Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

Đỗ Quang Em (1942 - 2021)


















Đỗ Quang Em
(1942 - 2021)

Họa Sĩ













Đỗ Quang Em
14.5.2013







Đỗ Quang Em tốt nghiệp Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định năm 1965.
Là một trong những thành viên sáng lập Hội Họa sĩ Trẻ Sài Gòn năm 1966. 
Giảng viên trường Mỹ thuật Gia Định và đoạt Huy chương vàng Giải Văn học Nghệ thuật của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa năm 1971.
Năm 1976, vượt biên nhưng bị bắt và bị tù cải tạo 3 năm.

Ông đã bỏ nghề nhiếp ảnh của gia đình lúc ban đầu để theo đuổi hội họa và trở thành một Họa sĩ nổi tiếng với Trường phái Cực thực (Hyperréalisme) Việt Nam.









"Nói thật, tôi chẳng biết trời cao đất rộng là gì, chỉ biết một vợ, bốn đứa con và vẻn vẹn vài người bạn. Bởi vậy tôi có vẽ, có yêu thương ai, có ghét bỏ cái gì cũng trong phạm vi nhỏ hẹp đó. Tôi hạnh phúc hay khổ đau cũng chỉ trong chừng mực đó, còn những gì diễn ra bên ngoài bốn bức tường kia thì hoàn toàn xa lạ"

ĐQE
(trả lời phỏng vấn báo Thanh Niên năm 2004)















1966: Tham gia thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ tại Sài Gòn.
1971: Đoạt huy chương vàng giải Văn Học Nghệ thuật của Tổng
thống Việt Nam Cộng Hòa.
1972: Triển lãm chung với các thành viên trong Hội họa sĩ Trẻ.
1973-1974: Giảng dạy hội họa tại Trường Quốc Gia Cao đẳng Mỹ
thuật Gia Định.
1976: Ông vượt biên nhưng bị bắt, phải đi tù ba năm, hơn mười
năm sau mới được phép xuất ngoại thăm con ở Hoa Kỳ.
1991: Triển lãm chung "Tranh Sơn dầu và Lụa của bốn Họa sĩ" tại TP.HCM.
1993: Tham gia triển lãm: "New Space" của các họa sĩ Việt Nam và Singapore.
1994: Triển lãm "36 Tác Phẩm Mới", Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Thành phố HCM.

Đã từng có tranh trưng bày tại Galerie La Vong, Hồng Kông sau đây:
1993: "Opening Exhibition", "Celebration: Vietnamese Joie de Vivre".
1994: "The Work of Do Quang Em", "Buc Tranh: Three Generations of Vietnamese Painters", 
"New Trends Art Fair", "First Anniversary Exhibition", Art Asia 1994, "keeping Cool II".
1995: "Fine Contemporary Vietnamese Art", "Art Trends Art Fair", "Second Anniversary Exhibition",
"Keeping Cool III", "Vietnamese Artists Gaining International Recognition", "Art Asia 1995",
"The best of Galerie La Vong".
1996: "Light and shadow: Polar Elements of Vietnamese paintings", 
"Connections: Indigenous Influences On Contemporary Vietnamese paintings", 
"Third Anniversary Exhibition", "Keeping Cool IV", 
"Southern Styles: Paintings By Leading Saigon Artists".

Nhà phê bình hội họa Huỳnh Hữu Ủy cho rằng họa sĩ Đỗ Quang Em vẽ tranh theo lối Tân hiện thực, hay nói cho chính xác là cực thực (hyperréaliste): Tân-hiện-thực-Đỗ-Quang-Em.









Tác phẩm mới nhất 

(2013)






































































































Tác phẩm tiêu biểu khác



















































































































































































































































































































Tham khảo thêm về tác giả Đỗ Quang Em









Tường hợp Đỗ Quang Em









Con hẻm đi sâu vào từ đường Điện Biên Phủ tráng xi măng, sạch sẽ, yên tĩnh. Đến gần cuối hẻm, nơi có hai chậu cây xanh dưới mái hiên, họa sĩ Đỗ Quang Em (ĐQE) dừng xe gắn máy lại. Tôi đứng trước nhà ông ở Sài gòn.

Nghe danh ĐQE từ lâu, nay tôi mới được gặp. Người tầm thước, trán cao, tóc loăn quăn bồng bềnh hai bên tai và sau ót, ria mép và râu cằm tiêu muối, xồm xoàm. Áo vải thô, cổ tròn, tay rộng. Rất "flower child" của những năm sáu mươi. Dáng dấp nhanh nhẹn, vui vẻ, nói cười tự nhiên. Bây giờ thì tôi biết rằng đằng sau phong thái ấy có một tâm hồn phong phú, sâu và kín.

Về nước lần đầu, 1974, sau nhiều năm lưu lạc, tôi chưa có dịp làm quen ĐQE. Chỉ biết đến ông qua "Tăng", bức tranh in lại, trắng đen, trong tập san "Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam" họa sĩ Nghiêu Đề đem biếu. Tranh vẽ một nhà sư trẻ, đầu trọc, vai trần, ngồi trầm tư. Tôi nhìn phớt qua thôi vì bức tranh được in lại với kỹ thuật quá thô thiển. Nhìn kỹ chỉ thành bất công đối với tác giả. Chỉ biết rằng nét vẽ và lối bố trí vững vàng, rất Tây phương cổ điển: ánh sáng và bóng tối, chiaroscuro rất thế kỷ 17, de la Tour, Pháp, Zurbaran, Tây Ban Nha. Phảng phất Rembrandt, Hòa Lan.

