Thứ Ba, 7 tháng 2, 2017

Kim Tuấn (1938 - 2003)















Kim Tuấn

Nguyễn Phước Vĩnh Khuê
(1938 Hà Tĩnh - 11/9/2003 Tp/HCM)
Nhà thơ, Nhà văn, Nhà giáo, Phóng viên chiến trường

Hai ca khúc phổ thơ của ông nổi tiếng trước 1975 là Anh cho em mùa xuân (Nguyễn Hiền) & Những bước chân âm thầm (Y Vân).






Kim Tuấn tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê, ông sinh năm 1938 tại Huế nhưng quê gốc ở Hà Tĩnh.
Ông là hậu duệ 5 đời Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Là con trai duy nhất của gia đình. Thuở nhỏ sống cùng gia đình ở Phan Thiết. Lớn lên vào Sài Gòn học. Ông có tính cách hiền lành; ngoại hình mập mạp, da hơi ngăm đen, nụ cười híp mắt. Năm 20 tuổi cưới người vợ đầu là Hồ Thị Mộng Sương (em Hồ Đình Phương). Sau 1975 hai người ly dị, Mộng Sương sang Pháp, Kim Tuấn cưới người vợ thứ nhì là chị Minh Phương và có hai người con trai.

Kim Tuấn làm thơ từ năm 13 tuổi. Bắt đầu có thơ đăng trên các tạp chí đầu thập niên 1960. Tập thơ đầu tiên xuất bản là tập Hoa Mười Phương. Ông từng có một thời gian nhập ngũ và làm thông dịch viên tiếng Anh cho Quân đoàn II tại Pleiku. Thời gian này ông còn là phóng viên chiến trường với ký danh Vĩnh Khuê. Sau thời gian làm việc ông thường về nhà phụ vợ bán thuốc tây tại nhà riêng - hiệu thuốc cùng tên Kim Tuấn trên đường Phan Bội Châu.

Năm 1977, ông về Thành phố Hồ Chí Minh làm hiệu trưởng Trường Anh văn và dạy nghề Thăng Long ở quận 4 - một ngôi trường do người Anh tài trợ dành cho trẻ em lang thang và dạy học ở đó cho đến cuối đời. Ngày 11/9/2003, sau khi tham dự một buổi văn nghệ phát quà Trung thu cho trẻ em nghèo tại trường, ông về nhà ăn bánh, uống trà, ngắm trăng với vợ con rồi đột ngột bị nhồi máu cơ tim và mất trên đường đưa đến bệnh viện.


Đa số thơ của Kim Tuấn đều là thơ năm chữ với vần điệu êm ả, dịu dàng; mang nhiều hình ảnh đặc trưng của mỗi vùng đất mà ông viết. Cái hay của thơ Kim Tuấn là nắm bắt được tính cô động, "kiệm lời" của thể thơ năm chữ.

Gồm 3 mảng chính: Thiên nhiên - Chiến tranh - Tình yêu.

Thơ của ông được in trên nhiều báo, tạp chí trước và sau 1975. Ngoài ra ông còn được nhà thơ Du Tử Lê gọi là "chiếc cầu nối huy hoắc giữa thơ ca và âm nhạc trước 1975" với nhiều bài thơ phổ nhạc đặc sắc mà tiêu biểu là Anh cho em mùa xuân (Nguyễn Hiền) và Những bước chân âm thầm (Y Vân).






Thủ bút của Kim Tuấn, ông viết trước khi mất 8 ngày 
(Tài liệu của dutule.com)











Nụ Hoa Vàng Ngày Xuân:



Anh cho em mùa Xuân
Nụ hoa vàng mới nở
Chiều đông nào nhung nhớ
Đường lao xao lá đầy
Chân bước mòn vỉa phố
Mắt buồn vin ngọn cây
Anh cho em mùa xuân
Mùa xuân này tất cả
Lộc non vừa trẩy lá
Thơ còn thương cõi đời
Con chim mừng ríu rít
Vui khói chiều chơi vơi
Đất mẹ gầy cỏ (có) lúa
Đồng ta xanh mấy mùa
Con trâu từ đồng cỏ
Giục mõ về rộn khua
Ngoài đê diều thẳng cánh
Trong xóm vang chuông chùa
Chiều in vào bóng núi
Câu hát hò vẳng đưa
Tóc mẹ già mây bạc
Trăng chờ trong liếp dừa
Con sông dài mấy nhánh
Cát trắng bờ quê xưa
Anh cho em mùa xuân
Bàn tay thơm sữa ngọt
Giải đất hiền chim hót
Người yêu nhau trọn đời
Mái nhà ai mới lợp
Trẻ vui đùa nơi nơi
Hết buồn mưa phố nhỏ
Hẹn cho nhau cuộc đời
Khi hoa vàng sắp nở
Trời sắp sang mùa xuân
Anh cho em tất cả
Tình yêu non nước này
Bài thơ còn xao xuyến
Nắng vàng trên ngọn cây.
















Kim Tuấn 
1959














Đã xuất bản






1
Hoa mười phương
(1959) ~ Trường Giang





2
Ngàn thương
(chung với Định Giang, Vương Đức Lệ, 1961)





3
Dấu bụi hồng
(1971) ~ Minh Đức





4
Thơ Kim Tuấn 1962-1972
(1974) ~ Gìn Vàng Giữ Ngọc





5
Thời của trái tim hồng
(1990) ~ Nhà xuất bản Tổng hợp Sông Bé





6
Tuổi phượng hồng
(1991) ~ Nhà xuất bản Trẻ





7
Tạ tình phương Nam
(1994)





8
Thơ Lí và thơ ngắn
(2002) ~ Nhà xuất bản Văn Nghệ TP.HCM



























Những ca khúc phổ thơ Kim Tuấn






Anh cho em mùa xuân
phổ từ bài Nụ hoa vàng ngày xuân






Những bước chân âm thầm
(Y Vân)
phổ từ bài Kỷ niệm







Nhớ em lý bông mai
(Trương Quang Tuấn)
phổ từ bài Lý bông mai







Tự tình lý cây bông
(Trương Quang Tuấn)
phổ từ bài Lý cây bông







Duyên tình lý ngựa ô
(Trương Quang Tuấn)







Ầu ơ lý ru con
(Trương Quang Tuấn)







Khi tôi về







Ta ở trời tây







Khi xa Sài Gòn







Còn thương nhau hoài
(Trúc Sơn)







Nối lại tình thương
(Trúc Sơn)







Sao anh không về
(Trúc Sơn)







Nói với mùa thu
(Thanh Trang)







Xuân tận miền xa
(Thanh Trang)







Nếu còn yêu nhau
(Hoàng Bảo)







Nhớ anh vẫn đợi anh về
(Hoàng Bảo)







Lòng vẫn còn thương
(Tấn An)







Tình vẫn còn thương
(Tấn An)








Tháng đợi năm chờ
(Tấn An)








Còn nhớ còn thương
(Minh Mỹ)











Thơ Kim Tuấn



44 bài















Đinh Cường, Bửu Chỉ, Kim Tuấn













.....?...., Kim Tuấn, ....?....., Đinh Cường, Hạ Quốc Huy


















Nhà thơ Kim Tuấn





Tham khảo thêm về nhà thơ Kim Tuấn













Từ “Nụ Hoa Vàng Ngày Xuân”
đến nhạc phẩm
“Anh Cho Em Mùa Xuân”

Trần Yên Hòa

Hằng năm, nhân dịp Tết đến, Xuân về, ta lại nghe những bản nhạc Xuân rộn ràng trên các đài phát thanh, trên các hệ thống truyền hình, trên DVD, CD bày bán khắp mọi nơi. Trong đó, có thể ta được nghe nhiều nhất là bản nhạc Anh Cho Em Mùa Xuân, nhạc Nguyễn Hiền, phổ từ bài thơ Nụ Hoa Vàng Ngày Xuân của Kim Tuấn.

Chúng ta là những người nghe nhạc, rất buồn lòng khi những người giới thiệu chương trình lại hay quên tên tác giả bài thơ, chỉ nghe được tên người nhạc sĩ phổ bài thơ đó là Nguyễn Hiền, cho nên có nhiều độc giả vô tình, chỉ biết đó là bản nhạc của Nguyễn Hiền, mà quên đi, hay không được nghe giới thiệu, đến nhà thơ Kim Tuấn, một nhà thơ miền Nam trước 1975, có thơ đăng rất nhiều trên các tạp chí văn học, và đã nổi tiếng với hai bài thơ được 2 nhạc sĩ lúc đó phổ nhạc và cả hai đều nổi tiếng theo bản nhạc phổ thơ của mình, đó là Nguyễn Hiền với Anh Cho Em Mùa Xuân và Y Vân với Những Bước Chân Âm Thầm đều phổ từ thơ Kim Tuấn.

Tôi xin giới thiệu vài nét về nhà thơ Kim Tuấn theo một bài viết của Hà Đình Nguyên (báo Thanh niên đang xuất bản tại Sài Gòn) :

“Kim Tuấn tên thật là Vĩnh Khuê, sinh năm 1940 tại Huế – hậu duệ đời thứ 5 của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm.

Trải qua thời thơ ấu ở Phan Thiết rồi vào Sài Gòn vừa đi làm vừa đi học, làm thơ từ đầu thập niên 1960 và là thi sĩ có thơ được phổ nhạc nhiều nhất trước 1975 với 17 bài.

Về bài thơ Nụ Hoa Vàng Ngày Xuân, Kim Tuấn cho biết :

– “Tôi làm bài thơ này để nhớ về quê mẹ : Hà Tĩnh – vùng đất sỏi đá nhiều hơn cơm gạo với mơ ước “Đất mẹ gầy có lúa” – có lúa chứ không phải cỏ lúa như nhiều người vẫn hát nhầm (cỏ lúa thì phải nhổ đi chứ ai lại mơ ước có thêm!). Bài thơ này tôi sáng tác vào đầu thập niên 1960, sau đó in trong tập Ngàn Thương (chung với Định Giang) và được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ thành ca khúc. Đã có nhiều ca sĩ thể hiện bài hát này nhưng tôi thích giọng ca của Hà Thanh hơn cả và điều làm tôi ray rứt là cho tới nay vẫn chưa nói được với nữ ca sĩ này một lời cám ơn…”

Kim Tuấn đã thổ lộ bài này như vậy trong một cuộc phỏng vấn vào trung tuần tháng 11/2002 tại văn phòng Trường dạy tiếng Anh và dạy nghề Thăng Long. Kim Tuấn đột ngột qua đời vào lúc 1 giờ ngày 11/9/2003 bởi căn bệnh nhồi máu cơ tim.

Sau đây là một đoạn của bài thơ :

Anh cho em mùa xuân.
Mùa xuân này tất cả.
Lộc non vừa trẩy lá.
Thơ còn thương cõi đời.
Con chim mừng ríu rít.
Vui khói chiều chơi vơi.
Đất mẹ gầy có lúa.
Đồng ta xanh mấy mùa.
Con trâu từ đồng cỏ.
Khua mõ về rộn khua.
Ngoài đê diều thẳng cánh.
Trong xóm vang chuông chùa.
Chiều in vào bóng núi.
Câu hát hò vẳng đưa.
Tóc mẹ già mây bạc.
Trăng chờ trong liếp dừa.
Con sông dài mấy nhánh.
Cát trắng bờ quê xưa…”.


