Thứ Tư, 15 tháng 4, 2015

Ý Nhi Tử Diệp

 











Ý Nhi Tử Diệp

Tên thật: Hoàng Thị Ý Nhi
(18/9/1944 - ........) Quảng Nam

Nhà thơ, Nhà văn












Dưới chân chị
cuộn len
như quả cầu xanh
đang lăn
những vòng chậm rãi








“Viết văn là công việc của một người. Còn Hội Nhà văn phải thực sự là một hội nghề nghiệp, một nghiệp đoàn của những người viết văn. Hội phải tự lo kinh phí để hoạt động, và Hội phải có trách nhiệm bảo vệ nhà văn cùng thành quả lao động của họ”

Ý Nhi





Tiểu Sử

Nhà thơ Ý Nhi tên thật là Hoàng Thị Ý Nhi, sinh ngày 18/9/1944 tại thị xã Hội An tỉnh Quảng Nam trong một gia đình có truyền thống nho học,
là con gái lớn của giáo sư Hoàng Châu Ký, một người hoạt động cách mạng đồng thời là một nhà nghiên cứu nghệ thuật Hát Bội.

Lớn lên tại Hà Nội và tốt nghiệp cử nhân khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1968, Ý Nhi kết hôn với giáo sư Nguyễn Lộc, giảng dạy văn học cổ Việt Nam thế kỷ 18, 19, cũng là người nghiên cứu nghệ thuật Hát Bội và một trong những người sáng lập Trường Đại học Văn Hiến.


Cùng với Nhà thơ Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Ý Nhi thuộc thế hệ nhà thơ thực sự nổi bật sau chiến tranh với những cách tân hiện đại, làm mới thơ Việt về cả nội dung lẫn hình thức. Chị cũng đã viết một số truyện ngắn với tập Có gió chuông sẽ reo, đã từng là một nhà báo và cán bộ biên tập ở Nhà xuất bản Hội nhà văn.


Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Ý Nhi đã xin ra khỏi Hội từ năm 2002.

Hiện sống và làm việc tại Thành phố HCM


















Tác phẩm đã xuất bản:






Tác phẩm mới nhất













Thơ






1
Đến với dòng sông
(thơ), Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1978






2
Cây trong phố chờ trăng
(thơ - in chung với Xuân Quỳnh)
Nhà xuất bản Hà Nội 1981






3
Nỗi nhớ con đường
(thơ - in chung với Lâm Thị Mỹ Dạ)
 Nhà xuất bản Văn học 1984





4
Người đàn bà ngồi đan
(thơ), Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1985
(Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 1985)






5
Ngày thường
(thơ), Nhà xuất bản Đà Nẵng 1987





6
Mưa tuyết
(thơ), Nhà xuất bản Phụ nữ 1991





7
Gương mặt
(thơ), Nhà xuất bản Trẻ 1991





8
Vườn
(thơ), Nhà xuất bản Văn học 1998





9
Thơ tuyển
Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2000





10
Ý Nhi tuyển tập
Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2011













Tập truyện






Có gió chuông sẽ reo 
(Tập truyện ngắn) 
Nhà xuất bản Trẻ 2014












Ý Nhi, cuộc độc thoại triền miên
Cập nhật ngày: 15/06/2020 lúc 01:00


VHSG- Có một ai đó yêu văn chương chữ nghĩa một chút, ở rất xa rất khác vùng địa lý lãnh thổ, chẳng hạn một người ở thành phố lớn đô hội, một người ở vùng đất ít người qua lại… đọc một truyện ngắn của Ý Nhi, bất kỳ truyện nào cũng có thể nói: ờ, đời người có, như vậy.

Nói như thế không có gì to tát, chỉ có điều đơn giản, Ý Nhi viết truyện ngắn không có nhiều yếu tố cảnh sắc, không gian, đất và nước và ngữ điệu vùng miền riêng biệt. Truyện ngắn của chị viết về một khoảnh khắc nào đó của cuộc đời với đầy tâm trạng. Ai cũng đồng cảm được.


Nhà thơ Ý Nhi

Ý Nhi của thơ. Thơ chị chiếm đầu bảng trong dòng thơ phái nữ phía Nam ở ta. Không nhiều du dương cảm xúc nhưng khác biệt ở chỗ nó nghĩ ngợi trở qua trở lại nó lay thức người đọc. Thơ khiến ta thấu hiểu. Không mấy ai có thể bỏ qua có thể thờ ơ với những nhân vật thơ của chị. Người đàn bà ngồi đan sống thế nào trong đời thực? Hình bóng của ai đây? Thường ra đó là câu hỏi dành cho nhân vật văn xuôi. Nhưng đây là thơ. Thơ của chị là của ý tứ của ngôn từ, thường ta ít thuộc được thơ tự do nhưng Ý Nhi, thơ chị, lại bất chợt đến với ta trong những lúc ta đơn độc.

Tôi nói với ý nghĩ của một người không làm nổi một câu thơ, loại hình khó nhất trong sáng tạo nghệ thuật. Tôi kính trọng và ngạc nhiên trước những câu thơ hay, trước người làm thơ cho dù họ không phải cày cuốc nhiều chữ nghĩa như dân văn xuôi. Với Ý Nhi, cái sự nói lý trong thơ lại là độc đáo khiến trí tuệ của chị thu phục hơn nhịp điệu dễ chịu. Từ sự độc đáo của thơ, Ý Nhi viết những truyện ngắn cũng độc đáo.

Những truyện ngắn xuyên suốt tâm trạng của một người đàn ông trong nhà của anh ta, trong quán cà phê, bên một người nào đấy mà không nhiều đối thoại, trong một chuyến đi, lúc buổi sáng, lúc đêm khuya… Hầu hết là anh ta tự nói với mình nhưng mỗi truyện có một không khí riêng biệt, rất sinh động, không hề trùng lắp. Cái đó là tài quan sát, lắng nghe, suy luận, tưởng tượng… của tác giả. Chị như vẫn đi với thơ trong truyện ngắn.

Bài thơ Người đàn bà ngồi đan có những câu: Giữa chiều lạnh một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ… Mở đầu một tâm trạng, một cuộc đời một số phận. Rất nhiều bài thơ của Ý Nhi có thể viết thành truyện ngắn: Hai người – Cát – Ngày thường – Thuyền trưởng – Cái chết của nhà thơ – Vườn – Ký ức – Hà Nội, một ngày nào – Quán cũ.

Truyện Phòng chờ chẳng hạn, có thể hình dung nó đã là một bài thơ.

Một người đàn ông ngồi ở phòng chờ sân bay. Anh ấy thích đến đó. Ngồi ở đó hàng tiếng đồng hồ. Người ta thấy lạ rồi quen đi. Người đàn ông đó với những kỷ niệm chả hay ho gì về đàn bà đi qua đời anh. Một cô Hải xinh đẹp anh sóng đôi tự hào cho đến khi cô bật ra cái câu thông thường của đàn bà chê bai dè bỉu xung quanh. Rồi cô Phương trầm lặng suốt buổi xem vở kịch với anh, rồi cô Phương thành vợ anh để suốt cuộc hôn nhân anh chỉ nghe được ở cô: thế à – thế á – cô không lãng phí thời gian và từ ngữ với anh.

Cái vẻ tuân phục nhẫn nhịn ấy giày vò anh đến nỗi anh tự hỏi: thông minh hay u mê? Anh trở nên lạc lõng trong hôn nhân… Rồi có một cô Bê thoáng qua. Thầm lặng nhưng không giống cô Phương. Nó mời gọi anh khám phá… Ở phòng chờ anh bắt gặp một gã đàn ông cũng đến ngồi một mình. Anh ta nói có trọng bệnh muốn tìm một người để chào từ biệt trước khi đi. Tập ghi chép của người đàn ông kia gửi anh có những dòng ám ảnh về Phòng chờ. Không phải cái phòng chờ ở sân bay. Nó là phòng chờ ở các bệnh viện công và tư. Cái thứ phòng chờ đau đớn tuyệt vọng. Trong tập ghi chép ấy người đàn ông ám ảnh về một cô P. nào đó.

Một cô P. có thể là lý do gây cho anh ta sự bệnh tật trong tâm hồn… Truyện ngắn không nói đến cũng không bật mở một cái gì lạ lùng nhưng nó gợi nó khiến cái sợi dây liên tưởng: có cái gì giữa người đàn ông kia và cô Phương vợ người đàn ông này? Có cái gì để khiến cô ấy hầu như câm lặng trong đời sống hàng ngày dù người chồng của cô khá hoàn hảo.

Trên đây tóm tắt truyện Phòng chờ. Hãy hình dung xem, đó là một bài thơ. Nhân vật chính trống trải ngồi ở sân bay trong phòng chờ giữa đông người nghĩ ngợi liên miên về cuộc hôn nhân lạnh lẽo ở phòng chờ khác, phòng chờ trong bệnh viện giữa những lo âu sợ hãi, có một người đàn ông khắc khoải về bệnh tật về người đàn bà của anh ta. Thông thường người viết văn xuôi tóm ngay cái chi tiết vì sao cô Phương sống với chồng như cái bóng câm nín suốt bao năm? Vì sao lại có cô P. nào đó trong ghi chép của người đàn ông ở phòng chờ bệnh viện, người gây nên bệnh tật trong tâm hồn anh này. Không phải chỉ là tình huống truyện ngắn. Nó là cả một tiểu thuyết khắc khoải về những điều không toại nguyện của đời người. Trong truyện này, cũng là một bài thơ, Ý Nhi chỉ gợi đến một tình huống. Tùy mỗi người tưởng tượng. Theo tôi đấy là cách viết cao tay, kiềm chế tối đa cảm xúc, là nghệ thuật cài cắm trong đó hiện diện sự hồi hộp của người viết khi nhân vật của chị hành động theo cách riêng của họ.

Thường truyện ngắn của Ý Nhi hay miêu tả tâm trạng một người đàn ông trong đời sống hàng ngày. Hầu hết nhân vật chính của chị là đàn ông. Có lẽ chị cũng không hiểu sao lại thế. Những người đàn ông có trí tuệ có học hành không bao giờ hành động quyết liệt để giành lấy cái gì, anh ta chừng mực, mà nén đau đớn hay hạnh phúc… để cho mọi chuyện được ổn thỏa. Để không khiến người khác khổ vì mình… “Anh đứng bật dậy chạy ra phố mua một túi hoa quả, vừa lúc vợ anh về. Anh cười, em đừng nấu nướng nữa, chiều nay nhà mình đi ăn tiệm. Vợ anh nhìn anh giọng lạnh tanh, có gì mà hào hứng vậy, vừa đi chơi với bồ về à? (truyện Roy Evan rời bỏ Liverpool). Cũng trong truyện này người đàn ông níu kéo vô vọng người chung quanh vào các niềm đam mê mà anh tưởng rằng tột đỉnh của cái đẹp, thì, như mọi lần người ta làm anh rơi xuống. Ví như nói tới tranh Van Gogh mọi người bị cuốn vào giá cả. Nói tới Ronaldo người ta nhắc đến giá chuyển nhượng ghê người… Về nhà anh gặp sự dửng dưng của người đàn bà gắn với anh trong suốt cuộc hôn nhân… Không ngạc nhiên, không gay gắt phản ứng, người đàn ông trong truyện – và các truyện khác – đều có cái gì đó như bình thản. Sự bình thản này gây nên nỗi chua xót với người đọc. Anh ta chẳng có cánh cửa nào để đi ra nữa. Cuộc đời tràn ngập sự lạnh lẽo vô cảm, anh cô đơn với khao khát dằn vặt riêng mình để làm gì?…

Nhân vật hầu như xuyên suốt trong các truyện ngắn của Ý Nhi, có dáng dấp chung nhưng mỗi câu chuyện lại có màu sắc riêng biệt, không trùng lắp. Những số phận khác biệt nhưng cách xử sự của nhân vật có một cách chung: bình thản, can đảm chấp nhận. Những truyện ngắn thật hay: Có gió chuông sẽ reo – Lại mưa – Tiếng chuông – Giữa khuya – Bạn vong niên – Cao nguyên – Chuyến bay… Những tên truyện rất gợi, khơi dậy cái gì đó như tò mò, ám ảnh. Những truyện ngắn là một khoảnh khắc, ít quá khứ, không tương lai. Có những người viết tài năng, hấp dẫn, người ta đón chào tác phẩm một cách sôi nổi. Nhưng đọc rồi, bận bịu với hàng ngày rồi, người ta sẽ quên, thậm chí quên triệt để, có thể chỉ còn nhắc một cái tên tác giả. Ý Nhi là một trường hợp lạ. Có thể không nhiều người đọc vì nó không bình dân. Nhưng nó sống day dứt trong ai đã từng đọc dù cho các truyện đều không có chuyện, không thể kể lại, không có tình huống phức tạp. Hầu hết như là các độc thoại. Rất nhiều các khoảng lặng mà căng thẳng dồn nén. Truyện Phòng chờ có khoảng lặng sâu sắc.

Truyện ngắn đi cùng với thơ, tiết chế, hầu hết là “ý tại ngôn ngoại”. Nhưng vượt lên trên một bước, tác giả có cái nhìn của người viết văn xuôi, miêu tả, kể chuyện không rườm lời, không để nhân vật có động tác thừa. Tất cả động tác đi, đứng, ngồi, cầm ly rượu, điếu thuốc, bó hoa, gõ cửa, nhìn cái gì đó ngoài cửa sổ, đều được tác giả chăm chút, cân nhắc đặt chữ đúng chỗ sao cho nhân vật sống động, gắn kết động tác với tâm trạng. Không có cách viết tùy hứng. Nhưng câu văn nhiều cảm xúc, chân thật. Trong thế giới con người càng hay mất đi cái riêng tư của nội tâm, điểm xuất phát của lòng tốt của sự sáng tạo, mất đi sự cô đơn cao cả với những phút thư giãn trong tâm hồn, Ý Nhi nhắc ta về sự thiệt thòi đó. Con người không thể hiện hữu vô tâm trong sự ồn ào trống rỗng.

***

Ý Nhi làm được những việc rất khác biệt nhờ truyện ngắn. Chị đứng ở vị trí người đàn ông – hầu hết nhân vật – để có cơ hội bộc lộ hết những thông minh sắc sảo, vừa cứng cỏi vừa yếu đuối của con người. Truyện của chị ít tình huống phức tạp nhưng chật chội tâm trạng tâm thế.

Khác với nhiều người viết ít khi trọng chữ, Ý Nhi như trên đã nói, cân nhắc kỹ càng khó tính như lúc làm thơ. Nhiều khi để kể câu chuyện rắc rối tình tiết, người ta lướt qua để rồi hiện hình một câu chuyện vô hồn. Chữ với Ý Nhi là cảm xúc. Truyện nào của chị cũng đầy tràn cảm xúc. Có thể nhớ rất lâu sự trục trặc giữa hai con người tưởng như gắn bó trong truyện Roy Evan rời bỏ Liverpool. Những gặp gỡ tình cờ sau đó là sự khắc khoải của người đàn ông mấy lần định tới Phìn Sa mà không đi được dù không có gì cản trở trong truyện Phìn Sa… Những truyện ngắn thực hay, mẫu mực về ý tưởng và ngôn ngữ. Cũng trong truyện ngắn, Ý Nhi nhắc da diết tới tuổi trẻ ở Hà Nội, thời có nhiều khi người ta vượt qua nỗi khổ áo cơm nhờ những cảm xúc trong sáng với phim ảnh, thể thao, bè bạn. Đọc truyện của chị gặp lại Maradona – Hohan Cruyss – Fran Berkenbauer – Platini – Johan Nicoud – Zidane – Figs – Hagi – Roberto Carlos – Nedved … Thời khắc Hà Nội bao cấp nhưng con người có lẽ vẫn tìm được một thứ điểm tựa nào đó để vượt qua. Điểm tựa đó có lẽ là tình yêu hết lòng, không vụ lợi, đầy sự hy sinh, cái tình cảm thấy thoáng trong hàng loạt truyện ngắn của Ý Nhi.

Hãy đọc những Năm cuộc điện thoại – Ba sẩm tối – Điểm dừng – Một giờ sáng và nhiều truyện ngắn của chị. Con người thấy hạnh phúc vì có tố chất của hạnh phúc nhưng cũng suốt đời thiếu vắng trống trải. Một mình đi qua, đi trong cuộc độc thoại triền miên về cái đẹp, về sự cô đơn.

LÊ MINH KHUÊ












Trang thơ Ý Nhi





                                  
Người lính

  
         Trên con đường từ mặt trận đến mặt trận
         người lính đi qua một thành phố lớn

         Cái thành phố khổng lồ
         rối ren
         náo động
         bỗng hiện ra tĩnh lặng trước đời anh
         cây bên đường
         im phắc một màu xanh
         toa xe điện như trôi
         giữa lòng đường phố hẹp
         không có tiếng động cơ
         xe lao đi vun vút
         và bao người bước lặng dưới nhà cao
         họ khóc cười, chia biệt, đón chờ nhau
         anh cảm biết mọi điều qua ánh mắt
         nhưng những lời chuyện trò
         anh không nghe thấy được
         anh không nghe tiếng khóc tiếng cười kia

         Ôi cuộc đời thường nhật đã hiện ra
         đúng như thể bao lần anh mong mỏi
         nhưng đó là giấc mơ
         đó là điều anh chưa thể tới
         chưa bao giờ anh có đủ thời gian

         Trong những lán che
         trong những căn hầm
         anh qua tháng ngày của mình trong đạn lửa
         trong cơn sốt
         trong cái đói dày vò
         trong làn súng kẻ thù đe dọa
         anh giữ nơi tay ngọn cờ xung trận
         anh nghĩ đến cái chết
         như đã bao lần nghĩ về cách sống

         Tiếng còi tàu vang lên
         như tiếng còi báo động
         anh quay nhìn thành phố
         và thoáng qua gương mặt anh lời từ biệt

         Ở cửa ga
         người soát vé vừa giúi vào tay anh mảnh bìa con vừa thét to
         giải thích
         đó là chứng từ thanh toán của chuyến đi
         anh mỉm cười
         hờ hững nhét mẩu vé tàu vào túi ngực.

         2/1984

                                                                    









Nhà văn Nguyên Hồng


         Năm 1976

         trên chuyến tàu Hà Nội-Hải Phòng
         tôi đã gặp nhà văn
         giữa đám đông hành khách
         ông thét gọi người quen
         tiếng vang suốt cả toa tàu

         Trán đẫm mồ hôi
         tay khư khư ôm chiếc túi cũ sờn
         ông giống như một viên chức bậc trung
         giữa đường công vụ
         một lão nông về quê
         sau chuyến đi xa
         một kẻ lang thang tìm đất mới

         Không chống can và ngậm tẩu
         khủng khỉnh bàn đến các món ăn,
         rượu ngon và từ ngữ
         không chạy nhông trên các diễn đàn
         rao giảng văn chương
         không làm bộ trầm tư, cao ngạo
         nhà văn Nguyên Hồng
         đi trên các chuyến tàu
         trán đẫm mồ hôi
         tay khư khư ôm chiếc túi cũ sờn
         như một viên chức bậc trung giữa đường công vụ
         một lão nông về quê sau chuyến đi xa
         một kẻ lang thang
         tìm đất mới
         với giọt lệ lớn nằm dưới đáy đôi mắt đang nheo cười.


         7/1986




                         





Nguyễn Du, 1813


Năm 1813, Nguyễn Du trở lại Thăng Long, chuẩn bị cho chuyến đi sứ sang Trung Quốc, dưới triều Nguyễn. Bấy giờ Nguyễn Du đã ngoài bốn mươi, đã chứng kiến sự thay đổi của 3 triều đại phong kiến, sự đổ vỡ, tàn lụi của chính gia đình ông, một gia đình quan lại lớn, gắn bó với các triều đại ấy.Sự hưng phế, mất còn của các triều đại, cảnh bể dâu của đời người là nỗi buồn lo, day dứt khôn nguôi trong thơ Nguyễn Du lúc này.

Chúng tôi thử sắp xếp lại các ý tứ, câu chữ trong thơ ông, gắng hình dung ra khuôn mặt tinh thần của nhà thơ-chứng nhân của thời đại mình





1.


Không giã biệt
không gặp gỡ
ta bước trên lối cũ
như khách lạ



Khí lạnh ban đêm dồn hết vào một người
chiếc khăn thâm nhỏ hẹp xổ tung
tóc bạc bơ phờ trước gió
suốt đời chỉ một mối u hoài



Tháng năm trôi qua như giấc mộng
mà nào như giấc mộng chàng Lư
ta lênh đênh góc bể
chân trời
ta là người bệnh không có thuốc
kẻ đói không có cơm
dùng sách làm gối tựa
khi đau yếu
uống rượu
cho bớt vẻ xanh xao
một mình khêu ngọn đèn trong đêm đã bắt đầu dài.


2.

Không ai trói buộc
không ai gông cùm
không ai đánh đập
không ai chửi mắng
sao ta sống như trong lồng cũi

Sao ta không thể rượu say như người ta vẫn uống
không đi săn như người ta vẫn đi săn
không thể yên lòng
ngồi nghe các ca nữ đàn hát trước đèn nến
không thể vui ngắm cúc đầu thu
không thể hái bông sen bên hồ 
mà lòng không vướng bận.

Ta sinh ra nào có tướng công hầu
mà lận đận mãi chốn bụi trần
không sao gỡ được
ta chờ đợi điều chi
mong mỏi điều chi.



3.

Nào còn đâu những lâu đài đồ sộ nghìn xưa
những thành quách 
tưởng muôn đời bền vững
ta bước giữa những con đường mới
những đền đài mới
lòng kinh sợ
như đứa trẻ đi trong mưa lạc lối.

Những bạn bè cũ đã cáo qua
ăn măng trúc măng mai ngồi câu bên sông vắng
làm thơ thưởng hoa
làm thơ vịnh nguyệt
coi cuộc đời như phù vân

Các bạn gái ngày xưa
nay tay dắt tay bồng
vẻ đẹp chóng tàn phai
không ai còn mặc áo màu thiên thanh
không ai còn cài hoa lên tóc
không ai còn hát bài hát cũ

Đường dài
trời đã về chiều
tìm đâu ra bạn mới
ta chờ đợi điều chi
mong mỏi điều chi.



4.

Chợt nhớ người hát khúc ly tao bên sông
bờ cỏ đầy hoa lan hoa chi
nhưng nghìn thưở
ai thương người tỉnh một mình
bao nhiêu năm sau ta còn gặp bọn thượng quan Ngận Thượng
nước mỗi dòng
thăm thẳm sóng Mịch La
bao nhiêu năm sau tưởng còn thấy ngọn cờ
buổi Hàn Tín cầm binh lên phương bắc
nhưng mấy ai
lúc hiển vinh
còn nhớ ơn kẻ cứu giúp mình
nỗi oan cừu dễ chi tan được
mấy ai hát như nàng Ngu Cơ
lúc kề bên cái chết
ai gảy đàn lúc lâm hình như Thúc Dạ
ai biết vui như Vinh Khải Kỳ đi mót lúa
ai uống rượu tựa Lưu linh…

Hàng nghìn năm
còn lại mấy tuổi tên
trên mặt đất đầy việc dữ
ta chờ đợi điều chi
mong mỏi điều chi



5.

Cả kinh thành đêm nay chỉ một mình ta
không bạn hữu
không trăng
không rượu đắng
ta còn chờ đợi chi
còn mong mỏi điều chi
mắt mở trừng trừng
luống tưởng bao chuyện trước

Ta như người gảy đàn sau tháng ngày tan hợp*
mặt đã võ vàng
áo quần rách nát
không lìa khúc đàn xưa.



12/1983

*Chỉ cô Cầm, người ca nữ trong bài thơ Long thành cầm giả ca.












Nhớ Hải Phòng


Sau những căn nhà kia
sau những bến sông kia
sau những con tàu lô nhô ngoài cảng
tuổi thơ xa tít tắp

Thưở ấy
tôi mặc áo rộng thùng thình
tóc tết đuôi sam
thưở ấy
tôi đi lang thang giữa thành phố của mình
chưa biết đến niềm vui làm ta rơi nước mắt
chưa có nụ cười nào
xa xót nở trên môi

Lời ca của ngày xưa tôi đã quên rồi
giữa bao bài hát mới
bao màu hoa
đã che khuất một màu hoa dại
ngọn sóng trắng buổi nào
vùi lấp giữa ngàn khơi
tiếng còi tàu vang suốt tuổi thơ tôi
đã chìm lẫn giữa ồn ào, náo động
tôi đi giữa cuộc đời
giữa muôn nghìn mất, còn, chết, sống
nào nhớ gì ngày tháng đã xa xôi

Sao hôm nay tôi muốn được là tôi
với tóc tết đuôi sam
với áo rộng thùng thình
đi lang thang qua phố nhà sông nước
được nhìn thấy tuổi thơ xa tít tắp
đang mỉm cười
tha thứ
chở che.

9/1982











Đôi khi


Đôi khi
ta như chiếc gàu thả sâu trong lòng giếng
cứ va đập
va đập mãi
vào bờ đất
cho đến hồi
chỉ còn lại
một vốc nước nhỏ

Đôi khi
ta như đứa trẻ bán hủ tiếu rong
tay cứ gõ hoài hai thanh gỗ mỏng
rồi mải lắng nghe
cái âm thanh khô giòn quen thuộc ấy
ta đã quên chuyến đi
đã thôi chờ đợi
tiếng gọi của khách hàng

Đôi khi
ta như người leo núi rủi ro
không phải vì kém cỏi
không phải vì thiếu lòng can đảm
nhưng mà núi lở
nào ai có thể
bám vào khoảng không

Đôi khi
thèm nhớ tuổi mười lăm
qua phà Bính
đi xe ngựa về Thủy Nguyên
hát bài hát buồn
khi chưa biết nỗi buồn

Đôi khi
chợt ứa tràn nước mắt.











6.Thơ về Marina Xvetaeva


Xvetaeva-người yêu


Chưa một lần gặp gỡ
giữa bao nhiêu hỗn tạp của đời
bà nghe vang lên một cái tên yêu dấu
và đôi môi run rẩy
thầm thì nhắc lại

Chưa một lần gặp gỡ
hằng đêm
bà nguyện cầu bình yên
cho người ấy

Chưa một lần gặp gỡ
khóc lặng lẽ dưới hàng cây xuân
và muốn áp khuôn mặt mình
vào cỏ

Chưa một lần gặp gỡ
bà khước từ mọi mối tình khác
như một người hoàn toàn hạnh phúc
như một kẻ hoàn toàn vô vọng

Chưa một lần gặp gỡ
bà gắn mối tình của mình
cùng tình yêu cay đắng với nước Nga

Bà đi đến cuộc trùng phùng
trên đôi chân
rớm máu



Xvetaeva-người mộng du



Có thể đi trên gờ tường
có thể xuyên qua rào chắn
có thể bước ra khoảng không
con đường của bà không ai đến được

Một mình trong đêm nguyện cầu
một mình trong đêm đau đớn
một mình chở che
một mình ẩn trốn
thế giới chết lặng rồi
riêng bà còn thức đêm đêm

Riêng bà khóc thương trái đất
trong giấc mơ thiên đường
riêng bà làm ánh hoàng hôn
kiệt lực đuổi theo
một ban mai không bao giờ gặp

Xvetaeva-người mộng du
người đánh thức
người đưa dẫn tôi
trên con đường độc đạo



Tưởng niệm



Trên chiếc dây chão sờn rách
bà đã đặt bàn chân của người nhảy múa
dưới mái vòm nhà thờ thanh tĩnh
bà nguyện cầu bằng trái tim náo loạn
giữa Paris vui tươi, rộng lớn
bà nhớ nước Nga bằng nỗi lòng của kẻ tha hương


Kiêu hãnh như một bà hoàng
rụt rè như đứa trẻ
yêu đến tuyệt vọng
căm thù đến cùng kiệt
từ khước mọi cơ may
gánh chịu bao oan khiên
cay nghiệt
bà đi qua cuộc đời trong lốc xoáy


Đêm nay
dưới bầu trời bình yên này
tôi chợt muốn kêu lên
giá có ai báo cho tôi biết được
bà nằm trong nôi nào*



Moscow 5/1988.

*Ý thơ của Marina Xvetaeva trong bài Tưởng niệm Block









7.Quê hương

   Rồi ta về ngày thơ ngây
   trái mận
   trái mơ
   con giống đêm rằm
   đèn trung thu sáng nến
   phượng nở êm đềm trên mái rêu

   Rồi ta về
   nghe gió
   thiếp lặng giữa vòm cây
   như tiếng gọi trong chiều

   Rồi ta về
   trông sóng
   trên mặt nước hồ xanh
   còn chuyến đi bền bỉ tới bờ

   Rồi ta về
   mưa phùn
   lộc biếc

   Rồi ta về
   phố xưa cô vắng
   sông lớn âm thầm
   thắm đỏ

   Rồi ta về
   tìm qua ô cửa
   một chút gì bóng dáng đời ta
   một chút gì như đốm nắng
   trên tường vôi cũ
   một chút gì như tiếng chim khuyên
   nơi vườn hoang

   Rồi ta về
   cuộn trốn giữa yêu thương
   như đứa trẻ
   cuộn mình
   trong chăn ấm chiều đông

   Ôi quê hương quê hương
   mắt trũng sâu chờ đợi
   ta khóc ngập lòng
   trên lối về.











8.Kính gửi mẹ

   Con đã đi rất xa rồi
   ngoảnh nhìn lại
   vẫn gặp ánh đèn thành phố

   Sau cánh rừng
   sau cù lao
   biển cả
   một ánh đèn sáng đến nơi con
   và lòng con
   yêu mến, xót thương hơn
   khi con nghĩ đến cuộc đời của mẹ
   khi con nhớ đến căn nhà nhỏ bé
   mẹ một mình
   đang dõi theo con

   Giữa bao nhiêu mưa nắng đời thường
   đã có lúc lòng con hờ hững
   thấy hạnh phúc của riêng mình quá lớn
   ngỡ chỉ mình
   đau đớn, xót xa thôi

   Giữa bao nhiêu năm tháng ngược xuôi
   đã có lúc lòng con đơn bạc
   quên cả những điều
   tưởng không sao quên được
   như người no quên cơn đói của chính mình
  

   Sao đêm nay se thắt lòng con
   khi con gặp ánh đèn thành phố
   nơi mẹ sống
   mẹ vui buồn
   sướng khổ
   chỉ một mình, tóc cứ bạc thêm ra

   Sao đêm nay khi đã đi xa
   lòng con bỗng bồn chồn
   quay trở lại
   bên đời mẹ nhọc nhằn, dầu dãi
   nỗi mất, còn
   thăm thẳm trong tim

   Đời mẹ như bến vắng bên sông
   nơi đón nhận thuyền về tránh gió
   như cây tự quên mình trong quả
   quả chín rồi
   ai dễ nhớ ơn cây
   như trời xanh nhẫn nại sau mây
   con đường nhỏ dẫn về bao tổ ấm

   Con muốn có lời gì đằm thắm
   ru tuổi già của mẹ
   tháng năm nay.

   Đà Nẵng-Hà Nội 11/1978.














9.Chiêm bao gặp Xuân Quỳnh

  Cơn mưa ta ngóng đợi
   còn ở tận cuối trời
   đường dài, ngày nắng xối
   bước chân trần
   Quỳnh ơi

   Nào thấy đâu bến bờ
   sau gió Lào, cát trắng
   thấy đâu mảnh vườn êm
   thấy đâu miền biển lặng

   Ánh mắt nhìn đăm đắm
   lệ trôi qua môi cười
   suốt một đời vội vã
   suốt đời không tới nơi

   Kìa mây mùa thu trôi
   cúc đã vàng thắm lại
   thơ buồn trên mặt giấy
   bóng người về đơn côi.











