Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015

Phạm Đình Chương (1929 - 1991)






Phạm Đình Chương
Nghệ danh khác: Hoài Bắc
(14/11/1929 Hà Nội - 22/08/1991 California)

Hưởng thọ 62 tuổi

Nhạc sĩ, C
a sĩ 









Tiểu sử



Phạm Đình Chương xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc. Thân phụ ông là ông Phạm Đình Phụng.
Người vợ đầu của ông Phụng sinh được hai con trai là Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long sau này.
Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng sinh được ba người con: Phạm Thị Quang Thái tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Người con thứ hai là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cô con gái út là Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.
Phạm Đình Chương tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ năm 1946, khi ông 17 tuổi với bài Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng. Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, ông cùng các anh chị em gia nhập ban văn nghệ quân đội ở Liên Khu IV.

Năm 1951, đại gia đình chuyển vào miền Nam, với nghệ danh Hoài Bắc cùng với Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng, ông đã lập ra ban Hợp ca Thăng Long nổi tiếng.
Ông đã để lại cho đời hơn năm mươi ca khúc giá trị trong đó có nhiều bài phổ thơ sống mãi trong lòng người yêu nhạc: Đôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng Dưới Hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa Hồn Thương Đau, Đêm màu Hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ Trăng Sài Gòn (Thơ Du Tử Lê), Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn), Người Đi Qua Đời Tôi (thơ Trần Dạ Từ), Buồn Đêm Mưa (thơ Huy Cận) v.v ...
Và mỗi khi Tết đến vẫn vang vọng ca từ bài Ly Rượu Mừng:

"Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công dân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó"

Ông còn để lại một bản Trường ca bất hủ không thể quên: Hội Trùng Dương, viết về ba con sông Việt Nam: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
Sau 1975, Phạm Đình Chương cùng đại gia đình qua định cư tại California và mất vào ngày 22/08/1991

Hưởng thọ 62 tuổi.























Ban hợp ca Thăng Long
Hoài Trung, Thái Thanh, Phạm Đình Chương










Tác phẩm







Anh Đi Chiến Dịch 
1962







Bài Ca Tuổi Trẻ
1950







Bài Ngợi Ca Tình Yêu
Thơ Thanh Tâm Tuyền








Bên Trời Phiêu Lãng
1980








Buồn Đêm Mưa
Thơ Huy Cận



Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh, nỗi hàn bao la
Tai nương hướng giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dậm mòn lẻ loi
Rơi rơi ... Dịu dịu ... rơi rơi
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ ...
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tương tư hướng lạc phương mờ
Trở nghiêng gối mộng hửng hờ nằm nghe
Gió về lồng lộng không che
Hơi May hiu hắt bốn bề tâm tư
Rơi rơi ... Dịu dịu ... Rơi rơi
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ ...

Đêm mưa làm nhớ không gian ...
Đêm mưa làm nhớ không gian ... 











Chia Tay Ngày Hè 

1954







Cho Một Thành Phố Mất Tên
Thơ Hoàng Ngọc Ẩn 1980









Dạ Tâm Khúc
Thơ Thanh Tâm Tuyền


Đi đi chúng ta đến công viên,
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em, môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Như móng sắc thương đau.

Đi đi anh đưa em vào quán rượu

Có một chút Paris
Để anh được làm thi sĩ
Để anh được làm thi sĩ
Đi đi anh đưa em vào quán rượu
Hay nửa đêm Hà Nội
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới ...

Đi đi chúng ta đến công viên

Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em, môi em như mật đắng

Như móng sắc thương đau
Như móng sắc thương đau











Đất Lành 

1956










Đêm Cuối Cùng



Đêm nay đêm cuối cùng gần nhau.
Lệ buồn rưng rưng, lời hát thương đau.
Nhịp bước bâng khuâng ngoài phố lạnh.
Giọt sầu rơi rớt hồn phiêu linh.
Nắm tay không rời.
Cố hé run run môi cười.
Lúc chia tay bên trời tiếc thương.
Em ơi đêm cuối cùng gần nhau.
Hẹn rằng một ngày mai nối mộng ban đầu.
Em ơi đừng khóc sầu chia ly.
Vì lệ tuôn rơi làm héo xuân thì.
Dù đêm sâu như hồn chúng mình
Dù quan san cách trở mong manh.
Hãy tin một niềm
Nỗi nhớ nhung xưa ven tuyền.
Sẽ cho ngày về thắm duyên.
Em ơi đêm cuối cùng gần nhau.
Sợ rằng một ngày mai giấc mộng không thành.










Đêm Màu Hồng
Thơ Thanh Tâm Tuyền



Em gối đầu sương xuống chuyện trò bằng bóng mình
Em gối đầu sương xuống tôi đẹp bóng hình tôi
Như cuộc đời, như cuộc đời, như mọi người, như chút thôi, như chút thôi
Em là lá biếc, là mây cao, là tiếng hát
Sớm mai khua thức nhiều nhớ thương, nhiều nhớ thương
Em là cánh hoa, là sương khói (khói sóng)...
Đêm màu hồng...

Vòng tay, vòng tay dĩ vãng.
Vòng tay, vòng tay bát ngát
Chốn yên nghỉ cuối cùng
Dưới mắt sao, dưới bàn chân những đứa con
Em là lá biếc, là mây cao, là tiếng hát
Sớm mai khua thức nhiều nhớ thương, nhiều nhớ thương
Em là cánh hoa, là sương khói (khói sóng)...
Đêm màu hồng... 











Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn
Thơ Du Tử Lê 1981


Đêm về trên bánh xe lăn
Tôi trăng viễn xứ, hồn thanh niên vàng
Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố, sương quàng cổ cây
Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi, mỗi ngày mỗi xa
Đời tan, tan nát chiêm bao
Tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào (2)
Đêm về trên chiếc xe qua
Nhớ tôi xa lộ, nhớ nhà Hành Xanh
Nhớ em, kim chỉ khứu tình
Trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
Nhớ mưa, ôi nhớ mưa !
Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
Nắng Trương Minh Giảng, lá hè Tự Do
Nhớ nghĩa trang xưa, quê hương bạn bè
Nhớ pho tượng lính, buồn se bụi đường 











Đến Trường

Tung trời xanh én nô đùa reo mừng
Ta đi mau gió là đà vướng chân
Trong nắng tươi hát cười lòng ta bay theo mây hồng
Ngắm ngắm xem xem đời mừng xuân
Dưới áng cây kìa trường làng ta
Ðang chào đón thiết tha
Trên trường vui ngói âm thầm rêu mờ
Nơi tôn nghiêm chốn trau dồi trí thơ
Ta ước mong có ngày làm rạng danh cho quê nhà
Nước nước non non tràn lòng ta
Dưới áng cây chập chờn cành đua
Nghe dường có hồi trống đưa 











Một người tình đột nhiên cách xa.
Một người chờ, năm tháng dài, đằng đẳng xót xa.
Nghe đêm mưa, gió lạnh dật dờ.
Nghe yêu đương, bóng đêm mong hờ.
Trời lửa khói bước anh đi,
Chờ tình chết trong chia ly, ái ân xưa còn chi

Ðành ngậm ngùi, thao thức từng đêm trắng khó nguôi
Khi bên nhau, ước mộng tuyệt vời
Khi xa nhau, nói thương trọn đời
Chỉ còn đó nỗi đơn côi, âm thầm nhớ nhung không thôi
Trong suốt một kiếp người

Yêu là sao? Hận tình là sao?
Khi cơn chinh chiến chia lìa nhau
Có em lẻ loi giữa cơn giông đời, tủi hờn đớn đau
Có ngờ đâu một cách biệt nhau
“Tình trong giây phút, bỗng thành thiên thu“

Ðịnh mệnh buồn, tình trong phút giây
Ðịnh mệnh buồn, ôm mối sầu, ai oán khó khuây

Ôi ! cô đơn héo mòn hình hài
Ôi ! đau thương ngất ngư miệt mài
Kỷ niệm cũ, có phôi phai.
Khi rượu uống không hề say

Mà chỉ là đắng cay











Đôi Mắt Người Sơn Tây
Thơ Quang Dũng


Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh
Khi chớm thu về,
khi chớm thu về một sớm mai

Đôi mắt Người Sơn Tây
U uẩn chiều luân lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây,
Buồn viễn xứ khôn khuây
Em hãy cùng ta mơ
Mơ một ngày đất mẹ
Ngày bóng dáng quê hương
Đường hoa khô ráo lệ

Tôi từ chinh chiến đã ra đi
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Sông Đáy chạm nguồn quanh phủ Quốc
Non nước u hoài,
Non nước hao gầy, ngày chia tay

Em vì chinh chiến thiếu quê hương
Sài Sơn , Bương Cấn mãi u buồn
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ,
Em có bao giờ,
Em thương nhớ thương

Đôi mắt Người Sơn Tây
U uẩn chiều luân lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây,
Buồn viễn xứ khôn khuây
Em hãy cùng ta mơ
Mơ một ngày đất mẹ
Ngày bóng dáng quê hương
Đường hoa khô ráo lệ

Đôi mắt Người Sơn Tây
Đôi mắt Người Sơn Tây
Buồn viễn xứ khôn khuây.











Đón Xuân
1953


Xuân đã đến rồi,
Reo rắc ngàn hồn hoa xuống đời
Vui trong bình minh,
Muôn loài chim hát vang mọi nơi
Đem trong tiếng cười,
Cho kiếp người tình thương đắm đuối
Ánh Xuân đem vui với đời

Kìa trong vạt nắng
Mạch Xuân tràn dâng
Khóm hoa nhẹ rung,
Môi cười thẹn thùng
Cùng bao nguồn sáng

Bướm say duyên lành
Thắm tô trời Xuân
Bầy chim tung cánh
Hát vui đón mừng mùa nắng tươi lan.

