Nguyễn Đình Đăng
(sinh 1958)
Nguyễn Đình Đăng (sinh 1958) là một nhà vật lý, nhà nghiên cứu về lý thuyết vật lý hạt nhân tại Viện Vật lý hóa học Nhật Bản (tức Viện RIKEN).[1] Ông còn là một họa sĩ, hội viên của Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Mỹ thuật Chủ thể Nhật Bản (năm 2005, là người nước ngoài đầu tiên được công nhận là hội viên chính thức trong lịch sử 41 năm từ khi thành lập của hội này)[2]. Ngoài ra, ông còn là tác giả nhiều bài viết, nhiều bài dịch từ tiếng Nga, Nhật, Anh, Pháp được đăng trên các báo như Talawas, Tia sáng, Người viễn xứ, Quân đội nhân dân, Lao động, Tạp chí mỹ thuật, Ngày nay, Vietnamnet, Sài Gòn tiếp thị, v.v.[3]
Thân thế
Tốt nghiệp trung học với điểm số nằm trong nhóm cao nhất cả nước, ông lên đường sang Nga du học vào mùa thu năm 1976 tại Đại học tổng hợp quốc gia Maxcơva, Maxcơva, Nga. Năm 1982 ông lấy bằng thạc sĩ vật lý tại đây, rổi năm 1985 là Tiến sĩ về vật lý hạt nhân, năm 1990 là Tiến sĩ Khoa học về vật lý hạt nhân. Sau khi hoàn thành bằng tiến sĩ khoa học ở Nga, ông về nước làm việc tại Viện khoa học và kỹ thuật hạt nhân.
Ông còn làm nghiên cứu sau tiến sĩ ở Đức và Ý vào đầu thập niên 1990. Khi ở Ý, nhờ sự giới thiệu của thầy cũ, giáo sư Vadim Georgievitch Soloviev, một nhà vật lý nổi tiếng tại Viện liên hợp Nghiên cứu hạt nhân Dubna (Nga), ông nhận được đề nghị nộp hồ sơ nhận tài trợ sang nghiên cứu tại Nhật.
Nguyễn Đình Đăng đã tổ chức một hội nghị quốc tế lớn về hạt nhân lần đầu tiên tại Việt Nam vào mùa xuân năm 1994. Tại đây ông đã gặp giáo sư Akito Arima (sau này trở thành Bộ trưởng Giáo dục - Khoa học - Công nghệ của Nhật), chủ tịch Viện RIKEN - viện nghiên cứu hàng đầu ở Nhật về công nghệ gia tốc. Năm 1994 ông được Quỹ Nishina Memorial Foundation (NMF)[5] mời sang Nhật nghiên cứu 10 tháng tại Viện nghiên cứu hạt nhân (Institute for Nuclear Study – INS) thuộc Đại học tổng hợp Tokyo. Trong khi làm việc tại INS ông được giáo sư Akito Arima, lúc đó là chủ tịch RIKEN mời đến RIKEN làm việc. Vì thế sau khi kết thúc 10 tháng nghiên cứu do NMF tài trợ ông chuyển đến RIKEN và làm việc ở đây từ đó đến nay.
Hiện ông đang thực hiện đề tài khảo sát cấu trúc hạt nhân nguyên tử, một trong những đề tài khó và then chốt trong lĩnh vực vật lý.
Bên cạnh vốn ngoại ngữ Nga, Anh lưu loát, ông còn sử dụng được cả tiếng Nhật, tiếng Pháp, tiếng Ý.[4][6][7][8]
Tự học hội họa
Từ năm 1978 tới nay ông đã có nhiều cuộc triển lãm tranh lớn (triển lãm cá nhân, triển lãm nhóm và triển lãm có hội đồng duyệt) tại nhiều nước: Việt Nam, Nga, Nhật Bản và Ý... và đã giành được nhiều giải thưởng uy tín về nghệ thuật ở cả Nhật và Việt Nam.[9]
Ông cũng được mời thuyết trình về kỹ thuật vẽ sơn dầu tại Đại học Mỹ thuật Hà Nội, Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm cộng đồng thành phố Wako, Nhật Bản; thuyết trình về tranh của mình tại Ý, Bồ Đào Nha, Mỹ.[9]
Quan điểm
Về cuộc sống
“ Đã là đèn thì phải cháy tới khi cạn dầu, còn nếu chứa đầy dầu mà không cháy được hoặc không được cháy thì chỉ là cái lọ đựng dầu mà thôi. ”
— [4]
“ Tôi nghĩ rằng điều quan trọng nhất là phải biết tư duy độc lập, biết tôn trọng sự khác biệt, và tìm ra con đường cho chính mình. Cuối cùng các bạn sẽ thấy đó là con đường duy nhất đúng. ”
— [10]
Quan điểm về giáo dục
— [4]
“ Dạy dỗ dựa trên sự sợ hãi không cảm hóa được con người mà chỉ làm con người trở nên dối trá, thủ đoạn. ”
— Nguyễn Đình Đăng, Cuộc sống ở Nhật Bản, ribf.riken.go.jp
Quan điểm nghệ thuật
“ Tự tin là một trong những tố chất rất quan trọng giúp bạn thành công trong nghệ thuật. ”
— [4]
“ Nhiều người tự nhận là họa sĩ, song cái khó nhất và đẹp nhất lại là sự bí ẩn của vũ trụ. Chỉ có một số ít người có thể lĩnh hội được điều đó ”
— [8]
“ Không thể xây dựng một xã hội tự do, văn minh, hạnh phúc dựa trên sự sợ hãi của người dân. ”
— Nguyễn Đình Đăng, Cuộc sống ở Nhật Bản, ribf.riken.go.jp
— [4]
“ Nhiều người tự nhận là họa sĩ, song cái khó nhất và đẹp nhất lại là sự bí ẩn của vũ trụ. Chỉ có một số ít người có thể lĩnh hội được điều đó ”
— [8]
“ Không thể xây dựng một xã hội tự do, văn minh, hạnh phúc dựa trên sự sợ hãi của người dân. ”
— Nguyễn Đình Đăng, Cuộc sống ở Nhật Bản, ribf.riken.go.jp
Về báo chí tại Việt Nam
“ Chưa bao giờ tôi có hân hạnh được nghe một câu xin lỗi từ tổng biên tập vì đã cắt xén bài viết của tôi một cách tùy tiện, và không hề có sự đồng ý của tôi. ”