10.Biển chiều

   Biển nhẹ nhàng xóa lấp đoạn đường đã qua
   ngoảnh nhìn lại
   chỉ gặp cát mênh mông, lặng lẽ

   Không có con đường nóng như hun trong chiều hạ
   không có nhà cao chất ngất
   không có dòng người đi như lũ cuốn dưới vòm cây
   và những ngọn đèn màu chói mắt

   Cái đốm lửa hy vọng
   chập chờn nơi khúc ngoặt
   những ý nghĩ về rủi, may, còn, mất
   những tính toán chi li
   sự nhầm lẫn khôn cùng
   những phép tắc ngặt nghèo
   cái trớ trêu ngoại lệ
   những giá trị không cân bằng luôn đổi chỗ
   cái đã vỡ tan
   cái mới dựng lên
   tất cả mọi điều xa khuất

   Ta là đứa trẻ muốn kêu to lên
   để nghe thấy lời mình trong biển
   là người đàn bà tìm về kết cục
   ta đang đứng kề bên cái vạch mong manh
   của thủy chung và phản trắc
   của tan vỡ và hy vọng
   của hằn thù và tha thứ

   Trong ánh rực rỡ của biển chiều
   chỉ còn lại nỗi lo âu
   vẫn theo ta như chiếc bóng
   không thể nắm giữ
   cũng không thể lìa bỏ.











11.Gửi một người bạn đọc

   1.
   Qua núi đá
   cỏ gai
   qua bùn lầy
   gió cát
   tôi đi trên con đường của mình

   Với hành trang của người lữ hành
   tôi nghèo khó
   đơn sơ
   cực nhọc

   Tôi làm ra bài ca
   tự mình tôi hát
   tự mình khổ đau
   tự mình hạnh phúc
   tôi một mình
   lặng bước tới trùng khơi

   Bỏ lại phía sau
   những ham muốn dày vò
   những của cải hiếm hoi
   tôi cùng kiệt trên đường tới biển

   Chỉ còn lại bài ca
   cùng anh tôi xin tặng
   anh có nghe thấy chăng
   tiếng sóng
   miền biển kia tôi khao khát suốt đời

2.
   Có thể
   khi câu thơ mùa thu của tôi đến được cùng anh
   ngày đã sang xuân
   khi nỗi buồn của tôi đến được cùng anh
   anh đang có niềm vui
   hạnh phúc dẫu còn
   chẳng thể giống như điều đã viết

   Dưới bóng những cây sồi
   anh sẽ đi qua
   không chút gì ràng buộc
   sóng trên hồ chẳng gợn ưu tư
   hoa bên đường
   đơn giản chỉ là hoa
   cánh buồm nhỏ ngoài sông bình yên quay lại bến
   câu thơ nhỏ chẳng làm anh vướng bận
   anh mải còn chờ đợi những điều chi

   Mong có khi nao
   thơ như mái hiên kia
   anh đến trú giữa cơn mưa tầm tã
   như tiếng nói thân yêu
   giữa miền xa lạ
   như ánh nhìn tin cẩn giữa hồ nghi.

   1985.











12.Mùa thu chưa tới

         Có những gì chờ đợi phía xa kia
         nơi đầu nguồn sông
         nơi tận cùng biển lớn
         mùa thu ngủ yên giữa tầng lá thắm
         gió trong xanh như nước chảy qua rừng
         hạt cát vàng của bao chuyện thần tiên
         nằm nghe sóng ồn ào qua bãi vắng
         nơi anh và em chúng mình chưa đến
         chỉ bao lần
         ta đã nói cùng nhau

         Đang chờ ta cây lá tháng năm sau
         đâu sông nước, bầu trời, bờ bến mới
         ta sẽ bước chân trần
         trên đá sỏi
         những buồn vui gay gắt dưới mặt trời
         (bài  hát của người kéo thuyền ngược sông
         người đẵn gỗ về xuôi
         lửa nhen nhúm sau mùa mưa bão lớn
         ngụm nước ngọt của những miền cát lấn
         gương mặt người khi cuộc chiến tranh qua)

         Có những gì chờ đợi phía xa kia
         bao mùa thu đã qua
         mãi còn một mùa thu chưa tới.











13.Tặng một người làm thơ trẻ

         Anh đã bị dẫn trước
         đã bị đá và khoeo chân
         đã bị xô ngã từ phía sau
         từ khi bắt đầu trận đấu
         giữa anh với cuộc đời

         Trong lúc người ta chen nhau trước thi đàn
         anh còn phải làm phụ xe
         còn phải đi bốc vác
         còn phải đứng chợ trời
         mua những thứ đắt ghê người
         và mất đi những gì không thể biết
         để kiếm đủ bữa cơm
         cho bầy em thơ dại

         Mặc kệ cho người ta chen chúc
         mặc kệ cho người ta quay theo vũ điệu tân thời
         mặc kệ giấc mơ danh vọng của bọn háo danh
         mặc kệ giấc mơ vàng của đám nhà giàu
         anh gạn lại giọt nước trong
         từ bùn bẩn
         từ đau thương
         cùng quẫn

         Rồi ngày kia
         có một câu thơ
         lan tỏa như sóng
         quẫy cựa như sóng
         trắng xóa và xanh biếc



         9/1989













14.Nha Trang

         Nha Trang
         là chuyến bay trong bão
         về miền chờ đợi

         Là hạt mưa ban mai
         rơi âm thầm qua lá bàng rực đỏ

         Nha Trang
         là ly cà phê khuya muộn
         nơi góc đường Hùng Vương

         Là phố hút xanh màu phượng vĩ
         là ánh đèn ngoài khơi lan tỏa trong đêm

         Nha Trang
         là chú chim sẻ đùa vui
         trên tầng cao cổ tháp

         Là biển
         biển xanh ngút ngàn
         xanh khiến lòng se thắt
         ta ngồi lại bên bờ như đứa trẻ
         nghẹn ngào mơ
         một miền xa

         Nha Trang
         là chuyến tàu giã từ lúc 5 giờ
         qua núi đá
         qua dải đồng chật hẹp
         và lời chuyện trò
         lẫn trong tiếng còi, trong vòng quay bánh sắt
         và nụ cười
         đã vương nỗi buồn


         của phút giây chia biệt.














15.Cát

         Người ta đứng trang nghiêm trước cát bạt ngàn


         1.Cát (1)

         Như là sự gắn bó của số phận
         tôi lại trở về với cát

         Tưởng đã choáng ngợp đời tôi
         những nhọc nhằn, lo âu, những hân hoan, chờ đợi
         tưởng đã khuất lấp mọi điều sau những phố nhà
         sau những tàn lá biếc
         sau những nếp chùa bình lặng
         nào hay đâu có một miền cát nóng
         như hạt mầm trong sỏi đá
         như đốm lửa dưới tàn tro
         chờ đợi tôi về

         Ôi phút lạ lùng khi cánh lá mọc lên
         khi ngọn lửa bừng bừng chói sáng
         những gì tôi lãng quên
         những gì tôi chưa hề biết đến
         bỗng hiện về một miền cát mênh mông
         với màu trắng dịu dàng quyết liệt
         tôi đã đến
         tôi đang đặt chân mình trên cát
         cát ròng ròng tuôn chảy dưới lòng chân

         Những gì luôn dằn vặt đời tôi
         những gì từng khiến tôi lo sợ
         những niềm vui tôi che giữ mỗi ngày
         những nỗi buồn chẳng cùng ai chia xẻ
         tôi mang theo như hành lý
         tôi đem hết cuộc đời mình đến cát

         Và lòng chợt bình yên, nhẹ nhàng, khoáng đạt
         trước triền cát bỏng khô
         chói lọi
         vô bờ

         2.Không chết

         Đơn độc
         kiêu hãnh
         cây dương vút cao trên đất đai nóng giẫy
         sau hàng ngàn nhà cháy
         sau hàng ngàn căn hầm bị bật tung
         sau hàng ngàn tấn đạn bom
         sau những trận tập kích, bao vây, đổ bộ
         sau những tính toán chi li, những âm mưu cuồng nộ

         Như để xanh thay cho từng ngọn cỏ
         xanh thay cho rừng dương
         xanh thay cho những khu vườn
         cây dương mỗi ngày thêm thắm biếc

         Mỗi đêm cây dương là cái đích
         của những người đồng chí trở về
         trong tiếng gió thì thầm qua những tán cây kia
         anh nghe thấy lời đất đai yêu dấu
         ôi lời nói chỉ mình anh hiểu thấu
         chỉ mình anh xao xuyến giữa trời khuya
         chỉ mình anh cảm nhận sự chở che
         của chiếc lá trên vai anh rơi khẽ

         Trong phút lặng yên
         anh chợt nhớ
         khuôn mặt anh trên những tờ yết thị
         chỗ này chúng treo giá đầu anh với giá mười ngàn
         chỗ khác
         chúng đặt điều vu khống
         anh cảm thấy rất gần anh
         những mắt nhìn mong ngóng
         và bao nỗi lo âu, ngờ vực
         anh đặt tay lên cành cây khô ráp
         tưởng như mình vừa gặp một bàn tay

         Cuộc đời anh cũng như gốc dương này
         anh gánh chịu trên vai cái chết
         và anh phải chứng minh
         cho những gì
         bất diệt

         3.Cát (2)

         Những người còn sống khi đặt chân trên cát
         tưởng như mình chạm tới thịt xương
         cát ròng ròng tuôn chảy dưới lòng chân
         cát như máu hai mươi năm đã đổ

         Trong cát ấy có mẹ cha của bao nhiêu trẻ nhỏ
         có chồng con của bao người góa bụa
         những bạn bè, đồng chí đã hy sinh
         người ta đứng trang nghiêm trước cát bạt ngàn

         Có thể rất nhiều người trong số họ
         không tuổi tên trong sử sách
         có thể họ đã chết bình thường, không chiến công hiển hách
         có thể mai sau người ta dần quên
         nhưng họ đã thành
         hạt cát dưới bàn chân
         thành miền đất chói ngời bên biển sóng

         Tôi tìm đến những đền đài tưởng niệm
         nào hay đâu
         chỉ là cát đấy thôi
         hạt cát nào trong đáy mắt bỏng sôi
         đang lặng lẽ lăn đi trên gò má

         4. Bài ca

         Những người hát đã chết khi họ còn rất trẻ
         nhưng họ đã truyền lại bài ca
         như người ta truyền lửa
         qua đêm đông giá buốt
         như người ta chuyền vũ khí cho chiến hữu
         chuyền gia tài cho cháu con

         Trên nẻo đường hiểm nghèo của cuộc chiến tranh
         phút ghê gớm đối mặt cùng cái chết
         những tan vỡ không thể hàn gắn được
         những bến bờ xa ngái, những chờ trông
         ánh mắt nhìn như đốm lửa trong đêm
         lời trăn trối trên môi người đồng chí
         tiếng sóng vỗ ngoài khơi thầm thĩ
         ngọn dương nào cao vút giữa xa xanh
         những xóm làng vùi lấp dưới tro than
         những ý nghĩ không cùng về hạnh phúc
         đó là lời của bài ca dịu dàng, quyết liệt

         Những người đàn bà
         gánh trên vai hàng chục cái tang
         những trẻ sơ sinh chỉ một mình sống sót
         những người yêu cách xa biền biệt
         những cụ già trơ trọi chẳng cháu con
         là người giữ bài ca
         qua suốt tháng năm
         qua tất cả mọi buồn vui, bão sóng

         Dù chỉ một lần bước trên cát nóng
         chỉ một lần hiểu thấu khúc ca kia
         suốt đời tôi chẳng thể bao giờ
         đặt bút viết những điều dối trá.

         Bình Dương (Quảng Nam)-Đà Nẵng 6/1983.















16.Quán cũ

         Những người khách
         bước tới góc của mình
         bàn của mình
         những góc
         những bàn
         được bao phủ bởi thứ ánh sáng mơ hồ
         không phải ánh nắng
         không phải ánh trăng
         không phải ánh đèn

         Họ
         những khách ấy
         biết nhau từ ba mươi năm trước
         từ hai mươi năm trước
         từ mười hay năm ,ba năm trước
         họ gặp nhau hàng ngày
         không bắt tay
         không chào hỏi

         Họ quen với căn phòng vuông vức
         với màu vôi vàng nhạt
         với những dây vạn niên thanh
         với bức ảnh một người đàn bà đẹp
         một đôi bóng lừng danh
         một nghệ sĩ vĩ cầm
         (người đàn bà đẹp qua tháng năm ánh mắt đã phôi pha
         những danh thủ bị đóng khung
         vẻ như chẳng còn mơ quả cầu vàng
         nghệ sĩ vĩ cầm đã lơi tay trên nấc phím)

         Họ quen cô chủ quán
         màu áo sẫm
         nụ cười e dè
         bước đi im khẽ
         cô là tuổi hai mươi của người bà
         cô là tuổi hai mươi của người mẹ
         tuổi hai mươi của những người từng biết người bà
         từng biết người mẹ

         Những khách mới
         bước vào quán
         ngỡ như lạc vào một phòng khách gia đình
         nhiều người ra đi mãi
         đôi người trở lại
         họ tưởng mình nghe thấy một tiếng gọi

         Dần dà
         họ tìm cho mình một góc nào
         một bàn nào
         một góc
         một bàn
         được bao phủ bởi thứ ánh sáng mơ hồ
         thứ ánh sáng vốn có của căn phòng











17.Chuyện kể


         Tặng Tuấn và Nga.

         Đã nhiều lần
         thường là vào các buổi sáng
         em tìm đến nơi anh

         Nhiều lần
         trong các buổi sáng ấy
         em đã toan đưa tay gõ lên cánh cửa
         đã toan cất lời

         Nhiều lần
         trong các buổi sáng ấy
         em nhìn phiến lá quỳ nơi bờ dậu
         những phiến lá hong phơi màu xanh dưới nắng
         ôi còn đến bao giờ màu xanh
         còn đến bao giờ
         tình đằm thắm

         Nhiều lần em tưởng gặp ánh mắt anh
         buồn rầu
         giễu cợt
         lướt qua những mảng tường
         những ghế bàn
         những góc tối
         rồi dừng lại
         sững ngây
         nơi khuôn cửa

         Nhiều lần
         em tưởng mình nghe thấy
         tiếng tay anh chạm vào cây guitar cũ
         như tiếng vọng một lời kêu gọi

         Rồi một lần
         em thấy cơn mưa rắc hạt xuống khoảng sân
         nếu hạt nảy mầm
         sẽ có lá trong suốt
         nếu mầm thành cây
         sẽ có nhánh cành trong suốt
         nếu cây đơm hoa
         sẽ có cánh mềm trong suốt
         nếu hoa tụ quả
         ta sẽ có những hạt trong ngần nước mắt

         Rồi một lần
         em thầm nói
         anh hãy tự mình mở tung cánh cửa
         anh hãy vẽ trên bức tường kia
         thật nhiều ô cửa mở.












18.Vườn

         Không có giọng nói của anh
         ánh nhìn của anh
         tiếng cười của anh
         để những đốm nắng cuối cùng của mùa hạ
         những chiếc lá đầu tiên của ngày thu
         có thể cháy lên thành ngọn

         Để khuôn mặt người đàn bà vừa ngang qua
         có thể huy hoàng
         dưới vành khăn nâu

         Để chiếc nhẫn ai đánh rơi
         được nhặt lại
         và dịu dàng chói sáng

         Để con tàu trẻ thơ chạy quanh các luống hoa
         thành chuyến tốc hành
         đưa người đến miền cây lá khác

         Để cỏ
         có thể xanh
         tựa hồ nước mắt
         để dấu chân người
         im giữ niềm bí mật

         Để em
         có thể nge nơi vòm dẻ nhuốm vàng kia
         lời nguyện cho nỗi yên hàn.














19.Thành phố tràn đầy hoa cúc

         Những đại lộ
         những vỉa hè
         những góc phố Sài Gòn
         tràn đầy hoa cúc
         xui lòng nhớ gió may

         Có phải thuyền đã về dưới triền đê cỏ xanh
         sông Hồng thắm tươi mềm mại

         Có phải chuông chùa đã dần tan
         sương sớm mặt hồ

         Có phải phố đã dài xa vắng lặng
         đèn khuya êm đềm trong cây

         Có phải lá đã vàng
         mái cũ đã thêm nâu

         Có phải người
         áo trắng mong manh
         đã lặng lẽ
         qua vòm cây lá đỏ

         Có phải người
         thốt lời hẹn ước
         dưới vầng mây
         rồi người đi biền biệt
         rồi mây xa cuối trời
         riêng ta còn níu giữ
         ngọn gió may xao xác
         giữa lòng tay.











20. Nguyện ước

         Ra đi
         như con thuyền rời bến
         khi ngày vừa rạng
         sóng chạm vào doi cát lời từ biệt

         Như chiếc lá còn xanh
         rời bỏ nhánh cành
         dấu vết mơ hồ trên cội rễ

         Như bông lan tím sẫm
         nhạt dần
         rồi một ngày khép lại
         tựa chiếc kén cũ xưa

         Ra đi
         như chiếc bình sứ lộng lẫy
         trong tủ kính sáng đèn
         âm thầm vỡ rạn

         Như bài thơ hay trên trang báo bị xé
         buồn tủi
         hân hoan
         bay
         tựa cánh bướm cuối ngày hè

         Như chiếc nhẫn của lời hẹn ước
         tuột khỏi vòng tay
         lẩn mình cùng sỏi đá

         Ra đi
         như người đàn bà
         đi khỏi mối tình của mình.















21.Ký ức

     
         Cho đến buổi chiều đầy hoa cúc và gió may
         khi chờ anh
         giữa phố phường Hà Nội
         em mới hiểu rằng em đã chờ anh
         tự thưở nào

         Thưở mặc áo rộng thùng thình
         tết tóc đuôi sam
         qua phà Bính
         đi xe ngựa về Thủy nguyên
         hát bài hát buồn
         khi chưa biết nỗi buồn
         lòng thầm ước được ra đi
         ra đi mãi
         về phía dãy núi màu lam sẫm

         Thưở yêu lần đầu
         người vừa ra trận
         thắp ngọn đèn trong đêm chiến tranh
         như thắp một nén hương

         Thưở qua cửa ô chiều đông cây vừa trút lá
         sương phủ kín mặt hồ
         nắng hoe lòng phố
         nghe hồn rêu phong

         Thưở em mở trang sách như mở từng cánh cửa
         về miền tuyết
         về miền hoa bách hợp
         miền thảo nguyên, miền mịt mù hoang mạc
         miền gặp gỡ lớn lao
         chia cách lớn lao

         Thưở em đi hết con đường, về đến biển
         gấp một con thuyền
         có cánh buồm đỏ thắm
         rồi thả trôi
         vào chốn không cùng

         Thưở em một mình
         trên chuyến tàu đêm
         qua những nhà ga hoang lạnh
         không ai tiễn đưa
         không ai chờ đón
         lòng vỡ òa
         gặp ngôi sao sáng xanh ngoài ô cửa

         Thưở em khóc cho một mối tình tan vỡ
         rồi lại khóc
         khi hiểu rằng
         mọi mối tình rồi sẽ đến ngày khô tạnh
         khóc cho đến khi
         nước mắt chan hòa trong mạch đập

         Ôi tự thưở nào
         tự thưở nào


         em đã mơ thấy buổi chiều nay












22.Đắc đạo

         Dương Bích Liên uống rượu
         lặng im
         và vẽ

         Đã vượt qua
         mối vướng bận đời thường
         đã vượt qua
         mối vướng bận vinh quang
         đã vượt qua
         nỗi lo sợ âm thầm
         khi phải đứng riêng về một phía

         Dương Bích Liên uống rượu
         lặng im
         và vẽ

         Những đối cực
         đã tuyệt vời hài hòa trên mặt vải
         những tiếng kêu bi thương, cuồng nộ
         đã tan
         trong lặng thinh kỳ bí
         và rượu
         đã thay cho mọi loài ngũ cốc*

         Rồi ra đi
         như một vì sao
         chợt tắt giữa bao la

         3/1990.

*Những năm cuối đời, dường như họa sĩ chỉ uống rượu. Ông nói với bạn bè: rượu là phần tinh túy nhất của ngũ cốc.















23.Chuyện ở vườn

1.
   Một con chim họa mi vừa chết
   mất đi cùng tiếng hót của nó
   một ít niềm vui một ít nỗi buồn

   Tôi đem xác chim chôn dưới gốc Tường vi đang độ hoa
   cùng với những đóa hoa rực rỡ
   có một ít sướng vui một ít muộn phiền

   Cây Tường vi đứng cạnh cổng sắt nâu
   ngày ngày cánh cổng mở ra
   trước những mặt người thân quen những mặt người xa lạ

   Sau cánh cổng kà con đường nhỏ
   cắt ngang con đường nhỏ là con đường lớn
   cuối con đường lớn là phố đông

2.
   Mai nở trái mùa
   vàng cô độc

   Bụi quỳ cứ lớn lên
   lớn lên mãi
   tựa như lòng còn nhớ đồi cao nguyên

   Gấu và Sao
   Nai và Đen
   bốn con chó vẩn vơ
   sủa mãi cánh diều mắc giữa khóm tre

   Rùa núi trầm tư
   khởi sự cuộc viễn du dưới một gốc xoài
   chuyến đi mải mê không ngoảnh lại
   vòng quanh bốn bức tường rào
   chuyến đi vô tư không tính đếm
   lần thứ một nghìn cũng như lần thứ nhất

   Rồi một ngày
   rùa đi qua cánh cổng sắt nâu
   ô!
   lại có một trời đất khác.

   1998.

















24.Quà tặng

   Có một lần
   anh mang cho cô phong giấy nhỏ
   cô trút ra lòng tay
   những chiếc cúc màu xanh, màu tím, màu vàng

   Anh đã đem cho tâm hồn anh
   anh đã đem cho thân thể anh
   nhưng mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây
   anh còn muốn cho cô những gì anh có thể có trong đời

   Năm tháng qua đi
   cô vẫn còn giữ lại
   chiếc cúc màu
   không đính vào áo mặc thường ngày
   một cây nến
   không thể thắp dưới ánh điện
   một chiếc lưới bọc tóc
   quá mỏng manh với mái tóc của cô
   một chiếc bình
   không có vị nồng của rượu

   1984















25.Một buổi chiều ở Praha

     Như người ta thường đi trong các giấc mơ
     tôi bước một mình trên vỉa hè đá lát
     giữa cảnh sắc lạ lùng, hư thực
     như chưa qua
     như đã gặp lâu rồi
     sông V’tava lặng lẽ êm trôi
     gợi nhớ điều gì xa lắc
         những con đường không có nơi bắt đầu
         không có nơi kết thúc
         những đền đài trầm mặc uy nghiêm
         cánh chim câu như một thoáng giật mình
         trong giấc mơ dài bao phố nhà nối tiếp
         có điều gì tôi chưa hiểu được
         dắt tôi đi trong chiều nay

         Không phải niềm vui
         không phải nỗi buồn
         không phải hạnh phúc
         không phải đau khổ
         có thể là tất cả
         có thể
         là một điều hoàn toàn khác biệt
         Praha trong hoàng hôn đem lại cho tôi
         và tôi nhận biết Praha bằng điều đó

         Tôi tưởng như nếu mình đưa tay gõ lên cánh cửa
         cánh cửa sẽ mở ra
         và Nhiêmxova với mái tóc dài
         hát cho tôi nghe bài ca xưa cũ
         rồi trong một ngôi nhà khác
         Nezval sẽ nói đôi lời giản dị
         bởi có lẽ nào Praha trong mưa lại thiếu vắng Nezval

         Lòng bồn chồn giữa Praha bình yên
         tôi như người đánh mất
         lại như người vừa tìm thấy được
         như người đã trải qua
         như người đang đón gặp
         như người sắp đi xa
         như người mới trở về
         ôi Praha
         Praha.

         10/1981.
















26. Người đàn bà ngồi đan

         Giữa chiều lạnh
         một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
         vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
         nhẫn nại
         như thể đó là việc phải làm suốt đời
         vội vã
         như thể đó là lần sau chót.

         Không thở dài
         không mỉm cười
         chị đang giữ kín đau thương
         hay là hạnh phúc
         lòng chị đang tràn đầy niềm tin
         hay là ngờ vực.

         Không một lần chị ngẩng nhìn lên
         chị đang qua phút giây trước lần gặp mặt
         hay sau buổi chia ly
         trong mũi đan ki a
         ẩn giấu niềm hân hoan
         hay nỗi âu lo
         trong đôi mắt kia
         là chán chường
         hay hy vọng

         Giữa chiều lạnh
         một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
         dưới chân chị
         cuộn len
         như quả cầu xanh
         đang lăn những vòng chậm rãi.  





















Chân dung








Nhớ Quỳnh


1.

Tôi chỉ giữ được một bức ảnh chụp chung với Quỳnh hôm một số nhà thơ tiếp Evtusenko, khi ông đến Việt Nam. Ảnh đã cũ và khá nhỏ nhưng vẫn còn có thể nhận rõ từng người. Evtusenko rất cao lớn, đội mũ lưỡi trai trắng, cười hóm hỉnh. Bên phải ông là Nguyễn xuân Sanh, Phạm Hổ, Phạm Tiến Duật và bên trái là Tế Hanh, Thúy Toàn, Thái bá tânxuân Quỳnh và tôi. Quỳnh mặc quần jean, áo thun đen, rất đúng mode và cười rất tươi. Hình như lúc nào chụp ảnh Quỳnh cũng cười và cười rất tươi, hai lúm đồng tiền hiện rõ trên khuôn mặt sắc sảo, mặn mà. 

Bữa đó, giữa chừng câu chuyện, Evtusenko hỏi chúng tôi có biết Marina Xvetaeva không. Người bảo có, kẻ bảo không. Evtusenko nói, giọng xúc động, đại ý: Đó là một nhà thơ lớn và là một người phụ nữ tuyệt vời. Đôi môi của bà có thể sánh với kim cương. Quỳnh quay sang tôi:” Nếu là kim cương thì đàn ông sẽ bán đi để lấy tiền tiêu xài”. Tôi nói to lời nhận xét của Quỳnh, mọi người đều cười. Riêng Evtusenko thì phải đợi anh Thúy Toàn dịch xong mới được cười vì câu nói hóm hỉnh của nhà thơ nữ xinh đẹp. Quỳnh lại thì thầm:” Nhìn cậu kìa, cậu đeo dây chuyền, đeo nhẫn mặt đá như tài tử xi-nê vậy. Cậu lại sắp lấy vợ nữa đấy.” Cậu ở đây là Evtusenko. Quả thật, nhà thơ này khá màu mè, ăn diện. Ông khoe với cô phiên dịch vừa mua được một chiếc thắt lưng mạ vàng ở Thái Lan, dành tặng cho vợ sắp cưới, hình như trẻ hơn ông rất nhiều.( Quỳnh thường gọi các vị có chút danh tiếng là cậu, có pha chút diễu cợt trong giọng nói, trong bộ điệu. Nào là cậu HC, cậu TH, cậu Th, cậu LD, cậu TC…Tôi không hiểu vì sao, tiếng cậu của Quỳnh khi được đặt trước tên các nhân vật quan trọng, luôn khiến tôi buồn cười.).Giữa lúc mọi người đang trò chuyện sôi nổi, Quỳnh lại quay sang tôi:” Hôm nay mày có đi mua dầu không. Mua dầu ở Yết Kiêu vắng hơn’.

Evtusenko vừa bước lên ô tô là Quỳnh đã vội vã dắt chiếc xe đạp mi ni có buộc sẵn can dầu, ra khỏi 65 Nguyễn Du. Nhà Quỳnh ở trên tầng cao của 96 phố Huế nên luôn thiếu nước, nhất là vào mùa hè. Vì vậy, có khi Quỳnh còn đem cả giỏ quần áo đến giặt chỗ vòi nước khuất phía bên hông cơ quan. Thế là, diễn ra cái cảnh nhà văn này, nhà thơ nọ xúm quanh cái máy nước ấy để trao đổi công việc, để thăm hỏi, để tán gẫu.. Và cũng như ở mọi nơi nào có Quỳnh, câu chuyện chỗ máy nước rất rôm rả, náo nhiệt.

2.
Tôi quen Quỳnh từ mùa hè 1969. Dịp đó, từ chỗ sơ tán của Viện nghiên cứu Văn Học tại Hà Bắc, tôi đã đọc và viết bài phê bình đầu tay về tập thơ Hoa đọc chiến hào của Quỳnh. Tôi gửi bài cho Quỳnh. Quỳnh viết thư trả lời ngay, mừng vì có người hiểu thơ mình. Tiếc rằng tôi không còn giữ bức thư mà bài của tôi cũng đã thất lạc.

Tôi nhớ rõ buổi tối đầu tiên đến 96 phố Huế thăm Quỳnh. Nhà Quỳnh chật lắm, tôi lại đang có mang cháu đầu lòng, Quỳnh kéo tay rủ tôi lên sân thượng ngồi chơi cho mát. Quỳnh lúc này đã nổi tiếng trong làng văn cả về thơ và về nhan sắc nhưng Quỳnh không có chút gì điệu hạnh, kiểu cách. Trái lại, Quỳnh rất ân cần, vồn vã. Biết tôi hồi đi học có làm thơ, Quỳnh dặn tôi viết rồi chuyển cho Quỳnh. Sau này, khi rời khỏi viện Văn, tôi làm thơ nhiều hơn và có thơ in trên báo Văn Nghệ, nơi Quỳnh làm việc. Năm 1976 tôi về làm biên tập thơ tại nhà xuất bản Tác Phẩm Mới. Ít lâu sau thì Lê Minh Khuê về tổ văn xuôi và Quỳnh về tổ Văn học thiếu nhi. Chúng tôi thường tụ tập ở phòng của tổ thơ. Vương Trí NhànLại Nguyên Ân trước khi vào phòng lý luận –phê bình cũng thường tạt vào đây hàn huyên chuyện này chuyện khác. Đây cũng là căn phòng đón rất nhiều các nhà văn, nhà thơ. Một phần vì nó ở ngay đầu cầu thang. Phần khác, vì ở đây, các câu chuyện thời sự, đặc biệt là thời sự văn nghệ, bao giờ cũng mới mẻ, nồng nhiệt, thẳng thắn. Ba chúng tôi khá thân nhau, chia sẻ được với nhau nhiều điều trong công việc, trong đời sống. Hồi đó đứa nào cũng nghèo, chưa hết tháng đã hết tiền. Cứ thấy tôi và Quỳnh loanh quanh chỗ phòng tài vụ, cô Thoa thủ quỹ liền hỏi: các chị có cần ứng lương không. Những khi rủng rỉnh một chút, chúng tôi rủ nhau đi ăn bánh rán, ăn chè, sang nữa thì ăn phở chỗ đầu đường Nguyễn Du, giáp với phố Huế. Lê Minh Khuê có một câu nói vui rất nổi tiếng vào lúc này: phở là món ăn ngon nhất trên đời.

Có lần, cả bọn đang ngồi tán gẫu, thì thầm chuyện “cậu” này, “cậu” kia thì anh Nguyễn Minh Châu đến. Anh mặc bộ quần áo bộ đội, tay xách túi vải. Vừa bước vào, anh đã hỏi:” Các cô có chuyện gì mà vui thế. Còn tôi thì nhiều nỗi sợ quá”.Lúc này anh Châu cho in một loạt truyện ngắn mới và đang bị phê bình là có vấn đề tư tưởng, là phi xã hội chủ nghĩa…Thấy anh Châu có vẻ buồn, tôi và Khuê chẳng dám nói gì. Quỳnh thì gọi mấy người phê bình anh Châu với đủ các thứ biệt danh. Người thì”chữ vón trong đầu”, người thì “mồm như ống nhổ thầy đề”, kẻ lại giống”bươm bướm ma”…Anh Châu phì cười. Thế là quên cả bực dọc. Anh lững thững ra về, xuống cầu thang, ngang qua cửa sổ, còn giơ tay chào, nét mặt đã tươi tỉnh, nhẹ nhõm.

Quỳnh thuộc nhiều ca dao, tục ngữ, ví von sắc sảo. Ở đâu có Quỳnh là ở đó có tiếng cười. Quỳnh nhận xét chân xác, ngôn ngữ tinh diệu, chỉ một câu nói, đôi khi chỉ một từ đã có thể làm rõ tính cách một người. Chỉ một người quá cẩn thận, Quỳnh bảo: cậu ta rửa tay ở máy nước này rồi lại tráng ở máy nước khác. Thấy một vị lãnh đạo văn nghệ cuộc họp nào cũng nhắc đi nhắc lại những điều đã cũ đến nhàm tai, Quỳnh bảo: Y như cái mày hát hỏng ấy, cứ bèo dạt, bèo dạt mãi. Chả thấy mây trôi đâu cả.

