mình cho con đường tu tập, dù thuộc bất cứ tôn giáo nào. Một tình yêu như thế thường xuất phát từ sự tự chế hay từ sự “thăng hoa” (sublimation), hiểu theo nghĩa phân tâm học. Yêu một người mà như yêu mọi người!
Mặt khác, về phương diện sáng tác nói chung, thơ Tuệ Sỹ có những tứ thơ khác lạ, rất “tuệ sĩ”, hiếm thấy ở những nhà thơ khác. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Mỗi một tài năng thi ca luôn luôn biểu lộ một cái “riêng” nào đó rất riêng, không ai giống ai. Chẳng hạn ở khổ thơ này:
Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu
Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá
Rũ mi dài trên bến cỏ sương khô(Mười năm trong cuộc lữ)
Bốn câu thơ hoàn toàn không có gì lạ về mặt từ ngữ, nhưng cách kết hợp chữ, hình ảnh và ý nghĩa tạo ra nét lạ: rong chơi từ hỗn độn, đếm mộng trên từng đọt lá, rũ mi dài, bến cỏ sương khô. Đọc lên những nhóm chữ này, ta cảm thấy bỡ ngỡ y như thể chúng trừu tượng hay có vẻ bí hiểm; nhưng đồng thời, ta lại vẫn hiểu ngay được ý nghĩa của chúng, mặc dầu không thể kiến giải một cách rõ ràng. Những tứ thơ như thế có thể tìm thấy rải rác ở nhiều bài thơ khác. Hoặc đó là những nhóm chữ: khung trời hội cũ, trăng đã gầy vĩnh viễn, những chiều pha tóc trắng, kể chuyện trăng tàn, nông nổi vết sa cơ, điêu tàn vờ vĩnh…; Hoặc đó là nguyên cả một câu thơ: Một lần định như sao ngàn đã định, Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ, Trời không ngưng gió chờ sương đọng…
Những tứ thơ như thế đôi khi được hình thành một cách xuất thần:
Khi nắng sớm hôn nồng lên nụ nhỏ (Bình minh)
Chỉ bảy chữ thôi, nhưng câu thơ vẽ ra một bức tranh đẹp. Mặn mà nhất có lẽ nằm ở mấy chữ “hôn nồng” và “nụ nhỏ”.
Về điểm này, nhà phê bình Đặng Tiến có một nhận định, theo tôi, là hoàn toàn chính xác: “…ở Tuệ Sỹ đời sống hằng ngày, ý thức và vô thức dường như đã thăng hoa, thành một siêu thức. Ngôn ngữ do đó cũng siêu thoát, khó bề lý giải chân phương và đơn phương.”[8]
Ở nhiều bài thơ, sự vật và sự kiện cũng như ngôn ngữ rất bình thường nhưng được nhà thơ “cột” chúng lại trong một kết cấu lạ, bất ngờ, đẩy ý nghĩa khiến chúng bay thoát hẳn ra khỏi nội hàm của chúng. Chẳng hạn hình ảnh đối sánh giữa cây trúc và con nhện dưới đây:
Trúc biếc che ngày nắng
Hương chiều đuổi mộng xa
Phương trời nhuộm ráng đỏ
Tóc trắng nhện tơ lòa (Trúc và nhện)
“Trúc biếc che ngày nắng” gợi nên một trạng thái tâm lý bất thường, đó là “hương chiều đuổi mộng xa”; trong lúc đó, “Phương trời nhuộm ráng đỏ” lại cho ta một hình ảnh khác, hoàn toàn có tính cách vật lý, một kết hợp màu sắc rất đẹp:“tóc trắng nhện tơ lòa”. Cả hai tứ thơ đều bất ngờ và độc đáo.
Riêng tôi, một trong những bài thơ mà tôi thích nhất là trường ca “Tĩnh thất”.[9]Bài thơ gồm 32 khổ mà cũng là 32 bài, tùy cách đọc và cách cảm nhận. Đó là một kết hợp của nhiều thể loại thơ khác nhau: nhị ngôn, tam ngôn, tứ ngôn, ngũ ngôn, lục bát, thất ngôn, bát ngôn, tự do hay hỗn hợp, chứa đựng cả tình yêu, tình nhân thế, tình đời, tình đạo. Nhiều bài ngắn, gọn gàng, hàm súc, từa tựa như lối thơ “hài cú” của Nhật Bản. Ít chữ, nhiều nghĩa, qua đó, cách nắm bắt và diễn tả hiện thực, cách sử dụng ngôn ngữ, cách nén, ép ý nghĩa và ý tưởng của nhà thơ đạt đến mức thượng thừa, theo tôi. Xin trích vài đoạn:
Rất hoang vu:
Hoang vu
Cồn cát cháy
Trăng mù
Hoang vu
Cồn cát
Trăng mù
Cỏ cây
mộng mị
Cơ đồ
nước non.
Rất nghịch lý:
Bứt cọng cỏ
Đo bóng thời gian
Dài mênh mang
(Lấy ngắn đo dài)
Rất lãng đãng:
Trời cuối thu se lạnh
Chó giỡn nắng bên hè
Nắng chợt tắt
Buồn lê thê.
Rất khốn khổ:
Lão già trên góc phố
Quằn quại trời mưa dông
Áo lụa gầy hoa đỏ
Phù du rụng xuống dòng
Rất hiện thực và trần tục:
- Lon sữa bò nằm im bên chợ;
Con chó lạc
đến vỗ nhịp
trời mưa.
Tôi lang thang
đi tìm cọng cỏ
Nó nhìn tôi
vô tư.
- Lời rao trong ngõ hẻm:
Đồng hồ điện!
Cầu dao!
Công tắc!
Những lời rao chợt đến chợt đi.
Một trăm năm mưa nắng ra gì,
Cánh phượng đỏ đầu hè, ai nhặt?
Trong hai bài thơ trên, nội dung hoàn toàn hiện thực, những câu kết (in đậm) rớt vào khổ thơ như một ngẫu nhiên, một vật lạ từ trên trời rơi xuống khiến toàn bài thơ hoàn chỉnh một cách thần tình, nằm ngoài mọi dự đoán.
Thơ Tuệ Sỹ mang phong cách phóng túng của Tô Đông Pha, nhà thơ mà Thầy đặt cho cái biệt danh “những phương trời viễn mộng”:
“Muốn cho lời thơ tuyệt diệu, thì phải là đừng gò ép, vừa Không và vừa Tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao hàm vạn cảnh. Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời, mà thấy mình như nằm trên chóp đỉnh mây cao. Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát; trong đó có cái hương vị tuyệt vời.
Thơ và Pháp (Đạo) không chống trái nhau, không hại nhau.”[10]
Tuệ Sỹ, nhà văn
Về văn, Tuệ Sỹ không viết nhiều. Nhưng ba truyện ngắn mà tôi được đọc, “Piano Sonata 14”, “Gốc tùng” và “Sư Thiện Chiếu”[11] đều là những sáng tác hay, kết hợp cả lối viết truyền thống lẫn hiện đại. Cũng như thơ, văn Tuệ Sỹ, trước hết, là văn chương của con người, về con người và về cuộc đời. Cả ba truyện đều có nhân vật, cốt truyện, đối thoại, độc thoại; đặc biệt, cả ba đều có cấu trúc lỏng lẻo với kết thúc mở. Đọc xong truyện rồi, độc giả vẫn còn bâng khuâng, không tìm thấy ngay câu trả lời.
Đoạn kết trong “Gốc tùng”:
“Khi đến gần ông cụ, cậu đứng thẳng người, khẽ cúi đầu.
- Dạ, thưa ông, cháu đi.
Lại một lần nữa. Ngày mai, trời sẽ có mưa hay gió gì đây. Vào mùa này, Huế thường có sương mù mỗi sáng. Lúc xe ngang qua cầu Trường Tiền, phía dưới kia dòng nước cồn nhỏ thấp thoáng như một hải đảo xa xôi nào đó.”
Đoạn kết trong “Sư Thiện Chiếu”:
“Sau buổi cơm trưa, chúng tôi cố cầm ông bạn cố tri này ở chơi ít hôm. Nhưng ông nhất quyết từ chối. Hỏi thăm nơi trú ngụ, cũng không nói. Đến nay, cũng đã mấy năm rồi, tôi không biết hỏi thăm ai về sư Thiện Chiếu ngày xưa hay cụ đồ viết mướn ngày nay nữa.”
Kết thúc nào cũng lửng lửng lơ lơ, thả lỏng cho trí tưởng tượng của độc giả.
“Gốc tùng” có văn phong trong sáng, mới mẻ, hiện đại. Đặc biệt, tác giả áp dụng ý nghĩa của cây tùng trong văn chương cổ điển vào quan hệ gia đình thời nay. Có chút gì hơi chỏi ở cách ví von này, nhưng hình như tác giả Tuệ Sỹ muốn gài vào đó một ẩn ý riêng. Đoạn vào đầu truyện đã nghe khang khác, ngồ ngộ:
“Những năm trước, hai gốc tùng trước sân như hai đứa trẻ, dáng điệu miệt mài trong cơn gió hiu hắt của mùa thu. Quanh năm suốt tháng, không một lời qua lại, không trao đổi nhau đến cả một chiếc lá đã qua mùa. Vào năm mưa bão nhiều, đôi khi nước dâng cao, từ xa vọng lại như một bãi tuyết trắng ngập nửa thân hình. Thỉnh thoảng vài cánh bướm ghé xuống, không hương sắc của phấn nhụy để bày tỏ một chút tình nồng nhiệt. Cánh bướm lại bay đi, vẫn không một cử chỉ xao động hứa hẹn nào.”
Hai nhân vật người ông và đứa cháu nội được xây dựng một cách đơn giản, có tính cách điển hình, nhưng không quá tròn trịa và khuôn mẫu. Thỉnh thoảng, ở vài chỗ, tác giả cố tình để lửng một chi tiết nào đó khiến người đọc cảm thấy như mất dấu. Có lẽ vì thế, khung cảnh và nhân vật tuy hoàn toàn hiện thực, nhưng lại thấp thoáng nét hư ảo như ta thường tìm thấy trong các truyện truyền kỳ hay trong các công án thiền.
“Một mùa Xuân nào đó; nước đẫm ướt đầu mấy con vịt, như nhuộm trắng; một cụ già chống gậy tiếp khách. Khách mang theo cả một thời quá khứ của cụ, trong từng bước. Khách hẹn sẽ có ngày ghé thăm lại. Hòn núi trơ trọi trong buổi chiều, y ước đứng mãi đấy để đếm từng buổi nắng quái đi qua (…) Những ánh nắng của buổi chiều lây lất và một mái tóc bạc đứng đợi cái gì đã đi qua và đi mất.”
Cuối cùng, “Piano Sonata 14”, theo tôi, là một truyện ngắn hoàn hảo, cả về kỹ thuật, cấu trúc, nội dung lẫn nhân vật. Nhân vật chính là một chú tiểu. Trước hết, hãy khoan nói chuyện hư cấu, mà nói về hình ảnh cụ thể về một chú tiểu có thật ở ngoài đời. Hồi nhỏ, tôi hay theo mẹ đi nhiều chùa ở Huế, do đó, quen với khá nhiều chú tiểu cùng lứa tuổi, có chú đã từng là bạn học ở trong trường. Một chú, sau này là đại đức Thích Thanh Tuệ, để lại trong tôi một dấu ấn không thể phai mờ: chú đã tự thiêu tại chùa Phước Duyên vào tháng 8/1963 để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm. Nói chung, tôi rất thương các chú, vì trong lúc ở độ tuổi 6, 8, 9, 10, bọn trẻ con chúng tôi được ăn thịt, ăn cá, đánh bi, đánh đáo, câu cá bắn chim thỏa thích, thì các chú phải khép mình vào khuôn khổ, mặc áo nâu sồng, thức khuya dậy sớm, ăn chay, tụng kinh gõ mõ. Bởi vậy, mỗi khi đi chùa, tôi thường mang theo ít kẹo, có khi là đồ ăn mặn, dấm dúi vào trong túi áo mấy chú hay lợi dụng lúc mấy “ôn” bận bịu, rủ mấy chú ra vườn sau chạy nhảy, hái hoa, đuổi bướm. Các chú vừa thích vừa sợ. Riêng tôi, mỗi lần nhìn mấy chú, tôi cứ băn khoăn trong lòng không hiểu thực sự, trong thâm tâm, mấy chú nghĩ gì, mơ ước gì.
Chính vì thế, đưa nhân vật chú tiểu vào truyện là một điều không đơn giản. Nếu “đạo” quá, truyện sẽ khô, cứng; nếu “đời” quá, rất dễ đi quá đà, phóng túng. Ấy thế mà, qua “Piano Sonata 14”, Tuệ Sỹ xây dựng một chú tiểu hết sức sống động, vừa có nét hồn nhiên của một chú bé lên 12 vừa có phong thái nề nếp của một chú tiểu nằm trong khuôn phép. Đồng thời, nếu tinh ý, ta sẽ thấy tác giả khôn khéo rắc vào một chút gia vị thế tục, tuy rất nhẹ nhàng, nhưng thấm thía.
Chú tiểu tên Nghi, 12 tuổi đang học lớp đệ lục trường công lập. Mẹ chú, không rõ vì lý do gì, mang chú lên giao cho chùa rồi đi mất; về sau, bà chết, được tu viện lập bàn thờ thờ trong chùa. Chú chăm chỉ làm việc chùa, “châm trà, lau bàn ghế và quét dọn trong phòng của sư trưởng. Không ai biết tuổi thơ trôi qua như vậy đang ấp ủ sự gì. Sự thành kính khi bưng ấm trà để vào khay.” Hằngngày, chú lại phải học về “ý nghĩa của sự vô thường, khổ đau và giả tạo đang đè nặng kiếp người.” Ấy thế mà chú tiểu cũng là một cậu bé nghịch ngợm: thường xuyên trốn chùa ra ngoài đi chơi, qua cổng chính, bằng cách “làm cho một chấn song cửa sắt gẫy hết một đầu, chỉ cần kéo nhẹ qua là lách mình vào lọt. Rồi sau đó nắn lại”, mà sư trưởng tu viện không hề biết. Ghét cái miễu thờ bà ở trong khuôn viên chùa, có lúc, chú hứng thú “leo lên đống ngói đứng đái, xoay người tứ phía y hệt như tưới rau.” Hay “Ăn cắp chuối trên bàn Phật, hay lẻn qua vườn rau nhổ bậy vài bụi cải cho những cuộc kiết tập kín đáo, với bánh tráng mỏng và nước tương dầm ớt thiệt cay.”
Một hôm, ra vườn sau, chú khám phá ra một điều mới mẻ: ban đêm, giữa “luồng trăng bạc như sương khuya lấp lánh đang nhảy múa chập chờn trên các luống cải,” chú bỗng nghe một thứ âm thanh “ngọt ngào và quyến rũ” vọng lại từ bên kia con đường. Tò mò, chú không ngần ngại “chui qua hàng rào kẽm gai, băng qua vườn, sang tuốt con đường đất”, tìm đến “một ngôi nhà ẩn sau nhiều bóng cây rậm rạp”, nơi “đang có người chơi đàn.” Ở đó, “Xuyên qua khung cửa sổ, chú thấy một mái tóc chảy dài, nghiêng nghiêng theo âm điệu to nhỏ và tiết điệu buông lơi của tiếng đàn.” À, người đánh đàn là một cô người Huế. Cô mở cửa cho chú điệu vào. Dưới cái nhìn của cô, chú điệu với “Chỏm tóc lệch qua một bên, phủ mép trán. Đôi mắt sáng ngây thơ dưới hàng mi dài và cong.” Khi cười, chú “chớp hai hàng mi tinh nghịch. Nụ cười của trẻ thơ, trong trắng và hồn nhiên, nhưng quá nhỏ nhoi và khiêm tốn giữa một thế giới đòi hỏi quá nhiều sự trang nghiêm và kính cẩn. Tuổi thơ hiếm hoi cho một tâm hồn tập sự săn đuổi những ước mơ ngoài tầm với bắt của con người.” Cô mời chú vào. Và lần đầu tiên chú thích thú nhìn thấy “cây đàn kê sát vách tường nhìn nghiêng ra khung cửa sổ.” Chú đi thẳng lại đó, níu hai tay lên thùng đàn, đôi mắt thích thú cúi nhìn chăm chú những phím đen trắng chen nhau sắp thành một hàng thẳng. Được chủ nhân cho phép, chú “đặt cả bàn tay lên phím đàn và ấn xuống. Âm thanh so le nhau cùng tấu lên. Khi cất tay, chú nghe chúng ngân dài, lẫn vào thùng đàn như đang chìm sâu vào trong bóng tối hun hút phía sau.”