— Nguyễn Đình Đăng, Trả lời phỏng vấn của một báo điện tử trong nước, Tokyo 23/9/2007
Phát biểu tại khai mạc triển lãm cá nhân đầu tiên của Nguyễn Đình Đăng tại Nhật Bản năm 2001, giáo sư Akito Arima - nhà vật lý, thượng nghị sĩ, nguyên bộ trưởng văn hóa - giáo dục - khoa học Nhật Bản, nguyên chủ tịch viện RIKEN, nguyên hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Tokyo - đã gọi Nguyễn Đình Đăng là "một thiên tài".[11]
Giáo sư vật lý D.H. Feng - phó hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Texas tại Dallas (Hoa Kỳ) - đã gọi Nguyễn Đình Đăng là "một người thời Phục Hưng" vì những mối quan tâm rộng và tài năng đa dạng của ông.[12]
Tờ tạp chí danh tiếng tại Nhật Bản Japan Times đã chọn tiến sĩ Nguyễn Đình Đăng là người đầu tiên để giới thiệu trên chuyên mục lớn "Họ là ai?", nói về những người Việt Nam thành đạt tại Nhật Bản. Ông được đánh giá là một trong những điển hình hiếm hoi của sự dung hòa khoa học và nghệ thuật trong một con người.[13]
Song hành với sự nghiệp nghiên cứu khoa học, Nguyễn Đình Đăng còn đam mê âm nhạc và hội họa. Nguyễn Đình Đăng được đánh giá là tác giả có những bức tranh mang đậm phong cách phương Tây kết hợp với nét văn hóa Á đông. Những bức tranh như: Biến thái, Giấc mơ bạch tuộc, Buổi học dương cầm, Ánh trăng… là những tác phẩm hội họa đậm chất thơ, nhạc điệu, pha trộn trong sự huyền ảo, giữa hư và thực là sự phô diễn kỹ thuật và biểu đạt suy tư sâu lắng là nét độc đáo, và là thế mạnh làm nên thành công của Nguyễn Đình Đăng (theo Đinh Quang Tỉnh - Ba Tỉnh) như một họa sĩ "thành danh" đứng ngang hàng với những nghệ sĩ chuyên nghiệp và tên tuổi trong nước.
— Nguyễn Đình Đăng, Trả lời phỏng vấn của một báo điện tử trong nước, Tokyo 23/9/2007
Đánh giá
Giáo sư vật lý D.H. Feng - phó hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Texas tại Dallas (Hoa Kỳ) - đã gọi Nguyễn Đình Đăng là "một người thời Phục Hưng" vì những mối quan tâm rộng và tài năng đa dạng của ông.[12]
Tờ tạp chí danh tiếng tại Nhật Bản Japan Times đã chọn tiến sĩ Nguyễn Đình Đăng là người đầu tiên để giới thiệu trên chuyên mục lớn "Họ là ai?", nói về những người Việt Nam thành đạt tại Nhật Bản. Ông được đánh giá là một trong những điển hình hiếm hoi của sự dung hòa khoa học và nghệ thuật trong một con người.[13]
Song hành với sự nghiệp nghiên cứu khoa học, Nguyễn Đình Đăng còn đam mê âm nhạc và hội họa. Nguyễn Đình Đăng được đánh giá là tác giả có những bức tranh mang đậm phong cách phương Tây kết hợp với nét văn hóa Á đông. Những bức tranh như: Biến thái, Giấc mơ bạch tuộc, Buổi học dương cầm, Ánh trăng… là những tác phẩm hội họa đậm chất thơ, nhạc điệu, pha trộn trong sự huyền ảo, giữa hư và thực là sự phô diễn kỹ thuật và biểu đạt suy tư sâu lắng là nét độc đáo, và là thế mạnh làm nên thành công của Nguyễn Đình Đăng (theo Đinh Quang Tỉnh - Ba Tỉnh) như một họa sĩ "thành danh" đứng ngang hàng với những nghệ sĩ chuyên nghiệp và tên tuổi trong nước.
Tác phẩm
Tác phẩm văn xuôi
Được đăng trong blog cá nhân, sau đó một vài tác phẩm được đăng lại ở một vài tờ báo, tạp chí, sách..bằng tiếng Việt. Trong đó có một vài tác phẩm đã bị đạo văn, một vài tác phẩm bị vi phạm bản quyền do được đăng khi chưa có sự cho phép của tác giả. Một vài tác phẩm tiêu biểu:
(2004)
(2004)
(2004)
(2004)
(2005)
(2006)
(2006)
(2006)
(2007)
(2008)
(2009)
(2011)
(2011)
(2011)
(Viết về phiên toà xử Cù Huy Hà Vũ)
(2011)
Bản dịch
Émile Zola
(trích dịch từ tiểu thuyết Tác phẩm)
Mathew Larking
Franz Listz
Aleksander Laskowskí
Jeffrey Chappell
Anthony John Parkes
Tác phẩm hội họa
Công trình nghiên cứu vật lý
Công trình "Simultaneous Microscopic Description of Nuclear Level Density and Radiative Strength Function" của Nguyễn Quang Hưng, Nguyễn Đình Đăng và Lê Thị Quỳnh Hương tại Physical Review Letters 118 (2017) 022502 là công trình vật lý hạt nhân đầu tiên với toàn bộ nhóm tác giả là người Việt được đăng tại tạp chí vật lý hạng nhất thế giới này.
Chuyên khảo hội họa
Cuốn "Kỹ thuật vẽ sơn dầu Lưu trữ 2018-09-05 tại Wayback Machine" của ông do nhà xuất bản Dân Trí và Công ty Cổ phần Văn hóa Đông A phát hành năm 2018 là là cuốn sách đầu tiên do một họa sĩ Việt viết về kỹ thuật vẽ sơn dầu được xuất bản tại Việt Nam.
