Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013

Thế Uyên (1935-2013)



















Thế Uyên

Nguyễn Kim Dũng
(16/03/1935 Hà Nội - 11/06/2013 Washington)
Hưởng thọ 78 tuổi
Nhà văn, Nhà giáo






Nhà văn, Nhà giáo Thế Uyên sinh năm 1935 tại Hà Nội. 
Mẹ ông là em ruột nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và là chị nhà văn Thạch Lam.
Ông là người sáng lập tạp chí Thái Độ, một khởi điểm cho sự nghiệp  sáng tác văn học với trên 21 cuốn sách được xuất bản trước 30/04/75.
 Bị học tập cải tạo một thời gian, sau đó ông sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục sáng tác và đã cho in thêm nhiều tác phẩm giá trị. 
Ông đã nổi tiếng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam với những tác phẩm Tiền Đồn, Mười Ngày Phép Của Một Người Lính v.v... 
Và đặc biệt được xem là một tác giả hiếm hoi dám đụng đến vấn đề tình dục trong văn chương Việt Nam ở thế kỷ 20.
Năm 1999, ông bị tai biến, tê bại nửa người, phải ngồi xe lăn nhưng vẫn tập viết bằng "tay trái"với một nghị lực phi thường.
Tháng 8 năm 2012, Thế Uyên bị "stroke" lần thứ hai, ông rơi vào hôn mê và qua đời lúc 5 giờ 31 ngày 11/06/2013 tại Washington.
Hưởng thọ 78 tuổi.














Thủ bút và chữ ký Thế Uyên
Tạ Tỵ vẽ chân dung














Tác phẩm đã xuất bản






       1
Những Hạt Cát
(tập truyện ngắn 1964, nxb Thời Mới)





2
Mưa Trong Sương
 (kịch 1964, nxb Thời Mới)





3
Ngoài Đêm
 (truyện ngắn 1965, nxb Nguyễn Đình Vượng)





4
Mười Ngày Phép Của Một Người Lính
 (đoản văn 1965, nxb Nam Sơn)





5
Những Ý Nghĩ Của Bọt Biển
 (đoản văn 1966, nxb Nam Sơn)








6
Nỗi Chết Không Rời
 (truyện ngắn in chung với Duy Lam 1966,
 nxb Nguyễn Đình Vượng)








7
Tiền Đồn
 (truyện dài 1967, nxb Thời Mới)








8
Nghĩ Trong Một Xã Hội Tan Rã
 (tiểu luận 1967, nxb Thái Độ)








9
Bản Tình Ca
 (truyện ngắn 1968, nxb Thái Độ)





10
Chiến Tranh Cách Mạng
 (tiểu luận 1968, nxb Thái Độ)





11
Những Người Đã Qua
 (đoản văn 1968, nxb Văn Uyển)





12
Kỹ Thuật Tuyên Truyền Chính Trị
 (sách dịch J.M Domenach 1969, nxb Thái Độ)





13
Tình Dục
 (tuyển dịch quốc tế 1969, nxb Thái Độ)





14
Căn Nhà Người Mẹ
 (đoản văn 1971, nxb Trí Đăng)








15
Đoạn Đường Chiến Binh
 (đoản văn 1971, nxb Lá Bối)








16
Tiểu Luận 3
(1971, nxb Thái Độ)








17
Mưa Trong Sương
 (truyện ngắn 1971, nxb Nguyễn Đình Vượng)







18
Sài gòn Sau 12 Năm
(hồi ký)






19
Con Đường Qua Mùa Đông





20
Nghĩ Trong Mùa Xuân





21
Tuyển Tập Truyện Ngắn Thế Uyên





22
Tuyển Tập Dâm Tình và Các Nhà Văn Nữ Hoa Kỳ





23
Khu Vườn Mùa Mưa





24
Những Người Mỹ Chung Quanh Chúng Ta





25
Không Một Vòng Hoa Cho Người Chiến Bại
(truyện dài 1998)













26
Về Miền Đất Hứa

Exodus, sách dịch














Nguyễn Tường Thiết - Tiễn biệt Thế Uyên
Chủ Nhật, ngày 16 tháng 6 năm 2013

Nguyễn Tường Thiết




Cháu Di,



Mấy hôm trước, ngay sau ngày bố cháu mất, cháu có nói với chú: “Chú Thiết ơi! Cháu muốn chú nói đôi lời về bố cháu trong ngày tang lễ bố cháu”. Chú đã phân vân. Không phải là chú ngại điều chi. Lời mời của cháu là một vinh dự cho chú. Chú phân vân vì chú đang suy nghĩ: “Mình không biết nên nói về bố thằng Di với tư cách một người họ hàng rất gần, hay nên nói về bố nó như một người bạn rất thân”. Chú phân vân vì cả hai đều đúng và đều nặng ký như nhau.




Về vai vế trong họ thì chú là hàng anh, nhưng về tuổi tác thì chú thua bố cháu những 5 tuổi. Hơn nữa, bố cháu từ xưa chơi thân với anh Thạch của chú, nên chú luôn luôn xem bố như một người anh. Chính trong cái tinh thần đó mà chú cảm thấy rất thoải mái khi các cháu gọi chú bằng cái tên thân thương “chú Thiết” trong khi các cháu gọi anh của chú là “bác Thạch”.

Hôm nay trên đường lái xe đi thăm bố cháu, trên xa lộ I-5 hướng về phía bắc, lúc đến exit 183 chú đã lỏng chân ga, toan rẽ vào Bothell thăm bố như thói quen đã có từ mười năm nay, nhưng chú lại nhấn ga đi thẳng để vào exit 192, vì chú chợt nghĩ ra là bố cháu đã thay đổi địa chỉ, bố cháu đã có một chỗ ở mới, một chỗ ở tuy vĩnh viễn nhưng chắc là chú sẽ không ghi vào trong sổ địa chỉ của chú đâu, vì đó là nghĩa trang Evergreen, thuộc thành phố Everett.

Trên đường lái xe chú đã nghĩ đến không biết bao nhiêu những địa chỉ, những căn nhà mà bố cháu đã ở và chú đã đến thăm, từ cái ngày rất xa xưa ở Hà Nội khi mẹ của bố cháu còn ở chung nhà với chú Thạch Lam bên hồ Tây của Hà Nội. Từ căn nhà ấy đến đến căn nhà sau cùng bố cháu ở này là chiều dài 78 năm của một đời người.

Trong lúc lái xe tự nhiên một tiếng nói bên trong bảo với chú rằng: bố cháu mong muốn ngày hôm nay và mai hậu chú sẽ nghĩ, sẽ nói, và sẽ tưởng nhớ đến bố cháu như một người bạn văn, một cố tri, hơn là một người anh họ, bởi vì tình bạn giữa bố cháu và chú nó thâm sâu hơn tình họ hàng, máu mủ.

Tình bạn ấy không phải một sớm một chiều mà có được. Nó có được là do cái cơ duyên hãn hữu này: năm 1987 bố cháu và gia đình đã chọn tiểu bang Washington để định cư, tiểu bang mà gia đình chú đã chọn làm quê hương thứ hai từ năm 1975. Như là nhan đề một cuốn sách nổi tiếng của Leon Uris mà bố cháu đã dịch ra tiếng Việt, khi bố cháu chọn “về miền đất hứa” này, bố cháu đã là người duy nhất trong họ nhà ta định cư ở tiểu bang Washington, ngoài chú. Và chính vì sự gần gũi nhau trong suốt 26 năm trường mà hai người anh em họ đã trở nên đôi bạn tri kỷ. Ngoại trừ khoảng thời gian 12 năm sau biến cố 1975, khi bố cháu ở lại Việt Nam, khi chú định cư ở Hoa Kỳ, thì trong suốt cuộc đời bố cháu và chú đã luôn luôn ở bên cạnh nhau, tính ra trên 60 năm. Đây là một điều rất quí báu vì chưa chắc đã có những cặp vợ chồng, những người anh em ruột thịt có được một thời gian gần gũi lâu dài như thế.

Bố cháu và chú là những người viết văn nên thường ví đời người như một cuốn sách. Cuốn sách ấy dầy hay mỏng là tùy tuổi thọ của đời người. Xem ra thì cuốn sách đời của bố cháu dầy lắm, những 78 chương, nếu tính mỗi năm là một chương sách. Chú hân hạnh là đã được đi chung với bố cháu trong suốt hơn 60 chương của cuốn sách này. Bố cháu và chú chỉ “lạc” nhau từ chương 75 đến chương 87 của cuốn sách, khi bố cháu đi tù cải tạo và khắc khoải sống trong cuộc đổi đời, còn chú thì vật lộn với cuộc sống mới trong những năm đầu tha hương.

Cháu Di ơi,

Hôm nọ, trong lúc chú giúp cháu soạn bản cáo phó cho bố, chú đề nghị trên cáo phó chỉ đề tên Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng là đủ. Nhưng cháu lại có ý kiến rất hay và rất đúng là thêm vào mấy chữ “nhà văn, nhà giáo”. Quả thật mấy tiếng đơn giản đó đã gói ghém tiểu sử của bố cháu.




Chú sẽ không dài dòng giới thiệu về nhà văn Thế Uyên hay nhà giáo Nguyễn Kim Dũng. Về văn nghiệp bố cháu đã cho ra đời 21 cuốn sách ở miền Nam trước 1975 và 10 cuốn sách ở hải ngoài, tổng cộng 31 cuốn thuộc đủ loại khác nhau: truyện, tuỳ bút, biên khảo, sách dịch và cả sách giáo khoa. Với chú, tên tuổi Thế Uyên đã nổi bật ngay trong truyện ngắn đầu tiên “Mưa trong sương” đăng trên nguyệt san Tân Phong năm 1959. Cái nhan đề “mưa trong sương” cực tả không khí lãng đãng sương mù của thành phố Đà Lạt, nó đã ám ảnh chú trong rất nhiều năm sau này, mỗi khi chú cùng bố cháu đi dạo chơi ở thành phố Olympia, ở Seattle, mà cảnh vật ở đây là phiên ảnh của một thành phố Đà Lạt năm xưa, với rất nhiều những ngày “mưa trong sương” như thế. Về nhà giáo, bố cháu tốt nghiệp Đại học Văn Khoa và Sư Phạm, trở thành giáo sư Việt văn dậy tại nhiều trường trung học công lập ở miền Nam.

Cả về văn nghiệp lẫn nghề giáo, bố cháu là người đi trước thiên hạ trong một số lãnh vực. Chẳng hạn như bố cháu là một trong số rất ít nhà văn tiền phong khi viết về vấn đề tình dục trong văn chương, một vấn đề mà trong thế kỷ 20 vừa qua dường như vào thời ấy người ta còn coi như cấm kỵ. Về nghề giáo, bố cháu là người tiền phong trong việc đổi mới sách giáo khoa môn Việt văn ở bậc trung học, là người đầu tiên và duy nhất đã soạn những mẫu văn từ các tác giả đương thời như Thanh Tâm Tuyền, Dương Nhiễm Mậu, Mai Thảo, Duy Lam, Thế Uyên thay vì trích các mẫu văn từ các tác phẩm thời tiền chiến, thời Tự Lực Văn Đoàn, như tất cả các sách giáo khoa Việt văn khác của thời ấy.

Về con người bố cháu là một người thẳng thắn. Đây là một đức tính quý báu. Tuy nhiên sự thẳng thắn nào cũng có cái giá phải trả. Là một người bình thường sự thẳng thắn chỉ đưa đến mất lòng của một số người. Nhưng là nhà văn thẳng thắn, thì đức tính ấy lại cần có thêm một đức tính nữa, đó là sự can đảm, và trong bao nhiêu năm trường sống bên cạnh bố cháu như một người bạn tri kỷ, chú đã nhìn thấy sự can đảm ấy trong con người bố cháu, trong sự chịu đựng rất lặng lẽ và hết sức cô đơn chống trọi với tất cả những ngộ nhận do kết quả của những gì bố cháu viết ra, cái can đảm của một nhà văn dám là mình, dám viết những điều mà bố cháu tin tưởng. 

Ngay sau khi tin bố cháu mất được loan tải chú đã nhận được rất nhiều lời chia buồn từ khắp nơi trên thế giới, và lòng của chú dịu đi, khi nghĩ rằng đã có rất nhiều người cũng tin tưởng về những gì mà bố cháu đã tin tưởng, và đó là nguồn an ủi lớn lao cho một người đã cống hiến cả một đời cho nghiệp bút như bố cháu.

Hôm nay, ngày chủ nhật 16 tháng 6 năm 2013, ngày tiễn biệt bố cháu lại tình cờ rơi vào ngày “vinh danh bố” (Father Day).


***

Tôi xin được thay mặt chị Thúy Sơn và các cháu để ngỏ lời với anh Thế Uyên. Tôi muốn nói với anh về cái tình của chị và của các cháu đối với anh trong suốt mấy tháng nay. Tôi đã chứng kiến chị hàng giờ vuốt ve bàn tay anh trong lúc anh nằm thiếp ngủ trên giường bệnh, tôi đã xúc động nhiều lần khi chị và các cháu ôm lấy vai tôi khóc. Tất cả những giọt nước mắt mà tôi chứng kiến bây giờ thật ra chỉ là phần nhỏ nhô lên của tảng băng thạch mà phần chìm của nó là những giọt nước mắt lặng lẽ mà vợ con anh đã và sẽ nhỏ xuống trong bóng đêm, bây giờ và mãi mãi mai sau. 

Với tư cách người bạn tâm giao của anh Thế Uyên tôi cũng xin được nói với chị Thuý Sơn và các cháu như thế này: anh Thế Uyên thực tình không muốn nhìn thấy những cảnh như thế, anh ấy thiết tha mong muốn chị và các cháu sống vui, bởi vì “life is for the living” như anh ấy có lần nói với tôi.

Tôi xin kể một câu chuyện vui. Câu chuyện ghi dấu câu nói sau cùng của anh với tôi: Cách đây mấy tháng, sau khi bị “stroke” lần thứ hai, anh bị mất tiếng nói. Chúng tôi đến thăm anh ở viện phục hồi. Lúc này người ta đang tập cho anh nói, nhưng thường thì anh chỉ nói ú ớ rất khó nghe, chúng tôi phải nhờ chị Thuý Sơn thông ngôn mới hiểu được ý anh muốn nói gì. Một bữa kia có một bà Mỹ, cũng là bệnh nhân trong viện phục hồi, bà ta buồn nên đi khắp các phòng lê la hỏi chuyện. Sau khi đến phòng Thế Uyên bà ta nói líu lo vài lời rồi đi ra. Anh nhìn tôi nói mấy lần tôi mới hiểu: “bà ấy là ai?”. Tôi nói đùa với anh: “Bà ấy đến thăm ông đấy!”. Sợ anh không nghe được, chị Thúy Sơn phải ghé sát nói to bên tai anh. Thế Uyên hơi nhỏm dậy, có gắng phát âm: “Rất... tiếc... tiếc.. là bà ta... không... đẹp!”. 

Đấy là lần cuối cùng tôi được nghe anh nói. 

Nguyễn Tường Thiết
















Tham khảo thêm về tác giả Thế Uyên










Nhớ Thế Uyên (1935-2013)






Nhà văn Thế Uyên 1935-2013 
(Ảnh: NguoiViet)












17.06.2013

Sáng Thứ Tư, 12/6/2013 (giờ Úc), tôi nhận được email của nhà văn Phạm Phú Minh từ California cho biết nhà văn Thế Uyên vừa mới từ trần cách đó mấy tiếng tại tiểu bang Washington, Mỹ. Đọc email xong, tôi cứ ngồi thừ bần thần suốt cả buổi sáng không làm được gì cả.

Thật ra, tôi chưa gặp Thế Uyên ngoài đời bao giờ. Tôi chỉ “gặp” ông, thoạt đầu, qua các cuốn sách và các bài báo của ông; sau đó, qua một số bức thư ông gửi cho tôi.

Trước năm 1975, lúc ông đang dạy học, viết lách và loăng quăng hoạt động trong nhóm Thái Độ với giấc mộng thúc đẩy một cuộc cách-mạng-xã-hội-không-quốc-gia-không-cộng-sản ở Sài Gòn thì tôi vẫn ngơ ngơ ngác ngác trong các trường tiểu học rồi trung học ở Quảng Nam - Đà Nẵng; sau 1975, khi tôi vào Sài Gòn thì ông nằm trong các trại cải tạo; sau đó, vượt biên, tôi sang Pháp rồi qua Úc, còn ông thì từ Việt Nam được bảo lãnh sang Mỹ. Năm 1998, viết thư cho tôi, ông xin mấy tấm hình của tôi với lý do “để sau này dễ nhận ra nhau khi gặp gỡ”. Thú thực, lâu quá, tôi không nhớ là có gửi hình cho ông không. Có điều, sau đó, tôi có dịp đi Mỹ khá nhiều lần nhưng chưa bao giờ ghé đến tiểu bang Washington, nơi ông ở, còn ông, sau lần bị stroke vào tháng 3 năm 1999, thì, nói theo lời ông trong bức thiệp chúc tết gửi tôi vào đầu năm 2001, “vẫn chống gậy lịch kịch đi gần gần và viết bằng tay trái”, chắc không thể đi đâu xa được. Vậy là cho đến lúc ông qua đời, tôi vẫn chưa được gặp ông lần nào cả.

Cũng không có gì đáng tiếc. Với nhà văn, có khi gặp trên trang sách là đã đủ. Kinh nghiệm cho tôi thấy việc gặp gỡ ngoài đời ít khi thực sự có ích cho việc đọc văn của nhau. Những nhà văn ngoài đời lớn và đẹp hơn tác phẩm của chính họ thường, phần lớn, là các nhà văn loại xoàng. Những nhà văn lớn, thực sự lớn, thì thường lớn trong tác phẩm hơn là trong cuộc sống, do đó, những cái chúng ta thấy ngoài đời thường nhàn nhạt, có khi, thậm chí, nhạt thếch, so với những gì chúng ta đọc trên trang giấy. Dĩ nhiên, tôi không hoàn toàn phủ nhận tác dụng của các cuộc tiếp xúc. Chúng có thể làm nảy nở tình bạn hoặc gợi ra một số khía cạnh nào đó khi đọc. Nhưng chúng cũng đầy bất trắc.

Bởi vậy, nghĩ đến Thế Uyên, tôi không tiếc lắm về việc không gặp được ông mà mừng vì đã đọc ông từ rất sớm, có lẽ từ những năm đầu tiên của trung học. Và đọc khá nhiều, từ truyện ngắn đến truyện dài, tùy bút, biên khảo, dịch thuật, và cả các cuốn sách giáo khoa văn học do ông biên soạn. Thích. Dù phải nói thật là không thích lắm. Có lẽ vì phần lớn các tác phẩm của ông, đặc biệt tùy bút và nghị luận, thường xoáy vào các vấn đề thời sự, những thao thức về thời cuộc, tất cả, với một đứa trẻ mới lớn như tôi lúc ấy, thật xa vời, hơn nữa, xa lạ. Điều tôi thích ở ông lúc ấy, và cả sau này nữa, không phải ở tư tưởng, mà là ở thái độ, một thái độ thành thực và thẳng thắn, hay nói toạc ra những gì mình nghĩ, dù về chuyện tình dục hay chuyện chính trị, bất kể phản ứng của người đọc hay người đối thoại. Đằng sau thái độ ấy, có lẽ đúng như Võ Phiến nhận định, là một “cá tính mạnh”. Tôi thích những người có cá tính mạnh. Nhất là trong viết lách.

Nhờ cá tính mạnh như thế, Thế Uyên, trong các tác phẩm xuất bản ở Sài Gòn trước 1975, đã có một số những đóng góp khá có ý nghĩa: Thứ nhất, ông bình thường hóa yếu tố tình dục trong các quan hệ nam nữ; thứ hai, ông cũng bình thường hóa những cách nói vốn dễ bị xem là thô lỗ và sỗ sàng liên quan đến thể xác; thứ ba, ông cung cấp nhiều chi tiết và đánh giá thú vị về Tự Lực văn đoàn từ cái nhìn của một người vừa ở trong vừa ở ngoài gia đình, với rất nhiều kính trọng nhưng lại không sa vào sùng bái và xu hướng huyền thoại hóa; và thứ tư, ông tự biến thành một hình ảnh tiêu biểu ít nhất của một số khá đông trí thức văn nghệ sĩ ở miền Nam trước năm 1975: vừa có tham vọng lại vừa ngây thơ, vừa dấn thân lại vừa lãng đãng mơ mộng, vừa sáng suốt lại vừa mù quáng…

Ở hai đóng góp đầu, tôi dùng chữ “bình thường hóa”. Ở cả hai, Thế Uyên không phải là người có công phát hiện. Ông chỉ có “công” đề cập đến chuyện tình dục và sử dụng loại ngôn ngữ liên quan đến thể xác với một tần số thật cao và, đặc biệt, với một giọng điệu thật hồn nhiên và tự nhiên khiến dần dần, người đọc thấy mọi thứ đều bình thường, bình thường đến độ, sau đó, gặp lại những chuyện ấy cũng như những cách nói ấy, không ai còn thấy sốc nữa. Thế Uyên bị phê phán, nhưng nhờ ông, những người cầm bút về sau, khi viết như ông hoặc táo bạo hơn ông, cũng thấy nhẹ nhàng hơn hẳn.

Tuy nhiên, điều tôi nghĩ ngợi nhiều nhất về Thế Uyên trong mấy ngày này không phải là chuyện viết lách của ông. Chuyện ấy, Võ Phiến đã có một bài viết thật sâu sắc và công bình trong cuốn Văn học miền Nam (truyện, tập 3, nxb Văn Nghệ, California, 1999, tr. 1461-1489). Tôi nghĩ nhiều hơn đến tính cách của Thế Uyên. Không phải tính cách như nó được phản ánh qua trang viết như điều Võ Phiến đã phân tích. Cũng không phải qua thư từ riêng tư ông gửi tôi. Mà qua những lần tranh cãi giữa ông với tôi và Hoàng Ngọc-Tuấn trên báo, chủ yếu là trên tờ Văn Học của Nguyễn Mộng Giác ở California.

Có hai lần tranh cãi.

Lần đầu, trong cuộc tranh luận chung quanh bài “Đọc… chơi vài bài ca dao” của tôi vốn đăng trên tạp chí Việt số 1 ra vào đầu năm 1998, sau đó, in lại trênVăn Học của Nguyễn Mộng Giác ở California (số 141&142, 1998). Trong bài viết, tôi đề cập đến nhiều bài ca dao, từ bài “Mình nói dối ta mình hãy còn son” đến bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa” hay “Em như cục c.. trôi sông”, nhưng chi tiết bị nhiều người phản đối nhất là cách tôi diễn dịch câu “Vân Tiên ngồi dưới gốc môn / Chờ cho trăng lặn bóp l. Nguyệt Nga” như một “cách đọc truyện Lục Vân Tiên” và cũng là một cách phê phán Nguyễn Đình Chiểu của quần chúng. Cuộc tranh luận kéo dài trên nhiều số Văn Học. Trong số những người phản đối tôi có Thế Uyên với bài “Bàn thêm về Lục Vân Tiên và ca dao với Nguyễn Hưng Quốc” (Văn Học số 143, tháng 3, 1998, tr. 23-31). Lần ấy, tôi không trả lời ai cả.

Lần thứ hai, do chính Thế Uyên khởi xướng, trong bài “Đàm luận với Nam bán cầu” đăng trên tờ Văn Học (số 155, tháng 3/1999), ở đó, Thế Uyên trích một số câu trong bài “Sống và viết như những người lưu vong” đăng trên Việt số 2 của tôi để phản bác. Hơn nữa, ông cũng trích một số câu trong thư tôi gửi riêng ông để gọi là “đàm luận”. Tôi chỉ viết bài “Vài lời minh oan”, đăng trên cùng số báo, để…minh oan vì tôi cho là Thế Uyên hiểu sai ý của tôi. Trên Văn Học số kế tiếp, 156 (tháng 4/1999), Hoàng Ngọc-Tuấn cho đăng bài “Thử bàn về một số vấn đề ‘kinh điển’ trong lý luận văn học nhân đọc bài viết của nhà văn Thế Uyên”, trong đó, với một lượng kiến thức đồ sộ từ sách vở Đông Tây kim cổ và với khả năng phân tích sắc bén, anh vạch trần từng điểm, từng điểm sai lầm trong cả kiến thức lẫn nhận thức của Thế Uyên. Sự uyên bác của Hoàng Ngọc-Tuấn rõ ràng đè bẹp cái cảm tính của Thế Uyên. Điều đó khiến Nguyễn Mộng Giác đâm ra băn khoăn ngập ngừng lưỡng lự trước khi quyết định cho đăng. Nói chuyện với tôi, anh cho biết: anh thấy tội nghiệp cho Thế Uyên.

Tôi tham gia sinh hoạt văn học đủ lâu để biết tâm lý của phần lớn giới cầm bút Việt Nam: Không khen nhau đã mệt, huống gì lại chê nhau; chê nhau bằng miệng đã chuốc oán huống gì là chê nhau trên mặt báo. Sau những lần đụng độ công khai, quan hệ bao giờ cũng bị đổ vỡ, hoặc ít nhất, rạn nứt. Có người thù suốt cả đời. Nhưng Thế Uyên thì không. Sau đó, ông vẫn viết thư cho tôi. Vẫn thân mật. Vẫn khen tạp chí Việt và một số bài viết của tôi. Tháng 9 năm 2002, không biết là Việt đã đình bản, ông hỏi: “Tôi hiện vẫn một tay và một chân rưỡi. Nhưng đã hồi phục đủ để thấy thích viết văn trở lại. Do đó, chủ đề số tới là gì vậy, xem tôi có thể đóng góp được không (nếu Việt chịu được lối viết của tôi, giản dị và ít dẫn chứng ông Ov bà Ef, lại đôi khi để cái ‘tạng’ nó chi phối!).” Khi biết Việt bị đình bản, ông vẫn gửi bài đăng trên Tiền Vệ, tờ báo mạng do Hoàng Ngọc-Tuấn và tôi chủ trương. Hồi ký “Tự thuật văn học” kéo dài 19 kỳ của ông, ông gửi đăng trên Tiền Vệ chứ không phải ở bất cứ đâu khác.

Thái độ của Thế Uyên, rất người lớn và cũng rất chuyên nghiệp, tôi nghĩ, rất hiếm có trong giới cầm bút. Nó khiến tôi kính phục ông.

Nghe tin ông mất, nghĩ về ông, điều ám ảnh tôi nhất chính là cái thái độ ấy. Và chợt thoáng lên chút tiếc nuối: Phải chi được gặp ông để cụng với ông một ly rượu. Coi những chuyện cãi cọ cũ như “chiếc lá bay”, như “hạt bụi”, hoặc cùng lắm, như “hơi rượu say”.



