Thấy chú thích đàn, cô gái hứa sẽ dạy cho chú học. Chú tiểu hoàn toàn là một đứa trẻ vô tư hồn nhiên, thấy lạ thì thích. Thay vì đợi cô gái chỉ dẫn, chú đập tay lên các phím đàn, bị cô gái la, nhưng rồi chú cũng lại đập tay lên các phím đàn một lần nữa. Cái hồn nhiên, tinh nghịch của một chú bé đi tu tạo nên trong lòng cô gái, Như Khuê, những cảm giác lạ, phức tạp:
“Nghi lúc nào cũng cao hứng, Như Khuê tự nhiên thấy mình đã thân thiết với chú vô cùng. Cô muốn hôn lên đôi mắt thần tiên của chú. Cửa chùa không biết có vĩnh viễn khép kín nổi con người có cái phong vận như thế. Nhưng chắc cũng có mấy ai có thể nhìn suốt qua đôi mắt kia mà thấy được bóng dáng của huyễn mộng phù sinh. Cô đâu biết, và chưa bao giờ thấy sự thành kính của chú và đôi mắt mông lung như khói trầm. Dù vậy, ngay lúc này, cô thấy rõ hơn ai hết, có lẽ vậy, sự nóng cháy đam mê trong đôi mắt thần tiên đó. Thế mà cô cũng chưa bao giờ thấy được sự nóng cháy của một ngọn nến lẻ loi giữa đêm khuya tịch mịch. Cô bỗng thấy trong thâm tâm mình bây giờ y hệt như một họa sĩ vẽ trúc đã mọc đầy trúc trong bụng. Cô mong cho sự nóng cháy kia không sớm bị dập tắt dưới những kỷ luật lạnh lùng nơi tu viện. Cô có cảm giác mười đầu ngón tay của mình đang vuốt nhẹ lên mặt hồ với những lượn sóng nhỏ.” (…) “Như Khuê nghe cánh tay chú đụng vào người. Cô nhìn lại. Chú đang kéo chỏm tóc sang một bên.”[12]
Cảm giác đó khiến cô gái đâm ra bồn chồn. Tâm trạng này chỉ được phác qua vài nét lửng lơ, nhưng bao hàm nhiều gợi ý:
“Cô thích được nắm chỏm tóc của chú mà vuốt dài xuống.Cô đứng tựa mình lên khung cửa và nhìn lên bầu trời. Trăng khuya, lác đác vài ngôi sao. Một ngôi sao... xa quá...
Khi chú đi rồi, “Như Khuê đứng nhìn bóng trắng khuất ngoài hàng rào bông bụp.”
Trong phần kết thúc, truyện bỗng dưng chuyển sang vị sư trưởng:
“Ngang qua thiền thất, Nghi thấy sư trưởng bắc ghế ngồi nhìn ra phía trước cổng. Cổng sắt đã khép kín. Con đường kéo dài bất tận. Tiếng đàn buông lơi và chạy suốt, mất hút ngoài kia. Nghi lén nhìn sau lưng sư trưởng và sư trưởng thì nhìn vào bóng tối của con đường vì sư biết đó là Piano Sonata 14 với tiến nhịp của sustenuto, chậm nhưng vĩnh viễn chìm sâu trong bóng tối như những làn sóng nhỏ ôm bóng trăng mà ngủ vùi trên bến cát.”[13]
Lúc đầu, truyện tập trung vào nhân vật chú tiểu Nghi, rồi đột ngột chuyển qua nhân vật Như Khuê, và cuối cùng, đột ngột chuyển một lần nữa qua vị sư trưởng. Dù chỉ bằng một dòng ngắn ngủi ở cuối truyện, vị sư trưởng trở thành một phần “chưa nói ra hết” của câu chuyện. Chả là vì, hàng đêm, khi tiếng đàn dương cầm vang lên tấu khúc “Khúc Nhạc Dưới Trăng” (Piano Sonata 14 hay Moonlight Sonata) của Ludwig van Beethoven chỉ gợi trí tò mò của chú tiểu thì lại lắng đọng sâu xa trong tâm hồn vị sư trưởng đang chịu trách nhiệm dìu dắt cả một lứa đệ tử tóc đang còn để chỏm, nhưng là tương lai của Giáo Hội sau này.
Hai nhân vật cô gái và vị sư trưởng thì tôi không rõ, nhưng có lẽ có một phần của chú tiểu Nghi trong Tuệ Sỹ!
Tôi được nghe Tuệ Sỹ chơi tấu khúc “Piano Sonata 14” nhiều lần ở trong phòng của Thầy tại Đại Học Vạn Hạnh cùng với nhiều ca khúc thời thượng khác thuở đó: “Diễm xưa”, “Gọi tên bốn mùa”, “Nắng thủy tinh”, “Mùa thu chết”…Thầy đàn rất hay, nhuần nhuyễn và đam mê. Những ngón tay dài, nhỏ nhắn của Thầy chạy thoăn thoắt trên phím đàn piano trông rất điệu nghệ, đến nỗi Quỳnh Thu, một cô bạn gái của tôi, sinh viên Vạn Hạnh, thỉnh thoảng lại nài nỉ tôi dẫn cô đến phòng để nghe Thầy đánh đàn. Thầy bảo, Quỳnh Thu có đôi mắt rất đẹp. Một cô bạn khác, Phương Huệ, nữ tu xuất Công giáo, bạn cùng lớp với tôi, cũng thế, lâu lâu lại ghé đến, yêu cầu Thầy đàn. Phương Huệ khen hai bàn tay Thầy xinh xắn, dễ thương.
Tuệ Sỹ, nhà chính luận
Là một nhà giáo, dạy ở tu viện cũng như ngoài đời, lại có lúc đảm nhận trọng trách của một vị lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, nên ngoài chuyện nghiên cứu kinh sách Phật Giáo, Tuệ Sỹ rất quan tâm đến những vấn đề vừa đạo vừa đời. Thầy viết khá nhiều tham luận về văn hóa, giáo dục, xã hội và tư tưởng, thẳng thắn phê phán những sai trái, tiêu cực và đưa ra những giải pháp cho các vấn đề nêu ra: “Văn minh tiểu phẩm”, “Thư gửi các Tăng sinh Thừa Thiên-Huế”, “Trí thức phải nói”, “Đạo Phật với thanh niên”, “Suy nghĩ về hướng giáo dục cho tuổi trẻ”, “Tuổi trẻ lên đường”, “Thi ca và tư tưởng”, “Giữa thời đại và nhân sinh”, “Tư tưởng là gì”, “Sự hủy diệt của một trào lưu tư tưởng”, “Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo”…
Tôi ghi nhận một số điểm sau:
1. Một trong những vấn đề tâm huyết của Thầy là vai trò tuổi trẻ đối với đất nước và đạo pháp. Sau khi đã nêu lên và phân tích những khó khăn của Phật Giáo dưới chế độ toàn trị, Thầy đề nghị một số giải pháp cụ thể và tích cực:
· Đối với những người tuổi trẻ đi theo đường đạo, các tăng sinh phải chọn thái độ dứt khoát:
- một là, “không buông mình chiều theo mọi giá trị hư dối của thế gian, không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền bạo lực”;
- hai là, “Chớ khoa trương bảo vệ Chánh pháp, mà thực tế chỉ là ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho Ma vương, là nơi tụ hội của cặn bã xã hội”;