Ta nghe gió về lòng thiết tha,
Như muôn tiếng đàn
Xuân dâng niềm vui,
Cho ngày xanh không hoen lời than
Sầu thương xóa mờ
Tình yêu đời càng thêm chan chứa
Khát khao Xuân tươi thái hòa.

Cùng đón chúa Xuân,
Đang giáng xuống trần
Thế gian lắng nghe tình Xuân nồng
Kiếp hoa hết phai đời hương phấn

Nào ai hững hờ
Xuân vẫn ngóng chờ
Tới đây nắm tay cùng ca múa
Hát lên đón Xuân của tuổi thơ.











Đợi Chờ

đồng sáng tác với Nhật Bằng 1952











Được Mùa
1953



Ngâm (theo điệu cò lả)
Con cò cò bay lả lả bay la
Bay qua qua ruộng lúa,
Bay về về đồng xanh. 



Hát:
Tình tính tang, tang tính tình,
Dân làng rằng, dân làng ơi,
Rằng cắt lúa, lúa đem phơi.
Rằng cắt lúa, lúa đem phơi. 



Lời 1:
Cánh đồng mênh-mông,
Cánh đồng bát-ngát,
Ôi cánh đồng dào-dạt lúa thơm nồng.
Tới mùa lúa chín,
Xóm làng ca hát:
"Đây lúa về cùng đời sống nhà nông." 



Vui vui lên, lúa ơi!
Vui vui lên, lúa ơi!
Nuôi-nấng người sung-sướng đời ấm-no.
Vui vui lên, lúa ơi!
Vui vui lên, lúa ơi!
Ta hát mừng bông lúa ngời xinh tươi. 



Lời 2:
Ánh vàng dâng lên,
Sáng ngời thôn-trang,
Ôi xóm làng tràn ngập suối trăng vàng.
Tiếng chày reo vang,
Tiếng cười (nàng) thôn-nữ,
Chan-chứa hoà thành bài-hát đầy thơ.

Vui vui lên, lúa ơi!
Vui vui lên, lúa ơi!
Nuôi-nấng người sung-sướng đời ấm-no.
Vui vui lên, lúa ơi!
Vui vui lên, lúa ơi!
Ta hát mừng bông lúa ngời xinh tươi.

Lời 3:
Hái về đem phơi,
Giã, sàng thâu đêm,
Mai sớm rồi được nồi mới cơm mềm.
Những chiều trên đê,
Ngắm bầy em bé,
Bao nỗi-niềm rộn lòng bác nhà-quê.

Vui vui lên, lúa ơi!
Vui vui lên, lúa ơi!
Nuôi-nấng người sung-sướng đời ấm-no.
Vui vui lên, lúa ơi!
Vui vui lên, lúa ơi!
Ta hát mừng bông lúa ngời xinh tươi.













Hạt Bụi Nào Bay Qua
Thơ Thái Tú Hạp 1981










Heo May Tình Cũ
Thơ Cao Tiêu











Hò Leo Núi
1952










Hội Trùng Dương
1954

Tiếng Sông Hồng


Trùng dương, trùng dương, trùng dương...
Trùng dương.....chốn đây ngàn phương,
Có ba dòng sông cuốn xuôi biển Đông
Nhớ câu chờ mong.
Về khơi sóng muôn triền tới,
Nước non buồn vui đây hội trùng dương đầy vơi.
Sóng muôn triền tới,
Sóng xô về khơi, như muôn tình mới,
Vươn sức người dựng giữa đời.

Chiều nay nước xuôi dòng đại dương

Có em tên sông Hồng dâng sóng tuôn trên nguồn.
Vẩn vơ nắng quái vươn trên phù sa
Có những cô thôn mờ xa đón bầy dân đánh cá.
Ngày qua trai gái sống vui một miền,
Quanh năm anh cuốc em liềm
Vun xới ruộng mùa lúa chiêm.
Từ thượng du nước trôi về trung châu,
Ấp êm đồng ruộng sâu bên người áo nâu dãi dầu.

Hò ơi..... Gối đầu trên Lào Cay Việt Trì,
Em nằm tóc xõa bãi cát dài
Thả hồn mơ tới Thái Tình qua Sơn Tây.
Hò ơi..... Nhớ ngày nao dân chúng lên đường
Đem thịt xương ngăn giữ nương đồng
Đem vinh quang thắm tô sông Hồng.

Nằm mơ, xuân vinh quang, trở về,

Cho non sông, và ngày nao nơi nơi
Xiết chặt nguồn thương là ngày
Em mơ duyên người lập công



Tiếng Sông Hương

Miền Trung vọng tiếng,

Em xinh em bé tên là Hương giang,
Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than.
Hò ơi, phiên Đông Ba buồn qua cửa chợ,
Bến Vân Lâu thuyền vó đơm sâu.

Hỡi hò, hỡi hò.
Quê hương em nghèo lắm ai ơi,
Mùa đông thiếu áo hè thì thiếu ăn.
Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm à ơi,
Khiến đau thương thấm tràn,
Lấp Thuận An để lấn biển khơi, ơi hò ơi hò.

Hò ơi...... Ai là qua là thôn vắng,


Nghe sầu như mùa mưa nắng
Cùng em xót dân lều tranh chiếu manh.
Hò ơi...... Bao giờ máu xương hết tuôn tràn,
Quê miền Trung thôi kiếp điêu tàn
Cho em vang khúc ca nồng nàn.

Ngày vui, tan đao binh, mẹ bồng,
Con sơ sinh, chiều đầu xóm xôn xao
Đón người trường chinh.
Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên




Tiếng Sông Cửu Long


Ồ ồ ồ Đây Miền Nam

Nước sông sông cao cá lội ngù ngờ
Nước xanh xanh lơ có thêm cây rừng
Về về đây miền Đồng Nai có Cửu Long
Cuộn chảy dâng miền Nam mạch sống
Một sáng em ra khơi Vĩnh Long tươi cười
Và Cần Thơ, Long Xuyên lừng vườn cau lửa chín
Đời vươn lên thuyền ghé bến
Sống no nê dân quê một miền
Kìa Hắc Dương, Sơn Đây nắng khô đồng lầy
Chiều chiều tới. Hò lơ hò lơ, hò là hò lơ

Chẻ tre bện sáo cho dầy,
Ơ chứ anh lên sông Mỹ có ngày gặp em
Ô hò ơi ra... biển khơi
Trùng Dương... Ba chị em là ba miền
Đem nhưng tình thương nối liền
Gặp nhau bên trời biển 
Đông thắm duyên

Hẹn nhau.
Tha hồ sống lại bốn phương trời,

Đem tự do tranh đấu bao người,
Cho quê hương ấm no muôn đời
Giờ đây bao tâm tư, rộn ràng như câu thơ
Hội Trùng Dương tay tay xiết chặt nguồn thương
Dựng đời vinh quang hoa đời tự do 








Khi Cuộc Tình Đã Chết
Thơ Du Tử Lê 












Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển
Thơ Du Tử Lê 1980




















Kiếp Cuội Già

Đêm nay trăng chiếu qua làng,
Có người ra ngắm trăng màng màng mơ.
Trăng quê như lúa lên tơ,
Ta ngồi nhặt ánh trăng thơ ngát tình.
Ai hay trăng sáng chong lành,
Ấp ủ một mối duyên tình ngàn thu.
Ai ơi say với trăng thâu,
Lại đây mà lắng nghe câu chuyện này:

Ngày xưa, ngày xửa, chứ ngày xưa,
Có chàng mục tử dối quê (mà) dối làng.
Dối cha dối mẹ họ hàng,
Trời đày anh sống Cung Hằng xa xa.
Anh mang tên Chú Cuội Già,
Trăm năm ở với Hằng Nga yêu kiều.
Tính tình tang.
Đàn tình reo (ớ ơ) vang ơ hờ…

Một hôm chàng bỗng thấy yêu,
Và liều ăn cắp rất nhiều để cho.
Rượu tiên, châu báu, hoa thơm,
Đàn vàng, thơ ngọc để dâng Hằng Nga.
Ngọc Hoàng giận phạt Cuội ta,
Đày xuống dương thế khiến xa lìa người thương.
Để anh xa cách người thương,
Khóc than mối tình trên đường trần gian.

Cho nên khi xuống dương trần,
Sống đời mưa gió, âm thầm lẻ loi.
Anh đi gieo rắc muôn nơi,
Cung đàn ai oán cho vơi nỗi buồn.
Đêm nao trăng sáng trăng tròn,
Có mình anh đứng ôm đàn để mơ.
Anh nay nói dối hơn xưa,
Vì mong lại kiếp Cuội Già gần em



1949











Lá Thư Mùa Xuân
1958












Lá Thư Người Chiến Sĩ
1956










Ly Rượu Mừng


Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công dân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó 

á a a a 

Nhấp chén đầy vơi
Chúc người người vui 

á a a a 

Muôn lòng xao xuyến duyên đời
Rót thêm tràn đầy chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đàng
Chiến đấu công thành
Sống cuộc đời lành
Mừng người vì nước quên thân mình
Kìa nơi xa xa có bà mẹ già
Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa
Chúc bà một sớm quê hương
Bước con về hòa nỗi yêu thương 

á a a a

Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính 

á a a a
Chúc mẹ hiền dứt u tình
Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương
Xây tổ ấm trên cành yêu đương
Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ
Tiếng thi ca hát chấm phá tô thêm đời mới
Bạn hỡi, vang lên
Lời ước thiêng liêng
Chúc non sông hoà bình, hoà bình
Ngày máu xương thôi tuôn rơi
Ngày ấy quê hương yên vui
đợi anh về trong chén tình đầy vơi
Nhấc cao ly này
Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do
Nước non thanh bình
Muôn người hạnh phúc chan hoà
ước mơ hạnh phúc nơi nơi
Hương thanh bình đang phơi phới...


