Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2014

Quang Dũng (1921 - 1988)













Quang Dũng

Tên thật: Bùi Đình Diệm
(1921 - 1988)
Hưởng thọ 67 tuổi

Nhà thơ, Nhà văn

 vẽ tranh, viết nhạc







Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Dậu, tức Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), là một nhà thơ, từng làm đại đội phó Trung đoàn Tây Tiến năm 1947 và trưởng đoàn văn nghệ Liên Khu III, hoạt động thời kháng chiến chống Pháp.
Lúc trẻ ông học trường Trung học Thăng Long, rồi dạy học tư ở Sơn Tây. Ông gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam vào ngày Cách Mạng Tháng Tám thành công và làm phóng viên cho tờ Chiến Đấu.


Theo hồi kí của Phạm Duy, Quang Dũng là một người rất hiền từ, chan chứa tình người như đã thể hiện qua nhũng bài thơ của ông. Quang Dũng vừa cầm bút, vừa cầm súng, những tác phảm nổi tiếng của ông trong thời kì này là Mắt Người Sơn Tây, Đôi Bờ, Tây Tiến, Những Làng Đi Qua...v.v

Trong kháng chiến, ông từng tham gia một cuộc triển lãm hội họa với bức tranh Gốc BàngÔng cũng soạn nhạc, bài hát Ba Vì Mờ Cao cũng được dân chúng yêu chuộng lưu truyền trong vùng kháng chiến một thời gian. Sau hiệp định Genève, ông ở lại miền Bắc rồi bị đi chỉnh huấn cùng nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm. Thơ của ông bị xếp vào loại thơ "tiểu tư sản" thiếu tính chiến đấu. Sau đó Quang Dũng được sắp xếp làm biên tập viên cho tờ Văn Nghệ rồi Nhà xuất bản Văn học, nhưng thực sự là sống ở ẩn, sáng tác cầm chừng vì bệnh tật và nghèo túng.
 Ông mất âm thầm vào ngày 13/10/1988 tại Hà Nội.


Khi nghe tin ông mất, cố Nhạc sĩ Phạm Duy, người bạn cùng lớp của ông đã viết:

........
"Tôi đã điện đàm với Nàng, báo tin buồn và ước mong có dịp gặp con người có vầng trán mang trời quê hương và đôi mắt dìu dịu buồn Tây Phương đã từng là nguồn cảm hứng cho những bài thơ bất hủ của Quang Dũng để tôi - rất có thể - nhìn thấy những giòng lệ nhạt nhòa tuôn chảy. Những giòng lệ làm tôi hình dung ra được một con sông đào vùng Tề hay cả một vùng biển lớn mang tên Thái Bình Dương lúc nào cũng sẵn sàng để chia rẽ đôi bờ cho những người tình thuộc thế hệ tôi, thế hệ đầu tiên bị chiến tranh và thù hận bao vây không ngừng nghỉ.
Quang Dũng đã nằm xuống trên một mảnh đất quê hương tôi mong rằng cũng không xa cánh đồng Bương Cấn của anh là mấy.
 Thôi nhé, xin chúc anh ngủ yên trong giấc mộng thiên thu để cho chúng tôi tiếp tục buồn hộ anh nỗi buồn viễn xứ khôn nguôi..."










Quang Dũng thời Tây Tiến











Tác phẩm đã in










Mùa Hoa Gạo
(?) 
(truyện ngắn, 1950)












Bài Thơ Sông Hồng

(truyện thơ, 1956)











Rừng Về Xuôi

 (bút kí, 1964)













Đường Lên Châu Thuận 

(?)
(bút kí, 1964)












Nhà Đồi 

(?)
(truyện ngắn, 1970)











Một Chặng Đường Cao Bắc 

(bút ký, 1983)












Mây Đầu Ô

(thơ, 1986)













Thơ Quang Dũng 

(tác phẩm chọn lọc, 1988)


Giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001 cho Mây Đầu Ô, Nhà Đồi, Thơ Quang Dũng















Tranh Quang Dũng

















Đêm lạnh*




Đêm lạnh màn tang phủ xóm Mường

Khuya về vách đá lỗi hồn thương
Lửa chiều lại nhóm trên sân gác
Em lặng cời than sưởi má hường

Nhớ em một buổi Châu Trang trắng

Đường về Mãn Đức một ngày xanh

Những hết thôi rồi muôn giới biên!

Em là gái núi mộng bình yên
Anh là trai lỗi thời binh lửa
Môi lạnh không chờ chuyện lửa duyên

Bốn mắt nhìn nhau xa thế kỷ

Hai hồn ngăn một Thái Bình Dương
Than ôi! hoa héo trong rừng vắng
Đường về man mác nhớ sầu thương!

1948




*bài thơ này chưa được đưa vào tuyển tập nào của Quang Dũng

Nguồn: VCV


















Những bài thơ được nhiều người biết đến
















Đôi bờ


Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?

Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm mai

Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự

Bên này em có nhớ bên kia
Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến
Quạnh vắng chiều sông lạnh bến Tề

Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa

Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ

Xa quá rồi em người mỗi ngả

Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?








Cung Tiến phổ nhạc

Đôi Bờ




??????


Thơ Quang Dũng
Nhạc Cung Tiến
Tiếng hát Lệ Thu











Tây Tiến


Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi

Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Ai lên Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Phù Lưu Chanh . 1948



https://www.youtube.com/watch?v=5rFLMtpKeSE










Bút tích Nhà thơ Quang Dũng


















Mắt người Sơn Tây (*)


Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Vầng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương?

Mẹ tôi, em có gặp đâu không?
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi có thằng em còn bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông (1)

Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn!
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan?

Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Tôi gửi niềm nhớ thương
Em mang giùm tôi nhé
Ngày trở lại quê hương
 Khúc hoàn ca rớm lệ (2)

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca (3)
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta?


1949





Bài thơ này có rất nhiều dị bản do tác giả sửa mỗi lần in khác nhau




Chú thích 

(*) Dị bản: Đôi mắt người Sơn Tây
(1) Trong một dị bản, khổ 3 và 4 đổi vị trí cho nhau
(2) Bốn câu thơ này có một dị bản:
Cho nhẹ niềm nhớ thương
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô ráo lệ
(3) Dị bản: Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa










Phạm Đình Chương phổ nhạc


Đôi Mắt Người Sơn Tây
Thơ Quang Dũng
Nhạc Phạm Đình Chương
Tiếng hát Đức Tuấn









Đôi mắt người Sơn Tây


Thái Thanh





Nguyễn Duyên


Đôi Mắt Người Sơn Tây – nàng là ai ? 


Bài thơ “Đôi Mắt Người Sơn Tây” của Quang Dũng, được người yêu thơ thuộc nằm lòng. Quang Dũng là nhà thơ thời tiền chiến có nhiều bài thơ hay, trữ tình như : Tây Tiến, Đôi bờ.. nhưng Đôi mắt người Sơn Tây là một bài thơ được nhiều người ái mộ. Bài thơ như nói lên cuộc gặp gỡ đượm màu chia ly giữa nhà thơ với người con gái trong thời loạn lạc, một thoáng quen nhau và chia tay giã biệt – một cuộc tình buồn ngắn ngủi:

Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến mới ra đi
Cách biệt bao lần quê Bất bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Như vậy người con gái nầy chắc hẳn ở Sơn Tây, và đã gặp nhà thơ? Nhưng nàng là ai, tên gì, làm gì, ở đâu?

Nhiều giai thoại cho rằng Quang Dũng quen người con gái Pháp (vì có câu “Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương” ?) nhưng Tây Phương cũng là địa danh của tỉnh Sơn Tây ngày ấy (nay là tỉnh Hà Tây) với ngôi chùa Tây Phương nổi tiếng (bài thơ Mười hai vị La Hán ở chùa Tây Phương của Huy Cận).

Trong lịch sử thi ca đã có nhiều thiếu nữ làm ngẩn ngơ bao người thưởng ngoạn, luôn cả các văn nhân thi sĩ như chuyện của nàng T.T.KH tác giả bài “Hai sắc hoa Tigôn”, hay hình ảnh người con gái trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm ( …Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc- gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…) đã làm các nhà phê bình tốn bao nhiêu giấy mực. Thời kháng chiến ngoài những bài thơ trữ tình kể trên, Quang Dũng còn có những bài thơ khác cũng hay như bài Những Làng đi qua:

Những làng trung đoàn ta đi qua
Tiếng quát dân quân đầu vọng gác
Vàng vọt trăng non đêm tháng chạp
Nùn rơm khói thuốc bạch đầu quân


Quang Dũng là người đa tài ,có thời gian nhà thơ sống bằng nghề vẽ tranh, làm nhạc công cho gánh hát… Trong kháng chiến, có lần Quang Dũng tham dự cuộc triển lãm hội họa với bức tranh tựa đề: Gốc Bàng. Ông còn soạn cả nhạc nữa,bài “Ba Vì mờ sương” được nhiều người hát trong thời kháng chiến:

Ba Vì mờ cao
Làn sương chiều xa buông
Gió về hương ngát thơm
Đưa hồn về đâu …?

Trở lại chuyện Người con gái Sơn Tây, theo nhạc sỹ Phạm Duy (bạn học của Quang Dũng ở trường Thăng Long Hà Nội- Quang Dũng ngồi sau Phạm Duy hai hàng ghế, người to con nhưng rất hiền) kể lại, lúc Quang Dũng còn là đại đội trưởng trung đoàn Tây Tiến đóng quân ở Hoà Bình. Vừa được nghỉ phép, về thăm gia đình ở Phùng thuộc tỉnh Sơn Tây, anh tạt qua nơi có tên là kinh Đào ở gần chợ Đại, thăm người tình cũ tên là Nhật. Người tình nầy, còn có một mỹ danh nữa là Akimi, nàng có hàng cà phê trong vùng cách mạng mà ông thường hay ghé uống. Nàng chính là người đẹp Sơn Tây, nguồn cảm hứng dạt dào cho Quang Dũng viết bài Đôi mắt người Sơn Tây, ông đã tặng nàng bài thơ có câu :

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương

Akimi Nhật sống cùng mẹ, trong cái quán nước đơn sơ nầy, nhà thơ thường hay lui tới, có lần Quang Dũng sáng tác ngay một bài thơ ca ngợi nàng và dán lên vách nứa:

Tóc như mây cuốn, mắt như thuyền
Khuấy nước kênh đào sóng nổi lên
Ý nhị mẹ cười sau nếp áo
Non sông cùng đắm giấc mơ tiên…

(đây là bài thơ mới phát hiện sau nầy do chính bà Nhật – định cư ở Mỹ cung cấp ).
Qua thơ, người thưởng thức vẫn thấy một bóng hình đẹp,lãng mạn của người con gái, tuy rằng không thấy mặt…?. Có lần Phạm Duy cùng Quang Dũng đi xe đạp về chợ Neo, hai người chạy song song trên đường làng..Thi sĩ kể về mối tình của mình với người đẹp Akimi và đọc lên bài thơ tặng nàng:

Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai
Sông kia từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi gió heo về một sớm mai
(Đôi bờ )

Sau nầy, chiến tranh lan rộng, Akimi theo mẹ về thành bỏ lại người xưa…tan vỡ một mối tình….Tới 1954, nàng di cư vào Nam, sống ở Sài Gòn,một thời là kiều nữ của nhà hàng Tự Do, đến 1975 sang Mỹ định cư. Nàng đi để lại cho Quang Dũng một nỗi nhớ ơ hờ chỉ biết:

Bên nầy đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào…

Bài thơ càng nổi tiếng như cồn ở Miền Nam, khi cố nhạc sỹ Phạm Đình Chương phổ nhạc qua cung thứ rất hay.
Có người ngạc nhiên khi thấy ông phổ một lượt tới hai bài thơ trong đó: đoạn đầu ad lib lại lấy Đôi Bờ, phần sau là phần chính, phổ từ bài Đôi mắt người Sơn Tây, rất độc đáo, rất hiếm trong âm nhạc.
Chính người đẹp Akimi, là nguồn cảm hứng dạt dào cho những bài thơ bất tử của Quang Dũng và Phạm Đình Chương là người có công đã chấp cánh tiếp cho thơ Quang Dũng bay cao,bay xa mãi trong lòng người…












Mây Đầu Ô



Mây ở đầu ô mây lang thang

Ôi! chật làm sao
Góc phố phường
Mây ở đầu ô
Hẹn những chân trời xa lạ
Qua một ngọn cột đèn
Chiều tối lại bừng con mắt đỏ
Cành bàng mái cũ khẳng khiu
Vườn đẹp khi mùa rụng lá
Cành bàng lại mở tàn xanh
Mùa hạ về theo chim sẻ
Nhưng ta có gì
Tự thấy những ngày không tẻ?
Mây trắng lang thang
Gió đuổi bời bời phố chật
Những lớp người hai mươi tuổi
Ca nước đập vỏ bình toong
Khăn mặt thấm mồ hôi
Bụi đỏ
Bụi vàng
Trung du bóng co
Nắng đốt màu da họ
Là nắng triền cao
Tay sém ngấn mặt trời
Là trời công trường xa tít tắp
Áo ngực xanh yếm biển
Bay bay dải mũ hải quân
Những gã hai mươi mùa xuân
Từ đâu thổi vào thành phố?
Mây mùa thu
Lọt qua trời hẹp ngõ
Lướt nhanh qua mái ngói ba tầng
Tiếng dương cầm...
Ta theo tiếng nhạc
Bay khỏi mái nhà
Ta mê xanh thẳm
Như cánh chim trời
Thấy
Mình còn sức trẻ
Ơi! những bạn tôi
Vào lớp tuổi năm mươi
Mây ở đầu ô
Trời xanh lộng thế...











Trắc Ẩn


Chưa gặp sao đành thương nhớ nhau?

Đôi phen số mệnh cũng cơ cầu
Người đi mang nửa hồn đơn lẻ
Tôi về hoài vọng một đôi câu

Khói thuốc chiều sông hỡi dáng người!