- và ba là, “Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua danh bán chức.”[14]
· Đối với các bạn trẻ theo đường đời, “Các bạn trẻ ấy tự tìm thấy hình thái đạo Phật thích hợp với mình,” không nên rập theo “khuôn mẫu do bởi các Anh Chị trưởng, do các Ðại đức, Thượng tọa, hay do các nhà nghiên cứu uyên bác.” Thay vào đó, tuổi trẻ “hãy đi con đường do chính ta lựa chọn, không cần gì phải lắt nhắt theo dấu vết của Như Lai.” Vì sao? Thầy khẳng định: “Không có đạo Phật chung chung cho đồng loạt tuổi trẻ. Mỗi cá nhân tuổi trẻ là biểu hiện của mỗi hình thái đạo Phật sinh động.”[15]
Theo tôi, đó là những lời khuyên thẳng thắn, can đảm, phù hợp với điều kiện và nhu cầu của thời đại.
2. Trong “Văn minh tiểu phẩm”,[16]tham luận độc đáo nhất của Thầy, Tuệ Sỹ lên tiếng phê phán quan niệm cho rằng:
- Việt Nam chỉ có văn học từ khi có chữ quốc ngữ.
- Không có một nền văn học gọi là văn học Phật giáo; nếu có, thì đó không phải là văn học Việt Nam.
Theo Thầy, quan niệm hoàn toàn sai lầm này xuất phát từ hai yếu tố:
- Hạn chế về mặt ngôn ngữ: Tất cả các tác phẩm văn học đều viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. Các thế hệ sau chỉ biết chữ quốc ngữ qua ký tự La-tinh, nên không đọc và hiểu được chữ Hán và chữ Nôm.
- Tác động chính trị bên ngoài: sự thống trị của thực dân và sự truyền bá Thiên Chúa giáo.
Tuệ Sỹ quả quyết, “Chính hai yếu tố tác động này đã khiến cho nhiều trí thức Việt Nam bị bứt khỏi gốc rễ truyền thống.”
Thầy không phủ nhận giá trị của ký tự La-tinh. Tuy nhiên, theo Thầy, đó “không phải là loại hình ký tự duy nhất để tiếp cận khoa học.” Có rất nhiều “khái niệm cũng như nhiều định lý toán học được khám phá không phải do các tư duy và các thuật toán được thực hiện thông qua ký tự La-tinh.” Mặt khác, dù có ký tự La-tinh, nhưng cho đến nay, Việt Nam chẳng hề chứng tỏ được đất nước “tiến bộ hơn Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc hay Thái Lan” là những quốc gia chỉ sử dụng thứ ký tự mà tổ tiên họ đã truyền lại từ cả ngàn năm nay. Không những thế, Việt Nam còn đi chậm hơn họ cả hàng chục năm. Điều đó chứng tỏ, ký tự chẳng phải là “yếu tố quyết định cho tiến bộ văn minh.”
Tuệ Sỹ khẳng định: “Chữ viết mà chức năng là ký hiệu truyền đạt, và là biểu tượng của tư duy, tự bản chất, phản ảnh phong thái sinh tồn của một dân tộc trong ý thức cá biệt của nó, đồng thời cũng phản ảnh lối quan hệ và ảnh hưởng hỗ tương giữa các dân tộc. Không thể nói loại hình nào ưu việt hay tiện lợi hơn loại hình nào. Người học chữ Hán cho đến một trình độ nào đó sẽ thấy rằng chữ ‘Uất’ gồm 29 nét không phải là khó nhớ hơn chữ ‘Nhất’ một nét. Nói rằng chữ Nôm phức tạp cho nên không tiện lợi để phổ biến cho bằng chữ La-tinh, điều này chỉ đúng cho những người mà não trạng đã quen với tập tính lười biếng.”
Mặt khác, cũng trong bài viết này, Tuệ Sỹ thẳng thắn chỉ trích chính sách đối với Phật Giáo của nhà cầm quyền cộng sản. Theo Tuệ Sỹ, “Sự xuất hiện sau năm 1982 của một tổ chức được mệnh danh là Giáo Hội, mà thực chất là một tổ chức chính trị nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam do cán bộ Cộng Sản lãnh đạo, cho thấy trước sau như một, đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng các biện pháp kinh điển xã hội chủ nghĩa được thi hành tại Liên Xô cũng như tại Trung Quốc và trong tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác.” Hậu quả là, “Một thứ Phật giáo theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn quái dị hơn một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhiều phê bình gia kinh tế nhận xét.” Thầy ví von một cách chua chát, “Sự gán ghép đạo pháp vào chủ nghĩa xã hội chẳng khác nào buộc con chó nhà và chó sói vào một sợi dây, để khi có sự biến, một con tìm cách chui xuống gầm giường, một con cố gắng phóng mình trở lại rừng. Hai con thú giằng co nhau bởi một sợi dây oan nghiệt.”
Nhận thức đó khiến Thầy luôn luôn giữ thái độ của một kẻ sĩ, “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”, ngay cả khi đứng trước mặt cán bộ nhà nước:
“Hôm trước ở bên Châu Lâm ông Ngọc có lên thăm và nói chuyện, tôi cũng có nói vấn đề này: Vấn đề Giáo hội nằm trong Mặt trận, tôi không chấp nhận. Còn vấn đề liên hiệp giữa hai giáo hội, Tôi nói lập trường của chúng tôi là không có vấn đề liên hiệp. GHPGVN là thành viên của MTTQ, đó là một tổ chức chính trị; chúng tôi không làm chính trị, không liên hiệp với bất cứ tổ chức chính trị nào. Rồi người ta có nói rằng trong qui chế, trong hiến pháp mình thì đảng lãnh đạo tất cả. Tôi nói tôi biết điểm đó. Tôi còn biết Lenin đã nói “đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng”. Lenin nói, cán bộ cộng sản nào mà đàn áp tôn giáo là phản động. Lenin không chấp nhận chuyện đàn áp tôn giáo; trong cộng sản không có chuyện đàn áp tôn giáo, đó là Lenin đã chỉ thị. “Đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng” có nghĩa là tôn giáo là một công cụ chính trị của đảng. Vì đảng không đủ khả năng tập họp, phải mượn tay tôn giáo tập họp giùm. Mà tôi không bao giờ để cho Phật giáo làm công cụ cho bất cứ đảng phái chính trị nào. Như Liên Xô, một đảng phái chính trị, 70 năm thì sụp. Cứ cho là đảng CSVN tồn tại 1000 năm nữa đi, tôi cũng không bao giờ đem 2500 năm lịch sử truyền thừa Phật giáo ra làm công cụ cho bất cứ đảng phái nào. Tôi còn nói: “Nếu mà lời nói này của tôi là tự đào hố chôn mình, tôi vẫn sẵn sàng tự chôn mình, chứ không thể chấp nhận chuyện đó. Còn nếu nói là luật pháp, đúng, tôi tôn trọng luật pháp, nhưng luật pháp mà xâm phạm lý tưởng của tôi, tôi không chấp nhận cái luật pháp đó, chứ đừng có dùng chữ luật pháp với tôi”. Đúng là ở trong đất nước nào thì phải tôn trọng luật pháp đó, nhưng nếu tự mình đặt ra luật pháp để dùng luật pháp đó xâm phạm tới giá trị, xâm phạm lý tuởng của người khác thì tôi không chấp nhận luật pháp đó, tôi sẵn sàng chịu chết. Tôi đã từng đứng trước bản án tử hình rồi, tôi không sợ, tôi chấp nhận nó. Đây không phải tôi thách thức, mà là vấn đề lý tưởng của mình…”[17]