Được tặng thưởng
2004: Huy chương "Vì sự nghiệp mỹ thuật Việt Nam"
2005: Giai tác Tác gia (Tác giả có tác phẩm đẹp) (Shutai Art Association - Tokyo)
2007: Giải thưởng "Họa sĩ nổi bật đang lên" ("Outstanding Rising Artist" Award Sompo Japan Fine-Art Foundation - Tokyo).[15][16]
2016: Được chọn là một trong 151 họa sĩ vẽ hay nhất trong năm ở Nhật và được mời trưng bày tại triển lãm "Best Selection 2016" tại Bảo tàng Mỹ thuật Tokyo.
HIỂU HỘI HỌA SIÊU THỰC THẾ NÀO CHO ĐÚNG?
1) Siêu Thực là gì?
Breton định nghĩa Siêu Thực như sau:
“Siêu Thực (danh từ) là trạng thái tâm lý thuần túy không ý thức (automatism), mà ta có thể trải nghiệm để thể hiện (bằng lời được viết thành chữ hoặc bất cứ cách gì khác) hoạt động thực tế của tư duy (thought). Siêu Thực được tư duy sai khiến, không chịu bất cứ sự kiểm soát nào của lý trí, được miễn trừ khỏi mọi quan ngại liên quan tới thẩm mỹ và đạo đức.
Vể mặt triết học, Siêu Thực dựa trên niềm tin vào một thực tại cao cấp của một số hình thể được tạo bởi những liên tưởng mà trước đây thường bị bỏ qua, vào quyền lực vô hạn của giấc mơ, vào hoạt động không vụ lợi của tư duy. Nó hướng tới sự phá hủy một lần và vĩnh viễn mọi cơ chế tâm lý khác và thay thế chúng để giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống.”
Lưu ý rằng cái Breton nói tới ở đây là tư duy (thought), tức bao gổm cả 3 trạng thái: ý thức (conscious), tiền ý thức (preconscious), và vô thức (unconscious) [1].
2) Phương pháp của Siêu Thực
Để minh họa cho phương pháp Siêu Thực, Breton trích dẫn Pierre Reverdy:
Hình tượng (image) là sáng tạo thuần túy của tâm trí (mind). Nó không thể sinh ra từ sự so sánh, mà sinh ra từ việc đặt cạnh nhau hai thực tại ít nhiều cách biệt nhau. Mối liên hệ giữa hai thực tại này mà càng cách biệt và càng thực thì hình tượng sẽ càng mạnh, thực tại thi vị và sức mạnh cảm xúc của nó càng lớn.
Theo Baudelaire, con người không tự gọi các hình tượng siêu thực ra được, mà chúng tự động xuất hiện một cách ám ảnh, chuyên chế, không thể xua chúng đi vì nghị lực giờ đây trở thành bất lực, không thể kiểm soát được các năng lực nữa.
Salvador Dalí nói rằng ông nhìn thấy các hình tượng siêu thực nhờ phương pháp hoang tưởng tới hạn (paranoiac-critical method). Phương pháp này cho phép não bộ kết nối các hình tượng mà lý trí không lý giải được. (H. 1)
Hoang tưởng dùng các sự vật của thế giới xung quanh chỉ để nhằm khẳng định ý niệm bao trùm của nó, buộc người thưởng ngoạn chấp nhận ý niệm đó như một thực tại. “Thực” đến đâu là do tài của nghệ sỹ.
Như vậy, không nên hiểu nhầm Siêu Thực là “bộc lộ tiềm thức mà không bị rào cản của lý trí”, mà Siêu Thực là chấp nhận các thông điệp từ vô thức chui vào ý thức. Đó là trạng thái tâm lý thuần túy vô-ý-thức mà Breton gọi là automatism. Các thông điệp của vô thức được truyền đạt bằng các hình tượng, ký hiệu, ý niệm, trong khi các thông điệp của ý thức được truyền đạt bằng ngôn ngữ. Nếu trào lưu hiện thực dựa vào biểu tả hình tượng các vật thể từ thế giới xung quanh, còn trào lưu trừu tượng biểu tả thế giới tinh thần mà không cần tới hình tượng của vật thể từ thế giới xung quanh [2], thì các nghệ sỹ Siêu Thực muốn làm một sự kết nối giữa thế giới trừu tượng của tinh thần và thế giới hiện thực khách quan của các vật cụ thể. Dùng các vật thể của thế giới xung quanh như một loại ẩn dụ, nghệ sỹ lôi thực tại từ tâm trí vô thức (unconscious mind) ra, đưa nó vào tâm trí có ý thức (conscious mind) để ta có thể giải mã. Carl Jung (1875 – 1961), nguyên môn đệ xuất sắc của S. Freud, đã viết rất rõ về điều này như sau:
“Niềm khát khao không được thoả mãn của nghệ sĩ đã quay về với hình tượng hoang sơ của vô thức – hình tượng nào phù hợp nhất để bù lấp sự phiến diện một chiều của hiện tại. Nghệ sĩ chiếm hữu hình tượng đó, lôi nó lên từ vô thức sâu thẳm, đưa nó vào mối liên kết với những giá trị của ý thức, và từ đó biến đổi nó cho đến khi trí tuệ những người đương thời chấp nhận nó tùy theo khả năng của họ.”
3) Quan hệ của Siêu Thực với Hậu Hiện Đại[3]
Tuy các nhân tố Siêu Thực đã có trong nghệ thuật Trung Cổ, Phục Hưng, Baroque, Tân Cổ Điển, Lãng Mạn, v.v. (H. 2), song chỉ từ thế kỷ 20 Siêu Thực mới trở thành một trào lưu của nghệ thuật Hiện Đại (Modern Art), được đánh dấu bởi “Hiến chương Siêu Thực” năm 1924 của André Breton. Sự phát triển của kỹ nghệ, sự ra đời của nhiếp ảnh, điện ảnh, vô tuyến truyền hình, v.v. đã có tác động lớn tới những người quan tâm tới việc biểu tả thực tại, tới cá tính hay bản sắc, tức là các nghệ sỹ. “Cái đẹp là gì?” không còn là câu hỏi thẩm mỹ của chủ nghĩa Hiện Đại. Câu hỏi của chủ nghĩa Hiện Đại là: “Cái gì có thể được coi là nghệ thuật?” Nghệ thuật Hiện Đại có xu hướng đi tìm những sự thiếu hụt thực tại của thực tại, và kết quả là sáng chế ra các thực tại khác. Động lực của cuộc tìm kiếm này có khởi nguồn từ quan niệm thẩm mỹ về cao siêu (sublime) trong triết học của Kant.