Hoàng Khởi Phong - Phỏng vấn nhà văn Thế Uyên

Chủ Nhật, ngày 16 tháng 6 năm 2013


Hoàng Khởi Phong
thực hiện



Cách đây một khoảng thời gian chưa lâu, Hoàng Khởi Phong có thực hiện một cuộc phỏng vấn nhà văn Thế Uyên trực tiếp và nhanh qua điện thoại, cho đài phát thanh Á châu Tự do (RFA). Đã bị hạn chế thời lượng khi hỏi, đến khi phát thanh, vì một lý do kỹ thuật, lại giảm một nửa thời lượng dự trù ban đầu, do đó thính giả đài RFA chỉ được nghe phân nửa bài. Nhà văn Thế Uyên là người vẫn được biết từ lâu về tính hay nói thẳng và nói thật về mọi sự ở đời, đã quen với sự bài viết bài nói của mình bị cắt xén nhiều hay ít, trước sự trục trặc này, chỉ tuyên bố giản dị: “Tôi thích nhiều câu hỏi của bạn. Khi nào có dịp, chúng ta làm lại từ đầu, và lần này sẽ đăng ở các báo thường cũng như báo điện tử...” Mời các bạn đọc theo dõi cuộc phỏng vấn lần 2, dưới hình thức hỏi đáp của hai đứa chúng tôi. Xin đừng ngạc nhiên khi thấy nó không giống lần 1 bao nhiêu. - Hoàng Khởi Phong


Giới thiệu Thế Uyên. 

Đang cư ngự ở Seattle, nhà văn Thế Uyên tên thực là Nguyễn Kim Dũng, sinh năm 1935 tại Hà Nội, trong một gia đình có truyền thống văn học. Mẹ ông là em ruột nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và là chị nhà văn Thạch Lam. Nói một cách khác, nhà văn Thế Uyên và người anh ruột Duy Lam đã được ươm bằng chữ nghĩa, ngay từ khi còn trong trứng nước, do đó người ta không lạ khi vừa qua tuổi 20, bút hiệu Thế Uyên đã hiện diện trong làng báo, và chỉ một thời gian ngắn sau đó, ông là người sáng lập tạp chí Thái Độ, như là một điểm khởi hành mới trong hành trình chữ nghĩa cho chính bản thân ông. Ông là tác giả của các tác phẩm nổi tiếng trong chiến tranh Việt Nam như Mười ngày phép của một người lính, Tiền đồn ... Và đặc biệt hơn cả, ông là một trong những số rất ít nhà văn tiên phong trong việc đụng tới vấn đề tình dục, một vấn đề mà dường như văn học Việt Nam coi như một đại kỵ trong thế kỷ 20 vừa qua.









Về đời thường, nhà văn Thế Uyên nguyên là một nhà giáo, dạy học tại nhiều trường trung học công lập ở miền Nam, rồi thuyên chuyển lên Ban Mê Thuột trước khi bị động viên vào khoá 14 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cùng một lượt với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền. Sau 1975, cũng như hàng trăm ngàn sĩ quan của miền Nam, ông bị đi tù cải tạo một thời gian, trước khi đến định cư tại Mỹ. Cách đây vài năm ông bị “stroke”, bị tê bại một nửa người, phải ngồi trên xe lăn để di chuyển trong nhà, nhưng nhờ nghị lực phi thường ông đã tập viết lại bằng tay trái, và đã viết bài cho các tạp chí văn học hải ngoại. Dưới đây là nguyên văn cuộc mạn đàm giữa hai chúng tôi.


Hoàng Khởi Phong (HKP): Xin chào nhà văn Thế Uyên. Chúng tôi xin đi thẳng vào câu chuyện tình dục trong văn học và xin đặt câu hỏi đầu: Gần đây có một số nhà văn nữ trong và ngoài nước đã đề cập mạnh đến vấn đề tình dục trong các tác phẩm của họ. Ông là một nhà văn thế hệ trước, từng viết các tiểu luận cũng như trong tác phẩm đã đề cập đến vấn đề này, ông nghĩ gì về tình dục trong các tác phẩm văn học? 

Thế Uyên (TU): Điều đó là tốt và tự nhiên thôi. Trong một thời gian dài nhiều thế kỷ, các cụ chúng ta coi thường phụ nữ, coi như một thứ dân hạng 2 để thỏa mãn nhu cầu tính dục cho đàn ông, để sinh con đẻ cái và để lao động... nên không quan tâm cho lắm đến sự việc đàn bà cảm thấy những gì, nghĩ gì. Nếu có, thường là đàn ông nghĩ hộ... Đến đầu thế kỷ 20, mới có Anais Nin, người tình của của nhà văn Mỹ Henry Miller, viết một số truyện ngắn và một hồi ký gợi dục, erotic, làm ồn thế giới văn học đàn ông chiếm ưu thắng tuyệt đối. Sau đó, với phong trào giải phóng phụ nữ lan tràn, càng ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia thế giới văn học, kể cả gợi tình gợi dục, và không thiếu những nhà văn nữ hăng hái vượt rào sang địa hạt gợi dâm và dâm ô luôn.

Khi định cư nhiều năm ở thế giới Tây phương, các phụ nữ Việt Nam di dân cũng biến chuyển theo cùng tiến trình với dân địa phương, với cả tư cách độc giả và tác giả. Bởi thế sự xuât hiện của các Mai Ninh ở Âu châu, những Dương Như Nguyện, Lê Thị Thấm Vân và nhiều nữa ở Mỹ châu, là sự kiện tiến hoá tự nhiên thôi. Còn ở Việt Nam, từ hơn ngàn năm quen mô phỏng, bắt chước Trung Hoa, thì khi có cô Vệ Tuệ xuất hiện và không bị nhốt tù, đó là một thứ bật đèn xanh cho các nhà văn nữ Việt Nam xông lên nhân dịp có “cởi trói” và “Đổi Mới”. Đợt đầu có Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài... còn hiện nay đợt sóng mới trẻ trung đông hơn nhiều: Đỗ Hoàng Diệu, Lynh Bacardi, Đình Đình, Nguyễn Ngọc Tư...


HKP: Cuộc đời ông có thể chia làm bốn giai đoạn: thời thanh xuân trước khi đi lính, thời gian tại ngũ, thời gian ở tù và thời gian ở hải ngoại. Trong mỗi giai đoạn này ông đều có tác phẩm, không ít thì nhiều các tác phẩm này đều đả động tới vấn đề tình dục. Xin hỏi ông có gì thay đổi trong suy nghĩ của ông về vấn đề tình dục qua từng giai đoạn của đời sống?

TU: Thời thanh xuân: tôi khá độc lập trong suy nghĩ, nghĩa là mặc dù kính trọng các ông Khổng, Thích Ca, Jesus... và các triết gia tai to mặt lớn của nhân loại, các vị đó không hạn chế được tư tưởng lông bông của tôi. Với nhiều vấn đề, tôi hay suy nghĩ lấy, suy nghĩ khác, suy nghĩ lại. Chẳng hạn, thấy đa số các nhà văn tiền bối, khi mô tả tình yêu giữa nam và nữ, thường chỉ tả có một nửa, nghĩ là chỉ mô tả phần hồn, mây sao trăng và hoa lá, không tả một câu nào về phần thể xác, nghĩa là chỉ tả tình cảm, bỏ qua thân xác, nhà văn trẻ là tôi không chịu cho thế là đúng, phải tả cả hai diện mới là đủ. Và nghĩ sao làm thế liền, bất chấp mọi khó khăn. Truyện ngắn đầu tay “Những hạt cát” mới chỉ loanh quanh nấn ná một chút ở phần “hình nhi thượng” cô gái, Nhất Linh hình như đã đoán thấy âm mưu sẽ hạ thấp kiểu mô tả xuống đến rốn và dưới nữa, của đứa cháu ngoại này (cháu bên ngoại, và ngoại khuôn khổ), nên từ chối không đăng trên tạp chí ông chủ biên thời đó là Văn Hoá Ngày Nay.

Thời tại ngũ: Nếu nghề dạy học đã làm tôi hút thuốc lá từ lúc trẻ cho tới khi bị stroke, thì nghề làm lính làm tôi thích bia rượu và thay đổi hẳn quan niệm và cách viết văn. Tôi từ bỏ (hay bị từ bỏ, vì hoàn cảnh sống có tác động mạnh đến bút pháp) lối viết và đề tài cũ, giã từ những mối tình trai gái lãng mạn trong thành phố an bình, chuyển sang chiến tranh và các hệ luỵ của nó. Với tôi, quân đội và chiến tranh, như một vết cắt, thành trước và sau, before and after, trước sex vẫn hiện diện, nhẹ nhàng thôi, bây giờ sex nặng nề, tràn đầy. Như trong Tiền đồn, Mười ngày phép của một người lính, Nỗi chết không rời... Về sau có lần tự phân tích, tôi cho rằng chiến tranh có trách nhiệm trong sự kiện đó. Nhà văn Võ Phiến (một người không đi lính và không ở tiền tuyến với súng đạn chông mìn) không đồng ý với phân tích đó, cho rằng chiến tranh vẫn có đó, cho nhiều người, nhưng không liên quan gì đến tăng hay giảm sex trong văn chương... Tôi tôn trọng ý kiến nhưng không đồng ý với bậc đại trưởng lão này. Để tránh tranh cãi, tôi xin nói lại thế này: Riêng đối với cá nhân tôi, đang khi và sau khi rời mặt trận, tôi cảm thấy phải sử dụng tới sex, tới làm tình, nghĩa là sự sống, tạo sự sống, mới diễn tả được chiến tranh, sự chêt, huỷ diệt. Tôi cảm thấy thế thì phải viết như thế, thật tự nhiên, không gò ép.

Thời gian ở trong tù: Một nhà văn Pháp không mấy nổi tiếng, Jean Larteguy, có viết nhiều về chiến tranh Đông Dương. Trong cuốn Les centurions, ông đã để cho một sĩ quan Pháp, khi được tha khỏi một trại cải tạo, nói về sex như thế này: C’est la grande paix dans le pantalon (Đại hoà bình ở trong quần), nghĩa đen là con chim không hề ngóc đầu dậy... Nỗi buồn thất trận, thân phận tù đầy, ăn uống quá thiếu thốn, lao động quá nặng, sống xa dân trong rừng núi... là những lý do. Hơn nữa kỷ luật trại về sex nghiêm khắc như trong các chủng viện, và cấm tuyệt đối viết văn làm thơ, trừ khi có lệnh chỉ định người nọ phải đóng góp cho bích báo của trại. Không có lệnh trên mà cứ viết, là bị biệt giam, nhốt hầm, cùm chân cùm tay. Như Nguyễn Chí Thiện, Phan Nhật Nam... Tôi vốn vui tính về văn chương của mình: không cho viết nữa, thì thôi, ta đi chơi trò khác chỗ khác. Bởi thế không có, không thể có tác phẩm nào, trong thời kỳ này, ngoại trừ một vài tiểu phẩm viết sau khi được tha.

Thời gian ở hải ngoại: Trước đây văn chương Mỹ cũng kỵ sex như văn chương Việt. Sau đệ nhị thế chiến mọi sự đã thay đổi nhiều, nhất là từ cuộc sex revolution, sexplosion, trong thập niên 60 thế kỷ 20. Kể từ đó ai muốn viết nhiều sex ít sex tuỳ thích, ai muốn cởi nhiều cởi ít hay cởi hết tuỳ ý, như chúng ta, những di dân tới sau, thấy hiện nay. Những nhà văn như tôi dĩ nhiên vui vẻ hưởng thứ tự do này, dù bị chê bai mắng mỏ bởi không phải là ít những đồng hương mang theo trong ba-lô nhập nội Mỹ những quan niệm xưa, những cấm kỵ của một giáo xứ nông nghiệp châu Á... Nếu tôi viết tiếng Anh, Pháp... cho người bản địa đọc, thì tự do lắm. Còn viết tiếng Việt cho người Việt hải ngoại (và hải nội, đọc qua Net), thì còn nhiều hạn chế. Bởi thế tôi thường dành quyền edit rộng rãi cho các chủ biên, chỉ la oải lên một tí nếu bị edit mất tiêu cỡ 1/3 hay hơn bài văn. Trên báo giấy, báo điện tử hay báo nói...


HKP: Những gì ông trả lời trong hai câu hỏi trước thuộc về các tác phẩm văn học, nhưng trong đời thường ông sẽ hành xử như thế nào nếu như con cháu trong nhà sống hoàn toàn tự do về tình dục như một số nhân vật trong tác phẩm của ông?

TU: Xin lỗi ông bạn cũ một chút, câu hỏi trên đã đặt trên một số các giả đoán. Trước hết, cái thời mà tác phẩm văn học có nhiều ảnh hưởng tới người đọc, đã qua hơi lâu rồi. Các con cháu chúng ta hiện nay, kể cả ở nội địa, chịu nhiều ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông hiện đại khác, như điện ảnh, video, game điện tử... chưa kể hệ thống TV/cable phong phú. Ảnh hưởng của văn học vẫn còn, nhưng khiêm tốn thôi.

Riêng về con cháu chúng ta ở hải ngoại, chúng không thuộc thế hệ một ½ thì cũng thế hệ thứ hai. Tôi toàn con trai, ba đứa đã có vợ con và nói chung chúng nghiêm túc hơn bố. Tôi không chắc chúng có đọc tác phẩm của bố hay không -- thế giới văn hoá của chúng bằng tiếng Anh, Pháp... nhiều hơn. Còn mấy đứa cháu, sáu đứa tính tới lúc này, chúng là thế hệ 2 rồi, bập bẹ tiếng Việt với ông bà mấy câu thông dụng, là vui thôi, mặc dù bố mẹ nhắc nhở thường xuyên là phải nói tiếng Việt. Khi đã lớn mới hiểu đa ngôn ngữ đa văn hoá là một ưu điểm, mới lại cắp sách trở lại các lớp Việt ngữ. Cứ như thế làm sao đủ khả năng thưởng thức tác phẩm của tôi, nói chi tới ảnh hưởng.

Có một vài nhân vật của tôi thoải mái về tình dục, chứ không tự do phóng túng đâu. Nhưng so với các nhân vật của các tác giả nữ hiện đại, kể cả nội địa, sợ các cô các bà ấy chê là “xưa rồi”...


HKP : Thưa nhà văn Thế Uyên, ông nghĩ gì về một hiện tượng văn học đang làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước, chúng tôi muốn đề cập tới các tác phẩm của Đỗ Hoàng Diệu, Lynh Bacardi, Lê Thị Thấm Vân...

TU: Tôi đã là người viết những bài giới thiệu/phê bình cả ba nhà văn nữ anh vừa nhắc trên, khi viết cuốn biên khảo: Tình dục với các nhà văn nữ Việt Nam, trong và ngoài nước. Khoảng hơn 20 bài. Không phải chỉ có thế, gần đây trong nước còn xuất hiện thêm Đình Đình, Vũ Lê Phương Trinh, Y Ban...

Có thể cắt nghĩa hiện tượng hay phong trào phụ nữ viết văn erotic, dâm tình như sau: Ngoài nước, con gái được học nhiều và cao như con trai, đã quen thuộc với các tác phẩm nhiều sex trong học trình (dĩ nhiên nếu theo học khoa học xã hội, nhất là văn học), như Lady Chatterley’s Lover (D.H Lawrence), bộ Tropiques của H. Miller... do phái nam viết, nữ có Anais Nin (Henry and June, Delta of Venus...), Paule Reage (Story of O.)... Khi đến lượt họ viết văn, khi cần (không phải lúc nào cũng cần) họ cũng viết nhiều sex hoặc erotic như vậy, cho như thế là tự nhiên, không thấy “sốc” lớn nhỏ chi hết. Ở nội địa, từ khi có Đổi Mới, Đảng nới lỏng giây trói cho sách dịch, do đó những romances Mỹ, Trung quốc... nhiều những đoạn erotic khỏi chê, vẫn được in ra và thường bán chạy, làm độc giả quen dần với truyện nhiều sex. Vậy... (xem trên)

Mặt khác cũng có thể cắt nghĩa bằng sự kiện xã hội nào bị áp chế bởi một hệ chính quyền chuyên chế hay bởi các giáo lý hay giáo phẩm quá thanh giáo, đến độ các vấn đề tình yêu và tính dục bị đè bẹp dí, dồn nén tối đa, thì sự vùng lên của lớp trẻ, lớp người mới, thường bắt đầu cứ nói nhiều về sex trong địa hạt văn chương.


HKP: Theo ông, viết về tình dục có nhất thiết phải rõ mồn một những chi tiết cụ thể các động tác của hành vi làm tình. Nói một cách khác, theo ông, trong văn học có một biên giới nào giữa “erotic” và “porno” là hai từ ngữ khi dịch sang tiếng Việt thì rất mơ hồ?

TU: Không nhất thiết mọi sự “phải thật rõ mồn một” như ông bạn nói. Còn rõ tới đâu, thì tuỳ hai thứ. Thứ nhất là tuỳ người viết muốn rõ tới đâu, cũng như nhà nhiếp ảnh căn độ rõ/mờ của tấm hình. Có thể nói mỗi nhà văn có một mức độ rõ riêng, kiểu riêng, như bút pháp vậy. Thí dụ như Lê Xuyên có tiếng là viết văn “mặn”, nhưng toàn chụp xa, độc giả phải tưởng tượng vì có thấy cái gì đâu. Và lại còn tuỳ theo đề tài truyện, tuỳ theo tuổi tác của nhà văn (Nhất Linh hồi trẻ sương khói mù mịt chẳng thấy gì cả, khi về già ông viết rõ hơn nét hơn).

Thứ hai là tuỳ theo resume của từng người đọc. Đưa cho một nữ tu đọc thì Gone with the wind cũng là “dâm ô” lắm rồi, trong khi đối với một người trung bình, truyện đó xếp loại lãng mạn... kiểu Tự Lực Văn Đoàn.

Còn biên giới giữa erotic và porno? Một thẩm phán Tối Cao Pháp Viện Hoa-kỳ đã có lần phán như đùa: “Thế nào là dâm ô? Tôi biết khi tôi trông thấy nó” ... Còn giữa tôi với bạn thì có thể tạm dùng hai tiêu chuẩn: mục đích của người viết và tác động trên người đọc. Người viết mượn sex để diễn tả một cái gì khác, con cu và cái nghêu vẫn ở thể tĩnh, bất động. Đó là erotic, gợi tình gợi dục, dâm tình. Còn porno dứt khoát dịch là dâm ô, dâm dục, là bên này ranh giới rồi, tác giả viết cốt để kích thích dâm tính người đọc, làm con chim chuyển sang tính cứng, cái nghêu chuyển sang tính ướt...


HKP: Thưa nhà văn Thế Uyên, giờ thì chúng ta tạm ra khỏi lãnh vực tình dục trong văn chương để bước xuống đời thường. Xin ông cho khán thính giả được biết những nỗ lực vô bờ của ông trong khi tập lại tay chân sau khi bị liệt nửa người?

TU: Ngoài chữ “vô bờ” anh vừa dùng, tôi muốn thêm chữ “bất tận” vì tôi khởi sự tập, bị tập thì đúng hơn, ngay từ lúc rời khỏi phòng cấp cứu, cho đến tận lúc này. Mới đầu là tập nhúc nhích, tập ngồi cho vững và lâu, tập ngồi trên xe, tập đứng không đổ... Ngưng tập vài ba hôm, là thấy muốn nằm bẹp một chỗ luôn. Tôi hay nghĩ rằng nếu giàu có, đến được các phòng tập chuyên biệt với các chuyên viên thượng thặng, tôi có thể đi lại được không cần gậy và xe lăn. Nhưng thôi, để một chút gì để ước mơ, mơ màng...


HKP: Xin ông cho biết trong thời gian là sĩ quan QLVNCH, ông nghĩ gì khi hoàn thành các tác phẩm Mười ngày phép của một người lính, Tiền Đồn, Nghĩ trong một xã hội tan rã... Ông nghĩ gì về chiến tranh và hai thế lực đối chọi là miền Nam và miền Bắc?

TU: Một câu hỏi quá lớn và phức tạp, không thể trả lời vắn tắt trong một buổi phỏng vấn mà không gây ngộ nhận. Tôi xin nói về một vài điểm thôi. Trong Mười ngày phép..., tôi đã viết người lính Việt Nam phải chiến đấu cho các thế lực ngoại lai, Nga Mỹ Pháp Tàu... Hồi đó, một cơ quan truyền thông của Anh đã mỉa mai: “Trung quốc sẵn sàng chiến đấu cho đến người bộ đội... Việt Nam cuối cùng.” Còn một chức sắc Mỹ tuyên bố: “Biên giới Hoa kỳ là sông Bến Hải, VNCH là tiền đồn của Thế giới Tự do...” Trong Tiền đồn, chị Ba nông dân tượng trưng cho dân Việt cả Nam lẫn Bắc, phải, được và bị làm tình với cả ba phe lâm chiến hồi dó.

Trong Nghĩ trong một xã hội tan rã, tôi phân tích phải trái đúng sai rồi tiên đoán Mỹ sẽ rút quân khỏi Việt Nam và quân đội VNCH sẽ tan rã như chúng ta sẽ thấy trong năm 1975. Nhà thơ Tô Thuỳ Yên đọc xong cuốn đó đã nói như đùa: “Thế Uyên là một nhà tiên tri bi thảm...” Không biết ngày xưa các tiên tri có lương bổng gì không, còn thứ tiên tri là tôi ấy thì bị ghét bỏ ghê lắm, từ thời đó tới hiện nay.

Nói cho cùng, tôi vẫn thích chế độ Việt Nam Cộng Hoà, dù bị công giáo bảo thủ khống chế, ít nhất cũng vì họ để tôi sống, viết và xuất bản những cuốn sách như thế. Rất đáng với công tôi cầm súng để bảo vệ trong bao nhiêu năm... Chế độ miền Bắc, từ lúc thành lập 1945 cho tới hiện nay, mặc dù Đổi Mới có làm khá lên, cũng khó mà dung được một nhà văn tương đương như... tôi trong lòng chế độ họ.


HKP: Nhân đây chúng tôi xin được đặt một câu hỏi về thời gian bị đi tù cải tạo, ông đã gìn giữ tinh thần và thể xác như thế nào?

TU: Giữ gìn tinh thần: Đây là điểm quan trọng nhất, tôi xin nói trước về phần tôi thôi. Khi đã được phép viết thư về nhà, vợ tôi viết lên an ủi như thế này: “Anh vẫn có dự tính sang Israel sống trong nông trường tập thể kibboutz ½ năm, xem có thể áp dụng cho lớp trẻ Việt Nam sau này không. Nay anh đang sống trong một thứ nông trường tập thể tương tự... lại được chung sống với đồng đội nữa... vui chán còn gì nữa...” Đọc thư này, tôi biết cô vợ nhỏ nhắn vui tính chọc quê tôi, nhưng có phần sự thật ở trong. Tại sao không nhìn thấy những cái vui và buồn của đời cải tạo? Tôi vẫn là kẻ lạc quan: thấy ly có nước, nói: May quá hãy còn đầy một nửa... chứ không bứt đầu bứt tóc than: Than ôi khổ thân tôi chưa, ly nước chỉ còn có một nửa. Tôi thuộc thành phần ngồi nhìn ngắm mấy bông hoa cỏ trong hàng rào kẽm gai, chứ không đứng đó nguyền rủa kẽm gai và khóc cho thân tù đầy.

Khi bị đói đến nỗi chỉ nằm mơ được mời ăn tiệc, thì tỉnh dậy, ta đi một đường mưu sinh đã học ở trường võ bị: cào cào, kiến, bò cạp, rắn rết... đều là protein, ta cứ việc xơi tươi hay nướng chui, theo phương châm cái gì nhúc nhích là cái đó ăn được. Cán bộ dùng cái đói để xuyên qua dạ dầy khống chế tinh thần, để dễ dàng “tẩy não” học viên, chứ không định giết chết họ bằng cái đói (nếu họ định làm thế, số cải tạo bi chết sẽ cao hơn nhiều). Ra khỏi trại nhiều năm, tôi mới “ngộ” ra cái mà Đảng CS cần đạt nhất là bẻ gẫy, triệt tiêu ý chí đấu tranh của cải tạo viên, tạo phản ứng phản xạ sợ công an. Tương tự như cấy sinh tử phù, bắt uống tam thi não thần đơn trong truyện võ hiệp Kim Dung.

Còn nỗi buồn thất trận ở tôi nhẹ thôi, vì tôi vẫn nghĩ rằng “được làm vua, thua làm nguỵ (hay giặc).” Bởi thế tôi ít bị chấn thương chiến tranh hơn một số đồng đội cũ... Còn về thân xác, tôi chọn giải pháp khoẻ nhất là sống theo tiếng kẻng, kẻng dậy, kẻng ăn sáng, kẻng lao động, kẻng nghỉ... Không quên tập thể dục hàng ngày dù có lệnh hay không. Ráng tuân theo nội qui, thu hình cho bé lại, một người như mọi người, ai sao ta vậy, nín thở qua sông... Và giữ được như thế, không phải là dễ đâu. Quản giáo vệ binh nhiều kẻ không chịu được một thái độ mà họ qui chụp là ngạo mạn, họ luôn tìm dịp và cơ hội để hành tôi, biệt giam hay nhốt Conex hay hầm tối (không tốt cho sức khoẻ chút nào!).


HKP: Có dư luận không mấy thiện cảm với ông, vì họ cho là ông đã viết một bài ký, hay truyện ngắn gì đó có tên là “Giáng sinh trong rừng Katum” trên tờ Đứng Dậy, một tờ báo của linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan, mà trong đó có vài đoạn mà nhiều người cho rằng ông ca tụng chế độ Cộng Sản. Ông muốn nói gì về việc này?

TU: Có chứ. Điều thứ nhất là xin nhắc là mọi lời nói, chữ viết, nhất là chữ in ra, thời đó, đều phải theo đúng đường lối chính sách của Đảng CS. Đang đói thấy mồ ông nội ông ngoại, nhưng có ai hỏi tới, nhất là người ngoài, phải tuyên bố ngay “nhờ có Bác, Đảng và Nhà Nước, chúng tôi no đủ, không thiếu thốn điều gì, sung sướng lắm...” Tôi đứng tên tác giả hai bài ký đó, nhưng nhiều điều tôi viết chỉ là “bài bổn” thôi. Như những bài văn bài báo khác. Ngay bây giờ, sau vụ đó gần bốn mươi năm, có Đổi Mới rồi, các nhà văn nhà báo ở Việt Nam hiện nay, năm 2007, mới chỉ nói được một phần ý tưởng của mình thôi, và chỉ về những vấn đề Đảng cho phép. Và vẫn phải nói dối nói trá về khá nhiều điều. Bởi vì nói dối nói bịa là một đặc tính của nền chuyên chính vô sản, “sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”

Có một điều tôi nói khá thật trong hai bài ký ở Đứng Dậy hồi đó, là trong một buổi chào cờ đầu năm trong trại cải tạo Katum, khi thấy lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện (từ 30 tháng 4/75, chỉ thấy cờ Mặt Trận Nguyễn Hữu Thọ xanh vàng đỏ) tôi chấp nhận lá cờ đó là cờ của nước Việt Nam. Khoan nói đến địa hạt tình cảm, thích hay không thích, de facto cờ đỏ sao vàng là cờ của nước Việt Nam thống nhất. Điều đó là đúng sự thực, cũng đúng thật như cờ vàng ba sọc đỏ là cờ Việt Nam Cộng Hoà, một quốc gia yểu tướng chỉ tồn tại được có 21 năm (1954-1975) ở Đông Nam châu Á.