Trường hợp
nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ thơ Kim Tuấn

Nhạc sĩ Nguyễn Hiền đã kể lại trường hợp ông đã phổ bài thơ Nụ Hoa Vàng Ngày Xuân của Kim Tuấn như sau :

– “Đó là ngày mùng 5 Tết 1962, tôi đi làm trong một không gian vẫn còn hơi hướm tết. Đến sở, trên bàn làm việc của tôi có một tập thơ còn thơm mùi giấy mới. Đó là tập 40 bài thơ của các nhà thơ Vương Đức Lệ, Định Giang, Kim Tuấn và một người nữa tôi không nhớ tên. Tôi lần giở đọc qua từng bài và bắt gặp bài thơ Nụ Hoa Vàng Ngày Xuân.

“Đó là một bài thơ ngũ ngôn đầy ắp hình tượng và rất giàu cảm xúc. Vậy là chỉ trong buổi sáng hôm đó tôi phổ nhạc xong bài thơ. Điều buồn cười là tôi lấy luôn 3 câu thơ đầu tiên phổ thành 1 câu nhạc (Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở, chiều đông nào nhung nhớ…) thấy rất “ngọt” nên cứ thế mà phát triển bài thơ thành ca khúc. Tôi lấy câu thơ đầu tiên để đặt tên cho ca khúc này. Sáng hôm sau có một nhà thơ còn rất trẻ xưng tên là Kim Tuấn đến gặp tôi, hỏi : “Có gửi cho nhạc sĩ một tập thơ, không biết đã nhận chưa ?”. Tôi trả lời : “Nhận được rồi và riêng bài thơ Nụ Hoa Vàng Ngày Xuân của Kim Tuấn thì tôi đã phổ thành ca khúc”.

“Kim Tuấn rất ngạc nhiên và sau khi nghe tôi hát thì anh rất vui. Tình cờ ông Giám đốc Hãng đĩa Asia cũng có mặt. Ông ấy lấy bài hát giao cho ca sĩ Lệ Thanh thâu đĩa và sau đó hát trên đài phát thanh. Từ đó, tôi và Kim Tuấn đã có một mối quan hệ – mối duyên văn nghệ rất tốt đẹp… 3 ngày trước khi tôi lên máy bay sang định cư ở Mỹ (1988), Kim Tuấn rủ tôi đi uống cà phê, chúng tôi đã chia tay nhau thật vui vẻ. Ai ngờ, đó là lần cuối cùng của chúng tôi…”.

oOo


Sinh năm 1927, ông là một trong những nhạc sĩ sinh trưởng và thành danh ở Hà Nội cùng một thời với Hoàng Trọng, Hoàng Dương, Văn Phụng, Nguyễn Văn Khánh…

Ca khúc đầu tay của ông là Người Em Nhỏ (phổ thơ Nguyễn Thiệu Giang) để dành tặng cho người yêu – người vợ cho đến hết đời của ông là Nguyễn Thị An (cháu gọi nhà thơ Tú Mỡ là chú). Hai ông bà chỉ biết mặt nhau trước ngày cưới 2 tuần bởi mối lương duyên của họ là do cha mẹ đôi bên (vốn là bạn bè) đính ước. Đến cuối đời, bà An vẫn còn nhớ cái thuở ban đầu lưu luyến ấy và ngày cưới của họ: 22/2/1953.

Những nhạc phẩm tiêu biểu của Nguyễn Hiền : Hai mươi câu của tuổi trẻ (thơ Song Hồ), Huyền Trân công chúa, Giã từ thơ ngây, Tìm đâu, Về bến xưa (lời Thiện Huấn), Buồn ga nhỏ (viết chung với Minh Kỳ), Hoa bướm ngày xưa (lời Thanh Nam), Lá thư gởi mẹ, Mái tóc dạ hương, Gởi một cánh chim, Tiếng hát học trò, Lá rơi bên thềm, Hồ Than Thở, Hương thề, Ngàn năm mây bay…

Dòng nhạc của Nguyễn Hiền nhẹ nhàng, êm đềm thật gần với lòng người… Ông từ trần ngày 23.12.2005, thọ 79 tuổi.

Trong những bản nhạc của Nguyễn Hiền, có thể nói là bài Anh Cho Em Mùa Xuân được nhiều người biết đến nhất.

Sau đây là lời bản nhạc Anh Cho Em Mùa Xuân, Nguyễn Hiền có sửa lại một số câu :

Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở, / chiều đông nào nhung nhớ / Đường lao xao lá đầy, chân bước mòn vĩa phố, / mắt buồn vin ngọn cây

Anh cho em mùa xuân, mùa xuân này tất cả, / lộc non vừa trẩy lá/ Lời thơ thương cõi đời, bầy chim lùa vạt nắng / trong khói chiều chơi vơi,

Đất mẹ đầy cỏ lúa, đồng xanh xa mấy mùa / Ngoài đê diều căng gió, thoảng câu hò đôi lứa…/ Trong xóm vang chuông chùa, trăng sáng soi liếp dừa / Con sông dài mấy nhánh, cát trắng bờ quê xưa

Anh cho em mùa xuân, trẻ nô đùa khắp trời / Niềm yêu đời phơi phới / Bàn tay thơm sữa ngọt, giải đất hiền chim hót, / mái nhà xinh kề nhau…

Anh cho em mùa xuân, đường hoa vào phố nhỏ, / nhạc chan hòa đây đó / Tình yêu non nước này, bài thơ còn xao xuyến / rung nắng vàng ban mai/ Anh cho em mùa xuân / Nhạc thơ tràn muôn lối

Bản nhạc này đã tồn tại từ năm 1962 đến bây giờ, khi mùa xuân đến, mọi nơi, mọi nhà, ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và ở Việt Nam sau năm 1975, đâu đâu cũng vang lên bài hát Anh Cho Em Mùa Xuân, mà theo một số nhà phê bình âm nhạc thì :

– “Ca khúc Anh Cho Em Mùa Xuân (thơ Kim Tuấn, nhạc Nguyễn Hiền) là bản nhạc không thể thiếu. Điệu tango vui tươi, rộn rã. Dù đã ra đời cách đây hơn 50 năm nhưng Anh Cho Em Mùa Xuân vẫn được rất nhiều người ưa thích – kể cả giới trẻ hiện đại.”













Kim Tuấn, Chiều Đông nào nhung nhớ






Anh cho em mùa Xuân
nụ hoa vàng mới nở
chiều Đông nào nhung nhớ
đường lao xao lá đầy
chân bước mòn vỉa phố
mắt buồn vin ngọn cây …

Tôi sẽ lại được nghe lời ca ấy khi Tết đến, thơ Kim Tuấn, Nguyễn Hiền phổ nhạc

…” Tôi được đọc thơ anh đã lâu, nhất là cứ vào tối ba mươi tết mỗi năm là tôi đón đợi nghe bài thơ được phổ nhạc của anh. Có một cái gì dịu dàng trong đó. Có không khí của mùa Xuân trong đó, mùa Xuân trong lòng người xưng em.

Anh cho em mùa Xuân… tôi liên tưởng đến bài Sonnet của Arvers. Nhất định là nó sẽ sống như Sonnet d’ Arvers, như Valses của Johann Strauss… “ (Võ Hồng, trích thư riêng ngày 8-7-1971, in ở bìa sau tập thơ Thời của trái tim hồng - 1990). Nụ hoa vàng ngày xuân, bài thơ năm chữ, 38 câu, làm năm 1961, thời Kim Tuấn vừa hơn hai mươi tuổi, chúng tôi là bạn của nhau từ thời gian đó, còn giữ trong album ảnh Kim Tuấn đề tặng từ Pleiku năm 59. Kim Tuấn hiền lành, mập mạp, da hơi ngâm đen với nụ cười híp mắt. Ba anh dáng phương phi cao to, mẹ anh còn giữ được hàm răng đen như các bà cụ xưa. Quê quán gốc Hà Tĩnh, vào Huế rồi vào Phan Thiết, Pleiku lập nghiệp. Thời gian sau cùng ở Sài Gòn. Anh là con trai một nên rất được nuông chiều. Những năm 1960 chúng tôi thường gặp nhau trong những không khí văn nghệ như Đàm trường viễn kiến của Nguyễn Đức Quỳnh, Câu lạc bộ văn hoá của Phạm Xuân Thái, thường đi với Định Giang, Ninh Chữ, Hoàng Trúc Ly…nay các bạn đã không còn. Tập thơ Ngàn Thương Kim Tuấn - Định Giang in chung năm 1961, tôi vẽ bìa, chữ kẻ bằng tay, bức tranh nhỏ là hình ảnh rừng cây như những con nguời chụm mặt vào nhau trên mặt đất nồng nàn. Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất, Phạm Công Thiện mới mất đó, cũng đã gần giáp năm. Và KimTuấn, người bạn thơ dễ thương hết sức (nói như Nguyễn Xuân Thiệp) ra đi đã tám năm, mất đêm 10 tháng 9 năm 2003 - đêm rằm trung thu - tại Sài Gòn sau khi dự lễ phát quà trung thu cho học sinh nghèo tại trường dạy tiếng Anh và dạy nghề Thăng Long tại quận 4 do anh làm hiệu trưởng, do tổ chức từ thiện trẻ em Sài Gòn hỗ trợ (Saigon Children’s Charity)

Năm hai mươi tuổi Kim Tuấn kết hôn cùng chị Hồ Thị Mộng Sương (em gái nhà thơ Hồ Đình Phương). Sau năm 1975 Kim Tuấn cưới người vợ mới, chị Minh Phương, làm việc ở Phú Nhuận:

Đưa em về Phú Nhuận
Dong xe trên phố chiều
Lúc xa người – ngõ rẽ
Lòng nhớ thầm bao nhiêu …
(đưa em về phú nhuận, bài viết tặng Minh Phương)

Anh chị có hai cháu trai, nay đều đã học hành thành tài, Bảo Khôi hiện là giảng viên khoa ngữ văn Đại Học Sư Phạm TPHCM, em là Bảo Khánh, chuyên viên chứng khoán, đang làm tại công ty chứng khóan HSC. Kim Tuấn là người lo cho gia đình, thời khó khăn anh đã viết sách giáo khoa, biên khảo, sách dạy văn phạm Anh văn để phụ nuôi sống. Năm 1977 trở lại làm ông giáo bên quận tư cùng các nhà thơ thân quen ở đó như Nguyễn văn Nghĩa, Cao Quảng Văn, Vu Gia, Lý Minh…

”… Đầu năm 1977, tôi quay lại nghề cũ của tôi ở Quận Cảng nghèo nàn. Tôi tự nhốt mình lại trong bốn bức vách với những đứa học trò nghịch ngợm. Phía sau lưng tôi là bảng đen và phía trước tôi là những đôi mắt nhìn lên ông thầy xác xơ của chúng nó. Ngày tháng lại qua đi và tóc tôi mỗi ngày lại thêm những sợi bạc …” (Kim Tuấn, đôi điều với bạn yêu thơ - Thời của trái tim hồng –trang 73, Nxb tổng hợp Sông Bé 1990). Anh còn dạy ở Trung tâm Ngoại ngữ ĐHSP 280 An Dương Vương cùng với Châu Văn Thuận.