Cảm giác về sự cao siêu là một cảm giác mạnh và nước đôi bởi nó chứa cả khoái lạc và đau khổ, thậm chí là khoái lạc rút ra từ đau khố, như một thứ khổ dâm. Nó xuất hiện khi khả năng nhận thức một cái gì đó trở nên mâu thuẫn với khả năng biểu thị chính cái đó. Sự hiểu biết của ta về một đối tượng cho phép hình thành trong ta một quan niệm (concept) về đối tượng đó. Khi khả năng biểu thị đối tượng đó phù hợp với quan niệm của ta về nó thì trong ta xuất hiện một sự phán xét thẩm mỹ gọi là thị hiếu, đem lại cho ta một thứ cảm giác gọi là khoái cảm. Cao siêu là một thứ cảm giác khác. Nó xuất hiện khi trí tưởng tượng của ta không thể nào biểu thị nổi một sự vật sao cho phù hợp với quan niệm của ta về nó. Ta có thể cảm thấy cái gì đó cực kỳ hùng vĩ song mọi biểu thị mà ta cố đưa ra nhằm “nhìn thấy” sự vĩ đại tuyệt đối đó cuối cùng đều không thỏa đáng một cách đau đớn, bởi đó là những ý niệm không biểu thị được bằng hình tượng (unpresentablehay bất khả biểu thị).
Hội họa Hiện Đại là hội hoạ nhằm biểu thị một sự thực: có tồn tại những thứ bất khả biểu thị. Đó cũng chính là nguy cơ của hội hoạ Hiện Đại, bởi khi cố làm hiển thị cái có thể nhận thức được nhưng vô hình, nó đã tự đặt mình vào tình huống của người đi tìm con mèo đen trong một cái phòng tối đen mà con mèo thì không có ở đó[4]. Kant gọi trải nghiệm của trí tưởng tượng nảy sinh trong cuộc truy tìm cách hiển thị cái vô tận (infinity) là tính không hình (formlessness) hay trừu tượng trống rỗng (empty abstraction). Kết cục của cuộc thám hiểm này là sự ra đời (và sau đó đi vào ngõ cụt) của hội họa Trừu Tượng kiểu Malevich và Mondrian. Hội hoạ của họ thực chất nhằm ám chỉ cái bất khả biểu thị dựa vào những thứ có thể biểu thị được. Nhưng trong khi làm điều này, hội hoạ Hiện Đại vẫn được xây dựng trên sự nhất quán về tạo hình và hoà sắc có thể nhận biết được, tức vẫn còn bám vào thị hiếu thẩm mỹ dựa trên khoái cảm và sự an ủi trong người thưởng ngoạn.
Hậu Hiện Đại làm một bước táo tợn hơn: cố biểu thị chính cái bất khả biểu thị, bằng cách khước từ mọi tạo hình “đẹp”, khước từ niềm an ủi, khước từ luôn cả sự đồng thuận về cái thị hiếu đã từng gợi nên hoài niệm tập thể về những gì không đạt tới được (ví dụ như sự hoàn hảo). Hậu Hiện Đại muốn tìm những cách biểu thị không nhằm gây khoái cảm thẩm mỹ mà nhằm tạo ra một cảm giác mạnh hơn về cái bất khả biểu thị. Nghệ sỹ hậu hiện đại tạo ra tác phẩm không theo các quy tắc đã được thiết lập trước đây. Không thể phán xét các tác phẩm Hậu Hiện Đại dựa trên các nguyên tắc đã biết, bởi các quy tắc và chuẩn mực là những thứ mà tác phẩm hậu hiện đại muốn thiết lập. Nghệ sỹ Hậu Hiện Đại là người sáng tác không theo quy tắc nào cả, nhằm tạo ra các quy tắc để rồi lại phá bỏ chúng ngay trong tác phẩm tiếp theo. Nói cách khác, Hậu Hiện Đại luôn nằm trong quá trình tự phủ định, là thời quá khứ trong tương lai (future anterior). Như vậy, mục đích của Hậu Hiện Đại không phải là cung cấp thực tại mà là tạo ra các ám chỉ đối với những thứ có thể nhận thức được nhưng không thể nào biểu thị được.
Thoạt nhìn, Siêu Thực dường như có mục đích tương tự như Hậu Hiện Đại bởi, với cảm giác về sự cao siêu, Siêu Thực khiến thế giới vô thức hiển thị trong thế giới của ý thức. Tuy nhiên có hai khác biệt quan trọng:
(i) thế giới vô thức không phải là bất khả biểu thị,
(ii) khi làm như vậy Siêu Thực vẫn tuân theo các nguyên tắc của hội hoạ hiện đại, tức thị hiếu thẩm mỹ dựa trên khoái cảm và sự an ủi trong người thưởng ngoạn.
Mặt khác, nếu như thẩm mỹ Cổ Điển đã bị bóp chết trong Hiện Đại và Hậu Hiện Đại, các ý tưởng và phương pháp của Siêu Thực vẫn có đất sống và tiếp tục sinh sôi trong hậu hiện đại, bởi Siêu Thực đã cho thấy sự ràng buộc giữa trật tự (order) và hỗn độn (chaos): trật tự sinh ra hỗn độn và trật tự cũng sinh ra từ hỗn độn. Trật tự hiện hữu cả bên ngoài địa hạt của logic thông thường, nơi các các quan niệm của ý thức không còn đất sống. Cả hai thứ trật tự thông thường và trật tự bất thường đều có thể được khám phá nhờ trực giác của vô thức. Kết quả cuối cùng cho chúng ta một hình dung đầy đủ hơn về cấu trúc của thế giới trong tư duy con người. Nghệ thuật vì vậy không đơn thuần là việc bắt chước tự nhiên như trong quan niệm của Plato và Aristotle, mà bên cạnh khoa học, nó còn là một quá trình khám phá và nhận thức thế giới.