Bây giờ lá cờ vàng ba sọc đỏ được một số tiểu bang ở Mỹ công nhận là cờ biểu tượng của cộng đồng di dân Mỹ gốc Việt. May quá, vì về tình cảm, trong những lễ lạc ở Mỹ, tôi vẫn thích đứng nghiêm chào lá cờ vàng sọc đỏ, trong ý thức sáng suốt là nó chỉ tượng trưng cho một quốc gia đã mất. Lâu rồi...


HKP: Ông có thể cho biết bí quyết nào khiến cho ông giờ đây chỉ còn hoạt động được một nửa người, và đã bước vào tuổi bẩy mươi mà ông vẫn cho thấy một tấm lòng ngùn ngụt với văn chương và chữ nghĩa?

TU: Làm gì có bí kíp nào. Hoạ chăng nhờ may mắn là lấy được một cô vợ xinh xắn hiền thục, vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con (và cháu). Và khéo cả làm bếp nữa...

Ngoài ra có lẽ tại tôi cố giữ tinh thần lạc quan trong mọi tình huống, kể cả tình huống không lạc quan vào đâu được, như mấy tháng đầu sau khi bị stroke. Ngoài ra tôi ráng tránh không oán thù ai nhiều và lâu. Cái gì rồi cũng qua đi thôi. Hết chưa nhỉ? Còn. Tại tôi thích viết văn cho mọi người đọc cho vui. Như cụ Nguyễn Du đã phán: Mua vui cũng được một vài trống canh... Tại libido của tôi phong phú trên trung bình một chút chăng, tôi cũng chẳng biết rõ... Sau cùng chắc là cái “tạng” tôi nó thế...


HKP: Giờ đây với quĩ thời gian không còn nhiều, điều gì ông cho là quan trọng hàng đầu cho một nhà văn ?

TU: Sự thành thật, tự do viết, kiến thức và kinh nghiệm. Tôi thường hay góp ý với một vài bạn trẻ: nếu có thể, đừng nên viết về những gì mình chưa hoặc không trải qua. 



Thế Uyên trả lời xong tháng 5/07, Seattle.
























Thế Uyên



Thế Uyên và thủ bút



Tên: Nguyễn Kim Dũng. Bút hiệu: Thế Uyên. Ngày sinh phỏng định: 16-3-1935 tại Cửa Ô Yên Phụ, Hồ Tây, Hà Nội. Ngày sinh đúng: 14 tháng 8 năm Ất Hợi. Viết văn từ năm 1960.



Tác phẩm:

1. Những hạt cát, truyện ngắn, 1964, Thời Mới xuất bản lần 1, 2 và
3
2. Mưa trong sương, kịch, Thời Mới xuất bản, 1964
3. Ngoài đêm, truyện ngắn, Nguyễn Đình Vượng xuất bản, 1965, Khai Trí tái bản 1970
4. Mười ngày phép của một người lính, đoản văn, Nam Sơn xuất bản, 1965, Khai Trí tái bản, 1971
5. Những ý nghĩ của bọt biển, đoản văn, Nam Sơn xuất bản, 1966
6. Nỗi chết không rời, truyện ngắn viết chung với Duy Lam, Nguyễn Đình Vượng xuất bản, 1966, Văn Uyển tái bản, 1969
7. Tiền đồn, truyện dài, Thời Mới xuất bản 1967, Khai Trí tái bản, 1971
8. Nghĩ trong một xã hội tan rã, tiểu luận, Thái Độ xuất bản, 1967, tái bản 1969
9. Bản tình ca, truyện ngắn, Thái Độ xuất bản, 1968
10. Chiến tranh cách mạng, tiểu luận, viết 1965, bổ túc 1968, Thái Độ xuất bản, 1968
11. Những người đã qua, đoản văn, Văn Uyển xuất bản, 1968
12. Kỹ thuật tuyên truyền chính trị, dịch J.M. Domenach, Thái Độ xuất bản, 1969
13. Tình dục, tuyển dịch Quốc Tế, Thái Độ xuất bản, 1969
14. Căn nhà người mẹ, đoản văn, Trí Đăng xuất bản, 1971
15. Đoạn đường chiến binh, đoản văn, Lá Bối xuất bản, 1971
16. Tiểu luận 3, Thái Độ xuất bản, 1971
17. Mưa trong sương, truyện ngắn, Nguyễn Đình Vượng xuất bản, 1971


Đã cộng tác với: 
Tân phong, Văn học, Bách khoa, Khởi hành (Chí), Chính luận, Tiếng nói dân tộc, Điện tín (Báo), v.v.





Thế Uyên và ý thức cách mạng trong văn chương

“Xã hội tác động vào con người làm con người có phản ứng là suy nghĩ. Suy nghĩ đưa đến kết quả là sự lựa chọn một thái độ. Thái độ này như thế nào tùy thuộc tâm hồn từng người: thái độ lớn, rõ rệt, sâu đậm là thái độ của các tư tưởng gia, các vĩ nhân tạo thời thế. Thái độ nhỏ, mơ hồ, mờ nhạt là thái độ của con người thông thường…”
(Thế Uyên)

Thế Uyên, nhà văn trẻ đã vào đời bằng một thái độ. Thái độ đó được hình thành và xuyên qua văn chương để chấp nhận hay phản đối những gì mà nhà văn cảm thấy, nghĩ tới, do đời sống đưa lại với từng dữ kiện hiển nhiên, xác thực.

Trên nguyên lý, văn chương là một-cái-gì phù phiếm, nhằm mục đích đánh lừa thực tại, để ru người đọc vào một khung cảnh, một thế giới nào đó, do óc tưởng tượng của nhà văn thích như vậy, muốn như thế. Nhưng ngoài nguyên lý trên, đích thực, văn chương còn có khả năng và nhiệm vụ: chuyên chở, phổ biến từng sự việc hay những sự việc, từ một tâm hồn đến muôn vạn tâm hồn để tỏ bày thái độ. Thái độ của cá nhân, có thể đúng, có thể sai đối với đa số, nhưng thái độ là một cần thiết cho mỗi con người làm văn học nghệ thuật để chứng minh giá trị qua cá tính độc đáo và sung mãn ở mỗi cương vị người cầm bút. Sự thực, ở đời con người cứ sống mà không cần thái độ, cũng như không phải nhờ xã hội tác động mới biết suy nghĩ, hoặc có thể cứ suy nghĩ mà chẳng cần bày tỏ hay chọn lựa gì cả theo định nghĩa của Pascal: con người là một động vật siêu hình (l’homme est un animal métaphysique).

Những người làm văn học nghệ thuật hôm nay, họ đã can đảm nhìn vào sự thực, tức là cái nhìn vào bản chất đích danh của đời sống cũng như con người trực diện, để nhận xét và phán đoán, đôi khi quá nghiêm khắc ngay cả với mình.

Thế Uyên bước vào văn học với thái độ cứng rắn của lứa tuổi trên 20. Cái nhìn, cái biết và cái hiểu của Thế Uyên đối với cuộc sống đều đi qua chiến tranh, bất công của mỗi số phận, trong guồng máy sinh hoạt thường nhật do xã hội hình thành và chi phối. Bởi đó, mỗi xúc động, mỗi suy nghĩ của Thế Uyên đều chứa chấp trọn vẹn sự hờn giận, phẫn nộ pha thêm đớn đau, chua xót! Khởi hành từ trạng thái trên, Thế Uyên đã bày tỏ từng ý nghĩ bỏng cháy của mình qua rất nhiều khía cạnh, ở đấy, mọi sự kiện được trình bày đều nhuốm màu bi thương, phẫn uất, ngay cả vấn đề tình yêu.

Thế Uyên bước vào nghề văn không do tình cờ hay được hỗ trợ bởi hoàn cảnh, mà hiển nhiên là sự dấn thân, một tình nguyện. Khi cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, cả dân tộc Việt Nam hò reo ăn mừng độc lập, Thế Uyên mới được 10 tuổi, còn ấu thơ, chưa qua khỏi ngưỡng cửa Tiểu học. Rồi chiến tranh toàn quốc chống Pháp bùng nổ hơn một năm sau, Thế Uyên cũng vẫn còn nguyên là đứa bé lẽo đẽo theo gia đình tản cư chạy loạn. Nói về ý thức lúc ấy, quả thực Thế Uyên chưa có một chút ý thức nào về cuộc sống, về chiến tranh cũng như hoàn cảnh chính trị với Nhất Linh, Hoàng Đạo và nhóm Tự Lực Văn Đoàn là những phần tử đối nghịch với Cách mạng dạo đó. Nếu có biết một phần rất nhỏ nào về “huyền thoại hoạt động” của các chú, các bác cũng đều do sự “nghe lỏm” giữa những câu chuyện mà người lớn trao đổi với nhau, hoặc do bố mẹ nói lại khi đã trưởng thành.

Nhưng có điều chắc chắn, không phải vì những hào quang chiếu tỏa từ Nhất Linh, Hoàng Đạo hay Thạch Lam mà Thế Uyên mơ ước đến sự nghiệp văn học sau này, mà đích thực cuộc sống với những mâu thuẫn cùng thân phận con người trong cuộc chiến, đã thấm dần vào cơ thể cũng như tâm tư của Thế Uyên những giọt cường toan, làm chết dần hồn nhiên và phóng khoáng thay vì phải có, ở trong tâm hồn đang tuổi thanh niên. Bởi vậy, những dòng đầu tiên của người trai trẻ, ngoài hai mươi, trút xuống mặt giấy đã mang nặng nỗi bỏng cháy, giãy giụa của thân phận làm người trước những sự kiện tưởng như không có phương thế sửa chữa, dù phương pháp hành văn của Thế Uyên lúc đầu, một phần chịu ảnh hưởng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sự chịu ảnh hưởng ở đây, những bước đầu khai phá, Thế Uyên không thể tránh được, muốn tránh cũng chưa đủ sức vì tài năng còn bị bủa vây trong không khí Đoạn tuyệt, Hai buổi chiều vàng, Bướm trắng của Nhất Linh hay Sợi tóc của Thạch Lam, v.v. Thế Uyên chắc cũng đoán biết điều đó, nên tự mình gỡ khỏi những ám ảnh. Chỉ trong thời gian ngắn, nhà văn đã tự tạo một bút pháp, một chỗ đứng trong nền văn nghệ Việt Nam. Nhưng Thế Uyên không chỉ mong có thế, muốn dùng văn chương để trình bày suông những gì nghĩ về thế hệ mình, về xã hội, mà đích thực, để xác định một vị trí và chiều hướng sáng tạo được ấn định rõ ràng trong tâm thức, dù tình yêu hay căm thù. Thế Uyên cũng bị cuốn vào cơn bão thác loạn của vấn đề dục tình, tuy chẳng mới mẻ gì, nhưng cũng làm choáng váng tâm trí, kèm theo là thực trạng của một xã hội xấu xa và tội lỗi.

Sự có mặt của nhà văn, có phải để gánh chịu buồn rầu, thê thảm và sầu não trước những vật vã khóc than của bao nghịch cảnh? Việc nhận thức đời sống, có được phán xét bằng sự sáng suốt, vô tư trước những đối tượng nhiều lúc ghê tởm, bỉ ổi? Lòng thương xót của nghệ sĩ phải chăng là một bổn phận đối với tha nhân? Tất cả, như những mắt lưới quây chặt lấy ưu tư – dù thầm kín – ở nội tâm của mỗi người làm văn nghệ.

Trong nghệ thuật, Thế Uyên muốn tự mình bay bổng lên cao và có đầy đủ quyền hành trong công việc sáng tác, vì nghệ thuật không thể dối trá hay ngụy trang, nó phải chân thành và tự do tuyệt đối, trong mọi vấn đề liên quan giữa suy nghĩ, con người và cuộc sống. Bởi vậy, mỗi lời nói, mỗi chữ viết không nhằm vào một trường hợp riêng rẽ, nó được điều hợp từng sự việc đi vào môi trường chung của nghệ thuật để tạo xúc động, tức là đóng góp vào công cuộc khai phóng đời sống với tìm tòi, khám phá bằng ý thức tiến bộ. Một số người cho rằng, văn Thế Uyên kém đạo đức, dâm đãng trong ngôn từ khi đề cập tới một vài trường hợp tình yêu và tuổi trẻ, vì chịu ảnh hưởng và vay mượn những ý nghĩ của Tây phương buông thả sau Đệ nhị thế chiến, hoặc bị mặc cảm dồn nén nên mới thác sinh ra những ngôn ngữ sượng sần làm đỏ mặt các nhà mô phạm.

Thế Uyên, một nhà văn trẻ, lớn lên trong chiến tranh và chấp nhận cuộc chiến này là có thực, cũng như sự có mặt của đời sống là hiển nhiên với mỗi thân phận, dù trai hay gái. Khi đề cập tới tình yêu trong những truyện đầu tay, lẽ dĩ nhiên (đây là mảnh đất thánh cho những cây viết trẻ) khuôn thức tình ái lứa đôi với những đòi hỏi cháy rừng rực ở trong lòng người con trai trên 20 tuổi phải là một ám ảnh, một thôi thúc cần phải tỏ bày và tỏ bày chẳng những với mình, còn với người.

Người đọc có thể nhận định về Thế Uyên qua Những hạt cát, tập truyện, do Thời Mới xuất bản (1964) với những đoạn văn:

… Quay lại, Duy thấy Hằng đã đương đứng trên cùng một cành, một tay nắm cành, một tay khoái chí đưa trái sung vào miệng. Nàng cố men ra phía Duy ngồi.

“Hằng ngồi xuống kia. Đi thế ngã đừng có trách”.

Thiếu nữ lắc đầu cười, nhét nốt nửa trái ăn dở vào miệng: “Hằng biết bơi mà, có ngã cũng không sao…”

Nàng giơ tay ném vài quả về phía Duy. Tay vung lên quá mạnh, Hằng mất đà loạng choạng. Duy chưa kịp cử động, thiếu nữ đã ngã xuống ao. Nước tóe lên trắng xóa. Duy hoảng hốt, tay run lên, cành lá giao động. Nhưng Hằng đã ngoi lên tóc rũ bết xuống trán. Nàng vừa cười vừa ho sặc sụa leo lên bờ:

“Lâu lắm mới được tắm ao nhà…” Quần áo đẫm nước, lụa mỏng bám sát vào da thịt. Thiếu nữ cúi xuống, đột nhiên im bặt. Người Duy nóng lên như hồi nhỏ những hôm trời nóng, nấp trong chăn chơi đi trốn. Một cảm giác buồn buồn như có một con vật gì bò dọc theo sống lưng, mắt chàng không thể rời thân thể ướt nước trước mặt. Thiếu nữ rùng mình kêu lên: “Anh!… Quay đi anh…”

(Những hạt cát, trang 9)

… Có một lần Hằng đứng ngoài cổng, giơ tay với một cành hoa ti-gôn. Nàng rướn mình, ngực hiện rõ dưới làn áo mỏng. Duy muốn đặt tay lên, nhưng vội vã xua đuổi ngay ý tưởng ấy. Chàng vẫn chủ trương tình yêu tinh thần và tình yêu xác thịt phải cách biệt… Nhưng sau đó, Hằng đã nhiều lần bắt gặp thấy chàng đang nhìn ngực hay nhìn đùi mình một cách chăm chú. Duy cố gắng xua đuổi, kềm hãm lòng thèm muốn sôi nổi trong người.

Nhưng càng tìm cách kềm hãm, Duy càng thấy thèm muốn mãnh liệt. Chàng mê say thân thể mềm ấm đầy mùi hương quyến rũ, tìm đủ cơ hội để có thể ôm được trong tay. Thiếu nữ ngoan ngoãn và tin cậy, nhưng mỗi lần tay người đàn ông chạm vào ngực, nàng thường rùng mình và đẩy ra…

(Những hạt cát, trang 120)

Hai đoạn văn trên đã phản ánh trung thực cái dục tính phát sinh ở trong lòng người con trai mới lớn và sự xâm chiếm thể xác lúc này mới chỉ là một dự định, trong đó còn ẩn nấp e dè, ngượng ngập, hơn nữa, về phía người con gái, vẫn là gìn giữ, là một “kinh dị” ở trên đời, cần phải né tránh. Ngôn từ và ý tưởng của truyện rất gần không khí Bướm trắng:

… Trong lúc Thu ăn bánh, Trương ngồi nhìn chăm chú vào đôi môi Thu, Thu ăn dở một chiếc vừa đặt xuống, Trương cầm ngay chiếc bánh dở ăn nốt:

“Cả đời anh chưa bao giờ ăn chiếc bánh nào ngon hơn”.

Thu thẹn nóng bừng cả mặt. Nàng hơi lo sợ, bất giác đưa khăn tay lên lau miệng. Trương hiểu ý:

“Em không sợ, anh không dám xúc phạm đến em, anh chỉ xin em cho phép anh cầm lấy bàn tay em trong một lúc, một lúc thôi”.

(Bướm trắng, trang 121)

Nhất Linh đã viết về tình yêu như thế cách đây ba, bốn chục năm, khi nền luân lý cổ truyền phương Đông còn đè nặng trong tâm trí của mỗi con người Việt Nam thuộc mọi thành phần xã hội. Hầu hết những cuộc tình được đề cập tới trong tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn đều mang mẫu số chung, nghĩa là nó thuộc vào thứ tình yêu cao thượng, lý tưởng, tuy rằng các nhà văn, nhà thơ thuộc nhóm này đều theo Tây học, có tinh thần tiến bộ, muốn cải tạo xã hội Việt Nam lúc ấy bằng văn chương, trong khi sách của Flaubert với Madame Bovary, D.H. Lawrence với L’amant de Lady Chatterley cùng Phân tâm học của S. Freud đã xâm nhập vào thị trường văn hóa Việt Nam từ lâu. Nhưng hoàn cảnh và vị trí của các nhà văn, chẳng những thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn, mà hầu hết các người làm văn nghệ thuở ấy (1930-45) đều không thể và không dám vượt qua bức tường luân lý quá chắc và quá cao được trấn giữ bởi các ông thầy Khổng – Mạnh.

Nhưng hôm nay là chuyện khác. Các nhà văn trẻ, tương đối đã được hoàn cảnh hỗ trợ và xã hội mặc nhiên thừa nhận giá trị suy tưởng tùy theo quan niệm và nhãn giới của mỗi thành phần nằm trong tập thể. Những ý nghĩ của nhà văn, đôi khi quá táo bạo, quá lộ liễu, quá trần truồng được phô bày dưới mắt người đọc ở cả hai khía cạnh: chiến tranh và tình yêu. Chiến tranh từ lâu đã trở thành một ám ảnh, một dằn vặt đè nặng trong tâm trí những người trai trẻ còn đang ngồi ghế nhà trường, do đó, một khi có hoàn cảnh, được dịp tỏ bày là họ không ngần ngại nói thẳng những gì cần phải nói trước công luận.

Tập Những hạt cát gồm 6 truyện ngắn, cả 6 truyện đều mang nội dung từa tựa nhau, nghĩa là dùng những sự kiện hiển nhiên để chuyên chở từng ý tưởng u uẩn được ngụy trang qua câu chuyện tầm thường, coi như không có gì mà đích thực, nó gói trọn một thái độ, một cưỡng chống với một trật tự, một cương tỏa nào đó:

… Tôi thiếp đi trong mệt mỏi, mơ thấy Nương lơ lửng trên trời xanh, lượn như một con bướm mới hong khô cánh. Tôi vẫy gọi, tôi gào thét. Nương cười, môi đẫm máu rồi đột nhiên rơi xuống, thân thể trần truồng giãy giụa trên hàng rào kẽm gai bao quanh đồn. Tôi bừng tỉnh giấc, mồ hôi thấm ướt lưng áo. Tôi lắng nghe. Đêm im lặng khác thường. Một vài tiếng ho khan ngoài sân buồn bã. Chắc địch sắp đánh đồn. Như thế cũng hay.

(Những hạt cát, Người lính lê dương, trang 48)

… Vô lý và vô ích. Tất cả triết thuyết bập bềnh lướt qua chàng, một đám học trò, lại thêm đám bèo trôi nhanh ngoài sông. Không giải quyết được gì cả và cũng không mang lại một lợi ích, một sức mạnh nào. Trí óc chàng bất lực ngất ngư trong những luận lý: “Je pense donc je suis” hay “je pense donc je ne suis plus”…? “To be or not to be”…?

(Những hạt cát, Qua sông, trang 82)

Tất cả những đam mê, hờn giận, do chiến tranh, tình yêu và cuộc sống đã xô Thế Uyên vào vùng trời u buồn, chán nản đến nghi hoặc ngay cả ý nghĩ của mình. Một cái sống, một cái chết, một nụ cười, một môi hôn, một vòng tay, tất cả như bủa vây nhà văn vào cơn mê, trong đó giãy giụa từng hình ảnh bùng nhùng vừa đáng yêu, vừa đáng ghét, vừa đáng kính, vừa đáng khinh.

Tập truyện Những hạt cát toát ra không khí u uất, trong một bối cảnh thê lương, ảm đạm với sự xâu xé ở nội tâm nhân vật. Đi từ cái nhìn rất thẳng thắn và trong sạch của Hằng qua cái cảm nghĩ hung hãn của Vinh khi muốn đẩy Thục xuống thung lũng, nếu có can đảm, vì biết mình là kẻ đến muộn trong tình yêu.

Thế Uyên hẳn nhiên khi xây dựng nhân vật trong sáng tác, đã ít nhiều cũng đặt tuổi trẻ của mình vào hoàn cảnh đó, dùng nó để biểu dương những suy nghĩ riêng tư nằm sau dòng chữ. Nhưng, tại sao với cái tuổi trên 20 ấy, cái tuổi đáng quý nhất của một đời người, với bao nhiêu hy vọng mà Thế Uyên đã sớm tiếp thu vào hồn mình những ung độc, để rồi bắt đầu từ giọt đắng thứ nhất, Thế Uyên vùng vằng lao mình vào thung lũng đau thương, hờn giận đến phẫn nộ cho tới bây giờ?

Cái hoàn cảnh khốn khó mà dân tộc Việt Nam phải trải qua 80 năm nô lệ với 25 năm chinh chiến và còn nữa, đâu có phải chỉ dành riêng cho Thế Uyên và thế hệ những người cùng tuổi? Sự vinh quang hay nỗi nhọc nhằn nào đó do một chế độ, hay xã hội tạo nên, đã tác động thật sâu đậm vào tâm thức nhà văn để từ đấy bắt nguồn cho thỏa hiệp hay chống đối. Sự chống đối nào cũng vậy, đều mang trong bản chất nó sự chủ quan tuyệt đối, nên bao giờ, lúc nào, nó cũng được phân tích và nhận xét với những ý kiến phần nào thiên lệch.

Hoàn cảnh miền Nam nước Việt trong năm 1963, vô cùng sôi động với các cuộc đấu tranh, biểu tình chống chính quyền đàn áp Phật giáo. Toàn thể miền Nam lúc ấy như miếng giẻ rách bị nhúng nước. Sau bao nhiêu ngày nghẹt thở, tiếng súng 1.11.1963 đã phá vỡ một chế độ, để tạo dựng sự hỗn độn liên tục sau một thời gian ngắn vui mừng. Thế Uyên đã sắp hàng với Phật giáo quyết tâm đạp đổ những chướng ngại do chính quyền hay xã hội làm cản trở bước tiến hóa của Dân Tộc đang cần tự do, dân chủ hơn chống Cộng. Nhưng ở tuổi thanh niên, với số vốn kiến thức nhà trường, đã hành nghề thầy giáo, nhất là quay nhìn vào quá trình Cách mạng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn thuộc bên ngoại, Thế Uyên cảm thấy và hình như thấp thoáng đâu đây sự bủa vây của một thế lực khác, trong đó, chưa chắc gì giá trị của suy tưởng và đời sống đã tốt đẹp hơn. Sự kiện này, người đọc nhận thấy ở truyện ngắn Những kẻ thuộc bài trong tập Ngoài đêm (1965). Nội dung truyện ngắn nói trên ẩn nấp một không khí vừa căm thù vừa sợ hãi trộn lẫn đam mê và chán chường. Sự dấn thân vào sự chống đối nào đó ở lớp tuổi Thế Uyên nó không nằm trong một khuôn thức thuần túy Cách mạng mà tỏa ra, làm cho mục tiêu chính bị nhạt nhòa theo những chi tiết phụ. Phương pháp hành văn của Thế Uyên theo lối mới, được ưa chuộng tại Âu châu mấy năm trước. Một số nhà văn trẻ ở phương Tây, họ quan niệm văn chương không phải dùng để nói một sự việc, mà đề cập tới nhiều sự việc trong một khung cảnh đã chứa đựng sự hỗn loạn như thế, do cuộc sống hình thành. Nhưng những người trẻ tuổi làm Cách mạng để chứng tỏ sự có mặt của mình trong một khoảnh khắc nào đó thôi, bởi thế, họ cũng dễ buông tay, khi không còn hứng thú:

… Du đứng dậy giải tán buổi họp. Thất vọng lần này để lại một hương vị ung thối, bất hợp lý, gây gấy của một cơn sốt rét rừng sắp bắt đầu. Mọi người ra về, từng kẻ một rón rén trên cầu thang thiếu bực, tối đen. Dù sao, khi ra trường, họ đã học được hơn chàng một định lý: “Những kẻ thuộc bài sẽ bị đọa đày”. Họ đã học hơn chàng một hệ luận: “Quên bài, quên lời giáo huấn là yên thân”. Không còn gì phải chứng minh cả, không còn gì phải chứng minh nữa. Nhưng chàng vì chua xót ung thối, uất ức, ngăn cản không cho phép chàng học thêm như họ… Suốt đời, suốt đời chàng… Tương lai đen tối mơ hồ hiện ra sau mỗi bước chân nhỏ dần của người cuối cùng ra về…

(Những kẻ thuộc bài, trang 41)

Câu chuyện “hoạt động” coi như đã xong một giai đoạn, chả biết làm gì hơn, những người trai trẻ lại quay về bản ngã đích danh của họ.

… Ba gã thanh niên ngơ ngẩn nhìn nhau. Định đề nghị:

“Đi chơi! Mai mày viết tiếp cũng được”.

Dư gật đầu, xếp tập giấy lên bàn:

“Tao đề nghị đến một quán có cả gái. Truy hoan đôi khi khá cần thiết”.

Hùng lắc đầu:

“Tao chỉ đến nhậu thôi. Hôm nay không hứng”.

Định cười:

“Mày chỉ giả vờ!”

Hùng cười theo thú nhận:

“Chính thực ra mai Thu đến. Đi chơi gái về, hôm sau ôm người yêu, tao thấy nhơ bẩn thế nào ấy…” Dư im lặng xuống trước. Khói thuốc bốc vào mắt cay sè.

(Những kẻ thuộc bài, trang 43)

Ý thức về cuộc đời xuyên qua ngôn ngữ nhân vật trong sáng tác của Thế Uyên đã phản ánh phần nào tâm trạng một tầng lớp thanh niên trí thức đã ngồi ghế Đại học. Đứng trước ngã ba, họ chưa định hướng được, đâu là con lộ chính họ cần theo đuổi, cần ném cả sức lực thanh niên vào đó, dù Cách mạng hay đam mê. Họ chạy xông xáo, dớn dác chỗ nào cũng thấy mặt, kỳ thực họ chẳng ở đâu hết. Dù đi đâu, đến đâu và hoạt động có vẻ như sống chết với lý tưởng, nhưng rốt cuộc họ lại quay về đứng ở chỗ cũ, ở ngã ba cuộc sống để nguyền rủa lỗi lầm và đớn hèn của kẻ khác!

