Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2019

Lê Lựu (1942 - 2022)












Lê Lựu
(12/12/1942 - 9/11/2022)
hưởng thọ 81 tuổi

Nhà văn











TÁC GIẢ " THỜI XA VẮNG " ĐÃ RA ĐI
Nguyễn Quang Thiều

9/11/2022

Chiều nay, nhà thơ Trần Đăng Khoa gọi điện thông báo cho tôi nhà văn Lê Lựu đã trút hơi thở cuối cùng tại quê nhà: huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Sau nhiều năm chống chọi với bệnh tật, hưởng thọ 81 tuổi.

Nhà văn Lê Lựu là tác giả của những tác phẩm làm rung động đời sống văn học Việt Nam như: Mở rừng, Đại tá không biết đùa, Sóng ở đáy sông, Chuyện làng Cuội, Một thời lầm lạc, Thời xa vắng...
Tiểu thuyết "Thời xa vắng " là một tác phẩm lớn với thông điệp : Con người chỉ là người đúng nghĩa khi họ được sống là chính họ chứ không phải sống bằng những cái (hay) những giá trị của người khác.
Với Thời xa vắng, Lê Lựu đã thay đổi đời sống văn học Việt Nam trong những năm 80 của thế kỷ trước. Tư tưởng của Thời xa vắng đã bẻ một bước ngoặt của văn học Việt Nam kể từ 1954.
Lê Lựu là nhà văn Việt Nam đầu tiên đến Mỹ sau chiến tranh. Ông chính là sứ giả hoà bình Việt Nam đầu tiên, người phá băng đầu tiên trong quan hệ Việt - Mỹ để cùng các nhà văn cựu binh Việt Nam và Mỹ kêu gọi Chính phủ Mỹ phá bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
Lê Lựu đã sáng tạo ra những nhân vật còn sống mãi với người đọc Việt Nam như Giang Minh Sài. Và Lê Lựu cũng là một nhân vật đặc biệt của nền văn học Việt Nam.
Xin cúi đầu tiễn biệt ông




Lê Lựu sinh ngày 12/12/1942 tại xã Tân Châu, huyện Khoái Châu - Hưng Yên, thành viên của Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1974, chuyên về tiểu thuyết và truyện ngắn, tiêu biểu là Thời xa vắng đã được đạo diễn Hồ Quang Minh của Hãng phim Giải Phóng dựng thành phim truyện nhựa và ra mắt công chúng năm 2004. 









Tác phẩm đã xuất bản



1
Người cầm súng
(tập truyện ngắn, 1970)



2
Phía mặt trời
(tập truyện ngắn, 1972)



3
Đánh trận núi con Chuột
(truyện dài, 1976)



4

(tiểu thuyết, 1976)



5
Ranh giới
(tiểu thuyết, 1977)



6
Campuchia một câu hỏi lớn
(tập truyện ngắn, 1979)



7
Phía sau anh
(tiểu thuyết, 1980)



8
Đồng bằng chiến sĩ
(truyện ký, 1980)



9
(tiểu thuyết, 1986)



10
Mặt trận của người lính
(tập truyện ngắn, 1986)



11
Một thời lầm lũi
(tập bút ký, 1988)



12
Trở lại nước Mỹ
(tập bút ký, 1989)



13
Đại tá không biết đùa
(tiểu thuyết, 1990)



14
(tiểu thuyết, 1991)



15
(tiểu thuyết, 1994)



16
Hai nhà
(tiểu thuyết, 2000)



17
Truyện ngắn Lê Lựu
(2003)




18
Thời loạn




19
Ở quê ngày ấy




20
Gã dở hơi









Giải thưởng

Truyện ngắn Người cầm súng, giải nhì báo Văn nghệ 1968
Tiểu thuyết Thời xa vắng, giải A Hội nhà văn Việt Nam 1990














Nhà văn Lê Lựu: Xa vắng một đời người


TT - Nhìn ông, tôi bỗng ân hận khôn nguôi. Hóa ra lâu nay mình sống quá vô tình đối với ông.