Mười mấy năm sau, 1989, tôi mới gặp lại ĐQE qua một bức tranh in trong brochure cuộc trưng bày chung với Đinh Cường Trịnh Công Sơn. Bức tranh in lại với kỹ thuật cao hơn hồi 1974. Tôi tò mò hơn về cái vẽ của ông họa sĩ họ Đỗ này: bố trí dị thường, kỹ thuật điêu luyện, bút pháp tinh tế. Điều làm cho tôi tò mò hơn cả là làm sao, một họa sĩ Á đông, Việt Nam, cư trú bao nhiêu năm một nơi đô hội xô bồ như Sài gòn trước 75, một nơi phố thị đông đúc náo nhiệt, bao phủ bởi khói và bụi như Sài gòn bây giờ, lại vẽ ra được như vậy.

Về thăm quê lần thứ ba này, cuối 1995, tôi mới được gặp chính ĐQE trong một bữa cơm thân mật ở nhà họa sĩ Lâm Triết, ông bạn mới quen nhưng xem như cố tri vì đã biết đến nhau từ lâu qua nhiều bằng hữu chung ở Hoa Kỳ. 

Hôm sau, trời mới sáng. Đỗ Quang Em đến đón Lai Hồng và tôi về nhà ông. Lần đầu tiên, tôi được xem tranh ĐQE tận mắt.

Trước khi nói thêm về ĐQE, chúng ta hãy xem qua khung cảnh hội họa hiện nay ở Sài gòn. Để qua một bên những tác phẩm quá nặng mùi vị địa phương nhưng lại quá nhẹ về nghệ thuật, những tranh nhắm tới khách phương xa dễ tính có lòng yêu thích các màu mè vùng nhiệt đới thân yêu này, chúng ta có thể thấy được một lằn ranh khá rõ ràng giữa hai xu hướng: Hội họa hữu thể và hội họa vô thể thường được gọi là trừu tượng. Trước khi câu chuyện dẫn chúng ta đi xa hơn, hãy cùng nhau "nhất trí" về đôi điều. Ở đây, chúng ta hãy tự giới hạn ở lãnh vực từ ngữ. Vấn đề không bí hiểm như nhiều người "ngoại đạo" có thể e ngại.

Những năm đầu thập niên năm mươi, ở Âu Mỹ, đặc biệt Pháp Quốc, bùng nổ những trận cãi vã kịch liệt giữa những người đi theo xu hướng hội họa hữu thể(thường được gọi một cách lộn xộn là thực tại, hay tả chân, hay hiện thực) và những người đi theo xu hướng hội họa vô thể (thường cũng được biết đến như là hội họa trừu tượng). Ở Hoa Kỳ, xu hướng trừu tượng xem như chiếm ngay được ưu thế một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn: những tên tuổi lẫy lừng của trường phái New York vẫn còn sáng chói cho tới ngày nay.

Ở đây, chúng ta không đả động đến chuyện hay, dở, đúng, sai của trường phái này nọ. Chúng ta chỉ lưu tâm đến những từ ngữ và ý nghĩa của chúng mà thôi, vì sự lưu tâm này sẽ giúp ta nhận diện rõ ràng hơn một nghệ sĩ Việt Nam hết sức đáng để ý: Đỗ Quang Em.

Hãy lấy một thí dụ: ta vẽ một cái hoa. Cái hoa là một thực tại bên ngoài, cụ thể, khách quan. Ta có thể vẽ cái hoa đó như "thật", với đường nét, màu sắc cực kỳ tỉ mỉ. Chúng ta biết về giai thoại thế kỷ 17 ở Pháp, có họa sĩ nọ vẽ hạt thóc "thật" đến nỗi có con chim bỗng từ đâu bay sà vào mổ lia mổ lịa! Nói cho ngay, giai thoại ngụ ý mỉa mai đấy, chứ không phải ca ngợi đâu. Bởi chăng cốt tủy của vấn đề từ ba trăm năm trước là cái vẽ cần đẹp chứ không cần "thật" như thật.

Ta cũng có thể vẽ cái hoa đó thế nào mà người xem tranh nhận ra nó là hoa gì. Tuy nhiên, nếu đem cái hoa thật ngoài đời để cạnh cái hoa vẽ thì hai cái không giống nhau hoàn toàn, không giống nhau "như đúc". Nghĩa là trong cái vẽ hình thể đã có tâm thức người vẽ dự phần và cải biến. Hoa hướng dương Van Gogh là một điển hình rõ rệt. Hoa hướng dương Van Gogh được vẽ với một sự say mê cuồng bạo, với một bút pháp cá biệt dữ dội, đến nỗi nó chiếm lĩnh tâm hồn người xem tranh, nó trở thành "thật" hơn cả những hoa hướng dương ngoài đời. Bản thân người viết đã từng đi qua những cánh đồng hoa hướng dương và buột miệng thốt lên: "Trời! Van Gogh!".