Nhận xét nêu trên, hiện diện ở hầu hết lớp tuổi trên dưới 20, khi cuộc đời chưa tiếp thu họ vì họ còn quá trẻ, trái lại họ cũng không thừa nhận cuộc đời vì cuộc đời quá già, quá xấu đối với ước mơ của họ.

Giọng văn của Thế Uyên thật chua chát khi đề cập tới thân phận của lứa tuổi thế hệ mình. Thế Uyên viết ra, như ghi nhận những chứng tích, ở đó, từng khắc khoải và giày vò được thể hiện như một hình phạt. Ngay cả trong khuôn viên đại học, nơi Thế Uyên đã biết, đã từng sống và sinh hoạt với nhiệt thành của tuổi trẻ, đã hoài vọng rất nhiều về tương lai nhưng khi đề cập tới, Thế Uyên cũng nhìn nó với cái nhìn thật soi mói, không phải ở khía cạnh học vấn mà ở khía cạnh tâm tư với những ý nghĩ vô cùng táo bạo. Người nữ sinh viên tên Phượng, được Thế Uyên nói đến, sự thực chỉ là mẫu người, một hình múa rối, để nhà văn dễ dàng bày tỏ ý kiến về vấn đề tình dục, cũng như sa đọa ở một khung cảnh, đã được ấn định rõ trong tâm cảm.

… Tôi vòng tay ra sau, đặt lên gáy Hãn. Thân thể đàn ông cứng và nóng khác lạ. Mức thân mật giữa hai đứa lên tới độ cao nhất. Chẳng còn gì hơn – trừ việc làm ái tình và việc này, khi tôi nép sát vào âm thanh, một bản nhạc Slow ưa thích, Hãn đã hỏi và lúc đó tôi đã từ chối. Từ chối vì thấy chưa muốn, chưa cần thiết…

… Chiếc xe đỗ lại, nép vào gốc thông. Tôi ngả người tì gáy lên ghế, mở miệng sẵn sàng tiếp đón những chiếc hôn và tất cả những gì tiếp theo. Tôi không bối rối nhiều dù còn là một trinh nữ – sách vở đã cho tôi biết quá rõ những gì phải tới cùng hậu quả. Bàn tay người đàn ông nóng và rát trên da lưng, những ngón tay chuyển động thành thạo, tạo những động tác cởi mở. Tôi khó chịu đột nhiên ngồi thẳng dậy, kéo tay ra. Sự thành thạo của Hãn với quần áo lót đàn bà làm tôi liên tưởng và vì thế hơi kinh tởm. Tôi nói:

“Thôi anh! Đưa em về!…”

Đoạn văn trên trích trong Khoảng trống, truyện thứ hai trong 6 truyện ngắn của tập Ngoài đêm.

Cái khoảng trống của tâm hồn, nhất là tâm hồn tuổi trẻ, nó hiện diện như nỗi thê thiết, để vì nó, nhân danh nó, tuổi trẻ có thể làm được những gì mình muốn khỏi cần hối tiếc. Từng đêm dạ vũ trong hoan ca với khăng khít của vòng tay và những đôi chân dìu nhau đi vào thế giới cuồng mê qua âm thanh đẩy đưa dục vọng. Nhưng sau đó, còn lại cái gì? Còn lại sự rã rời của thân xác, cái chán nản đến cùng cực của ý nghĩ qua không gian và thời gian. Mệt mỏi làm băng hoại nguồn sống hoa niên.

Tập truyện Ngoài đêm trình bày 6 hoạt cảnh, đôi khi sôi nổi, nhưng cũng vô cùng buồn bã, vô cùng khắc khoải.

Khởi đi từ một cảm nghĩ bé nhỏ của đời sống riêng tư, Thế Uyên dần dần tiến vào môi trường rộng lớn hơn, ở đấy, mỗi số phận không còn tùy thuộc nhiều vào mình nữa mà do kẻ khác định đoạt. Nhưng dù ở đâu, hoàn cảnh nào, nhà văn cũng tỏ ra không dễ dàng chấp nhận, ngay cả sự thực mà mình đã gánh chịu qua bộ quân phục do trường Bộ binh Thủ Đức khoác vào người. Thế Uyên tạo nên vấn đề để tra vấn ý thức, ngay cả tình yêu cũng không mang ý nghĩa thiêng liêng, nó trở thành một cái mốc cho nhà văn ném vào đấy từng vốc bùn! Nói vậy, không có nghĩa Thế Uyên vào đời toàn bằng hằn học, bất mãn cả đâu. Đôi khi, dù rất hiếm, nhà văn cũng biết gìn giữ cho mình chút hạnh phúc nhỏ nhoi để hy vọng ít nhiều giữa cuộc chiến này:

… Đi vòng qua mũi xe, leo lên, cái cánh gà. Chàng tì tay lên tay lái. Thi đây, trong vòng tay, trong ánh đèn hắt từ bên ngoài trên cao. Di muốn vòng tay ôm, muốn hôn. Thi ơi Thi, ngưng nhìn anh một chút để anh có thể ôm em. Thân thể run lên, Di nghiêng người cúi sát mặt Thi:

“Thi! Anh đã tưởng không bao giờ còn gặp nhau”. Bàn tay nâng cằm Thi rung nhè nhẹ, đôi mắt mở to của Thi, đôi môi ướt nước mưa lạnh. Di hé miệng ngậm thật chặt. Đột nhiên chàng muốn làm nàng đau đớn, thật đau đớn…

(Ngoài đêm, trang 129)

Rồi hạnh phúc được che chở bằng chiếc poncho trong một góc đồn canh!… Rồi luân lý và đạo đức cũng như danh dự được phủ lấp bằng môi hôn, bằng giãy giụa của thân xác với đam mê rực lửa trong khi mơ nhỏ từng giọt bên ngoài!…

Hình ảnh cuộc chiến và cái giá mỗi thân phận người Việt Nam phải trả, bắt đầu từ truyện Ngoài đêm đã chiếm hết những suy nghĩ của Thế Uyên. Từ đồn canh tới trại binh, từ phiên trực tới cuộc hành quân, từ tình yêu nhục thể tới bâng khuâng và niềm cô đơn của con người trước chiến tranh, trong vũ trụ!

Tình dục đối với Thế Uyên lúc nào cũng là một ám ảnh, vấn đề chính cho mỗi câu chuyện, dù nó thuộc cái trục nào của suy tưởng cũng vậy. Nói đến tính dục không phải nói đến cái xấu xa, ghê tởm, phi đạo đức, phi luân lý, nhưng đích thực, để tỏ bày thái độ với cuộc sống, để chấp nhận giá trị của thực tại, trong đó con người chẳng phải thiên thần cũng chẳng phải là súc vật.

Có điều chắc chắn, Thế Uyên viết không nhằm mục đích khích lệ ai theo gương mình, hoặc dùng văn chương để truyền bá dâm đãng. Thực ra, nhà văn viết cho mình, vì mình. Có nhiều sự thực đang dồn nén, giãy giụa trong nội tâm, tình dục chỉ là lớp sơn mỏng phủ ngoài để đánh lừa “loại gỗ”. Đối với Thế Uyên “loại gỗ” đó mới cần, mới là căn bản của vấn đề, mới là con lộ chính mà người viết nhằm vào để dấn thân, đó là Ý thức cách mạng trong văn chương.

Cái tuổi trẻ của mỗi con người thường được nhìn qua tấm lăng kính kẻ khác. Từng nỗi băn khoăn, rạo rực mà con người có thể so sánh, đều nằm trong kích thước ngoại vật.

Thế Uyên nhìn chòng chọc vào đời sống với từng nỗi buồn vui có đấy, với thân phận một chiến sĩ tiền đồn ở vùng cao nguyên heo hút, quanh năm nắng cháy với mưa lũ và những gian khổ của chiến trường làm héo mòn suy nghĩ. Do đó, những ngày phép của người lính bao giờ cũng là niềm hân hoan và thiêng liêng nữa. Họ sử dụng giờ khắc quý báu đó vào những công việc cần thiết nhất, đáng giá nhất, trong đó có việc ngồi quán để nhìn đàn bà, con gái qua lại với những chiếc quần corsaire bó chẽn làm nổi bật những đường cong kín đáo. Họ nhìn như thế để làm gì, nếu không phải là để thèm muốn và cảm thấy hằn học với chính mình?

Thế Uyên đã qua những giờ phút đó và ghi nhận vào tác phẩm Mười ngày phép của một người lính những chua xót, ê chề với phẫn nộ về sự tương phản giữa hai nếp sống dưới một chế độ. Một bên cứ chịu hy sinh gian khổ kể cả máu xương, một bên cứ hưởng lạc:

… Tôi cho tay vào túi lấy bật lửa, một sợi dây đính chìa khóa với tấm lắc có ghi tên họ, số quân, loại máu. Ánh nắng chiều làm kim khí thoáng lóe sáng. Tôi nhớ, trong một khoảnh khắc và với một chút buồn, rằng tôi không phải là người ở đây, rằng tôi chỉ còn có chín ngày phép. Và từ đó, thật ngẫu nhiên, một cắt nghĩa, không đúng, một giải thích cho vấn đề đương thắc mắc, xuất hiện: chúng ta những người con gái với quần corsaire và tôi, người lính về phép, là người Việt Nam.

… Tôi đứng dậy ra về sau khi nghĩ rằng tất cả chỉ vì người Việt Nam ba mươi năm nay chưa bao giờ được phép làm người, rằng người đàn ông Việt Nam là những quân tốt đen, tốt sang hà, tốt thí cho những chủ nghĩa, những thế lực quốc tế, những tranh giành Nga, Mỹ, Pháp, Tàu, rằng đàn ông Việt Nam là dụng cụ, tất nhiên đàn bà Việt Nam phải mặc quần corsaire…

(Mười ngày phép của một người lính, trang 12-13)

Người đọc cảm thấy Thế Uyên đã trút tất cả giận hờn phẫn uất vào những dòng chữ và ý thức tranh đấu đã nhen nhúm qua ngôn ngữ. Cái giai đoạn vô cùng chênh vênh, vô cùng nguy hiểm của nước Việt Nam sau ngày Cách mạng 1.11.1963, đã tạo cho những người trai trẻ yêu nước mối lo sợ và tức giận. Thế Uyên nằm trong thành phần nói trên, nhất là lại đương cầm súng đi chiến đấu chống Cộng bảo vệ miền Nam tự do, cũng chính vì hai chữ Tự Do, bao nhiêu con người khốn đốn từ mấy đến chục năm qua và còn nữa!…

Nói chung, tập Mười ngày phép của một người lính chỉ là những ý nghĩ, dù tốt đẹp hay xấu xa, được trình bày dưới hình thức này hay hình thức khác, cũng chỉ để minh định một thái độ trước cuộc sống thật náo động, nó đương quay với tốc độ phi thường để nghiền nát những gì chạy ngược chiều với nó.

Đi từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, ở mỗi ý nghĩ, nhà văn như nghiến răng, trợn mắt, sau cùng phỉ nhổ vào cuộc sống có đó, còn đó với những ngôn ngữ chát chúa làm ngỡ ngàng người đọc. Nhưng sự tức giận nào, hễ nói ra được tức là đã nguôi ngoai, lắng dịu phần nào giông tố trong lòng. Thế Uyên, nhà văn rất thành thực và thành khẩn, nên không ngại ngần khi giãi bày lập trường, cương vị của mình.

… Trước hết tôi là nhà văn chân thành, chân thành với đời sống, chân thành với mình. Nhưng thái độ khi nhập thế của chúng tôi là thái độ lãng mạn với cuộc đời. Bất cứ ai không cứ nhà văn, đều phải chọn vài thái độ với cuộc đời trước mặt và tùy theo thái độ đã lựa chọn, đời sống sẽ dị biệt với nhau. Cuộc đời đang ở trước mặt kia, nó là như thế, trọn vẹn như thế, còn nó là bi thảm, là sắc sắc không không, là tươi vui, v.v. tùy thái độ, cái nhìn của từng người…

… Tôi sẽ còn là người (hiểu theo định nghĩa ni ange ni bête, ni yoga ni commissaire politique) như thế nào khi nhìn một thiếu nữ 16 xinh tươi mà chỉ thấy thèm cái cơ thể mơn mởn, khi ôm người yêu trong tay chỉ cảm thấy khoái lạc nhục thể. Tôi sẽ là người ra sao nếu không tìm thấy nét anh hùng tuyệt vọng của những người đã và đang chiến đấu trong chiến cuộc hai mươi năm. Đôi khi tôi còn nghĩ rằng những cái gì gọi là đẹp của loài người, anh hùng, khí tiết, bác ái từ bi, công bằng, tự do, v.v. còn duy trì được có lẽ là do những kẻ lãng mạn với cuộc đời này. Và ngày nào không còn thế nữa, tôi sẽ không cần soi gương nhìn tóc bạc da nhăn, tôi cũng hiểu được tâm hồn tôi đã tàn úa, và không xa lắm, cái chết đương chờ đợi.

(Mười ngày phép của một người lính, Lãng mạn và cuộc đời, trang 47)

Những ý nghĩ tuy vụn vặt trong tập Mười ngày phép của một người lính nhưng ở trong mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều mang nặng giá trị của suy tư để tiếp nối vào những ý tưởng khác trong tập Những ý nghĩ của bọt biển.

Ý nghĩ của Thế Uyên hay là thái độ cần có của một nhà văn đã ý thức được vai trò, vừa kiêu hãnh vừa khiêm nhường của mình, trong vận nước nổi trôi đã có tới bốn ngàn năm lịch sử phía sau! Bốn Ngàn Năm Lịch Sử là dĩ vãng quá dài đối với thế hệ hôm nay. Thế Uyên mang niềm băn khoăn đi tìm truyền thống dân tộc qua sách vở, qua ngoại giới, chỉ được gặp các thầy Khổng, Mạnh và những suy nghĩ không thuộc về tinh thần Việt Nam. Truy tầm không được, Thế Uyên phải tra tấn ý thức và chợt nhận ra, mình là người Việt Nam do tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi với những câu ca dao cổ kính, bằng mắt nhìn thấy ruộng lúa xanh tươi và tiếng sáo diều văng vẳng trong không gian buổi chiều, lúc còn thơ ấu. Thêm vào đấy là phong tục, tập quán với các ngày lễ Tết, hội hè, v.v.

Cái tinh thần Việt Nam mà nhà văn tìm kiếm, sự thực, nó hiện diện trong mỗi con người yêu nước, dù cầm súng hay không, miễn rằng nó phải hành xử với nhau bằng tinh thần Việt Nam trong đời sống và ngôn ngữ.

Mỗi ý nghĩ, Thế Uyên đều nêu lên một câu hỏi, một giận dỗi, đôi khi chính nhà văn không giải quyết mà dành phần cho độc giả. Từ “Lời giảng chót gửi học trò cũ” tới “Hai thái độ” là ý nghĩ cuối của tập sách gồm 12 ý nghĩ, mỗi cái đều hàm chứa những ẩn dụ nằm sau hàng chữ. Người đọc không nên tìm hiểu câu chuyện, chỉ cần đọc kỹ vài đoạn văn chính, ở đó, Thế Uyên đã nói thật, nói hết những gì mình suy nghĩ về con người và cuộc sống có mặt. Nhà văn hình như giãi bày tâm sự qua những ý nghĩ và dùng kỹ thuật ngắn gọn để chuyên chở ý muốn riêng tư tới người đọc. Nói một cách khác, Thế Uyên đã quan niệm văn chương như một vũ khí đấu tranh tư tưởng trong giai đoạn hiện tại, nên cố gắng làm sao với phương tiện tối thiểu đạt được kết quả tối đa. Do đó, Thế Uyên luôn luôn tìm kiếm phương thức hoạt động hợp tình, hợp lý ngay cả trong văn chương để đạt được mục đích. Sự kiện này hiện rõ trong các đoản văn của 4 tập: Mười ngày phép của một người lính, Những ý nghĩ của bọt biển, Những người đã qua và Căn nhà của mẹ cùng 3 tập tiểu luận: Nghĩ trong một xã hội tan rã, Chiến tranh cách mạng và Tiểu luận 3, do chính tác giả ấn hành năm nay (1971).

Thái độ của Thế Uyên rất minh bạch, xuất phát từ một điểm khiêm nhượng để tiến dần lên cao điểm mà không do sức hỗ trợ từ phía ngoài, tuy rằng nhà văn đã gặp rất nhiều trở ngại cả bạn lẫn thù. Nhưng nhà văn chắc chắn không sợ kẻ thù, dù cho kẻ thù là Cộng sản hay Tư bản mà đích thực, Thế Uyên sợ bạn. Sợ vì không lường được trước sự phản bội sẽ đến vào lúc nào, dịp nào? Điều này làm khổ nhà văn rất nhiều mỗi khi đề cập tới, nó thấp thoáng ẩn hiện trong mỗi câu chuyện nói về lòng tin nhau giữa những người cùng đứng chung chiến tuyến. Thế Uyên lúc nào cũng bị quây chặt bởi những vấn đề, những băn khoăn do đời sống đẩy tới, do nội tâm phát hiện. Người đọc có cảm tưởng nếu không viết được, nói được ra, nhà văn có thể vì nó mà chết, nên luôn luôn người đọc bắt gặp những thoáng run rẩy trong mỗi ý, tuy đã được ngụy trang bằng sự trầm tĩnh của phương pháp diễn tả qua một số ngôn từ mệt mỏi!…

Nhà văn cũng đã biết gian khổ của đời quân ngũ, đã nằm đồn và hành quân trong những điều kiện khốn khó, nhục nhằn, sầu tủi của mỗi số phận khi đụng chạm với sống, chết mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút. Và còn biết bao nhiêu số phận kẻ khác liên đới, liên lụy vì chiến tranh! Tất cả những sự kiện đó trở thành ám ảnh, hình phạt trong mỗi suy nghĩ dai dẳng.

Viết văn đã trên dưới 10 năm, Thế Uyên mới chỉ có một tác phẩm dài 234 trang. Truyện Tiền đồn, trước khi in thành sách đã được đăng từng kỳ trong tạp chí Bách khoa.

Nội dung tập truyện dài đầu tay đã nói lên một phần tình trạng đất nước và cuộc chiến với những oan khổ do định mệnh, do thế cuộc tạo nên, đẩy mỗi thân phận xa lạ nối kết vào nhau trong những mắt lưới hoàn cảnh. Cái tấm “phông” chiến tranh được dựng lên giữa vùng trời ảm đạm, ở đấy, máu lửa, căm thù và dục vọng thay phiên nhau hành hạ mỗi số phận, để rồi mất đi, vĩnh viễn mất đi như mớ bào ảnh trôi bập bềnh tản mác trong không khí cuộc đời.

Nói về cốt truyện,Tiền đồn không có cốt truyện, tức là không có cái “trục” thông thường, để người đọc có thể nắm vào đấy mà theo dõi, cũng như tóm lược sự biến chuyển tâm lý nhân vật chính và phụ, xoay quanh vấn đề nào đó. Người đọc sẽ vô cùng bỡ ngỡ, đôi khi bị lạc hướng nữa, khi đọc Tiền đồn. Cung cách viết và cấu tạo tác phẩm này, Thế Uyên không đi theo con đường cổ điển, người viết làm nó tan loãng, lẫn lộn, bắt người đọc phải tự đảm trách một phần vào công việc tìm hiểu, để nối những tan tác với nhau, tạo thành toàn thể vì văn chương hôm nay không nhằm cổ động hay phát động tư tưởng nào, nhưng một khi nó đã “sống”, đã linh động, nó tự tạo lấy sự tình và biến cố. Nếu vạn nhất, những sự tình và biến cố đó, có nói lên một-cái-gì, cũng chỉ do tình cờ chứ không phải nhà văn muốn như vậy. Phương pháp cấu tạo này, sự thực, đã được các nhà văn nghệ đợt sống mới thế giới sử dụng từ nhiều năm qua.

Thế Uyên quan niệm, văn chương không phải công việc giải thích, dù giải thích một cách thông minh đi nữa, mà sứ mệnh của văn chương là trình bày như thế (tel quel) để tùy người đọc nhận định và đánh giá kết quả.

Hình ảnh Vũ, Định và bao nhiêu người đã và đang ngụp lặn trong cuộc chiến này đều do số mệnh đẩy đưa họ gặp nhau, cùng đứng chung chiến tuyến, rất có thể cùng chết với nhau trong một bất ngờ nào! Tâm trạng của họ, tâm trạng chung của giới thanh niên bị động viên vào lớp tuổi trên dưới 20. Họ chiến đấu rất hăng say, rất nhiệt tình nhưng đôi lúc, họ dừng lại tự hỏi, họ chiến đấu vì cái gì, cho ai?

… Tôi hay tự hỏi, một điều như thế này:

“Tại sao chúng ta có chính nghĩa nhưng chính nghĩa ấy lại không giúp gì hết trong việc chiến đấu. Anh, tôi, Vượng, Yên… tất cả những tên có mặt trong Tiểu đoàn này cũng như các đơn vị khác đều đồng ý là phải chống Cộng. Nhưng mọi sự đã chẳng ra làm sao hết. Tôi đã từng khai thác tù binh, tụi chúng tin tưởng ở chính nghĩa của chúng nó đến độ phát tởm lên được”.

Chàng để súng nằm thăng bằng trên đùi, móc túi lấy bật lửa châm thuốc, nói:

“Tụi chúng ngu!”

Vũ quay lại hạ giọng thấp:

“Vì thế tụi chúng sung sướng hơn bọn mình!”

(Tiền đồn, trang 101)

Niềm băn khoăn của tuổi trẻ tham dự vào cuộc chiến đã phản ánh một phần nào, trong lời đối thoại. Họ chiến đấu, đồng ý, nhưng không phải chiến đấu để chiến đấu. Họ đòi hỏi lý tưởng, đòi hỏi sự minh bạch của chế độ. Họ muốn đừng bao giờ họ trở thành một tượng đá, một con vật hay một con người mất tri giác:

… Chàng cười, bỏ mẩu thuốc xuống đất, lấy mũi giày dí nát, Vũ tiếp tục nói:

“Hậu quả kỳ cục và đôi khi bực mình vì bị méo mó nghề nghiệp. Bây giờ nhìn cảnh vật, tôi không thấy đẹp hay xấu. Óc tự dưng chỉ thu nhận những chi tiết địa thế cần thiết cho việc tiến quân hay đóng quân mà thôi. Một hàng dừa chỉ có nghĩa là chỗ đó có nước, một bờ tre là nơi phục kích tốt cho địch, con đường quang đãng có nghĩa là dám bị bắn sẻ, trăng chỉ là một yếu tố để tính xem toán kích đêm nên cho đi lúc mấy giờ và về lúc mấy giờ…”

(Tiền đồn, trang 100)

Những câu nói, chắc chắn không phải để nói suông, trong đó hàm chứa sự mỉa mai nào đấy ở ngoài khả năng chống đối của cá nhân. Để khỏa lấp những thắc mắc và suy luận, những người sĩ quan trẻ tuổi đều mang trong lòng một vài vóc dáng đàn bà với đam mê nhục dục.

Vóc dáng của Linh, Bích và các cô gái bán vui đều hiện rõ trong mỗi suy nghĩ, ở trong lòng những người trẻ tuổi đang cầm súng bảo vệ miền Nam tự do:

… Vũ cố gắng vui thích. Mai đi phép: bốn ngày xa đơn vị, xa vùng chiến trận, bốn ngày thỏa mãn sinh lý. Nhưng chàng dù cười, dù nói nhiều, nỗi vui sướng vẫn như bồng bềnh bên ngoài chàng. Trở về nhà qua ngõ hẹp có cây trứng cá lớn, đứa con chạy ra, bữa cơm trưa ồn ào và sau đó chiếc màn kéo ngăn đôi căn buồng, Bích và chiếc háng của nàng và con vật háu ăn hùng hổ để rồi sau đó mồ hôi toát ra đầy người ngủ thiếp đi trong làn hơi nóng từ mái tôn tỏa xuống…

(Tiền đồn, trang 88)

Sự thôi thúc về tình dục không phải chỉ ở phía người sĩ quan trẻ tuổi cùng nỗi nhớ nhung thành phố qua lỗ châu mai của vọng gác tiền đồn. Nó còn đau đớn hơn, thê thảm hơn với số phận của vợ chồng anh Ba, người đàn ông quê mùa chỉ biết làm ruộng, ăn nằm với vợ và hồi hộp mỗi đêm phải đi đắp mô để ban ngày chính mình phá nó, cũng như cam chịu khi biết lơ mơ vợ mình đã ngủ với trai, phẫn chí, uống rượu cho khuây khỏa, lúc say khướt trở về, lại làm tình với vợ, mặc súng bắn, kệ chuyện đắp mô! …

Chị Ba, người đàn bà nhà quê không may cũng biết đam mê tình dục chẳng những với chồng mà còn với những đàn ông khác mê mình từ hồi con gái, như Tía, Uông, Hải, và tên Trưởng đồn Dân vệ. Nhưng ngoài tình yêu chính đáng với anh Ba, những cuộc ân ái vụng trộm khác đều do hoàn cảnh cấu tạo, chị Ba chỉ là con vật hy sinh, dù hy sinh một cách khoái lạc, dưới ngòi bút Thế Uyên:

… Chị đưa tay quàng lấy đầu chồng, kéo lên. Đầu gối người đàn ông lọt vào giữa hai đùi ấm áp, làm chị tự dưng muốn khép hai chân lại…

“… Thôi mình! Mấy ông hành quân lớn, đạn bắn tùm lum bây giờ. Tôi hổng chịu xách quần tụt vô hầm như bữa trước đâu”.

“Thì ôm quần tụt vô đã sao, như bữa trước đã sao?”

Chị thẹn nóng bừng má. Bữa đó, súng nổ tứ tung, ngồi sát vách đất hầm tay ôm mớ quần áo, tay bồng đứa nhỏ mà ảnh còn tiếp tục…

Cái hoạt cảnh đó, không hoàn toàn do trí tưởng tượng hoặc do óc sáng tạo của nhà văn, mà nó nói lên phần nào sự thực. Nếu ai đã có mặt trong vùng chiến trận dằng dai, phải thừa nhận các sự kiện nhà văn viết ra, nó chứng minh sự chai sạn ở tâm hồn những người dân quê nằm giữa hai lằn súng đạn! Sợ, họ vẫn sợ, nhưng không phải vì sợ mà ngưng tất cả sinh thú ở đời. Trái lại, vì chịu đựng quá lâu, nên họ quên đi và chấp nhận hoàn cảnh để bình-thường-hóa nó bằng hành động.