Phương nào đôi mắt ngó xa xôi
Nào ai biết được niềm u uẩn
Từng lắng nhiều trong những mảnh đời

Tôi viết chiều nay chiều tưởng vọng

Làm thơ mình lại tặng riêng mình
Sông trôi luống gợi dòng vô hạn
Biền biệt ngày xanh xa ngày xanh

Thời đại bao lần khô nước mắt

Hoa đèn riêng gởi chút tâm tư
Ngắn dài đã học người thiên cổ
Vạn đại sầu lên chẳng bến bờ

Chiều ấy em về thương nhớ ai?

Tôi chắc đường đi đã rất dài
Tim tím chiều hôm lên bóng núi
Dọc đường mờ những cánh hoa phai

Một chút linh hồn nhỏ

Đi về chân núi xanh
Màu tím chiều chầm chậm
Hoàng hôn nghe một mình
Giáo đường chuông rời rạc
Tan vỡ nhiều âm thanh
Một chút linh hồn nhỏ
Đi về chân núi xanh













Quán Bên Đường


Tôi khách qua đường trưa nắng gắt
Nghỉ nhờ đây quán lệch bốn tường xiêu
Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu
Mùa gạo đắt, đường xa thưa khách vắng
Em đắp chăn dầy, tóc em trĩu nặng
Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chan...
Đường tản cư bao suối lạ hương ngàn
Em mê sảng sốt hồng lên má đỏ
Em có một mình nhà hoang vắng quá
Mảnh chăn đào em đắp có hoa thêu
Hàng của em chai lọ xác xơ nghèo
Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá
Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cửa
Em tản cư, tôi là khách mười phương
Biệt cố đô cùng nhau từ một thuở
Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường
Tiền nước trả em rồi trưa nắng gắt

Đường xa xa mờ mờ núi và mây
Hồn khách vương vài qua sợi tóc
Tôi thương mà em đâu có hay...











Không Đề


Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Những cây ổi thơm ngày ấy
Và vầng hoa ngâu mưa thu
Tóc anh đã thành mây trắng
Mắt em dáng thời gian qua


Ngày nay ngày nay
Chuyện đẹp qua đi
Thời gian gấp ruỗi
Còn lại chúng ta


Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Giữ trọn tình người cho đẹp


Ơi! Con đường xa
Những mùa trút lá
Cành bàng mồ côi
Cổng cũ rêu phong
Ý đợi người


Ơi! Con đường xưa
Men vườn ổi thơm
Em tuổi hai mươi
Yêu anh hào hiệp


Bỏ em anh đi
Đường hai mươi năm
Dài bao chia ly
Có những vợ chồng
Không là trăm năm
Mà tình thương yêu


Sông ơi! Dài sao
Rộng ơi! Biển cả
Thôi em nước mắt
Đừng rơi lã chã


Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Giữ trọn tình người cho đẹp








Em mãi là hai mươi tuổi

Thơ Quang Dũng 


























Mấy Ý Nghĩ Về Thơ






Một Tiểu Luận Hay Và Hiếm Về Đề Tài “Nhà Thơ Và Cách Mạng” Của Nhà Thơ Quang Dũng (1921-1988)


Lại Nguyên Ân sưu tầm và giới thiệu




Bài viết của nhà thơ Quang Dũng mà tôi giới thiệu lại dưới đây, được đăng liền 3 kỳ trên báo Văn nghệ hồi tháng 9/1956; lúc đó báo Văn nghệ (cơ quan của Hội Văn nghệ Việt Nam) đang triển khai một diễn đàn rộng rãi, lấy ý kiến văn nghệ sĩ và cán bộ công tác văn hoá, hướng tới Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (họp đầu năm 1957). Một trong những nội dung đang là thời sự lúc ấy là góp ý cho “sự lãnh đạo văn nghệ”, − cách diễn đạt thời ấy mà nay có thể dịch lại là “sự quản lý văn nghệ”, cụ thể là góp ý với cung cách làm việc của các quan chức quản lý các cơ quan, hội đoàn văn hóa văn nghệ. Nhà thơ Quang Dũng cũng lưu ý đến yêu cầu ấy của diễn đàn chung, nhưng điều được ông tâm đắc (và ta sẽ thấy rõ trong bài) lại là bộc lộ quan niệm của mình về đề tài: nhà thơ và cách mạng.

Tiện thể nói thêm, những năm 1955-56, Quang Dũng cộng tác rất đắc lực với tờ báo Văn nghệ, không những bằng các bài thơ (các bài thơ mới viết và các bài viết hồi kháng chiến, trong đó có Lính râu ria), mà còn bằng những bài tường thuật về hoạt động văn hoá văn nghệ (như Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 1954, Văn nghệ quân đội khai thác vốn cũ dân tộc, Buổi họp mặt ở CLB nhạc cổ thủ đô, v.v…), nhất là sinh hoạt văn hoá ở cơ sở, tiêu biểu là loạt bài: Đọc bích báo nhà máy nước; Đọc bích báo nhà máy diêm Hà Nội và nhà máy Gia Lâm; Đọc bích báo hai trường Tân Trào và Trưng Vương; Công nhân nhà máy đèn đấu tranh cho thống nhất, v.v…

Về sau, khi Hội Nhà Văn thành lập và ra tuần báo Văn (25/5/1957), Quang Dũng cũng là một cây bút năng nổ; người ta còn nhớ tên bài bút ký Xiếc khỉ của ông (vì nó bị kể tên trong số trên dưới một chục tác phẩm bị xem là làm nên sự lệch lạc của tuần báo này trong sự thể hiện “con người thời đại”,− theo như nhận định của các nhà phê bình quyền uy đương thời ở tạp chí Học tập), nhưng cần biết rằng bài đó nằm trong cả loạt bút ký mà Quang Dũng gọi là “tập ảnh” về các sinh hoạt văn hoá văn nghệ ngoài đời thường của dân thường ở vùng Hà Nội đương thời.

Về bài báo vừa tìm lại để giới thiệu lại dưới đây, đó là bài báo khá hiếm trong đó tác giả Quang Dũng đã bộc bạch thật lòng về những điều mà trước đó và sau đó dài dài người ta vẫn còn trăn trở. Bạn đọc trong và ngoài giới làm thơ hẳn sẽ thấy: ở một nhà thơ từng có những thi phẩm tầm cỡ như Quang Dũng, rốt cuộc chúng ta cũng tìm thấy đọc thấy được những suy tư về thi ca đúng với tầm cỡ thi sĩ của ông.

Nhân kỷ niệm 90 năm sinh nhà thơ QUANG DŨNG, xin giới thiệu cùng bạn đọc toàn văn bài viết này.






Quang Dũng
Mấy Ý Nghĩ Về Thơ

Theo ý tôi, đã có những triệu chứng đáng mừng cho thơ: Người đọc đã muốn đòi hỏi một cái gì khác trong tiếng nói của thơ chứ không muốn đọc dễ dãi một ít sự việc ghi chép thành vần, một ít tình cảm đã gặp nhiều lần sắp xếp thành vần điệu và, bao giờ cũng thế, có cái kết hướng đi lên một cách đã quá quen thuộc. Người làm thơ cũng tự ngấy mình, nếu cứ đi mãi vào cái nếp dễ dãi ấy; làm xong một bài thơ mà thấy như chưa làm gì cả vì bản thân cũng thấy tẻ nhạt, không hào hứng không rung động. Hay có hào hứng rung động thì cũng chỉ là cái ảo ảnh chốc lát do vần điệu gây ra chứ cái vui lớn như của một người phát minh ra một cái gì cống hiến được cho cuộc sống thì không có. Tìm tòi công phu và sáng tạo, đó là cái băn khoăn chính của người làm thơ bấy nay; bây giờ đã có nhiều dấu hiệu của cuộc khủng hoảng trưởng thành trong thơ. Nhiều quan niệm khác nhau về kỹ thuật và nội dung đã dần dần lên tiếng, và cũng như đang có một sức chuyển mình chưa biết đến thế nào nhưng chắc chắn là sẽ làm phong phú cho thơ của chúng ta.

Từ cách mạng, qua kháng chiến mười năm, cũng như ở mọi địa hạt khác, ở thơ người ta thấy không có được nhiều tác phẩm lớn. Đòi hỏi như thế thì cũng có thể là vội vàng, nhưng không phải là không chính đáng. Dân tộc làm một cuộc cách mạng. Cuộc sống bao nhiêu cái vĩ đại đang diễn ra, cái mừng vui cũng như cái đau khổ, mười năm qua, ai mà chẳng thấy là những cái mà con người thấy có cái vinh dự được trải qua. Cái hiện tại thật là to lớn, ai mà không thấy tự hào có mặt. Thế mà nguồn thơ chưa bắt được mạch sống, chưa có chất máu đỏ tươi, hơi thở khổng lồ của cuộc đời hiện tại, thực cũng là vấn đề đáng suy nghĩ.

Tôi hình dung lại lúc bước vào kháng chiến, lúc người thi sĩ bước vào cách mạng. “Cách mạng”, chỉ hai tiếng đó với bao nhiêu âm hưởng và hình ảnh nó gợi lên, đủ lôi cuốn người làm thơ, − vốn tìm cái đẹp chân chính − không mặc cả, lao cả cuộc đời mình theo nó. Nhưng thật là bỡ ngỡ. Ta như những người chán một bờ nhỏ hẹp thèm một đất đai khác, mê biển rộng, ra đi mà thiếu một địa bàn vững chắc. Nên có cái hào hứng, cái nhiệt thành của người đi mà chưa có cái phong thái vững vàng và trong sáng của người đến.

Những người làm thơ lớp trước, khi bước vào Cách mạng đều muốn đem hết cái nhiệt tình của mình để làm trách nhiệm hướng dẫn − và tưởng như hướng dẫn được − cái sức thơ măng trẻ của dân tộc. Nhưng có một điều là chính những người làm thơ ấy lúc làm cái việc tìm đường cho thơ thì con người thơ trong họ biến mất. Chỉ còn có con người “đường lối”, “lập trường”, con người “đi lên” hay “đi xuống” nó choán hết. Và cứ như thế, những người thi sĩ ấy chạy theo miết những biện pháp cụ thể của chính sách, những công việc sự vụ ngập đầu. Những người ấy đã một thời được quần chúng ưa thích, Cách mạng cũng tin tưởng ở những người ấy và sở cậy họ ở trong lĩnh vực thơ, kỳ vọng họ sẽ đem cái hồn thơ làm phong phú cho Cách mạng, mở thêm những chân trời bao la về cảm xúc, cái mà cách mạng bản thân nó cũng mong đợi ở người làm thơ. Để tiến lên lên cùng cách mạng, hồn con người cần phải phơi phới, bay lộng như lá cờ anh dũng của nhân dân đang tự giải phóng mình; hồn con người trong cuộc đấu tranh quyết liệt này, va chạm cũng vĩ đại, đau xót cũng trên mức bình thường, vui sướng hào hứng cũng đến cùng độ; thế mà trước hết, những người thi sĩ đứng tiêu biểu cho cái truyền thống thơ của dân tộc lúc bước vào cái con đường vinh quang của lịch sử ấy của dân tộc, đã tự trói chân mình, cắt cánh mình…, bỏ ngay cả chính cái phơi phới phóng khoáng của tâm hồn nó là một điều nằm trong mục đích của cách mạng: giải phóng cho con người, được hoàn toàn là con người, tự do lớn lên, tự do vươn tới những chân trời tình cảm mà từ lâu đời, phong kiến và tư bản đã đứng lù lù chặn lối…

Dưới cái ảnh hưởng ấy, những người làm thơ, những người có cái cốt cách thi sĩ, có cá tính phong phú ngay cả ở chế độ cũ, tưởng bước vào ánh sáng của cách mạng thì hoa sẽ nở muôn cành, chim sẽ bay vạn dặm, cái khí thế người thi nhân bao giờ cũng dũng cảm bảo về cái Đẹp và cái Thật, tưởng sẽ được khuyến khích, thì trái lại, đã chịu bước đi từng bước một, mang nặng những cái mâu thuẫn trong tâm hồn, e dè với cách mạng, cách bức với cách mạng, quên hẳn chính mình là hơi thở của cuộc đời vĩ đại mai này mà cách mạng đang tạo nên. Làm thế nào mà nói lên được cái đẹp tốt, cái viễn ảnh làm phấn khởi lòng người đi cùng trong một chuyến thuyền tới nơi đất đai mà chính mình chưa nắm được nó ra thế nào?

Chưa ý thức được cách mạng một cách rõ rệt nên tiếng nói của thơ đối với cuộc đời mới đang xây dựng này thiếu hào sảng, thiếu cái khí thế vững mạnh của nó. Người làm thơ bấy nay chưa làm chủ vấn đề, nói trắng là chưa thấy được rõ cái nhiệm vụ cách mạng của mình, nên tiếng nói chỉ là phụ hoạ mà không có được cái giá trị sáng tạo đóng góp cho cách mạng.

Tôi muốn trình bày ra đây những dẫn chứng cụ thể về cái ý “tiếng nói của thơ mới chỉ là phụ hoạ chứ không có được cái giá trị sáng tạo đóng góp cho cách mạng”.

Từ lúc dân tộc làm cuộc khởi nghĩa tháng Tám cho đến lúc bước vào cuộc kháng chiến, người văn nghệ nào cũng chờ đợi những đường lối sáng tác mà Cách mạng sẽ mang tới cho mình, những đường lối ấy họ ước mong là sẽ tới để giải phóng cho ngòi bút họ. Bởi thế cho nên Cách mạng đòi hỏi gì, họ đều đứng dậy “có mặt” ngay. Đường lối của cách mạng, họ tuyệt đối tuân theo và triệt để ủng hộ. Những con người văn nghệ − nói riêng ở đây là những người làm thơ − vừa hôm qua đây còn mang bao nhiêu bản chất ngang tàng, khinh mạn với cuộc sống (cũ), kiêu bạc với cuộc đời (cũ), mỗi người như một hòn núi lửa, mỗi người có cái tự hào riêng với cái thế giới riêng của mình, mỗi người sống theo một nhân sinh quan đặc biệt của mình, ấy thế mà nghe tiếng hô của Cách mạng, họ tập trung được ngay, cùng một ý chí chiến đấu và cùng một lòng cố vượt, hy sinh cái đời riêng với những thói quen của mình − cái hy sinh ấy đã thật là đau xót đối với họ − để đi theo Cách mạng. Là vì họ đều hăm hở muốn được Cách mạng mở cho họ những chân trời mới về cảm xúc và có cái sung sướng của những người được đi vào một xứ sở mới lạ và phong phú về đề tài.