Như vậy, ta có thể coi hoa hướng dương Van Gogh là, trước hết, một hình ảnh "đại diện", "thế mặt" cho cái hoa ngoài đời. Nó là một figure (Pháp), và nó represents(Anh/Mỹ) cái hoa ngoài đời. Vì thế mà người Pháp gọi hội họa hữu thể là peinture figurative trong khi người Anh/Mỹ lại gọi hội họa hữu thể là representational painting. Và sau nữa, vì vẽ với nghệ thuật cao, nó nghiễm nhiên trở thành một thực tại, và chúng ta ngắm nó, yêu nó, vì chính bản thân nó, chứ không phải vì nó là vật "thế mặt" cho một cái gì khác. Trong từ figurative (Pháp) có ý niệm sự vật (figure). Trong từ representational (Anh/Mỹ) có ý niệm về tác động (to represent). Tuy rằng hai từ Pháp và Anh/Mỹ có khác nhau và tiềm tàng hai giai đoạn khác nhau trong quá trình sáng tạo, chúng đều khẳng định rằng: biểu hiện thực tại là trình bày thực tại khách quan qua cái nhìn chủ quan của người nghệ sĩ sáng tạo.

Nói cho ngay, hoa hướng dương Van Gogh còn giống hoa hướng dương ngoài đời lắm lắm. Chứ đến như những cái hoa được vẽ bởi thế hệ đến sau Ấn tượng họa và Hậu Ấn tượng, như Matisse, Picasso, Chagall, Redon v.v... thì không ai biết chắc đó là những hoa gì. Chỉ còn thấy đó là "hoa", không biết là loại hoa gì, thứ hoa gì...

Như thế, tất cả các trường phái, các xu hướng, các dòng trước thế kỷ XX đều là trường phái hội họa hữu thể. Đây không phải là nơi bàn về các dòng, các phái phát xuất từ con sông lớn hữu thể. Chúng ta chỉ cần nói rõ ràng mô tả thực tại không có nghĩa là bắt chước thực tại, sao chép thực tại, làm nô lệ cho thực tại, trở thành một cái photocopier của thực tại. Mà cũng chính vì sự tự do bung phá khỏi thực tại này mà chúng ta có hoàn cảnh thuận lợi cho sự xuất hiện của ý niệm nghệ thuật trừu tượng: Hội họa vô (hình) thể, mà người Pháp gọi là peinture non-figurative, haypeinture abstraite, và người Anh/Mỹ gọi là non-representational painting hayabstract painting. Người nghệ sĩ không lệ thuộc vào thực tại khách quan ngoài đời. Người nghệ sĩ tạo tác nên những "sự vật" của riêng mình. Cảm quan xuất phát từ những hình tượng mới mẻ, cá biệt, độc đáo. Hình tượng trừu tượng là những thực thể gợi cảm tự thân. Đó là công việc và sự cố gắng của những họa sĩ (vẽ) trừu tượng hiện nay ở Sài gòn.

Xu hướng vô thể nở rộ ở Sài gòn với Lâm Triết, Nguyễn Trung, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Lâm, Ca Lê Thắng... và lứa nghệ sĩ trưởng thành sau 1975 như Đỗ Hoàng Tường, Trần Văn Thảo, Đỗ Minh Trí... Tuy chúng ta có thể nhận ra khá rõ ràng cách thế của các xu hướng hữu thể và vô thể, cùng thế đứng chênh vênh của xu hướng bán trừu tượng, dung hòa giữa hữu thể và vô thể (semi-abstraction) chúng ta cũng nên thận trọng lưu tâm đến những sắc thái cá biệt của mỗi nghệ sĩ, thay vì "vơ đũa cả nắm", xếp hạng một cách máy móc. Thí dụ: Hữu thể Đỗ Quang Em rất khác với hữu thể Nguyễn Phước, vô thể Lâm Triết khác nhiều với vô thể Nguyễn Trung, bán trừu tượng Trịnh Cung rất xa cách với bán trừu tượng Lê Thánh Thư... Cũng là những hình thể có thể nhận diện ra được bởi bất cứ một người xem tranh nào, bất luận trình độ và tâm thức, nhưng giữa tranh Đỗ Quang Em và tranh của các vị "tả chân" khác có một khoảng cách xa vời tưởng không có gì khỏa lấp được.

Nhìn qua khung cảnh hội họa Sài gòn như vậy (tôi nói Sài gòn vì tôi chỉ được thấy tận mắt những tác phẩm của các họa sĩ nhắc đến tại Sài gòn) chúng ta mới thấy nổi bật trường hợp ĐQE như một sự kiện dị biệt, một trường hợp không ngờ. Thường tình, chúng ta có thói quen, có thể vì dễ dãi, có thể vì lười biếng, dán nhãn hiệu lên con người. Dán nhãn hiệu lên con người nói chung đã là điều không nên làm. Dán nhãn hiệu lên con người nghệ sĩ lại càng dễ gây nên ngộ nhận, lại càng tai hại hơn nữa. Ở ĐQE, tôi đã cố gắng nhìn kỹ, nhìn xa hơn cái nhãn hiệu. Và tôi đã thấy những gì sau đấy. Những gì tạo nên Trường hợp Đỗ Quang Em, như tôi đã từng viết về Trường hợp Kuniyoshi (1), Trường hợp Ông Kim (2). Những nhãn hiệu hữu thể, vô thể, tả chân, trừu tượng, v.v... ở trường hợp ĐQE đã rơi rụng đi cả, đã không còn những ý nghĩa thông thường của chúng.