Nơi ở hiện tại của nhà văn Lê Lựu ở Trung tâm văn hóa doanh nhân, số 319 đường Tam Trinh (Hà Nội), chỉ cách nhà tôi chừng 200 số nhà. Vậy mà đã lâu tôi không gặp ông...

Kịch bản đích thực về Thời xa vắng

Đời văn của tôi nếu không có những nhà văn như Lê Lựu hẳn đã chẳng được hanh thông và nhiều khả năng tôi đã rẽ ngả khác lập nghiệp. Năm 1989 truyện ngắn Chạy trốn của tôi dự thi ở tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Lúc đưa lên chung khảo Chạy trốn bị loại. Lê Lựu là thành viên ban chung khảo. Ông phản đối quyết định này. Những nhận xét quyết đoán của Lê Lựu đã thay đổi số phận Chạy trốn. Nó được các thành viên khác đọc lại và chấp nhận đưa vào khung với giải nhì. Khỏi nói tôi hạnh phúc biết chừng nào khi đứa con đầu đời được khích lệ. Lúc đó tôi mới chỉ là người viết trẻ đang tập tễnh đi những bước đầu tiên. Tôi đã quyết định dấn thân vào nghề văn sau truyện ngắn này. Cũng phải một thời gian sau đó tôi mới có dịp vinh hạnh được gặp làm quen ông. Lê Lựu tỏ ra mừng rỡ một cách dễ gần và ông cực kỳ hóm hỉnh. À thì ra cu Tiến chủ lợn đây à. Con lợn lai giống của em nhảy hay lắm. Chả là nhân vật của tôi trong Chạy trốn có một con lợn đực theo chủ đi lai tạo giống nòi ở thành phố. Ông nheo mắt rồi cười rất sảng khoái.

Nhiều năm sau không dám gọi là thân thiết nhưng khi nào có dịp gần gụi, tôi luôn coi Lê Lựu như một người anh, người thầy đúng nghĩa. Chẳng riêng cái ơn “vớt” truyện ngắn giải thưởng mà thật sự tôi kính trọng văn tài của ông. Tôi đã say mê đọc gần như toàn bộ các tác phẩm của Lê Lựu và học hỏi được rất nhiều. Từ truyện ngắn Người cầm súng (1970) đến tiểu thuyết Mở rừng (1976) là những tác phẩm có thể coi là kinh điển của dòng văn học thời kỳ chiến tranh. Nhưng thật sự khẳng định vị trí vững chắc của Lê Lựu trên văn đàn phải là bộ ba tiểu thuyết Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông(1994) và nhất là Thời xa vắng (1986) - một cuốn phim đời mang dấu ấn đau thương của thời đại.

Gần Lê Lựu mới phát hiện tất cả những gì trong cuốn tiểu thuyết đó mà đậm nhất là nhân vật chính Giang Minh Sài đã ứng nghiệm vào cuộc đời của ông một cách vô cùng kinh ngạc và đau đớn bội phần. Thời xa vắng đã được chuyển thể thành kịch bản phim nhựa đưa lên màn ảnh. Hiện tại có nhà làm phim đang thúc giục tôi mua bản quyền để chuyển thể tiểu thuyết này thành phim truyền hình dài tập. Nhưng cuộc đời thật của Lê Lựu còn sinh động, còn đau khổ gấp nhiều lần nhân vật Giang Minh Sài của ông. Nếu được phép ghép cuộc đời nhà văn và nguyên mẫu tiểu thuyết, tôi tin đó mới là một kịch bản đích thực về Thời xa vắng. Chẳng dám mơ đến điều đó, bởi vậy tôi vẫn dùng dằng suy tính...