Nhưng những quan niệm giới hạn về văn nghệ của những người có trách nhiệm hướng dẫn họ đã làm tắt cái lửa đó. Người ta quan niệm người làm thơ là những người mơ mộng không sát được thực tế cách mạng, là những người hoàn toàn ngây thơ mà cách mạng phải dạy dỗ uốn nắn mới đi vào được những vấn đề mới. Những người chỉ đạo đường lối − là những cán bộ chính trị chứ không phải là những nhà thơ, hoặc là nhà thơ nhưng đã không còn mang tính chất thi sĩ nữa − lại cứ lo lắng và tự thấy mình như phải có cái trách nhiệm hướng dẫn thơ đi cho đúng với công tác trước mắt của cách mạng, áp dụng nó vào những công việc có tính chất thực dụng ngay, dựa theo một ý thức không rộng rãi về “phục vụ” mà đưa ra những nguyên tắc, những lệ luật máy móc để đánh giá thơ … do đó đã gò thơ đi vào công tác cách mạng một cách bị động.

Xuất phát từ những điểm ấy, người lãnh đạo đã xem người làm thơ rất nhỏ bé, rất phụ thuộc, coi như họ chỉ là những người có khả năng diễn ca mọi vấn đề của cách mạng, coi như họ là một bộ môn cần thiết cũng có cho đủ ở trong một nước và cũng có một tác dụng nào trong công tác tuyên truyền cho cách mạng mà thôi. Trên lý luận, Đảng coi trọng vấn đề văn học, nhưng trên thực tế công tác, những người lãnh đạo đã không tin tưởng ở những người làm thơ và không nhìn họ đúng với cái tầm quan trọng của vấn đề.

Thành ra chính đi theo cách mạng mà cái tri thức về cách mạng, người làm thơ không được trau dồi cho đến nơi đến chốn; người làm thơ lúc nào cũng bỡ ngỡ với những vấn đề mới do công việc cách mạng biến diễn ra; lúc nào cũng làm một người đuổi theo vấn đề. Không thấy mình được chủ động gì hết trong lĩnh vực của tư tưởng nghệ thuật. Theo ý tôi, cách mạng đâu có muốn như thế! Cách mạng đâu có cứng nhắc muốn tạo ra những người chỉ biết phục tòng mình mà không sáng tạo gì thêm được cho cách mạng.

Người lãnh đạo cách mạng tưởng không gì chán hơn là lại được đọc những tác phẩm văn thơ đúng như trong đường lối mình vạch ra, tư tưởng của tác phẩm chỉ ở trong cái phạm vi tư tưởng mà mình đã gợi ra. Chính những người lãnh đạo cách mạng cũng đòi hỏi ở Văn nghệ − riêng là thơ − nói lên cho mình những tình cảm lớn lao, cổ vũ được cả cho mình, bồi dưỡng cho mình bằng những cái xúc cảm lạ lùng vĩ đại mà người thi sĩ tiên giác được trên cơ sở của cách mạng. Nhưng làm thế nào được? Đã có người thi sĩ nào gần đây có thể nói lớn được rằng: “Cách mạng đã hoàn toàn tin cậy ở tôi. Tôi tự hào được đứng ở hàng ngũ tiền phong của cách mạng, vì cách mạng đã giúp cho tôi ý thức nổi cái trách nhiệm và đã cho tôi đầy đủ cái hiểu biết về cách mạng rồi”.

Do cái tình trạng ấy mà người làm thơ cũng cứ vô tình thấy mình nhỏ lại, rồi bằng lòng theo những lối đã vẽ ra, trăm người cùng đi một kiểu, cùng tới một chỗ, cùng gặp những cây cỏ và sông núi giống nhau, kể lại cho nhau nghe thì ai cũng biết cả rồi … chỉ một con đường ấy, cây cỏ ấy, núi và sông ấy… Cả một nếp suy nghĩ, vui buồn của dân tộc bỗng nhiên đều bị ảnh hưởng của sự hướng dẫn một chiều đó.

Công chúng đọc thơ cũng bị gò vào cái nếp nhận xét rất khắc nghiệt của công thức, nên chi, cái hiện tượng trước khi đọc một bài thơ, người ta đã mai phục sẵn những nguyên tắc để mổ xẻ nó, phê phán nó. Óc nhận xét máy móc đã choán mất cái óc thưởng thức hồn nhiên và bình tĩnh của người đọc. Người làm thơ giống nhau, người phê bình cũng phê bình bằng những lý luận, những nguyên tắc giống nhau. Rồi chính người làm thơ không dám đi sai cái công thức mà mình đã đưa tràn ngập trong thơ, chỉ vì lại sợ công chúng − đã được hướng dẫn theo nếp ấy − lại vận dụng chính cái tinh thần đó mà phê phán thơ mình.

Cái vòng luẩn quẩn đó đã kéo dài.

Người làm thơ tự thấy như mình phải giả tạo đi phần nào. Đã thấy hai con người trong một mình anh. Cũng như Tartarin Quichotte và Tartarin Sancho trong một truyện của Daudet. Lúc Tartarin Quichotte hét đòi phải đưa cho mình giáo, mác, đao, chuỳ, để xông pha vào chốn nguy hiểm, thì Tartarin Sancho hét cô hàng cà-phê phải đưa cho mình súc-cù-là, bánh, thịt và áo len. Mà chỉ là một Tartarin. Chỉ là một con người chứa hai con người xung đột nhau. Người thi sĩ có chứa đựng những cảm xúc rào rạt chân thành với cuộc sống − mà cuộc sống thì mênh mông rộng lớn, cuộc sống có chứa đựng chính sách chứ đâu phải là chính sách chứa đựng nổi cuộc sống − mà nói ra thì e ngại những sự sai lạc này nọ, nên không thể nào thấy thoả mãn được.

Có cái gì đè nặng lên đường lối văn học nghệ thuật chúng ta mà văn học nghệ thuật lại từ chối những sự phản ảnh chân thành của mọi khía cạnh tâm tình! Cái gì đè nặng lên tư tưởng mọi người để hễ nói ra là phải nói những điều đã đúng từ trước khi nói? Sao lại phải gò nhau vào một cái khuôn rồi bảo cứ tự do đi lại trong cái khuôn đó? Hễ không chịu được thì lại chụp mũ là tư tưởng còn lạc hậu! chưa ý thức được cái tự do mới! cái tự do trong những khuôn khổ!...

Thơ của chúng ta, chính trong mười năm qua, bản thân nó, dầu cho công thức đi nữa, thì cũng đã lớn, cũng đã là một bước dài so với cái đời chưa cách mạng. Nhưng giá không vướng vào những khuyết điểm trên kia, ai biết nó đã đi xa đến thế nào? Ai đoán được nó đã cao lớn như thế nào? Và sự nghiệp của thơ đối với dân tộc của chúng ta đang cách mạng đã có những đóng góp to tát và phong phú đến thế nào! Cái sống của dân tộc làm cách mạng thì to quá, mà cái tiếng nói mới của dân tộc, cái nghĩ mới của dân tộc, cái tứ hào hùng để khích lệ thêm cho dân tộc thì lại như rụt rè, tụt lại sau, bị bỏ rơi một quãng đường không phải là ngắn.

Không riêng gì trong địa hạt thơ, các ngành khác của văn học nghệ thuật cũng đều cảm thấy như vậy (như những bài đã phát biểu trên báo Văn nghệ hoặc những ý phát biểu trong cuộc học tập lý luận vừa qua) cho nên có cái hiện tượng băn khoăn chung, dấu hiệu của những sự thay đổi sắp tới, − và tất cả những hy vọng đó muốn chờ mong ở Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai này giải quyết. Sự trưởng thành ngày nay, theo ý tôi, chính là do mười năm kháng chiến và cách mạng vừa qua. Chính ở trên miếng đất đã nuôi dưỡng chúng ta ấy mà chúng ta đã lớn lên và nhận thấy mình cần thay đổi. Cũng như mỗi người nhớ lại những nét vẽ của mình ngày nhỏ: người thì là một cái gậy, đầu tròn như một cái vung, tay là một cái que có năm ngón toè ra như năm cái tăm. Ngày nhỏ ta cho thế là đúng hình dáng của một người rồi. Lớn lên, ta không cần phải biết luật viễn cận hay hiểu về khoa học tạo hình mà cũng cứ nhận ngay là sai và buồn cười về những nét đơn sơ nguệch ngoạc ấy của thời thơ ấu. Qua một chặng đường dài, ta đã nhiều kinh nghiệm. Ánh sáng của Đại hội thứ hai mươi Đảng Cộng sản Liên Xô, ánh sáng của những lý luận văn học của các nước bạn mới tràn vào, ùa vào như ánh sáng ùa qua cửa sổ mới mở, đến với chúng ta; ánh sáng của những buổi kiểm điểm văn học nghệ thuật theo một đường lối dân chủ thực sự do Đảng chủ trương; ánh sáng của một nền nhân văn chân chính lúc nào cũng dắt người ta trở lại đi đúng đường; tất cả đã giúp chúng ta đứng dậy, nhận định nổi cái yếu ớt, cái gò bó, cái nông cạn nó làm cản trở đà lên của chúng ta từ trước đến nay. Chính ta đã lớn lên, lớn lên vì cả những băn khoăn mà ta đã ấp ủ hàng bao nhiêu ngày nay. Bây giờ đã đến lúc cởi mở. Bây giờ đã đến lúc người làm thơ vun đắp, đề cao cái truyền thống thi sĩ của mình. Và Cách mạng thiết tha phát huy cho cái truyền thống đó.

Theo ý tôi, cái truyền thống vinh quang của người thi sĩ là ở chỗ lúc nào họ cũng thấy có trách nhiệm gắn bó với cuộc sống. Họ là những người biết yêu ghét vui mừng hay căm giận ở một mức độ cao hơn mọi người. Họ là những người lúc nào cũng tha thiết với chính nghĩa và tự thấy như mình phải có một sứ mệnh: làm cái tiếng nói trong sáng nhất, can đảm nhất và tha thiết nhất của con người.

Cũng chính vì có mang được cái truyền thống đó trong mình nên người làm thơ mới được xã hội cần đến.

Nếu anh cũng rung động bình thường như mọi người, đau xót bình thường như mọi người, dũng cảm bình thường như mọi người dũng cảm được, thì nói lên hay không nói lên, lời anh cũng vậy mà thôi, vì nó chỉ ở mức bình thường mà mọi người đều có cả. Làm sao mà nói ra những điều xúc động lòng người? Chính cái truyền thống ấy nó đã giúp cho người thi sĩ vượt được lên trên mọi vấn đề của thời đại, mọi trói buộc tầm thường của cuộc đời để nhìn thấy những khía cạnh mà người ta không nhìn thấy rõ được. Rồi họ thấy tự họ phải có cái trách nhiệm nói lên với cuộc sống những ưu tư của họ, những điều họ đau xót, những điều họ ước vọng hay những niềm tin tưởng của họ đối với cuộc sống.

Không có người thi sĩ lớn nào đã được cuộc đời yêu mến kính trọng mà lại không từ chỗ cảm thông sâu sắc với thời đại của mình vượt ra khỏi cái khuôn sáo của thời đại mình; bởi thế tiếng nói của họ nhiều khi lạ lùng làm người ta sửng sốt − nhưng tin tưởng ở trong con người họ vững chắc, họ cứ đi thẳng con đường sứ mệnh của họ và xã hội bao giờ cũng công bằng, chóng chầy sẽ biết đến họ và coi họ là những người bạn tâm tình thứ nhất của mình, vì chính họ đã nói được lên cái ước vọng chính đáng nhất của xã hội.

Người thi sĩ thấy vinh dự được đi với Cách mạng, Cách mạng cũng thấy cái vinh dự được nhiều thi sĩ về “tụ nghĩa” ở dưới bóng cờ mình. Họ vốn là những người bất mãn lớn với cái cũ rồi. Họ đi với Cách mạng là để được làm Cách mạng chứ đâu phải để bất mãn với Cách mạng. Đôi điểm không thông đã làm cho họ phật ý, nhưng nghĩ đến Cách mạng, tin ở cái chân lý cao cả của Cách mạng, họ vẫn phấn đấu, kiên trì và trung thành với Cách mạng, dầu họ là trong Đảng hay ngoài Đảng. Đã đứng ở hàng ngũ phấn đấu cho Cộng sản chủ nghĩa là cái lý tưởng tuyệt đích của nhân loại bây giờ, họ cũng có cái kiêu hãnh mang một tâm hồn Cộng sản − và họ nhất định tin như thế − chỉ có khác là kết nạp hay chưa kết nạp mà thôi.

*

Người ta quan niệm từ xưa tới nay rằng người làm cái “nghiệp” văn chương thường là lận đận. Cái đó không phải là không có lý. Người Văn nghệ sĩ, người làm thơ nói riêng ở đây, là người có nhiều khí khái, có nhiều tự trọng và có một cái ý thức rõ rệt về trách nhiệm của mình, tất nhiên là không thể dung hoà với những cái trạng thái hỗn loạn của xã hội cũ, nên họ thường là chống đối; họ là những hiệp sĩ mang cây bút vì con người mà xông pha mà hy sinh. Thân thế họ vì vậy mới “ba chìm bảy nổi”. Những chính thể đương thời không dung được họ và họ cũng không dung tha gì cho những chính thể đó. Họ đều là những người bất mãn xung thiên cả. Có người đã nói: “Bao giờ cũng vậy, văn chương kiệt tác vẫn là những thứ văn chương chống đối lại”. Cái đó theo tôi rất đúng đối với thời đại cũ.