3. Đánh giá về xã hội Việt Nam hiện nay dưới chế độ Cộng Sản qua bài “Trí thức phải nói!”, Thầy thừa nhận, Việt Nam có “những đổi thay từ trên thượng tầng, thấy được sự giầu sang của đất nước qua những tiện nghi vật chất từ các khách sạn năm sao dành cho cán bộ cao cấp và khách nước ngoài.” Nhưng thực ra, đàng sau cái xã hội tiêu thụ hào nhoáng ở sân trước là những “rác rưởi phế thải được dồn ra sân sau.” Thầy quả quyết, Việt Nam đang là “một đống rác khổng lồ”, là “kho chứa tất cả những gì xấu xa nhất của nhân loại văn minh.” (…) "Đất nước đã thấm bao nhiêu xương máu của bao nhiêu thế hệ ông cha và bè bạn để dồn lại thành những đống rác như thế, những đống rác càng ngày càng to phình lên một cách khủng khiếp."[18]
Nhìn lại hiện tình đất nước mấy chục năm qua và ngay cả hiện nay, quả là Thầy không hề quá lời!
4. Một luận điểm quan trọng khác, tương quan giữa văn học và Phật giáo, được Thầy soi sáng trong bài “Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo”.
Nghiên cứu tương quan giữa văn học và tôn giáo, Thầy nhận thấy có một sự nghịch chiều (mà Thầy gọi là “song quan luận”) giữa hai lãnh vực:
“Người ta sẽ không đòi hỏi tác giả phải có một phong cách độc đáo trong đường lối phô diễn; y khỏi phải nỗ lực vận dụng mọi khả năng sáng tạo đến mức tuyệt động, vốn là giá trị đặc sắc của một tác giả văn học - thuần túy. Như vậy, một khi nội dung của kinh nghiệm tôn giáo càng được nới rộng, thể tài văn học càng bị thu hẹp lại. Cho đến một lúc nào đó, lúc mà kinh nghiệm tôn giáo được mở rộng đến vô hạn và tận cùng trong tuyệt đối bất khả tri, người ta bị bắt buộc phải khước từ mọi phương tiện diễn đạt qua các thể tài văn học. Đây là một song quan luận của phương tiện (văn học) và cứu cánh (tôn giáo).” Vì thế, theo Thầy, nếu “khai triển phương tiện đến tận cùng thì cứu cánh sẽ vắng bặt. Ngược lại, nếu tiến đến chỗ tuyệt đối cứu cánh, phương tiện sẽ hết còn là phương tiện. Nói cách khác, hình như cứu cánh tôn giáo, với những chân lý thành kiến của nó, lúc nào cũng sẵn sàng phản bội mọi tính cách sáng tạo của văn học. Văn học không phải là phương tiện của bất cứ một chân lý cứu cánh nào, thành kiến hay không thành kiến, dù là chân lý về sự sống và cuộc đời; vấn đề sẽ mở sang một chiều hướng khác: đâu là phương tiện và đâu là cứu cánh của văn học?”[19]
Thầy đề nghị giải quyết vấn đề nêu trên bằng ba giải pháp sau:
1. Sơ khởi văn học Phật giáo không từ chối vai trò "truyền đạo" của nó. Tức là, chân lý của tôn giáo này, tùy trường hợp, được phô diễn tự do trong mọi thể tài văn học, và coi văn học chỉ như một phương tiện, thứ yếu, không quan trọng cho bằng nội dung.
2. Nhưng, chân lý ở đây mang tính cách nội tại và cá biệt nơi mỗi người, do đó, sự phô diễn của nó cũng bắt đầu như sự bắt đầu của một tác phẩm văn học, nghĩa là, khởi đi từ cảm hứng bộc phát trước một thế giới của kinh nghiệm tâm linh.
3. Trên khía cạnh tôn giáo, chân lý được chứng ngộ là phản ảnh của một thế giới sống động. Trên phương diện diễn đạt của văn học là cảm hứng tự phát của một tình tự cá biệt. Do đó, lấy tánh Không làm chất, lấy thế giới trùng trùng vô tận làm văn. Văn và chất phản chiếu lẫn nhau tạo thành thế giới toàn diện của văn học Phật giáo.[20]
Cách lý luận có tính cách hàn lâm của Thầy về hai lãnh vực văn học và tôn giáo, nói cho đơn giản một chút, thực ra, chính là vấn đề “đạo” và “đời”. Theo tôi, thực không dễ gì tìm ra một giải pháp dứt khoát cho vấn đề. Chọn giải pháp nào là tùy cá nhân và cũng “tùy duyên”. Riêng Thầy, nếu đọc lại thật kỹ các sáng tác thơ, văn của Thầy, thì rõ ràng là Thầy đã chọn thực hành, và thực hành một cách nghiêm túc và sống động, giải pháp thứ ba: “lấy tánh Không làm chất, lấy thế giới trùng trùng vô tận làm văn. Văn và chất phản chiếu lẫn nhau tạo thành thế giới toàn diện của văn học Phật giáo.”
Tuệ Sỹ, nhà nghiên cứu Phật Giáo
Thầy là một học giả đa tài, đa năng. Công trình của Thầy để lại nhiều, mênh mông và đa dạng. Thầy dành trọn cả cuộc đời để viết, hết tiểu luận đến biên khảo, hết biên khảo đến dịch thuật, về những vấn đề Phật giáo và kinh sách Phật Giáo: Nghiệp, Trung Quán, Tánh Không, Bồ Tát Hạnh, Kinh Hoa Nghiêm, Tạp A Hàm, Duy-Ma-Cật, Thiền, tìm hiểu về ngã, về tâm ý thức…Dù Thầy không theo học một trường học nào ở ngoài đời, nhưng với vốn liếng ngoại ngữ tự học, Thầy có thể tự mình đi sâu vào tư tưởng triết học của nhiều triết gia Tậy phương quan trọng, vừa của cả cổ truyền lẫn hiện đại, do đó, Thầy nắm rất vững những khái niệm triết học căn bản của họ như: tồn tại, hữu thể, hư vô, bản thể, thường nghiệm, siêu nghiệm…Hãy thử đọc một trích đoạn Thầy bàn về bản chất của tư tưởng viết theo lối văn hàn lâm thường tìm thấy trong các giáo trình triết học Tây phương ở đại học:
“Chúng ta không tư tưởng, không phải vì chúng ta không có cái tư tưởng để mà tư tưởng, nhưng vì cái đó lẩn tránh chúng ta. Bởi vì cái tư tưởng đích thực thì ẩn giấu, lẩn khuất, không biểu lộ; cái biểu lộ chỉ là tác dụng công dụng của nó. Chúng ta đặt lại vấn đề; và chủ đích được nhắm đến là hiệu quả của cung cách đặt lại vấn đề sẽ xảy ra như thế nào. Mọi cái xuất hiện cho ta chỉ có ý nghĩa ở cái công dụng của nó, nghĩa là chúng xuất hiện với tư cách là Dụng tính (Zuhandensein) chứ không như là Thể tính. Chúng ta tư tưởng, nói thế cũng có nghĩa là chúng ta cưu mang Dụng tính, nghĩa là cưu mang tính cách ích dụng mà một sự thể, một vật hay một người, có thể mang lại cho ta.”[21]