Những điều tưởng khó khăn, phức tạp, lý luận dài dòng, được Quỳnh ‘giải mã” lại thành ra giản dị, sáng sủa. Và bao giờ cũng mang khí vị hài hước. Trong lúc người ta tổ chức các cuộc hội thảo lớn nhỏ, sôi nổi tranh cãi”làm thế nào để đổi mới thơ “ thì Quỳnh nói tỉnh khô: Làm thơ cho hay là đổi mới thơ. Có người viết không được nhưng cứ đổ tại thiếu điều kiện này điều kiện khác, thiếu tự do. Quỳnh cười: chẳng hiểu cậu ấy dùng tự do vào việc gì. Cứ loanh quanh như chó nằm chổi ấy. Rồi Quỳnh nghiêm trang: phải tự tìm lấy tự do chứ đi xin ai. Có lần cả bọn chúng tôi đang túm tụm bàn chuyện của nhà văn nọ, có vị lãn đạo ghé lại bảo: các cô các cậu đừng bàn tán nhiều, làm mất uy tín của ông ấy. Trong lúc cả bọn ngớ ra, chưa biết trả lời ra sao thì Quỳnh đã đáp: Có đâu mà mất ạ. Khi nghe mọi người bàn luận về nguyên cớ khiến người ta làm thơ, Quỳnh bảo:”Không đui, què, mẻ, sứt thì ai đi làm thơ làm gì”. Cái khả năng gọi sự vật bằng tên cúng cơm ấy tôi chỉ gặp ở Quỳnh. Người ta bảo Xuân Quỳnh là hậu duệ của bà Xuân Hương chắc vì lẽ đó.

Mọi người dễ nghĩ Quỳnh là người ruột để ngoài da, chuyện gì cũng kể cho cả làng cả xóm cùng nghe. Nào là chuyện mua được nửa ký đường, vài mét vải ngoài tiêu chuẩn, nào là việc mua phải chiếc tủ lạnh dỏm, nước chẳng chịu đông, Quỳnh gọi nó là tủ mát. Nào là chuyện hai vợ chồng vừa mua chiếc xe Mobilet cá ươn. Nó ươn thật. Vũ cưỡi xe ngoài phố, gặp bạn đi xe đạp, vẫy tay chào đi trước. Nửa đường xe hư, sửa mãi, đến nơi thì mọi người họp đã gần xong. Rồi chuyện Vũ đập muỗi. Thấy muỗi bay, Quỳnh bảo Vũ đập. Vũ đập nhẹ quá, muỗi bay mất. Hôm sau thấy ruồi, Vũ quyết lập công, đập thật mạnh, be bét cả hai tay. Rồi chuyện nhà Quỳnh trồng hành trong chiếc chậu men cũ. Lúc hành nảy lá, Vũ kêu lên;hành kìa. Lũ trẻ con xúm lại, cùng kêu lên: hành kìa. Ông Đoàn Dũng bên phố Trẫn Nhân Tông nhìn qua, lại kêu: hành kìa. Quỳnh cười; nhà tao giồng hành để kêu…

Người ta cũng dễ nghĩ Quỳnh là người dạn dĩ, thậm chí táo tợn. Không ưa một người, nghĩ là người đó hèn, một hôm gặp giữa đường, Quỳnh bảo:Thấy ông, tôi chgi3 muốn cho ông một hào. Câu nói như đóng dấu lên trán nhân vật ấy. Rồi người là”trâu luộc cả con”, người là “dán chui lọ mỡ”, kẻ thì”cười như cua”…

Quỳnh nói suốt ngày, hết chuyện nọ đến chuyện kia. Đi họp, ngồi cạnh Quỳnh, chẳng còn tâm trí đâu mà nghe người khác nói. Tôi đi họp về, nhà tôi hỏi: có gì hay không. Tôi đáp: hôm nay ngồi cạnh Quỳnh, nghĩa là chẳng biết họp về chuyện gì, ai nói và nói những gì. Nếu có lúc nào than phiền thì Quỳnh đáp:” Tao nói hay hơn”. Có lần tôi trêu Quỳnh:”Mày mà bị địch bắt, chỉ cần nó cấm nói vài giờ là bao nhiêu bí mật sẽ khai tuốt tuồn tuột”. Quỳnh cười, nheo nheo mắt:” Lấy đếch đâu bí mật mà khai”. 

Nhưng tôi biết Quỳnh có những nỗi khổ không bao giờ nói ra, những giọt nước mắt được giấu kín.

Nhưng tôi biết Quỳnh là người rất e thẹn, rất ngại đám đông. Có lần, lãnh đạo công trường nọ mời Quỳnh đến nói chuyện, đọc thơ cho công nhân. Quỳnh tìm cách từ chối không được, đành nhận lời. Lúc về, Quỳnh bảo với tôi:” Thế quái nào mà nói hết cả ý, khản cả giọng mà nhìn đồng hồ mới chỉ ba mươi phút”. Quỳnh có mối bất hòa với Xuân Diệu (hình như chuyện chọn thơ cho một tuyển tập nào đó), khi Xuân Diệu mất, Quỳnh đến 51 Trần Hưng Đạo dự lễ truy điệu nhưng chỉ đứng quanh quẩn chỗ mấy gốc cây ngoài vỉa hè, trông rất bối rối. Đọc thơ, đọc tham luận trước đám đông, giọng Quỳnh run run, nghẹn ngào như sắp khóc. Có lần tôi đùa, bảo Quỳnh:” chỉ được cái đanh đá xó nhà”.

3.
Quỳnh thích hoa cúc. Thơ Quỳnh rất nhiều hoa cúc. Tôi còn nhớ như in hình ảnh Quỳnh một chiều thu trên đường Trần Bình Trọng, quãng gần giáp đường Trần Hưng Đạo. Vũ chở Quỳnh trên chiếc xe đạp cũ, nét mặt Vũ hiền hòa. Quỳnh ngồi sau, tay ôm một bó cúc đại đóa, vẻ rất vui.

Quỳnh thích màu vàng. Mùa hè 1973, khi tôi sinh cháu thứ hai, Quỳnh đến thăm. Quỳnh mặc một chiếc áo phin nõn màu vàng nhạt, Quỳnh khoe mới mua được. Quỳnh đem cho tôi một chục ổi chín, thơm phức, ngượng nghịu bảo:” Thay vì mang trứng thì tao lại mang ổi”. Tôi nhớ bấy giờ Quỳnh nghèo lắm, như tất cả chúng tôi. Quỳnh ngồi chơi rất lâu, nói rất nhiều chuyện. Quỳnh đang rất buồn vì một chuyện tình cảm đổ vỡ. Quỳnh có đôi mắt rất đẹp và buồn. Hôm ấy tôi nhìn thấy ngấn nước mắt trong đôi mắt đen tuyệt đẹp ấy.

Mùa đông năm ấy Quỳnh lại khoe chiếc áo len mới, cũng màu vàng nhạt. Chiếc áo rất vừa vặn. Chính màu vàng nhạt ấy làm tôn màu da nâu của Quỳnh.

Có hôm Quỳnh bảo tôi:” Tao không có tiền, mày cũng không có tiền. Tao đi vay, mày cũng đi vay. Vậy mà trông mày cứ đủng đà đủng đỉnh, phát ghét”.

Quả là Quỳnh lúc nào cũng vội vàng, tất tưởi. Có hôm hai đứa đang ngồi chơi ở ghế đá ngoài sân 51 Trần Hưng Đạo, trông thấy một vị lãnh đạo đi qua, Quỳnh bật dậy chạy theo. Lát sau Quỳnh quay lại, cười phân bua:” Xin tăng lương cho ông Vũ”.Ở các cuộc họp, Quỳnh không ngồi yên, chạy đi chạy lại, gặp người này người nọ để trao đổi bài vở, trao đổi công việc. Có hôm, đang đi giữa phố, chợt nghe Quỳnh gọi ơi ới.Tôi dừng lại, thấy Quỳnh dắt xe băng qua phố, nói không kịp thở:”đang có dịch đấy, đừng cho trẻ con ăn quả xanh nhé”. Rồi vội vã lên xe đạp đi.

Dịp nhà xuất bản tổ chức đi nghỉ ở Bãi Cháy, Quỳnh đem theo ba đứa con, tôi đem theo hai, lại thêm mấy cháu con cô Thịnh, con bác Khánh, một lũ con trai khoảng mươi, mười lăm tuổi, rất nghịch. Lúc bọn trẻ đi thăm thú hang động, đi tắm, tôi và Quỳnh dạo chơi trên bờ, đợi con. Chúng kéo về, đói ngấu.. Xuất ăn có hạn, Quỳnh bê cơm, bê canh chia đều cho bọn nhỏ. Còn lại một ít, Quỳnh bảo:”chỗ này của tao với bác Nhi”. Câu nói cứ lặp đi lặp lại nên đến bữa ăn, bọn trẻ đợi Quỳnh chia xong phần, lại đồng thanh kêu lên:”chỗ này của tao với bác Nhi”. Hai bà mẹ bữa nào cũng đói.

Quỳnh thương con. Thương cả ba đứa. Nhưng có lẽ Quỳnh ái ngại cho Tuấn Anh hơn cả. Nhà Quỳnh rất chật. Quần áo, sách vở, tranh ảnh…bày hết cả trong gian phòng khoảng 10 mét vuông. Thế nhưng khi Vũ đã có nhiểu vở diễn, Quỳnh đã có đồng ra đồng vào, tôi hỏi sao không tìm chỗ khác cho rộng rãi hơn, Quỳnh bảo, ở quanh quẩn để còn chăm cho Tuấn Anh ( Tuấn Anh ở với bố Tuấn trong một căn phòng khác, cũng tại 96 phố Huế). Có hôm tôi gặp Quỳnh đến cơ quan sớm, Quỳnh bảo có hẹn với bà cụ anh Tuấn. Khi tôi hỏi có việc gì, Quỳnh bảo bàn với cụ tìm cho anh Tuấn một đám tử tế để anh ấy vui mà Tuấn Anh cũng được nhờ.

Dạo chúng tôi đi nghỉ ở Bãi Cháy, Tuấn Anh đã lớn nhưng Quỳnh vẫn lo lắng, chăm nom từng ly từng tí. Tuấn Anh bị trầy chân, đem đường rắc lên vết đau theo sự chỉ dẫn của một tài liệu nào đó. Quỳnh thấy vậy hoảng quá, quýnh quáng lau rửa rồi bôi thuốc cho con. Hôm chúng tôi trở về Hà Nội, Tuấn Anh vẫn còn đau chân. Đoàn chèo Quảng Ninh mời Vũ ở lại làm việc. Quỳnh và Mí (Quỳnh Thơ) cũng ở lại. Quỳnh đứng tần ngần giữa đường nhìn chiếc ô tô của cơ quan rời đi. Quỳnh lo Tuấn Anh về mà không có mẹ theo cùng.

Đối với Kít (Minh Vũ), Quỳnh cũng có sự chăm sóc đặc biệt. Kít gọi Quỳnh là má Quỳnh ( Chắc là để phân biệt với mẹ Uyên). Hồi Kít vào trường Sân khấu-Điện ảnh, Quỳnh mừng lắm. Quỳnh kể, thường dậy từ 4 giờ sáng để lo cho Kít ăn sáng, kịp vào Cầu Giấy học.

Quỳnh mua áo quần cho ba đứa, đan áo cho ba đứa, làm thơ, viết truyện cho ba đứa. Những bài thơ Quỳnh viết tặng cho các con không chỉ biểu lộ tình yêu của người mẹ mà còn có một giá trị văn học độc đáo. ( Ở ta, nhiều người làm thơ thiếu nhi, hoặc tạt qua hoặc dành tất cả thời gian, tâm sức cho công việc này, trong đó có tôi, nhưng có được những bài thơ có giá trị văn chương thực sự thì không nhiều). Có cảm giác, ở Quỳnh, bên cạnh người phụ nữ đa đoan, say đắm, day dứt là đứa trẻ thơ trong trẻo, thông minh, tinh nghịch. Hay, cũng có thể nói như Thanh Tâm Tuyền:” Tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ/ Trong sạch như một lần sự thật”. Không phải ai cũng có thể “ sống lại” như vậy. Không phải ai cũng có thể lưu giữ tâm hồn trẻ thơ như vậy. Con yêu mẹ, Mùa xuân mừng con thêm một tuổi, Cắt nghĩa, Con chẳng biết được đâu, Bầu trời trong quả trứng, Chuyện cổ tích về loài người…là một giá trị trong khối giá trị lớn của thơ Xuân Quỳnh. Nhờ tình yêu thương của mẹ Quỳnh mà bọn trẻ rất thân thiện, yêu quý nhau. Quỳnh là người mẹ tuyệt vời. Quỳnh được sinh ra để làm một người yêu, để làm một người mẹ. 

Tôi vào Sài Gòn một năm thì Quỳnh mất. Anh Hoài Vũ gọi điện thoại báo tin dữ, tôi không tin. Tôi cãi, sắp vào năm học rồi, Quỳnh đưa Mí đi Hải Phòng làm gì. Chỉ đến khi Hồng Ngát từ Hà Nội vào, đến nhà báo tin, tôi mới tin sự thật đau đớn đó.

Tôi gặp Quỳnh lần cuối vào tháng 2/1988. Tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội, chuẩn bị đi dự một khóa ngắn hạn ở học viện Gorki. Quỳnh đã đi khóa trước đó. Quỳnh kể chuyện học hành, dặn dò tôi mang thứ này thứ khác. Hôm chúng tôi đi, Quỳnh theo xe qua tận Nội Bài để tiễn. Quỳnh đưa cho tôi một chục đũa tre, bảo đem theo mà ăn cơm. Tôi có cảm giác Quỳnh đang buồn, đang có chuyện muốn nói nhưng vì thời gian gấp gáp, lại chạy đi chạy lại lo việc nên chúng tôi không có lúc nào trò chuyện.

Sau khi Quỳnh mất, có lần tôi nằm mơ gặp quỳnh. Quỳnh vào một căn nhà, tôi đi theo Quỳnh. Quỳnh bước qua cánh cửa rồi khuất hẳn. Bài thơ Chiêm bao gặp Xuân Quỳnh được viết sau giấc mơ này.


Cơn mưa ta ngóng đợi
còn ở tận cuối trời
đường dài, ngày nắng xối
bước chân trần Quỳnh ơi

Nào thấy đâu bến bờ
sau gió Lào, cát trắng
nào đâu mảnh vườn êm
nào đâu miền biển lặng

Ánh mắt nhìn đăm đắm
lệ trôi qua môi cười
suốt một đời vội vã
suốt đời không tới nơi

Kìa mây mùa thu trôi
cúc đã vàng thắm lại
thơ buồn trên mặt giấy
bóng người về đơn côi

10/2003. 







Chân dung






Một khoảng không tinh khiết



   1. Mùa thu 1995, Orleans, trong căn nhà nhỏ, đơn sơ, họa sĩ Thái Tuấn (1918-2007) tiếp những người bạn từ Việt Nam sang, từ Paris đến. Ông ra tận cổng ngoài đón khách. Dáng ông cao, gầy, trang nhã trong chiếc áo len màu xám nhạt. Trong số khách, có người ông đã quen, có người ông mới gặp lần đầu mà tất cả đều được hưởng sự ân cần, tin cậy nơi ông.
   Ông dẫn khách đi vòng vòng quanh căn phòng nhỏ như đi xem một cuộc triển lãm với những bức sơn dầu của chính ông. Có lúc, người ta như quên rằng mình đang ở trên đất Pháp, bởi cuộc hội ngộ kỳ lạ cùng những người phụ nữ thuần Việt, áo tứ thân, thắt lưng bao, yếm sồi, khăn vành dây, với đôi bồ, chiếc lu đựng nước, chiếc gáo dừa, chiếc chõng tre… Việt Nam, vâng, Việt Nam từ tận đáy tâm hồn. Có người đã nhận xét rằng cái đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong tranh Thái Tuấn không phải là cái đẹp của từng phần thân thể như khuôn mặt, đôi môi, bộ ngực… mà là một cái đẹp toàn thể, đẹp trong cái vẻ thùy mỵ, trong ngần riêng tư của mình.
   Mọi người trở lại phòng khách, lặng im như chưa ra khỏi cảm giác bàng hoàng trước một vẻ đẹp, một nỗi nhớ, một nỗi thiết tha nhường ấy. Chính vợ họa sĩ, người phụ nữ có khuôn mặt thuần hậu, mái tóc bạc búi lại sau gáy, giản dị trong chiếc áo cánh trắng, là người đã “đánh thức” mọi người. Bà đã bày lên bàn ăn bữa cơm có rau cải nấu thịt nạc, nem rán, thịt rim mặn. Một bữa cơm thuần Việt.

   2. Sinh năm 1918 tại Hà Nội, khoảng lên năm, lên sáu, có lúc Thái Tuấn đã cùng bố mẹ ở trong một căn nhà nhỏ giữa vườn Bách Thảo. Bố ông là một kỹ sư canh nông, nhận chăm lo vườn cây ăn quả và rau tươi cho người Pháp tại đây. Thế rồi một tai họa xảy đến. Bố ông có cuộc tranh cãi với một người Pháp, bị phạt và bị điều lên Tuyên Quang. Có thể đây là bước đầu tiên cho cuộc di chuyển rày đây mai đó của Thái Tuấn. Thái Tuấn được gửi về Thanh Hóa, theo học tại trường nội trú. Ông yêu những bức tranh trong sách giáo khoa, yêu những căn phòng xinh xắn, yêu những tủ giường, bàn ghế được bày biện đẹp đẽ của ngôi trường. Ông vẽ những bức tranh đầu tiên vào lúc này. Lên mười, ông theo bố về Tuyên Quang. Núi rừng, sông suối, những cậu bé Mường mộc mạc là những gì đẹp đẽ nhất của tuổi thơ còn lưu lại trong tâm hồn ông.
   Rồi Thanh Hóa, Nam Định, Sài Gòn. Rồi lại Nam Định, Sài Gòn, Paris… Trên chặng đường dài hơn tám mươi năm, mọi cuộc gặp gỡ với ông đều tốt đẹp. Ông có thể đón nhận những con người rất khác nhau và rất khác ông, miễn là họ có một tấm lòng, một tài năng. Hồ DzếnhĐặng Thế PhongBùi Xuân Phái, Thanh Châu, Đái Đức Tuấn, Quang Dũng, Lê Tài Điển, Cù Nguyễn… Ông nhắc đến họ, nhớ thói quen của từng người, cả những câu chuyện tình duyên, những buồn lo của họ, từ những tháng năm nào. Sau gần ba mươi năm ở Pháp, lúc về Việt Nam, ông mang cho người này chiếc mũ bêrê, người kia chiếc tẩu thuốc, người nọ chiếc khăn màu xám… những thứ mà ông nhớ rằng họ đã từng yêu thích. Nghe ông, ta dễ nhớ đến câu nói của một nhà văn Pháp nổi tiếng: kỷ niệm không có mưa. Dường như, ông đã lọc hết bụi bặm, gai góc để chỉ giữ lại những gì sáng trong, tinh khiết.

   3. Đã có nhiều họa sĩ, nhiều nhà phê bình mỹ thuật nói đến màu xanh của Thái Tuấn. Đó là màu xanh rêu, xanh biển, xanh xám tạo nên một không khí nhẹ nhàng, đạm bạc nhưng trang nhã, tinh tế. Đó là cái không khí “Qua làn ánh sáng mờ của những buổi sáng sớm hoặc chiều hôm” (Huỳnh Hữu Ủy).
   Các bức tranh của Thái Tuấn ít màu, ít nét và thường chỉ có một người, một vật. Đó là một thiếu phụ đang vấn tóc, một cô gái đội quả dưa hấu, một thiếu nữ tựa tay lên cây đàn, một thiếu nữ đứng trước gió với chiếc khăn quàng hoặc một người đàn ông khoác chiếc guitar ngang ngực, một người đàn ông khác cầm trong tay chùm bóng màu… Và, một con chim đậu trên nhánh xương rồng, một chiếc khăn mắc lại trên nhành cây… Thái Tuấn dành phần còn lại của bức tranh cho một không gian rộng rãi, thanh tĩnh. Tưởng như không có gì có thể ảnh hưởng, có thể xáo trộn không khí riêng biệt đó của Thái Tuấn. Ông đã tạo nên một vẻ đẹp nằm ngoài mọi giải pháp kỹ thuật. Ông thích nhắc đến câu nói của Charles Trenet: “Tôi không theo mốt nào cả nên không sợ lỗi mốt”. Tất nhiên, đó chỉ là một cách nói, một cách giải thích. Điều chính yếu là ông đã tạo nên một thế giới - một thế giới không bị ràng buộc bởi bất luận điều gì, một vẻ đẹp không phôi pha theo năm tháng, qua những miền đất, qua những thăng trầm của chính cuộc đời ông.

   4. Và, Thái Tuấn còn là một họa sĩ hiếm hoi viết lý luận, phê bình mỹ thuật. Vựng tập của ông xuất bản năm 1996 có tên Tuyển tập tranh và tiểu luận. Lý luận, suy nghĩ về nghề của Thái Tuấn được rút ra từ chính lao động sáng tạo của ông. Vì lẽ đó, nó có một sức hấp dẫn riêng, một hơi thở riêng, mạnh mẽ và uyển chuyển.
   Thật thú vị khi đọc những dòng viết về trách nhiệm của nghệ sĩ: “… Nghệ sĩ không làm gì khác hơn, mới lạ hơn là nhờ tác phẩm để hàn gắn lại cuộc đời đã quá tả tơi, rách nát bởi những phân chia. Hắn phải vượt khỏi những khoảng cách mới có thể xóa bỏ được những khoảng cách. Khoảng cách giữa nghệ thuật và kỹ thuật, giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và con người…” và: “Nghệ sĩ như một tên hề trong trò chơi ảo thuật, làm thế nào hắn có thể từ cái không lấy ra một bông hoa thật”.
   Thật thú vị khi đọc những dòng ông viết về tính dân chủ của màu sắc: “… Không thể kỳ thị màu sắc, không thể chỉ lựa chọn lấy những màu sắc sáng chói nhất, rực rỡ nhất mà phải đặt mọi màu sắc, hình nét trên cùng thang giá trị… khi nằm trên bức tranh, mọi màu mọi vẻ đều bình đẳng, bình quyền”.
   Thật thú vị khi đọc những dòng ông viết về lao động sáng tạo nghệ thuật: “Hình ảnh và màu sắc, ý tưởng và tình cảm, mọi sự chợt đến chợt đi nhanh chóng, đột ngột đến nỗi dù trí óc có thông tuệ, minh mẫn tới đâu cũng khó mà điều khiển nổi cây cọ”.
   Và, thật cảm động khi đọc những dòng này: “Người làm nghệ thuật đã ước mong đem hết ánh sáng của cuộc sống vào trong họa phẩm, có lẽ tác phẩm nghệ thuật cũng đã le lói được chút ánh sáng, song tất cả ánh sáng của họa phẩm có gom lại cũng không bao giờ có thể châm nổi một điếu thuốc, như ánh sáng của những vị hành tinh trong cõi xa xăm vô tận.”
   Với ông: “Tất cả những chủ thuyết, trường phái nghệ thuật, tất cả những khám phá kỹ thuật, những phong cách khác nhau để tạo tác hình thể, màu sắc, chẳng qua cũng chỉ là những thử thách dò dẫm luôn luôn thay đổi và đều lồng trong sở thích của từng cá nhân và thời đại”. Với ông: “Tác phẩm nghệ thuật không là một phương tiện, nó chính là cái đích đã đạt tới”.

   5. Trong bức thư gửi cho một người bạn ở Việt Nam, Thái Tuấn viết: “Ở Sài Gòn nửa năm, tôi đã quen với khí hậu nóng bức, với những sinh hoạt thân ái của bạn bè. Trở lại Pháp, rất nhớ cái không khí sinh hoạt đầm ấm quen thuộc của miền Nam đất nước. Bên này trời đang còn rất lạnh, cả bên ngoài lẫn bên trong. Từ tháng sáu là lại phải dọn sang nhà mới. Đứa con gái mới mua lại. Đúng ra là một biệt thự lớn, không phải như căn nhà xinh xắn mà chị đã có dịp đến thăm tôi. Nhà có rộng, càng thêm sự trống vắng. Tôi nghĩ có lẽ, tôi nên trở về sống ở Sài Gòn”.
   Và rồi, một buổi sớm se lạnh của tháng 12 năm 2004, Thái Tuấn về lại Sài Gòn. Ông nói với người bạn ra đón ông ở sân bay: “Lần này tôi về hẳn”.
   Ông lại trở về ngôi nhà cũ, nơi ông ở khi vừa đặt chân lên đất Sài Gòn, năm 1954. Ông bảo, hồi đó người ta gọi vùng này là bến Tắm Ngựa. Trong căn nhà ở chung với con trai và cháu nội, ông “thiết kế” cho mình gian phòng khoảng 10m2 trên gác. Căn phòng này là nơi ông đặt bàn thờ vợ, bà Hà Nguyệt Lan, nơi ông ngủ và cũng là nơi ông vẽ. Hàng ngày ông ra công viên Lê Văn Tám đi bộ, đến quán cà phê bên lề đường Lê Chân (bên hông chợ Tân Định) để uống cà phê và ngắm nhìn phố xá, ngắm nhìn người qua lại. Ông bảo, nơi vẽ tranh của ông ở Paris cũng nhỏ. Có họa sĩ đến thăm, đùa vui gọi là bàn thờ ông địa.
   Chính trong căn phòng chật chội ở 150/31/5 đường Lý Chính Thắng, Thái Tuấn đã lại vẽ những bức sơn dầu lớn cho cuộc triển lãm cá nhân tại Gallery Tự Do. Một lần nữa, những người phụ nữ Việt Nam của Thái Tuấn lại làm rung động tâm hồn người yêu nghệ thuật. Những người phụ nữ vẫn trẻ. Thái Tuấn vẫn trẻ.
   Tháng 7/2007, Sài Gòn mưa gió liên miên. Họa sĩ Thái Tuấn bị ốm. Khi có bạn đến thăm, ông gắng ngồi dậy đón khách. Vẻ xanh xao, mệt mỏi, giọng nói khàn đục, ông vẫn còn muốn tiếp tục câu chuyện hội họa. Ông bảo, có những kỹ thuật không cần cho hội họa, ví như luật viễn - cận. Ông bảo, tôi đã chín mươi tuổi, không còn ham muốn bất cứ điều gì, chỉ tiếc chưa có nhiều dịp trò chuyện với các họa sĩ trẻ về hội họa.
   Trên đầu giường của ông treo một bức sơn dầu lớn. Ông bảo, đó là bức tranh dành tặng Kim, cháu đích tôn của ông. Người phụ nữ trong tranh mặc váy đen, áo cánh trắng, thắt lưng xanh, đi guốc gỗ, tay khoác nón, mặt nghiêng nghiêng như đang lắng nghe điều gì. Phía sau cô là dãy núi xanh thẳm. Họ sĩ kể, lúc vẽ không để ý, khi xong rồi mới nhận ra dãy núi ấy là cảnh ở Thanh Hóa, nơi ông sống thời trẻ. Im lặng một lúc, ông nói nhỏ như thì thầm: “Hội họa của tôi là hội họa của hoài niệm”.


 2004-2007












Phỏng vấn








Nhà thơ Ý Nhi: Không tin vào thứ văn học ‘được phép’ 

Liêu Thái/Thực hiện



Lời Tòa Soạn: Hôm 11 tháng 5 vừa qua, 20 nhà văn, nhà thơ tại Việt Nam cùng tuyên bố từ bỏ Hội Nhà Văn Việt Nam, một cơ quan ngoại vi của đảng CSVN. Sự kiện này gây chấn động trong giới văn nghệ tại Việt Nam. Một trong những lý do đưa ra là 'nhận thấy tình trạng suy thoái của Hội đã trở nên không thể cứu vãn nếu không có sự thay đổi để thực sự là một tổ chức nghề nghiệp tập hợp những người viết muốn xây dựng một nền văn học Việt Nam đích thực, tự do, nhân bản."

Để tìm hiểu thêm, báo Người Việt lần lượt phỏng vấn các nhà văn, nhà thơ về hành động này. Loạt bài phỏng vấn do Liêu Thái thực hiện.




Nhà thơ Ý Nhi. (Hình: Nhà thơ Ý Nhi cung cấp) 




Người Việt (NV): Thưa bà, bà vui lòng cho biết đã tham gia Hội Nhà Văn Việt Nam năm nào? Và những hoạt động thường niên của hội diễn ra như thế nào?

Nhà Thơ Ý Nhi (YN): Đây là câu hỏi hơi khó với tôi. Hôm gần đây, khi cùng một số anh chị tuyên bố từ bỏ hội nhà văn, họ có hỏi tôi về điều này nhưng tôi không sao nhớ được chính xác, chỉ nhớ cách nay khoảng trên ba chục năm gì đó.
Trong suốt khoảng thời gian dài dặc đó, tôi chỉ làm việc tại nhà xuất bản, không mấy khi tham gia các hoạt động của hội. Ngoại trừ việc tham gia hội đồng thơ trong một nhiệm khóa từ rất lâu rồi, tôi luôn ở ngoài mọi việc: không nhận tài trợ, không dự trại viết, không làm hồ sơ để nhận các loại giải thưởng... Mà đã ở ngoài thì làm sao biết họ hoạt động những gì và như thế nào.

NV: Là một nhà thơ sống ở phía Nam, ngay trung tâm thành phố 

Sài Gòn, nhịp sống người miền Nam có để lại dấu vết nào trong sáng tác của bà?

YN: Tôi mới vào Sài Gòn từ 1987. Tôi yêu quý người dân phương Nam, thích cách nhìn nhận đời sống nhẹ nhàng, thoải mái, không hơn thua của họ. Nhưng viết là một chuyện khác. Thơ và sau này, truyện ngắn của tôi, dường vẫn in đậm dấu vết của miền Bắc, hơi hướng của miền Bắc, nơi tôi đã lớn lên, đã trải qua nhiều buồn vui của cuộc đời mình, nơi khởi đầu của một công việc lâu dài.

NV: Bà có nhận xét gì về không khí sáng tác trước và sau 30 tháng 4 năm 1975? Cũng như không khí hoạt động của Hội Nhà Văn Việt Nam hiện tại so với không khí hoạt động những năm 1980 có gì thay đổi? Và thay đổi theo chiều hướng nào?

YN: Theo tôi thì 1975 không phải là một cái mốc đánh dấu sự thay đổi của văn học. Phải đến những năm 1980 người ta mới dần bứt khỏi các đề tài quen thuộc và cách viết quen thuộc. Điều này rõ rệt hơn vào khoảng 1986, khoảng thời gian mà người ta thường gọi là thời kỳ đổi mới. Dù vậy, tôi không tin vào thứ văn học “được phép.” Tôi nghĩ những tác phẩm như vậy không có giá trị lâu dài.

NV: Theo bà, đâu là sức hút đích thực của một hội nhà văn đối với giới cầm bút?

YN: Theo cách nghĩ thông thường thì một hội bao gồm những nội dung có tính nguyên tắc sau: Những người cùng nghề nghiệp. Những người này cùng thống nhất một tôn chỉ, mục đích hoạt động. Phải tự lo lấy kinh phí. Và phải bảo vệ các thành viên của mình và các sản phẩm do các thành viên sáng tạo nên.

Còn nhớ, năm 1995, khi sang Pháp, tôi có cuộc trả lời phỏng vấn của chị Thụy Khuê (Đài RFI). Khi bàn đến chuyện hội, đoàn, tôi có nói đại ý: Tôi nghĩ Hội nên tự lo lấy kinh phí để hoạt động, không nên nhận tiền của nhà nước. Đó là điều kiện cần để hội có quyền tự chủ về mọi mặt.

Về lại Việt Nam, tôi bị mấy tờ báo phê phán dữ lắm, họ cho rằng không nhận tiền của nhà nước là “từ chối sự ưu ái của nhân dân” (Đây là tựa đề của một bài báo phê phán tôi).

Khi từ chối tất cả các khoản tài trợ sáng tác lớn, nhỏ của Hội, tôi đã nói rõ, “Tôi nghĩ, mỗi nhà văn phải tự lo lấy đời sống cũng như công việc viết lách của mình. Tôi không nghĩ lao động nhà văn có gì đặc biệt đến độ chúng ta có quyền hưởng số tiền có được từ lao động của hàng triệu người khác, từ thuế của những người nông dân nghèo khó, những người buôn thúng bán bưng...” (trích bài trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên với tựa đề: Tôi không nhận số tiền này khi Hội nhà văn cho biết tôi có trong danh sách nhận “đầu tư sâu” 25 triệu VNĐ.