Nhưng ở chế độ của chúng ta, điều đó không còn là một quy luật nữa. Cách mạng là nơi “đất thánh” mà người thi sĩ hằng mơ ước đi tới, − dầu có gặp những bệnh ấu trĩ nó làm chậm bước đi của họ phần nào − thì họ vẫn cứ thẳng bước đi tới. Chống đối lại Cách mạng ư? Không bao giờ họ lại chống đối lại chính cái lý tưởng tha thiết nhất của đời họ mà họ đã quyết hiến dâng cả tim óc và máu nóng! Họ chỉ chống đối những cái sai lầm có phương hại đến Cách mạng chính vì cái ý thức thiết tha bảo vệ Cách mạng của họ mà thôi.

Theo ý tôi, những người làm thơ là những người như vậy, thiết tha gắn bó với cái hiện tại của Cách mạng, sôi nổi muốn góp phần xương máu của mình vào cho sự nghiệp Cách mạng chóng thành công, thế mà họ chưa đạt được những điều mong ước. Vì sao? Chính bởi họ chưa được hoàn toàn tự do phát triển tài năng của họ. Chính vì họ chỉ mới làm vai trò phụ hoạ chứ không phải vai trò tiền phong của Cách mạng.

Bản thân người thi sĩ cũng vì thế mà không thoải mái vững vàng trong những bước đi mới của mình. Nói cách khác tức là kém một tinh thần “chủ nhân ông” trong vấn đề.

Giải phóng cho thơ không gì bằng trang bị cho người làm thơ đầy đủ cái hiểu biết về Cách mạng, đặt tin tưởng vào họ và để họ tự do tung hoành trên cái diện tích bao la của cuộc sống Cách mạng, chắc chắn là tiếng nói của thơ lại sẽ ngân vang sang sảng và phong phú vô cùng.

Giải phóng cho thơ, không gì bằng trả lại cho người làm thơ cái giá trị xứng đáng với cái truyền thống cao quý mà họ đã mang ở trong máu họ.


Nguồn:Văn nghệ, Hà Nội, s. 137 (6. 9. 1956), s. 138 (13. 9. 1956), s. 139 (20. 9. 1956) 









Thái Tuấn vẽ Quang Dũng











 Đêm Bạch Hạc



Có những chiếc giường lạ
Nhìn ra mảnh sân nào
Nửa đêm chợt thức giấc
Thấy ta nằm ở đâu

Như cánh chim mỏi cánh
Lạc vào rừng không quen
Không chọn cành ngủ đỗ
Nào mong gì ấm êm

Đêm nay đêm Bạch Hạc
Ta tạt vào nhà ai
Nghe sông Lô cuộn nước
Dềnh lên suốt đêm dài

Sớm mai rồi tiễn biệt
Tóc đẹp nhường bâng khuâng
Một đêm dài để nhớ
Những người xa vô cùng

Mái nhà đêm Bạch Hạc
Có nhớ người đi không?























Ba Vì Mờ Cao

Nhạc và lời Quang Dũng
Tiếng hát Thanh Hoa





















Quang Dũng
Tranh Bùi Quang Ngọc










Tham khảo thêm về Nhà thơ Quang Dũng







Thơ Quang Dũng - Còn mãi bên trời








Vân Long:
Nhà thơ Quang Dũng - bóng mây qua đỉnh Việt












Áng mây trắng xứ Đoài Quang Dũng

Văn Giá
2011


Có thể nói trong nền thi ca Việt Nam hiện đại, ít có người nghệ sĩ nào làm nghệ thuật một cách vô tư, siêu thoát, "tiên thi" như Quang Dũng. Bao nhiêu thơ phú, tranh vẽ, bài hát mà ông sáng tác cứ vương vãi tận đẩu đâu, không bao giờ nhớ, không bao giờ có ý sưu tập lại. Cứ lãng đãng mây trời như thế mà lại thành sự nghiệp. Ngược lại, có những người cứ chăm chắm xây xây đắp đắp, tô son điểm phấn cho mình mà đâu có vị trí gì. Cái tình thơ và cái tài thơ quyết định tất cả...

Sinh ra để làm một kiếp mây

Không hiểu vào cái năm 1986, khi Quang Dũng đang nằm trong bệnh viện, nhà thơ Trần Lê Văn giúp Quang Dũng dựng tập Mây đầu ô, hai ông có kịp bàn bạc gì không về việc đặt tên cho tập thơ? Nghĩa là cho đến ngày hôm nay, khi mà cả đôi bạn thơ này khuất núi, chúng ta vẫn không thể biết được tên tập thơ do chính Quang Dũng lựa chọn hay do tự ý Trần Lê Văn đặt. Nhưng dù ai đặt cho tập thơ cái tên ấy thì quả là "tay cũng già". Nó mới hợp, mới đúng làm sao con người Quang Dũng, thi nhân Quang Dũng! "Một lời là một vận vào khó nghe", Mây đầu ô. Vâng, Mây ở đầu ô mây lang thang, Mây ở đầu ô - Hẹn những chân trời xa lạ, Ta mê xanh thẳm - Như cánh chim trời… Mây đầu ô, tôi cứ nghĩ đó là một cái tên đích đáng đến nỗi khó lòng có thể chọn một hình ảnh nào vừa đúng vừa hay vừa đẹp đến thế dành cho người thơ Quang Dũng. Mây đầu ô là tập thơ riêng duy nhất của ông ra đời lại đúng vào lúc nhà thơ ngã bệnh (1986). Bài thơ Mây đầu ô trong tập được chọn làm tên tập thơ được viết năm 1970, lúc mà nhà thơ đã Vào lớp tuổi năm mươi, tuổi tri thiên mệnh. Thực ra thì không phải chờ đến lúc ấy mới có mây. Hình ảnh mây đã ám vào số phận thi ca này như một định mệnh, như một phán quyết của thượng giới vô hình không thể cưỡng lại được ngay từ hồi mới bước vào nghiệp thơ kia. Nhưng lúc đó làm sao ông có thể hiểu được tiền vận hậu vận của chính mình. Ông cứ làm một áng mây trắng xứ Đoài hồn nhiên lang thang từ làng ra phố, hết phố lên rừng, rồi lại từ rừng về phố. Để cho đến khi vào tuổi 50, mới ngộ ra cái phận mình y như một áng mây lang thang không hơn không kém.

Nói Quang Dũng mang phận mây ngay từ đầu là có cơ sở. Một trong những bài thơ đầu tiên, được coi thành công nhất, tạo dựng ngay lập tức cái tên Quang Dũng giữa làng thơ Việt Nam hồi kháng chiến là bài Tây Tiến được viết năm 1948, đã thấy có một cồn mây sừng sững bị cái mũi súng chọc thủng hướng lên trời (Heo hút cồn mây súng ngửi trời). Ngay sau đó, hễ mỗi khi có thơ về vùng quê xứ Đoài chôn rau cắt rốn thì thể nào cũng lại có áng mây trắng thi ca bay vào:

- Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm (Mắt người Sơn Tây - 1949)
- Ba Vì tảng trán xanh
- Thức với mây Đoài trắng xoá (Bất Bạt đêm giao quân - 1968)
- Hãy ngẩng lên nhìn chóp Tản Viên
Mây trắng xưa nay về tụ họp
Mây một phương Đoài về tụ họp (Ba Vì đón Bác - 1969)

Mà chẳng cứ gì xứ Đoài, những vần thơ viết về mọi miền đất nước cũng nhiều mây lắm:

- Đi trong đường mây rắc bụi vàng
…Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt
Mà như lau sậy có linh hồn 
(Pha Đin)

- Nắng nửa sông xa mờ khí núi
Cánh hồng nhạt nhạt mây phiêu lưu 
(Thu - 1950)

Rồi đến khi viết về phận mình, tự nhiên, mây cũng lại quẩn vào:

- Tóc anh đã thành mây trắng
Mắt em dáng thời gian qua 
(Không đề - 1970)

- Mây ở đầu ô mây lang lang
Ôi! chật làm sao
Góc phố phường 
(Mây đầu ô - 1970)

Nhìn vào thời gian các bài thơ ra đời ở trên kia, suốt hành trình thơ Quang Dũng, mây đã trở thành một ám ảnh bền bỉ với nhiều biến hoá. Bản chất của mây là di chuyển và biến hình, tức là mang tính động. Nó đối lập với sự đứng yên và hằng định. Không gian tồn tại của nó có thể là vũ trụ vô biên (bầu trời), hoặc là không gian xã hội - lịch sử hữu hạn (đất nước, quê nhà). Khi đi vào văn chương, mây là một hình ảnh mang số kiếp lang thang và có khả năng hoá thân thành nhiều dáng hình khác, hàm chứa nhiều ý tưởng phong phú. Kinh nghiệm văn hoá phương Đông cho thấy mây đã từng biến hoá thành những vân cẩu (chó mây - chỉ sự thay đổi nhanh chóng của cuộc đời), phù vân (mây nổi - chỉ sự coi thường giàu sang), hoặc những vân cù (đường mây), vân đài (đài mây), vân nghê (mây và cầu vồng), vân thụ (mây và cây)… và được sử dụng dầy đặc trong những văn cảnh khác nhau với những nét nghĩa khác nhau của văn chương trung đại. Tuy nhiên, do có được cảm quan về tính mức độ, và cũng do xuất phát từ một ý hướng tự nhiên - biết lựa chọn những gì phù hợp nhất với mình - hồn thơ Quang Dũng tập trung biểu đạt hình ảnh mây chỉ với hai cấp độ nghĩa:quê nhà và cá nhân nhà thơ. Ban đầu mây là một hình ảnh thực gắn liền với sông núi quê hương. Dần về sau, mây đã chuyển hoá thành thân phận cá nhân thi sĩ. Khi mây là hình ảnh quê hương, không có gì là lạ. Cảm thức văn hoá phương Đông đã từng coi mây trắng là hình ảnh quê nhà(1).Mây trắng, mây Hàng được hiểu là cha mẹ, quê nhà. "Theo Đường thư, Địch Nhân Kiệt làm quan ở Tinh Châu, một hôm lên núi Thái Hàng du ngoạn, ngắm nhìn làn mây trắng ở xa, nói với người đi theo rằng: Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng đó!" (Đặng Đức Siêu, Ngữ liệu văn học, Nxb GD, 1999). Nhưng đến khi Quang Dũng ví phận mình như mây trắng đầu ô với nhiều khao khát được lang thang thì ông đã bứt ra khỏi từ trường của truyền thống để trở thành một sáng tạo độc đáo. Và nhờ thế, hình ảnh mây khi bay vào chân trời biểu tượng đã được mở rộng thêm nhiều tầng nghĩa. Mây hay chính là hồn thơ Quang Dũng trong hình dáng của mây đã lang thang phiêu du một chặng liền năm mươi năm có lẻ giữa rộng dài đất nước. Một điều thật nhất quán là: cả con người tiểu sử nhà thơ, cả hành động sáng tạo thơ và cả thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng đều châu tuần vào mây, hoá thân vào mây và cũng biến hoá cùng mây.

Áng mây trắng mang hình tráng sĩ

Sinh ra giữa thời tao loạn, một trí thức bình thường có quốc sỉ nào cũng đều không chịu nổi ách nô lệ ngoại bang. Thế là, như bao bạn bè cùng trang lứa từ Hà Nội, Quang Dũng cũng đã xếp bút nghiên lên đường đánh giặc. Lúc đó họ đang còn rất trẻ, mới mười tám đôi mươi. Họ nhìn ngắm cuộc đời hồn nhiên, giản dị lắm, chẳng tính toán gì. Bước vào cuộc kháng chiến, họ nhìn chiến tranh như nhìn vào một nơi sa trường tràn đầy hùng khí của các cuộc chiến chinh thời cổ đại. Thì đấy thôi, người lính vào chiến trận với một ý chí Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, dáng dấp của họ thật oai phong như một chiến binh lẫm liệt (Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm), ngay cả cái chết cũng coi nhẹ tựa lông hồng (Áo bào thay chiếu anh về đất), nơi đóng quân cũng phảng phất bóng hình đồn trú thuở nào (Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa - Kìa em xiêm áo tự bao giờ - Khèn lên man điệu nàng e ấp - Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ)… Cảm thấy như có cái hùng khí của các cuộc giao tranh thời Chiến quốc vậy.

Quang Dũng viết không nhiều về chiến tranh, nhưng hễ cứ có bài nào thì chiến tranh lại hiện ra theo cái cung cách huyền sử như vậy. Cũng những đêm trăng suông lạnh, những lúc chuyển quân, những đêm sinh hoạt nơi đồn trú, vừa có cái im ắng đông lại đến ngột thở, lại vừa có cái vui say náo nức, bỡ ngỡ mở ra đến vô bờ:

- Những làng trung đoàn ta đi qua
Tiếng quát dân quân đầu vọng gác
Vàng vọt trăng non đêm tháng chạp
Nùn rơm - khói thuốc - bạch đầu quân
Tự vệ xách đèn chai lối xóm
Khuya về chân khoả vội cầu ao
Nghe tiếng sung rơi miệng chiến hào
Bờ tre cây rơm thôi tịch mịch
Vỡ lá bàng khô bước du kích
(Những làng đi qua)

- Trống tập trung
Vang vọng bãi Lương Tuyền
Mẹ tiễn qua sông
Bến Mộc gặp trăng lên 
(Bất Bạt đêm giao quân - 1968)

Âm hưởng và tư thế đẹp, thơ mộng, hùng tráng là thế!