Nỗi đau cuối đời

Ngôi nhà cũ của Lê Lựu ở số 8 Lý Nam Đế tôi mới chỉ đến đó chơi vài lần. Ông ít tiếp khách ở nhà. Một ngôi nhà mà những người thân thiết của Lê Lựu đều biết bản thân ông cũng chỉ là “khách”. Hai đời vợ, ba người con nhưng cuối đời ông phải tự mình xoay xở để lo thân dù cơ thể mang nhiều trọng bệnh và bản thân không cửa không nhà phải tá túc ở trụ sở cơ quan. Thật khó có thể ngờ một văn tài như Lê Lựu lại đang trong tình cảnh bi đát như vậy. Những lần hiếm hoi ông mời tôi đến nhà, lần nào ông cũng có việc để nhờ. Khi thì chú gọi thợ điện đến kiểm tra hộ anh sao cái côngtơ nó quay tốn tiền thế. Dứt khoát là cái thằng côngtơ này nó ăn gian, nó mõi tiền của anh. Chả là lúc đó tôi đang công tác bên ngành điện lực. Đại loại những chuyện vặt vãnh đó ít người ở tầm cỡ như Lê Lựu lại đi nhờ vả. Nhưng ông là vậy. Chân tình chứ không phải lạm dụng quan hệ. Tôi quý trọng ông một phần cũng ở cái sự chân thật rất nông dân này.

Tôi đến lúc nhà văn Lê Lựu đang nằm còng queo trên giường xem tivi trong căn nhà ông đang tá túc. Bộ dạng của ông trong chiếc áo sơmi và chiếc quần đùi nom thật thảm. May mà khuôn mặt tương phản với toàn bộ cơ thể ốm yếu, còn đầy đặn và hồng hào. Vừa nhác thấy tôi đến, nhà văn Lê Lựu đã thốt ra rất tình cảm, Tiến đấy hả em. Rồi ông bảo với cô cháu nhân viên Trung tâm văn hóa doanh nhân. Đây này, chú Tiến đấy. Chú Tiến nhà văn gốc điện có cái truyện con lợn đực đi nhảy lai giống nuôi chủ, tao vẫn nhắc đấy. Đã mấy chục năm ông vẫn nhớ chi tiết ấy. Không kìm nén được, tôi bật khóc ôm lấy ông. Tôi là người khóc trước Lê Lựu dù bây giờ ông mắc bệnh cứ gặp ai là lại mếu máo sụt sùi.

Bi kịch gia đình ông, nhiều người đã biết. Lần này, ông kể rất lâu về tình cảnh hiện tại của mình. Còn đưa ra cả bản sao trích lục của tòa án vụ ly hôn hơn bốn chục năm trước. Tôi giật mình về những tiết lộ của ông. Sao lại khốn khổ đến mức đó cơ chứ. Mảnh đất hương hỏa của dòng tộc thuộc về ông nhưng giờ lại mang tên trong sổ đỏ người vợ cũ dù bản án đã tuyên minh bạch mọi điều và những người trong cuộc đã giải quyết dứt điểm mọi tồn đọng. Thêm nữa, người vợ thứ hai sau khi bán ngôi nhà số 8 Lý Nam Đế có chia một phần tiền cho ông và đưa ra tờ đơn ly hôn. Ông đã ký nhưng lại không cầm một bản nào. Đến giờ sau bốn năm, người vợ trên danh nghĩa giấy tờ ấy biệt tăm ông không biết đang ở đâu dù ông đã hết sức kiếm tìm. Nhà văn ước muốn trước khi nhắm mắt, miếng đất ở quê lại được mang tên ông để ông ủy quyền cho cháu họ và con gái thay nhau hương khói tiên tổ. Và nữa Lê Lựu muốn dứt điểm ly hôn người vợ thứ hai đã cạn nghĩa cạn tình. Để làm gì? Để không vướng mắc khi ông chết, mọi tài sản còn lại của ông sẽ vẹn nguyên dành cho Quỹ nhà văn Lê Lựu, để tránh được một cuộc chia chác tài sản đau đớn lần thứ hai.