1952









Mắt Buồn
Thơ Lưu Trọng Lư


Đôi mắt em lặng buồn
nhìn thôi mà chẳng nói
tình đôi ta vời vợi
có nói cũng không cùng
có nói cũng không cùng. 



Yêu hết một mùa Đông
không một lần đã nói
nhìn nhau buồn vời vợi
có nói cũng khôn cùng
có nói cũng khôn cùng. 



Trời hết một mùa Đông
gió bên thềm thổi mãi
qua rồi mùa ân ái
qua rồi mùa ân ái. 



Em ngồi bên song cửa
Anh đứng tựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ứa
Một ngày một cách xa
Một ngày một cách xa











Màu Kỷ Niệm
Thơ Nguyên Sa




Nhớ ngày nào tan trường về chung lối
Mắt thuyền sương, nghiêng nón ngất ngây đời
Lòng trao lòng cho tình vút lên khơi,
Cho ngon màu trìu mến ướt lên môi
Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường.
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương.
Anh pha mực cho vừa màu luyến thương.

Ngày hành quân, anh đi về cánh rừng thưa,
Thấy sắc hoa tươi nên mơ màu áo năm xưa
Kỷ niệm đâu len lén trở về tâm tư,
Có mắt ai xanh thắm trong mộng mơ
Hẹn ngày mai khi tan giặc sẽ cùng nhau
Góp hết hoa thơm chung tay xây kết mộng đầu
Trời thần tiên đôi bướm nhịp nhàng lả lơi,
Nương cánh nhau đi xa hơn cả cuộc đời
Ôi màu hoa, màu thương nhớ. 












Mỗi Độ Xuân Về

1957











Mộng Dưới Hoa


Thơ / Lời Đinh Hùng 1957



Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng 
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng 
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại 
Âu yếm nhìn tôi không nói năng

Ta gặp nhau yêu chẳng hạn kỳ 
Mây ngàn gió núi đọng trên mi 
Áo bay mở khép nghìn tâm sự 
Hò hẹn lâu rồi em nói đi 

Nếu bước chân ngàn có mỏi 
Xin em dựa sát lòng anh 
Ta đi vào tận rừng xanh 
Vớt cánh rong vàng bên suối 

Ôi hoa kề vai, hương ngát mái đầu 
Đêm nào nghe bước mộng trôi mau 
Gió ơi gởi gió lời tâm niệm. 
Và nguyện muôn chiều ta có nhau 



Lời 2: 

Tôi cùng em, mơ những chốn nào 
Ước nguyện chung giấc mộng trăng sao 
Sánh vai một mái lầu phong nguyệt 
Hoa bướm vì em nghiêng cánh chao 

Hy vọng thơm như má chớm đào 
Anh chờ em tới hẹn chiêm bao 
Dưới hoa tưởng thấy ngàn sao rụng 
Hoa lệ ân tình môi khát khao 

Bước khẽ cho lòng nói nhỏ 
Bao nhiêu mộng ước phù du 
Ta say thành mộng nghìn thu 
Núi biếc sông dài ghi nhớ 

Ôi chưa gặp nhau như đã ước thề 
Mây hồng giăng tám ngã sơn khê 
Bóng hoa ngả xuống bàn tay mộng 
Và mộng em cười như giấc mê 

Nguồn gốc của bài Mộng Dưới Hoa 









Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội
Thơ Hoàng Anh Tuấn







Mười Thương 
1951







Người Đi Qua Đời Tôi
Thơ Trần Dạ Từ



Người đi qua đời tôi trong những chiều đông sầu.
Mưa mù lên mấy vai gió mù lê mấy trời
Người đi qua đời tôi, hồn lưng miền rét mướt,
Vàng xưa đầy dấu chân, đen tối vùng lãng quên.

Bàn tay mềm khói sương, tiếng hát nào hơ nóng.
Và ai qua đời tôi, chiều âm vang ngàn sóng.
Trên lối về nghĩa trang ...
Nghe những lời linh hồn, nghe những lời linh hồn,
Trong mộ phần đen tối đen.

Người đi qua đời tôi, không nhớ gì sao nguời,
mưa nào lên mấy vai, gió nào lên mấy trời.
Người đi qua đời tôi, đường xưa đầy lá úa,
Vàng xưa đầy dấu chân, đen tối vùng lãng quên.
Em đi qua đời anh không nhớ gì sao em?








Nửa Hồn Thương Đau
Thơ Thanh Tâm Tuyền


Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa
Cho tôi về đường cũ nên thơ
Cho tôi gặp người xưa ước mơ
Hay chỉ là giấc mơ thôi
Nghe tình đang chết trong tôi
Cho lòng tiếc nuối xót thương suốt đời

Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau

Ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau
Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào
Anh ở đâu? Em ở đâu?
Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu

Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt

Chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất
Và tiếng hát và nước mắt

Đôi khi em muốn tin

Đôi khi em muốn tin
Ôi những người ôi những người
Khóc lẻ loi một mình 









Quê Hương Là Người Đó
Thơ Du Tử Lê 1981








Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng
đồng sáng tác với Phạm Duy 1946








Sáng Rừng


Hù hu hu hú... (tiếng thú rừng)
Hù hu hu hú... (tiếng thú rừng) 



1. 



Rừng xanh lên bao sức sống... ú u ú u
Ngàn cây xôn xao đón hương nồng
Của vầng thái dương hồng
Bừng lên trời Đông

Cỏ cây vươn vai lên tiếng... ú u ú u
Cùng bao nhiêu chim chóc tưng bừng
Dậy sau giấc đêm dài
Triền miên triền miên

Điệp khúc

Nhà sàn ai lam khói trong sương mai
Ngọt ngào hương tre nứa trong rừng thưa
Có dăm đôi chim thơ líu lo trao duyên mơ
Trong hơi gió đưa xa về dật dờ,
Dật dờ tình chan chứa

Gió vi vu vi vu
Suối xa êm như ru như ru
Lá khô xuôi giòng ngù ngờ,
Ngù ngờ xuôi về đâu ? 



2. 



Bình minh xuyên qua khe núi... ú u ú u
Nguồn vui leo tia nắng đây rồi
Đem hơi ấm cho đời
Trẻ như đôi mươi

Và thiên nhiên như đổi mới... ú u ú u
Rừng xanh vươn câu ngát hương đời
Mênh mang khắp một trời
Lả lơi đẹp tươi.



1951












Waves of Danube
Sóng Nước Biếc

https://www.youtube.com/watch?v=Iqn1wQEs3vU


Một giòng sông sâu cuồn cuộn sóng trôi về nơi đâu
Gió đưa buồm nâu mang tâm hồn vào cõi u sầu
Một vầng trăng nhô rung mình dưới muôn đợt sóng vỗ
Lá hai hàng cây khô đang gieo mình vào cõi mơ hồ
Sóng lớp lớp, sóng lớp lớp, sóng đem nguồn vui
Đang chơi vơi, đang chơi vơi, sóng lan mọi nơi
Khi đau thương, khi yêu đương, thiết-tha vô-vàn
Sóng dâng trong lòng ta mơ màng
Sóng lớp lớp, sóng lớp lớp, sóng đem nguồn vui
Đang chơi-vơi, đang chơi-vơi, sóng lan mọi nơi
Khi đau thương, khi yêu đương, thiết tha vô vàn
Sóng dâng trong lòng ta mơ-màng
Yêu nàng thiếu nữ ven sông chèo đò
Yêu vì đôi mắt em không hoen mờ
Cho lòng du khách bâng khuâng mong chờ
Cho giòng sông xanh lại trôi lững lờ
Yêu nàng thiếu-nữ ven sông chèo đò
Yêu vì đôi mắt em không hoen mờ
Cho lòng du khách bâng khuâng mong chờ
Cho giòng sông xanh lại trôi lững-lờ
Sóng đang về
Sóng tràn trề
Sóng dâng tình chứa chan còn vang câu thề
Sóng vui mừng, hát vang lừng đón đưa đôi ta tưng bừng
Rồi tình chưa phai sao vội tới thương biệt-ly
Bến xưa gặp nhau nay ai ngờ là bến ly tan
Lệ sầu tuôn rơi pha hoà sóng mong tìm ai
Tháng năm dần trôi em trông chờ mà chẳng thấy ai về
Ngày vui đã qua, bờ sông riêng có ta
đứng nhìn sóng tuôn về phương trời xa mịt mờ
Xót xa, chiều nay ta tới đây
để thấy trên giòng sông duyên tình tàn pha
i




Lời Việt 2: Lê Thu



Một chiều trên sông
Theo dòng nước
Trôi lờ lững
Ngắm mây trời trôi
Nhớ bao cô nàng lả lướt bơi thuyền.

Ngày về đâu đây 

Ai buồn khóc trên dòng nước.
Phút giây lìa xa,
Ai ra đi chiều hè xa nhau dáng ai còn đây.

Bao nhiêu năm qua sông xanh vẫn trôi êm đềm

Nhớ ai trên dòng sông chiều về.
Bao nàng tiên nữ bên sông tắm nắng.
Hòa cùng tiếng sóng trên sông mơ màng.
Mỗi lần du khách qua đây không buồn
Dòng đời theo ngày tháng khó quên
Có lúc xa người yêu về đây nhìn sông xanh :
Mắt xanh của em tôi còn nhớ mãi
Giống như sông này đây
Sông nầy xanh mãi mãi như mối tình chúng mình

Một chiều...