6/1/2013
[1] Không nên nhầm lẫn vô thức (unconscious) với tiềm thức (subconcious). Sigmund Freud nói người nào dùng từ tiềm thức là còn lúng túng trong việc phân định liệu đó là thứ nằm dưới ý thức hay là một dạng ý thức khác. Freud chỉ nói về vô thức (unconcious) và tiền ý thức (preconcious).
[2] W. Kandinsky, Bàn về tinh thần trong nghệ thuật (1910).
[3] Quan niệm về hậu hiện đại trong mục này được trình bày dựa theo phụ lục “Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?” (What is postmodernism?) trong tiểu luận “Hoàn cảnh hậu hiện đại: Báo cáo về sự hiểu biết” (The postmodern condition: A report on knowledge) của Jean-François Lyotard.
[4] Người viết mượn ẩn dụ từ chuyện đùa “Đâu là sự khác nhau giữa nhà vật lý, triết gia, và triết gia Marxist?” Trả lời: Nhà vật lý giống như người đi tìm con mèo đen trong căn phòng tối đen, mà con mèo có thể có hoặc có thể không có trong phòng. Triết gia là người đi tìm con mèo đen trong căn phòng tối đen, nhưng con mèo không có trong phòng. Triết gia Marxist là người đi tìm con mèo đen trong căn phòng tối đen, nhưng con mèo không có trong phòng, song người này chốc chốc lại la toáng lên: “Tìm thấy rồi!”
Chú thích
^ X.Danh, Hội Mỹ thuật Chủ thể - Nhật Bản kết nạp họa sĩ nước ngoài đầu tiên là người Việt, Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)
^ Các bài viết của Nguyễn Đình Đăng
^ a ă â b c Đeo đuổi cả khoa học lẫn nghệ thuật
^ NMF là quỹ mang tên nhà vật lý hạt nhân Nhật Bản Yoshio Nishina (1890 – 1951), chuyên tài trợ cho các nhà khoa học trẻ từ các nước đang phát triển sang Nhật nghiên cứu về vật lý.
^ Profile in physics by Nguyen Dinh Dang
^ Phỏng vấn họa sĩ – nhà khoa học Nguyễn Đình Đăng
^ a ă Nguyễn Đình Đăng - tiến sĩ tài hoa, Báo Tuổi trẻ
^ a ă â Tiểu sử nghệ thuật của Nguyễn Đình Đăng
^ Phỏng vấn họa sĩ - nhà khoa học Nguyễn Đình Đăng
^ Phát biểu của giáo sư Akito Arima tại khai mạc triển lãm cá nhân tranh sơn dầu của Nguyễn Đình Đăng, 5 tháng 10 năm 2001, Sun Azalea Exhibition Hall, t/p Wako, Saitama, Nhật Bản
^ “Vietnamese Artist-Physicist to Lecture at U.T. Dallas - Dang to Discuss Higher Education in Vietnam, His Decision to Become a Painter, University of Texas at Dallas News, ngày 17 tháng 5 năm 2001”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2013.
^ E. Corkill, Vietnamese physicist thrives in Japan: Besides exploring the structure of the atom, Nguyen Dinh Dang is an accomplished painter, Japan Times Dec. 8, 2009.(Bản dịch tiếng Việt)
^ List of publications by Nguyen Dinh Dang
^ Nguyễn Đình Đăng đoạt giải thưởng hội họa của Nhật, vnexpress.net
^ Họa sĩ Nguyễn Đình Đăng đoạt giải thưởng "Họa sĩ xuất sắc" tại Nhật Bản, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
ABC về tự do trí tuệ và kiểm duyệt
Nguyễn Đình Đăng
“Ở nơi nào người ta đã đốt sách, người ta sẽ kết thúc bằng đốt sinh mạng con người.”
Almansor (1821) – Heinrich Heine
Almansor (1821) – Heinrich Heine
A. Tự do trí tuệ là gì và tại sao nó quan trọng?
Tự do trí tuệ có nghĩa là bất kỳ một cá nhân nào sống trong xã hội loài người đều có quyền tìm kiếm và tiếp nhận thông tin thuộc mọi quan điểm mà không hề bị bất cứ một trở ngại nào. Tự do trí tuệ vì vậy bảo đảm cho con người quyền tự do bộc lộ ý tưởng bằng nhiều cách khác nhau qua đó có thể làm sáng tỏ mọi khía cạnh của một vấn đề, một nguyên nhân, hay một trào lưu. Như vậy tự do trí tuệ có quan hệ mật thiết với tự do ngôn luận và tự do biểu hiện. Thiếu tự do trí tuệ xã hội sẽ dễ dàng bị một thiểu số nhân danh dư luận, nhân danh nhà cầm quyền, nhân danh các nhà tài phiệt, hay nhân danh một giai cấp, tầng lớp nào đó trong xã hội v.v. lừa dối. Của cải vật chất, tinh thần, tài nguyên, lãnh thố của quốc gia và cả sinh mạng con người dễ bị lợi dụng nhằm đạt mục đích ích kỷ của một số người hoặc các tập đoàn.
Tự do trí tuệ là một trong những hòn đá tảng xây nên nền móng của một xã hội dân chủ. Trong một xã hội dân chủ, mỗi người dân là người chủ của chính mình, là người điều khiển chính bản thân mình, chứ không phải ai khác. Nhưng để mỗi người dân có thể chịu trách nhiệm về việc đó, mọi công dân của xã hội phải được nhận đầy đủ thông tin. Tự do trí tuệ như vậy bao gồm tự do tàng trữ, tiếp nhận và phát tán thông tin.
Đối kháng với tự do trí tuệ là kiểm duyệt.