Đinh cường - Bửu Chỉ - Kim Tuấn - gallery Tự Do Sài Gòn tháng 7, 2002

Năm xưa thỉnh thoảng tôi lên Pleiku thăm bạn, ở lại nhà là tiệm thuốc tây Kim Tuấn trên đường Phan Bội Châu, nhớ nhất là lần anh cùng Vũ Hoàng, nghị viên thành phố và các bạn tổ chức tuần lễ văn hóa Pleiku năm 1974, mời tôi lên bày tranh chung với Hạ Quốc Huy, Nguyễn văn Hiền. Bên văn có các anh Mai Thảo, Duyên Anh, bên nhạc có Phạm Duy…Một ngày cuối tuần anh Mai Thảo cùng chúng tôi đi xe jeep lên thăm Kinh Dương Vương (họa sĩ Rừng) ở KonTum, lúc ấy Bích Vân, vợ của Rừng đang làm ở bệnh viện Kon Tum. Còn in dấu trong tôi ngôi nhà thờ KonTum xưa cổ, đoạn đường Pleiku – KonTum qua dòng sông Dakbla và dãy núi Chuprong khi chiều xuống mờ sương tím, buồn. Pleiku, thời tướng Vĩnh Lộc tư lệnh quân đoàn 2, thiếu tá Dương Diên Nghị (nhà thơ Diên Nghị) làm trưởng phòng 5, Uyên Thao (Vũ Quốc Châu) trực phòng phóng viên chiến trường, trung uý Trầm Trọng Tài (nhà thơ Tô Mặc Giang) rất thân Kim Tuấn, trung uý Nguyễn Vinh Hiển (nhà văn Hoàng Khởi Phong) bên quân cảnh, sau qua Đà Lạt, Đà Lạt với trung uý Nguyễn Xuân Thiệp (nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp) làm trưởng đài phát thanh quân đội. Thời Trịnh Công Sơn và tôi đang lang bạt ở đó, cả những Thái Ngọc San, Lê văn Ngăn, Chu Sơn…từ Huế vào (nhớ có bạn bị quân cảnh bắt vì giấy tờ không hợp lệ đã được trung uý Hiển thả vì tình văn nghệ). Một thời chiến tranh, đầy nhiễu nhương. Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương (Trần Hoài Thư)…Pleiku, như Nguyễn Mạnh Trinh viết: “… Thành phố lạ lùng, của những lưu dân từ khắp nơi của đất nước. Và nhất là thành phố của lính, của những người từ tiền đồn, chiến trường trở về, đốt tiền để mua một đêm vui tạm bợ rồi trở lại đơn vị lao mình vào cuộc máu lửa ngày mai …” (Kim Tuấn, nhà thơ vừa ra đi - Hoa Thịnh Đốn Việt Báo 26.9. 2003)

Kim Tuấn, con trai một, nhập ngũ được ưu tiên, anh phụ trách dạy anh văn trong quân đội, cũng trực gác, cắm trại kể cả đi theo hành quân:

Tết này ngưng chiến lo đồn trại
đêm gác chòi cao nhìn núi cao
lửng lơ dăm bóng đèn soi sáng
mưa dưới đồi xa khuất chiến hào
(Gửi mẹ mùa xuân – Thơ Kim Tuấn, Gìn vàng giữ ngọc xb 1.1975)

Thời ở Sài Gòn tôi hay ghé nhà Kim Tuấn ở 35/ 7C đường Phát Diệm (nay là Trần Đình Xu), rủ Kim Tuấn đi cà phê, nhớ bộ divan gõ quý láng bóng ở phòng trước, nhớ hai bác hiền lành phúc hậu. Kim Tuấn cũng hiền như thơ anh, những câu thơ vốn đã đầy nhạc tính:

từng bước từng bước thầm
hoa vông rừng tuyết trắng
rặng thông già lặng câm
hai đứa nhiều hối tiếc
sương mù giăng mấy đồi
tay đan đầy kỷ niệm
mưa giữa mùa tháng năm
dật dờ cơn gió thổi…
(Kỷ Niệm)

Bài Kỷ Niệm, Y Vân phổ nhạc lấy tên Những bước chân âm thầm, điệu boléro, cùng với Anh cho em mùa xuân, điệu tango habanera Nguyễn Hiền phổ là hai bản nhạc một thời các ca sĩ hay hát tại các phòng trà vũ trường Sài Gòn. Thơ Kim Tuấn còn được rất nhiều nhạc sĩ nổi tiếng khác phổ nhạc, như Phạm Duy với “Khi tôi về “, Lê Uyên Phương với “Khi xa Sài Gòn”, Phạm Đình Chương với “Ta ở trời Tây nhớ trời Đông”…và những người bạn như Vũ Hoàng, Đoàn Đình Thạch, Lê Văn Lộc, Song Giang nhưng chưa phổ biến. Thơ Kim Tuấn được phổ nhạc rất nhiều. Mùa xuân bàng bạc trong thơ anh cũng như phố núi, dĩ nhiên, anh đã gắn bó bao nhiêu năm cùng Pleiku:

ở trên núi ta làm thơ với núi
có khi buồn làm bạn với rừng khô
(Trên núi mình ta, Thơ Kim Tuấn – Gìn vàng giữ ngọc xb 1.1975)

Như Miền lệ xanh, tên một bức tranh của tôi Kim Tuấn rất thích, lấy làm tựa một bài thơ xuôi kỷ niệm. Có những chiều lang thang cùng nhau trên phố, đêm ghé hội quán Phượng Hoàng…

buổi chiều Pleiku không có mặt trời
chỉ có mây bay trên đầu ngọn núi
(Buổi chiều ở Pleiku)

làm sao không nhớ Vũ Hữu Định:

em Pleiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên mắt em uớt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trong
(Còn một chút gì để nhớ)

Lần gặp Kim Tuấn sau cùng, tháng 7 năm 2002 tại gallery Tự Do, Sài Gòn nơi Bửu Chỉ và tôi bày tranh chung, không ngờ chỉ năm sau đó anh mất…vì bị nhồi máu cơ tim, ở tuổi 65.

Kim Tuấn, chiều đông nào nhung nhớ, câu thơ làm khi còn xuân xanh, cho đến hơn mười năm trước khi mất, như thấy trước, anh đã để lại bài cuối cùng cho em:

Anh buồn anh tóc trắng
Trời buồn mây trắng bay
Em ngày nào áo trắng
Vòng hoa trắng trên tay
Anh cuối đời tóc bạc
Nhớ đầu đời tóc xanh
Một đời anh lận đận

Ngày tháng đã qua nhanh
Ngày tháng còn lại gì?
Nụ cười và nước mắt
Khi anh về với đất
Em về hoa trắng bay …
(Thời của trái tim hồng, trang 69, nxb tổng hợp Sông Bé 1990)


Ba tháng trước khi mất, anh còn gửi về dòng sông Hương yêu dấu như soi thấu lòng anh. Ở đâu và bao giờ, anh cũng là nhà giáo - nhà thơ, với trái tim ắp đầy thương yêu và khát khao được sẻ buồn chung vui cùng tất cả mọingười (Cao Quảng Văn, Biết đến khi mô - Nhớ Huế tập 19). Có thể xem đây là một trong những bài thơ cuối cùng của KimTuấn:

ơi dòng sông xanh
trôi hoài nỗi nhớ
ngọn sóng cồn cào
con đò bến nước
trăng vàng lênh đênh

ơi dòng sông xanh
trôi qua phố Huế
lặng lờ như thế
ôm phố vào lòng
tay dài yêu dấu
một đời nhìn nhận
yêu mà không nói

ơi dòng sông xanh
ngày em qua cầu
nỗi sầu để lại
mắt nhìn ái ngại
ngậm ngùi xa nhau
ơi dòng sông xanh
soi thấu lòng anh
bồng bềnh gương nước
soi đời thuở trước
soi đời mai sau
(Kim Tuấn- Thơ gởi dòng sông xanh 6. 2003- Nhớ Huế tập 19)

Chiều mùa đông rét mướt, tháng Chạp, nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh (Vũ Anh Khanh) nhìn lại mấy tấm ảnh cũ, nhớ bạn, nhớ năm xưa nào ngoài Biển Hồ, Pleiku bạn đã cùng tôi nhìn bồng bềnh gương nước, ước mơ một ngày hoà bình, cùng thích Erich Maria Remarque: Một thời để yêu và một thời để chết. Nay bạn đã về với đất, nhưng thơ và lời ca thơ bạn mãi còn ngân vang …



Virginia, 28 Dec. 2011
Đinh Cường

Kim Tuấn tên thật Vĩnh Khuê. Sinh ngày 14-10-1940 tại Huế, mất ngày 11-9-2003 tại Sài Gòn

Các tập thơ đã xuất bản:

- Hoa mười phương- Trường Giang xb 1959
- Ngàn thương (chung với Định Giang) -Tác giả xb 1961
- Dấu bụi hồng- Minh Đức xb 1971
- Thơ Kim Tuấn 1962- 1972- Gìn Vàng Giữ Ngọc 1975
- Thời của trái tim hồng - nhà xb tổng hợp Sông Bé 1990
- Tuổi phượng hồng- nxb Trẻ 1991
- Tạ tình phương nam -1994
- Thơ lí và thơ ngắn – nxb Văn Nghệ TPHCM 9.2002

Tác phẩm truyện ngắn và tạp văn đang tập hợp dự định in thì anh ra đi bất ngờ.






















Phố Núi Pleiku

Kim Tuấn: Những điều thấy trong giấc ngủ
Hoàng Khởi Phong




Lời Tòa Soạn Sau khi tốt nghiệp khóa 15 Võ khoa Thủ Đức, nhà văn Hoàng Khởi Phong chọn Binh chủng Quân Cảnh và từng làm việc tại Pleiku vào ba giai đoạn, 1965-1967, 1970-1973 và 02/1975-04/1975.

Ông là một trong rất ít nhà văn lập nghiệp tại Cao nguyên Trung phần, qua đó ông thân thiết với hầu hết các văn nghệ sĩ sinh sống hoặc hơn một lần ghé qua Pleiku. Xin giới thiệu quý độc giả của Đặc San Phố Núi Pleiku, hồi tưởng của một con dân Phố Núi, nhà văn Hoàng Khởi Phong…



Kim Tuấn: Những điều thấy trong giấc ngủ
Hoàng Khởi Phong 

Gửi hương hồn Kim Tuấn 
... Và khi thức dậy 
Tôi tìm thấy tôi 
Và khi thức dậy 
Tôi tìm thấy tôi... 
(Thơ Kim Tuấn - Phạm Duy phổ nhạc) 

1- 

Tôi có thói quen dậy sớm, nằm lơ mơ trên giường nghe tiếng những con chim ríu rít vọng vào từ ngoài cửa sổ. Sáng nay 11-9-2003 không phải tiếng chim đánh thức tôi dậy, mà là tiếng chuông điện thoại của Lữ Quỳnh. Giọng anh có vẻ ngần ngừ vì anh nghĩ đã đánh thức tôi quá sớm, vài giây sau cái vẻ ngần ngừ mất đi, anh báo cho tôi biết Kim Tuấn đã mất. Lữ Quỳnh qua đây khá muộn màng, anh giữ được những liên hệ với các người bạn cũ còn ở trong nước, do đó anh luôn luôn là người thông báo tin tức của những người viết văn, làm thơ giữa hai bờ biển. 