Ta Ở Trời Tây Nhớ Trời Đông
Thơ Kim Tuấn 1982



Ta ở trời tây, ôi ta nhớ, nhớ trời đông
Nhớ trong sợi khói, cuốn phiêu bồng
Có muôn trùng núi, ngăn người đến
Có một nguồn xa, chia mấy sông

Ta ở trời tây, ôi nhớ trời đông
Nhớ nhau nghìn nỗi, xót xa lòng
Sao ta chợt thấy, men đời đắng
Thấy một mình trong, nỗi nhớ mong
Ta, ta ở trời tây, ta nhớ trời đông
Nhớ như con nước, trôi thành giòng
Ta, như chim mõi cánh, bay tìm về núi
Có một mình riêng, hoài trông ngóng

Ta ở trời tây, ôi ta nhớ, nhớ trời đông
Nhớ mưa nhòa phiếm, nắng tơ hồng
Nhớ đôi dòng tóc, chia đường gió
Cõi mình ta mù, như hư không. 









Thuở Ban Đầu


Sao không thấy em lại
Để cùng anh thẩn thơ
Trước sân trăng vòi vọi
Để rồi cùng ước mơ

Sao không thấy em lại
Hàng dừa nghiêng thương nhớ
Này khúc ân tình biết đưa về đâu

Ôi đẹp thay là thuở ban đầu
Chìm sâu đáy mắt một màu xanh khơi
Niềm thương không nói nên lời
Chỉ nghe xao xác một trời bâng khuâng...

Bâng khuâng lúc em cười
Kìa ngàn cây ngẩn ngơ
Sáng trăng xanh khung đời
Dặt dìu nhạc với thơ

Nhưng không thấy em lại
Hàng thùy dương chếch bóng
Và lũ hoa thầm khép hương chờ mong 










Tiếng Dân Chài



Đêm dâng với ngọn triều
Dô à dô kéo thuyền nhổ neo
Vi vu buồm lên cao
Dô à dô sóng reo dạt dào.
Trăng lên vừa nhô xa
Con thuyền trôi trong trời bao la.
Mái chèo này chèo xa tắp bến bờ.
Mau mau anh em ta...

Dô dô dô hò hò
Tay bàn tay siết chặt trôi mau
Sông sâu (là) sông sâu
Sông này nuôi sống dân chài nghèo.
Anh em cùng ra đây khoang thuyền
Đây tay chài tay lưới.

Ấy đời nhọc nhằn mà vui.
Ơ này anh em ơi!
Tôi nhớ một chiều ánh lửa hồng soi thân yêu
Đâu bóng tre xanh,
đâu mắt mẹ hiền giọt lệ rưng rưng chờ mong bóng con.
Ơ này anh em ơi!
Hương khói gia đình bát ngát trong câu mong chờ!
Đêm khuya mơ hồ chan hòa bao tiếng ta hò.

Hò ô hò, hò dô ta
Lẳng lặng mà nghe ơ ơ hò dô ta
Đêm nay thuyền ngược trường giang.
Cho mai sớm được vui khoang cá đầy.

Hò ô hò, hò dô ta
Lẳng lặng mà nghe ơ ơ hò dô ta.
Lưới vung chụp ánh trăng vàng.
Mồ hôi tôi đổ xuống hàng bờ lau.

Hò ô hò, hò dô ta
Lẳng lặng mà nghe ơ ơ hò dô ta
Ới ai đời sống dân chài,
Đêm đêm soi bóng sông dài mà ca.


Hò ô hò, hò dô ta
Lẳng lặng mà nghe ơ ơ hò dô ta
Sóng ru đợt vỗ lênh đênh
Tiếng reo cơn gió bập bềnh thuyền ta.
Hò ô hò, hò dô ta

Hò ô hò, hò dô ta
Lẳng lặng mà nghe ơ ơ hò dô ta
Hò ô hò, hò dô ta
Hò ô hò, hò dô ta



1954











Trăng Mường Luông


Nhớ Mường Luông
Một đêm sáng trăng mơ màng
Ðoàn trai sánh vai cô nàng
Cùng nhau líu lo trong làng
Vào kỳ hội Bonu
Người dân đang chơi khắp bao lối mòn
Siêm y các cô tung tròn
Ánh trăng rung mình qua suối nỉ non
Ðời thêm mê hồn
Tiếng khèn rộn ràng Mường Luông
Mờ xa từng cặp trai gái
Dưới trăng rừng cùng thề nước non










Trăng Rừng

Trăng ơi, chờ trăng lên trong góc rừng thâm xuyên
Ôi suối xanh nước bình yên có nhớ ánh trăng hiền
Lúc trăng đỏ rực như màu máu
Ánh trăng tan tác chúng sinh sầu
Trăng lên, trăng sáng soi, trăng tràn lan khắp nơi
Trăng khuya rơi xuống đồi xem quái vật đứng ham mồi
Mấy con ác thú đang điên cuồng
Xâu xé nhau giành uống máu sống

Ðiệp khúc

Trăng rừng ơi (tiếng vọng), trăng rừng ơi (tiếng vọng)
Nhìn ánh trăng kia ta ước mong sao
Tới ngày nao trăng hết hoen mầu
Và ánh xanh xanh dâng chiếu lung linh
Chúng ta vui thanh bình
Trăng rừng ơi (tiếng vọng), trăng rừng ơi (tiếng vọng)
Trăng ơi


1946









Xóm Đêm


Đường về canh thâu.
Đêm khuya ngõ sâu như không mầu,
Qua phên vênh có bao mái đầu
Hắt hiu vàng ánh điện câu.

Đường dài không bóng.
Xa nghe tiếng ai ru mơ màng.
Mưa rơi rơi xóa lối đi mòn.
Có đôi lòng vững chờ mong.

Ai chia tay ai đầu xóm vắng im lìm.
Ai rung lên tia mắt ngàn câu êm đềm.
Mong sao cho duyên nghèo
Mai nắng gieo thêm.
Đẹp kiếp sống thêm.

Màn đêm tịch liêu.
Nghe ai thoáng ru câu mến trìu.
Nghe không gian
Tiếng yêu thương nhiềụ
Hứa cho đời thôi đìu hiu.

Đêm tha hương ai vọng trông.
Đêm cô liêu chinh phụ mong.
Đêm bao canh mưa âm thầm,
Theo gió về khua cơn mộng,
Hẹn mai ánh xuân nồng.

Cho nên đêm còn dậy hương,
Để dìu bước chân ai trên đường,
Để nhìn xóm khuya không buồn
Vì người biết mang tình thương.











Xuân Tha Hương
1956


Ngày xưa xuân thắm quê tôi
Bao nhánh hoa đời đẹp tươi
Mẹ tôi sai uốn cây cành
Vun xới hoa mùa xinh xinh
Thời gian nay quá xa xăm
Tôi đã xa nhà đầm ấm
Sống bao xuân lạnh lẽo âm thầm

Hoa xưa dần qua biết bao kỳ đâm bông
Riêng ai buồn thương hắt hiu còn trông mong
Và xuân thay áo mấy mùa đợi chờ
Mắt huyên lệ rưng rưng, sầu héo đến bao giờ

Chiều nay lê bước phiêu du
Thầm nhớ xuân về làng cũ
Tình quê chan chứa trong lòng
Chua xót thay sầu tư hương
Đường đi xa lắc lê thê
Thèm khát khao ngày về quê
Để sống vui quê mẹ lúc xuân về

ĐK:
Xuân tới, muôn cánh hoa đào bay khắp nơi
Hương khói lan dưới mưa nhẹ rơi phơi phới
Chiều dâng, sầu lâng, trên đường về mịt mùng
Mây Tần ơi cho nhắn bao niềm thương. 



















Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Thái Thanh, Hoài Trung






Tham khảo thêm về nhạc sĩ Phạm Đình Chương





Nhớ Phạm Đình Chương

Phan Lạc Phúc


Chuông điện thoại réo lên trong đêm khuya. Một cú phone từ bên kia Thái Bình Dương, từ Mỹ báo tin: "Phạm Đình Chương đã mất rồi, Hoài Bắc không còn nữa". Tôi đặt phone xuống mà thấy đêm khuya thêm vắng lặng mênh mông. Ở cái tuổi mình, trên 60, cái ranh giới tử sinh thật là mờ ảo, ở đấy rồi đi đấy, còn đấy mà mất đấy. Thành ra ít lâu nay, tôi cứ phải làm một con tính trừ thê thảm. Mấy năm trước mất Thanh Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ Phạm Đình Chương - Hoài Bắc. Già thì càng cần có bạn, mà bạn già thì càng ngày càng thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10 năm, rồi sống nín thở trên 6 năm, vừa mới lặn ngòi ngoi nước sang được đến đây thì bạn đã đi vào tịch mịch. Bạn ta Phạm Đình Chương đã đi thật rồi, một người viết ca khúc tầm cỡ của Việt Nam đã mất, ngôi sao bản mệnh của Ban Hợp Ca Thăng Long đã tắt.
Tôi chơi với Phạm Đình Chương đã lâu, vào khoảng năm 1942 - 1943, hồi tụi tôi vừa mới lớn lên. "Khi mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học trò mắt sáng với môi tươi"(1). Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh Trường Bưởi, trong những buổi cắm trại ở chùa Trầm, chùa Thày, Tây Phương Hoàng Xá (2).