Về tư tưởng Phật giáo, ngoài thế mạnh của một người tu học, Thầy lại thông hiểu cả sinh ngữ (Anh, Pháp, Đức) lẫn cổ ngữ (Hán, Phạn, Pali), nên Thầy có thẩm quyền hơn bất cứ ai khác khi biên soạn, thảo luận, đối chiếu và đánh giá lại những vấn đề căn bản trong tư tưởng Phật Giáo. Mặt khác, do thấm nhuần phương pháp lý luận triết học của phương Tây và do tiếp cận và thấu hiểu tinh thần của những bản kinh văn cổ, điều mà các học giả Tây phương thiếu sót, nên cách trình bày tư tưởng Phật Giáo của Thầy trong các công trình biên khảo lúc nào cũng rõ ràng, sâu sắc và thuyết phục, không bị thiên kiến tư tưởng Đông hay Tây chi phối. Theo tu sĩ Thích Nguyên Siêu, “Thầy đã đơn đao đột kích phá tung nền triết học Tánh Không, khai quật và trình bày giá trị sâu thẳm tận cùng tư tưởng Trung Quán, phiên dịch giảng giải Trí Độ luận, để từ đó, hình ảnh chư Tổ Đức, luận sư nổi tiếng, vang danh oai đức như Tổ Long Thọ, người bấy giờ tôn xưng là Đệ nhị Thích Ca, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Mã Minh, Huyền Trang, La Thập, Tăng Duệ, Tăng Triệu... dường như quá gần gũi, quen thân với Thầy. Vì tất cả các tác phẩm trước tác, dịch thuật của chư Tổ, như là sách gối đầu giường của Thầy, còn Tam Tạng kinh điển, bộ Đại Tạng, chẳng bộ nào mà Thầy không giở đọc. Người viết đã học với Thầy, sau đó cùng Thầy làm việc dịch thuật Trung A Hàm, Kinh Pháp Cú, tuyển tập Nikàya A Hàm... qua những năm 75-77 tại Viện Cao đẳng Hải Đức Nha Trang và 80-84 tại Tu viện Quảng Hương Già Lam cũng là nơi thư viện Vạn Hạnh (Võ Di Nguy, Phú Nhuận) mới thấy được khả năng, trí nhớ trác tuyệt của Thầy. Kinh, luật, luận, Tam Tạng giáo điển, hầu như Thầy nằm lòng tự kiếp nào.”[22]
Riêng tôi, là một người thích nghiên cứu về phân tâm học, đặc biệt là vấn đề tâm thức và bản ngã, tôi hết sức thú vị khi đọc hai bài tham luận của Thầy, một là “Truy tìm bản ngã” và hai, “Tâm ý thức”.
Nếu trong phân tâm học Freud, cái “ngã” (the ego) là một thực thể tâm lý bị chi phối bởi cái “ấy” (Id) tức là bản năng và cái “siêu ngã” (super-ego) đóng vai trò kiểm soát, thì trong Phật Giáo, cái “ngã” là một ảo tưởng, nghĩa là không có thực, cần phải được phá bỏ (phá chấp) trên con đường giải thoát. Do đó, vô ngã là quan điểm cốt lõi của Phật Giáo. Nói thì đơn giản như thế, nhưng càng đi sâu vào tư tưởng vô ngã, người học Phật càng thấy rối rắm, phức tạp, không dễ gì nắm vững. Để hiểu vô ngã thì trước hết phải hiểu bản ngã.
Giải thích về sự hình thành của bản ngã, Thầy sử dụng một ví dụ rất cụ thể:
“Có một người mới mua về một con chó, đặt tên cho nó Lucky. Ban đầu, gọi Lucky, nó dửng dưng, vô cảm. Dần dần, nghe hai tiếng Lucky, nó mừng rỡ, ngoắt đuôi. Nó đã hiểu Lucky là cái gì, và như vậy nó cũng hiểu nó là cái gì. Nó hình thành một cái vỏ tự ngã mới qua một cái tên gọi mới. Trước khi có một tên gọi, nó vẫn tồn tại, và tự bảo vệ sự tồn tại ấy. Nó tìm thức ăn, tìm chỗ ngủ, và cắn bất cứ ai đến gần như muốn đe dọa, uy hiếp nó. Khi được đặt tên, toàn thể sự tồn tại ấy bây giờ tồn tại dưới một cái tên Lucky. Dù vậy, nếu có ai xúc phạm đến cái tên Lucky, nó không có phản ứng gì. Nhưng với một con người, khi cái tên gọi, một cái danh gì đó, mà bị xúc phạm, thì hãy coi chừng. Tất nhiên, con người cho đến một tuổi nào đó mới biết nó tên gì, cũng như con Lucky vậy. Rõ ràng cái danh mang nội hàm tự ngã ấy chỉ là hư danh, nhưng con người cũng như vậy đau khổ hay hạnh phúc bởi chính cái hư danh đó. Một ông thầy giáo có cái ngã là thầy giáo. Ai xúc phạm đến danh từ thầy giáo, chức nghiệp nhà giáo, người ấy phải bị khiển trách. Nó là ông vua, nhưng ban đêm lén ra ngoài thành chơi. Dân nào không biết mà đối xử vô lễ như với dân thường, hãy coi chừng. Tự ngã chỉ là cái danh, và đó là giả danh do nghề nghiệp, hay do chỗ ngồi, chỗ đứng giữa mọi người mà đạt thành. Cái giả danh chỉ mới hình thành trong một đời người thôi, mà đã khó quên, khó trừ như vậy; nếu là cái ngã được tích lũy trong nhiều đời, tất không dễ gì trừ bỏ. Cái ngã của ông xã trưởng chỉ to bằng cái xã của ông. Cái ngã của một quốc vương to bằng cái vương quốc của ông. Cái ngã của một nhà thông kim bác cổ thì dài bằng thời gian kim cổ, rộng bằng không gian đông tây. Cái ngã của một chúng sinh luân hồi trong tam giới, tất cũng lớn bằng cả tam giới. Cái ngã ấy không phải dễ nhận ra. Không nhận ra nó, để thấy nó là thật hay giả, thì cũng không thể tận cùng biên giới đau khổ.”[23]
Thay vì sử dụng các thuật ngữ triết học để biến những điều đơn giản và dễ hiểu thành những điều khó hiểu (như cách khoe chữ của một số nhà trí thức), trong trích đoạn trên, Thầy đã cố gắng biến những ý niệm khó hiểu thành những điều mà ai cũng có thể hiểu ngay, khiến cho nó dễ dàng đến với những người bình thường, không đòi hỏi một trình độ học vấn chuyên môn nào.
Nhưng khi bàn về “Tâm ý thức”, do tính cách tương đối phức tạp của nó, Thầy buộc phải sử dụng cách viết hàn lâm, nhưng vẫn cố gắng không biến thành những điều bí hiểm. Trong lúc ở chữ Hán, tâm đơn giản chỉ có nghĩa là trái tim, tấm lòng hay sự suy nghĩ, thì ở trong tiếng Phạn, tâm được hiểu một cách sâu xa hơn.