Thế Uyên trình bày chiến tranh dưới nhiều khía cạnh. Ở mỗi khía cạnh, nhà văn hé mở cho ta nhìn rõ từng nỗi bi thương không thể cưỡng chống trong một bối cảnh ngột ngạt của căm thù, chết chóc và thân phận con người. Từ người lính với nỗi đau vợ đi lấy ngoại nhân, đến sự ê chề của cấp chỉ huy khi đã mất thế lực, không còn chỗ tựa, bị người dưới nói hỗn, phải cắn răng nhẫn nhục, vì tuy là cấp dưới nhưng uy thế mạnh hơn, có bà con làm lớn! Cái đau, cái hận của từng người đều đi qua cái nhìn rất tinh tế của nhà văn.

Người viết, đôi khi lạnh lùng trong bút pháp và không ngần ngại nói lên ý nghĩ của mình về vóc dáng người bạn Mỹ ở bên cạnh cuộc chiến. Từng việc lần lượt được giãi bày như những mắt xích. Ở khoảng trống của mỗi mắt xích, nhà văn phác họa một khung cảnh, để người đọc nhìn qua đấy, có thể nhận định từng phần riêng rẽ, rất riêng rẽ, để rồi với chất xi-măng kỹ thuật, người viết cho gắn bó dần dần, tạo nên phối cảnh toàn diện của vấn đề. Đôi khi người đọc bắt gặp một vài đoạn, Thế Uyên đã nhìn và ghi nhận như Lawrence trong cuốn Người tình của Chatterley phu nhân, ở đấy, tình dục đã làm mờ hết trí năng, làm băng hoại luân lý và đạo đức trở thành lạc lõng! Những động tác ái tình dù ở trường hợp của Vũ với Bích, của Định với Linh hay của chị Ba với Tía, với Uông, với Hải và cả anh Ba nữa cũng chỉ là sự nhắc lại, hay khêu gợi sự việc với nhiều trường hợp trong nhiều hoàn cảnh, làm cho không khí Tiền đồn trở thành một sượng sần, vướng mắc. Ngay đến cái chết của Vũ, cái chết kiêu hùng giữa mặt trận với mùi cỏ thơm ân tình quá khứ và hình ảnh người đàn bà mang tên Bích với bức màn kéo ngăn đôi căn phòng!… Cũng như cái chết thê thảm của anh Ba lúc đang đắp mô, chị Ba chết trần truồng cạnh tên Hải – tên cán bộ Cộng sản – đã say mê chị khi trước. Nói đến cái chết tức nói đến sự bình đẳng của mỗi số phận, nhưng cái chết của chị Ba và tên Hải là cái chết đặc biệt trước sự hiện diện của Tía – người yêu chị từ lúc trẻ không có tiền để cưới hỏi làm vợ đành mang nỗi buồn suốt đời, nhưng cũng đã được chị cho chung vui nhục thể!…

Tên Hải và chị Ba chết mà không biết mình chết vì một trái trọng pháo giữa lúc đang cuồng mê khoái lạc:

… Chị đã co chân lên cản, nhưng khi Hải cầm đầu gối ấn sang một bên, chị lỏng lẻo buông thả. Còn giữ chi, thôi cho nó lần nữa cho xong đi. Chị nghiêng đầu sang một bên cố nhìn mặt trăng qua lỗ quang lá trên cao, chờ đợi và chịu đựng. Chị toan nói mau lên cho tui còn vô với đứa nhỏ, nhưng lời nói không thốt ra vì một khoái cảm mới mẻ đã dâng lên. Chị hốt hoảng vì chính mình, sao lại thế, sao lại thấy… Chị cố nhìn cho được đủ vòng tròn của mặt trăng qua lỗ quang lá quá nhỏ, khi một tiếng súng một tiếng nổ bùng vang dội. Chị toan vùng lên nhưng Hải dùng sức mạnh ngăn cản.

“Buông tui ra! Vô hầm không chết…”

“Xa mà… coi còn xa mà… Im rồi đó thấy không. Tôi còn ở đây làm sao đánh lớn…”

(Tiền đồn, trang 205)

Chị Ba đi vào cái chết nửa vui, nửa sợ, cả tên Hải cũng vậy. Hai cái xác trần truồng đó đã khép lại một khoảng đời, một chút không gian rồi tan vào cát bụi!…

Tác phẩm Tiền đồn đã khích động người đọc chẳng những bằng ngôn từ, bằng hình ảnh mà còn làm cho tự đáy tâm tư bùng lên mối xót thương vô độ ở mỗi trạng huống hiện diện trong cuốn sách.

Thế Uyên, mang nhiều khát vọng, chẳng phải do ý hướng nổi tiếng, mà đích thực, muốn dùng nó để đạt được mục tiêu Cách mạng, dù Cách mạng trong tư tưởng. Do đấy, trong 10 năm văn nghiệp, nhà văn hầu như dành hết thời giờ cho suy nghĩ về những vấn đề xã hội, chính trị qua các tập tiểu luận. Ngay cả tác phẩm văn chương thuần túy, nhà văn cũng tìm mọi cách lồng vào bên trong cái ý hướng đó. Vấn đề tình dục mà Thế Uyên luôn luôn nhắc nhở, tỏ bày dưới hình thức nào đó đều hàm chứa dụng ý, che khuất đi một phần sự thực mà tác giả muốn viết, muốn đề cập tới một cách gián tiếp qua văn chương.

Thế Uyên, vốn dĩ trung thực nên anh chẳng nề hà gì khi nói về đất nước Việt Nam, một đất nước đã quá bi thảm vì hai chế độ: Quốc gia, Cộng sản. Mỗi viên đạn được bắn đi, dù bên này hay bên kia đều là của viện trợ. Cả hai bên đều lệ thuộc vào hai chủ nghĩa: Tư bản và Cộng sản.

… Nhưng chúng tôi, những người còn ở trong Quân lực, vì sinh kế hay vì võ nghiệp, những người đã, đang và sẽ nhập ngũ vì thi hành quân dịch hay vì quan niệm phục vụ tổ quốc qua binh nghiệp, đã an tâm chống Cộng trong những năm đầu của cuộc nội chiến và tin rằng mình chiến đấu để bảo vệ một chế độ trong đó con người được chọn lối sống mình muốn, thờ phụng Thượng Đế mình tin và lấy người mình yêu.

Những 1959, 60, 61 kế tiếp qua để rồi tới 63, 64, 65, 66 giữa tiếng súng nổ vang ngoài mặt trận và khói lựu đạn cay mù mịt, kẽm gai giăng mắc ở hậu phương, chúng tôi bắt đầu không hiểu nổi mỗi viên đạn bắn ra, mỗi kẻ nội thù chết đi, chúng ta tiến gần tới đâu. Rồi đến một ngày nào đó ở một tiền đồn, rừng rậm, ruộng lầy hay ở một góc hè phố đô thị, chúng tôi nhận ra rằng trong khi chống Cộng, chúng tôi đã vô tình bảo vệ, duy trì một xã hội thối nát, bất công, áp bức, một xã hội trong đó chỉ những người vô luân và có tiền bạc mới có chỗ đứng dưới ánh mặt trời…

(Nghĩ trong một xã hội tan rã, Sự thành hình của một thái độ, trang 11-12)

Tuy khẳng định thái độ đối với cuộc đời như trên, nhưng Thế Uyên không quá chủ quan nên đã nghi ngờ ngay cả suy nghĩ, kiến thức và kinh nghiệm của chính mình. Nhà văn làm ba cuộc hành trình thăm hỏi các vị đã có quá trình đấu tranh Cách mạng, có căn bản tri thức cao qua bằng cấp và các bậc tu sĩ khả kính, nhằm mục đích noi gương.

Cả ba cuộc hành trình đó đều cho Thế Uyên những thất vọng. Hành trình thứ nhất, với thành tích Cách mạng chống Pháp nay đã già nua an hưởng dư âm một thời và đặt lên vai con cháu cuộc chiến khốn khổ còn đấy. Hành trình thứ hai, chỉ gặp những tủ sách, bằng cấp và máy lạnh. Các tư tưởng Tây phương chẳng giúp ích gì cho quốc gia nhỏ bé này cả. Hành trình thứ ba chỉ để lại trong trí nhớ những thửa ruộng đất, những cơ sở kinh tài, những bạo động vi phạm lời răn dạy căn bản của đấng chí tôn trong một trai phòng, những lời giảng dạy về tình thương và tự nguyện vừa cất lên chưa được bao lâu đã đắm chìm vào tiếng reo hò xuống đường tranh đấu cho mục tiêu giai đoạn:

… Bởi thế, bước khởi đầu của chúng tôi không gì hơn là cùng nhau nhóm lên một ngọn lửa nhỏ để nhận diện nhau cho rõ, gạt bỏ mọi huyền thoại cũ, tìm hiểu cho thấy thực trạng để rồi cùng dưới đốm lửa lu mờ mà nhiều trận cuồng phong đang đe dọa dập tắt ấy, chúng tôi cùng nhìn về một hướng để nỗ lực tìm xem bây giờ cần phải học hỏi những gì và học ai, phải làm gì và làm ra sao, phải đến đâu và đi bằng đường nào.

Nhưng đêm tối đen thê thảm của dân tộc mỗi lúc thêm dày đặc, các cuồng phong mỗi ngày thêm ác liệt, đã có lúc đưa chúng tôi vào nỗi cô đơn và tuyệt vọng…

(Nghĩ về một xã hội tan rã, Những cuộc hành trình, trang 19)

Nội dung tập: Nghĩ trong một xã hội tan rã, Thế Uyên đã đặt rất nhiều vấn đề, những vấn đề không còn nằm trong văn chương nữa, nó thuộc về chính trị và tranh đấu. Do vậy, tập sách mang chiều hướng khác, mục tiêu khác, ở đó, cái uy quyền của văn chương không còn nguyên giá trị, nó phụ thuộc vào cái “thế đứng” của nhà văn trước xã hội hôm nay.

Nói về Thế Uyên là nói đến sự đa dạng của một con người đã trưởng thành trong “vận nước nổi trôi”, đã gánh chịu nhiều gian khổ trên bước đường văn nghiệp. Thế Uyên bay lượn chập chờn từ đỉnh cao này sang đỉnh cao khác, ở mỗi nơi, nhà văn đều để lại những hạt giống và chờ ngày trổ mầm vươn lên ánh sáng màu lá mới. Vì muốn dùng văn chương vào mục đích nên ít nhiều gì, người đọc cũng cảm thấy như bị huyễn hoặc bởi ý muốn nào đó lẩn khuất trong mọi tác phẩm. Nhưng có lẽ, nhà văn cho đấy là vinh hạnh lớn lao đối với một người cầm bút trên 30 tuổi đời, 10 năm văn nghiệp, đã tự tạo cho mình một khung trời riêng biệt.

Thế Uyên, nhà văn phản kháng, luôn luôn chống đối thối nát và bất công xã hội. Những sự kiện được trình bày xuyên qua ngôn ngữ, thật bộc trực và nguyên vẹn. Từng vấn đề được đặt ra, đều nằm ngay trước mặt mỗi người, tại sao ta lại im tiếng? Lời than van hay nỗi oán trách chứa đựng ở nội tâm lâu ngày tích lũy thành ung độc làm bải hoải suy nghĩ, mỏi mòn ý chí phấn đấu. Sứ mệnh của văn chương hôm nay, chắc hẳn không còn phù phiếm, hiển nhiên là chân xác của đời sống phản ánh qua suy luận. Cuộc sống xô đẩy mỗi số phận vào từng cơn thảng thốt, con người nhiều lúc muốn buông xuôi hết cả để mặc cho số mệnh quyết định. Nhưng, ở cương vị nhà văn, có sự gì huyền bí thúc đẩy một cách khẩn cấp, làm rối loạn tâm thần nếu không nói hoặc viết ra được. Sự nói hay viết ra, chắc chắn cũng chẳng mang lại đổi thay, hoặc có ảnh hưởng sâu đậm trong ý thức chung về đời sống, nhưng ít nhất, nó có mặt để ghi nhận những chứng tích u uẩn hay cuồng nộ của thời đại. Thế là đủ.

Thế Uyên cũng là linh hồn của nhóm Thái Độ. Nhóm này tập trung được một số nhà văn, nhà thơ trẻ tiến bộ. Tất cả những sáng tác cũng như dịch thuật của các văn hữu trong nhóm đều được xuất bản dưới nhãn hiệu Thái Độ. Nhà xuất bản Thái Độ hoạt động rất đặc biệt, khi sáng khi tối, khi đen khi trắng. Có những ấn phẩm in đẹp phổ biến rộng rãi, có tập in ronéo phổ biến hạn chế. Thế Uyên là một trong số đông đảo người làm văn học nghệ thuật chống đối kịch liệt chế độ kiểm duyệt vì quan niệm rằng, người viết hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công luận những gì do mình sáng tạo, đồng thời cũng ý thức được tầm quan trọng của Quốc gia, nên kiểm duyệt là điều vô lý, không dân chủ. Nhưng đòi hỏi là quyền nhà văn, còn có thể thỏa mãn được hay không, cũng tùy thuộc và nhiều yếu tố, trong đó có chiến tranh.

Thế Uyên còn trẻ lắm, sức sáng tạo còn dồi dào. Ngày mai với nhiều bất ngờ đang chờ ở phía trước.

Trích văn Thế Uyên

… Vũ quỳ lên cố gắng quan sát. Các đốm lửa không còn lóe sáng bên kia lộ. Khẩu trung liên bên cạnh tiếp tục tạo những vệt đỏ dài lao vào một mái nhà. Chàng đưa chân đạp mạnh vào mông xạ thủ: “Ngóc cái đầu lên nào! Định bắn chim đấy hả?”. Người lính chồm lên: “Bắn sát mặt lộ cho tôi một băng nữa”. Có một bàn tay đập đập vào chân, chàng quay lại:

“Cái gì?”

“Tư tưởng Đống đa hỏi có cần yểm trợ 81 không?”

Chàng cầm ống liên hợp, cố giữ cho hơi thở điều hòa:

“Thẩm quyền Vĩnh ba tôi nghe… Thôi, không cần…Tụi chúng rút rồi… Vĩnh! Vĩnh! Đây Vĩnh ba nghe không trả lời… Thôi bắn 60, thôi bắn 60!”

Đưa ống liên hợp lại cho hiệu thính viên, chàng quỳ thẳng dậy, không gian im lặng. Chàng gần như chỉ còn nghe thấy tiếng thở mạnh và tiếng ho khan rải rác. Chung quanh, những vệt thẫm nhạt bất động. Chàng quay đầu nhìn tứ phía, không còn dấu vết hoạt động nào của địch. Chàng cất tiếng hỏi:

“Ra, tiểu đội 1 có ai bị không? Tiểu đội 2?”

Các giọng nói quen thuộc từ bóng tối, trong lùm cây, bờ đất lao xao:

“Vô sự, vô sự chuẩn úy…”

Hiệu thính viên kéo máy lom khom lại gần, đưa ống liên hợp:

“Cả Tư tưởng Đống đa lẫn Đống đa cho lệnh báo cáo”.

Chàng tiếp tục nhìn vào khoảng đen thẫm nhạt bên kia quốc lộ, nói thấp giọng vào máy:

“Vĩnh ba báo cáo vô sự. Địch hướng về hướng sông, phỏng đoán là thám báo địch. Sẽ sang lục soát chiến trường trong năm phút nữa. Chấm hết”.

Chàng cài vội ống liên hợp vào máy, không muốn nghe thêm các âm điện tử lẫn với những tiếng nói xôn xao đòi hỏi. Trăng chưa lên khỏi rặng cây chân trời nhưng một thứ ánh sáng nhàn nhạt, buồn tẻ, bất định đã làm các sự vật bắt đầu có đường nét rõ, gãy gọn hơn. Chàng cất tiếng, giữ cho vừa đủ nghe:

“Tất cả nạp một kẹp đạn mới! Tiểu đội 1 theo tôi”.

Chàng đứng dậy, đầu và nửa thân phía trên chợt mát lạnh trong gió. Ngọn cây phía sau xào xạc, không gian chưa trở lại bình thường trong thứ ánh trăng còn non và nhạt nhẽo. Chàng giơ cao tay hạ xuống ra lệnh, những bóng đen vụt băng qua lộ. Chiếc cầu trắng phía xa, các căn nhà bên kia có những hàng cột đen phía trước chờ đợi. Dưới các mũ sắt, các đôi mắt không là gì hơn một khoảng đen thẫm hơn nhưng chàng biết chúng có đó và đang hướng về chàng chờ đợi. Chờ đợi gì? Một tiếng nổ làm chàng gục xuống hay một cái chết đột nhiên cho họ. Tứ bề vẫn mờ nhạt trong thứ ánh sáng không dứt khoát và khó chịu, chàng nói:

“Chắc chắn tụi nó chuồn hết rồi. Anh ra chia làm hai toán đi lục soát dãy nhà và nghĩa địa. Tôi đợi đây”.

Chàng đặt khẩu súng xuống mặt nhựa, bỏ mũ xuống cố gắng bật lửa châm thuốc. Luồng gió đều đều làm tạt ngọn lửa nóng bỏng trên tay. Chiếc bật lửa rơi xuống tạo một tiếng va ngắn trên mặt đường. Tiếng nói cất lên từ phía sau:

“Chuẩn úy đứng thế, trông rõ lắm”.

Không hiểu vì lý do gì, chàng đột nhiên có cảm tình với giọng nói đó, giọng nói vô danh, gần như không thuộc về một người nào đằng sau, có vẻ như phát sinh từ cái không gian lờ mờ hỗn độn đang bao quanh. Chàng ngồi xuống, kẹp chiếc mũ giữa hai đầu gối, gắng bật một lần nữa, đầu như lọt vào trong mũ khi vùng lửa đỏ bùng lên. Khói thuốc êm ả, mơn trớn làm chàng chợt nhận ra lưng, ngực ướt đẫm mồ hôi, những giọt buồn buồn chạy dài, dừng lại một khoảnh khắc ở thắt lưng rồi biến đi. Các nhà bên kia có tiếng lao xao, chàng lắng nghe, tiếng động vụt im. Tiếng Ra trầm khẽ từ một khoảng trũng bên vệ đường:

“Tụi chúng chắc bị hai tên. Có hai vũng máu sau bếp cái nhà kia”.

Chàng tì một tay ngả người thấp xuống, cố định rõ hướng theo cánh tay Ra. Không gian ánh sáng rõ hẳn lên, mặt trăng tròn đã lên khỏi rặng cây, chàng nhận thấy tấm kim khí trên cổ tay người phụ tá lắc lư theo một nhịp điệu. Hai binh sĩ xuất hiện, hối hả lại gần:

“Tụi chó đẻ, chuẩn úy! Tụi chúng ban nãy đã nấp sau chuồng bò. Chính thằng Vịnh trông rõ ba đốm lửa hướng đó, quật vô một băng trung liên… Làm một con bò chết ngắc, một con ngắc ngư… Chuẩn úy cho gọi chủ bò dậy mổ lấy bán thịt?”

Chàng cúi xuống hút một hơi điếu thuốc để trong lòng mũ, trả lời không suy nghĩ.

“Cũng được. Anh Ra cho trung đội bố trí quanh khu này rồi hãy cho dân ra khỏi nhà”.

Hai bóng đen khuất đi, chìm lẫn vào bóng tối của hàng cây. Tiếng đập cửa vang lên trong vùng yên tĩnh: “Cô bác mở cửa đi! Tụi tôi Cộng Hòa đây!”. Chàng cúi xuống hút một hơi thuốc trong mũ, tiếng gọi và đập cửa lúc rõ lúc mờ theo sức mạnh yếu của gió. “Cô bác mở cửa… Cộng Hòa đây!”. Chàng ngửa cổ cho gió lùa xuống ngực, các giọt mồ hôi se dần trên da. Các tiếng nói lẫn lộn, trao đổi, một vùng ánh đèn xuất hiện làm các bóng người hiện ra thành từng vệt dài trải về phía lộ. Vùng ánh sáng di chuyển về phía chuồng bò, những tiếng động khó xác định xuất xứ bắt đầu nhiều hơn. Chàng như muốn ngái ngủ, ánh đèn di chuyển qua các bóng xuất hiện trên tường làm đứa trẻ là chàng hơi sợ hãi kéo chăn lên trùm kín mít, giấc ngủ đến êm đềm và buổi sáng đến trong tiếng gà mẹ gọi con ngoài sân, những khung vàng nhạt trên vách của ánh nắng mặt trời qua khe hở trên khung cửa căn nhà tại quê cũ. Hơi nóng đầu thuốc bắt đầu tỏa vào ngón tay, chàng cúi xuống cố hút một hơi chót, buông mẩu thuốc xuống, bốc đất phủ lên từ từ. Chàng đứng dậy.

Vùng ánh sáng rực rỡ hẳn lên khi chàng bước vào sân nhà. Một đứa bé ngái ngủ ngồi thần người trước ngọn đèn nhỏ đặt trên đất, chàng dừng lại một khoảng thời gian, nhận ra đó là một đứa gái tóc rối rủ trên vai áo rách lộ một khoảng da trắng nhạt. Một nỗi xúc động xuất hiện, chàng tự nhủ: Nào có gì đâu, một cô bé gái ngồi ngái ngủ cạnh ngọn đèn dầu, chỉ có vậy. Nhưng nỗi xúc động vẫn còn đó, ray rứt và bí ẩn. Chàng băng qua sân, tới tì tay vào một then ngang nhìn vào chuồng bò: một con vật nằm dài mất một bên đùi, một người đàn ông cởi trần ngồi quay lưng lại lúi húi xẻ thịt, thỉnh thoảng bê một khối bầy nhầy vứt vào chiếc thúng. Nỗi xúc động tan biến đi khi chàng nhìn rõ người đàn bà ngồi cạnh thúng, hai tay tì trên đầu gối, bàn tay buông thõng xuống gần chạm đất. Tuyệt vọng và khốn khổ có đó rồi, điều chàng âm thầm lo sợ nó hiện ra đầy đủ như thế với hai vệt nước mắt trên da mặt đã bắt đầu nhăn của người đàn bà. Người đàn ông cởi trần mệt mỏi đứng dậy vặn người, hai bàn tay mở nguyên giang cách xa thân hình, các vệt máu bết dày đen thẫm óng lên giữa các kẽ ngón. “Giúp tui một chút chứ! Ngồi đó mà khóc ích chi!”. Con bò thứ hai đứng sát vách chuồng đối diện bắt đầu run rẩy dữ dội, hai chân trước lẩy bẩy, các vết đạn thủng lỗ chỗ trên lớp lông vàng bết máu. Một bóng đen lại gần ngay cạnh làm chàng quay nghiêng đầu, nhận ra khuôn mặt binh sĩ xạ thủ trung liên đã chúi đầu bắn cả một băng đạn lên mái nhà. Nửa người trung đội phó đột hiện rõ trong vùng ánh đèn, đôi mắt nhỏ long lanh phản chiếu ánh sáng lộ vẻ điềm đạm, chàng thèm muốn có được thái độ ấy vì nỗi xúc động còn đang tiềm tàng, ray rứt. Có gì mà phải… đã có những dân nào bị chết… Chàng đứng thẳng người dậy, lấy thuốc châm hút. Phải rồi, có lẽ thế, chàng đã dửng dưng nhìn nhiều xác chết nhưng nhìn rõ chúng trong tư thế cứng ngắc, thực chết. Còn buổi tối, khối vô định dưới tấm bạt chiếc giày thòi khỏi sàn xe lắc lư trong vùng ửng đỏ và bây giờ nỗi thống khổ hiện ra kia, con bò run rẩy hấp hối và người đàn bà ngồi khóc. Ra nói với người đàn ông: “Bác mổ con kia đi. Nó sắp chết rồi”. Người đàn ông làu nhàu một câu không rõ, lại gần vách cầm khúc gỗ lớn nhưng một người đã vụt bước vào đánh ngược báng súng vào đầu con bò. Con vật loạng choạng gục xuống, tứ chi tiếp tục run khẽ. Chàng nhận ra người đánh báng súng là xạ thủ trung liên. Bây giờ đầu hắn cúi xuống, vài đợt tóc dính bết mồ hôi trên trán. Ra nói: “Bán thịt cả hai con được chừng bao, bác?”. Người đàn bà im lặng giơ tay quệt ngang mặt, chàng gọi nhỏ: “Ra, Cát, rút đi thôi…”. Chàng hướng ra phía lộ và khi đi qua đứa bé ngồi trước ngọn đèn, chàng chợt nhớ ra đêm khuya ở quê ngoại, mẹ chàng đặt chàng ngồi cạnh ngọn đèn để giúp người bà săn sóc mấy con heo, bệnh bất ngờ. Mặt quốc lộ như không còn một vết bụi, loang loáng ánh trăng chạy dài về phía cây cầu đúc, chàng vẫy tay cho quân vượt qua khu đất trống, bóng tối của rặng cây cao úp phủ lên làm chàng bắt đầu nghe thấy tiếng dế kêu trong cỏ.

*

Chị nghiêng đầu lắng nghe, không gian đã trở lại bình thường, có tiếng lao xao trong khu vườn bên kia nhà: “Yên rồi… Lên đi”. Đốm lửa đỏ đầu thuốc lóe lên soi rõ chiếc mũi bóng loáng mồ hôi của Ba, mùi khói ấm tỏa ra nồng nặc: “Lên thôi, anh! Hết súng rồi”. Chị giơ đứa con vào hai cánh tay chồng lờ mờ trong miệng hầm, đứa bé mê ngủ quẫy mạnh.

“Nhà có bị sao không mình?”

Tiếng Ba từ một góc tối vẳng lại:

“Không có sao hết”.

“Sao tối nay mấy ổng đánh nhau sớm như vậy há? Trăng mới lên mà”.

Ba không trả lời, có tiếng ly va chạm vào nhau và tiếng nước chảy ở bàn, trăng đã bắt đầu làm rõ các cây cối ngoài vườn. Chị khẽ đẩy đứa bé vào phía trong, ngồi dựa vách nhìn ra ngoài khe cửa. Có tiếng heo ủn ỉn lại gần, chị ghé sát khe nhìn ra, gọi khẽ:

“Hai con heo hổng chịu vô chuồng ngủ!”

“Biết sao. Ra bây giờ dám đụng mấy ổng bất tử…”

Một bàn tay cứng ngắc lẫn mùi thuốc quàng quanh người, kéo chị ngả xuống ván, rồi một sức nặng nóng cứng thoảng hơi rượu phà vào mặt. Chị hoàn toàn buông thả, hài lòng nhưng vẫn thì thào:

“Thôi đi. Đợi chút đi, giờ này dám mấy ảnh tới gõ cửa bắt đi đắp mô”.

“Mô nè!”

Bàn tay Ba làm một bên ngực chị đau tê dại:

“Nhẹ chứ, thằng nhỏ dậy bây giờ!”

…Tiếng Ba còn thở mạnh, chị ngồi dậy khua tay tìm quần. Ba co chân đặt lên chặn lại. Chị cười khẽ:

“Nhậu say, ham dữ hôn!”

Cánh tay lại vòng quanh lưng kéo xuống, chị ngả người theo chiều kéo, mở rộng thân thể chiều đón. Đột nhiên chị nghiêng người, hay tai vít vai Ba bất động, lắng nghe tiếng loa văng vẳng qua vách.

“Thôi xuống đi mình. Mấy ảnh về rồi đó, để sức mà đi đắp mô”.

Ba úp chụp xuống giữ nguyên chị ở vị trí cũ:

“Mấy ảnh về cứ về. Tui cứ lo việc của tui!”