NV: Khi quyết định từ bỏ một thực thể nào đó đã gắn kết lâu năm với mình, đương nhiên người từ bỏ sẽ có những đắn đo và suy tư nào đó, từ bỏ Hội Nhà Văn cũng vậy, bà có những đắn đo và suy tư gì?

YN: Tôi gửi thư cho Ban Chấp Hành để ra khỏi hội nhà văn từ đầu năm 2002. Mặc dù không có hồi đáp, tôi tự coi mình không còn là một thành viên và không tham gia bất cứ hoạt động nào do HNVVN tổ chức. Phải nói thật, hồi trẻ, thấy vào hội là vui và vinh dự lắm. Nhưng càng từng trải thì nhận thấy sự “lệch pha” càng lớn, lớn đến độ không thể tiếp tục đồng hành. Chẳng có gì phải băn khoăn, day dứt trong việc này.

NV: Bà có tham gia Văn Đoàn Độc Lập? Bà có nhận xét nào về Văn Đoàn Độc Lập?


YN: Tôi tham gia Ban Vận Động Văn Đoàn Độc Lập, trước hết vì nó hội đủ các nội dung của một hội nghề nghiệp như tôi vừa trả lời. Tôi trân trọng cái slogan “Vì một nền Văn học Việt Nam Tự do, Nhân Bản của trang Văn Việt.”

Trong hơn một năm thành lập, chúng tôi đã làm đúng các nguyên tắc do mình đề ra. Phần khác, cũng quan trọng, đó là sự quý trọng với riêng nhà văn Nguyên Ngọc và với các bạn viết của mình trong Ban Vận Động.

Trong thực tế, không có hội đoàn nào có thể giúp một người bất tài thành người có tài, một người viết văn dở thành người viết văn hay. Mỗi nhà văn phải tự xoay xở với công việc của mình. Vì vậy, tham gia một hội đoàn, tán thành tôn chỉ mục đích của một hội đoàn còn là cách bày tỏ quan điểm của mình đối với các vấn đề xã hội và văn chương, là cách biểu hiện trách nhiệm của một công dân.

NV: Là thành viên Ban Giám Khảo nhiều giải thơ của Hội Nhà Văn Việt Nam, bà nhìn thấy điều gì trong vấn đề người cầm bút trẻ cũng như mối tương quan giữa một hội nhà văn có mô thức hoạt động tương đối cũ với những yêu cầu khá mới mẻ của các sáng tác đương đại?


YN: Câu hỏi làm tôi nhớ đến câu nói của Milan Kundera: Những quốc gia nhỏ bé lúc nào cũng đông chật các nhà thơ lớn. Việt Nam không nhỏ lắm nên các nhà thơ không đến nỗi “đông chật” nhưng cũng khá đông.

Người người lớp lớp nhà văn. Trong số đó, nhà văn trẻ chiếm một vị thế đáng nể. Họ đang tìm cho mình một lối đi mới. Dù vậy, những thành tựu vẫn còn khiêm tốn. Ta chờ đợi vậy.

Quan hệ của họ với hội nhà văn ư. Hình như số đông vẫn xếp hàng để tham gia (nghe nói lúc nào cũng có hàng trăm lá đơn đợi xét duyệt). Một số ít tự đứng được thì họ đứng ngoài, thấy hội là không cần thiết. Các nhà văn trẻ có ý thức về cá nhân mình hơn thế hệ chúng tôi.

Vì lớn tuổi, ít quan hệ với lớp trẻ nên thú thực tôi cũng không hiểu họ lắm. Anh nên hỏi trực tiếp các nhà văn trẻ.

NV: Với tư cách là một nhà văn gạo cội trong giới cầm bút Việt Nam, bà có dự đoán nào về tương lai văn học Việt Nam (kể cả chính thống và phi chính thống) trong những năm tới? 


YN: Tương lai? Không nhiều hy vọng. Nhưng làm sao sống được hôm nay nếu không hy vọng vào những thành tựu của ngày mai?

NV: Dự tính cũng như những dự án sáng tác của bà trong những năm tới?

YN: Từ năm 2000 tôi đã cho in tuyển tập thơ của mình, coi như xong một công việc. Tôi nghĩ, nên dừng lại khi không thể viết hơn những gì đã viết. Hiện tôi viết truyện ngắn. Sẽ tiếp tục viết truyện ngắn, viết chân dung với một tốc độ vừa phải. Tôi vốn chậm, lại không được siêng năng.

NV: Xin cám ơn bà!




20 nhà văn từ bỏ Hội Nhà Văn Việt Nam




1. Nguyên Ngọc

2. Đỗ Trung Quân

3. Nguyễn Quang Lập

4. Nguyễn Huệ Chi

5. Phạm Đình Trọng

6. Võ Thị Hảo

7. Bùi Minh Quốc

8. Đặng Văn Sinh

9. Hoàng Minh Tường

10. Lê Hiền Phương

11. Ngô Thị Kim Cúc

12. Nguyễn Quang Thân

13. Thùy Linh

14. Vũ Thế Khôi

15. Ý Nhi

16. Dư Thị Hoàn

17. Trịnh Hoài Giang

18. Dạ Ngân

19. Nguyễn Duy

20. Trần Kỳ Trung 







Viết văn là công việc của một người

Ngô Thị Kim Cúc phỏng vấn Ý Nhi











Người đàn bà ngồi đan, đó là tên một tập thơ nổi tiếng của nhà thơ Ý Nhi. Nhưng hình ảnh mang tính biểu tượng này cũng có thể dành tặng cho tác giả - một người có cá tính mạnh cả trong thơ và trong đời thực. Ý Nhi còn được biết đến với tư cách con gái của nhà nghiên cứu tuồng Hoàng Châu Ký và nội tướng của giáo sư Nguyễn Lộc, nguyên Trưởng khoa Ngữ văn - ĐH Quốc gia TP.HCM.



* Tập sách mới của chị, Những gương mặt - Những câu thơ có phải là tin báo chị sẽ trở lại văn đàn?

- Câu hỏi này khiến tôi nhớ tới một câu thơ của nhà thơ Thanh Nguyên: “Anh không ra đi mà như người trở lại”. Ranh giới của sự ra đi - trở lại này nhiều khi khá mơ hồ. Quả thực, có lúc tôi đã muốn hoàn toàn rời xa cái văn đàn ấy. Tôi đã trồng một vườn lan lớn. Ngày xưa, khi đi tản cư, đi sơ tán về các vùng quê, tôi đã học được nhiều thứ. Tôi có thể đi cấy, đi gặt, đập lúa, giã gạo, tát nước (cả gàu sòng và gàu giai)... Thành ra, bón phân, tưới nước, bắt sâu cho lan không có gì là vất vả đối với tôi. Tôi đã quên đi nhiều thứ bên ngoài. Thế nhưng sách thì không thể quên, không thể rời xa. Tôi rất mê sách. Hồi nhỏ có lần tôi bị phạt vì vẽ lung tung khi cô giáo đang giảng bài. Cô giáo nghĩ tôi rất buồn nên cô có phần ngạc nhiên và bực mình khi thấy tôi vẫn ôm sách đọc say sưa, chẳng có vẻ lo nghĩ gì cả. Sách chính là mối liên hệ máu thịt giữa một con người với đời sống văn học. Thành ra, tôi vẫn chỉ quanh quẩn đâu đó.


* Trong phần Những gương mặt, người đọc nhận ra một Ý Nhi viết chân dung văn học rất riêng, bởi những mối quan hệ, cách nhìn nhận của chị về những văn nghệ sĩ khác…

- Những gương mặt chỉ là những kỷ niệm tôi còn lưu giữ ở những người tôi yêu mến nhất. Ở góc độ chân dung thì đây chỉ mới là phác thảo. Nhờ công việc biên tập ở NXB Hội Nhà văn suốt mấy chục năm mà tôi gặp gỡ và quen biết nhiều. Tôi nghĩ tôi là một biên tập viên tốt. Tôi chấp nhận được nhiều khuynh hướng, nhiều giọng điệu. Tôi thích cái mới. Tôi cũng thật sự tôn trọng người viết. Tôi chưa bao giờ dám tự ý cắt bỏ, sửa chữa câu chữ của các tập thơ mà tôi biên tập. Tôi nghĩ, chính những điều đó khiến bạn bè văn nghệ, nhất là các nhà thơ, hay đến chỗ tôi.


Sau này, khi vào Sài Gòn làm việc tại chi nhánh miền Nam của NXB, tôi đã chủ trương in lại các tập thơ của phong trào Thơ mới (vốn đã vắng bóng từ lâu), hồi ký của Vũ Hoàng Chương, Mưa Nguồn của Bùi Giáng... Sau khi những tác phẩm này ra đời, nhiều anh chị nhà văn miền Nam trước 1975 cũng thường đến chỗ tôi chơi. Tôi cũng muốn in lại tác phẩm của các anh chị này nhưng khó quá. Tôi đã photo toàn bộ tác phẩm của chị Nguyễn Thị Thụy Vũ gửi ra Hà Nội. Họ bảo tôi chờ. Tôi chờ mãi cho đến lúc nghỉ hưu vẫn chưa được trả lời. Tôi quen biết nhiều nhưng thân thiết thì ít. Trong bài Tiểu dẫn viết năm 1984, tôi đã viết: “Tôi rất ít bạn. Đôi khi tôi mất họ vì một lẽ nào đó. Ngoài ba mươi tuổi tôi không tìm thêm bạn mới và không thường giao du với các đồng nghiệp”. Nghe có vẻ khắc kỷ nhưng sự thực là vậy.



* Chị có định viết tiếp những chân dung văn học khác không, bởi chị công tác ở Hội Nhà văn và biết rất rõ về Hội?

- Có lần, nhà văn Tô Hoài cười cười hỏi tôi: “Thế nào, bây giờ cô thấy trụ sở Hội Nhà văn ra sao?”. Tô Hoài có ý nhắc đến mấy câu thơ trong bài thơ Phố Nguyễn Du mà tôi viết khi còn làm việc ở nơi khác và nhìn trụ sở Hội Nhà văn như một ngôi đền thiêng: “Trụ sở Hội Nhà văn/ Trước thềm mát một bóng thông/ Tôi thấy các nhà văn vào ra gặp gỡ...”. Tôi cười trừ, không đáp lời ông Phó tổng thư ký kiêm Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn.


Lại một lần, tôi dắt xe vào 65 Nguyễn Du thì gặp cụ Nguyễn Tuân đang đứng ở sân. Tôi chào lí nhí cho phải phép, nên cụ không nghe thấy, tưởng là tôi không chào. Cụ nói to: “Chào Bà, bà có khỏe không?”. Tôi cũng đáp to: “Chào Bác. Cực khỏe...” rồi đi tiếp. Không hiểu sao, cụ gọi với theo: “Này bà, nói cực khỏe là khó chịu lắm đấy!”. Có lẽ tôi khó chịu thật, nhất là với các vị lãnh đạo Hội, từ nhiệm kỳ này đến nhiệm kỳ khác.


Mặc dù NXB ở cùng địa chỉ với Hội Nhà văn nhưng tôi chỉ thân với các chị làm việc ở văn phòng như chị Hiền, chị Bảo, cô Hà, cô Khánh... Trong bài thơ Khánh, tôi đã viết: “Giữa cái nơi người ta sống bám vào tên tuổi/ Khánh là người vô danh/ Giữa cái nơi người ta nói oang oang bao lời lẽ cao vời/ Khánh im lặng bước đi/ Lo sao cho ấm trà đừng sánh nước/ Giữa cái nơi người ta to nhỏ, thì thầm/ Mỗi sớm mai, Khánh nhẹ nhàng mở tung từng cánh cửa...”.


Tôi cũng không ít lần gây phiền phức cho các vị lãnh đạo Hội. Lúc thì tôi chất vấn họ về việc cách chức Tổng biên tập Báo Văn Nghệ, lúc lại từ chối tham gia ban Nhà văn trẻ và nói rõ: “Tôi không thể hợp tác với các anh”. Tôi lại còn cùng bạn bè đi thưa kiện khi phát hiện việc xây dựng câu lạc bộ văn học bị thất thoát tiền, khi biết một vị lãnh đạo khai man lý lịch... Chẳng có việc gì được giải quyết, được trả lời rõ ràng cả, kể cả việc tôi xin ra khỏi Hội. Tôi viết đơn đàng hoàng nhưng không ai trả lời. Vậy thì nên coi là tôi hiểu rõ Hội hay là tôi chẳng hiểu gì cả. Với tôi, chuyện này có vẻ tù mù lắm.



* Là một gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, chị có thể nói gì về thế hệ mình?

- Thế hệ chúng tôi gồm các nhà thơ sinh từ 1940-1950. Nghĩa là, tuổi trẻ của họ gắn liền với cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thơ của họ là thơ của người ra trận, là lời ngợi ca cái anh hùng, cái cao cả. Có thể sau nhiều năm tháng, chịu sự sàng lọc của thời gian, những bài thơ còn lại của mỗi người không nhiều. Nhưng đó là một thế hệ đẹp.



* Chị có ý định góp phần mình vào văn học sử Việt Nam bằng một hồi ký văn học? Chị nhìn nhận thế nào về thể loại này, về tác giả Tô Hoài?

- Hoàn toàn không. Hồi ký là một thể loại ký đặc biệt. Nó đòi hỏi sự trung thực và tính chính xác rất cao. Tôi không đủ tự tin để làm việc này. Cát bụi chân ai và Chiều Chiều sẽ giá trị hơn nếu Tô Hoài không viết với một thái độ vô can như vậy. Ông ấy luôn là người giữ những trọng trách mà.



*Chị có chịu nhiều ảnh hưởng từ cha mình? Và từ chồng?

- Cha tôi và chồng tôi là những con người trung thực, nhân hậu. Họ cũng là những người sâu sắc, nghiêm cẩn trong nghiên cứu khoa học. Tôi chịu ảnh hưởng nhiều từ cách làm việc, cách sống của họ.


* Con dâu chị cũng là một họa sĩ nổi tiếng, vậy phụ nữ trong gia đình chị cân đối giữa việc nhà và việc sáng tác như thế nào?

- Chồng tôi tuyệt đối không làm việc nhà. Hồi mới cưới, tôi nhờ anh ấy đi sắp hàng mua dầu. Dầu thì không mua được mà tem phiếu thì bị mất cắp. Đó là lần duy nhất. Tuy vậy, tôi không gặp nhiều khó khăn vì làm thơ thì đâu cần nhiều thời gian, không gian. Con trai tôi hưởng gen của bố. Bằng vào kinh nghiệm của mình, tôi nghĩ, tranh của Đinh Ý Nhi đã được vẽ trong những khoảng thời gian vỡ vụn giữa bao nhiêu công việc của một người nội trợ có hai con còn nhỏ. Biết vậy nên tôi rất quý trọng con dâu.


* Chị có theo dõi tình hình văn học, báo chí hiện nay không? Và chị có thể nói gì?

- Tôi thường mua sách theo giới thiệu trên báo chí vì sách nhiều quá, không biết đâu mà lần. Tôi đọc sách văn học nước ngoài nhiều. Tôi cũng mua và đọc Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Đoàn Minh Phượng, Lý Lan... Tôi còn một cách tiếp cận khác, đó là tham gia vào các ban giám khảo, ban thẩm định các cuộc thi thơ, giải thưởng thơ. Gần đây nhất là giải Lá Trầu, giải thơ Bách Việt. Tôi có ấn tượng với Trần Lê Sơn Ý, Lê Mỹ Ý, Trang Thanh, Từ Huy... Cảm giác của tôi là lạc quan.



* Chị đặt niềm tin vào điều gì trong cuộc sống này?

- Vào các cháu nội của tôi.




Ngô Thị Kim Cúc Thực hiện









Nhà thơ Ý Nhi 












Thơ Ý Nhi - Lời nguyện cho nỗi yên hàn









Nhà thơ Ý Nhi và thơ của lớp trẻ



Chương trình VHNT tuần này Mặc Lâm xin giới thiệu buổi nói chuyện với nhà thơ Ý Nhi, bà là một cây bút lâu năm trong giới văn nghệ Việt Nam. Hồi gần đây bà có những sinh hoạt đáng chú ý khi tham gia các cuộc bình chọn các nhà thơ trẻ . Bà từng như phụ trách biên tập thơ cho một số các tờ báo lớn trong nước.
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA



2009-08-12



Nhà thơ Ý Nhi tên thật là Hoàng thị Ý Nhi sinh năm 1944 tại Thị Xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Bà tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1968. Từng phụ trách công tác biên tập thơ cho các nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng và Tác phẩm mới (Hà Nôi ). Bà có một số tác phẩm đã xuất bản đáng chú ý như: Trái tim - Nỗi nhớ in chung với Lâm Thị Mỹ Dạ năm 1974; Cây trong phố chờ trăng, in chung với Xuân Quỳnh năm 1981. Những tác phẩm bà in riêng gồm có Đến với dòng sông, Người đàn bà ngồi đan; Ngày thường; Mưa tuyết, Gương mặt; Vườn, Thơ Ý Nhi ; tác phẩm mới nhất của bà là “Những gương mặt những câu thơ” là thể loại chân dung văn học in năm 2008.


Chỉ nên viết khi nào mình cảm thấy có nhu cầu (từ nội tâm) 

Khi được hỏi về những sinh hoạt của bà trước đây, và điều gì bà cho rằng một nhà thơ nên tránh trong sinh hoạt sáng tác, nhà thơ Ý Nhi cho biết:
- Tôi là người làm thơ nhưng đồng thời cũng có cái may mắn làm biên tập thơ nhiều năm, lúc đầu làm cho Nhà xuất bản văn nghệ giải phóng, sau đó đến Nhà xuất bản tác phẩm mới gọi là Nhà xuất bản hội nhà văn bây giờ. Làm rất nhiều năm, đọc rất nhiều thơ của các nhà thơ Việt nam đôi khi biên tập những tập thơ dịch ra từ các nhà thơ nước ngoài, tức là tôi có điều kiện đọc và tự mình cũng làm, đó là điều quan trọng nhất. Thực ra thì ai cũng biết nhưng không phải ai cũng làm được. Bây giờ tôi vẫn cảm thấy thơ bị đặt hàng nhiều. Ví dụ Thơ Tết chẳng hạn, đó là một đề tài rộng rãi thoải mái nhưng mà không mấy khi chúng ta có Thơ Tết 2 cả bởi ít người có cảm xúc đúng vào thời điểm đó để có những bài thơ như thế nên tâm niệm sâu sắc nhất của tôi chính là: Mình thật sự chỉ nên viết khi nào mình cảm thấy có nhu cầu (từ nội tâm) mà thôi.

- Thưa bà, thường thì thơ và nỗi buồn thường song hành với nhau. Khi nỗi buồn đến thì sẽ tạo ra niềm hứng khởi cho thi sĩ, bà có phải là một ngoại lệ hay không?
- Tôi nghĩ không phảỉ chỉ riêng thơ mà nói chung tất cả các sáng tạo văn học nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, điêu khắc…đều như vậy, tất nhiên là có đặc thù riêng. Nhưng nỗi buồn của người làm thơ thì trực tiếp hơn, ngắn gọn và bộc phát hơn. Đối với người sáng tạo văn học nghệ thuật nói chung thì đó là điều không có ngoại lệ và tôi cũng thế thôi ạ.
Phục vụ thơ chứ không phải sử dụng nó

- Có bao giờ bà có cảm giác là mình đã bạc đãi thơ hay không và nếu có thì bằng cách nào bà hòa giải ?
- Hồi nhỏ khi tôi còn học phổ thông thì nhân sự kiện nhà du hành vũ trụ Liên xô bay vào vũ trụ thì có một chú ở báo Tiền Phong xuống Hải Phòng nơi tôi học và BGH thấy tôi có chút năng khiếu nên đặt viết một bài thơ nhân sự kiện này. Đó là bài thơ duy nhất tôi làm do đơn đặt hàng còn ngoài ra tôi không bao giờ làm thơ khi không có nhu cầu. Không có bất cứ một áp lực nào đối với tôi cả. Chính vì thế nên tôi nghĩ mình không bạc đãi thơ nên cũng không có sự làm hòa. Tôi có nhớ một câu rất hay của một nhà thơ (đại ý) là người ta phải phục vụ thơ chứ không phải sử dụng nó. Sử dụng thơ tức là đã bạc đãi thơ rồi”. May mắn là tôi không rơi vào tình cảnh như thế ạ.

- Có một câu hỏi thường nhận được sự trả lời rất khác nhau từ các nhà thơ, đó là nếu được viết lại từ đầu thì bà sẽ làm gì sau khi đã đi qua một chặng đường dài như bà đã từng?
- Câu hỏi này có lẽ hơi khó không phải chỉ riêng tôi mà với tất cả mọi người vì nếu như làm lại thì người ta sẽ thay đổi rất là nhiều. Khi tôi bắt đầu làm thơ thì rất nhiều anh chị khác cùng thế hệ như chị Xuân Quỳnh, anh Bằng Việt hay anh Phạm Tiến Duật đã làm thơ trước đó dù cùng một lứa làm thơ với nhau. Tuy nhiên khi bắt đầu làm thơ thì mình cũng hòa vào giọng chung đó, chưa có được giọng riêng cho mình. Nếu như có sự bắt đầu tốt hơn, có vị trí độc lập thì tốt hơn nhưng cũng chả sao vì cái gì mình đã sống, đã làm cũng đáng quý. Tôi thực sự không hối hận hay nghĩ mình phải làm cách khác vì điều đó là không thể.
Lớp trẻ làm thơ

- Bà đã từng biên tập thơ cho nhiều tờ báo vậy trong khi làm công việc này bà có nhận xét gì đối với các nhà thơ trẻ hiện nay? Họ có những sáng tạo rất mới đôi khi đến khó hiểu và dư luận có lúc lên tiếng cho rằng ngô nghê, làm dáng, hay phá phách đặc biệt là trong thể loại thơ Tân Hình Thức. Bà có nhận xét ra sao về họ?
- Tôi là người gốc miền nam nhưng năm 54 tôi cùng gia đình ra bắc. Khi tôi học phổ thông, học đại học đến lúc đi làm thì có một nền thơ chung của miền bắc lúc bấy giờ . Và cũng do cuộc chiến tranh nên thơ miền bắc có giai đoạn khác với thơ miền nam và thơ của lớp trẻ bây giờ khác với thời kỳ thơ của tôi. Tôi cảm thấy lớp trẻ bây giờ thật sự tự do, họ tìm kiếm những phương thức mới để biểu hiện họ.

Bọn trẻ bây giờ hay nói đến hậu hiện đại. Về lý thuyết thì tôi không hiểu lắm nhưng tôi thấy nhiều người để ý và viết mà không ai phản đối. Sự tự do trong tư tưởng trong tình cảm sự không ràng buộc là điều quan trọng nhất đối với những người làm thơ trẻ. Hiện nay tôi không làm thơ nữa mà tham gia vào ban giám định tổ chức những cuộc thi thơ. Những cuộc thi này rất để ý đến những tác giả trẻ. Tôi cảm thấy điều quan trọng nhất là họ tự do, họ không bị bất cứ sự ràng buộc nào về mặt tư tưởng, tình cảm cũng như về nghệ thuật, về thủ pháp... Đất của họ rất rộng.

Từ sau 75 đến giờ xuất hiện rất nhiều đợt những tác giả thơ trẻ khác nhau. Đa số các nhà thơ nữ hay viết về đề tài tình yêu mà có thời kỳ chúng tôi không được nói đến điều đó, bây giờ tôi thấy hơi nhiều, hơi quá đà, coi như tình yêu là thứ duy nhất người ta muốn nói. Trong giải thơ tôi đang tham gia là giải Bách việt gần đây có tổ chức một buổi ra mắt những tập thơ mới, tôi thấy anh Đồng Chương Tử, anh Tuệ Nguyên, anh Trần Tuấn, anh Lê Vĩnh Tài… có đề tài quan tâm rộng hơn, sâu sắc hơn anh ạ.

-Như bà vừa trình bày lớp sáng tác trẻ có khuynh hướng tiếp cận với thơ hậu hiện đại nhiều hơn là làm thơ theo kiểu cổ điển, mà loại thơ này thì thật ra khó cảm nhận cho dù chỉ tương đối vì cho đến lúc này thế giới vẫn loay hoay đánh giá cách sáng tác cũng như chủ đề của loại thơ này. Từ những khó khăn như vậy, làm cách nào mà bà và ban giáo khảo có thể chấm những tác phẩm sáng tác trong hình thức này của giới trẻ?
- Cái này đúng là hơi khó. Trong giải thưởng thơ chúng tôi đang làm thì có tờ báo họ bảo là đổi mới vừa vừa tức là cái mà ban thẩm định có thể chấp nhận được, nhà xuất bản có thể cấp phép được và bạn đọc có thể chấp nhận được. Còn những người đi quá sâu vào khuynh hướng đó, quá tự do thì họ xuất bản bằng cách khác. Họ có thể gửi lên mạng gửi ở Tiền Vệ, gửi ở Da màu, gửi ở Ăn mày văn chương… hoặc in ra thì cũng có nhưng sự tiếp nhận của công chúng và cả với chúng tôi cũng rất dè dặt, rất khó. Những tác phẩm đã được in ra, đã được tham gia giải này giải kia thì cũng chừng mực, vừa phải chứ không đi thật sâu vào khuynh hướng hậu hiện đại. May mắn là họ vẫn được viết và có phương tiện phổ biến những sáng tác của mình, đó cũng là điều tốt.

- Xin cám ơn nhà thơ Ý Nhi, để kết thúc phần nói chuyện ngày hôm nay mời quý vị thưởng thức bài thơ ngắn có tên Quê Hương của tác giả Ý Nhi do Khánh An đọc sau đây




QUÊ HƯƠNG





Rồi ta về ngày thơ ngây
trái mận trái mơ
con giống đêm rằm
đèn trung thu sáng nến
phượng nở êm đềm trên mái rêu
Rồi ta về
nghe gió
thiếp lặng giữa vòm cây
như tiếng gọi trong chiều
Rồi ta về
trông sóng
trên mặt nước hồ xanh
còn chuyến đi bền bỉ tới bờ
Rồi ta về
mưa phùn, lộc biếc
Rồi ta về
phố dài cô vắng
sông lớn âm thầm thắm đỏ
Rồi ta về
tìm qua ô cửa
một chút gì bóng dáng đời ta
một chút gì như đốm nắng trên tường vôi cũ
một chút gì như tiếng chim khuyên
nơi vườn hoang
Rồi ta về
cuộn trốn giữa yêu thương
như đứa trẻ
cuộn mình trong chăn ấm chiều đông
Ôi quê hương quê hương
mắt trũng sâu chờ đợi
ta khóc ngập lòng trên lối về.















Nhà thơ Ý Nhi: Lòng đã nên nhẫn nại

20/05/2011 




TT - Ý Nhi tuyển tập là tập sách mới nhất của nhà thơ Ý Nhi vừa được NXB Hội Nhà Văn ấn hành. 500 trang sách cho một đời viết là ngắn hay dài? Với thơ có lẽ là không thể “cân đo đong đếm”...
Trò chuyện cùng phóng viên Tuổi Trẻ, “người đàn bà ngồi đan” nồng nàn và quyết liệt thuở nào giờ lành hiền như là ở ẩn trong khu vườn nhỏ Gò Vấp. “Lòng đã nên nhẫn nại/ sau nghìn muôn đổi thay”, nhà thơ đã nói vậy với lòng mình (Rau me đất).
Ý Nhi chia sẻ:
“Hồi năm 2000, trước khi nghỉ hưu tôi đã in một tuyển thơ, nghĩ rằng sẽ “rửa tay gác kiếm”, không viết gì thêm nữa. Vậy mà lại loay hoay viết truyện, phác thảo chân dung... Hóa ra mình chẳng “định” được điều gì. Một lý do khác của sự chậm trễ là... tuổi già. Mình không còn háo hức, vội vã như hồi còn trẻ. Cuối cùng thì tuyển tập đã in xong. Cũng có vui mà cũng có buồn. Một chặng đường sáng tác hơn 40 năm mà chỉ có vậy, thật nghèo nàn, phải không? Tuy vậy, tôi cũng còn vài dự định nho nhỏ và sẽ cố hoàn tất”.



* Vậy thơ trong tuyển tập lần này có gì khác với thơ tuyển của hơn 10 năm trước?
- Đối với người sáng tác không có bài thơ toàn bích, nên mỗi lần đọc lại thơ là thêm một lần xem xét, đánh giá, thay đổi, sửa chữa. Hồi làm tuyển thơ, tôi lược bỏ nhiều bài trong các tập thơ lẻ. Lần này lại lược bỏ thêm một số. Ở một số bài, tôi đặc biệt chú ý đến sự ngắt nhịp của câu thơ để hiệu quả diễn đạt cao hơn. Chắc chắn sẽ phải bỏ thêm nhiều nữa nếu có điều kiện in một lần nữa, kiểu như một tinh tuyển vậy. Người viết cần có độ lùi để nhìn nhận chính mình.



* Có lẽ nhiều bạn đọc biết đến nhà thơ Ý Nhi như một người làm thơ thuần túy, trong khi đó bà còn viết cả truyện ngắn mà lại viết rất chuyên nghiệp. Xin nhà thơ cho biết cơ duyên nào khiến bà đến với truyện ngắn?
- Tôi nghĩ một người làm nghề viết thì có thể viết đủ các thể loại cũng là bình thường thôi. Tôi còn nhớ lần đầu tiên tôi gửi truyện ngắn Cỏ cho báo Lao Động, nhà thơ Hoàng Hưng nói nửa đùa nửa thật: làm được thơ thì cái gì cũng làm được. Tôi coi đó là lời động viên quý báu. Lúc đó tôi không làm thơ nữa. Không phải là không thể viết nhưng viết ra thấy cũng vầy vậy hoặc tệ hơn nên tôi quyết định ngừng hẳn. Lúc đầu cũng ổn, thậm chí thấy nhẹ nhõm, thảnh thơi nữa. Thế nhưng tôi đã nhầm. Và, một cách thật tự nhiên, tự nhiên như mình phải làm một công việc hằng ngày, tôi viết các bài giới thiệu thơ, các truyện ngắn và chân dung.



* Bà có đọc nhiều thơ trẻ hôm nay?
- Tôi quen biết nhiều nhà thơ trẻ và vì vậy mà được đọc họ tương đối nhiều. Tôi nghĩ họ đã đem lại cho nền thơ ca Việt Nam đương đại một khí chất mới, một giọng điệu mới. Nhưng không hiểu vì sao với một số lượng đông đảo, trong đó có nhiều tài năng, họ vẫn không tạo nên một thế lực? Phải chăng đời sống nói chung, đời sống văn hóa nói riêng ngày nay quá rộng lớn, quá đa dạng, đa diện, khiến người ta rất khó tạo nên một ấn tượng, nhất là một ấn tượng đặc biệt, có thể có sức hút, có sức lan tỏa, có lực chi phối mạnh mẽ.



* Là một nhà thơ, điều tâm tình gan ruột nhất mà bà muốn gửi gắm là gì?
- Tôi coi câu nói này của họa sĩ Thái Tuấn là lời dạy cho mình khi viết: “Tác phẩm nghệ thuật không là một phương tiện, nó chính là cái đích đã đạt tới”. Đừng bao giờ lợi dụng thơ!




Nhà thơ Ý Nhi sinh năm 1944, quê Hội An, Quảng Nam. Đã xuất bản chín tập thơ, trong đó Người đàn bà ngồi đan (1985) đã được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam.








Ý Nhi tuyển tập

tập sách mới nhất của nhà thơ Ý Nhi

Ảnh: V.Q.





Ý Nhi tuyển tập không chỉ có thơ mà còn có truyện ngắn và ký chân dung văn nghệ. Không trực tiếp nói ra tuyên ngôn nghệ thuật, quan niệm sống của mình, nhưng thông qua từng trang viết, nhà thơ bộc lộ ý thức, tình cảm được sống đơn sơ.