Tin Kim Tuấn mất đến với tôi cũng hệt như Pleiku đã bị động đất, đã bị trôi ra biển. Nhưng trong thực tế chính là tôi đã trôi ra biển, chính tôi đã bị những cơn bão đời cuốn đi, cuốn đi tới tận chân trời, trong khi Pleiku vẫn còn đó, còn mãi mãi với những đổi thay chóng mặt. Đối với tôi Pleiku là Kim Tuấn, là Cao Thoại Châu, là Cao Xuân Huy, là Nguyễn Bắc Sơn, là Thái Tăng An, Ngô Văn Đinh Hợi, Cam Nhị Thu, Thế Vũ... cùng những người bạn thỉnh thoảng ghé thăm xứ gió bụi mưa mùa như Vũ Hữu Định, Phan Lạc Giang Đông, Trần Quang Lộc, A Khuê, Nguyễn Mộng Giác... Cho dù tôi có chỉ huy một đơn vị tại đây, song liên hệ giữa những người lính trong đơn vị là một phần đời khác, có những ràng buộc khác với tương quan giữa những người bạn làm văn nghệ. 

Giữa năm 1970 tôi tới Pleiku nhận nhiệm sở mới, trước đó ba năm khi mới in tập thơ đầu tôi quen Kim Tuấn nơi nhà một người bạn. Chỉ là một cuộc gặp gỡ rất tình cờ rồi cả hai chúng tôi cùng quên đi. Thời đó tôi chưa được ba chục, còn Kim Tuấn vừa mới qua khỏi tuổi ba mươi. Chúng tôi còn quá trẻ và đầy sinh lực, có nhiều cách để phung phí bớt sức lực của mỗi người, mà không nhất thiết phải vồ vập lấy nhau vì cùng làm thơ, nên trong lần gỡ đầu tiên đó chúng tôi chỉ biết về nhau một điều duy nhất là cùng làm thơ, và rồi ai về nhà nấy. 

Kim Tuấn hơn tôi vài ba tuổi, thơ của anh đã viên mãn, đã đầy đặn, được phổ nhạc bởi vài nhạc sĩ nổi danh đương thời. Trong khi đó tôi là một con nghé mới nhú sừng, không hãm mình trong kỷ luật quân đội, nhưng thận trọng trong cách giao tiếp với những người làm văn nghệ trước tôi, bởi những lý do riêng biệt. Mặc dù biết Kim Tuấn đang ở Pleiku, khi nhận đơn vị xong tôi không nghĩ tới việc phải tìm Kim Tuấn, bởi tôi nghĩ nếu chúng tôi có duyên văn nghệ với nhau, không sớm thì muộn chúng tôi sẽ gặp gỡ, sẽ làm chung với nhau một vài việc, sẽ đi chung một chuyến xe, sẽ ngồi chung trên một con đò và cũng có thể sẽ không bao giờ gần nhau được. Tôi cũng không ngờ Pleiku là nơi tôi ở lâu nhất trong suốt 13 năm quân ngũ, và cũng chính tại đây tôi có những kỷ niệm văn nghệ mà tôi sẽ nhớ cho tới cuối đời. 

2- 

Đây là lần thứ hai tôi nhận nhiệm sở mới tại Pleiku, nơi tôi đã bỏ mà đi sáu năm trước đó, vào năm 1964 khi thành phố này còn hoang vu hơn nhiều, mỗi buổi chiều người ta vẫn còn thấy những đoàn người sơn cước gùi số hàng chưa bán được trong ngày, từ những phố chợ túa ra trên các con đường về lại các buôn bản nằm thật sâu trong rừng núi. Khoảng hai tháng sau khi tôi nhận việc tại Pleiku, vào một buổi chiều sắp đến giờ tan sở, một chiếc xe Jeep trờ tới đậu ngay trước cửa văn phòng. Từ ghế trưởng xa bước xuống một người bệ vệ không đeo cấp bậc, không phù hiệu đơn vị, tôi nhìn ra và biết ngay người có dáng bệ vệ đó là Kim Tuấn. Cùng đi với anh có một Thiếu Úy và một Trung Úy phục vụ tại Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Vừa bước vào Kim Tuấn đã lên tiếng trách: 

- Tôi biết tin ông lên đây đã gần hai tháng nay, không thấy ông tới “trình diện” tôi, thì tôi phải tới “trình diện” ông vậy. 

Giao tình của chúng tôi khởi đi giản dị như thế. Với Kim Tuấn, tôi biết anh phải đi lính vì tất cả mọi người đều đi lính, thế nhưng phải có nhân cách nào đó, để mỗi sáng trên chiếc xe đưa đón nhân viên đi làm, một Trung Úy và một Thiếu Úy đã nhường ghế trưởng xa cho một Hạ Sĩ. Tôi không nghĩ các bài hát dược phổ từ thơ Kim Tuấn như “Anh cho em mùa xuân - Những bước chân âm thầm - Khi tôi về” có thể mang lại sự trọng nể như thế. Sự kính nêå đó tôi nghĩ chỉ có thể đến do cách anh sống với người, do nhân cách của Kim Tuấn khi ứng xử với cuộc đời. Từ đó cứ vài ba ngày hoặc là trên đường từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn về nhà, Kim Tuấn ghé tôi đi uống cà phê, hay thỉnh thoảng tôi có việc vào trong Bộ Tư Lệnh, thế nào tôi cũng kéo anh xuống câu lạc bộ ngồi tán gẫu. Qua Kim Tuấn, tôi biết thêm Cao Thoại Châu đang dậy tại Trường Nữ Trung Học Pleime, cùng một số bạn văn nghệ khác đang sinh sống tại Pleiku trong thời điểm đó. Về phần Kim Tuấn, ngoài công việc của một người lính, anh còn dậy học thêm nơi trường tư thục Bồ Đề, trong khi Cao Thoại Châu dậy thêm tại trường Minh Đức. 

Tôi có thể nói một cách khiêm tốn, trước khi Kim Tuấn và Cao Thoại Châu chính thức lập nghiệp ở Pleiku, thành phố này chưa bao giờ gây dựng được một không khí văn nghệ. Trước đó năm, bẩy năm tại Pleiku mặc dù đã có một số khuôn mặt văn nghệ phục vụ trong các đơn vị quân đội ở đây từ những năm cuối thập niên 50, như Dương Diên Nghị, Duy Năng và Tường Linh song đó chỉ là những người làm thơ đơn lẻ, vì tai trời ách nước mà phải hiện diện nơi cao nguyên gió bụi mưa mù này. Phải đợi tới cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 khi mà Cao Thoại Châu và Kim Tuấn đã dựng nhà ở đây, đã dậy dỗ nhiều lứa học trò, và sau đó thì chiến tranh ném thêm nhiều khuôn mặt văn nghệ lên vùng đất này, trong đó phải kể tới những tên tuổi như Thế Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Vũ Hữu Định, Cam Nhị Thu, Trương Thìn, Miên Đức Thắng... thay thế nhau có mặt tại thành phố này, thì Pleiku đã tự gây dựng cho mình một bầu không khí văn nghệ biệt lập hẳn với Sài Gòn và Huế. Tôi ở đây hơn hai năm trời, không ít thì nhiều cũng đã tiếp tay với Kim Tuấn và Cao Thoại Châu trong việc gây dựng nên bầu không khí văn nghệ của thành phố này. 

Phải nói ngay trong số những người viết văn làm thơ tại đây, Kim Tuấn lớn tuổi nhất, thành danh trước Cao Thoại Châu và tôi. Những bài hát được phổ từ thơ của anh đã khiến cho những người làm văn nghệ khi nhắc tới Pleiku là nhắc tới Kim Tuấn, thế nhưng phải đợi đến khi bài thơ “Còn một chút gì để nhớ” của Vũ Hữu Đinh được Phạm Duy phổ nhạc, những người làm văn nghệ tại Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng, Cần Thơ, Biên Hòa... mới thực sự biết đến một thành phố có tên là Pleiku. Nói một cách khác phải đợi tới đầu thập niên 70, chính chiến tranh đã xác định địa danh Pleiku không phải chỉ có những người lính, những trận giao tranh mà thôi. Ở nơi đây bên cạnh những hơi thở nặng nhọc của những người lính chờ giao tranh, còn có những hơi thở thoi thóp của những người lính làm văn nghệ. 

Kỷ niệm đầu tiên giữa tôi và Kim Tuấn là những lần cả hai rủ nhau đi cà phê, mà trước đó tôi phải bố trí cho lính tuần tiễu bắt Kim Tuấn vì các tội danh đại loại như “lang thang trong giờ làm việc, mặc quân phục không mang giầy, áo bỏ ngoài quần, quần không gom ống, không giấy tờ tùy thân...”. Những cái tội hết sức ấm ớ mà bất cứ một anh Quân Cảnh nào khi bắt lính đi ngoài đường, đều ghi vào trong Phiếu Vi Phạm. Sở dĩ phải bắt anh vì vợ chồng anh có một pharmacy đồng thời bán mỹ phẩm và thời trang phụ nữ, ngoài giờ làm việc anh hay phải đứng phụ với vợ trông cửa hàng. Kim Tuấn và tôi ngầm ước hẹn với nhau mỗi tuần một hai lần, tôi cho lính đến “vồ” anh đi cà phê cho nhẹ lòng. Chỉ có cách đó thì bà vợ anh mới không nghĩ là anh bỏ mặc cửa tiệm đi chơi với bạn. Những lần bị “vồ” trót lọt trong vài tháng, cho đến khi một người nào đó tiết lộ cho chị Kim Tuấn biết tình bạn văn nghệ giữa tôi và Kim Tuấn. Một hôm tôi đang đi chợ trời trong khu trung tâm thành phố, khi đi ngang cửa Pharmacy do hai vợ chồng Kim Tuấn làm chủ, chị từ trong tiệm bước ra mời tôi vào coi hàng. Cách chị mời đon đả làm tôi khó từ chối, thế nhưng bước vào trong tiệm chị không mời tôi coi hàng. Tôi là đàn ông, biết gì về mỹ phẩm vải vóc. Chị mời tôi ngồi uống nước và trong lúc bất ngờ nhất chị nói với tôi: 

- Tôi biết Đại Úy là bạn văn nghệ với anh nhà tôi, lần sau Đại Úy muốn rủ anh Tuấn đi cà phê, xin đừng làm bộ bắt bớ khiến tôi sợ muốn chết. 

Đúng lúc đó Kim Tuấn từ trong phòng trong bước ra, anh nhìn tôi nháy mắt vì chưa biết bí mật của hai chúng tôi đã lộ tẩy. Tôi cũng nhân đấy coi như không có chuyện gì xẩy ra và lớn tiếng rủ Kim Tuấn đi cà phê cho chị nghe thấy. Từ đó tôi ít rủ Kim Tuấn đi cà phê ngoài giờ làm việc, thỉnh thoảng tôi lên Quân Đoàn, đón Kim Tuấn về sớm một hai giờ, khi về qua TĐ20CTCT, rủ thêm Thái Tăng An, sau cùng ghé Trại Giam Tù Binh rước thêm Ngô Văn Đinh Hợi chui vào cà phê Văn, một quán văn nghệ nhất của thành phố này. Đôi lần đã vào quán rồi còn quay trở lại đón thêm Cao Thoại Châu, vì bận dậy học chỉ có thể dời trường sau 5 giờ chiều. 