Chao ôi, đắng đót làm sao. Nhìn ông lần từng bước vịn vào tường cố đi ra tiễn khách, tôi phải vận sức nuốt ngược nước mắt vào trong. Tôi đưa ông vài tờ bạc làm quà nhưng Lê Lựu gạt đi. Cảm ơn em, tiền quý nhưng anh không cần. Anh cần Tiến giúp, cần mọi người giúp cho tâm nguyện cuối cùng của anh được thỏa ước.

Tôi đi thật nhanh tránh cơn xúc động cứ trào lên trào mãi. Em tin còn có sự công bằng anh Lựu ạ. Mọi người rồi sẽ cùng nhau giúp anh...


Lê Lựu và những cái nhất

Cái nhất đầu tiên là tiểu thuyết Thời xa vắng. Công cuộc đổi mới đất nước vừa được mở ra thì ngay lập tức văn học đã ghi được dấu ấn bất ngờ bằng tác phẩm này của Lê Lựu. Ông viết từ mình, rút ruột mình ra mà kể chuyện mình, chuyện một người nhưng là chuyện của nhiều người, chuyện của một thế hệ, chuyện của một thời. Cái thời đó tác giả gọi là “thời xa vắng” nhưng thật ra vẫn chưa qua. Đó là cái thời nhân vật Giang Minh Sài sống không phải là mình, nửa đời trước sống cho cái mình không có, nửa đời sau sống chạy theo cái không phải của mình. Nhân vật văn chương này đã được nhớ tên, được coi như một định ngữ chỉ một kiểu người, một kiểu sống, điều này rất ít có trong văn chương nhiều năm trước đó vốn chỉ có hình tượng nhân vật tập thể mà không thể gọi tên một nhân vật cụ thể nào. Thời xa vắng đã được đón đọc nồng nhiệt, ai đọc cũng thấy mình trong đó, và được giới phê bình coi là tác phẩm mở đầu cho một xu hướng của văn học đổi mới - xu hướng nhận thức lại thực tại.

Cái nhất thứ hai là chuyến đi Mỹ đầu tiên của một nhà văn cựu chiến binh Việt Nam (1988). Hồi đó đi nước ngoài là cả một chuyện khó khăn về thủ tục, chưa nói đến hành trình, còn đi Mỹ thì càng ngặt nghèo. Nhà văn gốc nông dân gốc lính Lê Lựu đã phải nằm ở Bangkok ba tuần chờ thủ tục visa, đã một thân một mình tìm đường ở các sân bay với vốn liếng tiếng Anh chỉ là hai từ “help me” được mách từ ở nhà. Vậy mà ông đã đến được nước Mỹ tiếp xúc với các nhà văn cựu chiến binh Mỹ từng là kẻ thù trước đây, gặp gỡ độc giả, nói chuyện tuần hai - ba ca, giúp cho những người Mỹ được gặp ông từ còn là hằn thù, nghi kỵ dần cởi bỏ được những vướng mắc, tiến tới chỗ bắt đầu hiểu nhau. Chuyến đi Mỹ đó của Lê Lựu nói chữ thì là làm “ngoại giao nhân dân”, còn nói theo cách ví von của nhà văn thì hai nước như hai nhà có xung đột, đánh nhau, nay muốn tìm cơ hội làm lành thì trước hẵng cứ xua con chó, con mèo chạy qua bờ rào hai bên xem thế nào đã.

Cái nhất thứ ba là Trung tâm văn hóa doanh nhân. Đất nước mở cửa, hội nhập, chấp nhận nền kinh tế thị trường, tầng lớp doanh nhân được cơ hội phát triển, làm giàu cho bản thân và cho xã hội. Nhưng kinh tế không thể tách rời văn hóa, làm giàu mà chỉ biết có tiền thì chỉ là anh trọc phú. Lê Lựu đứng ra thành lập trung tâm với tên gọi “văn hóa doanh nhân” quả là nhạy bén, đúng lúc. Ông giám đốc Trung tâm văn hóa doanh nhân Lê Lựu vốn không quen nghề buôn bán đã phải vất vả, tất tả duy trì sự tồn tại của nó cho đến nay. Có ông thì trung tâm vẫn tồn tại.