ĐỖ QUANG EM theo học mỹ thuật từ 1960 đến 1965. Năm 1960, chúng ta hãy nhớ lại, là năm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập. Ba năm sau, 1963, chính biến chế độ Ngô Đình Diệm. Năm 1964, vụ Vịnh Bắc Việt. Năm 1965, ĐQE mới tròn 23. Từ 1965 đến 1995 là ba mươi năm, ông đã sống mười năm dưới chế độ cũ, hai mươi năm dưới chế độ mới. Trong thời gian ba mươi năm đó, hội họa ở Sài gòn trải qua nhiều truân chuyên. Trước 75, ảnh hưởng Âu Mỹ, đặc biệt trường phái Paris. Giai đoạn khó khăn từ 75 đến 85: "hiện thực tả chân", "sâu sát thực tế", v.v... Giai đoạn "đổi mới" từ 85, 86: Đuổi bắt các trào lưu thế giới, đặc biệt hội họa trừu tượng. 

Điều làm cho tôi tò mò và suy gẫm là trong suốt thời gian ba mươi năm đó, ĐQE đã một mực trung thành với cái nhìn và cái vẽ của mình. Vì sao?

Những ai đã từng thấy, hoặc tranh thật, hoặc tranh chụp và/hay in lại, đều nhận ra ngay rằng ông vẽ tranh rất "thật". Tưởng chừng thấy được cái ướt ở khóe mắt. Cảm được cái mịn và mát của gấm của lụa. Cái cứng cái khô của khúc tre già. Cái ù lì của viên gạch. Vẽ mà diễn tả được như vậy đòi hỏi đôi mắt thật tinh và một kỹ thuật cao độ. Chúng ta dễ đàng xếp ĐQE vào hàng ngũ "hiện thực", "tả chân". Ở ông, chúng ta tìm thấy âm hưởng, dấu vết của một đôi vị họa thánh Tây phương: Van der Weyden (Fla-măng - Flanders; Flemish, thế kỷ XV), Vermeer (Hòa Lan,thế kỷ XVII) ngoài hai ông de la Tour và Zurbaran đã nhắc đến ở trên.

ĐQE nói với tôi rằng thân phụ ông là một nhiếp ảnh gia tài danh của miền Nam (vĩ tuyến 17) những thập niên năm mươi, sáu mươi. Ông cụ nghệ sĩ đã truyền lại nhiều điều quí giá cho con trai. Đến đây, chắc hẳn có bạn đọc vỗ đùi đánh đét một cái: "Ha! Thảo nào! Tranh ĐQE trông thật như chụp ảnh!!!" Người viết bài này không nghĩ thế. Tôi muốn bắt chước nói như người quê Nam: "Coi dzậy chứ không phải dzậy!"

Ở nhà ĐQE, Lai Hồng và tôi không ngồi trên những ghế "xa-lông" đánh vẹc-ni láng coóng, hay trên những "sô-fa" lót nệm bọc ni-lông. Chúng tôi được ngồi trên những chiếc ghế vuông vắn, chắc chắn. Bằng tre. Đơn giản. Thô sơ. Những chiếc ghế tre già đã giúp tôi "hiểu" tranh ông: những chiếc ghế tre, chõng tre hiện diện khá thường xuyên trong tác phẩm ĐQE.

Vẽ sơn dầu trên bố với kỹ thuật cổ điển Tây phương, và tuy là đứa con của một miền đất nhiệt đới, ĐQE lại sử dụng ánh sáng một cách trân quí, gần như tằn tiện,như thể ông sống và vẽ ở vùng Đất Thấp (les Pays-Bas, The Netherlands), quê hương của Vermeer của Rembrandt. Có một vị họa thánh khác của Đất Thấp (tên chính của xứ Hòa Lan, mặt đất thấp hơn mặt biển), là Van Gogh, nhưng Van Gogh đã chối bỏ cái thứ ánh sáng quí giá và hiếm hoi đó để tìm về miền Nam Pháp Quốc chan hòa nắng ấm.

