Thứ Ba, 19 tháng 1, 2021

Nguyễn Văn Xuân (1921-2007)

 









Nguyễn Văn Xuân
(1921-2007)
Nhà văn, nhà giáo, học giả







Tiểu sử

Nguyễn Văn Xuân sinh ngày 10 tháng 5 năm 1921 tại làng Thanh Chiêm, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Lúc nhỏ, ông học ở quê, sau ra học ở Huế. Năm 16 tuổi, ông bắt đầu tự học và tập viết văn.

Năm 1939, truyện ngắn đầu tay của ông có tên là "Bóng tối và ánh sáng" được chọn đăng trên tạp chí Thế giới (Hà Nội) và được trao giải nhất. Sau đó, ông lần lượt cộng tác với các báo, như: Bạn dân (Hà Nội), Thế giới (Hà Nội), Mới (Sài Gòn), Văn Lang (tạp chí, Sài Gòn), Tiểu thuyết thứ Bảy (tạp chí, Hà Nội)...

Từ năm 1945 đến năm 1954, ông tham gia phong trào cách mạng ở quê nhà, từng làm Ủy viên kịch nghệ thuộc Hội Văn nghệ Quảng Nam, Ủy viên kịch nghệ thuộc Hội Văn nghệ liên khu V.

Sau năm 1954, ông ở lại Quảng Nam dạy giờ tại các trường tư và tiếp tục sáng tác.

Năm 1955, ông bị bắt giam ở nhà lao Thừa phủ (Huế), vì tham gia phong trào đấu tranh đòi thống nhất đất nước.

Ngoài công việc viết văn, ông còn dạy học tại các trường trung học tư thục Đà Nẵng, Đại học Văn khoa Huế,...và sau nầy dạy thêm ở Đại Học Đà Nẵng (thành lập năm 1974).

Ông qua đời vào lúc 21 giờ 30 ngày 4 tháng 7 năm 2007 tại Đà Nẵng.


















Tác phẩm

Các tác phẩm chính của Nguyễn Văn Xuân 




1
Ngày giỗ cha
(tập truyện ngắn, 1943)







2
Ngày cuối năm trên đảo
(tập truyện ngắn, 1945)







3
Bão rừng
(tiểu thuyết, 1957)







4
Dịch cát
(tập truyện ngắn, 1966)







5
Hương máu
(tập truyện ngắn, 1969)







6
Phong trào Duy Tân

(biên khảo, 1969. Nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản, 1995)

Từ trước đến nay, chúng ta nghe nói tới Phong Trào Duy Tân, nhưng chưa có một quyển sách nào đề cập tương đối đầy đủ về lãnh đạo, tổ chức, phát triển Phong Trào. Chính ngay trong các quyển sử hay Văn học Sử nổi tiếng cũng chỉ trình bày một cách hết sức khái quát con người của Phan châu Trinh cùng vài hoạt động của ông. Không thấy có tác giả nào nói kỹ và toàn bộ về sức trổi dậy của ngọn triều ở nơi xuất phát (Quảng Nam), để rồi tràn ngập khắp các tỉnh miền Trung trước khi ra Bắc. Nhiều tác giả còn tách rời Đông Kinh Nghĩa Thục ra khỏi cơ thể Phong Trào, xem nó như một thực thể độc lập. Nhiều tác giả khác và chính là lãnh tụ Phong Trào cũng xem vụ Dân biến 1908 là một hiện tượng độc lập khác nữa.

Tôi cho rằng Phong Trào Duy Tân bao gồm tất cả các hoạt động ấy, nhưng nó biểu lộ những sắc thái và khả năng khác nhau của từng địa phương và không phải bao giờ cũng đi theo đường thẳng nhất định, nên khi dân trí lên cao lại thiếu lãnh đạo liền bột phát thành Dân biến. Dân biến cúp tóc (Tân Văn hóa), xin xâu (Dân quyền) là một diễn trình tích cực, sôi động của Phong Trào khi đi sâu vào quần chúng thực tế.

Vậy, Phong Trào đi từ các nông hội, học hội ở các tỉnh Miền Trung theo con đường thương mãi rất phát đạt từ Phan Thiết (Công ty Liên Thành) tới Quảng Nam (Hợp Thương Diên Phong) tới Nghệ Tĩnh (Triều Dương), tiếp theo miền Bắc mở Đông Kinh Nghĩa Thục, các hội buôn rồi từ đó phát triển vào Nam là một Phong trào không chỉ nặng về kinh tế, giáo dục, văn hóa mà còn cả chính trị mà kết quả là vụ nhân dân nổi lên chống thuế. Có thể gọi Phong trào là toàn diện, là thực sự Duy Tân theo bóng cờ Dân quyền, chứ không phải chỉ là những vá víu cải lương, hơn như thế, những nhân vật Phong Trào đã phục vụ bằng tâm huyết, bằng tinh thần Cách Mạng để quyết tâm làm Mới Con Người, làm Mới Xã Hội. Từ đầu thế kỷ đến 1945, chưa hề có một Phong trào thứ hai có tính cách toàn diện và phát triển rộng ra khắp ba kỳ như thế.

Quyển sách này được viết trong một hoàn cảnh hết sức thiếu thốn. Nhưng tuy thiếu tài liệu khá nghiêm trọng mà tôi vẫn còn được một cái may mắn khác bù đắp : một số nhân vật trên dưới tám mươi tuổi đã chứng kiến, đã biết, đã hoạt động cho Phong trào, vẫn còn sống. Các vị ấy đã cho tôi những chỉ dẫn cần thiết để tạo lại một vóc dáng của Phong trào và qua đó, tôi được truyền thụ những bài ca, những buổi học tập thể dục, những hình ảnh các chiến sĩ, những hoạt động thương mãi, những cuộc tranh đấu dai dẳng và kiêu hùng của nhân dân…

Nhân dịp quyển sách này ra đời, tôi xin ngỏ lời cảm ơn Ông Cử Lương trọng Hối (mới mất năm nay), Ông Cử Hồ Ngận, Ông Bà Lê Ấm (bà là con gái của Phan châu Trinh), Ông Võ Hoán (một thân sĩ ở Quảng Nam), Ông Nguyễn xương Thái (Nguyên quản lý báo Tiếng Dân). Các vị cao niên này đã thành thực chỉ dẫn cho tôi những điều mà các vị đã biết một cách rất đích xác, theo trí nhớ còn sáng suốt và sự cân nhắc rất bình tĩnh của tuổi già. Ông Nguyễn Q. Thắng, một bạn thanh niên cũng gởi cho nhiều tài liệu đã dày công ghi chép tại Tam Kỳ.

Nhưng có một người mà tôi rất muốn cám ơn, song tiếc là không bao giờ còn có dịp : Ông Huỳnh thúc Kháng. Trong khi theo dõi những tập báo, những tác phẩm (một phần lớn là do nhà Anh Minh, Huế, ấn hành), tôi nhận thấy Ông thực sự là sử gia của Phong trào Duy Tân, sử gia quan trọng bậc nhất mà nếu không có những tài liệu rời rạc của Ông để lại, với sự kiện dồi dào, chính xác, với óc nhận xét sâu xa, niềm tin vững mạnh và diễn tả bằng giọng văn trầm hùng, tôi sẽ không biết dựa vào đâu để sưu tầm, nghiên cứu, phỏng vấn, và như thế quyển sách này chắc không thể nào xuất hiện. Người ta vẫn phục Ông cho là có trí nhớ tuyệt hảo. Tôi cũng nhận thấy lời khen ấy không quá đáng khi duyệt xét các tài liệu và do đó nhiều khi cần phải so sánh một sự kiện, một niên hiệu giữa Ông và Ông Phan châu Trinh, tôi đã tin ở ông hơn, lẽ tất nhiên ngoại trừ những việc mà Phan châu Trinh biết rõ theo cương vị lãnh tụ của phong trào. Cũng dưới ngòi bút trầm hùng của Huỳnh thúc Kháng, các nhân vật lớn của thời kỳ lịch sử này sống lại, linh động khác thường.