B. Kiểm duyệt là gì, nó xảy ra như thế nào và ai là người muốn kiểm duyệt?
Kiểm duyệt là sự ngăn cấm, loại bỏ, hay đàn áp những ý tưởng hoặc thông tin mà một số người thấy không chấp nhận được hoặc cho là nguy hiểm. Những người này có thể là một số cá nhân, nhóm người, hoặc một số người nhân danh nhà cầm quyền. Kiểm duyệt bắt đầu khi có một người nói: “Chớ có cho ai đọc quyển sách đó (hoặc mua số báo đó, hoặc coi bộ phim hoặc vở kịch đó, hoặc nghe bài hát hoặc bản nhạc đó, hoặc xem bức tranh đó) vì tôi không đồng ý.” Các nhà kiểm duyệt ép các cơ quan, trường học, nhà xuất bản, báo chí, tổ chức, công ty, viện nghiên cứu, v.v. loại bỏ các thông tin mà họ cho là không thích hợp hoặc nguy hiểm, không cho phép công chúng tiếp xúc với các thông tin đó. Kết quả là không ai có thể có cơ hội đọc hoặc xem các thông tin này để có thể tự suy nghĩ và phán xét đúng, sai, hay, dở về chúng. Các nhà kiểm duyệt muốn tự đánh giá, xếp loại, phân “luồng” thông tin cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, đã là công dân một xã hội dân chủ, pháp quyền, thì bất kỳ người nào cũng có quyền đọc, nhìn, nghe, và tuyên truyền các ý tưởng không vi phạm hiến pháp, cho dù nhà kiểm duyệt không muốn chấp nhận những ý tưởng đó đi chăng nữa.
Kiểm duyệt xảy ra khi các tài liệu bày tỏ ý tưởng như sách, báo, phim, ảnh, các tác phẩm nghệ thuật, v.v. (gọi chung là “tài liệu”) bị loại bỏ hoặc cất đi không cho công chúng xem. Một số cá nhân hoặc nhóm người “điểm mặt chỉ tên” những “tài liệu” mà họ phản đối. Trong một số trường hợp, các nhà kiểm duyệt cấm các trường học không được sử dụng các “tài liệu” này, cấm các hiệu sách, hiệu đĩa, hiệu băng video không được lưu giữ chúng, cấm các nhà xuất bản không được ấn hành chúng, cấm các galleries, các phòng triển lãm không được trưng bày chúng. Kiểm duyệt cũng xảy ra khi một số “tài liệu” bị hạn chế phạm vi sử dụng, chỉ được sử dụng đối với một loại công chúng dựa trên một số tiêu chuẩn về tuổi tác, hoặc các tiêu chuẩn khác (ví dụ sách báo, phim ảnh dành cho người lớn, v.v.).
Trong đại đa số trường hợp, nhà kiểm duyệt (hoặc người có tư tưởng kiểm duyệt) thường chân thành tin rằng kiểm duyệt có thể làm xã hội tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn, có thể bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên, và giữ gìn hoặc khôi phục cái mà nhà kiểm duyệt cho là “giá trị tinh thần”, “bản sắc dân tộc”, hay “thuần phong mỹ tục”, v.v. Các nhà kiểm duyệt có thể thật sự tin rằng một số “tài liệu” có chứa nội dung quá khích, chống lại, thậm chí phá hoại trật tự xã hội hiện hành tới mức không còn cách nào khác để ngăn chặn “tác hại” của chúng, ngoài việc “khai tử” cho các “tài liệu” này, tức là loại bỏ chúng, không bao giờ công bố chúng. Một số nhà kiểm duyệt khác thì lo ngại rằng những người trẻ tuổi hoặc yếu đuối hơn sẽ có thể làm điều xấu do bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng xấu. Thậm chí, vẫn còn không ít người tin rằng có một ranh giới hết sức rõ ràng giữa những tư tưởng “đúng đắn”, phù hợp với “đạo đức” và những tư tưởng “sai trái”, “đồi bại”. Những người này muốn đảm bảo rằng xã hội sẽ chỉ có lợi nếu tuân theo quan điểm của họ. Họ tin tưởng rằng một số cá nhân nào đó, hoặc một số tổ chức, cơ quan, đoàn thể nào đó, thậm chí toàn xã hội sẽ lâm nguy nếu một số tư tưởng riêng rẽ nào đó được lan truyền rộng rãi mà không bị ngăn cản.
Trớ trêu thay, điều mà các nhà kiểm duyệt thường không để tâm đến là kiểm duyệt không khác gì con dao hai lưỡi đối với chính các nhà kiểm duyệt. Cụ thể là, nếu như ngày hôm nay các nhà kiểm duyệt thành công trong việc loại trừ hay đàn áp các tư tưởng mà họ không thích, ngày mai những người khác có thể sẽ dùng chính cái tiền lệ đó để loại trừ hay đàn áp những tư tưởng mà các nhà kiểm duyệt hôm nay đang ưng ý. Cách đây 150 năm, trong tác phẩm Bàn về tự do (1859), John Stuart Mill [1] đã viết: “Nếu như toàn nhân loại, ngoại trừ một người, có chung một quan điểm, và chỉ có một người duy nhất có quan điểm trái ngược, thì bằng cách bịt miệng người đó, toàn nhân loại cũng chẳng có lý gì hơn là chính người đó, nếu y có quyền, sẽ dùng quyền lực của mình để bịt miệng toàn nhân loại.” Ông còn viết: “Chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng quan điểm mà chúng ta đang gắng sức bóp chết là một quan điểm sai; và nếu chúng ta có chắc chắn đi chăng nữa thì việc bóp chết nó vẫn cứ là một điều quái gở.”
C. Mối quan hệ giữa kiểm duyệt và tự do trí tuệ
Những quyền mà các nhà kiểm duyệt thực hiện khi họ phát biểu quan điểm hoặc mối lo ngại của họ về các tác phẩm của đương sự (nhà xuất bản hay tác giả) cũng chính là những quyền mà đương sự đó cần được bảo vệ khi đối mặt với nhà khiểm duyệt. Điều đó có nghĩa là khi các nhà kiểm duyệt công bố cho công chúng biết sự phê phán của họ chống lại một số ý tưởng nào đó, họ đã thực hiện những quyền đúng như những quyền của người sáng tạo ra hoặc truyền bá các “tài liệu” mà các nhà kiểm duyệt phản đối. Điều đó cũng có nghĩa là, trong một xã hội dân chủ, quyền của các nhà kiểm duyệt trong việc phát biểu và thuyết phục người khác chấp nhận quan điểm của mình sẽ được luật pháp bảo vệ chừng nào quyền của những người phát biểu quan điểm đối nghịch cũng được luật pháp bảo vệ. Quyền của cả hai phía đều phải được luật pháp bảo vệ như nhau. Nếu không, không phía nào có thể tồn tại lâu dài được.