Cái nhất thứ tư nhưng là cái nhất xuyên suốt là chất nông dân với tất cả mọi sắc thái ý nghĩa của từ này. Lê Lựu nhìn đã biết là người của nông thôn, làng quê từ dáng vẻ thân hình, lời ăn tiếng nói, cho đến quần áo trang phục, cách nghĩ cách cảm. Một chất quê vừa là đặc sản vừa là đặc trưng. Và ngẫm ra, suốt đời văn của mình, Lê Lựu chỉ viết về người nhà quê trong người mình và những người quanh mình, dù cho họ có sống ở thị thành bao năm đi nữa. Có lẽ vinh quang, thành công và cả cay đắng của Lê Lựu trong đời và văn cũng là từ đấy.


























Nhà văn Lê Lựu: Ngày 3 lưng cơm, 7 cữ thuốc


Tác giả ‘Thời xa vắng’, ‘Sóng ở đáy sông’ đang sống những tháng ngày mà bữa thuốc nhiều hơn bữa cơm, chuyện buồn quá khứ nhiều hơn hy vọng.


Một ngày của Lê Lựu bắt đầu từ 5 - 6 giờ sáng. Bệnh tình khiến ông không ngủ được nên thức dậy sớm, rồi nhờ anh em, nhân viên trong cơ quan dìu dắt đi lại ngoài phố cho cứng chân. Khoảng 8 rưỡi sáng, ông đã hoàn thành bài tập đi và đã ăn sáng xong. Nhà văn nằm trên giường, có một bác sĩ quen đang chữa trị, nắn bóp chân tay cho ông. Lê Lựu bảo, mỗi ngày phải có người xoa bóp một tiếng, “không thì hai cái chân nó dính lấy nhau, không đi được”. Rồi ông kể: “Tôi bị tai biến mạch máu não, lần này là lần thứ năm, rồi bệnh tiểu đường, bệnh tim, bệnh gout, phổi, tụy, thận, tiền liệt tuyến… Tất cả là 14 bệnh”. Nhà văn cho biết, từ khoảng 2006, ông trở thành bệnh nhân thường xuyên của Viện quân y 108. Trong cái túi để ở đầu giường, đủ các thứ thuốc cho não, tim, thận... Mỗi ngày ông uống sáu, bảy đợt thuốc - sáng, chiều, tối - mỗi đợt lại uống hai loại cho các thứ bệnh khác nhau. Lê Lựu chữa Tây y, Đông y, Nam y, “có bệnh thì vái tứ phương, nghe ai mách gì thì tôi chữa nấy”.

Bữa thuốc, vì vậy, nhiều hơn bữa cơm trong cuộc sống thường nhật hiện tại của nhà văn. Mỗi ngày ông ăn ba bữa đều đặn để uống thuốc. Mỗi bữa được một lưng cơm. Đến thăm Lê Lựu trong những tháng ngày bệnh tật sẽ thấy hết sự đơn giản của một nhà văn nông dân. Bữa trưa của người bệnh có một tô canh rau dền, rau sống chấm nước sốt cà chua, bát cá kho và một bát cơm xới lưng. Ông lập cập ăn canh trước tiên, rồi đến rau sống, ăn hết từng thứ một rồi xếp bát không sang bên cạnh. Cơm và cá ông ăn sau cùng. Lê Lựu chan cơm với chút nước nước sốt còn lại chứ chưa vội ăn thức mặn. Mà để ăn hết lưng cơm, ông cũng chỉ xắn một chút trong bát cá kho.