Tôi giới thiệu toàn bộ tác phẩm của Ông, kể cả tập báo Tiếng Dân, cho bất kỳ ai muốn nghiên cứu một cách đứng đắn, có thực chất, mọi phương diện chính trị, văn hóa, kinh tế, giáo dục của Phong trào Duy Tân và của Trung Việt nửa đầu thế kỷ 20 (mà nhiều phen ông đóng vai trò quan trọng, ít ra là về phương diện tinh thần) nhưng lại rất thiếu sự quan tâm của học giới ngày nay.

Quyển sách này, ban đầu tôi viết thành ba phần : Tiền Phong Trào, Phong Trào và Hậu Phong Trào. Với cái tên chung Phong : Trào Duy Tân. Nhưng khi viết xong tôi thấy nó dày quá, khó phổ biến, nên quyết định dứt ra làm ba quyển khác nhau. Do đó, phần thứ hai tức Phong Trào Duy Tân 1905-1908 được in trước. Sau này, tôi sẽ cho ấn hành hai tập kia. Toàn thể ba tập ấy sẽ trình bày khái quát công cuộc Duy Tân của Việt Nam :

a) Tiền Phong Trào : từ thời các Chúa đến cuối thế kỷ XIX

b) Phong Trào Duy Tân 1905-1908

c) Hậu Phong Trào 1908-1945

Trong ba phần này, thực sự chỉ có Phong Trào Duy Tân 1905-1908 là quan trọng nhất, xuất hiện như một ánh sáng lồ lộ, phát ra tiếng vang dội khắp núi sông, đẫy quặt lịch sử, chính trị, văn hóa, kinh tế… sang một ngã rẽ sau khi đã góp phần lớn lao Làm Mới con người và xã hội.

Tôi hy vọng bạn đọc khi xem sách này sẽ không cho tôi là có óc lập dị, muốn bày đặt những lối « bứt râu cha nọ cắm cằm mẹ kia » mà thực sự chỉ là theo tính chất, thực chất của dữ kiện mà phân loại, hệ thống và trình bày đúng theo diễn tiến tất yếu của lịch sử một cách khách quan.

Phương pháp tôi dùng không Mới nhưng cũng chưa Cũ. Cũng như Duy Tân đối với chúng ta không mới mà nhất định chưa cũ. Đó là vấn đề của ngày nay, ngày mai. Chúng ta còn phải học người xưa rất nhiều để thực hiện một cuộc Duy Tân vừa toàn bộ, vừa không xa rời Dân tộc tính, Nhân bản tính. Mối lo âu lớn lao của tất cả những nước nhược tiểu là ở điểm căn bản ấy : triệt để theo mới, nhưng phải cơ sở trên tính chất dân tộc, điều kiện địa phương để khỏi vong bản, bị máy móc chi phối, nô lệ tha nhân.

Một công cuộc phục hưng tinh thần Phong trào Duy Tân với cuộc đại vận động Tân Chánh giáo, Tân văn hóa, Tân sinh hoạt thật cần thiết nếu chúng ta muốn sinh tồn và tiến bộ trong một thế giới đang đi tới trên những đôi hia bảy dặm.

NGUYỄN VĂN XUÂN








7
Kỳ nữ họ Tống
(truyện lịch sử, 2002)







8
Khi những lưu dân trở lại
(khảo luận, 1967)




9
Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc
(khảo lục, 1971)

Đây là một khảo lục dựa trên văn bản do ông tìm thấy tại một gia đình hoàng tộc ở Huế. Cuốn sách này đã góp thêm một tư liệu để củng cố thêm giả thuyết của học giả Hoàng Xuân Hãn: dịch giả đích thực của tác phẩm này là Phan Huy Ích chứ không phải là Đoàn Thị Điểm [3].





Nguyễn Văn Xuân-Một người Quảng Nam


(27 bài báo với nhiều thể loại, 2010)

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, thì ông còn có cuốn biên khảo về Vụ án Truyện Kiều, nhưng đáng tiếc là bản thảo đã bị thất lạc[4].






















Nguyễn Văn Xuân,
Từ Bão Rừng Đến Bão Con Voi (Xangsane)







          “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” đó là phong cách lễ nghĩa của tiền nhân. Còn chúng tôi, những người sinh sau, đẻ muộn, ra đời vào thập niên 40, tại hai khu vực Hội An, Đà Nẵng gần như đi quá cái mẫu mực này. Bởi dù không thọ giáo một nửa chữ nào với nhà văn Nguyễn Văn Xuân, chúng tôi cũng hoan hỷ lẫn hãnh diện gọi ông là thầy.

          Nói một thế hệ của hai khu vực điạ lý, dù có phần thật cũng có vẻ hơi quá lố, nên xin được cụ thể hơn: Chúng tôi ở đây là những Hà Nguyên Thạch, Thái Tú Hạp, Lam Hồ, Thành Tôn, Phan Duy Nhân, Hoàng Quy, Huy Giang, Hoàng Lộc, Luân Hoán…

          Danh từ  “thầy” được dùng khá rộng rãi trong nhiều lãnh vực. Do đó trong đời sống, chúng ta đã có các vị : thầy dòng (người tu đạo Thiên chúa), thầy cả (linh mục Thiên chúa giáo), thầy kiện (luật sư), thầy cãi (luật sư), thầy biện (luật sư), thầy cò (chuyên lo môi giới những việc kiện tụng), thầy phán (công chức hạng trung), thầy ký (công chức hạng thấp), thầy khóa (công chức), thầy thông (công chức hạng trung),  thầy pháp ( hành nghề phù thủy), thầy cúng (hành nghề cúng vái thần linh), thầy mo (thầy cúng ở miền thượng du), thầy địa (hành nghề xem đất theo phong thủy),  thầy lang (thầy thuốc đông y), thầy thuốc (hành nghề chữa bệnh), thầy bói (người đoán trước quá khứ tương lai), thầy số (người tự cho có khả năng xem tốt xấu cho người khác), thầy chùa (không phải là sư, chỉ trông coi việc trong chùa), thầy tu  (người tu hành), thầy quyền (lính hoặc cai thời phong kiến), thầy dùi (người chuyên xúi giục những kẻ khác gây sự), thầy đồ (người dạy học chữ Nho) thầy giáo (người làm nghề dạy văn hóa), thầy, u (danh từ gọi cha mẹ của một số người Việt miền Bắc)…và có lẽ còn nhiều loại thầy khác nữa. Lẩm cẩm liệt kê như trên, để thấy cái đa dạng của một chữ “thầy”.

          Cá nhân tôi có ấn tượng tốt với chữ “thầy”. Rất tiếc trong đời mình chỉ có một vài năm ngắn ngủi được gọi là “thầy”, mà cũng không được chính danh, vì đứng trước chữ “thầy”  của đám binh sĩ dành cho tôi còn có một chữ  “ông” để làm nên hai tiếng:  “ông thầy”, ăn cắp danh xưng của dân miền núi dành cho ông ba mươi, đích thị là con cọp, con hổ.