“Dữ hôn. Một lần rồi chứ nào phải… Nhậu lắm vô rồi lộn xộn hoài với tui!”

Ba thở mạnh nín thinh, nhưng chị không còn hứng thú. Tiếng loa đã nghe rõ hơn giữa tiếng chó sủa, chắc mấy ảnh đã về đến nhà bà Sáu. Chị rướn người chiều ý chồng, tiếng loa cắt đứt từng tiếng lọt qua vách làm thân thể trơ cứng, và khi Ba run rẩy hối hả rồi ngả người lăn sang bên cạnh, chị vội vã ngồi dậy nhìn qua khe. Ba bóng đen băng qua vườn, tiến vào sân. Chị quờ tay lay chồng:

“Mấy ảnh tới kia!”

Ba ngồi dậy, bước xuống đất lom khom mặc quần. Tiếng gõ cửa nhẹ, một giọng nói như cố làm ra vui vẻ và thân mật:

“Mở cửa cô bác! Chưa chín giờ đã đi ngủ dữ đa…”

Tiếng then cửa va lạch cạch, ánh trăng vụt hiện một khung vuông trên nền nhà. Chị nhìn qua vai chồng, cố nhận diện ba hình đen thẫm đứng xoay lưng lại ánh trăng, một tiếng ho nhẹ gần như quen thuộc. Giọng nói cũ tiếp tục:

“Phiền anh chị ra mần mấy cái mô… Cho tụi tay sai đế quốc Mỹ ngắc ngư chơi”.

Một tiếng cười nhỏ chấm dứt câu nói, trơ trọi lạc lõng. Ba nín thinh đứng im, chị nín thinh nghĩ tới nỗi mệt mỏi từng nhát cuốc bổ xuống đất cứng tê dại cánh tay trong bóng đêm, mồ hôi chảy ra ướt đẫm vai lẫn sương đêm và sáng hôm sau từng toán quân vào xã thu thẻ kiểm tra với một câu nói nửa mời mọc nữa đe dọa: “Phiền cô bác ra phá giùm mấy cái mả Hồ Chí Minh cho xe đò lưu thông, đồng bào buôn bán làm ăn chút chứ… Tụi tôi đợi trả thẻ cô bác ở lộ”. Cứ như thế bao lần rồi, chị mỏi mệt nhắm mắt lại, người như muốn rã rời. Tiếng chân Ba bước nhanh lại góc nhà, ánh trăng mất vật cản ùa vào mặt và vẫn một tiếng ho quen thuộc ấy làm chị mở bừng mắt cố nhận rõ mặt người đàn ông từ lúc đầu vẫn đứng dưới bực thềm, bất động. Ba lại gần cửa, tiếng thuổng va vào cột vang động như một nỗi bực tức không dám thổ lộ. Chị nói:

“Thôi mấy anh cho tui ở nhà bữa nay. Tui đang đau, cả đứa nhỏ nữa”.

“Thôi mà. Anh chị ráng chút chút, đóng góp cho giải phóng nhân dân… Đừng có lo! Tụi chúng không dám bắn vô đầu đồng bào đâu. Mấy bữa trước tụi chúng bị đồng bào kéo lên kiện trên quận vì bắn vô xã đó, còn ớn mà”.

Tiếng nói từ bóng đêm đứng ngoài thềm cất lên, thật quen thuộc làm chị sững sờ:

“Thôi, để chị ở nhà bữa nay. Đứa nhỏ đau mà”.

Xúc động đột ngột dâng lên làm chị nghẹn ngào, bàng hoàng. Đúng Hải, đúng Hải rồi, Hải chưa chết và đêm nay trở về đứng ngoài thềm trong ánh trăng với những tiếng ho dè dặt. Chị hơi rướn người về phía trước như để nhìn rõ hơn khuôn mặt chìm trong bóng tối, tiếng loa gọi theo chiều gió lan tới, những người đàn ông im lìm khoảnh khắc như ngủ thiếp. Không ai nói gì thêm và chị đứng đó cứng người ra, thân thể Ba bên cạnh chỉ còn như một cái cột một vách tường, những bóng đen ngoài hiên như cây cỏ trong vườn. Ba thở dài thật khẽ bước qua bực cửa, lẫn vào trong những bóng đen, lưỡi thuổng loang loáng hắt ánh trăng. Chị mơ hồ thấy đất lạnh thấm vào gót chân, cơ thể thôi rướn căng về trước, Hải đã trở thành bóng đen mờ mịt tan lẫn vào khu vườn khoảng hiên trắng dưới ánh trăng yên tĩnh. Chị bước ra ngoài ngồi xuống bậc thềm, hơi đất thấm vào mông vào đùi, ánh sáng trăng tứ bề, trên tóc, trên bàn tay, trên nỗi xao xuyến mong ước và tuyệt vọng. Hải đó, chưa chết và trở về như một bóng đen trên thềm đất, như một lôi cuốn tàn bạo làm người chị rũ rượi như khi tiếng súng uy quyền bắt chị lết xuống căn hầm nồng mùi đất ẩm mùi thuốc lá của chồng. Hải đã trở lại, Hải của buổi trưa ven sông lao vào Tía chửi rủa đấm đá túi bụi và chị đứng sững sợ hãi, muốn can hai kẻ, muốn chạy, muốn kêu. Hải của đồn bốc cháy ngùn ngụt, Hải chạy băng qua ruộng mía, sờ soạng vội vã và lục lạo, co quắp sức mạnh trên thân thể chị trên lớp lá cây xào xạc trong bóng đêm. Tiếng loa, tiếng ồn ào rầm rì từ phía trụ sở hội đồng xã vẳng lại, chị ngồi im trên thềm, ánh trăng rải đầy trên sân trên lá cây, lắng nghe tim đập khắc khoải. Chị ngồi im trên thềm, chờ đợi. Chờ đợi Hải sẽ trở lại, chị biết thế, hắn sẽ phải trở lại để sờ soạng, co quắp sức mạnh trên thân thể chịu đựng chiều đón. Không thể tuyệt vọng hơn được, mọi sự sẽ phải đến như thế. Tiếng loa, tiếng ồn ào rầm rì, tiếng chân người lan dần về quốc lộ. Da thịt khe khẽ ướt át nhờn trơn, mông bắt đầu ê ẩm, chị muốn đứng dậy ra vại nước tắm, chị muốn đổi thế ngồi, ánh trăng làm lo âu tăng cao dần, chị muốn lùi vào nhà, ẩn dưới hiên, trong bóng đêm. Nhưng cơ thể vẫn bất động, ánh trăng trên đất trên lá cây, tràn đầy trên tóc trên tay, trên nỗi chờ đợi đến tuyệt vọng một bóng đen sẽ từ bụi rậm, bờ cây xuất hiện như một sức mạnh co quắp phải đón nhận trên thân thể đang tê dại, rũ rượi, nhờn trơn…

(Trích Tiền đồn, từ trang 133 đến 144)

Nguồn: Tạ Tỵ. Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay. Lá Bối ấn hành lần thứ nhất. Bìa của Đinh Cường. In xong tại Việt Hương ấn quán, 34 đại lộ Lê Lợi, Sài Gòn ngày 29-1-1972. Giấy phép SPNHT số 4452 BTT/PNHT, ngày 20-9-1971. Ngoài những bản thường có in thêm 50 bản trên giấy quý dành riêng cho nhà xuất bản và bạn văn của tác giả. Nhà xuất bản Lá Bối. Lô 0, số 121, Chung cư Minh Mạng, Sài Gòn 10. Giám đốc sáng lập: Nhất Hạnh. Thư từ xin đề ông Võ Thắng Tiết. Giá: 800đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.


















Mùa hè năm đó tôi quyết định ra Huế. Một phần vì suốt đời tôi đã nghe nói nhiều về thành phố này, bạn bè xuất xứ nơi đây cũng đông, một phần vì tình hình chính trị và tôn giáo miền Trung đang bắt đầu sôi động dữ dội, có thể tác động tới tình hình chiến tranh Việt Nam. Hơn nữa, tôi được biết người bạn đồng môn cũ tại Đại học Sư Phạm và Văn Khoa Sài Gòn, là Hoàng Phủ Ngọc Tường đang là một trong những lãnh tụ sinh viên thanh niên ngoài đó. Chính Tường, qua một bạn chung, đã nhắn tôi ra chơi.

Tường và tôi quen nhau khi bắt đầu học ban Cử nhân Triết và ban Việt Hán năm thứ hai. Vóc người anh nhỏ nhắn, đầy sức sống, thích tranh luận và dĩ nhiên là tràn đầy lý tưởng, muốn đóng góp tối đa cho dân tộc. Con người là như thế, lại có nhiều tư tưởng đi ra ngoài đường mòn của khuôn sáo Đại học, anh thường bị các giáo sư không ưa…như tôi vậy. Hơn nữa, tôi bị giáo sư Nghiêm Toản kỵ bao nhiêu thì Tường cũng bị y như thế. Thầy Toản trụ trì cửa ải bắt buộc phải đi qua là chứng chỉ Văn chương Việt Nam tại Văn khoa. Không có chứng chỉ này, dù có đỗ tới đâu, cũng không được cấp bằng cử nhân. Tường và tôi cộng lại, hai đứa rớt tới xấp xỉ bảy kỳ thi mà không đứa nào lấy nổi chứng chỉ này. Quan điểm văn học của giáo sư Nghiêm Toản quá cổ điển, quá khuôn sáo đường mòn, có lẽ chỉ hợp với một thời thái bình thịnh trị. Làm sao hai đứa thanh niên như bọn tôi có thể ép mình vào khuôn sáo đó.

Các cụ xưa thường bảo ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Tôi với Tường sớm thân nhau cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng hai đứa cũng lắm lúc bất đồng ý kiến hơi nhiều. Tôi đã bắt đầu viết văn, có lẽ vì thế nên nhìn cuộc đời và con người bao dung, nhân bản hơn Tường. Đương sự lúc nào cũng cực đoan, không đầu này thì đầu kia. Sau khi ra trường, Tường trở về Huế dạy học, còn tôi đi con đường riêng của mình, với nhiều sóng gió, và đã trở thành một người lính viết văn – hay là một nhà văn đi lính thì cũng thế. Nhưng dù là gì, đến mùa hè năm đó, tôi đã là một nhà văn thành danh, bắt đầu hơi ồn ào về một đường lối văn nghệ cũng như xã hội mới. Tôi biết Tường có đọc hết những bài văn của tôi, và vì thế, anh muốn tôi ra Huế để tranh luận, và nếu có thể, kéo tới gia nhập phong trào đấu tranh dữ dội sắp phát động tại miền này.

Tôi đi cùng hai người bạn. Một người là chủ bút tập san chính tôi đang hợp tác. Người thứ hai là một sĩ quan không quân đang giữ chức vụ chánh văn phòng tại Bộ Thanh Niên – với cái gốc lính tàu bay chính cống, anh bạn này bao sân tất cả việc đi về của bọn tôi bằng máy bay quân đội. Sau khi phi cơ nhỏ đáp xuống sân bay trong Thành Nội, anh bạn không quân đã tách ra đi lo việc của anh, quẳng cho tôi cái xe jeep cũ xì của Ty Thanh Niên địa phương.

Được báo trước ngày giờ, anh bạn chủ bút và tôi kiếm ra Tường không khó khăn gì. Kể từ ngày chia tay nhau ở sân trường lạo xạo đá ong đầy bóng mát của Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, đây là lần đầu tiên hai đứa mới gặp lại nhau. Không kịp hàn huyên gì cả vì Tường cho biết Tổng Hội Sinh Viên đã họp mặt đủ để đón tôi tại trụ sở. Tất cả leo lên cái jeep cũ. Tôi lái, Tường chỉ đường cùng giới thiệu những địa danh nổi tiếng của Huế. Điểm đặc biệt làm tôi chú ý là cách kiến trúc các nhà, nhất là trong khu Thành Nội. Cái gì cũng nho nhỏ nhưng đầy tách biệt với nhau trong một thứ trầm lặng đầy sóng ngầm. Những con đường cũng thế, nhỏ, êm vắng nhưng không thanh thản. Tất cả như toát ra một cái vẻ vừa trì kéo của quá khứ, vừa muốn vùng lên mà bung ra dữ dội. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao con gái xứ Huế có phong thái vừa khép nép giữ gìn, ngoan ơi là ngoan, lại vừa đam mê cuồng nhiệt khi đã lâm vào thế buông thả.

Buổi trao đổi ý kiến tại Tổng Hội Sinh Viên chưa chi đã đầy sóng gió của bất đồng. Nếu cá nhân tôi đồng ý dễ dàng với những người bạn trẻ xứ Huế về điểm để chính quyền tiếp tục trong tay các tướng lãnh quân đội, thì tương lai dân tộc khó khá nổi, thì bọn tôi lại không đồng ý với nhau về chính sách chống lại Đảng Cộng Sản Việt Nam đang tấn công miền Nam. Cùng là lớp trẻ nên dù thảo luận có gay go, cái bụng cũng thấy đói. Cả bọn đồng ý hoãn tới ngày hôm sau, để cùng nhau đi ăn ở một quán cơm khá bình dân, sinh viên hay lui tới gần giòng sông Hương.

Rồi sau đó là theo Tường đi thăm những người bạn xứ Huế có uy tín đấu tranh, hoặc có ít nhiều chất văn trong người. Tôi đã đến thăm nhà của Trần Quang Long, căn nhà nghèo nhưng có vườn cây chanh nho nhỏ đủ để tác giả đặt tên tập thơ của mình là Hoa Chanh. Tôi đã ngồi trong căn phòng học nhỏ xíu của Nguyễn Đắc Xuân nghe những bài tâm ca mới làm của Phạm Duy, thu vào tape đêm ông bạn già lênh đênh trên sông Hương cùng lớp trẻ này – đây là lần đầu tôi được nghe mười bài Tâm Ca, và đã thấy xúc động vô cùng khi nhìn xuống giòng sông nhỏ kề sát có bụi tre xơ xác buông rũ. Tôi đã được đưa đến một quán cà phê nhỏ xíu trong Thành Nội, ngay giữa lục bộ thời xưa của triều Nguyễn, đã vào điện Thái Hoà đứng cạnh ngai vàng để hiểu rằng các nhà lãnh đạo thời quân chủ của Việt Nam thường vô cùng khiêm tốn, tránh xa hoa, nếu so với các vị vương gia khác trên thế giới cùng thời. Tôi đã leo lên cửa Ngọ Môn uy nghi nhìn xuống quãng trường rộng phía dưới để hiểu rằng các vương triều thời xưa phải trọng võ đến mức nào. Làm người Việt Nam, lỏng tay cung kiếm là mất nước như không.

Tôi đã cùng Tường và các bạn khác nữa đã có lúc ngồi ở một quán cà phê do một đại gia suy sụp mở. Bàn kê ngay trên thềm hiên cạnh ngạch cửa của một ngôi nhà lớn cổ kính rêu phong và tôi có giương mắt lên quan sát, dù ở đây hay trên các con đường của Vĩ Dạ, ít khi thấy bóng dáng một giai nhân tha thướt ẩn hiện. Có lẽ tôi chỉ được nhìn thấy nhiều cô gái Huế trong quần áo trắng mỏng manh vừa mời mọc vừa thủ thế che dấu tại cầu Trường Tiền giờ tan học. Có lần tôi đã nửa đùa nửa thật hỏi Tường : Huế như thế này thì yêu đương làm sao đây ? Coi bộ muốn tán một cô thì phải lập kế hoạch ngũ niên chăng ? …Điều bất ngờ nhất là cả Tường và các bạn đi cùng đều xác nhận thời gian này là đúng. Họ đều biết nàng của mình, quen nàng từ lâu, rất lâu, trước khi có thể ôm lấy tấm thân mảnh dẻ với vòng eo nhỏ bậc nhất thế giới để mà hôn lên môi hay rước nàng về làm vợ. Sự khẳng định này làm tôi nhục chí thấy rõ, không còn mơ tưởng sẽ có một cô bạn gái hay người tình xứ Huế nữa.

Cuộc thảo luận sau đó cũng không dẫn tới đâu. Bất đồng quá sâu đậm giữa hai bên. Nhất là về sự tham chiến của quân đội Mỹ. Những người bạn xứ Huế của tôi ghét Mỹ một cách tổng quát, rất thể xác. Có thể nói ngửi thấy mùi Mỹ, trông thấy người Mỹ là họ nổi gai lên rồi – dù những người lính Mỹ thời kỳ này muốn đến thăm Huế đã phải mặc thường phục theo yêu cầu của thượng cấp để khỏi chọc giận thanh niên nơi này. Những người bạn Huế nhắc quá nhiều tới chuyện một cô gái điếm trẻ bị lính Mỹ hiếp chết quăng xác vào bãi rác, thậm chí một lần khi tổng cộng tám người cùng leo lên chiếc xe jeep cũ tôi lái, đã có bạn buông ra một câu : “Tám người mình đâu có nặng bằng bốn thằng Mỹ ha!”. Có thể nói họ có phong cách như các cụ xưa thời Minh Mạng Thiệu Trị và Tự Đức, coi người da trắng mắt xanh đều là bọn “Bạch quỷ”, hoặc tệ hơn, như Nguyễn Huệ đã có lần coi người Tây phương là những cái xác trắng bệch trôi từ biển Bắc xuống.

Về điểm nào chứ điểm này tôi bất đồng dữ dội. Tôi trình bày thẳng thắn là tôi và các bạn ở Sài Gòn cũng có chống Mỹ, nhưng là chống chính sách Mỹ đang áp đặt cho Việt Nam. Nói kiểu bây giờ, là chống cái policy của chính quyền Mỹ đang theo đuổi trong chiến tranh Việt Nam – thứ policy chắc chắn sẽ đưa miền Nam đến thảm bại trong tương lai. Cuộc chiến tranh này là của chúng ta mà, người Mỹ lúc này có mục tiêu tạm thời trùng hợp với Việt Nam Cộng Hoà, thì họ mang quân tới giúp. Ngày nào họ hoà được với Trung Quốc, ngày ấy họ sẽ rút khỏi phần đất Việt không vương vấn. Nước Mỹ nói chung, đâu có quyền lợi kinh tế và văn hoá nào đáng kể ở Việt Nam để vương vấn. Tôi trình bày thẳng thắn những ý nghĩ đó và nói thêm đối với tôi, sự hiện diện của quân đội Mỹ là cái mộc tốt, đỡ đòn cho ta để người Việt quốc gia có đủ thì giờ chấn chỉnh lại nội bộ một cách toàn diện, nghĩa là làm Một cuộc cách mạng không Cộng Sản, để sau đó mới có đủ sức giữ vững miền Nam. Đến đây thì Tường và các bạn Huế không có gì phản đối. Nhưng khi tôi nói rõ thêm rằng như thế quân đội Mỹ là một thứ bạn đồng minh thực sự, dù là giai đoạn, thì tất cả những bạn này phản đối. Tôi cũng chẳng chịu, tôi cũng trẻ như họ, hăng hái kém gì trong ngôn từ và tranh luận, nên đã tuyên bố đại khái:

“Tôi đã từng chiến đấu cạnh những quân nhân Mỹ, và trong tương lai nếu cần, tôi sẽ còn tiếp tục như thế !”

Đến đây cuộc thảo luận bế tắc. Chẳng ai chịu nhường ai điểm nào. Người bạn chủ bút liền đề nghị chấm dứt mọi thảo luận chính trị để khỏi bất hoà. Tường và tôi là bạn học cũ nhiều năm, không ai muốn tan vỡ tình thân hữu đó. Cả hai bên đồng ý kể từ nay chỉ gặp gỡ nhau trên bình diện thân hữu và văn nghệ mà thôi. Tường liền đề nghị một buổi gặp gỡ thuần tuý văn nghệ tại Tuyệt Tình Cốc đêm hôm sau.



(Chân dung Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Nhà văn Túy Hồng và Nhà văn Thế Uyên)

Tuyệt Tình Cốc? Nội cái tên nghe cũng đã được rồi. Thời đó thế hệ thanh niên bọn tôi đều mê kiếm hiệp Kim Dung, đến độ ở Sài Gòn thiếu gì người cầm bút đã mượn tên các nhân vật của Kim Dung làm bút hiệu, và các bạn Huế của tôi sau này mở một quán cà phê nhỏ, cũng đặt tên là Doanh Doanh. Tối hôm sau, tôi lái cái jeep cũ một mình tới điểm hẹn đón Tường. Thành phố Huế còn xa lạ với tôi, Tường bảo quẹo đâu thì tôi quẹo đó để rồi ngừng ở một con đường u tĩnh – bây giờ bảo tôi nhớ tên hay kiếm lại, chắc không nổi. Đã thế, Tường dắt tôi đi bộ trên đường nhỏ len giữa các hàng rào cao.

Tuyệt Tình Cốc là một căn nhà tranh vách gỗ giản dị nằm sau một sân rộng. Cả ba gian nhà đã đầy người dưới các ánh nến chập chờn. Hầu hết là thanh niên, ngoại trừ ba người là nữ. Và người nữ lớn tuổi nhất nơi đây được Tường giới thiệu dưới cái tên Tuý Hồng. Tuý Hồng thì tôi biết vì mới đọc vài truyện ngắn đầu tiên của cô đăng trên Bách Khoa. Lối viết mạnh bạo, nhất là về địa hạt tình dục của cô gái này làm tôi thích thú – tôi vẫn nghĩ từ lâu tình yêu bao giờ cũng bao gồm cả tình cảm lẫn thân xác, viết văn mà chỉ lãng mạn nhìn nhau qua hoa lá cỏ cây thôi không đủ. Phải nhìn thấy và thèm muốn thân thể nhau nữa…

Tôi không có thì giờ để nói nhiều với Tuý Hồng đêm đó ngoài vài câu chào hỏi vì số người hiện diện khá đông. Là khách phương xa nên tôi được mời ngồi trên chiếu giữa trải ngay trên nền đất, và khỏi nói cũng có thể biết ly cà phê được pha thật ngon, đậm sánh. Dưới ánh nến mờ ảo khói thuốc bay mù mịt thân ái quyện vào nhau. Bọn tôi đã giao hẹn trước, đêm nay không một ai được nói đến chuyện chánh trị, cách mạng, xuống đường, đấu tranh chi hết.

Sau cùng đến mục văn nghệ. Tường giới thiệu với tôi người bạn trẻ nhỏ và gầy, đôi mắt dịu dàng sau làn kính cận, hầu như không nói gì từ lúc bắt đầu dù anh ngồi đối diện tôi. Đó là Trịnh Công Sơn.

Lúc ấy nhạc của anh chưa được in ra, ở miền Nam chưa ai biết tới anh, kể cả tôi. Từ hôm tới Huế, Tường đã vài lần nhắc tới Trịnh Công Sơn và khen rất nhiều tài năng của người nhạc sĩ trẻ này. Tôi đã chỉ ừ à cho phải phép. Nhưng đêm nay, ngay sau khi Sơn ôm đàn hát lên một bài của mình về một vết lăn trầm, tôi đã thấy ma lực của lời cũng như nhạc. Sơn càng hát thêm, tôi càng cảm thấy bị quyến rũ. Có lẽ đây mới là thứ nhạc của thế hệ trẻ chúng tôi, thế hệ lớn lên trong cuộc chiến khốc liệt kéo dài. Cuộc chiến do thế hệ cha chú phát động, nhưng bọn tôi phải cầm súng, chiến đấu và chết, dù chết như một nạn nhân vô danh trong một cuộc pháo kích tầm thường tăm tối. Tôi đã thành thực khen tài Trịnh Công Sơn đêm đó, anh vẫn chỉ cười nhẹ nhàng và hiền lành sau đôi kính cận. Có thể nói trong những bạn Huế của tôi thời đó cũng như sau này, không ai hiền lành, khiêm tốn bằng anh.

Khi rời Tuyệt Tình Cốc đêm đó, tôi với Tường tách ra đi riêng trong đường hẹp tăm tối. Với tư cách bạn cũ, tôi đã hết sức khuyên Tường đừng phát động cuộc đấu tranh dự trù, bởi vì dù có lật đổ được tướng lãnh này hay kia, đâu có thay đổi được tình hình. Tôi cũng e ngại rằng sau khi thất bại, Tường và các bạn sẽ không còn đường chạy nào khác là ra ngoài mật khu với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam…Những con người cộng sản Việt Nam trước sau cũng theo chủ nghĩa Mác Lê Nin tới cùng và đó chẳng phải là một giải pháp tối ưu – có thể nói thêm đó là một giải pháp chót, tệ nhất cho dân tộc Việt.

Tôi cũng nói đã thấy thấp thoáng cạnh Tường người của Mặt Trận cài vào. Tường năn nỉ chỉ giùm những người đó, dĩ nhiên tôi từ chối vì bản thân cũng không biết chính xác. Tôi cũng rán thuyết phục Tường đưa phong trào tách khỏi thầy Trí Quang bởi vì trong những vị sư lãnh đạo thời đó, tôi e dè thầy này nhất, vì ông tuy có uy tín, có tài lãnh đạo, nhưng lại không có một chính sách nào đáng kể và dài hạn cho miền Nam cả. Về điểm này, Tường cương quyết lắc đầu vì anh cho rằng không có thầy Trí Quang, anh và các bạn trẻ sẽ không đủ sức phát động cuộc đấu tranh mong muốn.

Những người muốn quá giang xe tôi, trong đó có Tuý Hồng, đã lên xe ngồi đợi nên hai đứa không thể nào kéo dài câu chuyện. Tôi đưa tay bắt Tường thật thân hữu, Tường đáp lại nồng nhiệt không kém, vì cùng ý thức được rằng cả hai sắp lao vào những cuộc chiến đấu lớn lao, phải trả giá bằng sự tự do và cả sinh mạng của chính mình. Mỗi người một con đường.

Tôi một lần nữa lái xe trong đêm khuya của thành phố cổ kính trầm lặng nhưng sôi sục ngấm ngầm. Ai bảo tôi quẹo đâu thì tội quẹo đó, bảo ngừng cho xuống thì tôi ngừng. Sau cùng chỉ còn Tuý Hồng ngồi cạnh tôi. Nàng đã nhỏ nhẹ chỉ đường cho tôi về nhà nàng, gần một con sông nhỏ xíu có một bến nổi danh từ lâu trong thi ca Việt Nam, nhất là trong những đêm trăng. Và đêm nay cũng có trăng, dù trăng hơi mờ. Khi tôi ngừng xe ven đường có con hẻm nhỏ dẫn vào nhà Tuý Hồng, trong một khoảnh khắc, cảnh đẹp nơi này đã làm người tôi ngẩn ngơ. Tôi im lặng và Tuý Hồng cũng thế. Nhà văn mới viết này rụt rè, ít lời trong giao tế – sau này nổi tiếng khắp nước với bút pháp độc đáo, lối sử dụng chữ nghĩa tiếng Việt khéo léo như phù thủy có ma thuật, cũng vẫn dịu dàng, rụt rè trong giao tế thường nhật như thế thôi.