“Theo tiếng Phạn, tâm (citta) có nghĩa là tích tập. Định nghĩa này được thấy trong kinh Hoa Nghiêm, bản dịch chữ Hán của Bát-nhã (quyển 6): tích tập danh tâm 積集名 心. Nó do gốc động từ là CI (cinoti): tích chứa, tích lũy, tăng trưởng và cũng có nghĩa là quán sát, tri nhận, cảm nhận. Đây là định nghĩa đặc biệt trong thuật ngữ Phật giáo, đặc biệt là Đại thừa. Nghĩa thông thường của nó, được nói là do gốc động từ cit hay cint (cintayati): tư duy, suy tưởng. Tâm là cái tư duy. Nói tâm là cái tích tập: tích tập gì? Một cách tổng quát, đó là kinh nghiệm hay nhận thức được tích lũy. Vậy tâm là kinh nghiệm đời sống; tất cả những gì đã từng trải, bằng hành động và nhận thức, tích lũy lại thành tâm. Nếu diễn tả ra trong cuộc đời con người, từ khi bắt đầu biết suy nghĩ, biết hành động và có ghi nhớ, cho đến khi chết; tất cả những ghi nhớ trong óc não còn lại đó gọi là tâm.”[24]
(…) “Tóm lại, có mấy vấn đề, chúng ta đi từ từ: tâm là sự tích tập, tích lũy kinh nghiệm. Mà kinh nghiệm là hoạt động của nghiệp, nghiệp tạo ra thế gian, nhưng cái tâm thì chúng ta không thể hiểu được, không thể biết được, vì không thấy được mà phải nhìn qua những hiệu quả của nó, tức là những công dụng, tác dụng mà nó gây ra trên mọi thứ tồn tại trong đời. Tác dụng của nó là duy trì sự tồn tại, duy trì mối quan hệ của các sự vật, tồn tại của các pháp.”[25]
Để dễ hiểu hơn, Thầy ví von cái tâm trừu tượng đó với một vật cụ thể và hiện đại: máy vi tính.
“Con bò ráp nối dữ liệu tích lũy theo kiểu nó; con chuột ráp nối cảnh theo cách của nó, để nó nhìn và hiểu thực tại theo cái cách khác nhau của mỗi loài; mặc dù mắt tai mũi lưỡi giống nhau nhưng sự ráp nối khác nhau. Ta hãy lấy thí dụ về máy vi tính. Các dữ liệu được nhập thông qua bàn phím và con chuột [mouse]là sáu thức. Chúng được lưu trữ như là các chủng tử được tích chứa trong kho chứa thức thứ tám (thức a-lại-da). Tại đó, chúng được đưa vào trung tâm xử lý để chờ xuất. Trung tâm xử lý dữ liệu đó là thức thứ bảy.”[26]
(… ) Tự bản chất, chúng là những dạng xung điện có và không, 1 và 0, nhưng do kết cấu của hệ thống vi mạch để nhận xung điện; rồi tùy theo lập trình mà chúng được đưa vào bộ vi xử lý để xử lý, cho ra kết quả với nhiều hình thái khác nhau trên màn hình: núi, sông, nhân vật; khóc, cười, yêu, ghét… đủ mọi cảnh đời. Tất cả đều là do sự ghép nối. Thuật ngữ Phật học gọi sự ghép nối ấy là phân biệt. Đôi khi nói thêm là phân biệt vọng tưởng. Phân biệt, nghĩa là cấu trúc lại thực tại.”[27]
Dẫn lại vài trích đoạn trên, tôi không cố ý muốn làm rối trí thêm độc giả về một vấn đề hết sức khúc mắc và tinh tế của Phật Giáo, đòi hỏi phải học hỏi và nghiền ngẫm lâu dài. Tôi chỉ muốn mọi người thấy rõ phương cách làm việc và tấm lòng cao cả của Thầy: tìm cách chuyển tải những vấn đề căn bản của Phật giáo đến đại chúng thuộc mọi trình độ khác nhau bằng cách sử dụng một văn phong và lập luận rõ ràng, cụ thể.
*
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một tu sĩ Phật Giáo, nhưng những gì Thầy để lại cho hậu thế không chỉ là để truyền bá đạo Phật và dành cho những người Phật tử, mà là một sự nghiệp văn hóa đa dạng, liên quan mật thiết đến cuộc nhân sinh, đến tư tưởng, đến nghệ thuật và những vấn đề nóng bỏng khác của dân tộc trong quá khứ cũng như trong thời hiện đại. Hòa Thượng xứng đáng được vinh danh là một trong những khuôn mặt văn hóa tiêu biểu của Việt Nam.
Nguyện cầu Thầy thân tâm thường an lạc!
Trần Hữu Thục
Dallas, 9/2023
Ghi chú:
Nguồn: "KỶ YẾU TRI ÂN HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ" (sẽ phát hành trong thời gian tới)
_________________
Chú thích:
Hầu hết những tài liệu trích dẫn trong bài viết đều được lấy từ nguồn “TUỆ SỸ - NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG” tập 1, tập 2 và tập 3 do Nguyễn Hiền Đức (Santa Ana, California, Hoa Kỳ) thực hiện (2016).
Tập 1: https://thuvienhoasen.org/.../tue-sy-nhung-phuong-troi...
Tập 2: https://thuvienhoasen.org/.../tue-sy-nhung-phuong-troi...
Tập 3: https://thuvienhoasen.org/.../tue-sy-nhung-phuong-troi...
- Những bài viết nào của Tuệ Sỹ, các ghi chú liên hệ kèm theo chỉ ghi tên bài viết và số trang cùng số tập, mà không ghi tên tác giả.
- Nếu trích dẫn từ bài của một tác giả khác, các ghi chú ghi tên tác giả đó, cùng với số trang và số tập.
- Nếu bài viết lấy từ trang mạng khác, các ghi chú sẽ ghi rõ tên và đường nối dẫn đến địa chỉ trang mạng đó.
[1] Trần Doãn Nho, “Thầy, trong trí tưởng”,
Trích từ “Căn phòng thao thức” (Tập truyện), Văn Mới, California, 1997
[2] TDN, bđd
[3] TDN, bđd
[4] Tô Đông Pha, những phương trời viễn mộng, tr. 235, tập 3
[5] Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo, tr. 97, tập 2
[6] Nguyễn Mộng Giác, Đọc lại thơ Tuệ Sỹ, tr. 73, tập 1
[7] Thiên Lý Độc Hành, tr. 357, tập 1
[8] Đặng Tiến, Âm trầm Tuệ Sỹ, tr. 46, tập 3
[9] Tĩnh thất, xem ở Thi Viện:
https://www.thivien.net/.../poem-mhbvNRVASQxwBEWwdO7jAA
[10] Tô Đông Pha, những phương trời viễn mộng, tập 3, tr. 278
[11] Piano Sonata 14, tr. 238, Sư Thiện Chiếu, tr. 247, Gốc tùng, tr. 251, tập 1
[12] Piano Sonata 14, tr. 244, 245
[13] Piano Sonata 14, tr. 246
[14] Thư gửi các tăng sinh Thừa Thiên - Huế, tr. 88, tập 2.
[15] Đạo Phật với thanh niên, các tr 126-133, tập 2.
[16] Văn minh tiểu phẩm, trang nhà Phật Việt. Xem:
https://thuvienphatviet.com/thich-tue-sy-van-minh-tieu-pham/
[17] Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ kể lại một vài chi tiết về giai đoạn thành lập GHPGVN và Hòa ThượngThích Trí Thủ.
Tr. Xem:
Trang nhà “Thư viện Hoa Sen”:
https://thuvienhoasen.org/.../thuong-toa-thich-tue-sy-ke...
[18] Trí thức phải nói, tr. 90-94, tập 2.
[19] Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo, tr. 96, tập 2
[20] Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo, tr. 98, tập 2
[21] Tư tưởng là gì?, tr. 136, tập 1
[22] Thích Nguyên Siêu, Hòa thượng Tuệ Sỹ, Trí Siêu, những thiên tài lỗi lạc, tr. 27, 28, tập 1.
[23] Truy tìm tự ngã, tr. 178, tập 1
[24] Tâm ý thức, tr. 327, 328 tập 1
[25] Tâm ý thức, tr. 330, tập 1
[26] Tâm ý thức, tr. 331, tập 1
[27] Tâm ý thức, tr. 333, tập 1