Ánh sáng trong tranh ĐQE chỉ vừa đủ để thấy được, có khi chỉ là mường tượngđược hình thể. Mới nhìn, tưởng rằng ĐQE rất gần với Vermeer. Ở chỗ ông nâng niu những đồ vật tầm thường hàng ngày. Ông nhìn chúng với con mắt trân trọng. Nếu có bóng dáng con người thì cũng là con người bình thường, ngồi hay đúng một mình, im lìm trong một không gian vắng vẻ Như ở Vermeer. Cũng như Vermeer, ông thấy được - vì óng là người Việt Nam - cái sang cả của một cây chổi, cái uy nghi của một cây đèn dầu, cái vững chải, ngay cả cái quí, cái đẹp, của một viên gạch. Ấy thế mà ĐQE cũng rất khác với Vermeer. Cố nhiên, Hòa Lan cuối thế kỷ XVII khác xa với Việt Nam cuối thế kỷ XX. Không gian Vermeer đầy đặn, trong trẻo. Không gian ĐQE hiu quạnh, mịt mờ. Không khí Vermeer ấm áp, yên ổn, bàng bạc một niềm hạnh phúc bình dị. Không khí ĐQE tĩnh lặng và trang trọng. Nhưng lại có một cái gì như là cô đơn và bất an. Một nỗi bí ẩn có vẻ như rình rập, như đe doạ...

Đại họa sĩ Nhật bản Hokusai, thế kỷ XIX, có nói một câu để đời khi được hỏi tại sao bức tranh vẽ chim của ông lại trống không, và con chim thì ông cho nó bay tuốt trên một góc tranh. Hokusai nói: "Tôi đâu có vẽ con chim. Tôi vẽ cái không gian mà nó mới bay qua mà! " Dĩ nhiên , Vermeer không thể biết đến câu nói đó vì ông sinh trước Hokusai cả hai trăm năm. Vermeer không biết, nhưng có lẽ ĐQE biết. Vì thế mà trong tranh "thật như thật" của ông có những vùng trống trải kỳ diệu. Tôi đặc biệt nhớ một bức tranh: một cái thang tre đặt nằm một bên theo chiều dài, kê trên hai viên gạch bốn lỗ (cũng được gọi là gạch ống). Trên thang có móc một cây đèn dầu nhỏ xíu. Chỉ có thế mà họa phẩm toát ra một sự sang trọng quí phái, một niềm cô đơn vời vợi. Chiếc thang tre, cây đèn dầu, hai viên gạch, chúng hiện diện như thế chẳng đặng đừng. Không nên, không cần gán cho chúng một ý nghĩa nào. Chúng có mặt trong tranh ĐQE, và chúng ta nhìn chúng như thể chúng ta đang nhìn lóm, cái nhìn rất lịch sự. Không gian Vermeer ân cần mời ta hãy bước vào. Không gian ĐQE miễn cưỡng tiếp lấy cái nhìn tọc mạch của ta với không nhiều thiện cảm. Bản thân người viết lại trân trọng sự miễn cưỡng ấy. 

Tôi trân trọng bởi lẽ cái thang tre, cây đèn dầu, những viên gạch được ĐQE vẽ ra thật tỉ mỉ, thật "thật", nhưng sự "thật" này không đánh lừa ta, không quyến rũ ta vì cái đặc dị của đề tài, cái tài tình của kỹ thuật, cái tinh vi của bút pháp. Họa phẩm thu hút ta vì một sự có mặt tự tại. Một sự có mặt mầu nhiệm. Đúng thế, có thể nói, nói mà không ngại là đại ngôn: hình thể trong trang ĐQE, người cũng như vật, biểu hiện sự mầu nhiệm của hiện hữu.

Biểu hiện đó có mang đặc thù ĐQE chăng cũng chỉ vì người nghệ sĩ không thể không để lại dấu vết đường chỉ tay của mình. Cái không gian hiu quạnh mịt mờ, cái không khí tĩnh lặng mà bất an, uy nghi mà cô quạnh chúng ta đã thấy và nói đến ở trên là cái giá phải trả của người nghệ sĩ khi cầm đến cây cọ. Kiểu như muốn quá quan thì phải nộp tiền mãi lộ. Thế thôi.

Thế kỷ XI, đời Lý, thiền sư Thường Chiếu có để lại bài kệ bằng Hán văn. Học giả Nguyễn Lang đã dịch hai câu đầu ra tiếng Việt như sau:

Đạo vốn không nhan sắc
Mà ngày càng gấm hoa

Tôi đặc biệt thích thú lời dạy đó. Với kỹ thuật cổ điển Tây phương của ba trăm năm trước, ĐQE đã vẽ ra được cái "gấm hoa" của một khúc tre già, cái chén cũ, cục gạch sứt. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta lại vội vã gọi ĐQE là "hiện thực", là "tả chân". Sở dĩ vậy vì ĐQE có một phương cách bố cục đặc dị. Thường thường, không gian (espace, space) trong tranh là để chứa đựng sự vật, chứa đựng hình thể. Ở ĐQE, cái không gian mênh mông và tĩnh lặng, mờ mờ, u huyền ấy là sự vật,là hình thể. Espace và figure là một. Không gian đâu phải là nơi không có. Không gian ĐQE có. Tự tại.

Không gian ấy, hình thể ấy... Tĩnh lặng, có, tĩnh lặng đến đìu hiu. Trống trải, có, trống trải đến cô quạnh. Đìu hiu, cô quạnh, vâng, nhưng cũng trang trọng, cũng "gấm hoa". Chúng ta đã đọc nhiều, nghe nhiều, viết nhiều về sự giao thoa cần có và đã có giữa Đông và Tây. Chưa bao giờ sự giao thoa ấy hiển lộ, tinh tế và dị thường, như trong tranh ĐQE. Thật giản dị: ông đã biết dùng phương tiện Tây phương để diễn đạt Đông phương.