          Danh từ “thầy” chúng tôi dành cho nhà văn Nguyễn Văn Xuân mang đầy đủ ý nghĩa kính trọng, ngưỡng mộ lẫn thương mến. Dĩ nhiên danh xưng này bắt nguồn từ việc ông hành nghề dạy học và rất có uy tín trong ngành giáo dục, nơi trường ốc. Về sau này, dựa vào những công trình ông hoàn tất, giới trí thức gọi ông thêm vài cái “nhà” nữa: nhà nghiên cứu, nhà Quảng Nam Học. 

 

          Nhà văn Nguyễn Văn Xuân ra đời năm 1921, tại làng Tham Chiêm xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình khá giả. Ngoài việc giữ nhà, trông em, ông còn được cho kề cận với đèn sách ngay ở làng quê, trước khi cho ra Huế tiếp tục trau dồi chữ nghĩa. Nhưng con đường học vấn của ông bị dừng lại năm ông lên 16 tuổi. Là một người ham học, nên ông tiếp tục tự học ngay sau khi rời ghế nhà trường.

          Cũng vào thời điểm 17 tuổi này, Nguyễn Văn Xuân khởi đầu đến với nghiệp cầm bút viết văn.  Việc thành bại của sinh hoạt văn hóa trong giai đoạn này,  hầu hết được định đoạt bởi tài năng. Những cơ sở báo chí, điểm tựa cụ thể để phát huy năng lực, lúc bấy giờ rất trong sáng, giàu trình độ và thật nghiêm túc. Tờ báo Bạn Dân ở tận Hà Nội là phần đất đầu tiên giúp cho những truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân phát triển đều đặn. Bên cạnh những bước tiến thuận tiện, Nguyễn Văn Xuân còn được tạp chí Thế Giới tại Hà Nội  đẩy mạnh sau lưng, qua việc chọn truyện ngắn đầu tay “Bóng Tối và Ánh Sáng” của ông để trang trọng trao giải nhất về truyện ngắn.

          Con đường viết văn của Nguyễn Văn Xuân đã khởi bước nhịp nhàng. Ông cộng tác với tạp chí Thế Giới rồi chuyển qua tạp chí Mới tại Sài Gòn. Năm 1940, được mười chín tuổi,  Nguyễn Văn Xuân giữ nhiều mục khác nhau trên tạp chí Văn Lang tại Sài Gòn, bên cạnh những cây bút đã rạng rỡ uy tín như  Hồ Tá Khanh (bác sĩ, giữ chức Chủ Bút), Huỳnh U Mai (Phan Văn Hùm), Jean Tươi, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Hải Vân (nhà biên khảo Thiên Giang sau này, giữ chức Thư ký Tòa soạn), Lê Thọ Xuân,…

          Trong giai đoạn từ 1941 đến 1945, Nguyễn Văn Xuân cộng tác với tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở Hà Nội. Sáng tác chính của ông vẫn là những truyện ngắn, trình bày những sinh hoạt đời thường, cùng giới thiệu, đề cao tâm hồn chất phát, giản dị của lớp quần chúng lam lũ. Thể loại sáng tác của Nguyễn Văn Xuân bỗng nhiên thay đổi trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1954, ông chú trọng và khai thác ngành kịch nghệ, bao gồm thoại kịch và hát bội. Cũng như nhiều thanh niên cùng trang lứa, ông tham gia vào những phong trào do tình hình chính trị của đất nước phát sinh. Ông được giao nhiệm vụ Ủy viên Kịch nghệ thuộc Hội Văn Nghệ Quảng Nam rồi Ủy viên Kịch nghệ của Liên Khu V trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Ông cũng từng giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Cách mạng Cứu quốc xã Thanh Chiêm. Với những nhiệm vụ, công tác trên, cộng thêm 9 năm ở vùng đất “tự do” Tiên Phước, nhưng ông cũng bị cho đi ngồi tù vì tội tiểu tư sản. Năm 1954, mãn hạn trù dập, ông đến Huế hành nghề dạy học cùng lúc làm báo. Ông đã cùng các ông Võ Phiến, Võ Thu Tịnh, Đỗ Tấn Xuân…viết cho báo Mùa Lúa Mới. Khi điều hành tạp chí Văn Nghệ Mới, dưới bút hiệu Việt Hiến, ông chủ trương dân chủ hiện thực, có hơi hám chính trị nên bị bắt nhốt một thời gian tại Thừa Phủ Huế. Ra tù, Nguyễn Văn Xuân trở về Quảng Nam, lập nghiệp tại Đà Nẵng. Năm 1965 ông làm giảng viên chữ Nôm cùng các môn Hát Bộ, Tuồng Cổ tại Đại học Văn khoa Huế. Song song với nghề làm thầy giáo, ông chú tâm nghiên cứu văn học, sáng tác và hoạt động xã hội, chủ yếu là ngành giáo dục.

         Nhà văn Nguyễn Văn Xuân có một đời thường bình dị và khá đầy đủ. Ông có một ngôi nhà khang trang nằm trong một con hẻm, nhưng chỉ cách xa mặt đường phố, mang tên Thái Phiên, chừng 100 mét. Vợ ông là một người đàn bà cao ráo, có nhan sắc tuyệt hảo của một phu nhân. Bà đảm đang công việc gia đình, vừa buôn bán vừa tận tụy chăm sóc chồng con. Sau 1975, gia đình nhà văn Nguyễn Văn Xuân không có điều kiện di tản. Hiện nay ông sống cùng vài người con trong tuổi già và bệnh tật, tại thành phố Đà Nẵng.

 

         Khởi đến với bạn đọc bằng những truyện ngắn như Bóng Tối Và Ánh Sáng (đầu tay), Ngày Giỗ Cha, Ngày Cuối Năm Trên Đảo…(trong giai đoạn 1941-1945) rồi những vở kịch như: Kẻ Xu Thời, Một Chuyện Không Tiện Nói Ra…Nhưng nhà văn Nguyễn Văn Xuân chính thức trình diện những đứa con tinh thần của mình, bằng in ấn thành tác phẩm đàng hoàng, là một công trình có tầm vóc lớn, qua thể loại tiểu thuyết: Bão Rừng.  Tác phẩm này được ra đời năm 1957 do nhà xuất bản Trùng Dương ấn hành, có lời tựa của nhà văn Lưu Nghi..

          Bão Rừng là một tiểu thuyết không có bề dày đáng kể, chỉ chừng 220 trang, chuyên chở  24 chương chứa đựng những cảnh đời của những người lao động, tạp dịch kiếm sống tại một đồn điền do người Pháp làm chủ ngay trên mảnh đất thân yêu của những người nghèo khó, bị trị. Tác giả từng có mặt, sinh hoạt trong cái thế giới bị ngược đãi này. Tuy không có mục đích điểm sách, tôi cũng xin được trích một vài đoạn trong Bão Rừng, để bạn đọc biết qua văn phong của nhà văn Nguyễn Văn Xuân:

          … “Tôi được tiếp xúc ngay với “bà chủ” . Tôi không mấy băn khoăn về công việc sắp nhận. Nhưng về con người bà ta thì tôi rất nghĩ ngợi. Đâu có phải tôi nghĩ bằng những tư tưởng đúng đắn. Tôi đã hiểu thế nào là me Tây, vợ Tây từ thuở lên mười hai, lúc ra Huế; và các xóm loanh quanh vùng tôi tá túc thì con gái sinh ra có số lấy Tây hết tám phần mười cũng như con trai phải làm bồi bếp. Bởi thế, ý nghĩ về bà chủ đã lẫn vị chua cay…

          Vào dạo ấy, “bà chủ” đã trên ba mươi lăm. Trông bà trẻ hơn tuổi, nhưng có một vẻ gì tự cao, sang trọng. Bà ta có đẹp không ? Tôi không hiểu song có điều chắc chắn là bà đẹp hơn tất cả những người đàn bà tôi gặp quanh bà. Và tự nhiên nhìn con người cao lớn, mập mạp, hai má căng ra và đỏ hồng dưới phấn son tươi thắm, tôi bất giác nghĩ: “Đây là một người chỉ đẹp lúc về già”.