Tuy nhiên, ai cũng phải thừa nhận rằng chân dung người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng cùng với cái ngang tàng, hùng tâm tráng chí, lắm khi lẫm liệt, nhưng cũng lại rất mơ mộng, lãng mạn, tài hoa. Nghĩa là có một sự hoà điệu giữa con người tráng sĩ và con người thi sĩ. Nó như là hai phẩm chất âm dương hài hoà vậy. Cảm thức đối cực này chi phối rất mạnh trong cách tạo dựng hình ảnh thơ theo lối vừa mới tận cùng dương đã lại tận cùng âm, khiến người đọc hết sức bỡ ngỡ và thú vị. Vừa cao tột cùng là thấp tột cùng: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống; vừa dữ dội tột cùng đã lại mơ mộng tột cùng: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm; vừa mới động gắt đã lại tĩnh lặng: Tiếng quát dân quân đầu vọng gác - Nghe tiếng sung rơi miệng chiến hào; vừa mới khốc liệt dữ dội: Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường hịch cọp trêu người đã lại tình tứ thanh bình: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói - Mai Châu mùa em thơm nếp xôi… Cảm thức đối cực âm dương còn để lại dấu ấn khá rõ cả trong cấu trúc thanh âm (trắc - bằng) giữa các dòng thơ: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống - Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi, hoặc trong nội bộ câu thơ: Mai Châu mùa em thơm nếp xôi, Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa… Trong thơ Quang Dũng có vô số những cặp đôi âm dương với nhiều kiểu dáng như vậy. Vừa hào hùng vừa hào hoa (chữ của Chu Văn Sơn), tráng sĩ và thi sĩ, cứ thế nở hoa thành những câu thơ đứng vào hàng tuyệt bút.

Con người tráng sĩ này một khi đã ra đi là bất chấp gian khổ, bất chấp cái chết. Y như câu tuồng cổ: Gian nan là nợ, anh hùng phải vay. Thế nhưng, đi vào chiến trường mà biết đùa với cả bệnh tật, nguy nan, thậm chí cái chết, thì tất cả những đe doạ ấy có gì là đáng sợ nữa. Cái sợ đã bị hoá giải từ gốc. Rất lạ, bước vào chiến tranh mà lại cứ như thả bước chân phiêu lãng giang hồ. Chiến tranh với những gương mặt tử thần rình rập, đâu phải thích hợp cho cái máu phiêu lưu? Ấy thế mà cứ hăm hở như không vậy:

Thôi nhé miền xuôi! Thôi tạm biệt
Cống chéo - Đồng Xuân thề một chết
Hàng Gai tay bỏng trục "ba càng"
Đất cũ Thăng Long người lẫm liệt.

Đó là những con người yêu nước. Nhưng họ yêu nước theo cái cung cách của lứa tuổi mười tám đôi mươi nhuốm chất Kinh Kha sang Tần thích khách thuở nào. Chẳng làm sao. Thế mới là tuổi trẻ. Chẳng có gì thiếu chân thực ở chỗ này cả. Ngược lại, nó đã thể hiện thật đúng cái tư thế trẻ trung, náo nức, cái hùng tâm tráng chí lên đường của một thế hệ thanh niên đô thị những năm đầu kháng Pháp.

Thì ra vẫn là một đám mây mang hình tráng sĩ phiêu bồng vào trận mạc. Cả một lớp người trí thức đô thị xếp bút nghiên lên đường chinh chiến sau mùa đông năm bốn sáu ấy trong cái nhìn của nhà thơ đều là những đám mây mang hình tráng sĩ. Áng - mây - Quang - Dũng hoà lẫn trong đội hình ấy.

Áng mây sà xuống cõi nhân gian

Trong đời Quang Dũng có một nàng thơ vô cùng đẹp đẽ, đó là "cô gái vuờn ổi" - Em mãi là hai mươi tuổi. Cũng tại do cái máu xê dịch giang hỗ viễn xứ mà "chàng" đã làm khổ người ta, để suốt đời ân hận: Bỏ em anh đi - Đường hai mươi năm - Dài bao chia ly… Theo như nhà thơ Trần Lê Văn cho biết "Quang Dũng có yêu một cô gái vườn ổi vì nhà cô có một vườn ổi thơm nức mùa hoa mùa quả. Cô thuộc một dòng họ quý tộc nhưng lại tân tiến như những cô gái tân tiến kiểu mẫu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thời ấy(…). Về nhan sắc thì những bức tranh thiếu nữ của Tô Ngọc Vân hiện nay còn để lại có thể cho ta một hình ảnh của cô: dịu dàng, tươi mát, dễ làm cho người ta lâng lâng say. Quang Dũng thanh niên xuất hiện ở vườn ổi, gây chấn động trong tâm hồn cô gái"(2) (Xem Tuyển tập Quang Dũng, Trần Lê Văn sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu, Nxb Văn học, 2000). Cũng nhà thơ Trần Lê Văn cho biết, có lần gặp lại người xưa, Quang Dũng viết ba bài thơ liền, một bài có tên là Vườn ổi, hai bài Không đề. Đọc bài Không đề lòng không khỏi ngậm ngùi:

Sông ơi! Dài sao
Rộng ơi! Biển cả
Thôi em nước mắt
Đừng rơi lã chã

Nhưng đó quả là một mối tình đẹp đến mức thành cổ điển, nghĩa là muối mặn gừng cay đấy, nhưng vô cùng thanh khiết, cao quý. Thôi thì chẳng có được nhau trong đời, hãy "Giữ trọn tình người cho đẹp". Đó là một mối tình thơ, không gợn một chút nào tục luỵ. Đó là áng mây trắng tình yêu che mát cho hai tâm hồn cách trở. Trong đời hễ ai có được một mối tình như Quang Dũng, tôi tin họ sẽ sống đẹp lên, tốt lên nhiều lắm. Đôi người ấy, tuy rất xa nhau, nhưng luôn biết vì nhau mà gìn giữ, sống sao cho đẹp, "Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời".

Nhưng cõi nhân gian này không phải chỉ có toàn những điều tốt đẹp. Do thời tiết chính trị một thời, nên những câu thơ đẹp một cách vô tội, nghĩa là vô cùng hiền lành, tình tứ cũng bị quy cho là tiêu cực. Thí dụ: Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Hay như bài thơ Lính râu ria cũng chịu chung số phận. Bài thơ tả anh lính xa nhà, một hôm ra quán hàng gặp chị chủ quán vừa ôm con nhỏ vừa bán hàng, người lính bế đứa bé giùm, lòng tràn ngập yêu thương, bỗng chạnh nhớ vợ con mình. Thế rồi người lính mua một chút rượu để giải sầu:

Chị ơi! Ly rượu nhỏ
Rượu nhỏ một ly thôi
Một ly cho đỏ mặt
Cho lên hương cuộc đời
Còn hình ảnh cô bán quán thì:
Khi anh đã về xa
Chị dọn hàng đi ngủ
Chép miệng trong hơi chăn
Chị buồn chi không rõ.

Thơ Quang Dũng cứ đi vào những tâm hồn tinh tế, thăm thẳm như thế nên bị cho là phức tạp là phải. Bước vào cuộc kháng chiến cái gì cũng cần mạch lạc, đơn giản, càng đơn giản càng tốt. Ngày ấy nó thế! Người ta khoanh những vùng kiêng kỵ như tình yêu, nỗi buồn, cái chết, những khoái thú cá nhân… Thế là, từ bấy trở đi, suốt đời con người này bị nghi kỵ, được dùng đấy nhưng không bao giờ được tin, bởi người ta không tin cái người quen hưởng thụ, tiểu tư sản như vậy! Đã thế lại còn có một thời gian lần mò sang tận Trung Quốc, rồi mang cái dớp Quốc dân đảng nữa chứ(3). Theo như tài liệu của nhà nghiên cứu phê bình Nguyễn Đăng Mạnh, dẫn lời Đỗ Chu cho biết về cái máu giang hồ của Quang Dũng: "Rồi lại mê cách mạng, thích làm cách mạng. Nhưng không biết cách mạng ở đâu. Nghe đồn cách mạng ở bên Tàu, bèn lần mò sang. Không may gặp phải đám Quốc dân đảng đóng trụ sở hẳn hoi. Thế là đi theo, ở với họ một thời gian, thấy sinh hoạt chẳng có vẻ cách mạng gì cả lại quay trở về nước. Sau đó theo bộ đội ta đánh giặc. Chiến đấu cũng dũng cảm lắm. Người ta bèn tính kết nạp vào Đảng. Ông ấy khai lý lịch là đã ăn ở một thời gian với Quốc dân đảng. Thế là hỏng và cái lý lịch tai hại ấy cứ theo đuổi ông ấy mãi về sau này…" (Trích từ bài Quang Dũng người thơ, in trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách, Nxb TPHCM, 2000). Đến khổ. Thật là tình ngay lý gian. Tai bay vạ gió. Kêu ai cho thấu? Cũng là tại cái phận mây trắng cả. Chả biết tự vệ là thế nào. Chỉ biết phiêu du và thả thơ vào giữa mây trời.

Nhà văn Thanh Châu, cũng là chỗ bạn thân của Quang Dũng, có lần kể cho tôi nghe một câu chuyện tôi không bao giờ quên được. Số là ngày ấy các gia đình viên chức đều phải có sổ gạo, tức là sổ cấp cho từng hộ gia đình để đi mua gạo theo tiêu chuẩn nhà nước hàng tháng. Người ta gìn giữ sổ gạo cẩn trọng hơn cả giữ vàng.Vì lý do nào đó mà chẳng may mất sổ gạo thì thật là tai hoạ, rất lâu mới có thể làm lại được bởi tệ giấy tờ, tệ quan liêu "hành là chính", và như thế có thể phải đi chạy gạo, vay ăn từng bữa (cái bi kịch này được đúc vào trong một câu tục ngữ mà đến nay vẫn nhiều người còn nhớ: Mặt nghệt như mất sổ gạo). Các gia đình khác cũng có nhiều nhặn gì đâu, cũng theo sổ gạo, nên dù thương bạn đến mấy cũng chẳng có mà cho vay mãi. Đành đi mua gạo chui đắt đỏ hơn vàng. Ấy thế mà Quang Dũng do cái tính đãng trí nên có lần đã đánh mất sổ gạo. Thật là hoạ vô đơn chí. Mất sổ gạo thì đành ăn ít đi, vay giật tạm rồi tìm cách làm lại sổ. Thôi thì bao nhiêu gánh nặng áo cơm vốn đã cơ hàn giờ đây lại dồn vào người vợ. Bà phải gồng lên kiếm tiền nuôi chồng và 3 đứa con nay đau mai ốm. Quang Dũng đau khổ, thương vợ nhưng chả có cách nào giúp vợ. Ngày ấy người ta nhìn thấy ông người cao lênh khênh, tóc trắng bồng bềnh, đẹp lão không để đâu cho hết, hôm nào cũng vậy, khoác trên lưng một cái bao tải to từ công viên bước đi trong tư thế chui chúi lao về phía trước lặng lẽ trên đường trở về nhà lúc chừng sáu giờ sáng. Hoá ra ông đi bộ dưỡng sinh ngoài công viên, rồi tranh thủ quét lá khô mang về đun, để đỡ tiền mua chất đốt. Hoá ra ông làm thế như nhằm cái ý chuộc lỗi với vợ con, như một sự trừng phạt chính mình. Tráng sĩ ơi, tráng sĩ giờ đây đã rụng kiếm gãy cung, trông như một tiều phu u uất. Thương thay!

Cũng kỳ lạ thay, con người ấy vẫn vô cùng yêu tin và tha thiết với cuộc đời. Vẫn cứ nhìn ra và động lòng cái cảnh:

Bên kia cửa sổ
Cô gái chưa chồng
Vừa tiễn người yêu
Lại lên giọng hát
"Người yêu say đắm hơn hoa mùa xuân"
Cũng như bao lần
Tiếng hát làm tôi rạo rực
Bâng khuâng thấy nhiều ước mộng
Và thấy đẹp làm sao
Cuộc đời to rộng…

Không một bầm dập nào, một dung tục nào có thể làm suy suyển lòng yêu, lòng mê say cuộc sống của Quang Dũng. Ông vẫn làm một áng mây ôm ấp tình yêu, ấp iu khung cảnh đời thường. Đám mây ấy vẫn là Mây ở đầu ô lang thang, và vẫn khát vọng Hẹn những chân trời xa lạ. Không gì có thể làm cho con người thôi khát vọng. Ở người nghệ sĩ lớn như Quang Dũng còn là những khát vọng đẹp và lớn.

Mây trắng về trời

Rồi thì ai cũng đến lúc phải lìa cõi sống. Đám mây trắng xứ Đoài chẳng may gặp cơn bạo bệnh. Tráng sĩ nằm trong bệnh viện râu tóc, áo sống một màu trắng tinh, ngỡ tưởng đám mây trắng sà vào phòng bất chợt. Mấy tháng đầu ông không nói được. Chỉ nhìn vợ con, bạn bè và khóc. Mấy tháng sau, ông lại chỉ có cười, cái cười trẻ thơ, hài đồng, tinh khôi vô kể. Rồi đến một lần, ông đưa đôi mắt dịu dàng nhìn vợ con lần cuối, xong rồi ông dừng lại ở gương mặt người bạn thơ thân thiết Trần Lê Văn, tự nhiên ông nói được hai tiếng: "ông Văn!", nói xong liền tắt thở. Ông đã ra đi vĩnh viễn. Hồn thi nhân đã thành áng mây trắng thoát xác về trời. Điều kỳ lạ là, ánh nhìn cuối cùng không dừng ở chỗ nào mà lại dừng vào gương mặt bạn thơ, có phải ông đã không quên đem theo về cõi vĩnh hằng một thế giới thơ ca, một nghiệp chướng thơ ca mà ông không thể dứt, mà ông đã từng hạnh phúc, khổ đau, hứng chịu nhiều hệ luỵ vì nó. Ấy là thoạt tiên nghĩ thế, nhưng nghĩ lại cũng chưa chắc. Một con người có cái đức đãng trí, cũng lại là một người làm thơ chả bao giờ có ý thức vun quén, tạo dựng cho mình cái gọi là sự nghiệp bao giờ, thế thì khi về cõi bên kia chắc gì ông đã nhớ ra là mang theo thơ phú đi cùng!… Có thể nói trong nền thi ca Việt Nam hiện đại, ít có người nghệ sĩ nào làm nghệ thuật một cách vô tư, siêu thoát, "tiên thi" đến thế. Bao nhiêu thơ phú, tranh vẽ, bài hát mà ông sáng tác cứ vương vãi tận đẩu đâu, không bao giờ nhớ, không bao giờ có ý sưu tập lại. Đến nỗi, khi nhà thơ Trần Lê Văn đứng ra làm cho tập thơ riêng và cái tuyển, ông đi lục tìm, gom nhặt như tìm di cảo của người đã khuất (XemLời giới thiệu trong Tuyển tập Quang Dũng, Sđd). Cứ lãng đãng mây trời như thế mà lại thành sự nghiệp. Ngược lại, có những người cứ chăm chắm xây xây đắp đắp, tô son điểm phấn cho mình mà đâu có vị trí gì. Nhìn bằng con mắt nghề nghiệp, dẫu sao Quang Dũng cũng là người sung sướng. Không thể nói là đã có một sự nghiệp bề thế, số lượng văn phẩm thì cũng thường thường, ấy thế mà Quang Dũng cứ có một chỗ đứng chắc nịch trong nền thơ ca hiện đại. Cái tình thơ và cái tài thơ quyết định tất cả. Chẳng biết những ý nghĩ cuối cùng của thi nhân là gì, nhưng có lẽ điều này là có thực: ông tiếc cõi sống, tiếc cõi thơ, tiếc không còn được làm áng mây trắng bay giữa nhân quần cùng đất nước, tiếc phải vĩnh viễn xa lìa hết thảy. Tôi tin rằng, nếu ở thế giới bên kia được làm lại từ đầu, Quang Dũng lại chọn làm người thơ, làm nghệ sĩ. Không thể khác.