Bữa cơm, không phải cao sang, cũng không quá đạm bạc mà vừa chất. Lê Lựu cho biết, ông ăn theo chỉ dẫn của bác sĩ, ngon dở tùy vào tay của nhân viên bếp. Nhưng cái lối ăn dành ăn dè, rau cỏ trước còn miếng ngon thì phần về cuối, như Lê Lưu nói, là thói quen kiểu người nông dân không bỏ được của ông. Xong bữa, Lê Lựu bảo: “Tôi quê mùa dốt nát, cung cách nông dân quen rồi, trời cho thế nào thì sống thế ấy, không thể che giấu được. Bây giờ có lấy cuốc cuốc mặt tôi ra, đắp đất màu lên thì tôi cũng không ra cái con người sang trọng được”.

Nói thì vậy, nhưng khi chuẩn bị chụp ảnh, ông bảo: "Để vuốt lại cái tóc kẻo bù xù quá”. Khi một nhân viên định lấy chiếc áo mới cho ông thay, nhà văn khoát tay: "Áo mới mặc xấu lắm". Ông chọn một chiếc áo cũ mà ông cho là đẹp hơn và cảm thấy tự tin hơn.

Chạy chữa khắp nơi, thuốc thang tốn kém nhưng Lê Lựu nói, ông chưa đến nỗi phải nệ chuyện kinh tế, ông chữa bệnh ở viện thì có bảo hiểm, tiền chữa trị tư khoảng vài triệu một tháng thì có lương hưu và bạn bè anh em hỗ trợ. Gian phòng của ông nằm ngay trong trụ sở của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân ở cuối con ngõ 319 Tam Trinh, Hà Nội, chỗ ở cũng là nơi làm việc.

Sống quen với bệnh tật, Lê Lựu không ỷ lại hay chờ ai giúp. Lúc cần đi vệ sinh, ông loạng choạng tự đứng lên rồi bám lấy những thanh sắt được thiết kế riêng trong phòng mình. Những lúc không có người dắt đi bộ bên ngoài, Lê Lựu cũng tự tập đi với hệ thống thanh bám đó. Ông bảo, chẳng ai phải dành thời gian cho mình. “Đang ngồi cần đứng lên, tiện có ai thì người đó dắt, các cháu ăn cơm thì bảo nấu hộ cho tôi cùng ăn. Nhân viên hai chục người, đi ra đi vào, ai cũng có thể giúp”.


Nhà văn Lê Lựu bám tường tập đi.


Đi lại khó khăn nhưng đầu óc Lê Lựu vẫn còn tỉnh táo, minh mẫn. Ông vẫn chủ trì những cuộc họp của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân, nơi ông thành lập và làm giám đốc từ năm 2002. Trong buổi họp, ông vẫn chăm chú nghe báo cáo, đánh giá rồi đưa ra định hướng bằng giọng khàn đặc trưng và đã có phần hơi ngọng vì bệnh tật.

Nhà văn vẫn làm việc nhưng thời gian này ông không viết văn. Lê Lựu khoe, từ năm 2010 đến nay, ông xuất bản 3 cuốn sách - "Thời loạn", "Ở quê ngày ấy" và "Gã dở hơi". Vừa qua đợt tai biến nên ông không viết sách, chỉ thi thoảng ngồi dậy cầm bút ghi chép một đôi điều. Hỏi ông định viết gì trong thời gian tới, nhà văn trả lời, nếu có viết, ông sẽ viết về bà vợ cũ.