Quan trọng hơn cả, Đỗ Quang Em đã vượt lên trên sự chia cách giữa "tả chân" và "trừu tượng", nghĩa là đi quá cái phân biệt giữa hình thể và vô hình thể. Giữa "có" và "không". Đúng là "Đạo bản vô nhan sắc", như lời dạy của vị thiền sư đời Lý.


Sàigòn, 1-1996

Ghi chú:
(1) Văn Học Nghệ Thuật, số 12, tháng 3, 1979
(2) Sao Có Tiếng Sóng..., Văn Nghệ, California, 1991














Đỗ Quang Em: Tôi như con ếch ngồi đáy giếng



Họa sĩ Đỗ Quang Em: 'Tôi như con ếch ngồi đáy giếng'
"Nói thật, tôi chẳng biết trời cao đất rộng là gì, chỉ biết một vợ, bốn đứa con và vẻn vẹn vài người bạn. Bởi vậy, tôi có vẽ, có yêu thương ai, có ghét bỏ cái gì cũng trong phạm vi nhỏ hẹp đó. Tôi hạnh phúc hay khổ đau cũng chỉ trong chừng mực đó, còn những gì diễn ra bên ngoài bốn bức tường kia thì hoàn toàn xa lạ", họa sĩ tâm sự.

- Anh được mệnh danh là tỷ phú tranh nhưng tại sao vẫn chỉ ở trong ngôi nhà chung cư, giá vẽ thì đặt ngay đầu giường ngủ?
- Cũng đã có nhiều người thắc mắc như vậy, mà thật tình tôi cũng không biết tại sao. Tôi từng có một ngôi biệt thự, nhưng chưa kịp dọn đến ở thì phải bán đi. Rồi tôi có nguyên cả khu đất, đã mời kiến trúc sư vẽ kiểu, nhưng rồi cũng không xây nhà được. Nên đến tận bây giờ ngôi nhà đang ở vẫn là ngôi nhà cha mẹ tôi để lại. Nói về điều kiện thì ai cũng biết là tôi dư sức, nhưng cuối cùng không hiểu sao vẫn không làm được. Tôi nghĩ chắc tại cái số của tôi nó thế thôi.

- Thế còn truyện tranh anh bán rất chạy, lại thuộc hàng được giá cao nhất phải chăng cũng do “cái số”?
- Cái đó tôi nghĩ cũng là do trời thương, tổ tiên thương mà cho chứ đó đâu phải cái mình có, đâu phải do sức mình. Bởi vì tranh tôi vẽ cũng chỉ theo những cung cách, những quy tắc như được dạy trong trường lớp. Còn nếu có chăng sự riêng tư thì tôi nghĩ đó là tâm hồn, là sự thật lòng mà tôi đã thể hiện trong tranh. Công chúng có cảm nhận, có thương mến nghệ thuật của tôi hay không có lẽ cũng bắt đầu bằng sự chân thật ấy.

- Có ý kiến cho rằng khi tranh của Đỗ Quang Em giá cao thì đồng nghĩa với việc anh chẳng thấy xung quanh có ai. Anh giải thích ra sao?
- Nào có phải vậy. Tôi không biết những người nói thế là họ thương hay ghét mình. Nếu là thương thì họ nói để mình hạ bớt cái tính bốc của mình xuống. Nếu vì ghét thì nói vậy là để tẩy chay mình. Nhưng tôi nghĩ anh em thương chứ ai ghét bỏ làm gì, bởi tôi cũng từng được bình chọn là nghệ sĩ được công chúng yêu thích 4 năm liền mà.

- Tại sao anh chỉ vẽ về những người thân và các đồ dùng quen thuộc trong gia đình?

- Dù có thiên nhiên đẹp đẽ, hùng vĩ đi nữa mà tôi không chiêm nghiệm được nó, không thấu hiểu được nó thì tôi vẽ để làm gì. Nhưng dù tôi có sống 100 tuổi hay đến 300 tuổi cũng chưa chắc gì hiểu hết được vợ tôi, con tôi.

- Vì sao hội họa của anh rất gần với nhiếp ảnh?
- Thật ra tôi vốn xuất thân từ gia đình nhiếp ảnh, cha tôi vốn là một nhiếp ảnh gia có tiếng đương thời. Lúc đó tôi phụ cha ở tiệm chụp ảnh nên có thể làm mọi công đoạn như tráng phim, rửa phim, chỉnh hình... Sau này cha tôi hướng tôi theo học mỹ thuật là để tay nghề nhiếp ảnh vững vàng hơn. Nhưng sau khi tốt nghiệp trường mỹ thuật năm 1968 cũng là lúc tôi quyết định đóng cửa tiệm. Chuyện này cũng là chuyện không thể ngờ trước trong cuộc đời cha tôi. Nhưng tôi nghĩ dù hội họa hay là nhiếp ảnh thì điều quan trọng nhất vẫn là tâm hồn của người nghệ sĩ. Còn khác chăng thì trong hội họa người họa sĩ cầm cọ để vẽ, còn trong nhiếp ảnh người chụp ảnh dùng máy móc, kỹ thuật để ghi lại hình ảnh mà thôi.