Thì đã bảo Quang Dũng là người thích đi, say đi, hễ có dịp là đi, thời gian xa nhà nhiều hơn những lúc ở nhà. Có những đận ốm đau, ông vẫn còn rời nhà vào tận Lâm Đồng, nơi cô con gái dạy học, mà vào đến hai lần. Lời bài hát trong nhạc phẩm Ba Vì của Quang Dũng có câu: Giang hồ ngừng bước nhớ nhung Ba Vì ơi. Nhà thơ Trần Lê Văn còn bảo: "Cái máu giang hồ của nhà thơ chuyển sang cả "những chiếc ngựa bờm dài":

Hất đầu lắc nhạc
Hí lên từng hồi
Phất đuôi mừng khởi hành"
(Xem Lời giới thiệu trong Tuyển tập Quang Dũng, Sđd).

Sau này Quang Dũng có viết khá nhiều truyện ký in thành các tập: Nhà đồi, Làng đồi đánh giặc, Một chặng đường Cao Bắc… trong đó có những áng văn rất đẹp, đẹp như những bài thơ: Hoa lại vàng tháng Chạp, Quê trung du, Nhà đồi, Mùa quả cọ… Ở văn xuôi, vẫn hiện lên một Quang Dũng nhất quán: ham đi, đi để thoả lòng yêu vô bờ đối với con người và cuộc sống. Toàn những truyện nhớ nhung ân nghĩa cả. Nổi lên một vùng đồi, nơi đó có những người nông dân chân lấm tay bùn, nhưng tấm lòng vô cùng đôn hậu, yêu quý bộ đội, yêu quý con người. Nơi đó có những ngô luộc, lạc luộc, cá kho gừng, cơm nếp, rượu gạo, nương chè, nhà tre mái rạ, tường đất đá ong, giàn mướp, giếng đồi… và cả cái thổ âm không có thanh huyền không thể nào lẫn, không thể nào quên được của một vùng Ba Vì nồng hậu. Đấy, sống ở giữa một nơi Ôi chật làm sao - Góc phố phường, con người vốn khoáng hoạt ấy không chịu nổi, cứ lại đi về một vùng quê tuổi thơ bên dòng sông Đáy, nơi ấy có Đôi mắt người Sơn Tây - U ẩn chiều lưu lạc - Buồn viễn xứ khôn khuây; có Mắt em như giếng nước thôn làng; nơi những năm bom đạn, Quang Dũng đã cất lên lòng yêu da diết, yêu đến xót đau:

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng 

Ôi, cái vùng quê thanh bình, óng ả, thơm tho biết bao. Thơ Quang Dũng có rất nhiều địa danh, bởi hễ cứ đi đến đâu là gắn bó ở đấy, nhớ nhung về đấy, là quê hương mãi đấy. Tây Tiến, Những làng đi qua là vậy. Nhưng các địa danh nhiều nhất vẫn là vùng xứ Đoài mây trắng quê hương. Nào làBất Bạt, Bương Cấn, Sài Sơn, Phủ Quốc, Ba Vì, sông Đáy, Tích Giang, Vật Lại… Nhà thơ có tài chuyển hoá những địa danh bình thường, quê kiểng như mọi vùng quê khác thành những tên thơ. Một không gian xứ Đoài nghèo khó mà nhân hậu qua Quang Dũng thành một không gian thơ tình tứ, quyến luyến vô cùng. Phải có tâm hồn lớn, một tài thơ lớn mới có thể nhào nặn những chất liệu thô ráp của đời sống thành chất liệu thơ ca. Điều vừa nói ở trên không phải nhà thơ nào cũng muốn là được. Những cái tên vùng, tên đất trong thơ Quang Dũng là những hoá thân từ một tên chung: Đất Nước.

Lại một lần, "theo gót chân giang hồ", Quang Dũng có một đêm trên đất Bạch Hạc - Việt Trì. Chẳng biết gặp gỡ những gì, khói sương Liêu Trai mộng mị thế nào mà ông để lại một bài thơ rất đẹp. Xin chép ra đây để bạn đọc cùng thưởng lãm, cũng như là thay lời kết cho bài viết này: Đêm Bạch Hạc(4). Bài thơ này chưa có trong bất cứ một tuyển nào của Quang Dũng. Tôi là người chép lại bài thơ này từ sổ tay tư liệu của nhà thơ Châu Hồng Thuỷ vào quãng năm 90 của thế kỷ XX, khi anh đang theo học ở Trường viết văn Nguyễn Du để chuẩn bị sang học Trường viết văn M.Gorki - Liên Xô cũ.

Có những chiếc giường lạ
Nhìn ra mảnh sân nào
Nửa đêm chợt thức giấc
Thấy ta nằm ở đâu

Như cánh chim mỏi cánh
Lạc vào rừng không quen
Không chọn cành ngủ đỗ
Nào mong gì ấm êm

Đêm nay đêm Bạch Hạc
Ta tạt vào nhà ai
Nghe sông Lô cuộn nước
Dềnh lên suốt đêm dài

Sớm mai rồi tiễn biệt
Tóc đẹp nhường bâng khuâng
Một đêm dài để nhớ
Những người xa vô cùng

Mái nhà đêm Bạch Hạc
Có nhớ người đi không

(Việt Bắc, 1967)


Vẫn hiện nguyên hình một bản chất mây: phiêu du tới những chân trời xa lạ. Đã mang kiếp thi nhân, mỗi lần lang thang chân trời góc bể mà bắt được một bài thơ đẹp đến nhường này thì khối người thèm muốn. Lần này thì áng mây trắng xứ Đoài Quang Dũng bị bắt quả tang: một mái tóc đẹp nào đấy níu áng mây đậu lại. Chẳng qua cũng một nòi tình. Cái gien tình xứ Đoài có tính di truyền đã từ Tản Đà chảy mạnh mẽ trong hồn Quang Dũng.

Bây giờ thì áng mây trắng Xứ Đoài Quang Dũng vẫn cứ lãng đãng ngang trời, phủ một bóng mát lớn xuống nền thơ Việt Nam hiện đại.

Tết mùng Năm tháng Năm Ất Dậu













Bài thơ "Dặm về" không phải của Quang Dũng



NTT: Gần đây nhiều người nhầm lẫn bài thơ “Dặm về” là của Quang Dũng, và còn cho rằng nó đã in trong tập thơ Quang Dũng, và tán thêm: Quang Dũng khiêm tốn đến mức từ chối những bài thơ hay của mình khi ông nói “không phải của tôi”. Thực ra “Dặm về” là bài thơ của Nguyễn Đình Tiên được Quang Dũng rất thích và đã chép giùm vào sổ tay cho bạn… 

Để bài thơ “Dặm về” khỏi… bị nhầm tác giả thêm lần nữa, chúng tôi mời bạn đọc xem lại bài phỏng vấn này, do nhà thơ Vân Long trả lời trên phụ san báo Bảo vệ Pháp luật dịp Tết Đinh Hợi 2007:

SỨC SỐNG MỘT BÀI THƠ

TRẦN THI phỏng vấn Nhà thơ VÂN LONG

Suốt gần nửa thế kỷ, ai cũng cho bài thơ Dặm về (khi lưu truyền còn được gọi là Mai chị về) là của nhà thơ Quang Dũng, tác giả Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây…Ai cũng tin, vì chất giọng lãng mạn trong sáng khá gần với chất thơ Quang Dũng, đẳng cấp bài thơ cũng không thua gì những bài hay của Quang Dũng. Chả thế, bài thơ được chép tay, lưu truyền, trình diễn ở các buổi liên hoan trong các vùng kháng chiến cả nước, trong Hà nội tạm chiếm trước 1954 và 35 năm sau đó, thu đĩa thu băng ở Sài gòn và hải ngoại trước và sau 1975, cuốn Thi nhân tiền chiến xuất bản tại Sài gòn trước 1975 đều được giới thiệu và in rõ tác giả là Quang Dũng. Thế mà từ một nghi vấn nhỏ, nhà thơ Vân Long đã mở cuộc điều tra qua nhiều người, nhiều hoàn cảnh và tìm được tác giả, trả bản quyền bài thơ cho chủ nhân của nó: Đó là ông Nguyễn Đình Tiên, đại tá nguyên Cục phó Cục xuất bản Bộ quốc phòng. Cả đời, ông chỉ xuất bản cuốn Chân dung tướng ngụy Sài gòn và một số truyện ngắn in rải trên các báo, không hề làm một bài thơ nào nữa, nên khi lấy lại được bản quyền bài thơ, ông bèn tập hợp bài, in thêm một tập truyện ngắn cuối đời Ra giêng anh lại đi tìm (NXB Quân Đội Nhân Dân, 1990) và in bài thơ “châu về hợp Phố” này vào bìa 4 tập truyện.

Vì chứng lý chính xác của cuộc điều tra, in trong bài Bài thơ tìm được tác giả của Vân Long (Văn Nghệ số 42-43, 28/10/1989 số đặc biệt Khai mạc Đại Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IV), sau đó bài thơ đã được bổ sung vào Tuyển thơ Kháng chiến 1945-1954 tái bản (NXB Hội nhà văn 1995), được định danh, định vị sau đúng nửa thế kỷ bị coi là của Quang Dũng. Trong lịch sử văn học từ xưa đến nay, có lẽ không bài thơ nào có số phận kỳ lạ như vậy! Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bài thơ và cuộc trò chuyện của Trần Thi với nhà thơ Vân Long, nguyên chủ tịch Hội đồng Thơ Hội nhà văn Hà nội về cuộc điều tra này :

Dặm về
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu, mong nhớ mong

Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Sương buông khắp lối đường muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang, qua lướt qua
..
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá rạt vương chân ngựa
Hươu chạy theo đàn, theo ngó theo
.
Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị vừa qua thác sao vàng
Sao trôi đáy nước, rơi chân ngựa
Buồn dựng đôi mi, ngàn lại ngàn…

Thu, 1945 
(Nguyễn Đình Tiên)


P.V.
— Thưa nhà thơ, cuộc điều tra khó khăn nhất là ở khâu nào?
Nhà thơ Vân Long:
— Có lẽ đó là: dứt được bài thơ ra khỏi cái bóng của ông Quang Dũng phủ lên nó suốt 44 năm, hai người nhất quyết cho là của Quang Dũng là nhà thơ Hoàng Cầm, và nhà văn Nguyễn Dậu. Thậm chí Nguyễn Dậu còn kể “ Khi Quang Dũng đến trại thiếu sinh quân chúng tôi, tôi hỏi anh có bài thơ nào hay không? anh vội ra suối tắm đã vứt lại cuốn sổ tay “ Các cậu xem có bài nào thích thì chép” Và chính tôi đã chép bài Mai chị về ở cuốn sổ đó!” Chứng cớ này chưa đủ sức thuyết phục, vì trong sổ tay của Quang Dũng có thể có thơ của bạn bè.
Điều xác thực và là điểm xuất phát để tôi quyết định điều tra xem ai là tác giả là thời điểm anh Quang Dũng nằm liệt trên giường bệnh, việc soạn bản thảo để xuất bản Mây đâu ô hoàn toàn do nhà thơ Trần Lê Văn làm giúp bạn. Tôi giở tập bản thảo sắp đưa nhà in, ngạc nhiên không thấy bài Mai chị về mà chính tôi cũng có lần nghe Quang Dũng ngẫu hứng ngâm mấy câu, tôi hỏi “Sao anh không chọn bài thơ đó?” Ông Trần Lê Văn trả lời “Tôi có chọn chứ, nhưng ông Dũng không nhận là thơ của mình” Tôi kinh ngạc: “Vậy thì có thể của ai bài thơ đó? Ai cũng cho là thơ Quang Dũng mà !” Trần Lê Văn: “ Tôi có hỏi như vậy, ông Dũng lắc đầu rồi nói một câu nghe không rõ (sau tai biến não) tôi chỉ nghe và đoán được hai tên người là Vũ Hoàng Địch và Phan Quang Chấn. (Nhà giáo Vũ Hoàng Địch là em trai nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Phan Quang Chấn là bác sĩ quân y trung đoàn Tây Tiến) …

P.V. :
— Chắc là nhà thơ sẽ tìm đến hai ông này?
V.L.:
— Tôi chỉ biết ông Vũ Hoàng Địch, ông Chấn thì tôi chỉ mới nghe nói, chưa biết ông ở đâu. Ông Vũ Hoàng Địch không dám khẳng định gì nhưng lại cho tôi bíết bác sĩ Chấn ở khu tập thể Viện Lao. Khi gặp được bác sĩ Chấn, mắt ông sáng lên một tình cảm đặc biệt khi nghe nhắc đến Quang Dũng. Ông biết điều tôi cần tìm hiểu, liền lục dưới đáy tủ ra một cuốn sổ dầy, ông lật lật và giở cho tôi xem mấy trang thơ chép tay. “A! Chữ ông Quang Dũng đây rồi!” Cả tôi và ông Chấn cùng reo lên. Bài thơ đầu chùm đúng là bài tôi đang đi tìm tác giả, nhưng lại đặt tên là Không đề, và trớ trêu thay, dưới bài, chữ Quang Dũng lại ghi Không tác giả.
Tôi lật tiếp thì đến bài Tây Tiến và Mắt người Sơn Tây, dưới hai bài đều đề tắt QD. Chữ Quang Dũng chép tiếp cả bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị.Tôi nghĩ: Bài Mai chị về hay Không đề này trong sáng, chất lãng mạn cũng không “nặng căn” gì hơn Mắt người Sơn Tây để ông phải từ chối nó, nếu nó là con ông đẻ ra. Một bài đặc biệt của Quang Dũng, tôi tìm được trong dịp này là Chiêu Quân ông đề rõ bên dưới bài QD 1937, chép ngay trong cuốn sổ này, vậy là tôi đã tìm được bài thơ đầu tiên của Quang Dũng làm năm 16 tuổi. Cùng với bài Cố quận, 1940 tìm được sau khi in Mấy đầu ô, cho nên ở các tập tuyển sau mới xuất hiện 2 bài này, một dấu hiệu đáng lẽ có thể gọi ông là nhà thơ tiền chiến, nếu 2 bài này đưa in trước 1945.
Vậy có thể kết luận: Không đề, Mai chị về hay Dặm về không phải thơ của Quang Dũng! Cái lắc đầu của ông bên giường bệnh và bút tích chép thơ cho bạn Phan Quang Chấn từ năm 1949 ở Hang Cáy (Đầm Đa- Chi Nê) đã xác định điều đó! Cần ghi nhận sự trung thực của Quang Dũng khi ông từ chối một bài thơ hay vô chủ mà mọi người đều gán cho ông.
(Nhà thơ cười, nói vui: Trong chuyến “điều tra’ này, về con số mà nói: tôi dứt được khỏi Quang Dũng một bài, lại tìm thấy một đứa con thất lạc của ông, cộng 1 trừ 1, vậy là…vô công!)