Lịch sử nhân loại đã làm chứng cho vô vàn các cuộc kiểm duyệt. Sách vở thường xuyên bị kiểm duyệt vì nội dung chính trị, tình dục, hoặc ngôn ngữ xúc phạm tới chủng tộc, dân tộc, văn hóa, giới tính, lập trường chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo của các nhóm người khác nhau. Các tài liệu bị coi là nhảm nhí, tục tĩu, khiêu dâm, hoặc không thích hợp cho thiếu nhi cũng thường bị kiểm duyệt. Từ khi nhân loại bắt đầu lưu giữ được các biểu hiện của mình bằng văn bản, nhiều người đã bị thiêu sống trên giàn lửa, bị ép uống thuốc độc tự tử, bị đóng đinh câu rút, bị giam cầm, đày ải, hành hạ, sỉ nhục chỉ vì những gì họ đã viết ra và tin theo. Sau đây chỉ là một vài ví dụ điển hình. Đầu năm 213 TCN Tần Thủy Hoàng định “xóa sổ” lịch sử bằng cách ra lệnh đốt tất cả sách sử trừ những sách sử của nhà Tần. Những ai tàng trữ hai bộ Kinh Thi vàKinh Thư hoặc sách vở của trăm nhà đều phải đem trình quan để đốt đi. Hai người dám bàn nhau về Kinh Thư, Kinh Thi thì chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ. Một năm sau Tần Thủy Hoàng ra lệnh bắt 460 Nho sĩ đem chôn sống. Heinrich Heine từng viết trong vở kịch Almansor (1821) của mình: “Ở nơi nào người ta đã đốt sách, người ta sẽ kết thúc bằng đốt sinh mạng con người”. Một thế kỷ sau, lời tiên trì của Heine đã thành sự thật ngay tại quê hương ông. Năm 1933 những người Đức Quốc xã bắt đầu bằng việc đốt sách tại Berlin. Trong số sách báo bị đốt đó có cả các tác phẩm của chính Heinrich Heine. Tám năm sau, Đức Quốc xã dựng nên các trại tập trung và lò thiêu người, mà điển hình là trại Auschwitz, nơi một triệu một trăm ngàn con người đã bị thiêu chết, trong đó 90% là người Do Thái. Tại Liên Xô trong những năm 1940 – 1950 Stalin đã ra lệnh đốt toàn bộ sưu tập sách của người Do Thái thuộc thư viện ở Birobidzhan – thủ phủ của khu vực tự trị của người Do Thái lúc bấy giờ, nằm ở Viễn Đông, giáp vùng Khabarovsk, Amur của Nga, và biên giới giữa Nga và Trung Quốc. Trong cuốn Khủng bố vĩ đại tác giả Robert Conquest cho biết khoảng 10 triệu người đã bị hành quyết hoặc chết trong các nhà tù dưới chế độ Stalin. Khi Stalin chết vào năm 1953, Liên Xô có 12 triệu người bị giam trong các trại tập trung.
Trong số những lời phản đối kiểm duyệt của các trí thức và nhân vật lừng danh trên thế giới trong lịch sử cận đại, hùng hồn nhất có lẽ là phát biểu của thủ tướng Anh Winston Churchill. Ông nói: “Các bạn hãy nhìn các nhà độc tài đang ngự trên bệ, bao bọc bởi những hàng lưỡi lê của quân lính và dùi cui của đội cảnh sát của họ. Thế nhưng con tim của họ đang bị bao trùm bởi một nỗi sợ hãi không nói được và không thể nói được nên lời! Họ sợ các lời nói và ý nghĩ. Những lời nói được phát ra bên ngoài, những ý nghĩ sôi sục bên trong, tất cả bỗng chốc trở nên mạnh mẽ hơn, chính bởi vì chúng bị cấm đoán. Những cái đó làm họ hoảng sợ. Chỉ một con chuột nhắt, một tư tưởng nhỏ xíu như con chuột nhắt, xuất hiện trong phòng đã khiến cả những thống lãnh quyền lực nhất rơi vào trạng thái hoảng loạn.”
D. Sự vô nghĩa của kiểm duyệt tự do trí tuệ trong thời đại internet
Trong bức thư ngày 7 tháng 1 năm 1794 gửi nhà độc tài Robespierre [2] vì đã đốt tờ báo Vieux Cordelier, nhà cách mạng và nhà báo Pháp Camille Desmoulins [3] đã trích dẫn lời của Jean-Jacques Rousseau: “Đốt không phải là câu trả lời”. Desmoulins đã phải trả giá cho câu nói của mình bằng chính mạng sống của ông: Ngày 31 tháng 3 năm 1794 ông bị bắt và bị đem ra xử tại “Tòa án cách mạng”. Tại đây ông bị buộc tội “gián điệp”, bị từ chối quyền tự bào chữa, rồi bị kết án tử hình ngày 5/4/1794 lúc ông mới 34 tuổi [4]. Mặc dù cái kết cục bi thảm ấy thường được lặp đi lặp lại nhiều lần trong lịch sử, câu trích dẫn lời Jean-Jacques Rousseau đã vạch rõ một chân lý hiển nhiên: “Không thể thuyết phục được một con người bằng cách bịt miệng anh ta“.
Lịch sử đã sang trang trong hai thập kỷ cuối và nền văn minh nhân loại đã bước sang một thời đại mới: thời đại của internet. Hơn cả máy in, điện thoại, radio, rồi vô tuyến truyền hình, internet là phương tiện lan truyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng mạnh mẽ nhất và dân chủ nhất mà con người từng được biết đến. Khi mà bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu (được nối mạng) trên thế giới cũng có thể gửi mọi thông tin, ảnh, phim video, âm thanh lên internet để toàn thế giới có thể đọc, xem, nghe được ngay tức khắc, kiểm duyệt dần dần trở nên bất lực, trơ trẽn, lố bịch, và vô nghĩa. Tự do ngôn luận dần dần trở thành cái gì đó không ai có thể hạn chế được.