Ngày ấy, chúng tôi say mê hát "Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm" (3), "Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi" (4) và Chương đã là một tay đàn giọng hát khá nổi của học sinh Hà Nội. Nhưng mà Chương có hai người anh nổi tiếng: anh Phạm Đình Sĩ, một cây "kịch" và anh Phạm Đình Viêm, một cây "tenor". Chương còn có một người chị trứ danh, chị Thái Hằng, hoa hậu "bất thành văn" của suốt một miền Bạch Mai - Phố Huế. Còn người em út của Chương, Thái Thanh thì lúc ấy Thái Thanh còn nhỏ, đang còn học tiểu học, còn là một nụ hoa. Phải đợi đến thập niên '50, bông hoa Thái Thanh mới bắt đầu rực rỡ và tiếng hát Thái Thanh mới được lên ngôi.
Hà Nội ngày ấy tuy được mệnh danh là Hà Thành hoa lệ hay là Hà Nội của ba mươi sáu phố phường nhưng thực chất nó là tỉnh nhỏ - người ta biết nhau cả, trực tiếp hay gián tiếp. Và tỉnh nhỏ nó còn có tục lệ riêng của nó. Thế hệ tiền bối ở Hà Nội có tiêu chuẩn "phi cao đẳng bất thành phu phụ". Thời tụi tôi thì cái standard về một đấng trượng phu nó nôm na và thực tiễn hơn: "Đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu". Phạm Đình Chương xét ra hội đủ những điều kiện ấy: Học trò Trường Bưởi, người cao ráo sạch sẽ lại là cậu út trong một gia đình nổi tiếng. Lại còn đàn ngọt, hát hay, còn là ca trưởng của học sinh trong những dịp hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học trò nhà quê ra tỉnh học, từ thời áo dài mũ trắng thì Phạm Đình Chương tư cách quá.
Thời ấy, Nhật đã vào Đông Dương. Thế Chiến thứ hai đang hồi quyết liệt, bom Mỹ dội xuống đùng đùng. Các thành phố phải "phòng thủ thụ động", các trường học phải đi xa hoặc dời về miền quê. Đang học mà có còi báo động là nghỉ; học trò kéo nhau ra các khu cây cối um tùm, hoặc bờ đầm, bờ sông tạm lánh. Đây là dịp tốt cho một số công tử Hà Nội, trong đó có Chương, về thăm quê cho biết sự tình. Về quê thì tiện cho tôi quá, tôi có nhiều trò: lội sông, câu cá, bắn chim. Hoặc là sẵn xe đạp, tụi tôi rủ nhau đi cắm trại ở những thắng cảnh gần Hà Nội như chùa Thày, chùa Tây Phương, động Hoàng Xá. Những thắng cảnh này đều nằm trong vùng quê tôi (phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) nên tôi thuộc nằm lòng. Đến chùa Tây Phương thăm ông Phật nhịn ăn mà mặc, ông nhịn mặc mà ăn, ông Phật tai dài đến gối. Đến động Hoàng Xá tôi biết nhũ đá nào kêu thanh, nhũ đán nào kêu đục, bắn một phát súng cao su lên vòm đá là dơi bay tán loạn một vùng. Đến chùa Thày (Sài Sơn) thăm chùa Cả dưới chân, chợ Trời trên đỉnh núi rồi thăm hang Cắc Cớ nơi có dấu chân ông Từ Đạo Hạnh còn in. "Hội chùa Thày vui thay Cắc Cớ, Trai không vợ nhớ hội chùa Thày - Gái không chồng nhớ ngày mà đi". Chương ơi, Chương còn nhớ ngày hội về quê mình không? Còn nhớ con đê Hạ Hiệp không? Mới đó mà đã 50 năm rồi, đã nửa thế kỷ qua rồi. Chương có nhớ cũng không thể nào về thăm được nữa. Bạn ta đã thành người thiên cổ mất rồi.

Phạm Đình Chương rất yêu miền Quốc Oai - Sơn Tây vì không những nó là một miền thắng tích mà nơi đó còn là quê ngoại của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ Hiệp, cách làng tôi chừng hai vạt cánh đồng. Chương tự nhận mình là người Sơn Tây và trong những năm đó Chương về thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội và anh học trò nhà quê càng có dịp gần gũi nhau hơn Khi mùa Xuân đã cạn ngày, hội hè đã vãn, những cây gạo miền Bương Cấn đã tưng bừng nở đỏ thì cũng là lúc chim tu hú lảnh lót gọi hè về trong rặng vải bên sông. "Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc" (5), con sông này ngoài mùa ngâu nước lũ, còn quanh năm nước chảy lặng lờ. Học trò tụi tôi lại đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom rơi đạn lạc ở thành phố, vừa cắm trại vừa ôn thi.

Nhưng đến năm 1945, thanh niên như Chương và tôi không còn đầu óc nào mà học hành thi cử nữa. Bao nhiêu vấn đề trọng đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn, hàng triệu người chết đói. Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên ra đời. Thế chiến II kết liễu Đức - Ý - Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo sang Chiến Khu Việt Minh. Đổi đời. Cách Mạng Tháng 8 Quân đội Pháp trở về, thanh niên đua nhau đi dạy bình dân học vụ, đi khất thực, đi biểu tình. Chúng tôi say mê hát "Lên Đường", lao đầu vào một cuộc chơi mới không kém phần lãng mạn: đòi độc lập cho đất nước. Chúng tôi là Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng tôi là Trung đoàn thủ đô. Như lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đình Chương và tôi khoác ba lô lên đường kháng chiến.


Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
(Quang Dũng)


Những năm đầu kháng chiến (1948, 1949, 1950) có những thị trấn mọc lên vội vã. Khu 10 Việt Bắc có thị trấn Cây Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần, Chợ Đại; vào khu 4 Thanh Hóa có chợ Rừng Thông. Đây là nơi dân tản cư tứ xứ kéo về sinh hoạt, đổi trao, mua bán tạo thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính cậu ngày nào bây giờ sốt rét, xanh rớt như tàu lá, mắt trợn trừng, tóc rụng nhưng đêm đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và được dịp là phải về thăm các thị trấn mới này cho đỡ nhớ ...

Đầu mùa đông năm 1948, tôi khoác ba lô, đổ bộ lên Chợ Đại tìm ít thuốc nivaquine chống sốt rét. Trời mưa nhớp nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở đầu đường, hiện ra một quán nước thanh bai, lịch sự mang một cái tên khá là kiểu cách"Quán Thăng Long". Ở trên vách quán, có treo song song mấy cây đàn nguyệt và một cây thập lục. Ở dưới, bên khay trà tỏa khói có hai vị trưởng thượng đang ngồi đối ẩm. Hai vị này tôi biết: ông thân của Phạm Đình Chương và cụ N. T. Đức, một danh cầm của toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ vẫn nhàn nhã phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ ở đây Thăng Long Đông Đô, Hà Nội là vẫn cứ phải đường hoàng, cốt cách. Cốt cách như chị Thái Hằng đang ngồi trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn mang nguyên chiếc kiềng chạm bằng bạc của một thời khuê các, như Thái Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang nghiêm chỉnh ngồi đan.

Người vui nhất khi tôi được gặp là bà thân của Chương. Bà hỏi thăm "quê mình bây giờ Tây nó đánh đến đâu rồi". Bà cho biết anh Phạm Đình Sĩ có lẽ kẹt, chưa có tin tức gì. Anh Phạm Đình Viêm (Hoài Trung) còn đang đi ban kịch Giải Phóng, chuyên hát bài"con vỏi con voi" và "con mèo trèo cây cau" nhạc hài hước của Nguyễn Xuân Khoát. Còn Phạm Đình Chương thì công tác ở liên khu 3, chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa mới được giải thưởng về bài hát "gì mà có con cò bay lả bay la".

À ra thế bạn ta anh công tử Hà Nội đang đưa ca dao vào nhạc mới. Chương, Chương, có phải cánh cò ấy là cánh cò bay qua rặng vải triền sông Đáy? Còn cánh đồng nào rào rạt lúa thơm mềm (6) có phải là cánh đồng Bương Cấn khi chúng ta "Lên núi Sài Sơn ngóng lúa vàng" (7).

Tôi nhớ mãi lời bà thân của Chương khi đưa cho tôi gói thuốc đựng chừng 10 viên nivaquine: "Giữ lấy mà dùng. Dạng các cậu không được phát thuốc này đâu". Đúng như thế, dạng "tạch, tạch, sè" (tiểu tư sản) như Chương và tôi thì dù sốt rét vàng người, rụng tóc cũng chỉ được phát thuốc ký ninh pha loãng là cùng. Nivaquine thuốc mới, công hiệu, đắt tiền chỉ đủ dùng cho "tổ chức" mà thôi. Thực tế nó là như vậy nên ngoài một số anh em đã "áo bào thay chiếu ..." (8) còn đa số dân tạch tạch sè là kẻ trước người sau "dinh tê" về Hà Nội. Những va chạm với thực tế làm cho giấc mơ tuổi trẻ lụi tàn, cuộc chơi lãng mạn đầu đời đã trở thành một nỗi đam mê vô ích. Tôi về cuối năm 49 còn Chương và gia đình hồi cư năm 51.

Gia đình Chương kỳ này có thêm một nhân vật lừng danh: Phạm Duy. Năm 1949, chiến tranh lan đến vùng chợ Đại và quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn nhậm của viên tướng Mạnh Thường Quân Nguyễn Sơn. Ở đây Thái Hằng đã trở thành bà Phạm Duy, Thái Thanh vừa lớn để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đình Chương phục vụ trong phòng văn nghệ của một đại đoàn. Quán Thăng Long không còn nữa nhưng tiền thân của ban Hợp Ca Thăng Long đã được định hình. Tôi cũng không còn nhớ rõ gia đình Phạm Đình Chương về trước hay sau cái chết của viên tướng đầy huyền thoại Nguyễn Sơn. Chỉ biết là ban Thăng Long vào thành nhưng không ở lại Hà Nội mà vô thẳng miền Nam lập nghiệp.