Với những độc giả đã quen thuộc thơ Ý Nhi, có thể ngạc nhiên thú vị khi đọc truyện ngắn của bà. Là một người mê bóng đá cuồng nhiệt và chưa bao giờ ngừng tới sân cỏ... trên tivi, Ý Nhi viết truyện ngắn, có lẽ cũng kết hợp giữa đấu pháp và sự ngẫu hứng, khiến trang văn mạch lạc mà cũng không kém bất ngờ...



TRẦN NHÃ THỤY thực hiện










Người đàn bà trong thơ Ý Nhi
Nguyễn Mậu Hùng Kiệt








Thơ Ý Nhi : Hành trình trong lặng lẽ
Lê Hồ Quang











Một vẻ đẹp khác của nhà thơ Ý Nhi


Mai Sơn




Đọc truyện ngắn Ý Nhi sau khi đã đọc thơ Ý Nhi, thấy rõ hơn một khuôn mặt nhiều đăm chiêu, hướng ngoại. Thấy một tâm hồn chính trực, luôn khát khao những giá trị nhân văn.

Ý Nhi là một trong những nhà thơ xuất sắc của thơ Việt Nam đương đại. "Đọc thơ Ý Nhi, ta không chỉ được nếm trải những cảm giác, cảm xúc nồng nhiệt, tinh tế, mà còn có thể cùng tác giả trải nghiệm một hành trình tâm tưởng, và ở đó, ta sẽ có được những nhận thức sâu sắc hơn về chính bản thân mình... Thơ chị như một hành trình truy vấn tinh thần" (nhà phê bình Lê Hồ Quang). Cuộc hành trình đó được âm thầm tiếp tục thêm một chặng mới với truyện ngắn. Những phẩm chất trong thơ nay được Ý Nhi chuyển hóa vào văn xuôi. Và có thể nói đó là một chặng hành trình đáng chú ý của chị.






"Ý Nhi tuyển tập" là tập sách mới nhất của nhà thơ Ý Nhi vừa được NXB Hội Nhà Văn ấn hành.





Trong tất cả 16 truyện ngắn của Ý Nhi trong tuyển tập mới, không có những cái nền dài rộng của những biến cố lịch sử với tư cách những sức mạnh khách quan vô ngã, chỉ có một "sân khấu nhỏ" với vài cảnh trí quen thuộc: một thành phố nhỏ (gió lạnh, phố thưa vắng, lá khô lăn trên mặt đường), phòng chờ sân bay (nơi đó những chiếc máy bay có lúc trông rất đẹp, có lúc trông như những con quái vật), quán cà phê (những chiếc bàn vuông, những chiếc ghế tròn màu nâu sẫm, nổi bật trong căn phòng quét vôi vàng nhạt), căn hộ nhỏ với những vật dụng giản dị thiết yếu trong nhà… Bối cảnh trong các câu chuyện cũng là những sự kiện nhỏ: những chuyến đi, chờ đợi, hoài niệm, cơn đau bệnh, cuộc chia tay tiền định, cuộc gặp gỡ tình cờ… Tất cả đều gắn liền với từng cá nhân cụ thể. Có thể nói đó chính là cái nền của sự chiêm nghiệm cuộc sống. Nó đủ nhỏ để tác giả tập trung chiếu rọi cái nhìn lên mỗi nhân vật của mình, nó cũng chắc chắn là đủ không - thời gian để trên đó con người bộc lộ hết kiện tính làm người. Không nói thì ai cũng biết, khi một người bị dồn vào một góc "võ đài" hay bị ném vào ngục thất chật chội, hay bị cột chặt trên mảnh giường con của bệnh viện, hắn sẽ bộc lộ hết bản tính hiện sinh của hắn. Vâng, những tình thế cực đoan. Về mặt này, Ý Nhi đã có hẳn một ý đồ dựng chuyện xuyên suốt.


Hầu hết nhân vật trong các truyện ngắn của Ý Nhi đều không rõ tên tuổi, nghề nghiệp, gốc gác. Hầu hết, dù có gia đình hay sống một mình, trẻ hay già, đều cô đơn, đều bị tổn thương tinh thần, đều hay bật cười một mình, nói một mình... Hầu hết đều cảm thấy khó sống, có người gần như tuyệt vọng. Gần như họ không có đủ chút sức mạnh tinh thần tối thiểu để vượt qua cuộc sống, và có cảm giác họ cứ loay hoay đi tìm, hay ngóng đợi mơ hồ "cuộc tìm kiếm huy hoàng và tuyệt vọng cái tuyệt đối", như cách nói của một nhân vật trong truyện Cao nguyên.


Chúng ta từng thấy những kẻ khốn cùng về vật chất trở nên tiều tụy thê thảm như thế nào; thì ở đây, với những kẻ sầu đời trong tập truyện này, chúng ta có thể thấy tâm hồn họ nhàu nhĩ ra sao. Họ là những người đang sống đẹp bị đẩy vào những hoàn cảnh bất đắc dĩ. Họ là những người có tâm hồn đang đi tìm một cuộc sống đẹp, thực chất là cuộc sống giản dị, hài hòa (có cảm tưởng đối với tác giả, giản dị - hài hòa là tinh yếu của cuộc sống), nhưng chỉ toàn gặp những điều bất toại. Họ đang vùng vẫy thoát khỏi những cạm bẫy của cái thường nhật. Lúng ta lúng túng. Chẳng có ai giúp đỡ.


Tới đây thấy rõ sự lựa chọn của tác giả: viết văn là để tìm hiểu cuộc sống (văn chương đâu còn làm việc gì khác ngoài việc này?). Tuy nhiên, không cần phải hư cấu hoành tráng, lộng lẫy, siêu thực, hiện thực thậm phồn (hyper-reality), hay những biểu hiện khác của chủ nghĩa hậu hiện đại trong nghệ thuật, cuộc sống trong truyện của Ý Nhi vẫn gần như là cuộc sống nguyên vẹn ngoài kia. “Hư cấu lớn nhất chính là đời sống. Tuy nhiên, người ta đã từ lâu đánh mất khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp hư cấu ấy. Nó đã bị khống chế, bị hủy diệt bởi tính duy lý, bởi các thiết chế chính trị, xã hội; bởi các tôn giáo, các đại tự sự. Đời sống vì thế đã trở nên ngột ngạt, khó sống vì quá hợp lý; nó hợp lý một cách phi lý” (nhà văn Vũ Thành Sơn). Xưa nay chưa thấy một nỗ lực lý tính trong suốt thuần túy nào có thể tát cạn ý nghĩa khôn dò của nó. Nếu dàn dựng, mô phỏng, tưởng tượng là rời xa, là né tránh cuộc sống thực. Là gia bội hiện thực không cần thiết.


Nhưng đương nhiên cuộc sống này, dù ta có vặn hỏi cách mấy hay đặt ra những câu hỏi thông minh cách mấy, vẫn không cho tác giả lẫn cho ta những câu trả lời chung quyết nào, nếu có thì chỉ toàn những câu trả lời đầy nghịch lý và cay đắng. Ta không thấy một kết thúc có hậu, hoàn hảo nào ở đây. Nhưng ta có thể nghe ra những câu hỏi bức xúc nhất mà từ lâu đa số chúng ta vì bị cuốn trôi theo dòng đời không lúc nào ngừng nghỉ nên quên mất chúng. "Anh thấy K, bên kia đường ra dấu bảo anh đứng đợi. Nhưng anh bị dòng người kéo đi mỗi lúc một xa" (truyện Ba sẩm tối).


Nếu không thể có những giải đáp rốt ráo thì phải chăng biết đặt câu hỏi chính là sự hiền minh của một nhà văn?


Ta nghe ra câu hỏi: "Ta có thể làm gì để cứu vãn những tình thế xấu xảy ra trước mắt ta?" (truyện Phòng chờ). Và lời giải đáp lạnh lùng của cuộc sống là: Trước tình thế ấy, một người không thờ ơ so với những người thờ ơ chung quanh mình cũng chẳng có sức mạnh hay giá trị gì hơn. Điều an ủi mà tác giả rút ra và chia sẻ với độc giả chúng ta là sự trải nghiệm cuộc sống như một phòng chờ, nơi chuẩn bị những chuyến bay dài vào vĩnh cửu.


Ta nghe ra câu hỏi: "Cái gì khiến cho mọi quan hệ mau chóng trở nên lỏng lẻo, chực chờ tan vỡ?". Có lẽ là sự buồn chán kinh niên. Vâng, không khí buồn chán bao trùm thế giới nhỏ bé của các nhân vật. Đó là bệnh dịch của thời đại hay căn bệnh của những kẻ có tâm hồn không ăn khớp được với thời đại của mình? Đôi khi tác giả đã dùng đến phương pháp khảo cổ học về tinh thần của Freud để tìm hiểu bệnh trạng của nhân vật, và lần mò theo tác giả qua những đống đổ nát đó ta thấy có nhiều di họa, "Dư âm" (tên một truyện ngắn của Ý Nhi) của chiến tranh kinh hoàng, xã hội suy đồi, nhân sinh tha hoá.


Ở trên có nói đến những nhân vật không di chuyển trên cái nền của những sự kiện lớn lao, đúng hơn phải nói, họ đã bị những biến cố phi nhân dày xéo, biến họ thành những kẻ vô danh đứng bên lề cuộc sống, bên lề lịch sử. (Những dòng tin thời sự - chỉ là những dòng tin - về những tai hoạ đâu đó xa xôi trên thế giới cũng khiến họ bỗng dưng bị thương tổn nặng nề. Rồi bất lực.) Họ quá hiền hậu, yếu đuối, mẫn cảm. Và lạc lõng. Cũng có thể nói, họ thiếu cứng rắn và dấn thân. Tự nhiên một câu hỏi khác, trầm trọng hơn, phải được đặt ra: sống là sống theo những quán tính áp đảo của xã hội hay, như một câu văn trong truyện Bạn vong niên: "Mỗi người tiếp cận cuộc đời theo cách của mình, vui sướng theo cách của mình, đau đớn theo cách của mình?"


Và đây nữa: "…nhìn bề ngoài, mọi cái đều trôi chảy, thậm chí, trôi chảy êm đềm nữa. Xem một trận bóng bàn, thấy hai tay vợt đẩy bóng qua lại trên chiếc bàn nhỏ xíu, chả có gì là vất vả, là căng thẳng. Chỉ đến khi xem những đoạn phim quay chậm ta mới thấy hết sự nỗ lực, nỗi cực nhọc, thậm chí cả sự đau đớn trên mặt họ" Truyện của Ý Nhi cũng vậy. Các nhân vật không có những nỗi lo lắng, khổ đau to tát gì khiến ta chú ý, nếu không muốn nói đó là những cá thể nhỏ bé, nhạt nhẽo, không có hành trạng gì đặc biệt, chẳng đóng góp gì vào "dòng người" xô bồ ngoài kia. Chỉ có mình Ý Nhi chú ý đến những con người ấy và quay chậm lại mọi thứ về họ. Quay chậm bằng tiết tấu truyện đều đều với những câu văn không dài quá, không ngắn quá, bằng rất ít đối thoại, mà nếu có, những câu đối thoại đó cũng không được thể hiện bằng hình thức thông thường trong ngoặc kép hay sau dấu gạch ngang.


Những dấu hiệu này một mặt cho thấy thời gian gấp gáp của hai kẻ đang nói chuyện; mặt khác, làm sao ta biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua giữa 2 cái gạch đầu dòng. Nhưng khi chúng chen lẫn trong dòng ý thức và tâm tưởng của tác giả, bất chấp những hạn định gò bó của tu từ, lẽ đương nhiên chúng không thể thoát khỏi cái dòng chảy (chậm và đều đều) đang sẵn có đó. Ngoài ra, rất nhiều khi tác giả không đặt dấu chấm hỏi sau một câu hỏi. (Biết hỏi ai bây giờ? Hỏi mà biết chắc là không có câu trả lời thì hà cớ gì phải lên giọng cuối câu bằng một dấu hỏi?) Nói khác đi, các nhân vật của Ý Nhi chỉ muốn im lặng, muốn nghĩ ngợi hơn là nói ra, hoặc nói khẽ như tự nói với mình (truyện Chuyến bay). Thế là, dần dần ta nhận ra họ trong cái chuyển động ngược chiều với nhịp điệu gấp gáp của "dòng người":


"Mọi việc cứ tàm tạm thế mãi.


Trong cái dáng hơi cúi xuống của cô gái cũng có vẻ gì của chờ đợi nhẫn nhịn" (truyện Điểm dừng).


"Vài năm trở lại đây anh đã có cảm giác mệt mỏi mỗi khi chuẩn bị cho một chuyến công cán" (truyện Lại mưa).


"Cả bọn lặng im bước bên nhau xuôi theo con dốc" (truyện Cao nguyên)


"Ngay cả một người suốt ngày chạy cùng trời cuối đất như ma đuổi cũng muốn dừng lại, chấm dứt… và mỗi lần ra đi là mỗi lần anh phải cưỡng chống với ý muốn ở lại" (truyện Điểm dừng).

Những trải nghiệm về cuộc sống như thế có rất nhiều, hoặc bàng bạc hoặc minh nhiên trong toàn bộ tập truyện. Chắc hẳn tác giả là một người lịch duyệt, một người có cái nhìn tinh tế luôn sẵn sàng mang đến cho ta không phải những nhận xét võ đoán mà là những khám phá có tính minh triết.

Tuy vậy, cũng có không ít khám phá dễ dàng như lấy đồ trong túi… thơ của tác giả. Những lúc như thế hình như tác giả muốn dừng chân thư giãn trước khi đi tiếp con đường gian nan của mình.

"Cỏ" (tên một truyện ngắn trong tập này) là một hình ảnh ẩn dụ của Ý Nhi. Boris Pasternak từng nói một câu tuyệt hay về cỏ, đại ý: không ai nhìn thấy cỏ mọc; cũng như không ai nhìn thấy lịch sử hình thành. Và Ý Nhi đã rất tài tình khi đặt tên Cỏ cho câu chuyện "quá tam ba bận cưới vợ": "… đã ba lần trồng cỏ rồi… lúc cỏ lên mới thấy đủ thứ cỏ tạp nhạp cao thấp lổng chổng. Mình nhổ cỏ, trồng lại một thứ cỏ khác, lại cũng không phải thứ mình thích. Lại nhổ. Lần này thì thận trọng hơn. Trồng từng khoanh một…Thế nhưng cỏ lên thì bao nhiêu thứ khác cũng mọc theo…". Đến cuối truyện, nhân vật của chị nói: "Tôi thấy vườn cỏ đã đẹp lắm. Chắc chẳng phải trồng lại một lần nữa đâu.” 

***

Truyện ngắn của Ý Nhi là những bản luận đề trữ tình về cuộc sống, và nếu chỉ xét về mặt tâm lý học, tác giả đã đem đến cho ta cả một cuốn sách. Đọc truyện ngắn Ý Nhi sau khi đã đọc thơ Ý Nhi, thấy rõ hơn một khuôn mặt nhiều đăm chiêu, hướng ngoại. Thấy một tâm hồn chính trực, luôn khát khao những giá trị nhân văn. Ở cuối mỗi truyện ngắn của Ý Nhi, ta nhận ra những nét trí tuệ hài hòa - cân bằng còn lại sau những bão giông suy tưởng, những hoang mang vấn hỏi, những vật lộn dữ dội, không cân sức với sắt thép và vô minh. Đó là kết quả đáng ngợi ca khi cuộc sống, đúng như bản chất của nó, là một vách đá, không cần biết đến những bi kịch cá nhân được tác giả trình bày ở đây. Nó thích che chở cho một giống loài hơn. Nhưng bất chấp cái nền (background) ầm vang của một cuộc duyệt binh khải hoàn, Albert Camus vẫn sẽ cố lắng tai nghe cho được tiếng thở dài của một người thua thiệt. Và cuộc chơi vô tăm tích của nghệ thuật vẫn sẽ tiếp tục. Với một vẻ đẹp khác của Ý Nhi như một đóng góp.








Mấy suy nghĩ về thơ Ý Nhi
Chu Văn Sơn







Nhà thơ Ý Nhi niềm riêng chỉ hé
Bùi Kim Anh





























Truyện ngắn






  Đợi tàu ngược

Nhà ga nằm trên một nền đất khá cao, so với nơi đỗ tàu. Đó là một gian phòng hình chữ nhật, có 4 cửa đối diện với nhau, 2 cửa để ra tàu và 2 cửa cho khách xuống tàu. Các cánh cửa đều có màu xanh biển, màu đồng phục của tất cả các ngôi nhà, các công sở, các trường học một thời. Ở khoảng giữa phòng có mươi chiếc ghế gỗ, kê song song thành 2 dãy. Trên chiếc ghế sát tường có 1 người đang nằm ngủ, đầu gối lên chiếc túi vải màu cỏ úa, chân co lại, chiếc mũ cối ôm khư khư trước bụng. Ba người còn lại, một thiếu nữ, một thanh niên và 1 ông cụ râu tóc bạc phơ, mỗi người một ghế, lơ đãng nhìn anh, người khách mới. Họ bình thản như kiểu sau một ngày làm việc, ngồi trên thềm nhà ngó mung lung ra mảnh vườn quen thuộc của mình, xem chim chóc chuyền cành, nhìn gió bay lá rụng vậy. Anh đến bên ông cụ, nhà ga có báo lúc nào tàu đến không ạ. Ông cụ không đáp, ngoảnh mặt về phía chiếc bảng ghi giờ tàu. Trên tấm bảng, anh nhìn thấy mấy hàng chữ lớn bằng phấn viết đè lên các dòng kẻ. Anh cố đọc nhưng ngoài 2 chữ Thông báo, anh không sao có thể đọc được những nét vẽ ngoằn nghèo kỳ lạ đó. Anh lẩm bẩm, chữ nghĩa gì mà như ma vầy thế. Ông cụ đưa cả bàn tay lên che miệng, suỵt, chớ nói năng phạm thượng ở nơi này. Anh quay lại, nhận ra nỗi sợ hãi trong mắt ông. Anh hỏi, cụ đợi tàu xuôi hay tàu ngược ạ. Ông cụ đang  mải lục tìm thứ gì đó trong chiếc túi vải bạt sờn cũ, không còn rõ màu, quay lại, ánh mắt đã trở nên bình thản, tôi có đợi gì đâu. Tàu xuôi, tàu ngược thì ăn nhằm gì đến tôi. Ông lôi ra một chai rượu có dán nhãn Lúa mới nhưng lại được nút bằng một nùi lá chuối khô. Có lẽ, Lúa mới chỉ là cái vỏ còn rượu trong chai là thứ rượu mà mọi người thường gọi là rượu cuốc lủi, nấu ở các lò thủ công. Đặt chai rượu sang bên cạnh, ông lại khoắng tay vào túi, vẻ bí mật  như kiểu các nhà ảo thuật thường làm nhưng thay vì lôi ra một hoặc hai con bồ câu trắng muốt để tung lên trời, ông lại lôi ra  2 chiếc cốc thủy tinh lợn cợn hạt, đã ngả sang màu nâu đất, một chiếc đĩa bằng thiếc mỏng, một gói lạc rang, một gói muối ớt, một quả dưa chuột, một con dao nhỏ, lưỡi mòn vẹt.  Bàn tay ông cụ đen đúa, nổi gân chằng chịt, hơi run run khi mở nút chai, rót rượu vào hai chiếc cốc. Xong xuôi, ông từ tốn vấn lại nùi lá vàng úa tả tơi, tém gọn những mảnh nhỏ thò ra ngoài, xé bỏ những mảnh đã mục để có một chiếc nút gọn gàng, xinh xắn. Ông vừa lấy móng tay cạy cạy chỗ nhãn mác còn sót lại trên vỏ chai vừa nói, thứ rượu  này chỉ hợp với cái nút bằng lá chuối khô thôi. Đậy chiếc nắp kim loại lên trông chẳng ra ngô ra khoai gì ráo, cứ như mặc đồ bộ mà đội khăn đóng vậy. Nói cậu đừng để bụng, anh Lúa mới này chỉ được cái đẹp mã, uống thì nhạt toẹt, tệ hơn nước lã. Ấy là của thằng con đem về dịp giỗ mẹ nó chứ tôi chẳng dại bỏ tiền ra mua. Mà ngẫm ra thì tất tần tật mọi thứ ở đời cũng là bởi thói quen thôi cậu ạ, ví như cái sự uống chè ở làng tôi đấy. Làng tôi là làng trồng chè. Người ta thu mua hàng tạ hàng tấn, sao chế toàn bằng máy móc hiện đại, đóng gói, đóng hộp đẹp đẽ, xuất đi ta bà tứ xứ, nghe đâu được thiên hạ khen nức nở, thế nhưng tôi và nhiều nhà trong làng chỉ uống thứ chè trồng ở vườn, sao bằng cái chảo gang sứt mẻ, pha bằng nước giếng mới thấy thấm thía. Anh không đáp lời ông cụ bởi chỉ nghe tiếng được tiếng mất, câu chăng câu chớ, lòng chợt buồn rười rượi khi nhìn ông tự bày biện mâm nhậu sơ sài của mình giữa cái nhà ga hiu hắt như tách rời khỏi thế gian này. Ông cụ nheo mắt nhìn anh hồi lâu rồi xoa tay vào nhau, khà một tiếng thật to, ra vẻ khoan khoái, mời cậu. Ông nhoài người, đặt chén rượu vào tay anh, rượu xịn đấy, cậu đừng sợ. Uống với  nhau một chén, khề khà vài câu mới  nên bạn nên bè được. Rồi tôi sẽ nói cho cậu biết tôi đợi gì ở nhà ga này. Ông nuốt ực chén rượu, im lặng một lúc rồi đặt đánh cạch cái chén xuống mặt ghế, giọng dứt khoát, tôi không đợi tàu. Làng tôi chỉ cách đây non cây số. Cả đời tôi chưa ra khỏi đất này. Anh nhấp một chút rượu đáp lễ, nghe tê tê nơi đầu lưỡi, mắt không rời khỏi ông cụ, cố hiểu câu nói của ông. Ông cụ bỗng cất tiếng cười, một tiếng cười khô khan, rời rạc, cậu đoán làm sao nổi. Mà tôi có đánh đố cậu đâu. Tôi không ưa đánh đố người khác, làm cho việc nhẹ thành nặng, việc dễ thành khó, chẳng ích chi. Ông mở nút, rót thêm rượu vào ly nhưng không uống, mắt nhìn lạc đi đâu đó, ngoài xa kia, quá tầm nhìn của anh, tôi ra đây chỉ vì bà nhà tôi mất ở đây, ở ngay cái ga này này. Hôm đó, đi làm về, bà nhà tôi tạt qua ga tìm mớ cỏ mực để về rịt vết thương cho thằng cháu nội. Không hiểu làm sao mà thứ cỏ ấy lại mọc um tùm lấn hết các loại cỏ khác ở đây. Cả làng, ai cần cũng ra vặt mà chúng vẫn xanh um, tươi tốt quanh năm. Cậu có biết loại cỏ đó không. Vò ra, nó có nước màu xanh đen. Có lẽ vì thế mà người ta gọi là cỏ mực. Đó là thứ thuốc quý cậu ạ. Trẻ con bị trắng lưỡi, vò ra, lấy nước  lưỡi vài lần là hết. Người nóng nảy rôm sảy, vò tươi để tắm hoặc phơi khô sắc nước uống. Ai trầy tay sướt chân, nhai mấy cộng lá, đắp vào vết đau là yên trí sẽ liền da liền thịt. Hôm đó, thằng cháu vô ý dẫm vào con dao thái chuối mẹ nó để quên ngoài sân, rách một đường ngay chỗ gót chân. Bà ấy đi lấy cỏ mực cho cháu. Ai dè, chiều muộn rồi mà chúng còn đi thả bom. Chúng muốn phá cái nhà ga này nhưng khốn nỗi, ga chỉ rơi vài viên ngói còn bà nhà tôi và 2 đứa trẻ chăn trâu thì trúng mảnh, không cứu được. Từ cái ngày oan nghiệt đó tôi thấy như có một sợi dây ràng rịt chân tay tôi, tâm trí tôi với nơi này. Phần mộ của bà ấy ở nghĩa trang của làng nhưng tôi vẫn muốn ra đây, cứ như nghe thấy bà ấy gọi vậy. Ngày nào có việc bận, không ra được, lòng tôi bồn chốn lo lắng, đứng ngồi không yên, cả đêm trằn trọc, chốc chốc lại dậy châm đóm hút thuốc, mong cho chóng sáng. Tôi ra đây, uống vài chung rượu, đợi lúc mặt trời sắp lặn, được nhìn thấy bà ấy đang lúi húi chỗ vạt cỏ xanh rì kia, mới yên ổn ra về. Ông cụ nấc lên, rồi ho khan một lúc lâu, mặt đỏ rựng, mắt dân dấn nước, trời ơi, bao nhiêu người đi lấy cỏ mực, sao chỉ mình bà ấy gặp nạn. Nghĩ rằng ông cụ sẽ ngưng câu chuyện, anh định đứng dậy thì nghe ông hỏi, cậu có vợ chưa. Nhưng ông cụ không đợi câu trả lời, ông nói nhỏ, mặc cho thiên hạ nói sao thì nói, tôi thì nghĩ, người phụ nữ mới là trụ cột của gia đình cậu ạ. Người đàn bà tử tế thì cái gia đình ấy tử tế, người đàn bà hư hỏng thì cái gia đình ấy hư hỏng. Phải quấy, vui buồn, hay dở đều ở nơi họ. Ấy vậy nên khi nhà tôi mất, gia đình tôi như nghiêng ngả, liêu xiêu, không sao gượng lại được. Nó lỏng lẻo như người không có cột sống, như chân tay không có khớp xương vậy. Tôi xù lông xèo cánh che chở cho hai đứa con, đến khi chúng khôn lớn thì tôi sụp hẳn, lại còn mắc chứng nghẹn, chẳng nuốt nổi cơm. Mỗi ngày chỉ vài hột lạc, vài xị rượu là xong bữa. Ở làng tôi, cứ 10 nhà lại có 1 nhà nấu rượu. Rượu gạo, rượu nếp, rượu sắn, rượu ngô…đủ cả. Gọi là rượu lậu nhưng lại bán công khai. Cả làng cả xã uống rượu thì chả công khai là gì. Tôi vẫn gặp thằng cu con lão chủ tịch đến lấy rượu đấy thôi. Tôi hỏi nó, lấy làm gì nhiều thế. Nó bảo, có các bác ở huyện về. Sự thể là thế đấy cậu ạ. Nhưng tôi chỉ lấy rượu của lão Khả, người xóm dưới. Rượu của lão lạ lắm, uống xong, người nhẹ nhàng lâng lâng như ở cõi khác vậy, quên hết ưu phiền, mệt mỏi. Đã đành, cũng chỉ là một cách lừa mình thôi nhưng ai mà chẳng có lúc cần như vậy. Mãi rồi đâm thành tật, không uống không chịu nổi. Mà cậu uống đi chứ. Đàn ông dứt khoát là phải biết uống rượu. Để làm gì hả, thì tôi nói rồi, để tự lừa mình ấy mà. Đàn bà không uống rượu vì họ không cần điều đó. Anh lại nhấp môi vào chén rượu. Ông cụ hất cằm, khoe mấy sợi râu phơ phất, mà sao cậu lại lưu lạc đến xứ này. Nhìn cách cậu cầm chén rượu, tôi biết ngay cậu là dân thành phố. Dân quê không điệu đà được vậy. Anh mỉm cười, cúi nhìn ly rượu được kẹp hờ hững giữa ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út hơi cong lên, cháu về quê dạy học cụ ạ. Ông cụ đập tay vào trán, ấy đấy, dân quê thì lại ào ào kéo ra thành phố. Con trai, con rể, cháu nội, cháu ngoại tôi bỏ làng đi hết ráo. Làng tôi bây giờ chỉ còn rặt người già và trẻ nhỏ. Nháo nhào hết cả. Sao đời khổ thế nhỉ. Mấy chữ cuối cùng nghe đã nhừa nhựa, mắt đã hơi díu lại nhưng ông cụ vẫn thoăn thoắt thu dọn mấy hạt lạc, chút muối ớt cho vào túi ni-lon, buộc lại cẩn thận. Ông còn vặn đi vặn lại cái nút chai lá chuối xem đã kín chưa rồi cho tất cả vào chiếc túi vải bạt. Chai rượu đã vơi khoảng một phần tư. Anh đồ chừng, ông cụ đã mời rượu nhiều người, đã nói đi nói lại câu chuyện với nhiều người ở nhà ga này. Ông cần nói hơn là cần người nghe. Lúc không có ai để trò chuyện, ông sẽ nói một mình, vừa uống rượu vừa nói, vừa đặt ra câu hỏi vừa tự trả lời, rồi cười, rồi khóc. Anh đứng dậy, nói như dỗ dành, bác ngả lưng một chút cho đỡ mỏi, cũng quá trưa rồi. Ông cụ lấy chiếc khăn vắt vai phẩy bụi trên  ghế rồi quay lại, nghe như cũng sắp có tàu. Mà cậu đợi tàu xuôi hay tàu ngược.

            Anh đợi tàu ngược, ga cuối cùng. Đó là nơi Tứ, em cùng cha khác mẹ của anh đang sống. Hồi anh lên bốn, đang ngồi chơi với chị Vân và anh Hải ở trước nhà thì bố anh đưa Tứ về. Ông bảo, em của các con đấy, cho em chơi cùng nhé. Tứ là một đứa trẻ mảnh khảnh, có đôi mắt to hơi buồn. Tứ ngồi xuống bên mọi người, im lặng cho đến khi mẹ gọi cả bọn vào ăn cơm. Mãi sau này, khi đã lớn, anh mới biết Tứ là con riêng của bố và một phụ nữ khác. Nghe nói mẹ Tứ rất đẹp. Bố say mê bà nên đã dấu việc mình có vợ con ở quê. Khi biết chuyện, mẹ anh dứt khoát đòi đưa Tứ về để bà nuôi dưỡng, dạy dỗ. Không hiểu bà khuyên giải thế nào mà mẹ Tứ bằng lòng giao con và xa hẳn bố anh. Mẹ anh chăm nom, thương yêu Tứ chẳng khác gì các con ruột của mình. Dù vậy, Tứ rất ít lời và luôn giữ khoảng cách với mọi người trong gia đình, nhất là với mẹ anh. Tứ vâng lời, lễ phép nhưng không bao giờ vòi vĩnh, nũng nịu với bà. Anh Hải, người sau này trở thành một nhà vật lý, cho rằng, trong con người Tứ có một lực đẩy nào đó mà có thể chính nó cũng không tự biết. Chị Vân, vốn là người yêu văn chương, thì lại bảo, nó không muốn người khác nhìn thấy vết đau của mình. Tứ thân với anh vì hai anh em chỉ cách nhau vài tháng tuổi và cũng vì anh rất thương yêu, chiều chuộng Tứ. Nhiều lần anh thấy Tứ đứng một mình trước cửa hoặc tha thẩn ngoài vườn sau, vẻ mặt buồn bã, trống vắng. Thế nhưng nếu anh hỏi tới, thế nào Tứ cũng lảng chuyện rồi bá lấy vai anh, cười gượng gạo hoặc rủ anh đi câu.Tứ có thể ngồi vài tiếng đồng hồ bên đầm, mắt nhìn đăm đăm xuống mặt nước, không nói một lời. Có lần Tứ câu được con trắm to, đem về cho mẹ anh. Bà  mừng lắm, rối rít hỏi Tứ muốn ăn món gì để bà nấu nhưng Tứ chỉ nói, tùy mẹ ạ. Tùysao cũng được là lời đáp thường xuyên của Tứ. Hồi tốt nghiệp phổ thông, bố tặng Tứ một bộ đồ đi câu và tặng anh một chiếc máy ảnh. Tốt nghiệp đại học, Tứ xin đến X. Trong bữa cơm chia tay, Tứ cám ơn mọi người và hứa sẽ giữ liên lạc. Thế nhưng, từ ngày bố mẹ qua đời, Tứ chỉ còn giữ liên hệ với anh. Cách đây vài ngày, vợ Tứ  ra trạm kiểm lâm, gọi nhờ điện thoại báo tin chồng ốm nặng. Với vốn tiếng phổ thông ít ỏi, cô không sao có thể diễn đạt rõ ràng bệnh trạng của chồng, ngoài việc lặp đi lặp lại mấy chữ nặng lắmlo lắm sau những tiếng thút thít, những tiếng nấc khe khẽ. Vợ Tứ là một cô gái mồ côi, không biết từ đâu lưu lạc tới X rồi được vợ chồng một người Mông nuôi dạy. Cô xinh xắn, hiền hậu và cũng rất ít lời, gần như cả ngày chỉ nói vài câu khi thật cần thiết như mời mọi người ăn cơm, uống nước hoặc chào hỏi khách khứa. Phần lớn thời gian, cô ngồi bên đống lửa, nhìn chăm chăm vào mấy thanh củi cháy dở như đang niệm chú hoặc đang nhìn ngắm một thế giới khác, của riêng cô. Hồi họ đám cưới, anh có lên dự. Anh nhìn Tứ, cố tìm một nét hân hoan, bối rối của chú rể nhưng chỉ nhận thấy vẻ bình thản đến lạnh lẽo trên khuôn mặt thanh tú. Tứ tiễn anh ra ga. Trong lúc đợi tàu, hai anh em đứng tựa vào hàng rào gỗ của nhà ga trò chuyện. Anh hỏi Tứ, sao em chọn nơi này. Tứ đáp, em cần sự yên tĩnh. Con người chất phác, cảnh trí thâm u, vắng lặng, đó là tất cả những gì em cần. Anh nghĩ, vợ Tứ cũng được lựa chọn theo cái chuẩn ấy. Khi anh sắp lên tàu, Tứ bỗng nói, mẹ em cũng mất rồi, sau mẹ cả ít lâu. Em kịp về thăm mẹ mấy ngày. Em có 2 người em nữa nhưng em không thích bố dượng nên cũng ít liên hệ. Anh giật mình, Tứ biết tất cả mọi chuyện sao. Tứ đáp, vâng, rồi im lặng cho đến khi bắt tay từ biệt mới nói thêm, tội nghiệp mẹ, cả đời chẳng được mấy ngày vui. Khi tàu chạy, anh nhoài người ra ngoài khung cửa  tìmTứ. Nhiều năm sau trong tâm trí anh vẫn lưu giữ hình ảnh nhỏ bé, đơn chiếc của Tứ trên sân ga. Chưa khi nào anh thấy Tứ thân thiết với mình như buổi sáng ấy ở ga X, một nhà ga làm bằng những thân gỗ lớn, không sơn phết, đẽo gọt. Giờ đây, khi ngồi thu mình trong góc phòng để đợi tàu, vừa nhắm mắt anh đã lại  nhìn thấy Tứ của buổi sớm mùa đông ấy. Anh choàng dậy, lục tìm gói thuốc mua cho Tứ. Chỉ là những viên thuốc bổ xoàng xĩnh có được ở phố huyện. Anh thở dài, cảm thấy rã rời vì chờ đợi.