Lê Lựu có hai người vợ - đều đã 'cũ' và đều để lại trong ông những nỗi oán giận đến bây giờ. Người vợ đầu ly hôn từ 40 năm trước. Người vợ sau ly thân nhiều năm nay và đang trong quá trình giải quyết ly hôn. Lần này, “vợ cũ” ông nói là bà vợ trước - người được gia đình sắp đặt cho Lê Lựu ở quê nhà Hưng Yên. Theo lời kể của nhà văn, ly hôn từ hơn 40 năm trước, rồi ông lên Hà Nội, người vợ ở quê đã âm thầm làm thủ tục đứng tên sổ đỏ ngôi nhà hương hỏa của ông, để đến giờ, ông muốn một chốn đi về thắp hương cho tổ tiên cũng khó. Trước nay, khi kể về người vợ này, Lê Lựu cứ ví với cô Tuyết - người vợ đầu của anh cu Sài trong tác phẩm "Thời xa vắng" nổi tiếng ông viết năm 1986. Người phụ nữ quê mùa, thô vụng, Giang Minh Sài không yêu nhưng cứ phải nhắm mắt sống chung vì sợ dư luận, sợ ảnh hưởng đến gia đình, đến thi đua cán bộ gương mẫu, để rồi kết quả là không bao giờ có được hạnh phúc, lận đận mãi mới có thể chia tay. “Cô Tuyết” thực của Lê Lựu, cũng bước ra khỏi cuộc đời ông, nhưng có lẽ để lại nhiều đau đớn hơn.

Không kể bệnh trên thân thể hay những lần tai biến, đây là cú giáng tinh thần mới nhất vào cuộc đời nhà văn nông dân. Cũng chính Lê Lựu, hai năm trước, từng ôm mặt khóc rưng rức, kể chuyện bị người vợ sau và con cái phụ tình. Họ sẵn sàng ký vào đơn từ bỏ ông, chỉ để có quyền bán ngôi nhà chung 50 m2 Lý Nam Đế mà ông xem như là kỷ niệm, Lê Lựu kể.

“Người như tôi, không đến nỗi hèn, mà suốt đời cứ bị vợ con chèn ép”. Những điều đó cứ thắc thỏm trở đi trở lại trong câu chuyện của nhà văn Lê Lựu, dù dường như ông không có ý định giải thích đến tận ngọn ngành vì sao mình bị đối xử như vậy. Hai chữ vợ con được ông nhắc đến với đầy nỗi đớn đau, chua chát. Ngoài 70 tuổi, 14 thứ bệnh trên người, hai đời vợ, ba người con, nhưng giờ đây, trong căn phòng nhỏ, một mình ông, chỉ tuổi tác và bệnh tật là còn đeo bám. Ruột thịt quay lưng ngoảnh mặt. Cuối cùng ông đành nhờ những người không phải là máu mủ.


Tác giả "Thời xa vắng" bên chiếc bàn viết lách trong phòng nhỏ của mình.


Lê Lựu là cha đẻ của nhiều nhân vật luôn đau khổ, bất hạnh trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc cá nhân. “Thằng Núi trong Sóng ở đáy sôngcũng đi tìm được chỗ đứng của nó, đến thằng Sài trong Thời xa vắng nó khốn khổ như thế mà cũng chưa khổ bằng tôi. Tôi đúng là bố của chúng nó về nhục nhã, mất mát”.

Tự đánh giá về cuộc đời mình, ông nói: “Tôi chỉ là cái gã hạng xoàng, xuất thân từ một anh chân đất mắt toét, đánh dặm mò cua bắt ốc, giờ trở thành nhà văn, cán bộ cao cấp trong quân đội, đó là thứ trời cho, may mắn lắm rồi”. Lê Lựu còn tự hào khi trong đời viết văn của mình, ông từng là nhà văn đầu tiên của Việt Nam được mời sang Mỹ thời kỳ hậu chiến để “bắc nhịp cầu văn hóa”, vậy công danh cũng chẳng phải chuyện khiến ông đau đáu đến cuối đời. Rốt cuộc, ông mong mỏi điều gì? - “Tôi chỉ mong được về mảnh đất tổ tiên, ăn rau cỏ ở mảnh đất của tôi, trồng rau cuốc đất, sống như người nông dân”. Vốn dĩ, con người ta, đi mải miết, trải bao sóng gió rồi cũng muốn quay về quê hương, nguồn cội. Lê Lựu đến cuối đời vẫn đang đấu tranh cho sự trở về của mình. 


Hoàng Anh
Ảnh: Hoàng Hà


















Trở về 




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.