          Bà chủ gặp tôi, nhìn tôi với đôi mắt khoan hồng. Qua cái nhìn ấy, tôi hiểu là tôi không đến nỗi bị liệt vào hàng tầm thường. Tuy nhiên tôi vẫn không chịu nổi khi mắt bà đi một lượt từ đầu xuống đến chân tôi. “Mình là con vật gì vậy?” Tôi thầm nghĩ thế.

          Bà hỏi:

         - Thầy năm nay bao nhiêu tuổi ?

          Lần đầu tiên có người gọi tôi bằng thầy, tôi đỏ mặt và có lẽ đỏ đến đầu ngón chân út. Tuy thế, một chút  tự phụ ngớ ngẩn như men rượu, bàng hoàng tâm hồn. Tôi không muốn là nhãi con nên đáp:

         - Tôi mười sáu tuổi.

          Tôi đứng rất thẳng, hơi ưỡn ngực cho đúng dáng điệu một người lớn. Tôi cũng muốn nói tiếp là tuổi mười sáu là tuổi một số văn hào thiên tài đã làm nên một cái gì. Nhưng bà đâu biết sự tự kiêu ngộ nghĩnh ấy. Bà mỉm cười:

           - À

          Tiếng “à” có nhiều nghĩa. Người nghe thấy cái lợi nào cho mình thì cứ nghe. Bà chủ quả từng trải…”

                                                                                                                                 (đầu chương 2)

 

          Một đoạn giữa chương 3:

          … “Đang vui vẻ thì chị vú xềnh xệch bế con bé lai vào. Đứa bé xinh muốn át hẳn những hoa thược dược tây óng ả khoe màu sắc trong sân. Tôi đưa tay ra, nó ngã vào người tôi. Tôi hôn vào má mịn, mịn như tưởng đã biến từ địa hạt vật chất sang tinh thần, và thơm tho, và ngọt lịm. Tôi trầm trồ:

          -Sao nó đẹp thế này !

           Chị vú cười:

         - Đầm lai mà lại;

           Và không đầu không đuôi, chị tiếp:

         - Nó có phải con của thằng cha già dê này đâu.

         - Già dê nào ?

         - Thì thằng chồng mụ chủ chứ già dê nào nữa

         - Thế bà chủ mới lấy ông chủ đây à ?

         - Hừ, lấy nhau từ hồi nảo, hồi nào. Giờ thì thằng con đầu hai mươi tuổi, học bên Tây kìa.

           Anh bồi chêm vào:

         -Thì nói ngay con Rô-dết là con của lão Mẹc - Mẹc xà lù- lão chủ đồn điền gần trên M…ấy mà

         - Vô lý, thế ông chủ không biết hay sao ?

         - Chẳng hiểu rõ. Ai cũng biết hết, biết như đinh đóng. Hôm nào ông Mẹc xuống, thầy so sánh mà coi. Nè, nó giống nhau như  hai cái đĩa bàn Phông-ten-bờ-lô nghe ! Có một điều, một cái cũ quá, một cái mới quá…”

 

          Và một đoạn khác:

          … “ Ngày cuối tháng đối với một dân phu là cả một sự chờ đợi. Một số lớn hy vọng họ sẽ có tiền, dành dụm gởi về cho cha mẹ già, vợ con dại; họ mua thêm thuốc chữa bệnh hoặc tiêu xài. Nhưng một số khác, không đủ trả nợ, bị khấu trừ lung tung, thế mà họ vẫn mong đến cuối tháng như thường. Bởi vì, cho dẫu mắc trăm thứ nợ: nợ chủ, nợ bạn, nợ cờ bạc, họ vẫn hy vọng giật tạm đâu đó ít nhiều. Ở đồn điền, không có giải trí nào ngoài cờ bạc. Họ đánh nhỏ tằn tiện từng đồng để mong được đánh lâu. Nhưng mỗi khi máu cờ bạc nổi lên cao thì ý thức giữ đồng tiền, ý thức cần kiệm bay theo mây gió…”

                                                                                                                               (đầu chương 11)

          Qua những trích dẫn trên, có thể thấy nhà văn Nguyễn Văn Xuân có lối hành văn giản dị, sáng sủa, đặc biệt là cách dùng chữ, vừa chính xác vừa dí dỏm. Những mẩu đối thoại giữa các nhân vật ngắn gọn, hợp lý. Tất cả những ưu điểm kỹ thuật này nhằm làm sống động một cốt truyện từng xảy ra trên đất nước chúng ta. Bão Rừng đã gây được một tiếng vang khá lớn trong văn học Việt Nam ở giai đoạn đầu, chuẩn bị bước vào nền văn học miền Nam Việt Nam thật sinh động về sau.

 

          Tiếp theo chân Bão Rừng, tuyển tập truyện ngắn Dịch Cát, đã đưa tên tuổi Nguyễn Văn Xuân rực rỡ trên làng văn. Đây là một tập truyện ngắn chọn lọc trong vòng 10 năm sáng tác của ông, tính từ 1956 đến 1966. Tác phẩm gồm 9 truyện: Cây Đa Đồn Cũ (27 trang), Buổi Tắm Tất Niên (8 trang), Dịch Cát (8 trang), Một Cuộc Tấn Công (8 trang), Xóm Mới (27 trang), Con “Hiện Sinh” (16 trang), Tiếng Động (27 trang), Chạy Đua Với Tử Thần (37 trang). Mỗi một truyện có sức hấp dẫn riêng, thu hút người đọc bằng những tình tiết bất ngờ, có cả những nét bạo lực lẫn nhân bản.

          Cây Đa Đồn Cũ vào truyện bằng một trận bão lụt “ trời đất câm lặng, nhường tất cả vang động cho dòng nước với những tiếng đất lở ầm ầm, với tiếng mõ, tiếng trống mơ hồ vẳng lên xa xa” để rồi trên mặt nước mênh mông trắng xóa, anh Năm Cụt, một nông dân, mất một cánh tay trong một trận đánh, mà chính anh không tham dự ở phe nào, đóng bè chuối để “xuôi về bến Điện”. Trên đường xuôi dòng, anh Năm Cụt có đủ thong dong, bình thản như một người lạc quan, yêu đời với “cơm nắm, muối mè và một  ít thịt rang gói trong lá chuối khô”. Trong cảnh trời nước mênh mông, một mình một bè, Năm Cụt gặp một người xin quá giang. Anh chấp thuận. Cuộc hải trình với hai người trở nên vui vẻ hơn. Họ nói chuyện, họ bổ túc cho nhau những nhận xét về thiên nhiên, cảnh vật gặp trên sông nước. Năm Cụt và Cát (tên người xin quá giang) cũng bàn về chiến tranh, thù hận, đại khái:

         - “…Cảnh này cũng đáng ghê gớm không khác gì cảnh chiến tranh. Cho nên hết chiến tranh, con người sung sướng thật.