            Trời đột nhiên tối sầm lại rồi một tiếng sét dữ dội xé tan không khí tù đọng của nhà ga. Ông cụ choàng dậy, mưa à. Sao lại mưa vào mùa này. Đôi nam nữ lúc này đã dồn vào một ghế đang rủ rỉ chuyện trò cũng rời nhau ra, ngơ ngác nhìn quanh. Người ngủ  bật ngồi dậy như người máy, đội mũ lên đầu, khoác túi lên vai. Ông cụ khoát tay, chưa, chưa có tàu đâu. Tàu đến thì cách cả cây số lão cũng nghe thấy. Ông chỉ tay về phía tấm bảng, thông báo rành rành kia kìa: vì lý do đặc biệt:1.Không biết tàu đến vào lúc nào. 2.Không biết sẽ chạy được đến đâu. Anh quay lại, không hiểu sao dòng chữ rõ ràng từng nét thế kia mà sáng nay anh không thể nào đọc được. Anh hỏi, thế nhân viên nhà ga đâu ạ. May ra họ có thể giải thích rõ hơn cái thông báo kia. Ông cụ chỉ tay sang phía bên phải, ở kia, ở cái chái nhà ghép thêm kia. Rồi ông thủng thẳng, gọi là nhân viên nhà ga cho oai vậy chứ thực ra chỉ có 3 mống, một trưởng ga, một bán vé kiêm soát vé, một bẻ ghi, phất cờ. Đang túm tụm đánh chẵn lẻ bên ấy. Rồi ông thở dài, chứ còn biết làm gì nữa. Nắm hai bàn tay lại, đưa ra trước mặt người đối diện, chẵn hay lẻ. Một trò ít tốn kém, đơn giản, buồn tẻ nhưng cũng không dễ ăn đâu cậu. Làm sao biết có những gì trong tay người khác. Nó là may rủi thôi, như mọi thứ ở cái đời này. Ông quay sang anh, cậu đã chơi trò này chưa. Tôi có đồ nghề đây. Đôi lúc buồn quá, cũng qua đó chơi vài ván. Ông cụ lôi từ túi quần ra 5 viên bi, tráo qua tráo lại rồi hỏi anh, bên nào chẵn, bên nào lẻ. Nhận thấy mắt ông cụ đã lại hoe hoe đỏ, anh không dám tiếp tục câu chuyện, xin lỗi bác, cháu phải chạy đi tìm trưởng ga. Ông cụ ngẩng lên, chỉ tay ra ngoài trời mưa, ông ấy kia, sắp có tàu đấy. Theo hướng tay ông, anh nhìn thấy một người mặc áo mưa kín mít đang co một chân lên, nhảy qua các thanh tà-vẹt, kiểu như trẻ con nhảy lò cò qua những ô vuông kẻ trên mặt đất trong trò chơi  nhặt chì trước sân đình. Trong màn mưa dày đặc, hình ảnh đó có cái gì kỳ quặc, hư ảo khiến người ta cảm thấy hoang mang, lo ngại. Nhưng quả là có tiếng còi tàu rít lên đâu đó rất gần. Cả 5 người ào ra, chen nhau chỗ khung cửa hẹp. Một cái đầu tàu to lù lù chạy vụt qua, chỉ để lại tiếng bánh sắt nghiến sát sao trên đường ray. Tất cả cùng à lên thất vọng.

            Anh hỏi Người ngủ, anh ngược hay xuôi. Hắn vừa ngáp vừa trả lời cụt lủn, xuôi, rồi quày quả đi về chiếc ghế của mình. Thấy hắn đặt túi, bỏ mũ xuống, anh chạy vội tới, ở đây có cách nào khác để đi ngược lên X không. Hắn nhìn anh, đáp gọn lỏn, xe trâu. Tưởng hắn đùa nhưng hắn không cười, ánh nhìn nghiêm nghị, chỉ có xe trâu thôi, đi từng đoạn một, tới đâu hay tới đó. Mà cậu lên X làm gì, cái xứ rừng thiêng nước độc. Thấy hắn có vẻ khó chịu, anh đã định bỏ đi nhưng rồi lại quay lại, cố bám lấy cuộc trò chuyện. Cảm giác cô độc, bất lực khiến anh thấy băn khoăn, lo sợ, muốn nói, muốn nghe một ai đó, muốn tìm một hy vọng hay ít ra, một chia xẻ. Anh hỏi, anh biết X ư. Người kia ngồi, ôm chiếc mũ trước bụng, biết đến phát sốt phát rét khi nhớ đến nó. Tôi ở đó 3 năm 3 tháng 11 ngày, làm thợ xẻ gỗ. Cậu có hiểu như thế là thế nào không. Là một mình với cái cưa, một mình vật lộn với cây cỏ, rừng rú, đất dưới chân thì ẩm mục, trời trên đầu thì u ám, người như rã ra từng tí một. Tuy vậy, ba năm đầu cũng tạm ổn, mình là dân quê, sức lực cũng khá, mãi đến 3 tháng 11 ngày sau mới quỵ hẳn. Suốt ngày nhìn chăm chắm cái lưỡi cưa sáng loáng ăn vào thớ gỗ. Đêm nằm, nhắm mắt lại là nghe tiếng rít của lưỡi cưa, là nhìn thấy những thân cây gãy đổ lao ầm ầm vào mình, làm sao mà ngủ. Cuối cùng, tôi ngã vật ra bên một gốc cây đang cưa dở. Người ta cho tôi uống thuốc ngủ, người ta bày tôi uống các loại lá, các loại rễ cây. Ai cũng bảo uống xong sẽ ngủ như chết nhưng tôi vẫn không sao ngủ được. Có người nghi tôi vô tình phạm phải chốn cấm kỵ nên bị phạt. Người khác thì lại bảo rằng tôi đã cưa phải loại linh mộc nào đó. Họ mời thầy về làm lễ, cúng kiếng suốt mấy ngày đêm. Nhưng sau tất cả mọi việc, tôi vẫn trơ ra. Người ta đành đưa tôi về nhà với một khoản tiền công tàm tạm. Cha mẹ, anh em, làng xóm đều thất kinh khi nhìn thấy tôi. Tôi gầy như que củi, mắt lại mở thao láo như thằng dở. Anh gợi chuyện, từ lúc đến đây tôi thấy anh ngủ say lắm mà. Hắn cười lớn, ấy đấy, cái gì cũng có giới hạn của nó. Sau 3 tháng không ngủ, vào một đêm mùa hạ, tôi lăn ra ngủ ngoài hiên nhà, không trở dậy nữa. Ông bà, cô bác, anh em, làng xóm kéo đến xem như xem một đám bán thuốc dạo vậy. Hắn cười khục một tiếng, đời tôi cũng vài lần được thiên hạ chiêm ngưỡng đấy chứ, cũng có fan hâm mộ đấy chứ. Anh tò mò hỏi, thế bây giờ anh đi đâu. Hắn ngáp, về xuôi. Nghe nói ở N có thầy giỏi lắm, cái gì liên quan đến chuyện ngủ nghê là ông ấy chữa khỏi tất. Ấy là nghe thiên hạ đồn đoán vậy, ai biết được thực hư thế nào. Kỳ thực thì bị bố mẹ bắt ép chứ tôi thấy chả cần thầy cần thuốc. Cùng tắc biến, nắng chán rồi mưa, hạn chán rồi lũ, ngủ chán sẽ dậy thôi. Anh dè dặt đưa đẩy, ấy đấy, vấn đề là ở chỗ mọi thứ không chịu ở trạng thái bình thường, chắc các cụ sợ anh dậy rồi lại không chịu ngủ nữa. Hắn đưa tay nắn nắn chiếc túi gối đầu, ngáp rõ to, đáp dấm dẳng, ờ, đời mà, biết thế quái nào, rồi cúi xuống cởi đôi dép nhựa màu nâu còn mới, co chân lên ghế. Anh hỏi, cố kéo dài câu chuyện, thế lúc ngủ anh có nằm mơ không. Hắn nhướn cặp mắt sưng húp lên nhìn anh, cậu có làm sao không đấy, không mơ thì ngủm củ tỏi rồi, không mơ thì làm sao còn ngồi đây trò chuyện nhăng nhít với cậu. Anh không dám ừ hử gì, sợ hắn phật ý nhưng hắn bỗng cười lớn, mơ đủ thứ, mơ uống rượu với cha, mơ ăn cơm với mẹ, thấy cả món canh riêu nòng hổi, mơ thấy nhà thấy cửa, mơ tắm sông, mơ thả diều, mơ đá bóng, mơ hàn huyên với bạn hữu, mơ cãi nhau với thằng nhỏ phụ việc, mơ nhà cháy, mơ lũ cuốn cả cánh rừng, mơ thấy bạn gái cũ, dù đã bỏ mình đi lấy chồng vẫn đến thăm nom, chung chạ, mơ đánh thằng cai một trận thừa sống thiếu chết… cái thằng cai này chuyên ăn chặn của cánh thợ rừng, uất lắm mà lúc thức đâu có dám ho he gì, mơ thì đánh nó đã đời, võ tàu, võ tây đủ cả …Hắn im lặng, đưa mu bàn tay xoa xoa lên trán như cố nhớ lại những giấc mơ của mình, rồi đột ngột nhìn thẳng vào anh, ấy đấy, cậu đã thủng chưa, rốt cục thì ngủ cũng là một cách thức, thức cũng là một cách ngủ, ngủ cũng là…mấy tiếng cuối cứ lả dần đi rồi cả người hắn bất thần đổ dúi dụi xuống ghế như một cái cây vừa bị đốn, tay vẫn ôm khư khư chiếc mũ trước bụng. Nhìn kỹ thì đó là loại mũ bảo hộ của cánh thợ rừng.

            Trời nhá nhem tối. Ông cụ tay cầm ly rượu, mắt chăm chú nhìn ra vạt cỏ bên sân ga, nơi cụ bà đang lúi húi hái cỏ mực. Sợ phiền ông, anh đi thẳng ra hiên, ngồi nhìn khoảnh sân nhỏ sau cơn mưa. Trên nền xi măng cũ kỹ, nửa xám nửa đen, cỏ dại mọc lôm nhôm ở những chỗ bị tróc lở, nứt nẻ. Nơi góc sân xa nhất, hai chậu vạn thọ đang gắng gỏi nở những bông vàng còi cọc cho buổi chiều, trông thật tội nghiệp. Đôi thanh niên nam nữ cũng dắt díu nhau theo ra. Cô gái rụt rè hỏi, anh có biết xem tướng không ạ. Anh ngạc nhiên nhìn cô, định từ chối rồi không hiểu sao lại nói, vâng, nhưng chỉ xem chuyện tình duyên thôi, còn công danh sự nghiệp thì không tường. Cô gái reo khẽ, hay quá, anh xem giúp em với. Cô chìa bàn tay ra trước anh. Một bàn tay khỏe mạnh, các ngón tay tròn trịa, nằm khít bên nhau. Anh nhìn hồi lâu, ra chiều suy nghĩ, rồi phán, đường tâm đạo của cô có phần không được suôn sẻ. Cô có 2 hố nước mắt đây này, một lần vào khoảng năm 18 tuổi, một lần mới gần đây, có lẽ vào cuối năm vừa rồi. Việc không thành không do lỗi ở nơi cô mà cũng chẳng phải ở người ta, chỉ là chưa đến duyên đến số mà thôi. Hai má cô gái ửng hồng, đôi môi hơi mím lại, khoe một lúm đồng tiền nơi khóe miệng. Có vẻ như cô đang muốn phân trần, giải thích điều gì đó nhưng rồi chỉ lí nhí cám ơn. Chàng trai ngồi bên cạnh, chăm chú lắng nghe lời thầy nhưng hoàn toàn không có phản ứng nào. Cô gái cầm lấy tay anh ta, anh ơi, anh xem luôn cho anh ấy nhé. Anh cười, cậu này tôi nhìn tướng là được rồi. Cậu là người có chí hướng, có trách nhiệm, giàu tình cảm nhưng hình như cũng lại không thật may mắn trong chuyện tình duyên. Nếu tôi không lầm thì cậu vừa trải qua một cú sốc tương đối nặng, cậu đang rất buồn. Nhưng cậu chớ lo lắng, nhìn thần thái của cậu thì chỉ ít lâu nữa nhất định cậu sẽ tìm ra người cậu muốn tìm, có khi người đó đang ở rất gần cậu cũng không chừng. Chàng trai lắc lắc đầu, xòe năm ngón tay lùa vào mái tóc dày như phản đối lời phán nhưng lại nói, giọng khàn xuống, cám ơn anh. Họ không hề ngờ rằng những gì anh nói chỉ là những điều chính anh đã trải qua, đang trải qua mà thôi. Nhìn vẻ bối rối, cảm động của hai người trẻ, anh có cảm giác mình đã làm điều chi không phải. Anh ân cần hỏi họ, cô cậu xuôi hay ngược. Cả 2 cùng đáp, ngược, đến Y anh ạ. Chàng trai nói thêm, em đi chơi thôi. Cô gái chen vào, còn em thì đi nhận việc ạ. Lòng nhẹ nhõm đôi phần, anh vỗ vai chàng trai, vậy là ta đồng hành một đoạn cũng khá dài.
            Ông cụ khoác túi, ra đứng sau lưng họ, tôi về làng đây. Chúc mọi người xuôi ngược bình yên. Tàu sắp tới đấy. Anh quay lại, định chào ông một câu nhưng ông đã đột ngột tan vào ánh sáng mờ ảo của buổi chạng vạng. Trên chiếc ghế ông đã ngồi không còn một hạt muối, một chiếc vỏ lạc để lưu dấu sự có mặt của ông. Có phần hoang mang, anh quay tìm Người ngủ. Hắn vẫn ngủ. Trong lúc anh ngắm nhìn những ngón tay vuông vức của hắn đan vào nhau để giữ chiếc mũ trước bụng thì hắn bật dậy, kêu toáng lên, tàu đến, tàu đến. Cùng lúc, đèn trong nhà bật sáng, không khí bỗng nhốn nháo, sinh động hẳn. Trước sân, người trưởng ga gọn gàng trong bộ đồng phục, đang bước xuống những bậc cấp phủ đầy hoa xấu hổ màu tím. Ngay sau ông ta là một người nhỏ bé, chạy lon ton, tay không ngừng vung vẩy lá cờ nhỏ xíu vào khoảng không.
      Anh ngoảnh nhìn căn phòng, ngạc nhiên khi trông thấy một cây đèn chùm màu hồng được treo hững hờ ngay trên đầu người bán vé. Anh không thể biết nó vốn có từ trước đó hay chỉ vừa xuất hiện khi anh cùng hai người trẻ ra ngoài.Vật trang trí kỳ lạ này dù không được dẫn điện vẫn lộng lẫy với vô số những chiếc bóng nho nhỏ, những cái chao đèn uốn lượn điệu đà, phản chiếu ánh sáng của 2 ngọn đèn vàng treo chỗ cửa ra vào. Có một chút gì như sự thách đố hợm hĩnh của nó với khung cảnh điêu tàn của nhà ga, với khuôn mặt buồn bã của cô nhân viên bán vé còn trẻ đang hướng ánh nhìn tới các hành khách hiếm hoi của mình. Có lẽ chiều nay cô thua đậm trong cuộc chơi chẵn lẻ, anh nghĩ.

                                                                                          SG 2/2012










       CON NGỰA TRÊN BÃI BIỂN.

                Ông ngồi trên chiếc ghế xếp cũ, đặt trước hiên nhà. Hai bên mép của tấm lót, những sợi ni lon xanh đỏ thòi ra, đứt gãy. Chỗ đặt chân bằng tấm nhựa, có lẽ vốn màu xanh, đã bợt đi, hiện rõ những vết xước ngang dọc. Bên cạnh ghế, họ đặt một chiếc ô màu đen, luôn được mở rộng, không hiểu để làm gì.
                Đầu buổi, ông đặt ghế phía bên phải căn nhà. Mỗi lần có nắng chiếu tới, ông lại khẽ nhấc mình lên, dịch chiếc ghế về phía trái, không quên với tay kéo theo chiếc ô. Theo thói quen. Cứ như thế, cho đến chiều muộn thì ông đã dạt hẳn sang phía bên trái căn phòng, nơi có một gốc thông già và một con sóc màu đen leo lên leo xuống thoăn thoắt, cái đuôi nhỏ phơ phất  linh hoạt như một ngọn lau trước gió.
                Ngay trước thềm nhà là một vạt cỏ xác xơ với cỏ bò liếm, cỏ gừng, cỏ lông heo, dền gai, hoa mõm chó, hoa muống biển…Giáp với bãi cỏ là bãi cát lớn trắng tinh, mịn màng. Và ngoài kia là biển xanh ngắt, ì ầm sóng vỗ, thi thoảng nghe thấy tiếng sóng dập mạnh vào bờ cát và nhìn thấy một đợt sóng lớn tung mình trắng xóa.

Trong một chiều muộn, khi ông đã ở bên góc trái căn phòng, ông nhìn thấy một con ngựa trên bãi biển. Nó từ đâu tới, tới vào lúc nào, ông không biết. Có lẽ khi nó tới, ông đang mải nhìn con sóc đen leo lên leo xuống dọc theo thân cây thông già hay con rắn mối thè chiếc lưỡi đỏ, chạy ào qua đám lá khô, gây nên những tiếng lào xào lạ tai. Chỉ thấy nó đứng đó, đầu cúi xuống mặt cát, vẻ chăm chú.. Khoảng cách không xa nhưng ông không thể nhìn thật rõ hình dáng và màu lông của nó. Có lẽ là một con ngựa tía, con ngựa có màu nâu đỏ, ông đoán chừng, không dám đoan chắc.
                Mấy buổi chiều sau, khi đã dịch chiếc ghế sang góc trái căn phòng, ông lại nhìn thấy con ngựa, đầu cúi xuống mặt cát, như đang tìm kiếm vật gì. Mặc dù đã chủ tâm chờ đợi, mắt chăm chăm nhìn ra hướng biển, đúng nơi con ngựa thường đứng, ông vẫn bỏ lỡ giây phút nhìn thấy nó xuất hiện, làm như nó bỗng dưng đội cát mà lên hoặc rẽ sóng mà hiện.
                Khi không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi nó đến, ông chuyển sang việc đón đợi lúc nó ra đi. Đặt hai tay lên thành ghế, ngồi thẳng người, ông dán mắt vào cái màn sáng đang ngày một sẫm lại để vào đêm. Con ngựa đứng đó, bình thản, chăm chú nhìn xuống mặt cát. Giữa cảnh trời nước vắng lặng, trông nó đơn độc như thể nó là sinh vật cuối cùng trên cõi này. Ông thì thầm, dù sao thì mày cũng không thể cứ đến là đến, đi là đi mãi được. Thế nào cũng có lúc tao “chộp” được chú mày. Thế nhưng, vừa dứt lời, ông đã chẳng nhìn thấy con ngựa đâu nữa. Bóng tối đổ ụp xuống. Biển chỉ còn là một khối đen sẫm.


                Cách nay ít lâu, khi ngồi chờ trong một phòng chữa răng, ông lật xem mấy tờ báo người ta đặt trên mặt bàn. Tất cả các tờ báo đều có hình ảnh một quý bà, quý cô nào đó, ăn mặc sang trọng, vòng nhẫn sáng lòa, môi son má phấn rạng rỡ…ở trang bìa. Ông với tay lấy  tờ báo khổ nhỏ nằm trong góc xa. Hình như đó là  một tờ báo địa phương, không hiểu sao lại lọt tới đây. Có lẽ của một vị khách nào đó bỏ lại sau khi đã xong việc. Ngay trên trang nhất, có một dòng chữ lớn, đậm nét: Biển T B đã sống lại. Hóa ra là bài viết giới thiệu một nơi nghỉ dưỡng  ở vùng biển cách thành phố vài trăm cây số. Vùng biển này đẹp, sóng lặng, cát trắng, lâu nay bị quên lãng, giờ đã được một công ty du lịch đầu tư, khai thác. Những ai muốn có một nơi yên tĩnh, xin mời đến. Đại khái là một bài viết quảng cáo, lời lẽ có phần hoa mỹ. Ông đọc rồi quên, như mọi bài báo khác. Thế rồi, đúng cái buổi sáng Nhà xuất bản chuyển cho ông mười cuốn sách bản quyền và ba mươi cuốn ông đặt mua thêm, cùng với thông báo sẽ tổ chức một buổi ra mắt sách mi ni, ông chợt nhớ tới nó. Nhận gói sách trên tay người bưu tá, ông đem đặt trên nóc tủ. Bức thư thì bỏ vào ngăn kéo bàn làm việc, đóng sập lại.  Rã rời như thể vừa phải làm việc chi nặng nhọc lắm, ông ngồi phịch xuống ghế, ngửa đầu tựa vào lưng ghế, nhắm mắt lại. Ông không nhớ cảm giác buồn bực khi nhìn thấy những cuốn sách vừa xuất bản của mình có từ khi nào, có thể là đã hàng chục năm nay, khi ông bước vào tuổi già. Cảm giác bất lực ngày một tăng lên theo thời gian. Goethe, vào năm 75 tuổi đã nói, một ông già luôn luôn là một vua Lear. Cái ông Goethe vĩ đại, tráng kiện, yêu không biết mệt ấy mà còn thốt lên như vậy đấy…ông thở dài. Ông cần một thay đổi. Ông muốn  rời thành phố. Mày mò mãi rồi cũng tìm ra địa chỉ giao dịch của công ty du lịch nọ. Trên chuyến xe rời thành phố chỉ có mươi người, toàn người cao tuổi. Ông tò mò nhìn những người đồng hành Ngay ghế trước mặt ông là một cặp vợ chồng ( ông đoán thế), cặp vợ chồng duy nhất trên xe. Hai người tóc đã bạc. Họ mang theo một chiếc túi du lịch nhỏ đã cũ. Thỉnh thoảng, người chồng ghé sang nói một câu gì đó, người vợ gật gật đầu hoặc thì thầm đáp lại. Không hiểu sao, dù họ có đôi, ông vẫn thấy ở họ có cái gì đó lạc lõng, buồn bã. Những người còn lại, 2 người đàn ông, 5 người phụ nữ, mỗi người ngồi một dãy ghế, im ắng, đăm chiêu. Chuyến xe luyễnh loãng, xộc xệch, lắc lư trên con đường vắng, hai bên là rừng cây nối theo nhau. Ông ngồi ở dãy ghế sau cùng, chợt hoang mang vì chuyến hành trình lạ lùng, bất giác bíu chặt tay vào thành ghế.
                Khu nghĩ dưỡng khá đẹp. Người chủ có vẻ là một người có tầm nhìn và có gout thẩm mỹ. Hàng chục ngôi nhà gỗ, mái lợp ngói đỏ nằm sát bên biển. Mỗi căn nhà có 2 phòng, cửa chính hướng ra biển. Toàn bộ đồ nội thất làm bằng gỗ, được sơn màu nâu sẫm,  khay đĩa, ấm chén lấy từ một lò gốm nổi tiếng, tường quét vôi màu vàng nhạt, trang nhã. Có điều, mọi thứ đều đã cũ, đã phai màu.Vì vắng khách nên mọi người được tự do chọn phòng. Cô bé tiếp tân vui ra mặt khi có khách, cười đon đả, trao chìa khóa phòng, con thấy bác quen quen. Ông cười cười, bác là tài tử xi-nê mà. Chắc cháu thấy trên phim. Cô bé đưa lòng bàn tay đập khẽ lên vầng trán trắng trẻo, giọng phấn khích, cháu nhớ ra rồi, bác đóng phim X, phim M, phim K nữa này. Cháu thích nhất bác đóng vai ông chồng trong phim K. Ông chồng theo ai đó, bỏ nhà mà đi. Sau nhiều năm ông trở về, vợ con đã mỗi người mỗi ngả. Ông ấy ngồi xuống thềm nhà, nhặt một chiếc lá rồi nhìn chăm chăm vào nó như đang niệm chú vậy. Cả mẹ cháu và cháu đều khóc khi nhìn thấy vẻ mặt tuyệt vọng của bác. Biết không thể dừng cơn cao hứng của cô bé, ông cắt ngang, có thì giờ thì cháu nên đọc sách nhé. Cô bé đáp, mắt sáng rỡ, nhà cháu có nguyên bộ tiểu thuyết của Quỳnh Dao. Ông khẽ lắc đầu, đừng đọc Quỳnh Dao nhiều quá.
Theo thói quen, ông chọn căn nhà cuối cùng trong dãy nhà, như ông vẫn chọn chiếc ghế sau cùng trên chuyến xe, chỗ ngồi trong cùng của một phòng họp. Căn phòng bên cạnh không có người, cửa đóng, chiếc khóa nhỏ màu xanh lỏng lẻo. Đặt va-li vào ngăn tủ, ông trở ra nhìn biển. Biển xanh biếc, lặng im như một mặt hồ. Cát trắng lóa dưới nắng. gió nhè nhẹ vi vút qua rặng thông. Ông hít một hơi thật sâu rồi thở ra nhè nhẹ, nghe vị mặn của biển thấm qua da thịt.
                Đúng lúc ấy ông nhìn thấy một vệt đen lướt qua vạt cỏ. Hóa ra là một con sóc nhỏ. Nó leo thoăn thoắt lên cây thông, leo tiếp ra đầu một cành cây chĩa về hướng biển rồi ngoảnh lại nhìn ông, mắt tròn xoe ngạc nhiên. Ông cũng ngạc nhiên không kém. Ông đã thấy nhiều sóc, thậm chí hồi còn nhỏ, cha ông đã đem về cho con trai một con sóc trong chiếc lồng chim rất đẹp nhưng đó là những chú sóc màu nâu sáng. Ông vẫn đinh ninh sóc chỉ có một màu duy nhất ấy. Chưa khi nào ông nhìn thấy một con sóc đen ánh thế kia. Nó thủ thế, leo sang một cành khác xa ông hơn rồi không hiểu vì sao, bất ngờ quay xuống, lướt qua vạt cỏ rồi biến mất. Mọi việc nhanh và bất ngờ khiến ông không kịp có phản ứng. Ông ngồi xuống hiên nhà, thở ra, một đón tiếp không đến nỗi nào.   
 Vì chân đau, ông chỉ đi dạo trên bãi cát vào lúc sáng sớm. Phần còn lại của ngày, ông ra chỗ mấy chiếc lều lợp lá dừa xinh xắn của nhà nghỉ, để nhìn trời, nhìn nước, nhìn mây. Buổi chiều thì ngồi trên chiếc ghế xếp trước hiên nhà. Bãi biển vắng lặng. Không thấy ai qua lại, không thấy ai đi tắm, không thấy ai ngồi trong lều bên cạnh. Mấy ông bà đi cùng chuyến xe của ông cũng mất dạng. Rốt cuộc, hình như cái vùng biển xinh đẹp này chỉ dành cho ông, con sóc Đen và con ngựa Tía.