NGUỒN: Văn Việt
















Tham khảo thêm về tác giả Trần Doãn Nho









bài đã đăng của trần hữu thục/trần doãn nho trên Da Màu
http://damau.org/archives/author/tranhuuthuc




tĩnh vật
08.07.2011

đổi
03.02.2011

viết/chữ

13.05.2010

quen

06.05.2010
23.11.2009

cháu & bay
24.10.2008

một đêm
09.12.2006

bush / kéo
09.12.2006

laptop / cụ
02.10.2006












Trần Doãn Nho tại Studio PN , 2015







Nguyễn Mộng Giác & Trần Doãn Nho







Trần Doãn Nho, Phan Huy Đường, Mai Ninh











Tạ Chí Đại Trường, Bùi Vĩnh Phúc, Trần Doãn Nho, Phùng Nguyễn









Triều Hoa Đại, Trần Doãn Nho, Nguyễn Đình Toàn, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Trọng Khôi





Trương Hồng Quang, Lê Minh Hà, Trần Doãn Nho, Phạm Thị Hoài






Nguyễn Ngọc Phong, Nguyễn Xuân Thiệp, Nguyễn Trọng Khôi, Chân Phương, ..., Đinh Cường, Trần Doãn Nho 






Bùi Thạch Trường Sơn, Nguyễn Trọng Khôi, Chân Phương, Phan Huy Đường, Nam Dao, Trần Doãn Nho







Trần Doãn Nho, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Hoàng Nam, Me Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Đức Tùng, Phạm Xuân Đài, Phùng Nguyễn















Trần Doãn Nho, Trần Thiện Đạo, Trần Vũ & Thụy Khuê 











Phan Nguyên & Trần Doãn Nho Sài gòn 2015












Trở về 




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.