         Cát lắc đầu, xoa mạnh tay trên mái tóc bị gió thổi bạt cả về phía sau:

          - Hết chiến tranh chưa hẳn đã hết chết chóc.  Sao anh quá lạc quan vậy ? Tôi tưởng hết chiến tranh…

          - Thì hết hận thù, thì….

          - Anh lầm rồi. Lúc này mới là lúc rửa hận thù đó. Anh đã biết ba hôm nay, có việc gì không ?.

         Rồi Cát đưa ra những nhận định khá bi quan nhưng cũng có phần xác thực của mình. Câu chuyện cứ thế cho đến khi chiếc bè  được điều khiển đến gần khu vực đồn Xã Bường, nơi có một cây đa, mà Cát từng bị bắt giam tại đó ba tháng trời, suýt bị xử bắn trong nghệ thuật hành quyết thật dã man của người Pháp. “Cây đa bây giờ đã chết khô” nhưng không ai dám chặt bỏ vì sợ những oan hồn. Rồi những gì sẽ đến đã xảy ra trước sự chứng kiến của anh Năm Cụt.

          Một trong hai bao bố hành lý của Cát đựng một con người, tên Hương Chính, cựu thù của Cát. Hương Chính là người xã Trường Ca, từng tìm đến đồn Xã Bường chịu đựng nhiều nhục nhã để mua một chân Lý hương. Với chức sắc nhỏ nhoi này Hương Chính đã hãm hại nhiều người, trong đó có việc giết hại em Cát, đồng thời làm cho thân phụ Cát phải qua đời trong sợ hãi. Riêng phần Cát, Hương Chính về hùa với quan thầy Pháp, bắt Cát phải chịu nhiều cực hình, cụ thể như “đứng suốt ngày đêm trong một cái chuồng chật ních đầy cả phân người, bốn bề kín mít như bưng”, ba lần khủng bố tinh thần bằng cách bắt leo lên cây đa, vị trí dành để tử hình, nhưng cả ba lần đều gọi trở xuống. Bắt quì lạy trước thân thể trần truồng của một con đĩ , vốn đã từng ở đợ cho nhà Cát…Cảnh trả thù của Cát cũng vô cùng tàn bạo. Hắn bỏ lơ những lời can ngăn của Năm Cụt cùng những lời van xin, hối lỗi của Hương Chính. Nhưng cuối cùng, trong một tình huống bất ngờ đã xảy ra trước sự chứng kiến của anh Năm Cụt:

          “Cát đã đứng giạng hai chân đầy tự tin ở mép bè. Một tay anh nắm tóc, một tay nắm chặt vào nách Hương Chính. Hương Chính ngồi chồm hổm trên hai bắp vế chắc nịch, câm lặng đợi chờ. Hít một tiếng mạnh, Cát vung tay ném Hương Chính ra giữa dòng nước chảy. Nhưng đáng lẽ chỉ có một tiếng kêu từ giã cõi đời thì cả hai người cùng kêu lên và cả hai cái xác cùng bay vụt ra: Cát trước, kéo Hương Chính theo sau.

          Thì ra trong phút cuối cùng, Hương Chính đã nhảy chồm trên hai chân theo đà tay vung của Cát, phóng hết sức mạnh của đầu vào ngực Cát làm Cát tung bắn đi”.

          ….

                                                                                                               ( Nguyễn Văn Xuân, 1959)


          Truyện đầu sách như vậy, truyện cuối sách, Chạy Đua Với Tử Thần, có phần hấp dẫn hơn: truyện viết về những người tử tù, nhưng không biết rõ mình đã phạm những tội gì. Có chăng là tội làm người Việt Nam không theo Pháp và tự trọng không biết hô “Vive la France”. Nhân vật chính của truyện là một thanh niên mang tên Liễn.  Anh bị giam trong một nhà tù có hai phòng, cạnh dòng sông Cẩm Lệ xứ Quảng Nam, nổi tiếng với đặc sản thuốc lá. Những bạn tù ở chung với Liễn, được anh mô tả tỉ mỉ về hình dạng cũng như tính tình. Trong số này chúng ta thấy một ông già “miệng móm dù chưa gãy hết răng”, tinh thần sa sút trầm trọng, luôn luôn sợ hãi với chính những bạn tù. Người kế tiếp là một thanh niên cường tráng, lầm lì nhưng suốt ngày có cái thú vun xới cho một hột mít, lượm được đâu đó, nẩy mầm trong lòng đất.  Một người khác ở lứa tuổi ba mươi, bội thu về râu tóc, nên có tục danh Râu Xồm, luôn luôn mang trên vai một túi xách của Tây vứt bỏ. Một người khác nữa, thường trực trong màu áo đà (nâu) và nói năng luôn miệng, có tục danh Áo Đà. Bên cạnh họ còn có một người chừng 25 tuổi, miệng không rời được thuốc lá và một người to con, có dáng là thợ máy, nên được gọi bằng tên Ra-vẻ-thợ-máy. Ở phòng bên cạnh của Liễn cũng có chừng 5, 6 người. Tất cả bọn họ bị giam cầm  trong một không gian chật chội, nóng bức. “ Không có gió. Mãi không có gió. Những lá trên ngọn cao nhất của cây bàng không lất phất đã đành vì lá bàng dày và nặng, chứ mỏng và nhẹ như những lá so đũa, lá thầu đâu sao cũng không lay động. Cái nóng hừng hực từ trên mái ngói xuống, từ thềm gạch lên, từ bốn bức tường hẹp tỏa ra sau khi nắng hè rực rỡ thắm suốt ngày, đốt cháy những tế bào của đất sét nung…” Nhưng dù sao họ còn giữ được ít nhiều hóm hỉnh để trôi qua ngày. Họ còn biết thèm xác thịt, khi nhìn qua khe hở những cô gái giang hồ từ Đà Nẵng lên hú hí với bọn cai ngục người Pháp. Họ còn đôi phút chợt tưởng tượng ra hình ảnh người con gái mặc quần mỏng trước gió. “ Liễn nhớ một người bạn lớn từng nói ‘ không hiểu y phục  nào khiêu dâm hơn cái quần Việt Nam. Đầm thế mà nó chỉ bày ra từ cái vế xuống, mình không nhìn thủng qua váy được. Chớ đến cái quần Việt Nam thì…’ ” Niềm vui khiêm nhường trên của họ chợt khựng lại trong một ngày viên quản ngục nói qua tên thông ngôn, sẽ tổ chức một cuộc thi chạy. Tên nào nhanh chân vượt qua lằn vôi ở nửa cầu bên kia sẽ sống sót, tên nào chậm chân sẽ bị bắn bỏ.  Đây là một cuộc chơi phát xuất từ tinh thần yêu thể thao của một binh sĩ Pháp trong những năm tháng viễn chinh. Cuộc thi cũng là một cuộc hành quyết hợp pháp của giới thống trị. Một không khí lo buồn bao trùm xuống đầu những người sẽ phải cố gắng vượt qua số phận bằng chính những sải chân yếu đuối, mất sức của mình. Ông già miệng móm đã phóng uế ra cả nơi đang nằm. Râu Xồm đã phải bẻ chiếc răng vàng trong miệng mình, nhờ người gác tù bán đi, mua cho một ít thức ăn để chia tay với cuộc sống…Riêng Liễn, là người có nhiều suy tư nên đã phải chịu nhiều thao thức, lo nghĩ nhất. Một trong những ao ước của anh là bỗng chốc được như Giàng, một tay chạy đua nổi tiếng của Đà Nẵng. Trong những ngày còn lại ít ỏi, Liễn cũng thèm những món ăn, nhớ nhung cả cái eo thon của cô Thoa, người anh yêu. Và trong ý chí sinh tồn, Liễn hối hả tập thể dục nhưng không quên cái chết trước mặt. Một cái chết mà anh đã có lần cho rằng: “…có lẽ sự chết gây cái khoái cảm đặc biệt nhất cũng nên”