Năm 1971, trường Trung Học Tư Thục Minh Đức, một trường học do các linh mục Công Giáo điều khiển, đã tổ chức một “Tuần Lễ Văn Hóa”, với một cuộc thi văn chương cho toàn trường, một cuộc triển lãm tranh của các họa sĩ lúc đó đang đồn trú tại Pleiku như Ngô Văn Đinh Hợi, Thái Tăng An, Nguyễn Thanh Hiền... Cả hai nhà thơ Kim Tuấn và Cao Thoại Châu cùng được mời làm giám khảo cho giải văn chương này. Hôm tuyên bố kết quả, trường Minh Đức tổ chức một buổi đọc thơ. Tôi được mời lên đọc những bài thơ mới, mà tôi không ngờ đã làm cho các bạn tôi sau đó ít ngày mất chỗ dậy. Tôi còn nhớ trong hàng ghế đầu của quan khách, gồm các giới chức chỉ huy quân đội cũng như hành chánh của tỉnh, kế đó là các vị hiệu trưởng của các trường Trung Học trong vùng, đặc biệt là hai vị tu sĩ hiệu trưởng trường Minh Đức và trường Bồ Đề. Bài thơ “Nói với thế hệ Trường Kỳ”ø của tôi là một bài thơ dài hơn trăm câu, trong đó có một đoạn đã khiến cho hai bạn tôi trở thành “mất dậy”. Khi đọc tới đoạn thơ này, mắt tôi chiếu thẳng vào từng loại người mà tôi đề cập đến trong đoạn thơ gồm những câu khá nẩy lửa: 

... Và vì vậy chúng ta phải dấn thân 

Để đốn ngã những tên chủ chốt: 
Là bọn thầy tu làm chính trị 
Bọn chính khách ma cô 
Bọn trí thức giả hình 
Bọn bác sĩ con buôn 
Bọn luật sư dẫn mối 
Và bọn giáo sư chỉ điểm 
Anh không thể thống kê hết cho các em 
Những hố hang anh đã gặp trên đường 
Suốt những năm trường đi trong bóng tối 
Bởi các anh là thế hệ Trường Sơn 
Thật vững vàng như núi 
Thật hùng vĩ như rừng 
Các anh đã nhen nhúm được từ trong bóng tối 
Một ngọn lửa sáng lên như niềm tin 
Ngọn lửa cháy mỗi lúc một to 
Soi tỏ khuôn mặt các anh ngày thêm rực rỡ. 
Đã đến lúc trân trọng mời thế hệ các em 
Những người thua anh dưới trên mười tuổi 
Những người tới sau Trường Sơn 
Là Trường Kỳ trong cách mạng. 

(Trích bài thơ Nói với thế hệ Trường Kỳ trong tập thơ Phục Hồi Quyền Chức Làm Người). Tập thơ này sau đó không có nhà in tư nhân nào nhận in, nên tôi in đại không giấy phép xuất bản tại nhà in quân đội, chuyên in truyền đơn trên Pleiku, do Thái Tăng An trình bầy ấn loát và Kim Tuấn viết bạt. Tập thơ đó về sau đã làm cho tôi vất vả, lận đận không ít trong đời quân ngũ của tôi. Khi viết bạt cho tập thơ, Kim Tuấn đã có lần nói với tôi: “Thơ phú như thế này mà lại làm sĩ quan Quân Cảnh thì thật là phí”. Tôi cũng chẳng hiểu anh muốn ám chỉ gì. 

Chỉ biết rằng sau tập thơ này, mấy người chúng tôi hào hứng rủ nhau làm một quán cà phê. Thời đó chỉ có Kim Tuấn là người tương đối dồi dào tài chánh nhất, mình anh bỏ một nửa vốn. Cao Thoại Châu, Ngô Văn Đinh Hợi, Thái Tăng An mỗi người một chút, phần tôi bao dàn chỗ chót của nửa còn lại. Tôi có nhiệm vụ đi xin gỗ tại mấy xưởng cưa, đặc biệt là gỗ vụn có vỏ cây để làm một cái nhà sàn giả có cầu thang lên xuống ở hai phía của một bức vách, thay thế cho lối vào. Măt tiền của quán có một bức tượng đắp nổi hình một thiếu nữ mang gùi, ngực trần. Quán được Cao Thoại Châu đặt tên là quán cà phê “TAY TRÁI”, nằm trên con đường bên hông nhà thờ Quân Đội. Cao Thoại Châu khi đề cập đến cái tên của quán đã nói: 

- Bọn chúng mình nghề chính là làm thơ, viết văn còn tất cả mọi thứ khác đều làm bằng tay trái, kể cả những nghề đi lính, dậy học, bán thuốc tây, mở quán cà phê... gì gì đó chỉ là để chơi với cuộc đời mà thôi. 

Tuy nói vậy, song thâm tâm tôi biết Cao Thoại Châu nghĩ khác. Việc trưng bầy, trang trí, làm quán cho đẹp được giao cho hai họa sĩ Ngô Văn Đinh Hợi và Thái Tăng An. Trong thời gian làm quán và trang trí, các bạn từ xa tới tấp lên thăm. Có người định lên chơi hai ba ngày, thế mà rồi cả nửa tháng sau mới quay về đơn vị. Để hợp thức hóa việc vắng mặt khá lâu của các bạn, trong chức vụ Trưởng Đồn Quân Cảnh Pleiku, tôi phải làm các Lệnh Phạt, kèm theo Sự Vụ Lệnh cho quân nhân mãn hạn thọ phạt trở về trình diện đơn vị. Từ khi quán được thành lập, hầu như mỗi buổi chiều chúng tôi tụ tập nhau tại đây. Thời đó Ngô Văn Đinh Hợi, Thái Tăng An cư ngụ tại một căn nhà sàn được cất ngay trong sân nhà tôi. Cả hai thường chỉ có mặt tại nhà trong bữa ăn chiều, sau đó là cả ba chúng tôi trực chỉ tới quán cà phê, ngồi đồng cho tới khi quán đóng cửa. 

Từ khi có quán TAY TRÁI, bạn bè văn nghệ từ khắp nơi mỗi khi ghé Pleiku đều được anh em đón về đây, và mỗi lần tụ họp đông đảo như vậy là một lần anh em tổ chức văn nghệ, hát hò, đọc thơ. Lần đọc thơ đầu tiên là hôm khai trương quán. Thời đó chỉ có Kim Tuấn và tôi có thơ xuất bản, Cao Thoại Châu đề nghị gọi buổi sinh hoạt này là “Đêm thơ Kim Tuấn - Hoàng Khởi Phong”, thế nhưng Kim Tuấn cho là phải có Cao Thoại Châu nữa cho đủ bộ các ông chủ. Thế là Thái Tăng An thực hiện một bích chương tuyệt đẹp treo trước cửa quán: “Đêm thơ Kim Tuấn - Cao Thoại Châu - Hoàng Khởi Phong”. Hôm đó quán đông nghẹt người, ngồi tràn cả lên lối đi ngoài lan can của cái nhà sàn giả. Đáng kể nhất là hai bàn đầu trong quán bị choán bởi hai vị khách không có vẻ gì là văn nghệ. Một vị là Trưởng Ty An Ninh Quân Đội, bạn cùng khóa 15 Thủ Đức với tôi. Bàn còn lại là ông Cò Phương, Trưởng Ty Cảnh Sát vốn là một tay mê nhạc cổ điển tây phương. Vài hôm sau ông bạn Trưởng Ty An Ninh Quân Đội gọi điện thoại cho tôi, và nói nguyên văn: 

- Ông với tôi là bạn cùng khóa, nên có lời khuyên trước là dẹp bớt những vụ đọc thơ, nhất là thơ của ông. 

Tôi hỏi gặng lại 

- Bộ ông được lệnh theo dõi tôi phải không 

- Không phải, tôi chưa được lệnh lạc gì về ông cả, nhưng cứ đọc thơ kiểu đó không sớm thì muộn tôi với ông cũng sứt mẻ tình bạn. 

Mặc dù có lời can của một người bạn cùng khóa tốt bụng, thế nhưng những buổi đọc thơ vẫn diễn ra, nhất là mỗi khi có bạn văn nghệ từ xa tới. Có điều sau đó chúng tôi không bao giờ khoa trương ra ngoài, không có bích chương quảng cáo trước. Ban đầu những buổi đọc thơ rất đông người, về sau không hiểu vì lý do gì, khách dân sự ít lai vãng. Mấy ông thầy dậy học có vẻ né chuyện trò thân mật với hai đồng nghiệp Cao Thoại Châu và Kim Tuấn. Họ đồn đại quán Tay Trái như là một cái ổ chuyên đọc thơ phản chiến và chống chính phủ. 

Trong thời gian quán cà phê Tay Trái hấp hối, mỗi đêm chỉ lèo tèo vài khách cùng dăm ông chủ hết ra lại vào. Người khách thường xuyên nhất lúc nầy là ông Võ Ý, Phi đoàn trưởng Phi đoàn O2 Quan sát Pleiku. Tôi biết ông phi công nầy từ khi ông biệt phái Ban Mê Thuột và cánh không quân nhà ông đã phá nát chiếc xe jeep do đồn Quân Cảnh Ban Mê biệt phái cho biệt đội Quan sát tại đây vì đã “phóng” xe bằng xăng máy bay! 

Nhớ khi tôi nghe lời dụ khị của Thế Phong viết bài cho Đặc San Lý Tưởng Không Quân thì đã biết hai ông Võ Ý và Lê Bá Định, Không Đoàn Trưởng 72 Chiến Thuật Pleiku bấy giờ trên tờ Lý Tưởng đó. Phải nói ngay Võ Ý lẽ ra cũng là một trong các chủ quán và đã kêu gọi cổ đông hết mình. Anh nói riêng với tôi là không thể tham gia trực tiếp vì phải ngủ đêm trong phi trường, hơn nữa lại bận bịu với việc hành quân. 

Mỗi khi có mặt Võ Ý, quán ồn ào hẳn lên vì ít khi anh ra quán một mình mà thường có thêm vào ba ông “giặc lái” trong đó phải kể người viết phú hay nhất là ông Lê Bá Định. Mấy ông không quân cười nói rổn rảng, phá tan bầu không khí tĩnh mịch của con phố đìu hiu bên hông nhà thờ quân đội. 

Cách thử thời vận của các ông chủ có máu văn nghệ rút cục cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ: quán cà phê Tay Trái đang trong cơn hấp hối báo hiệu thời điểm chia tay ai về nhà nấy. Đêm cuối cùng của quán, chúng tôi uống với nhau những ngụm cà phê không phải với đường mà với mật đắng của mỗi người... 