Năm 1952 tôi cũng vào Nam, học nghề lính tại trường Thủ Đức. Những ngày cuối tuần ra Sài Gòn chơi, thấy đầu đường góc phố chỗ nào cũng có biểu ngữ, bích chương, quảng cáo ban Hợp ca Thăng Long. Báo hàng tuần, hằng ngày đều đăng hình ảnh, lịch trình diễn của Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, Phạm Duy. Ban Hợp Ca Thăng Long đang rực sáng, những thành viên của nó đang được mến yêu. Người Sài Gòn vốn bộc trực "yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét" mà đã yêu thì yêu hết mình; chương trình của Ban Thăng Long trên đài phát thanh rất được lắng nghe - trình diễn của Ban Thăng Long lại càng ăn khách. Ngưới ta mua "giấy" báo xem thật đông, vỗ tay thật nhiều nhưng còn chưa "đã". Buổi trình diễn xong rồi, người ái mộ còn ở lại để tìm cách đến thật gần, nhìn thật kỹ hay nếu có thể bắt cái tay, đụng cái chân vào nghệ sĩ, tài tử thần tượng của mình. Người miền Nam ái mộ ồn ào như thế, dễ thương như thế.

Trước sự tán thưởng nồng nhiệt ấy tôi có lúc đã tự hỏi: "Vì sao mà trong một thời gian chưa đầy hai năm, Ban Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?" Tôi vốn dốt về nhạc lý, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa ra ý kiến có tính cách kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan dân dã của mình tôi nhận thấy thực chất của Ban Hợp Ca Thăng Long nằm trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe tiếng hát chen tiếng ngựa hí (Ngựa Phi Đường Xa), vui lâng lâng khi nhìn cánh cò bay lả bay la trên đồng lúa chín vàng (Được Mùa), vui đầm ấm khi nghe tiếng hò dô vang trên sóng nước(Tiếng Dân Chài), vui thấm thía nghẹn ngào khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa mới trở về (Ly Rượu Mừng). Cái vui của nhiều cung bậc, cái vui đã được cách điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm lòng người.

Đồng bào miền Nam xưa nay thừa thãi điệu buồn nên trong cái vô thức tập thể nó thiếu một niềm vui khỏe mạnh. Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đã đáp ứng được niềm khao khát đó. Ấy là chưa kể đến một yếu tố đầy cảm tính rất phù hợp với miền Nam: tất cả thành viên ban hợp ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đình tài hoa quá. Một sự kết hợp đẹp đẽ quá. Nhất là sau đó ít lâu, ban hợp ca Thăng Long lại có thêm một thành viên mới: Khánh Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền Nam, Hoài Bắc - Khánh Ngọc một lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng Long càng thêm sung sức.

Nhưng phải đợi đến đầu năm 1954, Ban Hợp Ca Thăng Long mới lên đỉnh cao thành tựu của mình. Năm ấy ban Hợp ca cùng với "quái kiệt" Trần Văn Trạch, thành lập ban Gió Nam ra công diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là thương binh nằm nhà thương Võ Tánh. Nghe báo chí Hà Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề - Ngọn gió Nam mát lành thay. Nghe dân chúng Hà Nội xôn xao hâm mộ quá, tôi sốt ruột phải trốn nhà thương một buổi ra xem Gió Nam trình diễn.

Nhưng mà ra chậm hết vé mất rồi. Nhà Hát Lớn Hà Nội không còn chỗ. Tôi lững thững đứng ngoài nghe tiếng vỗ tay dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt. May quá gặp Ngọc Chả Cá một cây công tử Càn Long Hà Nội tôi mới được vào (bây giờ bạn ở đâu hở Ngọc?).

Người Hà Nội xưa nay khụng khiệng ít khi nào nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần này, người Hà Nội bị ban Hợp ca Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó tân nhạc ở Hà Nội chỉ là một bà con nghèo trước cải lương, tuồng kịch ... chỉ đảm nhiệm được vai trò phụ diễn trước khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi. Bây giờ Ban Hợp ca Thăng Long với một chuỗi ngôi sao nhạc mới đã chiếm lĩnh sân khấu suốt hai tiếng đồng hồ liên tục. Khán giả Hà Nội được thưởng thức một chương trình nhạc mới tân kỳ sinh động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước trưởng thành của tân nhạc và trở nên khuôn mẫu cho những đại nhạc hội sau này.

Buổi trình diễn vừa kết thúc, toàn ban Gió Nam ra chào khán giả. Đèn rực sáng. Những bó hoa trao cho những nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đình Chương giơ cao bó hoa vẫy vẫy, nụ cười rộng mở. Chương không thể nào biết rằng trong số khán giả vô danh ấy, có một người bạn cũ của Chương đang vỗ tay kịch liệt.

Thập niên 50 là thời kỳ rực rỡ nhất của ban Hợp ca Thăng Long. Thời gian này cũng là lúc Phạm Đình Chương sáng tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp ca Thăng Long như Tiếng Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng ... đều xuất hiện trong giai đoạn này.

Không biết tôi có chủ quan không khi nghĩ rằng Phạm Đình Chương trong giai đoạn này vẫn mang dáng vẻ một anh học trò mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương, con người, thiên nhiên đều là bè bạn. Ngựa phi đường xa thế nào cũng tới, leo núi mệt nhọc rồi cũng đến nơi, đồng ruộng thì đầy lúa thơm mềm, con sông thì đầy trăng và đầy cá. Thế vẫn còn chưa hết, Chương còn rót một ly rượu mừng, mừng khắp nhân gian. Hãy lắng nghe đi, có một nụ cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên như tiếng reo vui. Cũng có lúc Phạm Đình Chương nhắc đến điệu buồn; giọt lệ rưng rưng chờ mong bóng con của người mẹ già hay nỗi khổ của đồng bào miền đất cày lên sỏi đá:

Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi

Mùa đông thiếu áo (9) ...

Nhưng liều lượng của điệu buồn trong nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ này rất ít so với niềm vui ào ạt, chỉ như một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi lên sắc trắng mà thôi. Mà điệu buồn cũng được nhắc đến bằng tấm lòng nhân ái, tâm hồn Chương là vậy, mở ra, hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương không phải là người hướng nội, đi tìm thú đau thương trong những kiểm tra, tự vấn nơi mình. Đó là thực chất nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp ca Thăng Long ...

Giai đoạn sáng tác thứ hai của Phạm Đình Chương bắt đầu từ một kỷ niệm buồn: Ngày Khánh Ngọc rời xa vào khoảng cuối thập niên '50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng cũng tìm về hướng khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà Huyện Thanh Quan không người ở. Hoài Bắc, Thái Thanh và gia đình dọn về một căn nhà nhỏ đường Võ Tánh (Frères Louis cũ). Chính tại ngôi nhà này tôi thường đến bầu bạn với Phạm Đình Chương cùng với Thanh Nam, Mai Thảo. Tụi tôi đến "hầu bài" bà thân của Chương để được ăn những bữa cơm nhớ mãi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu rán ...

Lúc này, hình như Chương muốn ra khỏi vùng hào quang sáng chói của một ca sĩ thời danh để được sống bình thường nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu cách, Chương ăn vận xuề xòa, đi dép không quai lẹt xẹt, chiếc xe hơi dài thòng Studebaker đã được bán đi. Nụ cười kiểu jeune premier đã tắt và đặc biệt Chương để một hàm râu mép chàm ràm, rậm rịt. Lúc này, tụi tôi có một tên mới để gọi Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang phóng túng hình hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có nói cũng thường hừ một tiếng giọng mũi. Một nhát chém hư vô đã làm thay đổi Phạm Đình Chương.

Ban Hợp ca Thăng Long, với sự phân liệt như thế tưởng đã rã đám. Nhưng đầu những năm '60, ban Thăng Long gượng dậy với Hoài Trung - Hoài Bắc - Thái Thanh. Ban Thăng Long sống lại kỳ này, tuy vẫn được tán thưởng nhưng đó chỉ là cái bóng của chính mình. Phạm Duy đã mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân tộc đi xa, còn tiếng reo vui chan hòa và nhân ái của Phạm Đình Chương cũng không còn xuất hiện. Trong thời kỳ này ban Hợp ca Thăng Long có trình làng một tác phẩm rất được hoan nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này không phải của Chương mà của một tài danh khác: Văn Phụng.

Thời kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng tác rõ như gương, tha nhân và ngoại giới đều là bè bạn của Chương đã khép lại rồi. Tiếng cười đã tắt. Thời kỳ này là của đau thương và tiếng khóc. Nhưng khóc than rên rỉ không phải là nghề của chàng. Như đã nói, Chương không phải là người hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ giải sầu. Nỗi đau thì có sẵn và Chương muốn giữ một mình nhưng lời oán hận thì không. Cho nên những khúc bi ca sau này như Nửa Hồn Thương Đau, Người Đi Qua Đời Tôi, Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội, Chương đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn ... Chương làm công việc phổ thơ, qua lời của người để phần nào nói lên tâm sự của mình. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó, rất được yêu thích qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương nó vẫn như một sự "Chẳng đặng đừng". Về bề ngoài, hai giai đoạn sáng tác của Chương có vẻ đối nghịch nhau nhưng nhìn chung nó vẫn thống nhất trong tân hồn nhân ái của tác giả.