P.V. — Tôi được biết nhà thơ đã đưa những thông tin đó lên báo Văn Nghệ (số 37, 16 tháng 9-1989) trong bài Đi tìm xuất xứ một bài thơ để mời mọi người cùng tham gia tìm kiếm. Sau đó…?
V.L.:
— Có nhiều bạn yêu thơ lên tiếng, hầu hết vẫn cho là thơ của Quang Dũng, nhưng không ai có chứng cứ thuyết phục, chỉ duy nhất có anh Nguyễn Hà nói: “Hình như có lần tôi nghe ai đó nói của Nguyễn Đình Tiên! “(một cái tên hoàn toàn xa lạ với làng thơ!). Nhưng đến ngày 27 tháng 9/1989 thì tòa soạn báo Văn Nghệ nhận được thư ông Nguyễn Đình Tiên nhận là tác giả bài thơ, và nhắc đến một vài người biết bài thơ hồi ông mới viết, trong đó có nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc đã phổ nhạc bài thơ đó, nhưng bài hát không được phổ biến. Tôi mừng quá! nhạc sĩ này cũng là ông bạn vong niên của tôi, tôi liền đến gặp nhạc sĩ, rồi cùng ông đến nhà ông Nguyễn Đình Tiên, hai ông nhận ra nhau ngay, và hàn huyên nhớ lại những người bạn chung ngày ấy…

P.V.
— Và thế là mọi người phải “tâm phục khẩu phục” kết luận cuộc điều tra?
V.L. :
— Sự việc không đơn giản thế! Gán một bài thơ nổi tiếng cho một người không thấy làm thơ bao giờ cũng khó như bứt bài thơ đó ra khỏi nhà thơ nổi tiếng Quang Dũng! Chính những người gần gũi ông nhất trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp lại không tin điều này: “ Ông Nguyễn Đình Tiên là một cán bột mẫu mực, lý trí, tính nguyên tắc cao hơn cả…cán bộ tổ chức. Sao ông có thể là tác giả bài thơ lãng mạn đó?

P.V.
— Tôi nghe nói Giáo sư – tiến sĩ Đình Quang là em ruột ông Nguyễn Đình Tiên, sao nhà thơ không xác minh bằng cách hỏi ông Đình Quang?
V.L.
— Lúc đó tôi chưa biết mối quan hệ anh em của hai ông. Nhưng để hai anh em trong nhà làm chứng cho nhau, liệu công chúng có chịu tin ?

P.V.
— Vậy nhà thơ thuyết phục mọi người bằng cách nào?
V.L.
— Ngoài dẫn lời nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc và mấy người bạn chung của hai ông, tôi còn phải đưa ra một chứng lý rất…xã hội học.

P.V.
— Xin nhà thơ cho nghe chứng lý ấy!
V.L.:
— Nhà thơ Vũ Cao cũng là bạn lâu năm của Nguyễn Đình Tiên, kể cho tôi câu chuyện: “Một đêm giao thừa ở Việt Bắc, cơ quan báo chỉ còn tôi và anh Thâm Tâm ở lại trực. Ngồi bên đống lửa chống rét, khi câu chuyện đi vào chiều sâu, tôi tâm tình với anh: “ Muốn nói gì thì nói, bài Tống biệt hành vẫn là bài thơ rất hay, xúc động lòng người. Đêm nay chỉ còn anh và tôi, anh cho phép tôi đọc lại bài thơ ấy nhé! Thâm Tâm khẽ gật đầu. Khi tôi đọc, từng câu, từng câu mắt anh rưng rưng lệ. Tôi đọc xong, anh lấy khăn tay lau mắt, rồi nghiêm giọng cấm tôi từ nay không được đọc bài ấy nữa. (Bài Tống biệt hành thời gian ấy bị phê phán).
Thâm Tâm lúc đó là thư ký tòa soạn báo QĐND, ông có thể ngồi lì cả buổi, cả ngày bên bàn viết, tính nguyên tắc rất cao …khác hẳn con người nghệ sĩ của ông trước Cách mạng như tôi được biết…” Muốn trở thành con người mới, Thâm Tâm quyết dứt bỏ đứa con tinh thần của mình. Phải chăng Nguyễn đình Tiên cũng có sự thay đổi quyết liệt con người mình như vậy

P.V. :
— Nhà thơ có ấn tượng gì về tác giả Nguyễn Đình Tiên?
V.L.
— Đó là một con người trung thực với mình trong sáng tạo thơ. Khi ông nhận ra con người mình chỉ làm được giọng thơ này, là giọng điệu không phù hợp với thời kỳ Cách mạng thì ông quyết không làm thơ nữa. Ông bảo tôi: “Khi làm xong bài thơ ấy, tôi coi nó bình thường thôi, sẽ chẳng ai nhớ đến nó làm gì! Thơ bấy giờ phải viết như ông Trần Mai Ninh (tác giả Nhớ máu, Tình sông núi), chứ không thể vẩn vơ, lãng mạn như bài của tôi ! “.
Thật tiếc là ông không đi cùng chúng ta tới ngày hôm nay để thấy thêm: Loài hoa nào cũng có vị trí của nó trong vườn hoa của cộng đồng dân tộc!

P.V.:
— Theo nhà thơ, vì sao bài thơ Dặm về lại có số phận trôi nổi độc đáo như vậy?
V.L.:
— Có thể cắt nghĩa bằng hoàn cảnh xã hội, cuộc kháng chiến toàn quốc đã đảo lộn tận gốc rễ cách sống của mỗi người, nhiều điều lớn lao hơn, cần quan tâm hơn là sở hữu chủ của một bài thơ khi mà chủ của nó cũng gần như quên có nó trên đời. Nhưng trước tiên, muốn có được số phận trôi nổi đó, bài thơ phải hay, nếu không, nó đã chìm nghỉm từ lâu. Sức sống của bài thơ hay quyết liệt hơn ý chí chủ quan của con người!

P.V. :
— Chúng ta đang bước vào thời điểm Đại Hội nhà văn lần thứ VIII, bài kết thúc cuộc “điều tra văn học” của ông Bài thơ tìm được tác giả lại in vào số báo Văn Nghệ đặc biệt chào mừng Đại Hội nhà văn lần thứ IV (28-10-1989), Đại hội của đổi mới văn học. Ông có nhận định gì về trường hợp ông Nguyễn Đình Tiên với hiện tượng một bài độc đáo này?
V.L.
— Có lẽ mời bạn đọc lại lá thư của ông Nguyễn Đình Tiên nói về xuất xứ bài thơ để hiểu rõ hoàn cảnh ra đời của nó và tâm thế người viết. Ông Nguyễn Đình Tiên tuy mới học qua trung học thời Pháp, nhưng đã đọc văn học Pháp không cần qua bản dịch. Ở tầm hiểu biết văn hoá Pháp và trào lưu Tự Lực văn đoàn, ông có thể được coi là thế hệ trí thức cũ đi với Cách mạng. Nền văn hoá cơ bản đó giúp ông tránh được những non yếu trong ngôn ngữ thơ ngay ở bài thơ đầu, không những thế, sự lặp lại cố ý như một điệp khúc ở câu cuối mỗi khổ thơ ( Bụi vướng ngang đầu, mong nhớ mong / Ngựa lạc cành hoang, qua lướt qua / Hươu chạy theo đàn, theo ngó theo / Buồn dựng đôi mi, ngàn lại ngàn) như ông nói với tôi, là ảnh hưởng một bài thơ Pháp ông còn nhớ được. Nhưng điều chủ yếu bài thơ hay là được viết trong trạng thái xúc động nhất lúc đầu đời của tác giả (nghe tin đó (người bạn gái tri âm sẽ phải rời xa mình) như sét đánh ngang tai). Chỉ qua vài nét trong lá thư dưới đây ta đã có thể hình dung đó là một dạng tình yêu bị dồn nén (bởi mặc cảm). Hai người còn gần gụi nhau hơn “tình chị em” kiểu Lá diêu bông của Hoàng Cầm vì họ cùng ở độ tuổi 20! Gặp được một cô gái (hẳn là xinh đẹp thông minh) cùng trình độ ở một tỉnh lẻ đâu phải dễ! Tác giả không thể không viết để giải toả ẩn ức nội tâm. Vì vậy mà truyền được sức sống của nó qua thời gian và qua bao thế hệ.

P.V.
–Xin cảm ơn nhà thơ!
.
¬¬¬¬¬¬¬¬
Phụ lục:
Thư Nguyễn Đình Tiên gửi báo Văn Nghệ (số 40, ngày 7/10/1989)
Hà Nội ngày 18 tháng 9 – 1989
Kính gửi tòa soạn tuần báo Văn Nghệ,
Thưa các anh các chị,
Tôi xin phép được xưng danh: Tôi là Nguyễn Đình Tiên, người viết cuốn Chân dung tướng ngụy Sài Gòn, trước khi nghỉ hưu là đại tá Cục phó Cục xuất bản Bộ quốc phòng.
Tôi mạo muội nói đôi nét về mình để giữa tòa soạn và tôi có sự am hiểu về nhau, thuận lợi cho việc trao đổi ý kiến khi cần thiết.
Chiều chủ nhật 17 tháng 9-1989 vừa rồi, em tôi là Nguyễn Đình Cao ở trường Đại học sư phạm Hà Nội cầm tờ Văn Nghệ số 37 đến thăm tôi, báo tin:
– Ông Vân Long ở tuần báo giới thiệu bài thơ anh làm năm 1945 ở Thanh Hoá. Tiếc là có mấy chỗ lầm lẫn hoặc thiên hạ tự ý sửa chữa, và đặt vấn đề: hiện nay vẫn chưa biết ai là tác giả và xuất xứ bài thơ ra sao? Theo lời kêu gọi của ông Vân Long, anh nên báo cho tòa soạn biết anh là tác giả để đỡ mất thời giờ cho việc tìm kiếm.
Tôi cầm tờ báo đọc và thực sự xúc động trước tinh thần đầy trách nhiệm của ông Vân Long.
Vâng, tôi là tác giả bài thơ đó. Bài thơ mang tên là Dặm về. Tôi xin chép ra kèm theo dưới đây nguyên văn bài thơ đó, được viết vào mùa thu năm 1945 ở thị xã Thanh Hoá. Sở dĩ bài thơ nằm trong nhiều cuốn sổ tay, kể cả của nhà thơ Quang Dũng và ông Vân Long là do sự phổ biến của hai người bạn cũng ở Thanh Hoá lúc đó:
1- Nhạc sĩ nghiệp dư người Công giáo là An-phông-xô Trần Quang Trường. Tình cở Trường đọc bài Dặm về thấy nhiều nhạc tính nên phổ nhạc. Anh mời tôi đến nhà kéo vĩ cầm cho nghe, và hát bằng một giọng nam trung khá hay. Anh Trường nói đã hát cho nhiều nhạc sĩ ở trung ương nghe, trong đó có nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc.
2- Anh Nguyễn Phương (sau này làm báo Hà Nội mới). Anh Phương rất thích bài thơ của tôi, hay đem bài này làm đề tài nói chuyện với anh em trẻ. Cả hai anh lúc này đều đã thành người thiên cổ.
Còn xuất xứ của bài thơ này ra sao? Vì sao Cách mạng tháng Tám đã nổ ra rồi mà tôi còn làm thơ lãng mạn, tôi xin trình bầy như sau:
Tháng 9 – 1945, có ba chị em một chị trí thức dòng dõi đại điền chủ Nam Bộ tránh giặc Pháp, dạt ra miền Trung và đến Thanh Hoá. Ba chị em ở nhờ nhà ông Nguyễn Ninh, sau này là diễn viên kịch nói ở Đoàn kịch nói trung ương. Chị Phan Ánh Tuất là chị cả vào làm việc ở thư viện của Nhà văn hoá Cứu quốc.
Tôi đến mượn sách nên quen biết chị, và trở thành người bạn tâm sự của chị trong cảnh xa nhà. Cũng 21 tuổi nhưng chị ra đời trước tôi khoảng nửa năm, lại là con gái hiểu biết sớm hơn về cuộc sống, nên tôi gọi chị là “chị” rất mực kính trọng. Một lý do nữa vì hoàn cảnh gia đình, tôi học chậm, đang học trung học, còn chị đã đỗ tú tài triết học năm 19 tuổi. Giữa tôi và chị rất thân nhau như bạn bè, nhưng vẫn có cái hố ngăn cách về tình cảm do sự mặc cảm của tôi dựng lên.
Đến tháng 10 -1945, đang nói chuyện với nhau vui vẻ ở thư viện, chị bỗng im lặng rồi thông báo một tuần nữa ba chị em sẽ ra Hà nội liên lạc với anh em sinh viên Nam Bộ tìm đường về Nam với gia đình. Lúc đó, tôi còn quá trẻ, nghe tin đó như sét đánh ngang tai. Đêm đó, tôi chong đèn suốt đêm và viết bài thơ Dặm về .
Dặm về là bài thơ đầu tiên và cuối cùng của đời cầm bút nghiệp dư của tôi. Tình cảm bị dồn nén, nhưng không nói khác hơn được, nên tôi dùng cách nói xa xôi như trong Dặm về.
Phút chia tay, tôi đưa tặng chị Phan Ánh Tuất bài thơ này. Chị mở ra đọc luôn và tặng lại tôi tiểu thuyết La mère của M. Gorky, bản dịch bằng tiếng Pháp (lúc bấy giờ tiểu thuyết Người mẹ của M.Gorky còn rất hiếm ở tỉnh lẻ).
Chúng tôi xa nhau từ đó, tôi hoàn toàn không biết tin tức gì về ba chị em Tuất. Chỉ nghe anh em Nam bộ nói cả gia đình hình như đang sống ở nước ngoài.
Cuối năm 1946, tôi nhập ngũ. Nhiệm vụ đánh giặc vùi lấp rất nhanh kỷ niệm đẹp đẽ cũ và cả bài Dặm về lãng mạn của tôi. Cảm ơn ông Vân Long và tòa soạn Tuần báo đã làm sống lại trong tôi những hình ảnh tôi tưởng vĩnh viễn xóa nhoà và đã đem đến cho tôi những xúc động bồi hồi khi đọc lại bài thơ viết đã 45 năm qua.
Chân thành chúc các anh các chị ở tòa soạn và tác giả bài báo Đi tìm xuất xứ một bài thơ trong mục Sổ tay Thơ dồi dào sức khoẻ để làm cho tờ tuần báo Văn Nghệ ngày càng có uy tín lớn trong các tầng lớp bạn đọc trong cả nước.
Nguyễn Đình Tiên
(phòng 27, Nhà A1, Vĩnh Hồ, Thịnh Quang, Đống Đa – Hà Nội)