- Hội họa của anh là một cõi riêng biệt, và dù vẽ cái gì thì anh cũng muốn vẽ tới cùng của sự vật. Vậy có hay không một tình cảm chủ đạo luôn dẫn dắt trong ý thức sáng tạo của anh?
- Tôi quan niệm rằng mọi thứ nếu ta cứ vẽ thật lòng là công chúng chấp nhận. Bởi vì làm sao họ biết anh vẽ hay hay vẽ dở, nhưng tâm hồn anh thật hay không thật trong tác phẩm là công chúng có thể cảm nhận được, công chúng sẽ biết ngay. Cho nên, trong sáng tác đừng ai nói dóc, nói láo trong tác phẩm của mình mà phải rất chân thật. Nếu thương thì nói rằng thương, mà ghét thì phải thật tình là ghét. Trong tất cả những bức tranh của tôi, dù là chân dung hay tĩnh vật, cũng đều bắt nguồn bằng những tình cảm rạch ròi, chân thực ấy. Cũng như tranh tôi vẽ mỗi ngày mỗi khác nhau, bằng những tâm trạng khác nhau, nhưng điều còn lại vẫn là những tình cảm ấy. Và với tôi chỉ có những tình cảm ấy là quan trọng nhất thôi, còn lại thì tôi vẫn là người "vô học"...

- Anh tự nhận "vô học" theo một nghĩa nào?
- Thì hồi còn học phổ thông tôi học rất ít, tháng nào cũng bị bắt đứng dưới trụ cờ vì dốt nhất trường. Mà tôi học dốt toàn diện, Toán, Văn, Sinh, Hóa... tôi học đều dốt. Tôi chỉ biết vẽ, giờ học vẽ lúc nào tôi cũng được khen.

- Anh nghĩ thế nào về tranh đặt hàng?
- Con người ai cũng cần tiền, dù tôi là tỷ phú thì tôi vẫn cần tiền. Nhưng nếu vì cần tiền mà làm tranh theo đơn đặt hàng thì tôi nghĩ như thế sẽ sai đi. Bởi vì nếu vẽ theo đơn đặt hàng thì người vẽ không còn thật lòng nữa, sự trung thực trong tác phẩm sẽ vơi mất. Người họa sĩ vẽ tranh ngoài mong muốn bán được tranh để có chút tiền thì còn phải biết mơ ước tên tuổi mình về sau nữa...

(Theo Thanh Niên)

















Đỗ Quang Em - Đằng sau thế giới sự vật



Khen ngợi hay chê bai, khác nhau là cách nhìn, ở quan niệm nghệ thuật, thậm chí, nhiều khi chỉ khác nhau ở thành kiến, định kiến xuất phát từ đâu đó. Tuy nhiên, dù khác nhau, tất cả, đều phải thừa nhận, Đỗ Quang Em là một họa sĩ tài năng. Ông đã vẽ được “đến nơi đến chốn” cái điều mà ông muốn vẽ, ông đã kiên trì với lựa chọn nghệ thuật của mình và trong hội họa Việt Nam, tranh ông là một cõi riêng biệt. Một vài họa sĩ ở TP.Hồ Chí Minh đi theo “đường lối” của ông, nhưng chỉ riêng về mặt kỹ thuật, vẫn đứng sau ông một khoảng xa vời.

Hội họa Đỗ Quang Em là hội họa biểu hiện. Ở đây, chữ biểu hiện có ý nghĩa định tính chứ không phải quy nạp hội họa Đỗ Quang Em vào trường phái Biểu hiện (Expressionism). Hội họa Đỗ Quang Em biểu hiện một cảm thức của ông về hiện hữu, một xác tín về tính tất yếu của các “lý do tự nó” ở mỗi tồn tại (con người và sự vật). Người xem có thể cảm nhận, trong mỗi tác phẩm của ông toát lên một tinh thần nghiêm nghị, thể hiện sự trân trọng đối với thế giới đối tượng. Bao trùm trong tranh là bóng tối. Nó như sự tĩnh lặng huyền mặc của một tâm thức định tĩnh. Những khoảng sáng trong tranh Đỗ Quang Em bao giờ cũng gợi lên cảm xúc nhiệm màu của sự hiện thân.

Hội họa tả thực của Đỗ Quang Em có hình thức “cực thực”. Thực đến nỗi ngay nhiếp ảnh cũng khó lòng sánh nổi về khả năng tả thể chất (sự vật). Tả không khí (không gian) và khả năng biểu hiện bằng sự tinh lọc hình ảnh và cách điệu hướng đến cái đẹp lý tưởng (có xem trực tiếp tranh ông, mới thấy, những người cho rằng, ông vẽ lại từ ảnh chụp là hoàn toàn sai lầm)... Tả thực-“cực thực”-nhưng hội họa Đỗ Quang Em có phải là hội họa hiện thực hay không, đó là điều không chắc chắn.

Nghệ thuật là thế giới tâm hồn mỗi người. Nghệ thuật Đỗ Quang Em là tâm cảnh của ông. Một tâm cảnh được nhào nặn bởi ý chí, đầy kiêu hãnh...