          Ngày cuối cùng của định mệnh cũng đã đến. Quang cảnh của cuộc đua kỳ dị nhất đời này cũng có đồng bào đến xem đông đảo, dù “họ đứng xa xa, trong các ngõ, dưới gốc cây” Trong số họ không thiếu những bà mẹ của tù nhân. Tâm trạng mỗi tay đua bất đắc dĩ, được nhà văn Nguyễn Văn Xuân diễn đạt rất khéo, ẩm ướt những lời chia tay, vĩnh biệt chớp nhoáng bên đường.

         - A vos marques

         - Prêt !

          ……

         - Partez !

         …..Hình như Áo Đà bị vấp ngã trên cái thân xác bị bắn làm ngã cản đường. Ba bước, Liễn đã đuổi kịp rồi thấy hai vệt đen thẫm của đối thủ bỏ lại. Như thế chỉ còn Liễn và Ra-vẻ-thợ-máy. Tiếng thở của Liễn đã loạn nhưng hơi thở khịt khịt của đối phương rất đều, Tiếng súng thanh toán đoàn người không ngớt. Liễn phóng lên. Liễn cầu sự sống. Sự sống bày ra đằng kia, nơi mức cán trắng toát. Một đường hay ba đường trắng toát ? Ngưòi lính Tây giơ cao lá cờ với một tiếng cười chờ đợi hồn nhiên. Lá cờ phất phất vẫy gọi. Nó gọi mình. Liễn phóng tới….

          Lão quản bắn cả hai tay. Lão bắn không trật. Cái chết sắp ghim vào đúng phía sau lưng, nơi trái tim Liễn. Mình phải sống ! Phải sống ! Thốt nhiên, Liễn nghe chính nơi miệng Ra-vẻ-thợ-máy kêu lên:

          - Tôi là vô địch Giàng. Nhảy xuống sông bơi đi ! Tôi bứt !

          Mức chỉ còn vài mươi bước. Hắn bứt, vút một cái lao về phía trước. Liễn rụng rời tưởng tiếng đạn sắp nổ từ trong trái tim mình. Không kịp nghĩ ngợi, Liễn đảo qua một bên rồi nhảy phóc qua lan can. Liễn thấy rõ trời xanh trôi dưới dòng nước sâu, chảy mạnh. Liễn nghe có tiếng véo của viên đạn qua đầu. Liễn còn kịp nghĩ: “ Lần này quả nhiên hắn bắn trật”. Rồi tất cả trời nước lộn nhào cùng với Liễn trên dòng Cẩm Lệ”

                                                                                                                 (Nguyễn Văn Xuân, 1966)

 

          Mục đích chính của nhà văn Nguyễn Văn Xuân khi viết Dịch Cát, có lẽ để là làm sáng lên những mẩu đời thường của con dân đất Quảng Nam.  Trong đó sự nghèo đói, bệnh tật cùng những khốn khổ, nhục nhằn đến từ thiên tai, từ giới chức chính quyền, được ông vẽ ra một cách trung trực, không cường điệu. Những nhân vật như Lão Cửu, bà Cửu, Ông Tham Ích (trong truyện Buổi Tắm Tất Niên), Trùm Lựu, thầy Tú, chị Sinh, đám dân chài (trong truyện Dịch Cát), anh Tú, bà Qui, bà Duật, bà Phiến, bà Lựu, con Thân, con Liễu, Ông Phiến, ông Hương Là…(trong Xóm Mới) cùng nhiều nhân vật khác hiện diện trong các truyện Một Cuộc Tấn Công, Con “Hiện Sinh”, Tiếng Đồng,  đều là những nhân vật hư cấu nhưng đại diện một cách trung trực cho những mẫu người sống thực ngoài xã hội đương thời. Cái mê thuốc phiện, thuốc bách-tô của lão Cửu, cái mê tiền của ông Hương Là cùng cái mê gái của một ông lão trong Xóm Mới là những chuyện bình thường. Những cảnh đời được dựng lên với đầy đủ những dáng vẻ hiện thực của một cuộc sống nông thôn còn vô cùng lạc hậu. Đến với tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân là thở hít với từng nhân vật linh hoạt của ông, dù trong bất cứ vai nào. Đọc văn ông để gần gũi, thương xót những con người chưa hề xa lạ với chúng ta. Nguyễn Văn Xuân có nét vẽ nhân dạng rất sắc nét. Hãy ngắm để biết một viên quản cơ, thời Pháp thuộc:

          … “ Mặt hắn đỏ gay có lẽ vì nắng mà cũng có lẽ vì rượu mạnh. Cái mũi diều hâu bao giờ cũng như bay tới trước; hai con mắt sâu hoắm như hai cánh bướm xanh, luôn luôn nhìn ai là muốn nuốt sống ăn tươi. Cặp môi dày dưới bộ ria ghi đông. Cái trán cao, nổi những cục thịt dưới làn tóc vàng nhạt. Tất cả chừng ấy thứ dựng đứng trên cái cổ quá cao, trái khế lòi ra một cục xương dư…”


(Nguyễn Văn Xuân, Chạy Đua Cùng Tử Thần)

 

          Vẽ ra tâm trạng, Nguyễn Văn Xuân cũng rất giàu hoa tay. Dưới đây là một phụ nữ (bà Thái Phiên) trước sự ra đi về cõi chết của chồng:

          … “ Nàng ngủ hay thức ? Đôi mắt nàng vẫn mở trân trân thì đúng là nàng thức, nhưng cái vẻ bất động tuyệt đối kia lại chính là trạng thái của người đang ngủ. Mắt nàng ráo khô mà đỏ khé cứ giương vào trong khoảng không…

          Thốt nhiên vai nàng nấc lên, nấc lên nhanh quá rồi một tiếng rít rùng rợn phát ra từ đôi hàm răng nghiến chặt của nàng. Sự thay đổi thái độ bất ngờ làm nàng trở nên hung dữ và tuyệt vọng. Bất thình lình, nàng đấm một tay xuống rồi đấm luôn cả trán nàng trên mặt bàn gõ. Khay trà, ấm chén bị dội mạnh tung kêu loảng xoảng. Chiếc nắp ấm rơi xuống bể tan

          …

-  Này con

          Ông dịu dàng gọi. Thiếu phụ vẫn triền miên trong những cơn đau vũ bão vò xé tâm can nàng. Ông sẽ lay vai nàng. Thiếu phụ khẽ ngửng lên. Nàng nhìn cha lờ đờ, đôi mắt hết sức xa xăm. Nàng không định khóc, nhưng một tràng thổn thức xé ngực nàng trào ra:

-  Cha ! Chồng con đâu rồi ? Anh Phiên đâu rồi…”

                                                                       (Nguyễn Văn Xuân, Rồi Máu Lên Hương)

 