Nói cho ngay từ thập niên '60 trở đi, việc ca hát đối với Chương cũng là một sự "chẳng đặng đừng". Thì cũng phải có công ăn việc làm như người ta, ngay cả việc trông coi phòng trà ca nhạc "Đêm Màu Hồng" Chương cũng làm chơi chơi, cho có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng khoáng ấy nó lại hợp với khung cảnh Đêm Màu Hồng. Đây là một phòng trà gợi nhớ. Nhớ về những bài hát xa xưa, về một thuở mộng mơ đã tắt, về một khung cảnh Việt Nam đã xa, về một ban Hợp ca Thăng Long đã tàn. Phạm Đình Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng ly cùng người mộ điệu hoặc lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được yêu cầu. Cái giọng có mang hơi rượu cùng với nụ cười nhếch mép đã tạo nên không khí Đêm Màu Hồng vì phần lớn khách đến đây đều là thân hữu.

Chúng tôi, những buổi phùng trường tác hí là vào khoảng 9, 10 giờ đêm lại tà tà kéo đến Đêm Màu Hồng. Bạn bè có chỗ ngồi riêng, giá biểu riêng. Khẩu vị như thế nào thì chủ quán biết rồi. Vũ Khắc Khoan thì phải Con Thuyền Không Bến, lúc nào cao hứng lại còn phi lên sân khấu mà ngâm "Hồ Trường, Hồ trường ta biết rót về đâu". Thanh Tâm Tuyền thì phải Mộng Dưới Hoa. Thanh Nam thì Cô Láng Giềng. Hôm nào có mặt tôi, Thái Thanh lại hỏi: Biệt Ly hay Buồn Tàn Thu đây ông? Có bữa Râu Kẽm cảm khái quá liền ôm đàn guitare mà hát một mình (ít khi lắm). Hát tiếng Tây "Un jour si tu m'abandonnes" (Ngày nào, nếu em bỏ ta). Có khi vui anh vui em, Chương bỏ luôn phòng trà cùng Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo kéo lên "Quang Minh Đỉnh".

Trong những năm "Đêm Màu Hồng" tôi thường cố giữ một nền nếp. Cứ đêm 30 Tết gần Giao Thừa là tôi kiếm một bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu Hồng tặng Thái Thanh. Cô em nhỏ ngày nào đi kháng chiến bây giờ trở thành tiếng hát vượt thời gian. Có lần tôi nhận được cặp bánh chưng của bà thân Chương và Thái Thanh gửi cho. Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ quê hương phủ Quốc gửi vào.

Những lúc ấy, năm mới sắp sang, năm cũ sắp hết mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai Thảo ngồi từ từ uống rượu,uống cho say, uống cho quên uống không không mệt mỏi. Tôi chợt nhớ một câu của Mai Thảo "Chúng tôi thân với nhau trong một tình thân thiết rất buồn rầu".

Buổi cuối cùng tôi gặp Phạm Đình Chương đâu vào khoảng tháng 5 năm 1975 khi "đứt phim" được chừng hơn 1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên Gia Định có cả Mai Thảo nữa. Mai Thảo mang thêm một chai rượu vang còn sót lại. Các bạn có ý tiễn đưa tôi và Thanh Tâm Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê lương.

Rồi Chương và tôi đạp xe ra về trước. Đạp toát mồ hôi đến quãng Trần Quốc Toản thì mỗi đứa mỗi đường. Chương ngừng lại và tôi cũng ngừng theo. Chương nắm lấy tay tôi vẻ bùi ngùi mà nói: "đi nhé". Tụi tôi xưa nay ít có cái trò nắm tay, nắm chân như vậy, nhìn nhau một cái là đủ rồi. Chừng như Chương thương cảm cho số phận tôi trước việc đi cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về. Nhưng bây giờ, 16 năm sau, tôi đã đi cải tạo về rồi, Chương lại làm một chuyến đi không bao giờ trở lại. Đi nhé! Ngàn năm vĩnh biệt Phạm Đình Chương.



Phan Lạc Phúc

(Khởi Hành số 23, tháng 9, 1998)












40 NĂM ÂM NHẠC VÀ MÂY
(Tựa tập Ly Rượu Mừng 1989)

Thân thiết và sống gần, một thân gần hầu như không có một thời gian nào gián đoạn, và như thế đã ngót 40 năm, tôi nghĩ đã có được một cái thấy khá tỏ tường về con người ngoài đời và con người nghệ thuật của Hoài Bắc Phạm Đình Chương. Hai con người. Hai con người trong một. Đó là một hiện tượng nghệ thuật và là một hiện tượng có thật. Do nơi người nghệ sỹ lúc ở ngoài tiền trường và đứng trước đám đông là sống với một liên hệ đặc biệt, liên hệ này có những quy luật và khi người nghệ sỹ trở về với đòi sống riêng tư, ở xa ánh sáng tiền trường, quy luật không cần thiết nữa. Hoặc là có, cũng không đồng tính, đồng dáng mà khác biệt hẳn. Điểm khác biệt này, do sự khác biệt của môi trường tạo ra và đem tới, tôi đã nhìn thấy ở khá nhiều trường họp nghệ sỹ, qua những tỏ hiện rất trầm trọng. Như giữa hai con người trong một là biên thùy, là vực thẳm. Là chia lìa, là đối nghịch. Đưa tới bất ổn. Tạo thành xung đột cách sống và thảm kịch nội giới. Ở Hoài Bắc Phạm Đình Chưong cái hiện tượng nhị trùng bản ngã và phân tán bản thể ấy tuyệt nhiên không có. Đó là điều tôi rất yêu mến và cũng muốn nói trước hết về ông.
Những buổi trưa ngồi trước dương cầm, thả tâm hồn, rung động và tài năng xuống mặt phím, cho từ mặt phím hiện hình dần trên những dòng nhạc những ca khúc lẫy lừng được đám đông nhiều thời mãi mãi yêu thích, hoặc cùng tôi, những nửa khuya và một cách rất đãng tử, đi xâu vào cái thế giới tươi tắn, lấp lánh ấy là Sài Gòn ban đêm, Sài Gòn âm nhạc, con người của cuộc sống hàng ngày và người nghệ sỹ ngoài tiền trường ở người bạn thân tôi là một, chỉ một. Cũng vậy, lúc đứng giữa hợp ca Thăng Long, Thái Thanh một bên, một bên Hoài Trung, như khi ngất ngưởng với bằng hữu bốn biển trong một ăn nhậu cuối tuần. Chỉ một. Có như một hình ảnh này nếu được tỏ hiện nơi người nghệ sỹ ở ông thì nó chỉ là một bổ túc, một kiện toàn cho một hình ảnh khác, nơi con người thường nhật. Mà không xóa bỏ, không làm cho biến thể. Có như một cá tính tâm hồn nào nơi con người ngoài đời Hoài Bắc, cá tính ấy bao giò cũng trở thành một đặc thù nào đó của nghệ thuật, của âm nhạc Phạm Đình Chương. Do đó mà hai con người chỉ là một toàn phần. Như hai cái tên, một hiệu một thực, lúc dùng tên trước, lúc lấy tên sau là một gắn liền, năm chữ Hoài Bắc Phạm Đình Chương là một độc âm thôi.
Hợp nhập được cuộc sống riêng tư với bờ cõi nghệ thuật mình, thành một nhất quán tốt đẹp, và Hoài Bắc Phạm Đình Chương đã có được cái thế sống quân bình tuyệt vời ấy, tôi cho là bởi hai điều. Trước hết, với nghệ thuật mình như với gần xa, với chung quanh, người bạn thân tôi đều sống với, đều ở cùng bằng một tâm thái trước sau hoàn toàn chân thật. Chân thật. Không giả hình, không đeo mặt nạ. Sau, và điểm này đã tạo nên cái bầu trời bao la và thanh thoát lạ lùng ấy là giòng nhạc, cõi nhạc Hoài Bắc, là người nghệ sỹ và con người thường nhật ở ông, cùng một phóng khoáng, đã cùng có được với cuộc đời và nghệ thuật một thỏa thuận chung. Từ một thỏa thuận với chính mình. Và đó là một thỏa thuận trong sáng, tận cùng, gần như vô điều kiện. Đừng nghĩ tinh thần sống, trí tuệ sống ấy không ăn nhằm, không liên hệ gì tới nghệ thuật và hình thành của nghệ thuật. Tôi cho là rất. Là chủ yếu. Chính vì sự thoả thuận ấy mà giòng nhạc Phạm Đình Chương đã có được 45 năm không ngừng chảy xiết và nó đã đưa tài năng ông không chỉ đi tới nơi mà còn đi tới rất xa. Từ 45 năm tới giờ, cõi nhạc của Hoài Bắc Phạm Đình Chương đã mở được cho nó nhiều chân trời. Cũng đã tạo được cho âm nhạc một thời nhiều chân trời mới. Và cũng là một con số nhiều, mọi người, quần chúng thường ngoạn, đã yêu mến nhạc ông, tiếng hát, lối hát và nghệ thuật ông trên nhiều phương diện khác nhau. Đám đông yêu mến, một yêu mến đằm thắm lâu dài hiếm thấy, noi những ca khúc ký tên Phạm Đình Chương, nhiều bản lẫy lừng như Ly Rượu Mừng, Sáng Rừng, Mộng Dưới Hoa, Đêm Màu Hồng, Đôi Mắt Người Sơn Tây, vân vân, không chỉ còn là những ca khúc, mà đã trở thành tình yêu, tình nhân, tâm trạng, kỷ niệm và trí nhớ của mỗi người. Nghệ thuật phổ thơ, không phải thơ tầm thường mà thơ của những tài thơ lớn nhất như Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê, Quang Dũng, cũng là một mặt nữa của tài năng ông rất được nhiều người mến mộ. Trên một tầm cao hơn, thuần túy nhạc lý và nhạc tính hơn, những điểm xuất sắc của cõi nhạc, nét nhạc Phạm Đình Chương cũng được những kiến thức có thẩm quyền hết lời khen ngợị. Như một nhận xét tổng quát của nhạc sỹ Nghiêm Phú Phi. Là đường nét của âm điệu (ligne mélodique) cách thế hòa âm, tiết điệu và bố cục từ khúc, mặt nào ở Phạm Đình Chương cũng cao sang, điêu luyện và thuần thục. Cao và sang, nhưng không khó không xa, rất hợp rất gần với tâm hồn đại chúng. Như một phân tích tóm gọn của nhạc sỹ Lê Trọng Nguyễn. Là Phạm Đình Chương xử dụng ngũ cung tài giỏi, cấu trúc và kỹ thuật nhạc hiện đại, tiền tiến nhưng vẫn giữ được âm điệu, yếu tính (essence) và tâm hồn Việt Nam.
Phần tôi, sau yêu mến đã nói ở trên là Phạm Đình Chương đã thể hiện được sự hòa hợp của con người ngoài đời và con người tiền trường của mình thành một nhất quán thật tốt đẹp, còn một yêu mến nữa. Yêu mến cái phong cách. Cái phong cách tài tử. Cái phong cách nghệ sỹ. Cái phong cách thư thái, thanh thản, ung dung một đời, tôi thấy, trên một cách thế nào đó, khắp cùng trong cõi nhạc ông. Cho nên, nếu có một hình ảnh nào tôi yêu thích và muốn thấy mãi về Phạm Đình Chương thì cũng từ cái phong cách nghệ sỹ thanh thản, ung dung một đời vừa nói. Hình ảnh ấy là mây. Một giải mây. Bốn mươi lăm năm âm nhạc Hoài Bắc là 45 năm mây. Giải mây thanh thản ung dung bay qua vòm trời nghệ thuật một thời. Và giải mây trời bay đến đâu, tấm lòng mến yêu của bằng hữu và mọi người là những ngọn gió trời cùng bay tới đó.