3- 

Chiến tranh mỗi lúc một tăng nồng độ. Trên trời, dưới đất, trong rừng, ngoài biển... ở đâu đâu cũng có những đám khói đen bốc lên cao, tỏa rộng ra khiến cho bầu không khí lúc nào cũng ngột ngạt. Quán Tay Trái càng ngày càng ế ẩm. Trước tiên quán nằm ở một chỗ khá xa trung tâm thành phố, chơ vơ một mình một con đường. Kế đó các khách yêu văn nghệ nhưng yếu bóng vía sợ liên lụy, nên sau một thời gian chừng nửa năm mấy ông chủ đồng ý dẹp. Ai về nhà nấy. Làm như trước khi bão tố, bầu trời lúc nào cũng u ám nặng nề. Chiến tranh cũng vậy, trước khi rộ lên một mùa chém giết, chiến tranh như một con rắn già, nằm bất động chờ lột xác. Đêm đêm ít nghe tiếng đại bác bắn đi, nhưng trên con đường 14 thường xuyên có đắp mô, chôn mìn. Sau khi quán đóng cửa, thỉnh thoảng tôi lái xe vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn bốc Thái Tăng An, Kim Tuấn, Ngô Văn Đinh Hợi lên xe đi một vòng chung quanh thị xã. Bắt đầu từ con đường do Liên Đoàn II Công Binh xây dựng phía trước cổng quân đoàn, con đường này chạy thành một vòng đai chung quanh thị xã, tới quận Lệ Trung. Trong những chuyến đi như thế, làm như tôi cảm nhận được những buôn bản gần thị xã, những xóm nghèo dọc quốc lộ đang tìm cách nén mình xuống thấp. Mỗi chuyến đi lang thang như vậy làm cho chúng tôi cảm thấy bớt tù túng, ngột ngạt trong một thành phố nhỏ mà đầy lính. Lính ở đâu mà nhiều đến thế. Nhiều hôm còn sớm chúng tôi đi thẳng tới Hàm Rồng, nơi đồn trú của Trung Đoàn 47 thăm Thế Vũ, Cam Nhị Thu. Ở đó ai nấy đều lầm lì, nói với nhau những câu gióng một, nhát gừng. Uống với nhau một ly cà phê, một chai bia rồi lái xe một đoạn đường hơn hai chục cây số ra về. 

Trước khi trận đánh mùa hè 72 nổ ra, Nguyễn Bắc Sơn từ Phan Thiết phải lên thụ huấn một khóa đặc biệt về quân số tại Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn. Tôi chạy chọt cho anh khỏi phải vào ăn ở trong Quân Đoàn, mà cư ngụ tại nhà tôi. Khóa học kéo dài hai tháng, trong hai tháng này mỗi bữa cơm chiều, nhà tôi thế nào cũng có khách thêm bát thêm đũa. Kim Tuấn và Cao Thoại Châu là người hay lại ăn ké nhất trong lúc Nguyễn Bắc Sơn cư ngụ tại nhà tôi. Kim Tuấn ít uống rượu, thế nhưng mỗi khi tới xà vào bàn ăn, lần nào cũng xách theo một gói giấy, trong đó có một vài lon bia anh mua tại chợ trời ngay trước hiên nhà, kèm theo một gói thịt quay, phá lấu, lỗ tai, bao tử... của anh Tầu bụng phệ, có một tủ thịt quay bay bán ngay tại trước cửa một tiệm nhậu nơi bùng binh trước rạp xi nê Diệp Kính. Thời gian đó Nguyễn Bắc Sơn ăn gạo lức muối mè theo phương pháp Osawa. Mỗi bữa ăn anh bới một chén cơm gạo lức ngồi lặng lẽ nhai trước cả tiếng, trước khi cả lũ chúng tôi ngồi vào bàn. 

Có một dạo đột nhiên những người bạn văn nghệ ở xa tới Pleiku chơi, ai nấy đều đòi chụp một tấm hình chung với tôi. Sau vài lần tôi ngờ ngợ có điều gì khác thường trong các vụ chụp hình chung này. Cuối cùng Kim Tuấn tiết lộ: Có lần tôi để quên giấy tờ, bị nhân viên của ông vồ. May làm sao lúc đó tôi đang đi lấy hình về, và trong xấp hình này có một bức hình tôi chụp chung với ông. Bí quá tôi đành phải mang cái hình chụp chung với ông mang ra thay giấy tờ tùy thân, nhờ vậy đã không bị vồ mà lại còn được chào là Đại Úy. Sau khi câu chuyện này được phổ biến trong vòng bạn bè văn nghệ, một số anh em cũng muốn có một cái bùa nhỏ lận trong người, vì tôi được tiếng là người có mặt tại tất cả các Tiểu Đoàn Quân Cảnh của bốn vùng chiến thuật. Mang tôi ra làm bùa với anh em binh sĩ Quân Cảnh hành sự ngoài phố, không ít thì nhiều cũng có lợi hơn là trong tay không có một tấm giấy lộn. 

Thế rồi trận chiến mùa hè 72 nổ ra trên toàn quốc, chiến tranh như cơn quẫy mình của một con rắn trong khi lột da. Súng nổ đạn bay từ khắp bốn phương trời. Trong giai đoạn này tôi ngẫm đến những lời thơ của Kim Tuấn, qua phần nhạc phụ họa của Phạm Duy: 

... Giây thép gai đã hết rào quanh đồn phòng ngự 

Và người lính đã trở về cầy đám ruộng xanh 

....Khi tôi về con diều bay diều bay trong gió 

Có đứa trẻ để mình trần rốn hở, cười thanh bình 

Con cò lại bay trên đồng ruộng xanh... 

Những điều đẹp đẽ đó đau lòng thay chỉ là những hình ảnh mà Kim Tuấn đã bắt gặp trong những giấc ngủ của mình. Để rồi khi tỉnh dậy anh buồn bã viết: 

...Và khi thức dậy, tôi tìm thấy tôi 

Và khi thức dậy, tôi tìm thấy tôi. 

Tin xấu từ khắp nơi bay về, các bạn tôi những người lính làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc cũng như những người lính chỉ biết bắn súng ngã xuống hàng loạt khắp các chiến trường. Trong thời gian này, tướng Toàn Tư Lệnh Quân Đoàn II ra lệnh: Mọi quân nhân ra ngoài đường phải đội nón sắt hai lớp có lưới ngụy trang, phải mang dây ba chạc với vũ khí đầy đủ cấp số đạn dược. Kim Tuấn vốn là người lính không bao giờ mang súng, thậm chí anh còn không lãnh súng tại đơn vị vì sợ phải lau chùi, thất thoát. Trước cái lệnh oái oăm này, Thái Tăng An mách nước cho Kim Tuấn: Anh Phong thiếu gì súng tịch thu ngoài bảng cấp số, nói anh ấy cho một khẩu súng lục đeo cho nó đỡ vướng víu. Được lời như cởi tấm lòng, Kim Tuấn mò tới tôi xin một khẩu súng “lậu”. Xui cho anh là trong kho tang vật chờ báo cáo thiêu hủy lúc đó không còn khẩu súng Colt nào, tôi phải đưa cho anh một khẩu súng M79, trông to ngang, họng lớn nhưng nhẹ hơn súng trường. Có súng rồi đi đâu anh cũng mang theo kè kè bên nách. Khẩu súng M79 nói nào ngay trông đẫy đà hệt như Kim Tuấn. 

Cơn bão lửa mùa hè sau cùng rồi cũng qua, trên khoảng đường từ Pleiku đi Kontumcả hai bên biết bao người ngã gục. Lâm Hảo Dũng, một nhà thơ Pháo Binh đã tham gia chiến trận trong vùng này đã viết: 

...Chư Pao ai oán hờn trong gió 

Mỗi tấm khăn tang, một tấc đường... 

Trong trận chiến mùa hè năm đó, con đường Pleiku - Kontum bị đứt hơn một tháng trời. Con đường này dài hơn 45 cây số, riêng đoạn đường của địa danh Chư Pao đã dài hơn mười cây số. Để giải tỏa bốn mươi lăm cây số ngàn này, thử hỏi có bao nhiêu tấm khăn tang cho vừa. 

Một hôm Nguyễn Bắc Sơn từ Phan Thiết mò lên. Lúc đó đã hơn 4 giờ chiều, Nguyễn Bắc Sơn yêu cầu tôi chở anh tới Chư Pao, địa danh trong câu thơ của Lâm Hảo Dũng. Đây là một vùng đồi núi chằng chịt những tảng đá xanh. Trận đánh giải tỏa con đường đã diễn ra suốt một chiều dài 15 cây số giữa đường Pleiku Kontum. Dấu vết của những trái bom lửa đánh xuống các chốt đóng quân của Cộng Sản còn hiện diện nơi những khoảnh rừng bị cháy nám đen, những tảng đá vôi bị nung nóng vỡ toác ra như người ta tôi vôi sống. Những cái cây bị cháy trụi lá chỉ còn những cành lớn đen xì, chen lẫn những tảng đá vôi trắng xóa, nổi bật trên bầu trời xanh đã tạo thành một bầu không khí im lặng đến rợn người. Ngay khi con đường giải tỏa, tôi đã theo đoàn quân tiếp viện Kontum để thăm viếng một đơn vị nhỏ thuộc quyền chỉ huy của tôi nằm trên này, do đó tôi biết 5 giờ chiều con đường bị đóng lại. Thế mà khi Nguyễn Bắc Sơn mò tới thì đã hơn 4 giờ chiều. Phải đi một quãng đường hơn 20 cây số rồi phải quay về... Tôi còn đang lưỡng lự thì Kim Tuấn ở đâu mò tới. Thế là cả ba chúng tôi leo lên xe jeep, cùng với chú Hội người tài xế mà tôi thương yêu như em ruột. Cả ba chúng tôi, ba kẻ làm thơ của miền Nam đi vào chiến tranh, mà đầu toàn những ý nghĩ trong veo như thơ của Nguyễn Bắc Sơn: 

... Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu 
Đi hành quân vẫn rượu đế đem theo 
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo 
Coi chiến trận như tai trời ách nước... 

Cả ba chúng tôi cùng chong mũi súng hướng ra ngoài, mặc dù tôi tự biết, giả dụ địch quân có tấn công, bắn xẻ may mắn lắm trên xe chỉ có hai thầy trò tôi biết phải làm cái gì, phải phản ứng như thế nào. Dọc đường đi Nguyễn Bắc Sơn nói: 

- Tôi muốn đến đây đọc cho người bạn của tôi nghe một bài thơ mới, đã được làm khi con tôi sinh ra, đúng vào lúc bạn tôi nằm xuống tại cửa ngõ của tỉnh Kontum này. 

Kim Tuấn hỏi: 

- Ông có biết đích xác bạn ông nằm xuống ở chỗ nào không. Rừng núi sầm uất như thế này, biết chỗ nào mà mò. 

- Tôi chỉ muốn tới nơi mà người ta gọi là Chư Pao mà thôi. Chắc anh hồn của bạn tôi còn đang quyến luyến nơi này, chưa đi đâu xa. Chỉ cho tôi đâu là Chư Pao. 

Tôi nhìn thấy ánh mắt lạ lùng của Nguyễn Bắc Sơn, long lanh mà u hoài, sáng rực mà lạnh lẽo. Thế rồi anh nhắm mắt lại, những giọt lệ từ đâu trào ra khỏi khóe mắt, lăn dài trên gò má. Nhìn sang Kim Tuấn tôi cũng thấy mắt anh đỏ hoe, ươn ướt lệ. Tôi không nhìn thấy đôi mắt tôi lúc đó, song tôi thấy lòng mình trùng xuống như một sợi giây đàn đã lâu không được ai cầm đến. 

Khi chúng tôi tới địa phận Chư Pao thì đã 4 giờ 45 chiều, tôi nói chú Hội nên quay đầu xe lại và nổ máy sẵn. Cả ba chúng tôi xăm xăm bước tới một tảng đá to ngay vệ đường. Nguyễn Bắc Sơn rút trong ba lô ra một bó nhang, anh thắp vài nén cắm ngay xuống rìa tảng đá. Tôi kín đáo dời xa hai bạn, ẩn mình sau một gốc cây to. Nguyễn Bắc Sơn rút bài thơ từ trong túi áo, anh đọc nhẩm những câu thơ như những lời khấn nguyện, gửi tới người bạn đã khuất. Bài thơ chấm dứt, Nguyễn Bắc Sơn mang ra một cây sáo trúc, anh thổi một khúc sáo chiều, âm thanh tưởng chừng như đã làm bạt đi cái im lặng rợn người của núi rừng. Tôi nhìn thấy xác những chiếc chiến xa đen trùi trũi, nằm ngổn ngang trên các sườn đồi in trên nền trời mây trắng. Trên đường về thỉnh thoảng chúng tôi phải xuống xe kéo những con ngựa gai chặn ngang quốc lộ của các đồn bót dọc đường. 