Sau cùng tôi xuống xe, đi vòng sang phía bên kia đỡ cô gái xuống. Hai đứa từ giã nhau giản dị như hai người bạn cũ và tôi châm một điếu thuốc đợi Tuý Hồng đi khuất vào trong hẻm, dưới ánh trăng nhạt tràn đầy trên tất cả…Tôi cho xe chạy ra bờ sông. Một đêm như thế này, làm sao có thể ngủ được. Hai người bạn đồng hành từ Sài Gòn đã hẹn tôi ở một quán để cùng nhau ngủ đò trên sông Hương đêm nay. Tới Huế, dù có lang thang tới đâu, thăm đủ các lăng tẩm chùa chiền, nhưng nếu là nam nhi, chưa ngủ đò, thì kể như chưa trọn vẹn là đã tới Huế.

Bến đò ba đứa bọn tôi hẹn nhau có cảnh cũng tầm thường thôi, nhưng khi con thuyền đã tách bến, neo gần giữa giòng sông, thì cảnh thay đổi hẳn. Những ánh đèn bên trong bờ loé sáng thơ mộng hơn, không lấn át ánh trăng tỏa trên thuyền, trên giòng sông có nước hầu như không chảy. Ba đứa tôi bàn đủ thứ truyện, các đề tài sôi động của thời ấy, xen kẻ với những lúc gọi các hàng quà, gọi bia. Chưa nơi nào hàng rong thơ mộng như trên giòng sông này. Mỗi một hàng là một con thuyền nhỏ, dáng thon mảnh như lá tre, một ngọn đèn dầu nhỏ tỏa một vòng nhỏ ánh sáng cạnh một bếp đỏ than hồng. Món gì cũng nóng hổi, thơm lừng và dĩ nhiên cay xè. Ăn xong một tô bún bò nhỏ cay bỏng lưỡi để rồi sau đó tu một chai bia 33 ướp lạnh, không gì thú vị bằng.

Nhưng rồi cũng như bao cuộc ăn nhậu giữa các nam nhi xa nhà với nhau, đề tài cuối cùng được đưa ra vẫn là kiếm một bạn đồng sàn một đêm. Cái gì chứ cái đó trên sông Hương thì dễ có thôi…Nhưng các nàng kiều nữ xuất hiện cũng khác tại bất cứ nơi đâu : tất cả đi bằng những chiếc thuyền nhỏ thanh mảnh từ từ đậu sát vào chiếc thuyền lớn. Cô nào cũng mặc đồ bộ may bằng vải nylon mỏng nhất phủ ra ngoài những bộ đồ lót nhỏ xíu, mỗi người một màu sắc khác nhau. Bọn tôi đỡ các cô lên thuyền, đặt ngồi cạnh trên khoang phía trước, nhưng chưa ai thấy hứng thú dục tình. Cảnh trí đẹp, đề tài ba đứa đang thảo luận quá hào hứng, nên bọn tôi chỉ tháo gở hết toàn bộ áo quần hai cô gái rồi để nằm dài bên cạnh dưới ánh trăng. Ngay tôi cũng vậy, vừa uống bia vừa thảo luận, tay kia vuốt ve thân hình đầy đường cong êm ái của cô gái nằm cạnh, thấy cũng quá đủ thú vị, không cần phải có mục sau cùng. Nhưng các cô thì khác, thời gian với họ là tiền bạc. Mỗi đêm họ cần cho thuê thân xác tối đa…Bởi thế cô gái nằm cạnh tôi sau cùng đã nói nhỏ : Các anh đi đi cho tụi em còn về..

Đã được nhắc thì phải mang nhau vào khoang trong nhập cuộc mây mưa thôi, và quả thực đêm đó khoái cảm tôi thu nhập được thật nghèo nàn. Ra ngoài khoang trước tiếp tục uống bia hút thuốc ngắm trăng còn thú vị hơn nhiều.

Đêm thức khuya nhưng bọn tôi vẫn dậy sớm vì những tiếng cười nói nô giỡn của phái nữ ngay trong giòng sông. Tôi thò đầu ra ngoài đúng lúc mặt trời bắt đầu tỏa những ánh hồng đầu tiên trên những kiều nữ từ tất cả các thuyền có thuê thân xác các cô qua đêm. Họ cứ mặc nguyên bộ đồ mỏng như thế mà bơi trong nước, thỉnh thoảng lại leo lên một tảng đá ngầm, đứng thẳng người lên tắm gội. Cả ba đứa tôi cùng đột nhiên để ý tới một cô gái mặc đồ xanh đứng trên đá ngầm gần thuyền. Bộ đồ mỏng ướt nước đã bày lộ rõ một thân hình đẹp, chắc chắn nhưng mảnh mai của con gái thành thị – không ngắn và háng chắc quá to như các cô gái điếm thông dụng khác – người bạn tôi đưa tay vẫy, cô gái mĩm cười, bơi lại. Bọn tôi đưa tay kéo cô gái lên thuyền, đưa vào khoang trong. Sau một đêm nhậu nhẹt và một giấc ngủ ngon, lòng trai bây giờ mới nổi sóng dữ. Nhất là dưới ánh nắng đầu tiên chiếu qua cửa sổ khoang thuyền, thân hình cô gái tuyệt đẹp, trắng không một vết gợn. Cả ba đều giành nhau nhập cuộc trước nên tôi đề nghị rút thăm. Nghe lời đó, đột nhiên cô gái chua chát nói với tôi : “thân em đã đến như thế này mà anh còn nỡ đưa ra làm đồ vật để bắt thăm sao?”

Từ khi lớn lên, Tôi đã gặp gỡ thiếu gì gái điếm và chưa bao giờ tôi khinh bỉ họ. Đối với tôi, họ đáng thương và dù có làm điếm, cũng vẫn là một con người. Tôi thường bao giờ cũng dịu dàng và thân hữu với họ. Bởi thế, sau khi nghe câu trách của cô gái, tôi buông ngực nàng ra, ngỏ lời xin lỗi, rồi bỏ ra ngoài mũi thuyền, uống ly cà phê nóng đầu tiên của một ngày trên giòng nước đã chuyển sang màu xanh thẵm dưới ánh nắng của một ngày mới bắt đầu.

Bọn tôi rời chiếc thuyền và giòng sông đi Đà Nẵng, lên máy bay quân sự trở về Sài Gòn vào lúc đêm đã khuya. Từ đó chưa lần nào tôi gặp lại Tường nữa.

Cuộc chiến đấu của Tường và những thân hữu xứ Huế đã bùng ra sôi nổi vô cùng sau đó. Nhiều năm, rất nhiều năm về sau, nhà văn Nguyễn Mộng Giác ở Hoa Kỳ đã lấy nhân vật Hoàng Phủ Ngọc Tường này, thêm phần hư cấu tạo ra nhân vật Tường trong truyện dài Mùa Biển Động. Trên thực tế, đúng như tôi đã lo ngại, khi cuộc chiến đấu thất bại, đa số những người bạn này, kể cả Tường, chỉ còn con đường chạy ra ngoài khu với Việt Cộng. Sau 30 tháng tư 1975, Tường đã cùng một số bạn sống sót trở về trong hàng ngũ của kẻ chiến thắng và thống trị mới. Tôi không biết anh giữ những chức vụ gì ở ngoài Huế, chỉ thỉnh thoảng đọc một vài ký sự hay truyện ngắn anh đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Tài văn chỉ đại khái thôi. Và dĩ nhiên anh chẳng bao giờ liên lạc hay tới thăm tôi nữa. Cái tệ của chủ nghĩa Mác Lê là ở chỗ đó. Đã không cùng một lý tưởng, thì cha mẹ anh em bạn bè cố tri cũng đều có thể coi như kẻ thù.

Trong những người từ Tuyệt Tình Cốc đêm đó đi ra, có hai người sau này danh tiếng lẫy lừng. Người thứ nhất là Tuý Hồng đã bỏ Huế vào Sài Gòn lập nghiệp, nhưng có một nếp sinh hoạt khác nên thỉnh thoảng tôi mới gặp lại ở các toà soạn báo Văn hay Bách Khoa. Người thứ hai là Trịnh Công Sơn. Sơn nổi tiếng nhanh không kém và danh tiếng phổ biến khắp quần chúng . Nhưng dù nổi tiếng như thế, tác phong anh vẫn giản dị như xưa. Tôi thỉnh thoảng gặp anh ở khu nhà tiền chế trong khuôn viên của trường Đại học Văn Khoa. Vẫn xềnh xoàng với chiếc áo sơ mi kaki hay trắng ngắn tay với chiếc quần không mấy khi thẳng. Sau này anh có thuê một căn gác nhỏ và khi tôi tới chơi đúng hôm trời mưa, thì mái dột tứ tung. Chủ và khách cứ việc thoải mái xê dịch sao mưa khỏi rơi trúng đầu là được. Tôi không biết các nhà xuất bản in nhạc anh, các nhà thu băng…có trả tác quyền anh khá không, chứ phần tôi, chưa bao giờ thấy anh có tiền nhiều một chút. Có thể nói anh không quan tâm đến tiền bạc, ngay chuyện tác quyền, anh cũng để các em đứng ra thay thế.

Vợ tôi, y hệt trăm ngàn phụ nữ khác của thế gian này từ thời khai thiên lập địa tới giờ, rất quan tâm tới việc xem ai là người tình của Trịnh Công Sơn. Và quả thực tôi đã không trả lời được. Tôi không thấy dấu vết đâu là người tình của Sơn. Tôi chưa bao giờ gặp anh đi thân thiết với một cô gái nào. Có thời kỳ tôi tưởng Khánh Ly có thể là ” người tình trong bóng tối ” của Sơn, vì Sơn hay nhắc tới cô du ca này với giọng trìu mến. Anh khen Khánh Ly có một thông minh tuyệt vời về âm thanh, dạy qua một vài lần là đã hiểu, nắm vững được bản nhạc cùng cách thế diễn tả. Nhưng tôi biết là không phải từ hôm đang đứng nói chuyện với Sơn ở thềm hiên Hội Hoạ Sĩ Trẻ Sài Gòn. Khánh Ly tới, cần hỏi anh điều gì gấp. Nhìn cách thế cô du ca này đặt tay lên cánh tay Sơn, nhất là nhìn ánh mắt nàng nhìn Sơn, tôi hiểu giữa hai người chưa bao giờ có chuyện ái ân. Phụ nữ, khi họ đã từng làm tình với một đàn ông nào trong yêu thương, ánh mắt họ nhìn người đàn ông ấy sẽ hơi có tính cách sở hữu thân thuộc khá dễ nhận ra. Nhiều năm về sau, trong một bài phỏng vấn ở Hoa Kỳ, nữ ca sĩ này cũng xác định là trước sau không có quan hệ thân xác nào với Sơn cả.

Vậy ai là đối tượng yêu đương để nhạc sĩ này làm ra những bản tình ca tuyệt vời như thế ? Tôi không biết và e rằng cũng chẳng còn cơ hội nào để biết.

Cùng ở Sài Gòn, nhưng tôi quá bận nên thỉnh thoảng mới gặp Sơn. Một lần nhóm Thái Độ tổ chức một buổi ra mắt sách tại quán Hầm Gió của Nam Lộc. Phạm Duy, Miên Đức Thắng và Trịnh Công Sơn đều đến tham dự. Khi men bia đã ngà ngà, một người đề nghị cả ba nhạc sĩ lên hát chung một bài. Đứng giữa Phạm Duy mập mạp và Miên Đức Thắng đẹp trai to khỏe, Sơn thật mảnh mai, thư sinh. Sơn đề nghị hát một bài của Phạm Duy, nhưng ông bạn già này tế nhị từ chối. Sau cùng cả ba cùng đàn và hát một bài của Sơn, trong lúc đó tôi ngồi ngay trên bục gỗ dưới chân, tay cầm một ly bia lớn. Tôi đã thích thú vô cùng vì bài nhạc được lựa là một trong những bài tôi ưa thích nhất thời đó.

Vài hôm sau 30 tháng tư 1975, tôi đang đạp xe tới trường thì gặp Sơn đang đứng ở vĩa hè gần ngã tư Phan Thanh Giản Lê Văn Duyệt. Hai đứa mừng rỡ bắt tay nhau. Sơn than với tôi là anh đến Quận 3 để xin về Huế thì bị ban Quân Quản ốp, đòi xuất trình giấy tờ chứng tỏ là ngụy quân ngụy quyền. Mấy bộ đội nơi đây lý luận rằng ở hạng tuổi Sơn, nếu không đi làm công chức thì chắc chắn phải đi lính. Sơn đã giải thích rằng anh đã trốn lính và lần này bị ốp nặng hơn. “Giấy chứng nhận trốn lính của anh đâu ?”. Nghe kể, tôi phì cười và hỏi ông bạn nhạc sĩ hiền lành đã kiếm ra cơ quan nào phụ trách cấp giấy tờ chứng nhận trốn lính hay chưa…Tôi có hỏi anh về vụ anh hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát thanh những giờ đầu tiên miền Nam đổi chế độ, thì anh cho biết là bạn bè ngoài khu về kiếm ra anh ngay, kéo lên xe đưa đến đài phát thanh. Không kịp về nhà lấy đàn, nên anh phải hát tay không.

Sau khi tôi được tha khỏi trại cải tạo, tình hình phía Trịnh Công Sơn đã khá hơn. Trước hết anh không phải đi cải tạo – trong ba diện chính phải đi là sĩ quan, công chức từ cấp phổ thông trở lên và đảng phái cũ, thì anh đều không dính. Hơn nữa, anh đã được hội nhạc sĩ thành phố kết nạp làm hội viên. Trụ sở hội đặt tại một toà nhà nhỏ trong khuôn viên của Hội Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh đường Trương Minh Giảng. Mỗi lần tôi ghé câu lạc bộ nơi này thăm bạn bè như Sơn Nam hay Vũ Hạnh, tôi đều gặp anh.

Có lần được đọc một bài Sơn viết đăng trên một tạp chí của Đảng trong đó anh tuyên bố rằng trước tháng tư 75 anh đã đi trong bóng đêm và làm những lời than khóc, còn bây giờ anh đã được đi trong ánh sáng mặt trời…Nhưng đọc thì đọc thôi, tôi không có ý kiến gì bởi vì trong chế độ cộng sản, ai cũng có thể bị ép buộc để nói ra những lời không thật, lắm khi trái cả với ý nghĩ hay lập trường chân thật của mình. Ngay cả báo chí phỏng vấn cũng vậy. Bất cứ ai khi được phỏng vấn, đều được mớm sẵn câu trả lời cho đúng bài bổn. Giả thử ai có tuyên bố bất ngờ khác với bài bổn qui định, thì toà báo cũng không đăng. Chưa kể trong nhiều trường hợp, nhà báo còn ghép cho mình những câu không hề nói.

Bởi thế trong thời kỳ cắp sách đi học Văn và Sử tại trường Sư Phạm Bồi Dưỡng, khi giáo sư chủ nhiệm bấm cho biết hôm nay sẽ có nhật báo Sài Gòn Giải Phóng đến kiếm để phỏng vấn, tôi đã khá đau đầu để kiếm cách tránh né. Đang là sinh viên, đâu có cúp cua ở nhà dễ dàng được – nhất là khoá học này quan trọng đặc biệt cho toàn thể gia đình : tôi có học xong và được bổ nhiệm làm giáo sư trở lại thì cả nhà mới khỏi phải đi vùng kinh tế mới An Biên tít mãi miệt Rạch Giá sình lầy…Cứ nghĩ tới cảnh vợ tôi phải lội sình ngang lưng với đỉa như bánh canh, thì quả thật tôi không đùa với ban giám đốc trường đang học được. Sau cùng tôi đã phải dùng một kế rất trẻ con là giờ đầu kiểm danh, tôi có mặt đàng hoàng, nhưng đến giờ thứ hai thì tôi rủ một người bạn nữa phóng qua cổng chui vào quán cà phê túi gần đó núp. Giờ chót lại có mặt trong lớp. Giáo sư chủ nhiệm túm lấy tôi, than là đã phải để phóng viên trở về tay không vì không kiếm ra tôi…Tôi mượn vài lời nói khéo xin lỗi cho qua, còn hơn là để bị phỏng vấn rất tức cười. Tránh không được thì bà con Sài Gòn sẽ được đọc một bài Thế Uyên tuyên bố bí beng giống y chang một nhà văn chính cống từ miền Bắc mới vào. Ngay về sau Tin Sáng của Ngô Công Đức phỏng vấn cũng vậy, chỉ có một phần lời tuyên bố là của tôi, còn lại là nhà báo tự tiện thêm vô cho “đúng bài bổn”.

Tuy ở vị trí khá hơn tôi nhiều, nhưng về phương diện tác phẩm thì Sơn cũng chịu chung cùng một số phận. Toàn thể những bản nhạc anh sáng tác trước 30 tháng 4, 1975 đều bị xếp loại “văn hoá thực dân mới” (Đảng gọi toàn bộ văn hoá văn học của miền Nam bằng từ ngữ như vậy), bị cấm phổ biến, tàng trữ và lưu hành. Toàn bộ đây là tất cả, kể cả bài Sơn hát về Nối vòng tay lớn để cùng xây dựng lại đất nước.

Thật cũng kỳ lạ, nhiều năm về sau, sau khi định cư ở Hoa Kỳ, tôi lại thấy trên một số báo chí hải ngoại có những bài hô hào đừng nghe đừng hát nhạc Trịnh Công Sơn sáng tác trước tháng 4-75 nữa vì đương sự là cộng sản. Những người cộng sản khi phủ nhận nhạc Sơn, họ có một hệ thống kinh điển và bài bổn lập luận đàng hoàng. Còn những người cầm bút ở hải ngoại kia…

Nhưng như trên đã ghi, Sơn ở vị trí khá hơn, thoải mái hơn anh em văn nghệ sĩ miền Nam cũ. Anh bị xoá bỏ toàn bộ quá khứ, nhưng đảng cho anh tiếp tục tồn tại như một nhạc sĩ. Anh vẫn được ôm đàn đi hát những nơi anh được mời. Còn về sáng tác, anh vẫn được phép làm nhạc. Nhưng bài nào được phổ biến, bài nào bị vứt vào ngăn kéo, đó là quyền của đảng, không phải do Sơn. Tôi có theo dõi những bài Sơn mới làm, một số bài khá hay, được phổ biến từ Bắc tới Nam và thu vào tape cho cassette. Bước vào một quán cà phê nào có để nhạc, khách hàng cũng được nghe một vài bản của anh. Đề tài của nhạc Trịnh Công Sơn bây giờ thường là đề cao tình yêu thương giữa các người đồng loại, lòng say mê lao động tại các nông trường công trường xa.

Và đúng như lời Sơn tuyên bố, bây giờ anh không làm những lời than thở nữa. Nhạc anh mới làm, vui và hào hùng một cách nhẹ nhàng. Tôi ở lại với chế độ cộng sản hơn mười hai năm mới ra đi, trong suốt thời gian dài này, chưa bao giờ tôi thấy anh làm một bài nào ca tụng Hồ Chí Minh, ca tụng đảng cả.

Về nghệ thuật, bản thân tôi cũng như lớp trẻ mới lớn lên sau này, đều nhận thấy anh làm không hay bằng trước. Trước mười phần thì bây giờ chỉ còn chừng sáu bảy phần. Nhưng bấy nhiêu cũng quá đủ để nhạc anh tiếp tục được ưa chuộng, và lần này, suốt từ Nam ra Bắc.

Đó là nói về văn chương chính thống, được phổ biến công khai. Còn trên thực tế, dân chúng cả hai miền vẫn thích nhạc trước tháng 4-75 của Sơn. Đảng cấm gắt gao thì ta hát nho nhỏ, nghe thì thào. Từ những người bộ đội trẻ của miền Bắc tới cán bộ lớp trung niên trở xuống, đều mua lén những tape nhạc cũ của Sơn để nghe một cách say mê, say mê hơn cả những người miền Nam chính cống nữa. Khỏi nói khi nghe và nghe say sưa những bản nhạc vàng đầy tình người này, tâm hồn những con người tưởng đã sắt đá trong chủ nghĩa ấy đã bắt đầu thay đổi.

Phía tôi, càng ngày tôi càng lánh xa con đường chữ nghĩa văn chương. Tôi không thể tiếp tục viết nếu những bài văn tôi viết không phục vụ cho dân tộc tôi. Thậm chí có lần tôi đã chua chát trả lời đại diện một tờ báo đảng mời tôi viết rằng “Bây giờ tôi viết cho ai đây. Viết cho nhân dân thì các anh không cho. Còn viết để ca tụng đảng, ca tụng chế độ xã hội chủ nghĩa thì các anh đã có quá đông người. Tôi rất tiếc không thể chen chân vào hàng ngũ ấy…”

Vào thời đó, lối ăn nói kiểu này gây mất lòng mất bề kinh khủng. Bởi thế ngay đến Hội Văn Nghệ Thành Phố cũng không chịu cho tôi gia nhập, dù chỉ với tư cách dự khuyết. Theo cách tổ chức của chế độ cộng sản, không được kết nạp vào hội văn nghệ nào, kể như văn nghiệp bị xoá bỏ cho cả tương lai.

Kể từ đó tôi ít lui tới trụ sở hội văn nghệ ở đường Trương Minh Giảng, và nếu có theo bạn bè đến, chỉ để uống cà phê khá rẻ ngoài sân cỏ rộng đầy cây cao bóng mát. Một lần, Sơn đã tâm sự với tôi, giọng buồn rầu : “Đứa em chót của tôi vượt biên và đã tới Mỹ. Anh có biết nó viết thư cho tôi thế nào không, khi nó là đứa em gái tôi thương nhất. Nó bảo rằng anh Sơn ơi từ giờ khỏi lo nhé. Bọn em kiếm dư tiền gửi về nuôi anh no đủ để tha hồ mà sáng tác cho đảng !” Nghe lời than này, tôi chỉ cười vì không biết nói sao.

Nhiều năm nữa trôi qua tôi mới lại uống cà phê nơi trụ sở hội này. Không còn là nhà văn nữa, lui tới nhiều làm chi. Lần đó, tôi cũng gặp Sơn. Tình hình lúc đó đã thay đổi nhiều. Chủ nghĩa Mác Lê Nin đã tỏ ra thất bại trong việc mang lại tự do và cơm áo cho toàn dân, hàng ngũ đảng viên cán bộ đã thoái hoá nhiều, biến thành một thứ quan lại Bắc Kỳ tham ô hống hách. Đa số các đảng viên đã hết là con người cách mạng, mơ thực hiện một giấc mơ thiên đường hạ giới cho toàn dân.

Tôi hỏi đùa Sơn : “Trước 75 anh bảo là anh đi trong bóng đêm, sau 75 vài năm thì anh bảo anh đi dưới ánh sáng mặt trời, vậy thì bây giờ anh đang đi dưới ánh sáng gì ?”. Sơn nhìn tôi với đôi mắt vẫn hiền lành sau làn kính cận, không trả lời, quay lưng bỏ đi không một lời giã từ.

Đó là lần cuối cùng tôi gặp Sơn, một con người ra đi từ Tuyệt Tình Cốc năm xưa.

Đêm đầu tiên tại trại tị nạn bên xứ Phi, cả gia đình tôi dùng những đồng tiền cuối cùng mang theo ra quán cà phê do dân tị nạn mở trong trại. Xứ Phi cũng có mùa đông nên trời khá lạnh. Quán lại bày bàn ghế giữa trời nên bọn tôi mặc thêm áo lạnh và tape nhạc đầu tiên bọn tôi yêu cầu chủ quán để cho nghe là một tape nhạc cũ của Trịnh Công Sơn. Ở Việt Nam, mọi người vẫn đàn và hát nhạc Trịnh Công Sơn cũ, nhưng bao giờ cũng mắt trước mắt sau xem có công an hay cán bộ nào ở trong tầm của âm thanh hay không. Ngay lũ con tôi cũng vậy, thường tới đêm khuya, tôi đã ngà say với xị rượu, chúng mới mang đàn ngồi chiếc ghế đối diện đàn những bản nhạc cũ xưa cho tôi nghe…Bây giờ đến được vùng đất tự do, phải nghe cho lớn và công khai cho đã.

Sau khi đã định cư ở Mỹ, tôi mượn tất cả những tape nhạc cũ của Trịnh Công Sơn của các bạn bè đi trước, để vừa uống bia vừa nghe lại hết những âm điệu cũ trong mùa đông dài đầu tiên nơi quê hương mới còn đầy xa lạ. Nhưng dĩ nhiên cả nhà dần dà không còn thấy hay, rung động như thời ở quê hương cũ nữa.

Con người phải thay đổi để hội nhập vào xã hội mới. Chúng ta phải xa dần nếp sống ngày xưa với nền văn hoá cũ quen thuộc. Người Việt hải ngoại mỗi ngày một nghèo đi về di sản văn hoá mang theo. Bởi thế tôi không đồng ý với những người bạn cực đoan kia đang đòi hỏi xoá bỏ nhạc Trịnh Công Sơn khỏi gia tài văn hoá cũ. Là một giáo sư dạy Việt văn hơn hai mươi năm xuyên hai chế độ, đã soạn sách giáo khoa cho học sinh trung học, có bao giờ tôi thắc mắc về những tác phẩm của các nhà văn tiền chiến đâu.

Chúng ta đã giảng dạy trong bao nhiêu năm văn thơ của những Xuân Diệu, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng…trong khi những người này đã ở lại miền Bắc sau 1954. Chế độ Việt Nam Cộng Hoà đã có lý vô cùng khi cho rằng những tác phẩm trước 1954 đã thuộc về gia tài văn hoá chung của người Việt Nam. Sau 1954, họ có theo đảng Cộng Sản thì là chuyện chọn lựa riêng của họ. Chúng ta chống Cộng thì con em sẽ không học những tác phẩm sáng tác sau 1954 .

Trong nhiều trường hợp, chúng ta còn mở rộng tới nền thi ca trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1946-1954, nếu những tác phẩm đó hay và không đề cao Cộng Sản. Từ bao nhiêu năm trước 30 tháng 4-1975 có ai thắc mắc về việc phổ biến những bài thơ của Quang Dũng, Hoàng Cầm….Đến độ bài Màu tím hoa sim được phổ biến thành nhạc phổ thông khắp hang cùng ngõ hẻm cũng đâu gây ra một thắc mắc trở ngại văn học nào.

Bởi thế tôi nghĩ rằng sống ở hải ngoại trong tới bốn mươi quê hương rải rác trên trái đất này, chúng ta không nên khó khăn quá đối với di sản văn hoá cũ còn mang theo được. Tất cả những nhạc Trịnh Công Sơn trước tháng 4-75 hãy để chúng thuộc vào gia tài văn hoá của Việt Nam. Một mình đảng Cộng Sản Việt Nam phủ nhận, đốt bỏ, cũng là quá đủ rồi. Còn với những bản nhạc nhạc sĩ này sáng tác sau 75, nếu hay và đầy đủ tình người, thì chúng ta cứ nghe.

Nhưng là vì người đã nghe nhiều nhạc mới của Trịnh Công Sơn, tôi cũng thành thực ghi nhận rằng loại nhạc này chẳng có bao nhiêu hy vọng được ưa chuộng trong thế hệ sau của Việt Nam hải ngoại. Bản thân chúng ta đã thay đổi dần, con cháu chúng ta còn thay đổi hơn. Nếu còn một chút góc tai nào muốn lắng nghe âm thanh của Việt Nam, cũng còn là điều đáng mừng cho tất cả.