(VĂN NGHỆ Magazine số 3-2000)

Nghe nhạc Việt Nam, nói chung, hẳn có lúc chúng ta phải giật mình vì hình như nhạc của chúng ta quá buồn. Một nhà phê bình âm nhạc có nhận xét rằng: "Âm nhạc ở đâu dễ nghe, đời sống ở đó dễ sống." Không biết có phải vì đời sống của chúng ta khó sống, nên đã tạo ra một nền âm nhạc như thế?

Không phải chúng ta không có nhạc vui. Nhưng cái vui, cái trong sáng của nhạc Hoàng Quý mới chỉ là cái vui, cái hớn hở của một buổi họp đoàn hướng đạo.

Dương Thiệu Tước, Nguyễn Xuân Khoát, Hùng Lân cũng có những bài hát vui. Nhưng đằng sau cái vui của nhạc Dưong Thiệu Tước, Hùng Lân hay Nguyễn Xuân Khoát vẫn lẩn khuất một chút buồn.

Phải chờ đến Phạm Đình Chương, chúng ta mới được nghe, được hát những ca khúc thật sự vui tươi, thật sự khỏe mạnh.

Nhac Phạm Đình Chương bát ngát sức trai, nồng nàn hương sắc của núi rừng đồng nội. Căn cứ vào những ca khúc đầu tiên của ông "Leo Rừng", "Được Mùa", "Tiếng Dân Chài" hay "Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng", người ta cảm nhận một sức sống rạt rào, nao nức. Cái nao nức của một cuộc lên đường, một bước vào đời có gian lao vất vả nhưng cũng phơi phới tin yêu. Có một vẻ gì đó giống như một thách thức hào hứng.

Nhạc như thế, lòng người như thế, tuổi xuân như thế, phải được hát lên không phải chỉ bằng một người, một giọng mà phải bằng nhiều người, nhiều giọng. Có lẽ điều này cũng giải thích vì sao Phạm Đình Chương đã xuất hiện cùng một lúc với ban hợp ca Thăng Long. Rừng núi, sông biển, ruộng đồng đều được nhắc tới trong nhạc Phạm Đình Chương. Nói như vậy cũng không chính xác. Phải nói rằng, những cảnh sắc ấy, những thực thể ấy, chính là một phần nhạc của ông, một phần tâm hồn ông.

Có bao nhiêu người đã viết về rừng núi, nhưng ca khúc "Sáng Rừng" của Phạm Đình Chương vẫn cứ bừng bừng một nét riêng biệt. Cái âm u không bí hiểm, cái hoang dã không đe dọa. Mà ở đó là thơ. Ở đó là cuộc lễ linh thiêng của con người tiếp nhận tặng phẩm của Thượng Đế. Đó là sự chan hòa giữa thiên nhiên và con người. Tiếng chim hót như thế người ta chỉ có thể nghe thấy trong một sáng rừng. Và rừng là ân sủng của Thượng Đế ban cho. Rừng là của ta. Có lẽ không còn hình thức tiếp nhận nào hơn là hình thức tiếp nhận bằng âm nhạc trong một cuộc lễ như thế. Hay nói như Tagore: "Chỉ với tư cách là ca sĩ tôi mới nhận ra sự hiện diện của Người".

Nói về tình yêu đất nước trong nhạc của chúng ta có rất nhiều. Nhưng sừng sững như núi non có lẽ không có tác phẩm nào vượt qua bộ "Hòn Vọng Phu" của Lê Thương, "Con Đường Cái Quan" của Phạm Duy và "Hội Trùng Dương" của Phạm Đình Chương. Ôi! Chúng ta chỉ nguyện làm sao có được tấm lòng yêu thương đất nước, yêu thương nhau mãi mãi như thế.
Vết thương nào rồi cũng lành. Sự xa cách nào rồi cũng có ngày nối lại. Núi non sông biển là vĩnh cửu. Có nhạc của Lê Thương, còn nhạc của Phạm Duy và với nhạc của Phạm Đình Chương, rồi những con sông vẫn cứ chảy xuôi một niềm thương, sẽ đưa chúng ta về một biển, dù có phải hòa chung một dòng nước mắt.

Những lúc Phạm Đình Chương trở về với cái riêng của mình, ông cũng để lại cho đời những tình khúc tuyệt vời, dù đó không phải là những bài ca hạnh phúc. Tình ca của chúng ta rất nhiều. Nhưng có vẻ như người ta nói về "tình" nhiều hơn là "tình" nói. Phạm Đình Chương đã bước qua được sự cách biệt này. Chỉ khi người ta thực sự yêu, mới có được cái tiếng nói thiết tha, cái giọng nồng nàn đến thế.

Phổ nhạc thơ, Phạm Đình Chương cũng tỏ ra là một nhạc sĩ cao tay lắm. Song nghe nhạc ông, người ta vẫn cứ thấy những ca khúc do chính ông viết lời ca nó thật hơn, đằm thắm hơn. Tuy nhiên "Khi Cuộc Tình Đã Chết" thơ Du Tử Lê, Phạm Đình Chương phổ nhạc, vẫn cứ là một trong những tình khúc đạt nhất của ông và của chung những tình khúc Việt Nam nữa.

Nếu chúng ta, ai có dịp nghe Phạm Đình Chương hát một lần, trong một quán rượu về khuya, hát một mình với ly rượu trong tay và bằng cái giọng một nửa tưởng chừng bị cháy vì khói thuốc, nửa kia được dập tắt bằng rượu mới thấy được hết cái hay của giọng hát Phạm Đình Chương. Ông không chỉ là nhạc sĩ, ông còn là một ca sĩ nữa.

Chúng ta đã nghĩ đến việc cám ơn các nhạc sĩ, tại sao chúng ta lại không nghĩ chuyện công khai cảm ơn các ca sĩ. Không gì buồn bằng một bản tình ca không được hát. Cũng không gì buồn bằng một bản tình ca bị hát sai. Vậy thì, được nghe một giọng hát trình bày hết những gì chứa dấu trong một bản nhạc, phải chăng cũng là một điều hạnh phúc? Ấy là chưa kể, cùng một ca khúc, mỗi ca sĩ có thể có một cách hát khác nhau, và bằng cách ấy, vẫn mở cho người nghe những cánh cửa tưởng tượng kỳ lạ, vừa có khả năng đưa người ta trở về một quá khứ nào đó, lại vừa dường như làm giàu thêm hiện tại, vẽ ra và kể lại những thế giới kỳ ảo, chỉ khi yêu hay đã ra khỏi tình, người ta mới biết, mới nhận ra được.

Nguyễn Đình Toàn

(VĂN NGHỆ Magazine số 3-2000)











55 ca khúc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương












Ban hợp ca Thăng Long

Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hoài Trung
Thái Hằng, Khánh Ngọc, Thái Thanh









Nv Mai Thảo, Nv Vũ Khắc Khoan, Nv Nguyễn Sỹ Tế, Ns Phạm Đình Chương, Hs Tạ Tỵ










Ban hợp ca Thăng Long
Thái Thanh, Hoài Bắc, Hoài Trung
















Ban hợp ca Thăng Long
Khánh Ngọc, Hoài Trung, Thái Thanh 
Phạm Đình Chương









Hoài Trung, Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Thái Thanh
tại Phòng trà Đêm Màu Hồng, Sài Gòn 1962










































Nhạc sĩ, Ca sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương













Trở về












MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.