                Con sóc Đen đã quen với người khách lạ. Nó nhẩn nha đi qua trước mặt ông rồi leo lên leo xuống dọc thân cây thông, đôi khi dừng lại nhìn ông, phe phẩy cái đuôi dài xinh xắn. Ông không nhớ con sóc nâu của ông ăn những thứ gì vì chỉ sau vài ngày nó đã chui ra khỏi lồng rồi biệt tích. Cha ông đi làm ở một vùng quê nào đó đã mang nó về cho con trai. Món quà khiến cậu bé mừng rỡ, quăng hết những thứ đồ chơi khác để sà xuống bên con sóc đang ngơ ngác nhìn mọi người sau những nan tre nhỏ được vót gọt cẩn thận. Cậu bé đem lồng sóc đặt nơi góc nhà, gần ngay đầu giường ngủ. Đêm đầu tiên cậu không ngủ được, chốc chốc lại trở dậy nhìn con sóc. Nó thu mình vào một góc, rồi bất thần chạy qua chạy lại cuống cuồng từ góc này đến góc kia của chiếc lồng. Cậu bé bước  khẽ đến bên nó, hé cửa lồng, đặt tay lên sống lưng nó, vuốt vuốt nhè nhẹ lên lớp lông vàng mịn. Nó đứng im, có vẻ ưng thuận.nhưng cậu bé vừa quay đi, nó lại bắt đầu chạy quanh quẩt trong lồng, mắt dáo dác hoảng sợ. Cậu bảo cha, thả nó ra đi ba, tội nó quá. Người cha bảo, rồi nó sẽ quen thôi. Mình sẽ thuần dưỡng nó. Nhưng con sóc không chờ đợi được thuần dưỡng, chỉ đến đêm thứ 3 nó đã tìm cách cắn gãy những nan tre rồi biến mất. Cả nhà nháo nhác, chạy lên chạy xuống, lục tung các xó xỉnh nó có thể ẩn nấp nhưng vô hiệu. Cậu bé ngồi bên chiếc lồng trống không, thút thít khóc. Người cha đến đỡ chú dậy, thôi nào, ba sẽ tìm cho con một chú sóc khác đẹp hơn, dạn dĩ hơn. Cậu bé òa lên nức nở, con không cần, con không muốn một con khác, con chỉ lo nó chạy ra đường, bị xe cộ chẹt lên  thôi. Ý nghĩ kinh khủng đó khiến cậu phát sốt, phải nghỉ học. Chỉ đến khi người cha đưa cậu đến bên cửa sổ, chỉ cho cậu một cành phượng sà vào sát bên bậu cửa và nói rằng, con sóc đã khéo léo chuyền mình qua cành cây để trở về với rừng của nó, cậu mới nguôi ngoai… Ông nhìn con sóc đen tự do chạy nhảy, chợt thấy mủi lòng, lần đầu tiên hiểu rằng câu nói của người cha có thể chỉ là một lời an ủi. Ông thử để một miếng xoài và vài quả nho sát gốc thông. Con sóc chạy tới, hơi lưỡng lự một chút rồi ngoạm lấy quả nho, leo tuốt lên cành cao. Một lát sau, chắc đã nhấm nháp xong quả nho, nó trở xuống, nhặt lấy mẩu xoài. Rồi ngày nào nó cũng đến để nhận phần của mình.
                Con ngựa Tía thì ngày đến ngày không. Mà cũng có thể nó vẫn đến mà ông bỏ lỡ mất khoảnh khắc đó. Nghĩ vậy, vào lúc xế chiều, khi đã dịch chiếc ghế về phía bên phải của căn phòng, ông cứ chăm chăm nhìn ra phía biển, quyết không rời mắt khỏi khoảng cát trắng mà nó thường bất thần xuất hiện. Nhưng những lần xuất hiện của nó thưa dần, rồi nó biến mất khỏi vùng biển trước mặt, như chưa hề có một con ngựa cúi mình trên mặt cát, lặng im như pho tượng giữa khoảng không trời và biển ..  Ông không hiểu vì sao sự biến mất của nó lại khiến ông cảm thấy bất an, bối rối và bắt đầu những ý nghĩ lộn xộn, vì sao mình ra đi, tại sao mình chọn nơi này, mình chờ đợi điều gì, liệu đã nên trở về chăng…


                Ông quyết định rời khu điều dưỡng . Đúng vào buổi chiều ông định làm thủ tục để ra về, ông nghe thấy có tiếng người ở gian bên cạnh. Ngoảnh sang, ông thấy cô nhân viên nhà nghỉ mặc áo đồng phục màu xanh da trời đang trao chìa khóa phòng cho một chàng trai cao ráo, trắng trẻo, vai khoác chiếc ba-lô màu xám sẫm. Ông cảm thấy vui, cậu mới tới ?. Chàng trai mỉm cười, chào bác, cháu đến làm láng giềng của bác đây. Ông định nói tôi sắp ra về nhưng một ý nghĩ chợt vụt qua đầu, ông vội nói, mừng láng giềng.
                Ông nghĩ cậu ta sẽ nhào ra biển như mọi người trẻ nhưng cậu lại ra chiếc ghế ngoài hiên và ngồi xuống, sát bên ông. Cậu không tắm biển ư. Ông hỏi. Cháu không có thời gian. Tôi tưởng cậu đi nghỉ. Không ạ, cháu có việc ở đây. Nghe nói chủ khu này kinh doanh không hiệu quả, muốn nhượng lại nên sep cử cháu ra thăm thú cảnh quan thôi. Cháu ngồi một lát là phải chạy lo việc rồi. Ông ướm lời, tôi nhờ cậu một chút được không. Chàng trai cười, mấy chút cũng được ạ. Mà việc có quan trọng không hả bác. Quan trọng, ông đáp. Ông chỉ tay về phía biển, cậu nhìn xem có thấy một con ngựa không nhé. Tôi nghĩ mắt tôi kém quá rồi.
Chàng trai đưa tay ngang mày, nheo mắt nhìn ra khoảng trống, có gì đâu bác. Ngựa của bác hả, nó đi lạc sao. Ông thở dài, không. Chỉ là mấy hôm trước thấy, mấy hôm nay không thấy nên lo lo thế thôi. Chàng trai ngáp, trời ơi, sao bác lại lo chuyện tào lao vậy. Thấy mình lỡ lời, hắn vội nói thêm, ngựa không ăn cát, không uống nước biển, nó đến đây làm gì hả bác. Ông ậm ừ, cậu nói phải, cậu nói phải, tự nhiên mắt như nhòe đi.
                Ông lảng chuyện, thế cậu có thấy cô tiếp tân tre trẻ ngoài quầy không. Chàng trai quay hẳn sang ông, cô ấy thì cháu thấy, cô ấy xinh bác nhỉ. Cháu của bác à. Để cháu đi gọi cho. Ông đưa tay ngăn lại, không, cháu chắt gì đâu. Hôm mới tới, tôi chót lời, nhận xằng mình là tài tử điện ảnh.. Phải nói lại, không phải tội chết. Chàng trai la lên, ấy, không, không cần đâu ạ. Bác cứ để cô ấy vui vì đã gặp một tài tử. Ở đây buồn như chấu cắn ấy, một chút vui cũng quý mà bác. Ông lại ậm ừ, cậu nói cũng phải. Nhưng mà tôi cứ áy náy vì cái sự đùa cợt không phải lối của mình. Bác ơi, chàng trai ngả người trên ghế, đan hai bàn tay làm gối, đùa thì làm gì có phải với không phải hả bác. Cháu mà có tí tửu thì cháu bán luôn cả trời đất thiên địa, cháu nhận mình là vua luôn. Dứt lời, cậu đứng bật dậy, cháu phải đi đây.

                Chàng trai chạy ào đi. Ông nhỏm người, gọi với theo, này cậu. Nhưng cậu chàng đã khuất dạng sau rặng thông trải dài ven biển. Câu nói hồn nhiên của chàng trai giống như một cái gạch chéo tàn nhẫn lên tri cảm  của ông. Ông bối rối nên gọi vậy thôi. Nếu cậu ta quay lại, không chắc ông đã có thể nói thêm điều gì.  Ông cảm thấy mệt, xoay mình qua bên phải, quay lưng lại cửa phòng của chàng trai rồi ngủ thiếp đi trên chiếc ghế xếp. Lần đầu tiên trong các buổi chiều, ông không chờ đợi con ngựa. Trong một lúc nào đó ông như nghe thấy tiếng thì thầm nho nhỏ, tiếng cười rúc rich của một cô gái  ngay bên cạnh mình nhưng ông không trở dậy. Ừ, mấy người hãy dùng cho hết tuổi trẻ của mình đi, ông nghĩ lơ mơ rồi lại rơi vào giấc ngủ mê mệt lúc chạng vạng. Ông mơ thấy một cơn mưa ào ào đổ xuống, che lấp hết trời biển và giữa cơn mưa tầm tã, chàng trai dắt con ngựa tía bước dọc theo bờ cát, trên lưng ngựa, cô bé tiếp tân  đội một chiếc mũ  rộng vành màu trắng, nghiêng người nói điều gì đó, mái tóc dài đổ xuống bên vai. Lạ thay, trong cơn mưa tầm tã mà họ vẫn khô ráo, rạng rỡ, xinh đẹp như được phép màu che chắn, chở che. Ông  xuống bậc thềm để đi về phía họ nhưng ông bước hụt chân. Ông nghe một luồng giá lạnh chạy suốt dọc sống lưng, rồi choàng tỉnh.
                Mà mưa thật. Một cơn mưa trái mùa vừa dứt.
Khi thức dậy, hai chân ông tê buốt vì thấm nước. Ông xoay mình ngồi lên. Lại nghe thấy tiếng thì thầm, tiếng cười rúc rích vọng ra từ phòng bên. Rồi bất chợt một vật gì đó đổ rầm xuống sàn nhà và tiếng cười lanh lảnh của cô gái trẻ. Ông mỉm cười, cúi xuống tìm đôi dép rồi bước về phòng. Mãi lúc này ông mới biết cả khu nghỉ dưỡng mất điện. Gian phòng tối om om. Ông dò dẫm trong bóng tối, tìm chiếc bật lửa và gói thuốc Con mèo. Ai cũng biết hút thuốc là có hại nhưng chẳng mấy người bỏ được nó. Ông cũng dợm bỏ mấy lần rồi lại thôi. Nghe đâu bỏ thuốc đột ngột cũng hại không kém, vả lại, cũng chả nên lo lắng quá mọi sự ở đời.
                Ông vừa chạm tay vào chiếc bật lửa thì nghe thấy tiếng kêu thất thanh của một người phụ nữ, cháy, cháy, cháy nhà kho. Rồi tiếng mở cửa đánh rầm một tiếng ở phòng bên cạnh, tiếng chân chạy ngang qua phòng ông. Có ai đó nói, mưa mà cháy cái gì. Ai đó bảo, chập điện. Ai đó vặc lại, mất điện, lấy đâu ra mà chập…Ờ, mà có khi vì chập rồi mới mất …Ờ, mà cái kho có lớn không, có cái gì trong đó…Chịu, có trời biết. Cứ tới đó đã. ..Cả khu nghỉ dưỡng như vừa choàng tỉnh sau giấc ngủ dài.
                Ông mở cửa nhưng không chạy theo đám đông. Ông  e ngại đám đông. Vả chăng, một kẻ già cả, vụng về như ông, chỉ làm vướng chân người khác. Ông ngồi xuống chiếc ghế xếp, nhìn ra biển. chờ đợi, giật mình khi nghe thấy tiếng chân, tiếng trò chuyện náo nhiệt của đám người đang  ào ào trở về. Cô bé tiếp tân ngồi bệt xuống bên chiếc ghế của ông như một đứa con vẫn ngồi bên chân cha mình trước hiên nhà. Cô xòe tay, hươ hươ trong bóng tối, chẳng có gì hết. Ông hơi cúi xuống, không mất đồ đạc à. Cô bé cười, không có chập điện. Không có cháy. Vậy chứ ai báo cháy. Cháu không biết. Chẳng ai biết cả. Nghe kêu cháy, thế là chạy, chạy như điên, cháu mất cả dép. Đến nơi thấy nhà kho đóng cửa im ỉm, chẳng lửa, chẳng khói, người nọ nhìn người kia ngơ ngác rồi…lũ lượt chạy về nhà. Ông bật cười, cứ như bị ám vậy. Cô bé cười theo, giọng lanh lảnh, mà có khi bị sao đó thật đấy bác. Giờ mà tim cháu còn đập như gõ trống đây này. Ông đùa, có khi tim cháu đập vì một lý do khác cũng nên.
                Bác nói đúng đấy ạ. Chàng trai từ đâu đó chạy ào về, ngồi xuống bên cô gái, góp chuyện. Cháu còn nán lại để xem người quản lý kiểm kho. Người ta nghĩ có một âm mưu nào đó trong việc báo cháy. Ngoài thủ kho còn 5 người nữa, đủ ban đủ bệ. Mỗi người một cuốn sổ, một cây bút, một cái đèn pin, ghi ghi chép chép, vẻ rất nghiêm trọng. Năm người cùng ngẩng phắt lên như bị điện giật  khi người thủ kho giơ tay chỉ vào một thùng các-ton, ú ớ kêu lên, cái này ở đâu ra vậy. Thế là tất cả nhào tới, rồi bất ngờ lùi lại, chạy ra khỏi kho. Một ông to béo ra lệnh, đem ngay ra ngoài. Tay thủ kho run rẩy bưng cái thùng lạ ra sân, thận trọng đặt xuống đất.. Ông to béo lại ra lệnh, mở ra.  Người thủ kho dùng một con dao nhỏ rọc theo mép thùng, bỏ lớp vải trên cùng đi và nhấc ra một bộ yên cương còn mới. Tất cả ồ lên, cái gì vậy. Mọi việc diễn ra trong ánh đèn pin mà cháu còn nhìn thấy vẻ xanh xám trên mặt họ. Ông quản lý bảo ông ấy kiểm kho ngày một mà hôm nay mới nhìn thấy cái thùng ấy. Cô gái so vai ngồi nép vào chàng trai, xuýt xoa, ghê nhỉ. Ông nhìn mặt biển đen thẳm, tưởng nhìn thấy một ngọn sóng trắng đang tung mình lên, khẽ nói, tôi đã bảo mà, không rõ là nói với chàng trai hay chỉ nói cho mình nghe.


 Hai hôm sau ông về thành phố.                                                     Khi ra sảnh trước, ông nhìn thấy một người phụ nữ đứng tuổi ngồi trong quầy Tiếp tân, chào bác, bác nghỉ ngơi có tốt không ạ. Ông đáp, cám ơn chị, tốt lắm. Rồi đưa mắt nhìn quanh, cái cô bé xinh xinh ấy đâu rồi. Tôi có câu chuyện muốn nói với nó. Người phụ nữ lắc lắc mái tóc ngắn, đi rồi. Lúc nào thì nó về ạ, ông hỏi. Đi luôn rồi. Chẳng phép chẳng tắc gì hết. Đi đâu từ đêm qua, cháu ra quầy chỉ thấy mảnh giấy nhỏ chặn dưới cái gạt tàn, để lại vài dòng chào mọi người. Con bé này cái gì cũng vội vội vàng vàng, như bị ma đuổi vậy. Ông cười, hung hắng ho, châm thuốc rồi ra ngồi nơi góc phòng đợi xe.
                Chuyến xe về thành phố chỉ có một mình ông nên trống vắng, luyểnh loãng hơn cả lần đi. Ông vẫn ngồi ở cuối xe, hỏi vọng lên, thế mấy ông bà đi cùng chuyến với tôi không trở về ư. Người lái xe quay lại, vẻ như ngạc nhiên, họ đâu có đi nghỉ như bác. Thế họ ra đây làm gì, ông hỏi. Người lái xe hươ hươ  bàn tay trái, cháu cũng không thật rõ. Hình như là đi vãn cảnh chùa. Ở đây có nhiều chùa, chùa nào cũng thiêng nên các cụ ở thành phố cứ lũ lượt rủ nhau đi hành hương. Im lặng một lúc, cậu ta thở dài, không biết các cụ còn cầu xin điều gì nữa. Ông không đáp, đưa mắt nhìn những rặng cây ven đường đã lác đác có lá vàng, làm sao biết người khác cầu xin điều gì.
                Lái xe có lẽ là người hay chuyện. Thấy ông im lặng, hắn hắng giọng, các nhà văn là cứ trầm ngâm thế hả bác. Ông giật mình, cậu bảo sao. Hắn cười to, rung rung đôi vai vạm vỡ, cháu biết bác là ai mà. Cháu có trí nhớ tốt lắm, đường lắt léo đến mấy, chỉ đi một lần là thuộc nằm lòng. Người nào cháu nhác thấy là nhớ như in trong óc. Bác vừa bước lên xe là cháu  nhận ra ngay. Ông hồ nghi, thế cậu gặp tôi ở đâu vậy. Gặp thì chưa có dịp nhưng cháu thấy bác trên TV, nhân ngày hội ngày lễ gí đó, cháu không nhớ rõ. Mấy người khác thao thao bất tuyệt, bác thì ngồi lùi phía sau, chỉ nói vài câu gì đó, cháu cũng quên rồi. Ông cười, chuyện tào lao, cậu nhớ làm gì. Thế cậu có đọc sách không. Hắn hào hứng, ôi trời, cháu  mê đọc sách lắm. Hắn chỉ tay vào mấy cuốn sách xếp trong ngăn tủ nhỏ, sát cạnh tay lái. Ông vịn vào hai hàng ghế, lên tận nơi để nhìn. Đó là những cuốn sách trinh thám cũ, có lẽ đã được đọc đi đọc lại nhiều lần, mép sách đã quăn queo, gáy đã sờn của Agatha Christie, Conan Doyle…Ông đùa , sao cậu lại đi lái xe. Cậu phải làm nghề thám tử mới phải. Cậu ta quay lại, ông thoáng thấy vẻ tư lự trong đôi mắt sắc sảo, có mấy ai chọn được nghề mình yêu thích đâu bác. Số phận cả thôi. Cháu đi lính về thì nhiều tuổi rồi, phải có cái nghề để kiếm tiền nuôi vợ nuôi con. Đó là nghĩa vụ, nghĩa vụ trước, mọi cái khác tính sau. Những khi rảnh rỗi, cháu mặc cho đầu óc lang thang. Những lúc như vậy tha hồ mà mơ màng, tha hồ mà vẽ vời, chẳng phiền ai mà cũng chẳng ai đụng đến được. Có hôm cháu ở ngoài biển đến tối khuya.. Ông nghe thấy tim mình nhói lên, thế có bao giờ cậu nhìn thấy một con ngựa trên bãi biển không. Ngay chỗ nhà nghỉ ấy. Hắn im lặng hồi lâu, mắt nhìn thẳng phía trước. Con đường hoang vắng, trải dài như vô tận. Nghĩ  hắn có thể cho câu hỏi của mình là vơ vẩn, ông vội nói thêm, tôi hỏi cho vui thôi, không có chi quan trọng. Hắn quay lại, cháu đang cố nhớ  nhưng quả thực chưa khi nào thấy ngựa ở đó. Bác nhìn xem, đường sá bây giờ trải nhựa phẳng lì, hẻm nhỏ cũng đổ bê tông, dân toàn đi xe đạp, xe máy, lại không có trường đua, không có rạp xiếc, lấy đâu ra ngựa. Chắc bác nhầm thôi. Ông cười, chắc tôi nhầm. Tôi hay nhầm lắm. Hắn cũng cười, ai mà chẳng nhầm hả bác. Nhưng hôm nay cháu chắc chắn mình đã gặp một nhà văn. Ông có ý mời hắn ghé chơi nhà, hôm nay cậu ở lại chứ. Hắn đáp, giọng dứt khoát, không, cháu chỉ qua chợ mua vài thứ cho vợ rồi về luôn. Ở thành phố buồn lắm.
                                                                                        
               
Ông vừa bước từng bước một lên cầu thang vừa lẩm nhẩm, cô gái, chàng trai, đám cháy, cậu lái xe, con sóc đen, con ngựa….Ừ, thành phố buồn thật.

                                                                                                             SG 11/2014.
                                                                                                                 Ý Nhi.
                















THỨC CHO XONG BÀI THƠ

Ý Nhi viết về Tô Thùy Yên


1.Năm 1993

Tôi đã được nghe Trường Sa hành, Chiều trên phá Tam Giang, Thi sĩ…trước khi gặp Tô Thùy Yên. Vì vậy, có phần bất ngờ khi đối diện với tôi, con người từng mộng du trên trái đất tròn, từng chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng/giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô, con người từng hỏi han hiu quạnh lớn, từng bay trên phá Tam Giang với những suy nghĩ ở một tầng cao đáng kinh ngạc về cuộc chiến tàn khốc đang diễn ra, lại là một người đàn ông tầm thước, lịch duyệt, từ tốn. Bất ngờ khác, ông gần như không có sự ngại ngần khi trò chuyện với tôi- một nhà thơ từ Hà Nội vào. Có lần, ngồi ở quán nước vỉa hè cùng nhà văn Nguyễn Đình Toàn, sau khi nghe tôi kể một giai thoại chính trị, ông cười: tôi hiểu vì sao tôi chơi được với cô rồi. Nhưng có lẽ, không chỉ do những giai thoại.

Ông thường ghé qua nơi tôi làm việc- Chi nhánh Nhà xuất bản Hội nhà văn tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông có thể gặp những nhà văn miền Nam còn ở Sài Gòn như Huỳnh Phan AnhBùi GiángNguyễn Đình ToànThế Phong…và những nhà thơ trẻ như Nguyễn Quốc ChánhBùi Hoằng Vỵ, Thảo Phương, Phạm Thị Ngọc Liên…Hồi đó, hẻm 361 Hai Bà Trưng (nơi có trụ sở Nhà xuất nản) còn vắng vẻ. Phía trước mặt trụ sở có một khoảnh đất trống. Gia đình nọ đã dựng tạm gian quán lợp giấy dầu bán cà-phê nước ngọt, kiểu một cái quán cóc. Chúng tôi thường “tụ tập” ở đó. Nhiều khi chúng tôi là những người khách duy nhất. Sáng nọ, trong gian quán quạnh quẽ, Tô Thùy Yên đã đọc cho chúng tôi nghe bài thơ Quán vắng vẻ của ông: Quán vắng vẻ/ không ai người đến gặp/ ngọn đèn như nỗi đợi thiên thu…Giọng ông nhẹ nhàng, cách đọc chậm rãi khiến người nghe dễ dàng nhập vào tâm trạng của tác giả: Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì/ Thôi thì hãy cố nán/ Cho đáng một lần đi… Nghe đâu, trong tù, ông còn hát vang lên một ca khúc của Trịnh Công Sơn, để báo với bạn tù sự có mặt của mình, để thiên hạ biết mình vẫn có thể hát. Hỏi, ông cười, tôi hát cũng được lắm đó cô.

Đôi lần, sáng ra ông đã ghé lại. Ông bảo, dắt xe ra khỏi nhà, chẳng biết đi đâu, lại tạt vô đây. Đôi lần, ông xuống nhà tôi ở quận 6, không gặp tôi, ông trò chuyện với nhà tôi và các con tôi. Khi nghe vợ chồng tôi có ý định xây nhà trên mảnh đất ở Gò Vấp, ông đã đưa chúng tôi đến Biên Hòa gặp kiến trúc sư Đinh Thiên Tứ- bạn ông- nhờ thiết kế. Từ khi ra tù, Đinh Thiên Tứ bỏ nghề, không nhận bất cứ công việc chuyên môn nào. Nếu không có Tô Thùy Yên, chắc chắn chúng tôi không thể có được ngôi nhà trang nhã, thanh thoát, chan hòa nắng gió này.

Ông nói với tôi, ông mong có dịp ra Hà Nội, nơi ông từng qua giữa đêm khuya trong chiếc xe chở tù bít bùng, chật chội. Ông một mình chạy xe đến hồ Trị An “đi giữa trảng tranh/ràn rạt gió lùa/hư rỗng tuênh toang/ bốn phía rừng xa mịt mịt”…

Những quấn quýt bạn bè, những lo toan giúp đỡ, những tỏ bày, những chuyến đi…phần nào nói lên tâm trạng của Tô Thùy Yên lúc này. Ông vừa ra khỏi tù lần thứ 3 chưa bao lâu và đang chuẩn bị cho việc rời bỏ quê cha đất tổ. Có thể nói, đó là quãng thời gian rất đặc biệt trong cuộc sống của ông: chưa dứt khỏi ký ức nặng nề, bàng hoàng giữa những ngày đang sống(Lang thang rã rời ngoài phố đông người/ không gặp một ai quen…Bất chợt nghe như đời đã muộn/ Muộn đến chán chường rũ thõng đôi tay/Tưởng không cái vội nào còn bắt kịp…) và, đứng trước một chuyến ra đi không dễ dàng, thậm chí, là một chuyến đi đau đớn, đầy ưu uất: Anh ra đi/Bứt ruột mà đi/ Như đã một lần cũng bứt ruột/Đi những mười năm tưởng chẳng còn vế…Anh lên đường/ Giả tảng không nhìn nỗi sỉ nhục…Anh ngậm nghẹn lời từ biệt/ Liên tưởng việc xe chôn kẻ tội đồ…Anh ra đi/ Cầu sao cho thoát được/ Con mắt miên man/ Trừng nộ từ tối tăm tàn lụi/ Quét rạt chỉ điểm người xổng chạy vô phương…Anh ra đi, cầu sao cho thoát được/ Bộ da đó của mình/ Đánh lạc hướng truy tầm của định mệnh…Phần anh ra đi/ Gắng gượng chút hơi tàn/ Hân hoan ròn rã/ Như người ngửa mặt trong trời mưa/ Mong trôi khỏa nhẹ nhàng những nếp rạn…

Cuối năm, trước khi cùng gia đình rời Việt Nam, ông đem cho tôi một số bài thơ chép tay, như món quà dành cho người bạn vong niên: Ngoài cõi võ vàng, Giấc hoành môn, Những mẩu giấy rời, Những thành phố mà ta không ghé lại, Bài thơ chia tay dành cho người duy nhất đọc, một bài không có tựa đề và bản in bài Ta về (Có lẽ trên 1 tạp chí ở Hải ngoại) với các ghi chú: Nhớ đừng phổ biến hay: Bà đọc qua cho biết thôi. Xin đừng phổ biến. Đa tạ. Trong số này, không hiểu sao có tới 4 bài được viết bằng bút chì, trên những tờ giấy mỏng, ngả vàng. Chữ Tô Thùy Yên rất đẹp. Các bài thơ đều được viết trong năm 1993. Sau này, trong Thơ tuyển, Bài Thơ chia tay…được lấy tựa Giã biệt và không thấy có Những mẩu giấy rời, Ngoài cõi võ vàng, bài thơ không tựa đề. Có thể Tô Thùy Yên không chọn. Mà cũng có thể ông không còn lưu giữ chúng. Tô Thùy Yên dường như không có thói quen lưu giữ các bài thơ của mình, dưới bất cứ hình thức nào. Làm thơ từ cuối những năm năm mươi mà đến năm 1995 ông mới cho xuất bản tập thơ đầu tiên. Được biết, khi làm sách, ông đã phải nhờ cậy bạn bè và những người yêu thơ còn lưu giữ thơ ông.

Một trường hợp hy hữu.

Năm 1993, tôi đã gặp Tô Thùy Yên.

2. Thơ của gã du hành muôn năm muôn nơi

Nhưng một cuộc gặp khác, cuộc gặp Thơ Tô Thùy Yên thì phải chờ đến mấy năm sau. Có thể nói, đây là một cuộc gặp gây chấn động với tôi. Mười mấy năm trôi qua, kể từ khi có Thơ tuyển 3 và Thắp tạ 3, tôi luôn có ý định viết về thơ Tô Thùy Yên nhưng lại luôn ngần ngại, lo mình không đủ sự thấu hiểu, không đủ sự đồng cảm 4. Chỉ khi nhận được thư điện tử của ông vào cuối năm 2015 5, tôi mới khởi sự. (Chợt nhớ câu thơ:” Chúng ta khởi sự lại mối sầu”/Hải phận).

Như mọi nhà thơ lớn, khi bắt đầu, Tô Thùy Yên đã định vị chỗ đứng của mình. Thi sĩ 18 tuổi lựa chọn sự đối đầu. Với Thượng đế;” Đầu tôi cứng và trơn/ Thượngđế làm sao ngự”, với Hư vô:” Có đọc thuộc thánh thư/Linh hồn tôi vẫn vậy/Tôi vẫn không thể lạy/Dù đứng trước hư vô”, với cuộc đời:”Với thứ linh hồn quốc cấm/ Tôi tù tội chung thân”, với Thơ:”Tôi giựt dành đổ máu với tôi/ từng chữ một” . Và, thi sĩ chấp nhận nỗi cô đơn: ” Tôi thấy đã mất mát/ Tất cả trừ cô đơn”, chấp nhận “cuộc tuần du bất tận…về nơi hẹn nào không định trước”, chấp nhận những đau đớn, những oan khiên, những trượt lỡ của cuộc đời. Đó là một lựa chọn có ý thức. Và vì vậy, đã được nhà thơ giữ trọn suốt một đời thơ dài hơn sáu mươi năm. 
Có thể nói, Thơ Tô Thùy Yên là câu chuyện của “gã du hành muôn năm muôn nơi”5 . Cách khác, chính xác hơn, đó là cuộc độc thoại của con người đầy ý thức về cõi thế, về cõi người, về lẽ mất, còn, về dựng xây và hủy diệt, về hy vọng và tuyệt vọng…Cách khác nữa, là lời tự vấn, là những câu hỏi, nhiều khi không lời đáp, sau những gì đã đi qua, đã trải qua, sau những hạnh ngộ và chia lìa, sau những hân hoan hiếm hoi và những khổ lụy lâu dài của kiếp người. Dù là cách nào đi nữa, cuối cùng, thơ Tô Thùy Yên cũng đem lại cho ta những suy nghĩ lớn lao, những rung cảm mãnh liệt, những dày vò khôn nguôi, và, vẫn còn đó, những câu hỏi mà ta cũng không tìm ra lời đáp hay chỉ là “Câu hỏi vạn niên/ Lời đáp nhất thời”.

Đó là câu chuyện của bậc thượng thừa, bậc tiên tri. Chẳng phải thế sao. Ngoài hành giả này, đã có ai từng ao ước :” Giá ta được lên cao, lên cao/ Để ngắm nhìn một lần thấu suốt định mệnh ta/ Trước ngày từ biệt nó”. Ngoài hành giả này, đã có ai từng hỏi han “Hiu quạnh lớn”, ai từng nhìn thấy:” Trên dốc thời gian hòn đá tuột/ lăn dài kinh động cả hư vô“, “ mặt tinh cầu xếp nếp/ Như lằn nhăn tuổi tác hư không”, ai từng nghe thấy “Những âm thanh chuyển động buồn rầu/ Của nhân thế trên nẻo mòn vĩnh cửu”. Ai, ngoài ông, có thể có được tiên cảm kinh hoàng về những tai ương, những tang tóc mà nhân loại hôm nay đang hứng chịu:

Một ngày, ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới 
Ngoài biển khơi, trên lục địa 
Sò hến, côn trùng cũng chẳng yên thân

Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới 
Quật ngã những bức tượng, xô sập những đền đài 
Tiếng hú chạy dài suốt lịch sử

Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới 
Xé rách một kỷ nguyên, phân tán các dân tộc 
Để mọi người câm lặng ăn năn…

Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới 
Sườn núi rát đỏ, đồng ruộng khô ran 
Rồi mặt đất cũng vô danh như mặt biển…

Trong thơ Tô Thùy Yên, Ta E‘gan với Thượng đế, với Thiên thu, với Trời đất, Nhân loại, với Biển lớn, với Non cao, với Hạnh phúc, với Khổ lụy…Đầu tiên ta kể về im lặng/ Dưới vòm trời, dưới mái tóc ta… Ta hỏi han, hề, Hiu quạnh lớn…Làm sao ta biết được/Niềm vô lượng không gian cuốn hút/ Cõi trăm năm tiếp tiếp miệt mài…Chiều, chiều của đời ta, chiều của thiên nhiên…Ta nghe thấy cả những âm thanh lịch sử thịnh nộ/ rây lọc mơ hồ qua màn lưới yên bình…Ta cảm ơn người đời. Cảm ơn trời đất…Nhiều khi ta ngước lên ngơ ngẩn/Nghe tiếng chim quen bay lướt qua…Ta khóc lẻ loi, cười một mình…Ta nghe cánh cửa lâu đời sập/ Những xích xiềng han rỉ đứt tung...Ta suy ngẫm đau thương về hạnh phúc/ Hạnh phúc thực hư như hoa đốm nắng hè/Như cơn gió không thể nào lưu trữ/ Như lượn sóng xô lên rồi tan hoang…Ta suy gẫm đau thương về tình yêu/ Tình yêu giả trang mối sầu phiêu bạt của nhân thế trăm năm trong bát ngát thời gian…Ta bất chấp hạnh phúc và ta hạnh phúc/Hạnh phúc không chờ trông, không tiếc thương…Tự do, ta thết mừng điên đảo/ Cuộc tiệc trăm năm nhục thánh thần…Ta mò đoán nghĩa dòng hư tự/ Mòn nét trong thiên địa ngập ngừng… Ta bằng lòng phận que diêm tắt/ Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông…Ta ra đi/ Đường mở tự lòng ta…Ta về-một bóng trên đường lớn…Ta khóc tạ ơn đời máu chảy /Ruột mềm như đá dưới chân ta…Ta về khai giải bùa thiêng yểm…Đi như đi lạc trong trời đất/ Thủy tận sơn cùng xí xóa ta…Để khi mở mắt ta nhìn thấy/ Cả cuộc đời ta chẳng đáng chi…Có ai trong cõi vô cùng tận/ Bắt gặp lòng ta bay đảo điên…

Chỉ có sự ngang bằng ấy, nhà thơ mới có thể làm “cuộc phiêu lưu tinh thần bi liệt” của mình.

Có lúc, “Ra đi như một bình minh lạ/ Trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình…Ra đi như một âm thanh sáng/ Xuyên suốt tâm linh, dội cảm sầu”, có khi khao khát mãnh liệt :” Chúng ta sẽ gia giáo hóa thiên nhiên/ Chúng ta sẽ đồng loạt hóa định mệnh/ Chúng ta sẽ nhật tu đời sống miên man trong từng phạm vi chi tiết nhất…Cầu cho ta khôi phục con người ta, vết lóe của thiên nhiên” nhưng thường khi là nỗi buồn, thường khi là nỗi lo âu, thậm chí, tuyệt vọng. Liệu có hành giả nào tự cổ chí kim không buồn khổ, lo âu, tuyệt vọng.