Đêm đó Nguyễn Bắc Sơn ngủ lại nhà tôi, nhưng tôi biết là anh không ngủ được, tôi nghe những tiếng động lịch kịch vẳng từ phòng anh. Có lúc tôi còn nghe thấy anh mở cửa ra ngồi trước hiên nhà, và nếu như không ngại hàng xóm láng giềng, chắc hẳn anh sẽ mang cây sáo trúc ra thổi chiêu hồn người bạn vừa khuất. 

Trận chiến mùa hè 72 sau cùng rồi cũng qua đi, đầu năm 73 các bên tham chiến ký với nhau một văn kiện hòa bình giả dối tại Paris. Khi thò tay ký vào văn kiện này, ít nhất Mỹ và Bắc Việt đã hiểu nó chỉ là một tờ giấy lộn, một màn kịch tạm thời, một sự dối trá vĩ đại để dàn dựng cho hồi kết cục của vở kịch chiến tranh đã kéo quá dài ở Việt Nam, đã làm cho nước Mỹ quá mệt mỏi. Đầu năm 1973, tôi phải đi công tác trao đổi tù binh, rồi sau đó vì không được lòng ông xếp trực tiếp tại Pleiku, tôi phải đổi đi Đà Lạt. Kỷ niệm cuối cùng của tôi và Kim Tuấn chính là lúc tôi vừa làm nhà xong ở Đà Lạt, mẹ tôi từ Sài Gòn lên làm lễ cúng ông Địa, trước khi tôi mang vợ con từ Pleiku xuống. Mẹ tôi vừa mới thắp hương cắm rải rác quanh sân, ngoài ngõ xong quay vào nhà. Những nén hương chưa kịp tàn trên trang thờ gần cổng, thì Kim Tuấn đã lững thững từ ngoài đường đi vào. Tôi cũng không hiểu sao anh biết đường vào nhà tôi, khi tôi chưa chính thức dọn vào căn nhà mới dựng tại một con đường cụt, nằm trong một hẻm núi phía sau dinh hai của quốc trưởng Bảo Đại. 

Lần gặp nhau cuối cùng đó anh ngụ lại nhà tôi vài ngày, dường như anh có một mối tình tuyệt đẹp với một cô ca sĩ ở đây có tên là TC, bởi vì chỉ hai ngày sau mới sáng sớm sương mù Đà Lạt còn chưa tan, tôi đã thấy chị Kim Tuấn từ Pleiku mò xuống tìm anh về. Tôi tránh mặt đi làm sớm, và mãi vài tuần sau mới biết được điều này, khi Kim Tuấn từ Pleiku gọi điện thoại xuống. Cho tới năm đó anh đã gần bốn chục mà hai vợ chồng anh chưa có một mụn con nào. Không những thế anh lại là con một, tên chính thức là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê, ngang vai vế với Bảo Đại ông vua cuối cùng của nhà Nguyễn, và là hậu duệ của Tùng Thiện Vương, một trong vài thi sĩ nổi tiếng của triều Tự Đức. Sau này tôi biết thêm hai vợ chồng anh ly dị sau 75, bà vợ cũ của anh đã qua Pháp lập nghiệp. Anh ở lại Việt Nam đi thêm một bước nữa, và có hai con với người vợ sau. Dường như anh còn có một cô con gái riêng với chị TC, cô gái đó nghe đâu hiện nay đang cư ngụ tại Philadelphia. 

4 - 

Năm nay tôi bước vào tuổi sáu mươi, làm như tuổi già thường được báo hiệu bởi những cái chết. Trong vòng tám tháng tôi mất đi hai người bạn. Đầu năm nay trong những ngày giáp Tết, Long Ân nằm xuống do một tai nạn trong lúc lái xe ở Quận Cam California, nhưng nguyên nhân chính của tai nạn bắt đầu bởi một cơn đau tim, và giờ đây Kim Tuấn với một cơn đau tim khác, chết trên đường đến bệnh viện tại Việt Nam. Nếu như Long Ân là một người bạn ngồi chung lớp suốt 6 năm trời từ Nguyễn Trãi qua Chu Văn An, thì Kim Tuấn đến với tôi là một trong vài người bạn đầu đời khi tôi bước chân gia nhập vào giới cầm bút. 

Lữ Quỳnh cho tôi biết vài chi tiết về cái chết của Kim Tuấn. Theo nhà văn Phan Triều Hải, con của Lữ Quỳnh hiện còn ở Việt Nam cho biết: Bác Kim Tuấn mất đúng vào đêm Trung Thu. Theo lời thuật lại của Phan Triều Hải thì buổi tối trước khi mất, Kim Tuấn còn đến dự một đêm văn nghệ với các em thiếu nhi trong một sinh hoạt trung thu đặc biệt. Vào khoảng 10 giờ đêm, trong lúc buổi liên hoan đang đến lúc hào hứng nhất thì anh bỏ về sớm, rủ vợ và các con ra uống trà, ăn bánh trung thu và ngắm trăng. Vào khoảng 11 giờ rưỡi, trăng sáng vằng vặc giữa đỉnh trời, đang nói chuyện vui vẻ với vợ con thì cơn đau tim ập tới, và anh đã chết ngay trên đường, trong lúc xe chở anh chưa kịp đến nhà thương. 

Có một điều trùng hợp lạ lùng là khi anh mất đi vào đúng đêm Trung Thu, hai ngày sau tôi được tin buổi sáng, thì ngay buổi tối đó tại Phòng Sinh Hoạt của Nhật Báo Người Việt, bên cạnh chỗ tôi làm việc cô ca sĩ Mộng Thủy ra mắt một đĩa nhạc. Tôi ngồi trong phòng, lắng nghe tiếng hát của cô ca sĩ vừa mới thành danh từ phòng bên cạnh, hát những lời thơ của anh, trong khi ánh trăng lọt vào qua cửa kính. Tôi tin lúc đó anh hồn của anh, nhà thơ Kim Tuấn đang tan trong ánh trăng. Có thể anh đã nhìn thấy tôi, có thể anh đã nghe lời thơ của anh đang vọng về từ bên kia đại dương. Nếu anh có nghe được tiếng hát tinh khôi này, lẩn trong đó là những lời chúc lành của tôi. 

Anh Kim Tuấn thân, 

Nếu như chiến tranh chưa tàn, thì giao tình giữa anh và tôi dã được hơn ba chục năm, đã quá nửa một đời người. Khi còn sống gần nhau trong cùng một đạo quân, trên cùng một thành phố đầy gió bụi và mưa mùa, cùng chia với nhau những khốn khó của thời chiến, anh với tôi đúng là những người bạn văn chân chính. Nếu không phải là bạn chân chính chắc anh không dại gì viết bạt cho một tập thơ đã bị kiểm duyệt cấm, nhưng cứ in lậu không thiếu một chữ nào. Tất nhiên chúng ta ở miền Nam, cái tội này cũng không đến nỗi phải đi tù, song chắc chắn là bị phiền nhiễu. Và quả tình trong hoàn cảnh một đất nước như đất nước chúng ta, có nhà văn, nhà thơ nào chia chung nỗi đau của dân chúng mà không bị làm phiền bởi chính quyền của cả hai miền. 

May mà chúng ta cư ngụ ở miền Nam, ông Cò Phương Pleiku mỗi lần nghe đọc thơ chống chế độ ở quán Tay Trái ra về là lắc đầu quầy quậy. Ông Trưởng Ty An Ninh Quân Đội, người bạn cùng khóa với tôi coi bộ khó tính hơn ông Cò Phương, thế mà chỉ làm phiền tôi qua một cú điện thoại rồi thôi. Anh và Cao Thoại Châu quá lắm là mất chỗ dậy tư ở trường Bồ Đề và trường Minh Đức. Thế nhưng bọn chúng ta chẳng có ai bị vào tù như những người chủ trương Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc. Mà giả dụ có vào tù, thì bọn cuồng chữ như chúng ta cũng không đến nỗi bị dầy vò nhân cách, bị hạ xuống đất đen, bị chà đạp hành hạ như con thú. Nhiều năm rồi tôi không còn nhớ tới Pleiku, tới chiến tranh, bởi vì cái đến sau chiến tranh nghĩ cho cùng còn tai họa hơn chiến tranh. Tin anh mất đã làm cho tôi tiếc nhớ những người bạn của thời chiến, làm như tôi đang thèm khát chiến tranh. Bởi vì so đời sống trong hòa bình hiện tại, thì chiến tranh ít nhất cũng còn làm cho một nửa phần đất nước không đến nỗi tồi tệ. 

Anh Kim Tuấn thân, 

Giờ thì anh đã ngủ và không còn mơ nữa. Giờ thì hẳn là anh đã tìm được những gì anh đã thấy trong giấc ngủ trước kia, và vì vậy anh sẽ không bao giờ phải dậy nữa. Tôi hát nhẩm vài câu thơ của anh đã được phổ nhạc. Tiếng hát của ca sĩ Mộng Thủy từ phòng bên cạnh vẫn còn văng vẳng trong đầu tôi mấy ngày nay. 

... Và khi thức dậy 

Tôi tìm thấy tôi 

Và khi thức dậy 

Tôi tìm thấy tôi... 

Hoàng Khởi Phong

Tháng 9, 2003-2010 























Nụ hoa vàng ngày xuân – Kim Tuấn

TẢN MẠN NHẠC VÀ THƠ…
Hoàng Kim Oanh



Anh cho em mùa xuân
nụ hoa vàng mới nở,
chiều đông nào nhung nhớ…
(Kim Tuấn)




Nhà thơ Kim Tuấn


Có lần, tôi giới thiệu bài thơ Trong nỗi nhớ thầm của Kim Tuấn được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc thành ca khúc nghẹn ngào xúc động tâm tình người phương xa Ta ở trời Tây nhớ trời Đông trên trang facebook cá nhân của mình:

Ta ở trời Tây nhớ trời Đông
Nhớ nhau trăm nỗi xót xa lòng
Nhớ ta bỗng có men đời đắng
Có chút buồn trong nỗi nhớ mong…

Chỉ sau vài phút, tôi đã nhận được comment của một giảng viên văn học ở Hà Nội (HN) hỏi ngay: Kim Tuấn là ai? Em có thể cho tôi biết về sáng tác của ông không? Rồi một nhà văn…, một nhà thơ HN khác… cũng đặt câu hỏi tương tự về cái tên Kim Tuấn. Những vị này thuộc thế hệ 5X, sinh ra và sống ở Hà Nội, cũng từng ngao du đất nước và văn chương Đông Tây không ít lần…nhưng do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước mình, tôi có cảm giác văn học miền Nam dường như vẫn chưa qua khỏi đèo Hải Vân…Gần đây, một sinh viên ngành Ngữ văn tại Sài Gòn cũng ngạc nhiên khi tôi nhắc về Kim Tuấn…” Cái tên…nghe lạ quá, là nhà văn hay nhà thơ hả cô?” Nhưng khi tôi bảo đó là tác giả bài thơ phổ nhạc Anh cho em mùa Xuân thì hầu như mọi người đều bật lên tiếng “À” đầy thú vị như vừa gặp lại người quen... “Ôi, bài này mình biết lâu rồi…”, “Bài hát yêu thích của em đấy”…