Trời miền Tây Bắc nơi tôi cư ngụ về mùa Thu mùa Đông nhiều khi rất buồn. U ám, mây bay, sương mù, mưa dầm, không khí giá lạnh. Nhiều buổi sáng, khi kéo cổ áo cho mưa bớt rơi vào cổ, ngậm điếu thuốc, tôi đi như chạy trên những con đường nhỏ trong khuôn viên trường Đại Học đang theo học cho kịp giờ học kế…những lúc ấy thật thấy nhớ nhà và thèm cái nắng ấm của Sài Gòn, của Việt Nam nhiệt đới. Tâm hồn bay bổng đôi lúc về quê hương cũ, về những người thân yêu còn ở lại, về dân tộc mình bên kia biển Thái Bình Dương rộng lớn, tôi đôi lúc thở dài.

Trịnh Công Sơn đã có lý khi anh chọn ở lại quê hương. Nơi này, anh có đất nước, có dân tộc và dĩ nhiên có cả quê hương đích thật. Anh vẫn được làm một nhạc sĩ, mặc dù mười bài làm ra thì quá nửa không được chính quyền cho phổ biến. Nhưng với những bản còn lại, nhạc điệu và lời ca đẹp như thơ của anh vẫn được vang lên khắp từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau đầy bùn lầy và phù sa. Anh được làm nhạc sĩ cho dân tộc hơn sáu mươi triệu của mình, trên quê hương mình. Anh chọn lựa ở lại là phải. Bởi vì ai danh tiếng cho bằng người bạn già Phạm Duy thân ái của tôi, nhưng hay đến mười bài Rong Ca thì cũng chỉ phổ biến trong có một triệu người xa quê phân tán trên khắp hành tinh trái đất này.

Trịnh Công Sơn ở lại là phải. Nhưng còn tôi, tôi ra đi cũng là phải. Tôi không thể ở lại để viết những bài trái với lương tâm mình, không phục vụ cho dân tộc mình. Ở lại, tôi trở thành một người già vô dụng, không giúp ích gì được cho bất cứ ai, và cũng chẳng còn là nhà văn tiếp tục. Ra đi, tôi có tự do và được làm nhà văn theo ý mình một lần nữa, dù chỉ là nhà văn cho có một triệu người.

Rốt cuộc mỗi người một hoàn cảnh. Chọn lựa nào cũng có cái lý của nó, và cũng có một nỗi buồn riêng. Một kết luận có vẻ nhiều bi quan. Có lẽ tại mùa Đông đang đến, tại buổi sáng sương mù, tại mưa rơi trên những con đường dẫn tới lớp học chăng ?

Tôi cũng không biết nữa.

Thế Uyên




Trại Cẩm Giàng trong ý tưởng


Thế Uyên


Nhiều người đã cho rằng Trại Cẩm Giàng là cái nôi chính của Tự lực Văn đoàn 



Hà Nội có hai ga xe lửa, ga chính là ga Hàng Cỏ khá đồ sộ có nhiều tuyến đường đi khắp nơi, gia đình tôi ít dùng. Mỗi lần về quê ngoại, gia đình tôi thường dùng ga phụ nhỏ hơn là ga Đầu Cầu, tên gọi như vậy vì nhà ga nằm ngay đầu cầu Long Biên băng qua sông Hồng đến cảng Hải Phòng cách đó đúng 105 km, và cũng băng qua trước cổng trại quê ngoại của bọn tôi là trại Cẩm Giàng. Gọi là “băng qua” e không đúng sự thực vì mỗi khi xe lửa chạy qua, là xì khói, hơi nước và bụi than cháy đỏ ngay vào mũi lũ trẻ bọn tôi đang đứng khá sát đường sắt, “xem có sao không”. Cũng may là tất cả đều được “bà mụ” (theo tin tưởng cổ truyền, bà mụ là nàng tiên tốt chuyên lo cho con nít) chăm lo, nên không sao cả.

Xe lửa thường đông và sàn đầy rác, nhất là thứ nước quết trầu đỏ như máu do các bà nhổ ra dơ dáy chẳng kém gì nước thuốc lá do các vị cao bồi viễn tây nhổ sai ống nhố, tung tóe ra sàn quán rượu ngày xưa. Bởi thế lên được toa xe là hai anh em, tôi và anh Duy Lam, dù chiều cao còn lủn xủn, thường lẻn ra đầu toa ngồi trên bực lên xuống cho dễ ngắm cảnh và nhẩy lên nhẩy xuống khi xe ngừng ở nhiều ga. Quen như thế rồi nên khi theo dân Hà Nội di tản về miền quê tránh bom Mỹ ném quân Nhật rơi “lạc trúng đầu” mình, tầu hỏa đông đến nỗi không còn chỗ đặt chân (hiểu theo nghĩa đen). Nhưng khi xe lửa chuyển bánh, anh Lam hô tôi: “Nhẩy lên bám đi”, tôi cũng xẩy đại vào chùm người đang bám lúc lỉu ở bậc lên xuống, chỉ níu được một tay lên thanh sắt và một chân lên bậc gỗ. Cứ như thế tôi tòn teng một nửa người trong không gian qua cầu Long Biên, nhìn xuống, chưa bao giờ thấy sông “gần” mình đến như thế. Đến mỗi ga, người tị nạn lại xuống một ít nên đến ga trước ga Cẩm Giàng, tôi đã kiếm được chỗ đặt đủ hai chân lên tàu. Khi tàu ngưng ở ga Cẩm Giàng, mẹ tôi cười vui khi nhận ra hai đứa bám tàu bọn tôi, không trách cứ vì sinh trong một gia đình có nhiều anh lớn chuyên làm việc gia đình qua mặt quan thuế, các anh cách mạng chống Pháp, chống cộng sản..., bà quen với mọi hoàn cảnh hiểm nguy rồi.

Bọn tôi đợi đến khi tàu tiếp tục chạy đi Hải Dương, chia hành lý nặng cho người làm ở trại mang hộ, mấy mẹ con mới dắt díu nhau đi bộ về, trên con đường mòn sát đường sắt, chắc chỉ đủ rộng cho một xe hơi (cho đến khi trại bị san bằng, tôi chưa thấy một xe hơi nào chạy trên đường này, giàu hay nghèo cũng đều đi bộ.) Chưa chi Lam đã nhẩy lên một đường ray, giơ hai tay giữ thăng bằng trên đường sắt. Tôi không bắt chước ngay vì còn mỏi mệt đã đeo tầu: từ nhỏ tôi vẫn yếu ớt về thể xác, nhậy cảm về tinh thần, hơn là ông anh chỉ hơn có hai tuổi. Sự chênh lệch này đến bây giờ cũng thế, ở miền tây bắc nước Mỹ tôi đã chống gậy và dùng xe lăn vì một massive stroke, ông anh tôi nhờ tập yoga từ trong các trại cải tạo tập trung, vẫn thỉnh thoảng trồng cây chuối cho bạn bè con cháu coi chơi. 

Được một cái là quãng đường này không dài lắm, chưa chi đã đến cổng trại và đây là một cái cổng hẳn hoi, không nhớ kiến trúc sư nào đã vẽ kiểu hộ bà ngoại tôi: hai cột cao hai bên rộng đủ hai xe hơi đi lọt, phía trên là hai then ngang kiểu Nhật hay một giàn gỗ kiểu Pháp, tôi không nhớ vì lúc nào hầu như cũng phủ kín hoa lá ti-gôn, thứ hoa mầu hồng nhạt quyến rũ nhưng ngắt xuống không dùng vào việc gì vì hoa quá nhỏ. Cô em họ con đầu Thạch Lam, thường xuyên có mặt ở trại, cắt nghĩa cho tôi như vậy. Hai cánh cổng lớn thường xuyên khóa bằng vòng xích khá lớn, kể như không mở bao giờ, ít ra trong ký ức một chú bé con dưới 10 tuổi là tôi hồi đó. Bọn tôi ra vào một cổng nhỏ ngay cạnh bụi tre đằng ngà váng óng ả, dưới dàn hoa ti-gôn. Và đến khi Thạch Lam chết vì lao ở “nhà cây liễu” làng Yên Phụ, Hà Nội, bà ngoại tôi đón mẹ góa con côi của ông về trại, cho ở căn nhà gạch mới xây hai phòng ở góc trại sát mặt đường phía nhà ga, thì bọn tôi đi lối này, gần hơn và hợp với lũ trẻ cháu bà hơn. 

Sau cổng gỗ hoa ti-gôn và bụi tre vàng là lối đi chính dẫn vào phía trong, lát gạch đỏ, hai bên trồng hoa tóc tiên, không phải thứ tóc tiên leo lá lăn tăn hoa nhỏ đỏ chói, mà là thứ tóc tiên đất lá dài rậm rạp, hoa hồng nhạt, nhô cao nên rắn thường đến ở và lột xác, cô em họ cắt nghĩa vậy, và để chứng minh, nàng vạch cụm tóc tiên cho tôi thấy một thứ vỏ mầu trắng trông dễ nể như xác con alien trong bộ phim Sci-Fi Mỹ - do đó mỗi khi ngồi khu này, tôi thường xoay xở cho lưng cách một quãng luống tóc tiên. Hai bên lối đi tóc tiên, bà tôi trồng mấy luống hoa hồng nhiều màu. Lối đi gạch đỏ bỗng nhiên quẹo trái tới một bụi cây hoa tròn xoe như mâm xôi trước khi lại quẹo phải tới một ngã ba: cứ đi thẳng sẽ tới tòa nhà chính của trại, nhà bằng gạch trên một thềm cao nhiều bậc dẫn lên hàng hiên, hai bên bầy hai con voi bằng sứ, chỗ ngồi thích thú của tôi. Và cũng là chỗ bà tôi đặt bộ chỉ huy trại... 

Bên phải là một nhà dọc kiểu Anh sáng, thẳng góc vói tòa nhà chính lợp tranh dày cộp, vách bằng bùn trộn trấu quét vôi trắng trên thềm đất cao, trông nổi bật hẳn lên trong khung cảnh thường ít màu của đồng bằng miền Bắc. Một hàng hiên khá rộng bao kín tòa nhà này, có thể coi là nhà khách của trại, chia làm ba phòng. Phòng đầu tiên hướng về cổng trại là phòng khách đích danh với một bộ bàn ghế mây tre to tướng: nơi tu họp của các bác, các chú và Tự lực Văn đoàn nói chung cùng thân hữu của họ, để uống trà (nhiều nhất) uống cà phê và nhậu nhẹt đôi khi (thời kỳ này khu Tự lực ít nhậu nhẹt so với lớp văn nhân bên ngoài và hậu chiến, và đôi khi có uống thật say thì dẫn đầu lại là... bố tôi - buồn thay, tại sao sẽ kể sau - rồi mới đến Thạch Lam, Đinh Hùng, Thế Lữ... Dĩ nhiên khu nhà khách những khi đó là off-limit cho trẻ con và chú bé con là tôi có tò mò lắm, cũng chỉ đến ngồi trên trạc cây sấu vườn trước nhìn vào và không hiểu gì cả về “thế giới người lớn” ồn ào kia. Tôi nhớ mang máng là ít có “bóng hồng vào ra” những hội họp đó vì bà ngoại tôi từng trải và nghiêm túc đứng chống một tay lên hông, oai phong lẫm lẫm trên thềm cao nhà chính ngay kia. Sau này đi tu cạo đầu mặc đồ nâu sồng, bà mới bỏ dáng điệu con nhà võ - bà là con gái một võ quan miền Quảng Nam được bổ nhiệm tới huyện Cẩm Giàng này. Cha bà phụ tá cho một quan văn cùng quê nên sau này hai bên gả con nhau, tạo ra một chi Nguyễn Tường mới trụ tại miền Bắc, sinh sôi nẩy nở ra một lô con cháu ở nội dịa và ngọai quốc sau này. 

Bên kia con đường dẫn vào nhà chính và thẳng góc với nhà khách là “nhà ngang” ba gian, dĩ nhiên không khang trang và mỹ thuật như nhà khách vì là nơi ở của người làm và lũ cháu đông đảo trong dịp giỗ và tết – bà tôi cho dọn mọi đồ đạc ra ngoài, trải một lớp rơm dày và sạch, trên trải chiếu, mỗi gian một gia đình và cấm lũ cháu không được vào trước khi trời tối vì lũ cháu thành phố thường chui xuống dưới chiếu nghịch phá tan tành ổ rơm. Chính ở nơi này tôi lần đầu tiên khám phá ra sự tái sinh mầu nhiệm của cây cỏ: trong túi tôi có lẫn ít hạt thóc vì nhẩy vào sân phơi thóc, mẹ tôi bắt vứt đi. Tôi dốc túi vào rãnh trước của nhà và quên đi cho đến sáng hôm chót thời gian cư trú Cẩm Giàng, tôi ngạc nghiên và mê say sự mơn mởn của những cây thóc non mới mọc, đến độ vớt ít cây từ bùn rãnh nước, nâng niu trên xe lửa mang về Hà Nội. 

Con đường xi măng chia nhà khách ở bên phải, nhìn từ cổng vào, bên trái là một sân cỏ, sân bà tôi trồng một thứ cỏ thấp, thường bị giẫm nát bởi các cầu thủ tí hon tranh nhau đá một thứ tròn tròn nào đó – trong thời Đệ nhị Thế chiến không nhập cảng được những trái banh thứ thật. Có buổi sáng được phát xôi ăn sáng trên bãi cỏ, một ông anh họ phát minh sáng kiến vo tròn nắm xôi lại, dùng làm bi bắn chơi với nhau. Khi người lớn trông thấy hét lên, một cậu vội phi tang hòn bi bằng cách đưa ngay lên miệng ăn nhồm nhoàm; tôi thì khá hơn: phủi bớt đất và cỏ rồi mới bắt đầu ăn... Sát thềm tòa nhà chính, bà tôi mới đầu trồng một cây trúc đào, lá thuôn cứng, hoa mầu hồng đào rực rỡ, sau vì nghe nói lá trúc đào rất độc, sợ lũ cháu cái gì cũng nhấm cũng ăn thử, bà cho chặt đi, thay thế bằng một cây liễu rủ rất quen thuộc cho chi thứ 5 Nguyễn Thị Thế (mẹ của Duy Lam và Thế Uyên) và chi thứ 6 Thạch Lam. 

Bên trái tòa nhà chính là sân phơi thóc lát gạch đỏ vuông vức có bầy một máy quạt lúa có trục quay tay khá nhậy, làm bằng gỗ là chính. Gần đó là một đống hình chóp nhẵn nhụi mời gọi, tôi lập tức nhẩy lên chơi trước khi chị Sập, người làm, kêu lên can đừng, vì đó là một đống phân đang ủ cho hoai. Phọt, phọt! Cả hai chân tôi đã ngập trong phân... Chị Sập vội giơ hai tay dang rộng bế tôi lên, cứu nguy. Dĩ nhiên sau đó phải tốn hơi nhiều công sức tẩy uế, mới đưa tôi về tình trạng có thể chạy chơi được và điều đầu tiên là loan báo các bạn đồng lứa về cái “bẫy nguy hiểm” trong sân. Không ngại mùi hôi, lũ trẻ xúm xít coi chị Sập đang dùng bùn trát lại cho nguyên vẹn hình chóp. 

Bà tôi đuổi ma như thế nào: Chị Sập không những chỉ là bạn cứu nguy tôi trong trường hợp vừa kể, mà còn là người hay cõng, bế tôi đi coi chèo ở trên huyện hay đâu đó. Các cô người làm trẻ, không cứ của trại Cẩm Giàng mà còn của bố mẹ tôi, hay bế, hay cõng tôi đi coi hát chèo, vọng cổ... ở các nơi hơi xa. Tôi coi mà có hiểu gì đâu, chỉ thấy chiêng trống um xùm trong tiếng hét tiếng khóc - lớn lên tôi mới phỏng đoán các cô “mượn” tôi làm một thứ baby-sitter, escort... cho các cô đỡ bị con trai chòng ghẹo. 

Lần đó không hiểu sao bà chỉ gọi mẹ tôi về trại gấp, đến nỗi phải đi chuyến tầu chiều, về đến nơi trại đã tối đen, không phải là tối thường mà là tối đen xì đen ngòm. Phòng ngủ của bà ngoại chỉ có một đèn dầu nhỏ soi lờ mờ chiếc giường trải nệm trắng. Bà ngồi trên giường và lũ con cháu xúm xít trên chung quanh: lũ chúng tôi không chịu về ngay phòng ngủ như thường lệ. Bà sắp kể chuyện ma, mà lại là ma đang viếng nhà bà, làm sao ngủ! Lần này không có mục chân co lên giường vì sợ, chúng tôi vẫn phải ngồi trên sàn đá hoa vì lệnh cấm không được leo lên làm bẩn tấm drap trắng vẫn duy trì, thậm chí sờ một cái cũng không được. Bằng một giọng lúc bổng lúc trầm, bà kể có một bầy ma ở đâu không biết, lạc lõng đến quấy phá hàng đêm, không cho bà ngủ, cứ chạy đuổi nhau trên trần ầm ầm. Bà đã hai lần nhờ anh người làm to khỏe leo lên thang, mở miếng vuông dẫn lên trên trần, soi đèn pin tứ tung, nhưng không thấy gì. Im vắng được một lát, rồi khi anh Dự người làm xuống nhà dưới đi ngủ, mọi sự lại ầm ầm. Gọi chị Sập lên ngồi canh, vô ích, lũ ma này coi bộ không sợ đàn bà con gái... Sau cùng bà phải gọi một ông thầy bói nổi tiếng trong vùng tới xem sao, và đúng như một tục ngữ “bói ra ma, quét nhà ra rác”, ông thầy phán: đúng là có một lũ ma đói homeless mới đến cư ngụ căn nhà này, phải mời thày pháp đến thôi. Mời thì mời, dễ thôi... Ngày mai sẽ lập đàn cúng kiếng cho thầy pháp trổ tài bắt quỉ đuổi ma. 

Không biết có phải sợ thày không đủ cao tay, ma quỉ sổng ra bắt nạt người sống, bà cho gọi mẹ tôi về gấp. Mẹ tôi vốn cứng bóng vía có tiếng. Bà không gọi các chú các bác vì sợ các con trai cười cho, còn mẹ tôi là con gái, kể gì... Theo truyền thống, chuyện ma quái, thầy bói, thầy pháp... vẫn là chuyện của đàn bà con trẻ. 

Tôi không nhớ nổi các chi tiết cụ thể, chỉ biết mọi sự được tổ chức tại căn phòng đối đầu với phòng khách của các ông, đèn nến sáng trưng, chuông trống ầm ĩ, như vậy chưa đủ, thầy pháp còn có thể giơ lên cao một trống nhỏ, đánh nhịp điệu đuổi quỉ, chắc thề, nghe không vui như tiếng trống giao thừa của bố tôi đánh trên thềm hiên cao. Ông thầy mặc áo the đen, tay giơ bắt quyết, miệng đọc những lời không biết tiếng mã tà ma ní chi đó, thỉnh thoảng lại bắt quyết trên đầu con đồng là chị Sập, đầu phủ kín một làn the đỏ, trông cũng bí mật lắm. Đến một lúc nào đó chị bắt đầu quay đầu, trước nhẹ nhẹ, sau nhanh dần. Mọi người chung quanh xì xào: đồng nhập rồi, đồng nhập rồi! Không khí nghiêm trọng: đã bắt được ma nhập vào chị Sập rồi, từ đó ông thầy pháp đọc thần chú không ai hiểu, chị Sập trả lời ú ớ u ơ... cũng không ai hiểu nốt, cả hai cứ như thế cho đến khi con đồng thăng, miếng the đỏ phủ được bỏ đi, và chị Sập được bồi dưỡng giải lao. 

Sau đêm thầy pháp điều đình với ma như thế, không thấy bà tôi than phiền gì về chuyện ma quỉ trên trần nhà nữa. Đừng ai hỏi tôi tại sao, vì tôi không biết, thật thế. Trước khi Pasteur dùng kính hiển vi thô sơ nhìn thấy nhiều vi trùng lớn nhỏ bơi lội thoải mái trong một giọt nước, không ai ngờ là có. Mắt chúng ta không trông thấy một sự vật gì, đừng vội khẳng định là không có... 


Bên cạnh tòa nhà chính là một sân gạch, bên cạnh có một cây xương rồng to bự, vào mùa hoa nở màu vàng sậm thơm lừng cả khu vực. Người lớn bảo những loài rắn độc rất mê mùi hoa cây này, lại gần phải coi chừng. Tôi rón rén lại gần, chỉ thấy những chú thằn lằn xanh lè xông ra, ngóc đầu lên nhìn tôi de dọa. Thế cũng đủ dễ sợ cho chú bé là tôi. Ở đầu sân gạch là một cây mít, quả lúc lỉu bám vâo thân cây, thân chính có cột một tàu cau khô dẫn nước mưa chảy vào một chum nước. Lần nào về trại, tôi cũng ghé thăm chum nước mưa này, ngắm mấy chú cung quăng bơi lội tứ tung, dù thế người lớn vẫn khẳng định là nước sạch uống được. Có lẽ hồi nhỏ Nhất Linh cũng đã nghiêng đầu nhiều lần trên một chum nước như thế, thả vài hột muối trắng vào, coi chúng tan biến như chưa bao giờ có – như đời một con người trên mặt tinh cầu trái đất này. 

Bà tôi xây một bếp đứng, có thể đun một lúc nhiều nồi, kê một cái phản gỗ lớn để các bà ngồi làm cỗ. Phân nửa phía sau nhà chính là một bể lớn tích trữ nước mưa đủ dùng quanh năm, mở về phía trong nhà bếp cho an toàn người lấy nước về mùa mưa. Đi qua nhà bếp, một sân nhỏ, là đến hàng rào dâm bụt ngăn với vườn sau, là nơi làm việc của anh lực điền Dự, trụ sở chính là căn nhà tranh chứa cối và chày giã gạo. Đối với trẻ con thành phố, đây là một cơ quan hấp dẫn, tôi đã có lần quanh quẩn cả buổi tại đây, coi anh Dự đạp chầy xuống hố trước khi co chân lên cho chày bổ xuống cối gạo một tiếng rõ to, chị Sập quì bên cối, xúc gạo lên. Cứ như thế đều đều. Đôi khi anh Dự chuyển sang một hoạt động hào hứng hơn, như “ăn ong” chẳng hạn. Đây là công tác đàn ông nguy hiểm, nên bọn trẻ và chị Sập chỉ được đứng trong nhà giã gạo, ngoài tầm tấn công của đàn ong. Anh Dự làm một bó đuốc to, quấn thêm giẻ để tạo ra nhiều khói hơn, cởi trần làn da nâu xì (tôi chưa có cơ hội thấy anh mặc áo), đốt đuốc leo lên một cây cau. Ong vàng bay ra bao lấy kẻ tấn công, anh Dự quơ đuốc xua ong. Sau cùng anh gỡ được tổ ong, tụt xuống mang vào cho “nàng” và lũ tôi coi. Anh mở toang tổ ong cho thấy mật đang chẩy ứa ra, từng dẫy ong non trắng lúc nhúc. Anh ra vẻ không quan tâm tới “nàng”, chị Sập bây giờ phải gọi là nàng thôi - bất cứ phụ nữ nào đang yêu hay đang được yêu, đều phải gọi là “nàng” hết, bất kể tuổi tác xấu đẹp - đang quẹt vôi lên những chỗ ong chích. 

Anh Dự mời bọn trẻ nếm thử mật ong vườn nhà, một vài ngón tay giơ ra, không có ngón nào của tôi, đến chiều anh Dự làm món ong non chiên ròn mời mọi người ăn thử, trong những bàn tay nhô nhón một con ăn thử và khen “cũng ròn đấy”, cũng vẫn không có tay nào của tôi: tôi không bạo ăn bạo uống như nhiều người. Những món như ba ba, mối chúa nuốt tươi, càng bọ cạp nướng, chuột ướp ngũ vị hương, rượu trộn máu đuôi rắn độc... tôi đều không biết ăn, dù vào lúc đói dài người, đói kinh niên mãn tính trong các trại cải tạo tập trung của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một chuyến về trại Cẩm Giàng về sau, chỉ thấy một con chó vện thay cho con Mực ra đón sủa nhặng xị và những người làm mới. Bà tôi cho biết anh Dự lấy chị Sập (có lẽ tên đúng là Thập, tôi nói ngọng thành Sập chăng), đôi trẻ xin về quê đẻ con, sau đó không trở lại làm nữa. Tan biến, mất tích vào cái đồng bằng nhân mãn thường xuyên, nghèo và đói từ ngàn đời. Nhưng hai người đó được lấy nhau và sinh con đẻ cái, là một chuyện tình có hậu hẳn hoi, và như thế “cũng tốt thôi”... 

Miêu tả trại Cẩm Giàng như thế, là quên một “nhân vật” quan trọng, là cái ao dài cách nhà khách một khoảng vườn nhiều hoa, nhiều nhất là hồng, sói, ngâu. Ao người ta thường tròn, ao bà đào dài sát bờ tre, lấy nhiều đất làm các nền nhà nên chứa dược nhiều nước tắm giặt, và bơi tùm tùm cho lũ cháu. Một lối đi lát gạch, từ giữa nhà khách ra bờ ao có làm các bực gạch cho dễ lên xuống, và chính lối đi này đã dụ một cô bé, con Nhất Linh, chập chững đi theo và rớt tòm xuống, chết ở ao nhà. Lâu lắm rồi, tôi chỉ nghe kể lại. Tháng 1 năm 1955, đứng trên bậc thềm toa xe lửa đưa tôi vào Nam, kẻ cuối cùng của một dòng họ đông đảo di cư vào Nam, khi qua vùng trại Cẩm Giàng, tôi cố nhìn kỹ nhưng không thấy trại năm xưa đâu hết. Chiến tranh, cách mạng đủ loại đã quét hết, nhà cửa cũng như cây cối. Đứng nghiêng hẳn người ra khỏi toa xe, cố nhìn, tôi chỉ thoáng thấy vết tích duy nhất là cái ao dài. Còn lại bao nhiêu trở thành ruộng hết. 

Xưa kia, lâu lắm rồi, có một bà góa trẻ và nghèo nhưng quyết tâm nuôi đàn con ăn và học cho thành tài. Và không những thành tài về học vấn mà còn thành danh về văn học nữa: những Nhất Linh, Hoàng Đạo, Nguyễn Thị Thế, Thạch Lam, Tường Bách là con của bà, những Tường Hùng, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Tường Giang, Duy Lam, Thế Uyên, Đặng Thơ Thơ là cháu nội và ngoại của bà. Khi còn nghèo phải thức khuya dậy sớm kiếm tiền nuôi các con, bà có một lời nguyện: khi nào có đủ tiền sẽ mua đất làm nhà tít ngoài xa để không ai chắn gió đồng nội của mình. Quả thực bà đã thực hiện được giấc mộng ấy, nhưng rồi bây giờ, lúc này đây, gió đồng nội lại vi vu thổi trên phần ruộng đất xưa là trại Cẩm Giàng của bà. Ruộng đất lại trở thành ruộng đất như xưa. 

Seattle, tháng 7. 1998 

© 2008 talawas

















Đinh Cường & Thế Uyên



















MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.