Trang thơ Quang Dũng














Cha tôi
( Nhà thơ Quang Dũng) 


Thu! Với những lá vàng lác đác rải thảm trên cỏ xanh ven hồ.

Thu! Với chớm heo mưay mưan mác gợi kí ức. Và đấy thôi, mưa lê thê, mưa ngày này qua ngày khác, có những lúc cảm thấy mư­a không thể dừng.

Có một đêm mưa thu đã trở thành kỉ niệm không quên với tôi. Cái đêm cũng chợt mưa chợt tạnh, cái đêm mà tôi vĩnh viễn mất đi một tình yêu, một con người thân thuộc quá đỗi với mình: cha tôi. Dẫu là sự thực mà khó dễ tin ngay. Cha nằm đấy, mái tóc bồng bềnh trắng nh­ một dải mây vắt ngang đỉnh Ba Vì. Đôi mắt khép nhẹ không che dấu nổi nỗi đam mê hoang daị của những ngày trai trẻ rong ruổi trên thân ngựa. Thân hình vạm vỡ là thế, giờ quá bé nhỏ trong khuôn áo liệm lạnh một màu tang tóc. Tôi chỉ còn đoán được những lời cha dặn dò qua hai giọt nước mắt yếu ớt lăn trên gò má, vì đã hai năm rồi, cha bập bẹ mãi mà có thành câu nào?

“ Con hãy cố gắng trở thành một con người. Còn được sống là điều hạnh phúc nhất. Hãy vượt qua tất cả bằng nghị lực của mình.”

Kí ức không lặng lẽ gặm nhấm mà ồn ào phẫn nộ tấn công tôi từng giờ, từng ngày, từng trang sách, từng đoạn phố…chúng xô đẩy khiến có lúc tôi tưởng sẽ quỵ ngã vì không chống đỡ nổi.

Mới ngày nào, khi còn là cô bé bẩy tuổi, đi công tác hay đi nghỉ bố thường cho tôi bám theo. Không đi được thì bao giờ về, trong túi áo của bố cũng có một vài cái bánh, một vài cái kẹo phần bố không ăn mà dành cho con gái út.

Nhà ở gác ba, mùa lạnh thì quá mát, mùa nóng thì quá ấm, bố có những sáng kiến thật hay: “ Nào cả nhà ra đây- cứ như­ bố đang chỉ huy trận đánh- thằng Thuận nằm chéo trong cùng, đến cái Hạ, cái Thảo, tôi và mợ nó nằm ở ngoài rìa.” Quen với vô số bất ngờ của bố, chúng tôi răm rắp thi hành. Mợ tôi thì ầm ừ:” Ông định giở trò gì đấy?” nhưng cũng nghe theo và chúng tôi hé mắt theo dõi. Bố lấy cái ghế đẩu cao đặt ở góc nhà phía cửa ra vào và đặt cái quạt đế gang 35 đồng lên trên. Bố tôi bảo: “ Nằm chéo đi như­ thế này ai cũng được mát vì cả nhà chỉ có một cái quạt, còn tôi dùng quạt nan cho tiện và rèn luyện các khớp tay dẻo dai để còn viết lách…”

Sáng ra, bố thường dậy sớm từ ba, bốn giờ, khẽ khàng mang đôi thùng ra tận đầu chợ Đuổi lấy nước rồi gánh lên gác ba. Hàng xóm cứ bảo: “Ông chiều vợ con quá!”. Bố chỉ c­ời nói: “Tôi rèn luyện cho khỏe, vả lại tôi to lớn nhất nhà.” Hình như­ bố cho việc viết văn là nhẹ lắm nên bố còn dành cả việc đi mua dầu đun cho cả gia đình. Thật không may lần ấy, toàn bộ phiếu mua dầu của nhà bị móc túi mất. Xách cái can về không, bố khổ sở mất mấy hôm và từ sau hôm đó, khi ra công viên tập về là trên tay bố lại có mấy cành củi khô, ít lá khô được buộc gọn ghẽ: “Con đ­ưa cho mợ dóm bếp.”. Rồi bố lại có phát minh mới: “ Bà nó chặt cái ghế này ra đun tạm, tôi ngồi ở gi­ường viết được rồi..”Cứ thế, ghế và bàn viết của bố thường xuyên phải cơ động, lúc ở trên giường kê một chồng sách làm bàn, lúc ở trên gác th­ượng viết lên bậc cầu thang cuối cùng….

Năm tháng qua đi, chúng tôi dần lớn lên. Anh thứ ba đi bộ đội đã sắp được giải ngũ, chị gái tôi đã vào Lâm Đồng dạy học, còn tôi, bố cũng muốn tôi trở thành cô giáo dạy cấp I. Tốt nghiệp xong, tự tay bố dắt tôi đi vào con đư­ờng làng Vĩnh Quỳnh, nơi đầu tiên tôi đứng trên bục giảng, bố nói: “Bố muốn con tr­ưởng thành từ một cô giáo cấp một.”. Lúc ấy, ch­a hiểu hết ý nghĩa của việc trở thành một cô giáo sẽ thế nào, nhưng tôi luôn nghe theo nhận xét và gợi ý của bố. Ngày đầu tiên tiếp xúc với lũ học trò lớp ba làng Vĩnh Quỳnh nói ngọng thành thần, thật thú vị. Cứ tưởng chúng th­ưa là : “Em bị hóc.” hóa ra là :” Em khóc.”. Và rồi cái tên cậu học trò đầu lớp thật sự gây kinh hãi cho tôi: Đinh Công Bom! Thật là tên với tuổi, đang bí lời, như­ chợt nhớ ra điều gì tôi liền nói: “ Các em thật sung sư­ớng vì bây giờ không phải học d­ưới bom đạn như­ các cô ngày trước.” Làm sao chúng hình dung ra học d­ưới bom đạn là thế nào?. Vâng, bằng tuổi chúng bây giờ, tôi đã phải ngồi im, có lúc nín thở, ôm chặt lấy tấm l­ưng to như­ núi ( hồi ấy thì đúng nh­ư vậy) của bố, chậm chạp từng nhát, bố đạp chiếc xe nam một gióng đèo tôi từ Hà Nội về nơi nhà xuất bản Văn học cha tôi đang công tác , sơ tán ở Đư­ờng Lâm với lỉnh kỉnh mắm, muối.

Lần ấy, mãi chập tối, hai bố con mới qua gần chùa Thầy là đoạn    đ­ường đồn đại có nhiều cư­ớp. Lúc qua cánh đồng vắng vẻ, bố chợt dừng xe bảo tôi ngồi sụp xuống vệ đư­ờng và dựa xe ngả dạt vào vạt cây gần đó, khóa lại. Tôi ngơ ngác ch­ưa hiểu chuyện gì thì thấy bố ngó nghiêng một dạo rồi rút đánh xoạt cây gậy tre nhỏ buộc ở gióng xe, khởi động một hồi rồi múa bài võ lạ mắt mà cho đến bây giờ tôi chỉ nhớ là võ Tầu. Vừa xua muỗi, tôi vừa tròn mắt nhìn bố. Hết bài, bố hít hà vài cái rồi lại gần tôi nói khẽ: “ Ngồi yên ở đây, bố xuống d­ưới kia một tý nhé…” Mãi sau này, khi nhắc lại “chuyện ấy”, cả hai bố con tôi lại cư­ời vang. Còn tôi lại nghĩ: “ Hôm ấy mà có c­ướp thật không biết bố xoay sở thế nào!”.

Khi trở lại Hà Nội, bố thường xuyên lên gác múa kiếm. Một khu công viên thu nhỏ trên gác cũng đủ cho bố bao cảm hứng để viết và sống. Những giò phong lan mang h­ương rừng về với căn gác nhỏ và dư­ới kia, mấy chuồng thỏ đang nháo lên chờ cỏ mật từ tay ông chủ tốt bụng.

Xuân, Hạ, Thu, Đông nối nhau mà đi, cho đến ngày bố đi theo chị Bùi Ph­ơng Hạ vào Lâm Đồng và ham muốn viết về ngô lai Mêhicô. Căn bệnh tai biến mạch máu não hành hạ Người suốt hơn một năm . Tay đã run không viết nổi một dòng th­ư thẳng thắn cho bác Trần Lê Văn mà chỉ nguệch ngoạc vài dòng. Mắm tôm chư­ng và rau ngót là bữa ăn thường xuyên của hai bố con. Nhận được tin bố ốm, hai mẹ con tôi lặn lội vào để đón bố ra Hà Nội. Hơn 10 km đ­ường rừng đi bộ đêm không làm tôi sợ hãi, tôi cắm đầu mà đi mong sao chóng gặp bố. Không thể tin ông già râu tóc bạc trắng với đôi mắt mệt mỏi, uể oải, lại còn chiếc mũ lá sờn tua tủa và đôi dép cao su lỏng quai chốc lại phải rút lại, chiếc quần ngắn ngang ống chân ( để tránh cỏ may) và chốt lại cuối cùng là cái batoong cũ kĩ bám đầy đất đỏ, một bình toong nước vắt chéo dây qua vai đứng kia: là bố tôi, nhà thơ Quang Dũng mà tôi đã ngấm ngầm trở thành độc giả yêu thơ của ông. Trông ông không khác gì một già làng Kờ Ho
( Lâm Đồng). Tôi xúc động chạy lại với bố. Chị Hạ kể cho tôi nghe, đêm xuống, bố hay chống gậy đi ra ngoài lán lang thang. Có hôm gần sáng mới trở về. Ngay đêm ấy thôi, hai chị em tôi thoáng cái không thấy bố, bổ nhào đi tìm. Đã có kinh nghiệm của bố, tôi thủ một cái gậy nhỏ vào ống tay áo còn chị Hạ cầm một mũi dao nhỏ trong tay. Hai chị em đi dọc mãi ra bìa rừng mới thấy bố nằm sóng soài ở l­ưng dốc Bà Mão, hôm qua trời mưa, đ­ường trơn như­ bôi mỡ, bố quen chân đi và ngã không tự dậy được nữa.

Chuyến tàu đi nhanh ra Hà Nội. Ngồi trên tàu, bố không quên mang theo một mũ lá đựng đầy bắp ngô lai to bằng bắp tay và vẫn ao ­ước viết xong bài về giống ngô lai này.

Đêm mùa thu định mệnh ấy đã đến. Sau 4 năm vật vã trên gi­ường bệnh, bố đã ra đi mãi mãi khi tôi chợt hiểu về bố hơn lúc nào. Giờ đây mỗi lần nhớ về bố Quang Dũng, tôi vẫn ở trong một tâm trạng đợi chờ….Tiếng xe đạp lách cách, quen thuộc dư­ới cầu thang và bố t­ươi cư­ời xuất hiện ở ng­ưỡng cửa, rút từ túi áo một chú thỏ trắng muốt với đôi mắt như­ hai viên hồng ngọc lấp lánh….

“ Bố ơi, con mong mãi mà ch­a nhận được món quà cổ tích của bố. Dẫu vậy, con vẫn chờ và biết đâu, vô thức, con đang đặt b­ước chân đầu tiên lên con đư­ờng bố đã đi…”



Mùa thu 1994
Bùi Phương Thảo










Tranh màu nước của nhà thơ Quang Dũng









































































































Nhà thơ Quang Dũng và gia đình









Trần Lê Nguyễn, Họa sĩ Đinh Cường, Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền
Họa sĩ Thái Tuấn, Nhà thơ Quang Dũng, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ

Sài Gòn 1983








Trở về









MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.