Đúng vậy, cứ độ Xuân về, khắp phố phường, thôn xóm…điệu Tango vui tươi rộn ràng, ca từ dịu dàng ấm áp lòng người của Anh cho em mùa xuân, qua nhạc sĩ Nguyễn Hiền đã hóa thân những “Nụ hoa vàng ngày xuân” của Kim Tuấn thành ca khúc không thể thiếu trong bất kì cuộc vui đón xuân nào…

Anh cho em mùa xuân,
nụ hoa vàng mới nở,
chiều đông nào nhung nhớ
Đường lao xao lá đầy,
chân bước mòn vỉa phố,
mắt buồn vịn ngọn cây
Anh cho em mùa xuân,
mùa xuân này tất cả,
lộc non vừa trẩy lá
Lời thơ thương cõi đời,
bầy chim lùa vạt nắng
trong khói chiều chơi vơi






Thế nhưng, người khai sinh ra những ca từ rộn ràng yêu thương ấy, nhà thơ Kim Tuấn là ai lại ít người biết đến. Một phần do sự thiếu sót của người đưa các bản nhạc thường chỉ chú trọng tên bài hát, nhạc sĩ và ca sĩ. Không riêng gì trường hợp Kim Tuấn. Dù chuyện quy ước về nguồn gốc một tác phẩm văn, thơ, hay nhạc đều đòi hỏi phải cụ thể, chính xác và tường minh. Chỉ ai cẩn trọng lắm mới chú ý đầy đủ những chi tiết ấy.Những năm tháng trước 1975, tôi đã từng nghe Những bước chân âm thầm, Anh cho em mùa xuân đến thuộc lòng. Rồi Khi tôi về với hình ảnh “dây thép gai hết rào quanh đồn phòng ngự và người lính đã trở về cày đám ruộng xanh”, với tuổi thơ thật đẹp “con diều bay đùa trong gió…có đứa trẻ để bụng lòi chấm rốn đen cười nụ thanh bình”…Tôi đã mơ theo những khuôn nhạc và giấc mơ thanh bình tuyệt vời của Phạm Duy mà không biết đó là khát khao hòa bình cháy bỏng trong bài thơ Những điều ghi được trong giấc ngủ của Kim Tuấn viết từ 1974…

Kim Tuấn tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê, sinh năm 1938 tại Huế (có nhiều tài liệu ghi là 1940) nhưng thật quê gốc lại ở Hà Tĩnh. Ông là hậu duệ 5 đời của hoàng tử thứ 10 Tùng Thiện Vương Miên Thẩm - một một ông hoàng có nhiều uy tín bởi đạo đức cao, tri thức rộng đồng thời là một thi sĩ nổi tiếng, từng được vua Tự Đức khen tặng “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường". Kim Tuấn là con trai duy nhất của gia đình. Thuở nhỏ ông sống ở Phan Thiết, lớn lên vào Sài Gòn học. Làm thơ từ năm 13 tuổi và có thơ đăng trên các tạp chí đầu những năm 1960. Tập thơ đầu tiên xuất bản là tập Ngàn Thương (chung với Định Giang). Ông từng có một thời gian nhập ngũ và làm thông dịch viên tiếng Anh cho Quân Đoàn II tại Pleiku. Thời gian này ông còn là phóng viên chiến trường với ký danh Vĩnh Khuê. Năm 1977, ông về Thành phố Hồ Chí Minh làm hiệu trưởng Trường Anh văn và dạy nghề Thăng Long ở quận 4 - một ngôi trường do người Anh tài trợ dành cho trẻ em lang thang và dạy học ở đó cho đến cuối đời. Ngày 11.9.2003, sau khi tham dự một buổi văn nghệ phát quà Trung thu cho trẻ em nghèo tại trường, ông về nhà ăn bánh, uống trà, ngắm trăng với vợ con rồi đột ngột bị nhồi máu cơ tim và mất trên đường đưa đến bệnh viện.

Trước 1975, ông có các tập thơ Hoa mười phương (1959), Ngàn thương (chung với Định Giang, 1969), Dấu bụi hồng (1971), Thơ Kim Tuấn 1962-1972 (1975). Sau 1975, mười lăm năm sau, Kim Tuấn trở lại với Thời của trái tim hồng (1990), Tuổi phượng hồng (1991), Tạ tình phương Nam (1994), Thơ Lí và thơ ngắn (2002).

Với ngôn từ, hình ảnh giàu chất thơ và nhạc điệu, nhiều bài thơ của Kim Tuấn đã trở thành ca khúc của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng Nguyễn Hiền, Y Vân, Phạm Duy, Phạm Đình Chương…

Theo Nguyễn Mạnh Trinh, trong “Kim Tuấn, thơ mùa xuân, thơ phố núi” có giải thích về bài thơ Nụ hoa vàng ngày xuân, qua lời thổ lộ của Kim Tuấn: "Tôi làm bài thơ này để nhớ về quê mẹ Hà Tĩnh - vùng đất sỏi đá nhiều hơn cơm gạo với mơ ước "Đất mẹ gầy có lúa" - có lúa chứ không phải cỏ lúa như nhiều người vẫn hát nhầm (cỏ lúa thì phải nhổ đi chứ ai lại mơ ước có thêm!). Bài thơ này tôi sáng tác vào đầu thập niên 1960, sau đó in trong tập Ngàn thương (chung với Định Giang) và được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ thành ca khúc...". Mùa xuân, bao đời nay vốn là đề tài lớn của văn thi sĩ. “Thời điểm ấy, người và trời đất giao hòa. Năm cũ đi, năm mới đến, hứa hẹn bao nhiêu là thay đổi. Xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn, cái vòng sinh hóa ấy với tiến trình nhất định đã làm thành sự chuyển động của thiên nhiên. Mùa xuân hoa lá tốt tươi, thời tiết ấm áp. Tình yêu vì thế cũng làm tâm hồn mở rộng ra những khuôn trời lãng mạn, những mơ ước của hình thành mộng mơ…”

Ngày 28-9-2013 vừa qua, gia đình và bạn bè đã trọng thể tổ chức một chương trình thơ nhạc kỉ niệm mười năm nhà thơ tài hoa này đi xa. Rất cảm ơn anh Đoàn Đình Thạch người đồng nghiệp cùng bộ môn Văn, Trường Đại học Sài Gòn, người bạn đồng môn khác khóa Đại học Sư phạm TpHCM 33 năm xưa, đã dành cho tôi niềm vui và vinh dự này khi gửi cho tôi thư mời đến dự. Buổi họp mặt văn nghệ ấm cúng vốn chỉ dành cho gia đình và bằng hữu thâm giao của Kim Tuấn... Có lẽ, người mời muốn ngầm trả lời một thắc mắc từ lâu của tôi: Vì sao, nhiều năm nay, kể từ năm 2000 khi gặp lại anh ở cùng tổ bộ môn, cùng khoa, cùng trường, trong bất kì buổi sinh hoạt lớn nhỏ nào, mùa xuân hay mùa hè... hễ mời thầy Thạch, nhạc sĩ Đoàn Đình Thạch lên sân khấu góp vui văn nghệ, anh đều hát duy nhất một bài: Anh cho em mùa xuân của nhạc sĩ Nguyễn Hiền, phổ từ thơ Kim Tuấn. Một nhạc sĩ từng phổ rất nhiều thơ của nhiều người như nhạc sĩ Đoàn Đình Thạch (Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn Thái Dương..., từng in tuyển tập ca khúc của mình...lẽ nào chỉ thuộc có mỗi một bài hát ấy?!

Giờ thì mới biết...anh hát những lời thơ, những tâm tình thủ thỉ của người bạn chí thân đã mất của anh, nhà thơ Kim Tuấn, hát như nỗi nhớ không nguôi của anh về người bạn ấy…

Và thật xúc động, nhạc sĩ Đoàn Đình Thạch còn cố ý nhân buổi tưởng niệm này trao lại cho gia đình nhà thơ Kim Tuấn một kỉ vật quý báu: thủ bút một bài thơ của KT đã được anh lưu giữ suốt 30 năm dài: Bài thơ viết trong một chiều mưa. Trang giấy học trò đã vàng ố, tôi nâng trên tay...một góc cuối bị mất theo nếp gấp...Có cảm tưởng anh đã không biết bao nhiêu lần giở ra, gấp lại, gấp lại rồi mở ra đến hằn cả nếp và rách theo nếp ấy...để cảm nhận cho hết ý tình...bài thơ Kim Tuấn viết cho người yêu, người vợ thân yêu sau này của anh...để thấm cho hết tình của bạn, để nắn nót thành ca khúc MƯA ĐẦU MÙA...


Mưa đầu mùa mưa có mưa qua đêm
Mưa lác đác thì thầm trên mái ngói
Em có nghe mưa tưởng lời anh nói
Rất nồng nàn tha thiết tình yêu em
Như tiếng hát em xưa tiếng hát êm đềm
Như mưa đêm nay mưa âm thầm gợi nhớ
Như anh yêu em anh buồn vô cớ
Như em rất gần
Như em rất gần
Mà em rất xa...

Một tình yêu nồng nàn khắc khoải nhớ thương thật đẹp. Giây phút người nhạc sĩ kiêm ca sĩ kết thúc bài hát trong cảm xúc tràn đầy, chị Kim Tuấn đã rưng rưng tặng người bạn của chồng bó hoa cảm tạ tấm tình bè bạn của anh trong gương mặt nhòa nước mắt. Gian phòng như vẫn còn ngập tràn âm hưởng giọng hát khỏe khoắn nồng nàn đúng phong cách Đoàn Đình Thạch tôi từng biết lâu nay của anh. Nhà báo Nguyễn Sông Ba vừa chụp hình đủ góc độ, vừa thủ thỉ: “Ảnh hát hay quá! Giọng hát mang cả âm vọng mênh mông mà nồng ấm của cái đầm Thị Nại quê ảnh..." 
Bài thơ Bài hát một chiều mưa này cũng đúng là bài thơ anh làm riêng tặng chị…Vậy mà, người nghe, cứ ngỡ như đâu đó những cung bậc của chính cuộc tình của mình, là tiếng lòng thì thầm của riêng mình...




Lắng nghe Đoàn Đình Thạch hát, nhiều người hát, ngâm thơ, thổi sáo...những thi phẩm của Kim Tuấn, lắng nghe những bạn bè của nhà thơ kể lại những kí ức về một Kim Tuấn tài hoa nghệ sĩ, đầy ân tình...chợt hiểu trên cuộc đời này, chết đi không phải là hết...Điều đáng nói là những ngày có mặt trên cõi vô thường này, ta đã sống với mình, với mọi người như thế nào... để vẫn sống mãi trong hoài niệm yêu thương không dứt như Kim Tuấn đã sống, đã yêu, đã nhả tơ lòng thành những di sản quý báu cho văn học nghệ thuật miền Nam...


Sài Gòn, tháng giêng 2014
Gửi tặng chị Kim Tuấn và hai cháu Bảo Khôi, Bảo Khánh

Hoàng Kim Oanh









Trở về






MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.