Trong phần kết của bài báo “Những chiến sĩ của mặt trận tàng hình” [5] đăng tại Tạp chí Nga ngày 8/6/2006, tác giả Alexander Kolesnichenko đã kết luận: “Internet là phương tiện thông tin đại chúng tự do nhất trong các phương tiện từng tồn tại từ trước tới giờ. Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ được lựa chọn trên internet không chỉ những gì để đọc, mà còn để nghe và nhìn nữa. Cứ mặc kệ cho nhà nước tiếp tục kiểm soát vô tuyến truyền hình và những tập đoàn đặc quyền đặc lợi tiếp tục chiếm hữu các tờ báo của họ. Như người đời thường nói, cứ kệ cho họ chiếu và viết những nhăng nhít mà chỉ có chính họ sẽ xem và đọc mà thôi.”
Tokyo 22/5/2006
Hiệu đính ngày 24/5/2009
Chú giải
*) Phần A, B và C của bài viết này chủ yếu dựa trên trang “Intellectual freedom and censorship Q & A” tại website của American Library Association:http://www.ala.org/.../oif/basics/ifcensorshipqanda.cfm.
[1] John Stuart Mill (1806 – 1873) – triết gia theo tư tưởng tự do người Anh
[2] Maximilien Robespierre (1758 – 1794) – một trong các lãnh tụ khét tiếng nhất trong thời kỳ Khủng bố (1793 – 1794) của Cách mạng Pháp (1789 – 1799). Bắt đầu như một người theo phái tư tưởng tự do, lấy tác phẩm của Jean-Jacques Rousseau làm sách gối đầu giường, Robespierre có niềm tin ngây thơ đến mù quáng vào cuộc cách mạng Pháp. Trong giai đoạn gay cấn nhất của cuộc cách mạng, Robespierre được bầu làm người đứng đầu Ủy ban An toàn Công cộng (một dạng Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB) của thời Cách mạng Pháp) gồm 12 ủy viên. Đây là ủy ban thừa hành thực chất có quyền lực nhất. Để chống lại các lực lượng “phản cách mạng” trong nước, Ủy ban này ban hành chính sách của thời kỳ Khủng bố. Trong diễn văn ngày 5 tháng 2 năm 1794 Robespierre biện hộ cho Khủng bố như một biện pháp của lòng yêu nước và công lý để bảo vệ “thành quả cách mạng” là “tự do” và “bình đẳng”. Ông tuyên bố xã hội chỉ bảo hộ các công dân hòa bình, mà theo định nghĩa của ông đó là những người Cộng hòa. Những người bảo hoàng và những người âm mưu chống đối bị ông xếp vào hàng kẻ thù của tự do, phải bị Khủng bố trừng trị. Chỉ trong trong vòng 5 tháng từ tháng 9/1793 đến tháng 2/1794 chỉ riêng Tòa án Cách mạng ở Paris đã kết án và chặt đầu gần 300 người. Riêng trong ngày Robespierre đọc diễn văn nói trên, có hơn 5000 người bị giam trong các nhà ngục ở Paris chờ xử án. Chính bản thân Robespierre cũng trở thành nạn nhân của bộ máy mà ông là người tham gia sáng lập: Sốt ruột vì tiến trình chậm chạp của cách mạng, Robespierre đưa ra lời đe dọa Quốc hội. Chỉ 5 tháng sau bài diễn văn, Robespierre bị bắt và bị kết án tử hình.
[3] Camille Desmoulins (1760 – 1794) – nhà cách mạng và nhà báo Pháp, nổi tiếng bởi bài diễn thuyết mở màn cho cuộc tấn công nhà ngục Bastille. Ngày 12/7/1789, nghe tin vua Louis XVI cách chức tổng trưởng tài chính Necker – một người theo phe cải cách, Desmoulins đã nhảy lên bàn tại một quán café cạnh Hoàng cung (Palais Royal) và loan tin cho đám đông khoảng một vạn dân chúng về vụ bãi nhiệm nhà cải cách và nguy cơ bị các đạo quân người Thụy Sĩ và Đức của nhà vua thảm sát. Trong lúc cao hứng, ông kêu gọi dân chúng cướp vũ khí xuống đường. Cuối cùng ông rút trong túi ra hai khẩu súng lục và tuyên bố với đám cảnh sát đang theo dõi nhất cử nhất động của ông rằng ông thà chết chứ không chịu rơi vào tay họ. Ông nhảy từ trên bàn xuống trong vòng tay nồng nhiệt của đám đông. Hành động của Desmoulins đã châm ngòi cho hàng loạt cuộc nổi dậy của dân chúng và quốc dân quân tại Paris trong 2 ngày tiếp theo. Ngày 14/7/1789 đám đông khoảng một ngàn người tấn công nhà ngục Bastille để cướp vũ khí. Sau 4 tiếng đồng hồ cầm cự, thống chế de Launey đầu hàng, bị đám đông bắt, bị đâm nhiều nhát dao cho đến chết, rồi bị chặt đầu đem diễu phố.
[4] Gieo gió thì gặt bão, chỉ bốn tháng sau đó, chính bản thân Robespierre cũng bị bắt và bị đưa lên máy chém ngày 28/7/1794.
[5] Александр Колесниченко “Бойцы невидимого фронта”, Русский Журнал, 8/6/2006.
© 2009 Nguyễn Đình Đăng
Liên kết ngoài
Tranh Khoả Thân
Họa sĩ nổi tiếng tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Bùi Trang Chước • Bùi Xuân Phái • Cát Tường • Công Văn Trung • Diệp Minh Châu • Dương Bích Liên • Hoàng Lập Ngôn • Hoàng Tích Chù • Huỳnh Văn Gấm • Lê Phổ • Lê Văn Đệ • Lương Xuân Nhị • Mai Trung Thứ • Nam Sơn (hoạ sĩ) • Nguyễn Đỗ Cung • Nguyễn Gia Trí • Nguyễn Khang • Nguyễn Phan Chánh • Nguyễn Sáng • Nguyễn Thị Kim • Nguyễn Tư Nghiêm • Nguyễn Tường Lân • Nguyễn Văn Tỵ • Phan Kế An • Tạ Tỵ • Tô Ngọc Vân • Trần Đình Thọ • Trần Văn Cẩn • Vũ Cao Đàm
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.