Nếu chỉ nể phục sự “thần tình” trong khả năng thể hiện của Đỗ Quang Em, thì e rằng hơi lạc hậu. Cần phải nhìn thấy cái ở đằng sau thế giới sự vật trong tranh ông. Còn nếu cho rằng hình thức nghệ thuật của Đỗ Quang Em là đã “lạc hậu” thì e rằng, đó là một sai lầm. Sai lầm ngay từ trong nhận thức nền tảng về hội họa. Lịch sử cho thấy, không có hình thức nghệ thuật nào là lạc hậu. Chỉ sợ hình thức không có nội dung mà thôi !

Hội họa Đỗ Quang Em không mang vác tâm trạng thường nhật của ông, không chuyển tải những tâm lý, tình cảm phổ biến ở mọi người, không đối diện với các vấn đề thời sự hay các vấn nạn của lịch sử, xã hội. Hội họa Đỗ Quang Em là niềm tin của ông. Niềm tin này có được chia sẻ, đồng tình hay không và như thế nào, đó là chuyện khác…


Nguyên Hưng

















Họa sĩ Đỗ Quang Em trọng một chữ "chân"



"Trong hội hoạ, không có trường phái nào hơn trường phái nào. Chỉ có người sáng tác thật hay không thật, hay chảnh choẹ, làm giả, lừa mị mọi người. Như thế là họ đang lừa ngay chính họ. Tội nghiệp lắm", hoạ sĩ tâm sự.


- Tại sao thời gian qua, anh ít vẽ tranh?

- Tay run run thì sao vẽ nổi? Đi khám bác sĩ, họ bảo, tuổi cha mẹ cho là 62 (Nhâm Ngọ), nhưng tuổi cơ thể những 90-100. Còn tuổi tâm hồn, có lẽ đã lên đến vài nghìn.


- Không vẽ, vậy anh sống nhờ vào điều gì?

- Hào quang xưa. Tôi luôn lận trong ví bản photo bài phát biểu của ông Bill Clinton tại Việt Nam tháng 11/2000 để khoe chơi, trong đó có câu "Tranh hoạ của Việt Nam: Hoạ sĩ Đỗ Quang Em đã được giới thiệu tại nhiều triển lãm quốc tế...". Hay sống nhờ báo chí: báo nào thương thì tới gặp. Thôi, chính xác nghe: Sống nhờ vợ, nhờ con nuôi.


- 9h kém 15" mỗi sáng, dù đang dở chuyện với ai tại bàn cà phê trong Hội Mỹ thuật, anh lại bật dậy như lò xo tất tả phóng xe về nhà. Vợ anh giao trọng trách gì mà vội vã vậy?

- Tôi là người trăm phần trăm chỉ biết vợ biết con mình. Biết thương yêu chính mình, gia đình mình, sẽ làm thật với lòng mình.


- Ông Gauguin có nói: "Đừng có vẽ cho giống hệt. Nghệ thuật phải là sự trừu tượng hoá". Tuy nhiên, nhìn tranh của anh, người xem ít phải vận dụng trí tưởng tượng?

- Lỗi của Đỗ Quang Em là sáng tác chưa tới. Một tác phẩm được làm tới nơi tới chốn thì người xem, không cần thiết phải ở trình độ nào cũng hiểu được. Ông Gauguin nói vậy, tôi hiểu, là đừng có vẽ cho giống hệt hình thức. Giống hệt hình thức thì không giống được tâm hồn. Bỏ cái thực của hiện tại thì mới thể hiện được cái thực của tâm hồn. Cả đời mình tôi trọng một chữ "chân".

- Dẫn dắt người xem tới mối liên hệ trực diện với cảm xúc của mình, anh triệt để vận dụng luật viễn-cận, ánh sáng-bóng tối. Kiến thức vật lý giúp anh như thế nào?

- Xưa tôi học trường Duy Tân ở Phan Rang, tháng nào ông thày Nguyễn Quảng Tuân cũng quất cho mấy roi, bắt đứng dưới cột cờ vì tội học dốt. Giờ, thì thày Tuân bảo, đời tôi có ba học trò, trong đó có Đỗ Quang Em.

- Lúc này cũng ít nghe Đỗ Quang Em cằn nhằn, ta thán, thậm chí cả doạ thưa kiện (như trước kia) chuyện tranh của mình bị sao chép tùm lum, ngay cả bên Mỹ. Điều gì đã thay đổi anh vậy?

- Mình có hay, ngưòi ta mới chép. Trên con đường tôi đi, nay đã có thêm bằng hữu. Như vậy, tôi không còn cô đơn nữa.


Theo Lao Động
















Đỗ Quang Em, Nghiêu Đề, Phan Nguyên
San Diego. Hoa Kỳ 1994













Đỗ Quang Em, Phan Nguyên, Michico, Trịnh Công Sơn. Sg 1989













Phan Nguyên, Đinh Cường, Đỗ Quang Em
Sài gòn 1989











Đỗ Quang Em, Hồ Hữu Thủ, Phan Nguyên 
Sài gòn 2013










MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.