Vinh quang cho ai đang ở trên đường nhưng Một bước đã muôn trùng... Vinh quang cho người chọn được mệnh mình nhưng Làm sao ta biết được/ niềm vô lượng không gian cuốn hút/ Cõi trăm năm tiếp tiếp miệt mài, làm sao ta biết được/ Dâu biển ngoài kia chung cuộc chưa…Trời đất kia còn bao thiên thu? 
Đi. Đi qua. Đi qua nữa. Đi qua nữa nữa nhưng chỉ nhìn thấy Trùng trùng những lớp cửa liên hồi mở, đóng, mở…Từng ngày, từng ảo tưởng phai buông… 
Ta đi tới, mong còn đi tới nữa/ nhìn thế giới diệu kỳ nhưng chỉ trong khoảng sáng buồn rầu/ Chừng của một que diêm… 
Nhưng Vũ trụ tạo hủy dở dang mãi 
Nhưng Con đường đi mỏi mà không tận 
Nhưng Thiên thu lóe tắt vệt phù du 
Nhưng Việc đời thường khi bất xứng ý 
Nhưng Đến ngả ba đành theo một lối/ Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia 
Nhưng Hoài công không định nổi chân hư 
Nhưng Cánh cửa lớn lao nào/ Mở ra và đóng lại/ Kín như bưng/ Tưởng chừng không có cửa 
Nhưng Mặt trời chiếu rã rưng rưng biển/ Vầng khói chim đen thảng thốt 
quần; Mòn gót chân sương nắng tháng năm/ Thấy, thấy sóng tan tành lũ lượt; Cụm mây trôi rã trong trời lớn/ Như giấc chiêm bao thấy nửa chừng; Tàu chuối xác xơ reo ngất ngất/ Nỗi đời bi thiết xé lưa tưa; Trời đất thì buồn như trái rỗng/ Ta thì như gió tuyệt bơ vơ; Có đi ngàn dặm cũng là quẩn/ Càng nhìn trời đất càng hoang mang…

Đây không phải là câu chuyện của một người, của một khoảnh khắc, của một miền đất mà là câu chuyện của muôn năm muôn nơi, câu chuyện của hành giả mang tên Tô Thùy Yên, kể cho Hư không. (Ta chỉ là người trộm nghe. Bởi vậy, đâu dám chắc đã thấu hiểu thâm ý.) 
Đặng Tiến tinh tế khi cho rằng thơ Tô Thùy Yên là “ những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch”(Ngựa phi, ngựa phi đường xa)

3. Câu thơ soi mệnh viết mà khóc

Vào năm 1972, trong bài thơ Bất tận nỗi đời hung hãn đó, Nhà thơ từng cầu ước được một lần thấu suốt Định mệnh của mình, được một lần nhìn thấy toàn cảnh những con đường mình sẽ đi. Nhưng, vẻ như, ông đã không được toại ước, không thể biết rằng, chỉ vài ba năm sau đó, đã phải đặt chân lên đoạn đường tàn khốc của đời mình:” Đất ta, ta giẫm mà ghê chân"
Đó là thời của những Mùa hạn: mùa hạn của trời đất, mùa hạn của thể xác, của tâm tưởng:

Ở đây địa ngục chín tầng sâu 
Cả giống nòi câm lặng gục đầu 
Cắn chết hàm răng, ứa máu mắt 
Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau

…Nước khe, cơm độn, thân tàn rạc 
Sống chẳng khôn, cầu được thác thiêng

…Sông hồ nẻ đáy, giếng vô vọng 
Muôn thú điên lầm lũi bỏ đàn

…Như tên phù thủy già điên loạn 
Lịch sử lên cơn giận bất thường

…Gõ lấy đầu mình như gõ cửa 
Liên hồi kêu cứu giữa đêm khuya 
Đầu ta như chiếc đầu lâu cổ 
Tiếng rỗng không khô khốc não nề…

Đó là thời của những chuyến Tàu đêm lao vào cõi mịt mù tựa như một mũi khoan xoáy vào tâm trí đớn đau của người tù:

Toa đêm lúc nhúc hồn oan khốc 
Đèn bão mờ soi chẳng rõ ai 
Ta gọi rụng rời ta thất lạc 
Ta còn chẳng đủ nửa ta đây

…Ngồi đây giữa những phân cùng bụi 
Trong chuyển dời xung xát bạo tàn 
Ta trở thành than, thành súc vật 
Tiếng người e cũng đã quên ngang

…Đem thân làm gã tù lưu xứ 
Xí xóa đời ta với đất trời 
Ngàn dặm lìa tan tình cố cựu 
Bàng hoàng thân thế cụm mây trôi

…Dường như ta chợt khóc đau đớn 
Lệ nóng cường toan cháy ruột gan 
Lệ chảy không ra ngoài khóe mắt 
Nghẹn ngào đến cả tiếng than van

…Tàu đi như một cơn điên đảo 
Sắt thép kinh hoàng va đập nhau 
Ta tưởng chừng nghe thời đại động 
Xô đi ầm ĩ một cơn đau…

Đó là thời của Tiếng kêu cứng nghẽn cổ u tình, của Tháng tháng năm năm/ Lòng như núi nặng/ Ta đứng lên/ đi tới đi lui/ Trăm lượt nghìn lần/ Như một hồn ma cổ đại/ Trong hầm mộ muôn đời…Ta cố nhớ giấc mơ/ Nhưng rồi không nhớ được/ Ta nằm xuống/ Dỗ mình hãy cố ngủ/ Tập quen dần với giấc thiên thu…thời của Tập lịch lâu ngày không gỡ tới/ Thờ ơ giữ đủ cả âu sầu…của những đêm tối lền xòe tay cũng chẳng thấy…Thời của tang thương, cay đắng, u uất. Thời của “ những ngày câm nín”, theo cách nói của Chân Phương.6

Có thể vị Hành giả đã không thể hiểu hết những dòng lược sử của mình (Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm/ Lược sử ta trong bí lục nào/ Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn/ Thiên thu lóe tắt vệt phù du) để biết được rằng: Định mệnh buộc người phải trải qua những khổ nạn này, như một thử thách. Một lò luyện.

Nhưng, ông đã đi qua, tự giác đi qua. Với con người ấy, những oan khiên, những mất mát, những khổ lụy của cá nhân không làm lụi tắt tình yêu thương bất tận với đồng loại, không làm lụi tắt nỗi lo âu nhân thế. Chính trong cái Mùa hạn kinh hoàng ấy, trong cảnh tù đày khốn khổ ấy, những câu thơ vẫn bật lên ánh sáng nhân ái kỳ diệu nhất mà con người có thể có được:

Xứ khổ, thêm chi mùa thảm khốc 
Than ôi, trời đã bỏ rơi dân

Người mẹ trẻ buồn đôi mắt trũng 
Thân gầy nhom, tóc cháy, da cằn 
Địu con, một nhúm thịt nhăn nhúm 
Ra ruộng khê tìm mót cái ăn

…Làng mạc giờ đây đã trống trơn 
Con dê, con chó cũng không còn 
Người đi bỏ xác nơi bờ bụi 
Miếu sạt, thần hoàng rũ héo hon

…Ta thương vô kể mầm cây lụi 
Con suối trinh nguyên chết cạn lòng

…Ta gom từng hạt cây luân lạc 
Mong mỏi gầy lên một địa đàng

…Tất cả rồi đây sẽ đổi thay 
Đổi thay từ quặng mỏ, mầm cây 
Đổi thay cả mặt người tăm tối 
Những bớt chàm xưa được xóa trôi

…Đi nào, chú bé của ta ơi 
Đem tấm lòng trang trải với đời 
Yêu cả con sâu cùng cái kiến 
Thả hồn vào cỏ lá bung phơi

…Những ai hôm trước từng gây tội 
Hãy lắng tâm tha lấy lỗi mình 
Tự tại, thời gian chôn chính nó 
Đời lên lại mãi tự bình minh…

Chính trên chuyến tàu đêm mịt mùng, vô vọng ấy, những câu thơ lại như những lời kêu gọi vang vọng, những khắc ghi sâu đậm trên ngày tháng:

Thức dậy, những ai còn sống đó 
Nhìn ra nhớ lấy phút giây này 
Tàu đi như một cơn giông lửa 
Cuồn cuộn sao từ ống khói bay

…Nghe cả hồn ta bị cán nghiến 
Trên đường lịch sử sắt tuôn mau

…Lịch sử dường như rất vội vã 
Tàu không đỗ lại các ga qua

…Thời đại đang đi từng mảng lớn 
Rào rào những cụm khói miên man

… Có nghe lịch sử mài thê thiết 
Cho sáng lên đời đã rỉ han

…Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục 
Cho tiếng rền vang dội địa cầu 
Lay động những tầng mê sảng tối 
Loài người hãy thức, thức cùng nhau.

Thật khó hình dung đó là tiếng nói của một người tù nhưng thật dễ hiểu, khi biết, người tù đó là nhà thơ Tô Thùy Yên- người từng chọn cho mình một cách giã từ đẹp đẽ nhất, sang cả nhất:

Rồi đến một hôm nào 
Ta mắc lại 
Trên cành cây bất chợt gặp bên đường 
Tấm áo sinh thời nặng trĩu bụi 
Như một lời từ biệt nghe rồi quên.

Đó là những vần thơ Lấy mình soi mệnh mình.

4. Lòng ta vô sự, ta vui vẻ.

Câu thơ này nằm trong bài thơ Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, một bài thơ hiếm hoi dường như chứa chất nỗi vui, sự thanh thản của tâm hồn. Dù vậy, ngay lần đầu đọc câu thơ, tôi đã ngờ ngợ có điều chi đó bất ổn. Có thể vì tôi đã đọc quá nhiều những câu thơ đau đớn, dằn vặt, thảng thốt về nỗi đời của Tô Thùy Yên. Chúng phủ trùm lên tâm trí người đọc, không nhường chỗ cho bất cứ điều gì khác. Mà cũng có thể, chính âm hưởng của câu thơ đã phủ định ý nghĩa của từ ngữ. Nếu quả ta vui vẻ, ta vô sự, hẳn ta chẳng cần “tuyên bố” như vậy. Trong lời tuyên bố này hàm chứa một điều gì giống như sự gắng gượng. Gắng tỏ ra vô sự, gắng tỏ ra vui vẻ. Gắng buông mình. Gắng quên những lo âu, phiền lụy:

Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm 
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi…

Trận lốc cười tròn trên quá vãng 
Ta làm lại cả tâm hồn ta…

Thôi vướng mắc dài duyên với nợ 
Ân oán đời, phong kiếm rửa tay…

…Nên ta phó mặc cho trời đất 
Trời đất vô ngôn lại bất nhân…

Ví dù ta ngủ không còn dậy 
Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng…

Vẻ như, cuộc gắng gượng không thành. Xem ra, lòng chẳng hề vô sự. Xem ra, cuộc “làm lại tâm hồn” cũng chỉ là một dự tính bất thành.

Hạnh phúc, tình yêu, niềm vui…trong thơ Tô Thùy Yên thường ở trạng thái của một mơ ước, thường ở thế khả năng, thế của một dự tưởng, một hồi tưởng. Bản trạch yêu thương kia chỉ về trong tưởng tượng. Vườn hạ trong xanh dịu dàng kia chỉ là việc của “mai kia mốt nọ”, những cảnh thanh bình yên ả chỉ là nỗi nhớ tiếc:

Còn ở đâu miền xanh bóng cây 
Để ta đến đó ngồi trưa nay 
Dường như hơi mát trong vòm lá 
Có chất men làm ta thoảng say…

Còn ở đâu làn nước giếng khơi 
Để ta đến uống một hơi dài…

Ở đâu còn trận gió thênh thang 
Thổi mới trần gian mùa rộn ràng…

Bao giờ, cho đến bao giờ nữa 
Em gánh vui về họp chợ đông…

Và, tình yêu. Và niềm vui chỉ là một khát vọng khôn cùng, một mong mỏi khiêm nhường:

Anh yêu em, yêu nuối tuổi đôi mươi 
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi 
Một nhành mai nhị độ…

Anh muốn viết một bài thơ mới cho em 
Trên trang giấy đã ố vàng quên lãng 
Anh muốn ngắt một cành hoa lạ cho em 
Trên cuộc đất đã phơi trần hạn hán…

Cũng có lần anh muốn nhìn em 
Thành cây nước phun nở 
Hân hoan và rã tan 
Cùng kiệt tình yêu chất giấu một đời 
Một đời hiển hiện và lãng quên 
Như quyển sách mở trên bàn mặc tình cho gió lật…

Những thành phố mà ta không ghé lại 
Biết đâu chẳng có một con người 
Mà ta yêu suốt đời ta thắm thiết mãi…

Vui đi em 
Vui được chút nào vui…

Thôi, chẳng tiếc túi vàng đã phung phá 
Mà mừng mẩu nến chợt tìm ra…

Hãy hạnh phúc nhất thời 
Như dấu lặng 
Hãy hạnh phúc nhất thời 
Như tiếng mưa rào, như lời cỏ hát 
Như ánh chớp đùa, như hạt sương gieo 
Như giọt nước lan reo mà tự hủy…

Liệu con người này có lúc nào vô sự, có lúc nào vui vẻ, thảnh thơi như câu thơ ông từng viết?

5. Ta về, khai giải bùa thiêng yểm

Cuộc “khai giải” này dường đã được bắt đầu từ rất lâu, trước tai ương, trước 10 năm tù lưu xứ, trong căn cốt, trong tri cảm của Thi sĩ/ Hành giả.

Ví như, từ một lần đi đến ngôi quán vắng vẻ kia: Lỗi tự mình, lỗi tự mình thôi/ Đã chẳng nhớ ra ngày tháng hẹn…Tội cho người, tội bấy cho người/ Cũng đến đây chờ chẳng gặp ai…Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì.

Ví như, từ một lần đến Trường Sa: Ta hỏi han, hề, Hiu quạnh lớn/ Mà Hiu quạnh lớn vẫn làm ngơ…Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt/ Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi/ Đám cây bật gốc chờ tan xác/ Có hối ra đời chẳng chọn nơi…

Ví như, từ bao nhiêu chiêm nghiệm về lẽ đời: Đừng loạn tâm, đừng loạn tâm/ Cuối chặng hành trình quay đảo nhất/ Cả thảy sẽ an nhiên/ Trong trật tự hằng hằng của vũ trụ…

Và, cuộc “ khai giải” sâu đậm nhất đã diễn ra trong một lần gặp mặt tưởng tượng với người lính bên kia chiến tuyến:

Ví dù ngươi bắn rụng ta 
Như tiếng hét 
Xé hư không bặt im 
Chuyện cũng thành vô ích 
Ví dầu ngươi gục 
Vì bom đạn bất dung 
Thi thể chẳng ai thâu 
Nào có chi đáng kể 
Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng 
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm 
Có cùng gom góp lại 
Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu? 
Ngươi há chẳng thấy sao

Phá Tam Giang, phá Tam Giang ngày rày đâu đã cạn?...

Ta thương ta yếu hèn 
Ta thương ngươi khờ khạo 
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng 
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch sử… 
(Chiều trên phá Tam Giang)

Chắc chắn, nếu không có cuộc “khai giải” trong tâm tưởng ấy, không có cuộc khai giải tự lòng mình ấy, không thể có hình ảnh người tù: Ta về một bóng trên đường lớn; không thể có cảnh tượng: Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa/ Làng ta, ngựa đá đã qua sông/ Người đi như cá theo con nước/ Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng; không thể có nỗi hàm ơn: Ta về cúi mái đầu sương điểm/ Nghe nặng từ tâm lượng đất trời/ Cám ơn hoa đã vì ta nở/ Thế giới vui từ mỗi lẻ loi; không thể có sự bình tâm: Em hãy yêu lấy thành phố của anh/ Như tất cả những gì anh gửi lại/ Trong buổi chiều dịu lãng đời em/ Thành phố của anh/ Bây giờ đã thuộc về em/ Như lời nói thuộc về nhà thơ phe thắng trận; không thể có cuộc lễ tạ đơn độc mà kỳ vĩ: Ta về như lá rơi về cội/ Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/ Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống/ Giải oan cho cuộc biển dâu này…

Cuộc khai giải huy hoàng và đau đớn này, chỉ có thể được làm nên bởi chính tri cảm của một người lớn, một nhà thơ lớn.

Mà,

Bài thơ ông muốn viết vẫn chưa xong.



*** 
Các nhà Phê bình văn học danh tiếng như Đặng TiếnThụy KhuêNguyễn Hưng QuốcBùi Vĩnh Phúc…đều đã thử bút với thơ Tô Thùy Yên. Và, dường như chưa ai trong số họ cho rằng họ đã nói lời sau cùng về ông. Chắc chắn, những nhà phê bình tiếp sau họ, những độc giả của tương lai, sẽ đọc Tô Thùy Yên với một định chuẩn thẩm mỹ mới, bởi vì Thơ Tô Thùy Yên là kho báu của thơ Việt, bởi vì Tô Thùy Yên là "một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” (Du Tử Lê ). Chính xác hơn, Tô Thùy Yên là nhà thơ lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại.

Sài Gòn 3/2016 
Ý Nhi.



1.Thơ Tô Thùy Yên: Thức cho xong bài thơ/Mai sớm ra đi/ cài hờ lên cửa tặng. (Tặng phẩm) 
2.Thơ Tô Thùy Yên: Có một gã du hành muôn năm muôn nơi trở về kể chuyện/ ý chừng kể để Hư không nghe (Chim bay biển Bắc). 
3.Tên 2 tập thơ của Tô Thùy Yên. 
4.Đặng Tiến:Tác giả kén chọn người đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng trên báo, anh mới cho xuất bản một tập thơ tuyển, viết về anh có phần khó, không phải ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm (Ngựa phi, ngựa phi đường xa) 
5. Trích thư Tô Thùy Yên trả lời về việc xin đăng thơ ông trên Văn Việt:…Riêng tôi sức khỏe ngày càng lôi thôi, khó lòng đến thăm cô ở ngôi nhà Gò Vấp của cô…hay đi ăn bánh xèo Đinh Công Tráng…Về những bài thơ, xin cô cứ tùy nghi. Tôi thiết nghĩ, dù xa mặt, bao giờ cô cũng chẳng nỡ làm gì có thể hại thanh danh và khí tiết của tôi… 
6. Tên một tập thơ của Chân Phương: Chú thích cho những ngày câm nín. 
7.Trời rạng/Chuyến đi không hoãn được/ Bài thơ tâm phát dẫu chưa xong/ Xin vẫn cài hờ lên cửa tạ. (Thơ tạ). 
8. Tất cả các câu thơ in nghiêng trong bài viết là thơ Tô Thùy Yên.















BUỒN ĐAU NHƯ THỂ THÂN MÌNH / AI CHIA NỬA MÁU, AI GIÀNH NỬA XƯƠNG

Ý Nhi viết về Bùi Giáng



1.
Trong số tài liệu tôi còn giữ được khi làm việc tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn (chi nhánh miền Nam), có một ít giấy tờ, thư từ liên quan đến Bùi Giáng.
Ngày 7/7/1993, tôi đại diện nhà xuất bản gửi thư đến ông xin phép in lại tập thơ Mưa nguồn. Tôi gửi hai bản, nghĩ rằng ông sẽ lưu một bản nhưng ngay ngày hôm sau, ông đã gửi lại cả hai bản với hai câu trả lời khác nhau. Ở bản thứ nhất ông ghi: “Xin trân trọng chấp nhận chuyện này với niềm tri ân vô tận”. Ở bản thứ hai ông ghi: “Xin chấp thuận đầy đủ hai tay”. Phía dưới, ông viết thêm: “Gửi cháu Ý Nhi, nếu thấy bài nào trong Mưa nguồn cháu thích thì xin đề tặng Ý Nhi. Có lẽ nên tặng cháu bài cuối cùng trong tập: Em về mấy thế kỷ sau/ Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không”.
Ngày 29/5/1995, tôi lại gửi thư đến ông xin phép in lại tác phẩm Sylvia Souvenirs du Valois của Gérard de Nerval, do ông chuyển ngữ với tựa đề tiếng Việt là Mùi hương xuân sắc. Ông trả lời bằng hai câu thơ: “Kính thưa nương tử Ý Nhi/ Toàn nhiên quyết định cái nhu mì của con”.
Tháng 10/1993, sau khi Mưa nguồn in xong và đang phát hành, ông viết cho tôi: “Thân gửi cô Ý Nhi, Thấy tập thơ Mưa nguồn in thật đẹp, tôi thật cảm động. Tôi có đến Hội Nhà văn hai lần, không gặp cô. Nay tôi nhờ chú Thanh Hoài (là cháu rể) rất thân của tôi đến thăm cô và bàn với cô vài chút chuyện. Thanh Hoài đàng hoàng lắm, không luẩn quẩn như tôi. Kính mong cô niềm nở nói chuyện với Hoài và vân vân…”.
Sau đó ít lâu, ông lại gửi một thư khác: “Nghe anh Trúc nói chuyện nhiều về Ý Nhi, câu chuyện thật cảm động. Chú xin cầu chúc gia đình cháu mọi sự vân vân… Cháu tùy ý làm gì cũng được cả, tác phẩm thơ đó của chú nghe xa xôi quá, cũng như những kỷ niệm về ba má cháu. Chú thỉnh thoảng có gặp thầy Huỳnh Lý và cô Lý. Con đầu thầy Lý tên là Tùng”. (Trúc là người anh con dì ruột tôi, bạn vong niên của Bùi Giáng. Huỳnh Lý là giáo sư ngành Ngữ Văn, em ruột ông nội tôi, bạn của Bùi Giáng từ ngày trước, tại Quảng Nam. Thực ra, con đầu của giáo sư Huỳnh Lý tên Lê, đã hy sinh trong chiến tranh, con thứ tên Tùng).
Vài lần khác, ông ghé lại Nhà xuất bản, không gặp tôi thì để lại thư, bằng thơ. Một bức viết:
"Chiêm bao xẻ ngọn chia ngành
Buồn vui vô tận
Biến thành như không
Hẹn gặp cô Ý Nhi lần khác"
Bức kia là:
"Cậy em vô tận bây giờ
Ý Nhi từ buổi sơ đầu gặp nhau
Anh đi như gió phai màu
Buồn vui như thể mộng đầu éo le"
Bùi Giáng thường viết chữ rất to, chỉ vài câu đã hết một trang giấy. Nét chữ của ông cứng cỏi, phóng khoáng.
2.
Tôi có nhiều mối quan hệ họ hàng với Bùi Giáng. Một người cậu ruột và một người dì ruột của tôi (ông Phạm Sửu và bà Phạm Thị Thước) thành thân với một người chị ruột và một người anh ruột của Bùi Giáng (bà Bùi Thị Dung và ông Bùi Luận). Tuy vậy, tôi chỉ được nghe kể về Bùi Giáng, sau khi in Mưa nguồn tôi mới được gặp ông. Có lần, ông cho người vào cơ quan gọi tôi ra quán nước đầu hẻm. Ông bảo, việc này (việc xin tục bản tập thơ Mưa nguồn) nên bàn ở bên ngoài thì tiện hơn. Rồi ông cười, nụ cười móm mém, hóm hỉnh, ánh nhìn hấp háy, tinh anh.
Thường thì ông vào thẳng văn phòng Nhà xuất bản ở 371/16 Hai Bà Trưng, quận 3. Tại đây, ông gặp Tô Thùy Yên, Thế Phong, Nguyễn Đình Toàn, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Đức Sơn và nhiều bạn bè văn nghệ khác. Có lần, ông và họa sĩ Nghiêu Đề đổi áo cho nhau ngay trước cửa ra vào. Cả hai ông đều hoan hỉ vì cuộc “Yêu nhau cởi áo cho nhau” ấy. Nghe nói Nghiêu Đề đã đem chiếc áo của Bùi Giáng về Mỹ khoe với bạn bè.
Trong bài viết “Đi thiêm thiếp cõi mai sau lạ lùng” viết cho báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tôi đã ghi lại hình ảnh Bùi Giáng những lần ghé lại Nhà xuất bản Hội Nhà văn: “…Chân đất lấm lem, dép đeo lủng lẳng trước ngực, áo xống lôi thôi, quần dài quấn quanh đầu… lúc thì lặng lẽ đem tặng một chậu cây cảnh (không biết kiếm được từ đâu), lúc lại hét to từ ngoài cửa, khi vẫn còn ngồi trên xích-lô: Ra đỡ trẫm xuống”. Mỗi lần đến ông đều đòi giấy bút để làm thơ. Cô nhân viên thường trực chuẩn bị sẵn cho ông một cuốn vở học trò để ông ghi lại những câu thơ bất chợt hiện ra với nét chữ ngày một run rẩy. Lúc nhận nhuận bút tập Mưa nguồn, ông ghi hai chữ “Zách ồ” vào chỗ ký nhận. Ông bảo nhiều tiền quá nên phải ghi như vậy.
Có lần, ông hỏi thăm ba mẹ tôi, hỏi thăm nhà thơ Trinh Đường. Ông bảo, Trinh Đường tên thật là Trương Đình. Lúc ấy ở Quảng Nam đã có nhà thơ Nguyễn Đình nên Trinh Đường mới đổi tên thành bút danh như vậy. Ông còn nhớ Trinh Đường con ông bà nào, ở đâu. Nghe tôi kể lại, Trinh Đường lấy làm lạ về trí nhớ của Bùi Giáng.
Mỗi lần Bùi Giáng đến thăm, tôi thường biếu ông chút ít để đi xe. Có hôm tôi đi vắng, ông hỏi cô nhân viên: làm gì ở đây. Khi nghe trả lời là nhân viên, ông bảo: Thế thì cho trẫm 20 ngàn. Ý Nhi thì phải cho 50 ngàn.
Bùi Giáng cũng thường nói đến bệnh điên của chính mình. Thấy ông lấy quần dài quấn quanh đầu, tôi hỏi: chú sao vậy. Ông đáp: Bị đánh. Hỏi ai đánh, ông bảo: mấy đứa thanh niên. Hỏi sao họ lại đánh chú, ông đáp: điên, nói bậy nên bị nó đánh… Có lần ông bảo tôi: ông Hoàng Châu Ký hồi trẻ đẹp trai lắm. Con vợ trẫm nó mê ổng, trẫm buồn, thế là trẫm điên luôn. Dứt lời, ông cười phá lên. Ông thừa biết, cô Ninh vợ ông là con người dì của ba tôi. Cô còn có họ hàng bên mẹ tôi, gọi mẹ tôi bằng cô ruột.
Vài tháng trước khi mất, ông ghé lại chỗ tôi. Thấy ông gầy yếu, tôi hỏi: “Chú có khỏe không”. Ông đáp: “Đỡ điên rồi nhưng yếu lắm”, rồi ông chỉ vào bịch ni-lông đựng rượu ở túi áo ngực, nói tiếp: “Cũng ít uống rượu rồi”. Nghe tôi nói đến việc chọn bài Phụng hiến cho tuyển tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng, ông kêu lên: “Trời ơi, sao lúc nào cũng Phụng hiến, Phụng hiến, chọn bài khác đi. Thơ của trẫm phải có cái gì nghịch nghịch, vui vui”.
3.
Lúc Bùi Giáng mất, nhà thơ Hoàng Hưng có nhờ tôi viết bài cho báo Lao động. Bài viết đã được in với tựa đề: “Bùi Giáng – vẫn sẽ còn những bận quay về” và đã được biên tập ít nhiều. Tôi muốn giữ lại bài viết ấy như bản viết tay mà tôi còn lưu, kể cả tựa đề:
"Buồn đau như thể thân mình
Ai chia nửa máu, ai giành nửa xương."
Đó là nỗi buồn đau của Bùi Giáng, nỗi buồn đau khốc liệt, bi thảm của một thân phận khác thường.
Người ta khâm phục Bùi Giáng bởi các khảo luận văn học như những cuốn viết về Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên… bởi các khảo luận triết học như Tư tưởng hiện đại, Heidegger và tư tưởng hiện đại… bởi những bản dịch tuyệt vời các tác phẩm của Saint Exupéry, Albert Camus, Gérard de Nerval…
Nhưng người ta yêu thơ ông.
“Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt/ Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em”. Đó là lời giải thích giản dị, minh bạch nhất cho những ai muốn đọc Bùi Giáng, muốn hiểu thơ ông. Một sự sáng suốt phải trả giá như vậy, một niềm yêu phải trả giá như vậy, hẳn phải có điều chi đặc biệt, hẳn đã tạo nên một giá trị riêng biệt.
Mỗi khi đọc những câu thơ hay của Bùi Giáng tôi lại nhớ đến tiếng đàn “rỏ máu năm đầu ngón tay” của Thúy Kiều. Những câu thơ như được chắt ra từ máu huyết, từ nỗi khắc khoải khôn nguôi về phận người, về sợi dây nối kết vừa bền vững vừa mong manh giữa kiếp người với cõi trần gian. Ít ai trong số những nhà thơ Việt Nam hiện đại lại viết nhiều về cõi trần gian như Bùi Giáng. Lúc thì nguyện “Yêu trần gian nguyên vẹn”, khi thì “Sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi”, lúc khác lại: “Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy/ Đời chúng ta là mấy trăng tròn”. Yêu da diết cõi trần gian, nhiều khi ông nhìn trời đất trong nỗi bàng hoàng: “Ngàn mây về cuối mãi trời xa/ Nước có bằng lòng đứng đợi ta”, nhiều khi ông mở lời như tiếng bập bẹ trẻ thơ: “Trần gian ơi, cánh bướm cánh chuồn chuồn/ Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại/ Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn”. Rồi, có khi, bỗng thảng thốt, òa khóc, không gìn giữ: “Em ra đi đời bưng mặt khóc òa”…
Nhưng Bùi Giáng là đứa trẻ biết rằng: “Diều đứt dây trẻ cũng cầm bằng”. Thơ ông, từ bài này đến bài khác, từ trang này đến trang khác, thấm đượm nỗi lo âu cho: “Những thân đau khổ những đời rã riêng”, “Những nỗi đau về chẳng hẹn giờ”. Ông “nghe trời đầy xuống hai vai” và đã gánh chịu sức nặng đó suốt cuộc đời đơn độc của mình. Có khi, ông cay đắng thốt lên: “Đời dại khờ như một giấc chiêm bao”, có khi, ông lắng nghe: “Mấy đời ly biệt vì đau trong mình”, có khi ông van nài: “Em ở lại với đời ta em nhé/ Em đừng đi, cho ta nắm tay em”… Và, thường khi là nỗi phấp phỏng lo âu:
"Nhưng em hỡi trần gian ơi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với người thôi…
Đài vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ
Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi…"
Dường như mỗi cảnh, mỗi vật đều in dấu nỗi lo âu phấp phỏng ấy. Nào là: “Đường vất vả vó ngựa chồn lảo đảo”, nào là: “Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng”, nào là: “Miền cát lạnh chân lạc đà bé bỏng/ Bóng hình em tơi tả dưới trăng rằm”, nào là: “Bước ngại ngùng nẻo mộng mấy lần sai”…
Giờ đây, con người luôn yêu thương, lo lắng cho “Cõi người ta” ấy đã từ biệt thế gian.
Trước lúc ra đi, dường vẫn còn trong ông niềm mơ ước:
“Còn không một bận quay về
Vườn xưa ngó bóng trăng thề vàng gieo"
Vẫn còn nguyên vẹn những mong mỏi sẻ chia:
"Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt
Thấy một mình người đi lại lang thang
Còn ghì giữ ân tình trong cỏ nhặt
Múa vi vu vì còn hẹn với trăng ngàn."
4.
Thi hài Bùi Giáng được quàng tại nhà Tang lễ chùa Vĩnh Nghiêm trong hai ngày 9 và 10 tháng 10 năm 1998.
Đến vĩnh biệt ông là những người bà con ruột thịt, những người bạn văn chương, những người từng mến mộ tài năng của ông. Nhiều người đến và ở lại rất lâu. Nhiều người đã thức thâu đêm để nhắc nhớ những kỷ niệm về ông, để đọc những câu thơ của ông. Nhiều ngôi chùa trong thành phố gióng chuông tiễn biệt vị phật tử khác thường.
Giản dị, lặng lẽ, sâu lắng.
Đó thực sự là cuộc tiễn đưa một nhà thơ.
Sài Gòn tháng 6/2007.
YN
Nguồn: Văn Việt






Nv Thế Phong, Nt Bùi Giáng, Nt Ý Nhi 































Ý Nhi & Hs Phan Nguyên


















Trở về







MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.