          Năm 1969, một tập truyện ký có tên Hương Máu, được nhà văn Nguyễn Văn Xuân cho in tiếp sau Dịch Cát. Tập truyện  gồm có bảy truyện: Hương Máu (37 trang), Viên Đội Hầu (15 trang), Thằng Thu (13 trang), Về Làng (5 trang), Cái Giỏ ((25 trang), Chiếc Cáng Điều (8 trang), Rồi Máu Lên Hương (16 trang).  Đây là một tập truyện viết về những cái chết. Sự từ giã cõi đời của mọi người dưới mắt nhà văn đều có những nét cần nên ghi lại. Quan niệm rộng rãi như vậy nên qua Hương Máu chúng ta sẽ gặp những cảnh chết đầy bi tráng của một số anh hùng của đất “Ngũ Phụng Tề Phi”, bên cạnh những cái chết của những người đối nghịch cũng được mô tả, dựng lại một cách nghiêm túc. Hương Máu là một tập truyện có giá trị nghệ thuật vừa chứa đựng một số tình tiết lịch sử trong giai đoạn người Pháp mở đầu cuộc xung đột với các vua nhà Nguyễn, trước khi áp đặt chế độ cai trị trên toàn cõi Việt Nam. Đây không phải là những mẩu chuyện thuộc loại dã sử. Mở đầu cuốn sách, nhà văn có bày tỏ những lời “Trước khi vào truyện”, 





xin trích đầy đủ:

 

“ Những chuyện chết tôi trình bày ở đây chỉ là mấy cái chết khiêm tốn của những con người ở miền xương xẩu của đất nước Việt Nam. Tôi chọn nhân vật của tỉnh Quảng Nam (nay chia thêm Quảng Tín) này không phải do óc tự hào địa phương, cái địa phương vốn là một trong những nguồn cung cấp những con người ưu tú để hiến dâng đất nước và niềm hứng khởi lớn lao cho bản hùng ca của tranh đấu sử. Tôi chọn nó chỉ vì những tình cảm tự nhiên qua những ngày lang thang trong xóm làng hay trôi theo dòng tản cư vĩ đại…Tôi đã nghe biết bao lần và biết bao người kể về cái chết của các anh hùng, liệt nữ, cũng như của bọn đầu trộm đuôi cướp; có những cái chết đáng lưu lại mà cũng có những cái chết đáng được quên đi. Nhưng tất cả các cái chết ấy đã kích thích óc tò mò bắt tôi suy nghĩ và tôi cho đều đáng ghi lại một nét ý chí, một sắc thái địa phương và hiển nhiên cũng là của dân tộc. Nói khác đi, đây không có con mắt đạo đức, sử học hay giáo dục. Đây chỉ là một lối nhìn của một đứa trẻ con quá lớn trong tâm hồn tôi: đứa trẻ ấy vừa thực tế, vừa mơ mộng lại hiếu kỳ mà nghệ sĩ. Đứa trẻ ấy với tâm hồn còn ngân vang tình cảm thuở ban đầu, không muốn dùng sự xác thật để sửa chữa những điều tai nghe mắt thấy. Và nó chỉ muốn vẽ lại trung thành cái nhìn lịch sử bằng con mắt của dân chúng, của những diễn viên hoặc khán giả của chính lịch sử  ấy, mà tự họ đã để thực tế, sự kiện lùi dần nhường chỗ cho huyền thoại lan ra.

          Tôi không muốn kể lại chuyện ông Hoàng Diệu trước khi chết phải làm cái gì khác hơn là đá mâm cháo gà và ném gươm toan giết viên đội hầu trung thành. Tôi không muốn kể lại ông Nguyễn Hiệu  không bạo liệt như thế. Tôi không muốn thấy bà vợ Thái Phiên quấn máu hồng trong tóc và chết kinh khủng như thế. Tôi không muốn tả lại cái thời Pháp thuộc mà tử tội về làm lễ ở dinh Chúa và thong dong đi qua đám dân làng bái vọng…Tôi không muốn nhiều chuyện lắm. Ví hoặc nó quá đúng một cách thô thiển, hoặc nó quá sai vì giàu tưởng tượng và nhất là nó không mấy vinh dự  cho các danh nhân được nhiều ngưỡng mộ. Nhưng chính các bô lão khi kể cho tôi nghe thì họ kể một cách hăng hái nhiệt thành  cho đến độ tôi tưởng nếu không phải như thế mới là không thật không hùng mà tôi đã nghe, đã yêu, đã gìn giữ trong tân khảm qua nhiều năm tháng. Qua nhiều năm tháng, tôi tưởng như tiếng bà bác tôi còn văng vẳng: “Ổng đã hất mâm cháo gà rồi đi tuốt ra Võ Miếu, viên đội hầu liền chạy theo…” hay một cụ hai mắt đã mờ, chỉ nhìn rõ vào nội tâm hơn ngoại giới, nói bằng giọng nhợt nhạt: “ Chúng tôi đưa ổng qua chùa, qua dinh để bái lạy. Bà con trong làng đã đặt bàn, thắp hương…” , hay một cụ khác, gầy guộc,loắt choắt hình như đã từng cộng sự với Thái Phiên và đã có thái độ vừa kinh tởm vì mùi hôi tanh vọng qua thời gian, vừa xót xa thương tiếc người bạc mệnh…

          Những nhân vật lịch sử này cũng phát xuất từ  làng tôi hoặc ở các làng chung quanh, có người ở sát nách, có người năm mười cây số, thành thử chuyện của họ thường hoà bát nước chè đậm Tiên Phước, tô mì Phú Chiêm hay buổi cày bừa, lúc hò khoan hát hố… Do đó, mỗi khi suy tư về họ, tôi mường tượng thấy cả dòng nước xanh của nhánh sông Thu Bồn êm ái chảy qua đầu làng Thanh Chiêm nghèo nàn tuy lúa, rau xanh nghin nghít, nơi đã từng mọc lên một cách hiên ngang những thành quách vững chãi của các chúa Nguyễn trên đường mở sinh lộ ở phương nam.

          Tôi mong sẽ có nhiều cơ hội biết và giai hòa tình cảm tôi với nhiều địa phương khác để viết vì nơi nào chẳng là Đất Mẹ, đáng cho ta mến yêu và khai thác. Tôi cũng hy vọng sẽ viết được nhiều những đề tài khác, tuy tôi vẫn tin chắc chuyện chết không bao giờ hết là nguồn cảm hứng cao cả, sâu xa. Vì chết cho biết chết sẽ chỉ dành cho những ai sống một đời đáng sống. Mà tất cả chúng ta ai ai và bao giờ  cũng sống đời đáng sống hay không”

                                                                                                                          (Nguyễn Văn Xuân)


         Những tủ sách gia đình của người Việt tại hải ngoại hiện nay có lẽ không có nhiều tác phẩm Hương Máu, nên tôi xin được trích thêm một đoạn dài (gồm 6 trang trong 37 trang)  phần diễn tả một cảnh chết bi hùng, với mong muốn được mời bạn đọc cùng thưởng ngoạn:

          … “ Giữa lúc ấy, một buổi sáng, tôi bỗng ngạc nhiên nhận thấy trước gian nhà dùng làm Ty của ông Phan được đóng cọc, dựng lều. Người ta đem hương án kê về phía Bắc, trên hương án có bộ ngũ sự bằng đồng sáng bóng, có hoa tươi trong độc bình. Trước án trải mấy dãy chiếu hoa cạp điều còn mới. Trên các cây cột có treo  sẵn đèn đuốc. Tôi nhớ lại từ mấy đêm nay, ông Phan không ngủ, mải dọn dẹp giấy tờ trong văn phòng cùng ông Hường  rồi đem đốt trong một cái chậu kiểng. Chúng tôi cũng được tự do đi chơi, không phải làm việc gì mà cũng không cần có mặt ở Ty. Ông có vẻ trầm tĩnh như thường ngày nhưng không dấu được vẻ buồn chợt thoáng qua trong cái nhìn khoan dung. Tôi chỉ là một viên chức quá nhỏ nên không thể biết được những việc quan trọng nên việc gì cũng nhờ ông Bốn, giữ chức Chủ sự cùng ở chung nhà cho biết. Nhưng lần này, tôi cố gắng hỏi nhiều lần mà ông Bốn đều đánh trống lảng cả. Ông cũng bận tíu tít, chỉ gặp tôi  trong bữa ăn rồi quày quả trở lại Ty ngay. Tôi nhận thấy trong ngày ấy có nhiều quan chức địa phương cũng có mặt và buổi chiều sang họp kín ở nhà ông Hường. Ai nấy đều có vẻ nghiêm trọng và đăm chiêu. Quân lính cũng lần lượt về mấy đội, mặc quân phục. Buổi tối, đèn đuốc thắp sáng tưởng như đây là ngày lễ Hưng quốc. Lát sau, một đội lính có bịt khăn chế, cầm đuốc tre, tiến sang đứng hai bên để soi đường cho đám người từ nhà ông Hường dẫn sang. Ông Bốn phát cho chúng tôi mỗi người một chiếc khăn trắng bảo đội lên đầu và chia nhau đứng cùng với các thân hào trong vùng. Lát sau, đám người ấy tiến tới do ông Hường và ông Phan dẫn đầu. Mỗi ông đều mặc đại trào , có ủng, có đai, bào nhung nhưng bịt khăn trắng và ngoài áo gấm lại có áo khoác, áo chế. Các quan đi sau cùng đều mang khăn tang cả. Tôi thầm đoán là vua Hàm Nghi chết. Bệnh tật hay bị giết ? Tôi thương hại ông vua mà tôi phụng sự song chưa biết mặt, lòng hết sức bùi ngùi. Ở lều trại, lễ sinh cũng bận trào phục, có chiêng trống nhưng không có nhã nhạc, mời các quan tuần tự đứng theo phẩm trật mình. Ông Hường ở chiếu giữa, ông Phan ở chiếu bên hữu cùng các quan văn. Chiếu bên tả dành cho các võ quan. Tôi đứng vào hàng sau cùng trước các thân hào. Lính tráng cầm đuốc bọc quanh gian lều. Dân chúng nhiều người tò mò đến xem, ban đầu đứng ngoài xa, sau tiến lần vào gần. Đại lễ bắt đầu. Chuông trống nổi lên. Lễ sinh đọc các câu nghi thức thường lệ.  Hôm nay có điều đặc biệt không bao giờ xảy ra là ông Hường lạy xong trước hương án thì đứng sang một bên, nhường chỗ cho ông Phan. Ông Phan đến lạy năm lạy rồi quỳ xuống cùng ông Hường song song chắp tay lên trán khấn vái. Các quan cũng đều quỳ sẵn và cùng khấn vái như thế cả.

          Khi lễ xong, ông Hường ra hiệu cho tất cả mọi người lại gần. Tất cả chúng tôi đều tiến lần lên, ban đầu còn hơi xa, rồi càng lúc càng nhích tới gần. Ông Hường không dùng cái giọng đanh thép ra lệnh hàng ngày mà dùng một thứ giọng rất trầm buồn song vẫn đầy cương nghị. Ông ngỏ lời trước với các quan lại, tướng sĩ, sau với thuộc hạ, quân lính. Đại ý, ông cho biết một quyết định hết sức lạ lùng, một quyết định thật bất ngờ ở ngoài tất cả dự đoán non nớt của tôi, và ba mươi năm sau, bốn mươi năm sau, mỗi lần nhớ đến, tôi vẫn còn bỡ ngỡ tưởng mình đang chiêm bao. Ông cho biết là từ thất bại này sang thất bại khác, đại cuộc đã hỏng, không hy vọng nào kéo dài thêm nữa. Vì càng kéo dài thì chỉ càng hao người, tốn của, không còn lối thoát nào ngoài sự tiêu diệt đến con người cuối cùng. Vậy cần bảo toàn sinh lực, ý chí của Hội để chờ thời cơ thuận lợi sẽ hoạt động trở lại. Cuộc đấu tranh trường kỳ để thâu hồi độc lập không cốt ở một đôi nơi, một đôi lúc mà cốt ở bất kỳ nơi nào, lúc nào ‘ trong vĩnh cửu, bằng vĩnh kiếp thực hiện theo một cách vĩnh đồ’ . Vậy mỗi hội viên, quan lại, mỗi chức việc, quân binh phải tư nhiệm cái trách vụ đi tìm những người đồng tư tưởng, đồng chí khí kết giao với họ để hưng lại cái nghiệp cứu quốc gia ta bị lỡ dở, học thêm cái phương pháp mới, rèn luyện khí cụ mới để công cuộc chiến đấu có hiệu quả chắc chắn hơn trong thời buổi khoa học mới mẻ này. Ngày nay, để giữ bí mật cho sự hoạt động của các đảng nhân, để khỏi mảy may tiết lộ các chân tướng của những người cộng sự với Hội ta thì người thủ xướng tức là Phan đại nhân và tôi sẽ chịu chết. Phan đại nhân là người giữ tất cả giấy tờ giao thiệp với đảng nhân ba tỉnh, là cái hồn của công cuộc tổ chức Nghĩa Hội ở ba tỉnh, sẽ đốt hết giấy tờ quan hệ tại đây và cùng chết ngay tại đây, để cho ai nấy tin chắc là mọi sự bí mật của Hội, mọi hoạt động của hội chỉ có trời đất biết. Dẫu ai có muốn tố cáo, muốn phanh phui gì cũng không có bằng chứng nào để vin vào mà di hại đảng nhân của ta nữa. Còn tôi, tôi sẽ đi chết ở một nơi khác. Ở nơi khác đó, tôi sẽ tự nhận tất cả tội đã bắt buộc mọi người phải qui phục và như thế không quyền lực nào còn vin vào đâu để sát hại, bắt bớ đảng nhân ta nữa. Như thế linh hồn của Hội ta còn, mà hễ ‘tồn ngô đảng, tha nhật hữu thành ngô chí giả, ngô sanh giả’

          Ông nói xong, quay về phía ông Phan. Ông Phan cũng tiếp lời căn dặn chúng tôi phải tận trung với nước, với vua, nhưng cũng phải rút bài học tranh đấu của Nghĩa Hội, phải nhớ câu: ‘nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân’ để theo kịp thời đại mà chiến đấu cho hiệu quả. Ông quay sang ông Hường, lạy ông hai lạy và ông Hường lạy lại bốn lạy. Các quan cũng lạy ông, ông cũng đáp lạy lại. Tất cả mọi người đều quỳ lạy và chờ đợi trong một sự yên lặng tưởng nghe được rõ tiếng sột soạt của xấp giấy ông rút ra từ ngực. Đó là danh sách hội viên Nghĩa Hội. Ông đưa lên ngọn lửa, cầm chúc xuống cho cháy đều rồi đặt vào trong một cái bát cổ rất lớn.

          Tiếp theo, ông rút ra một chiếc xếp da bọc nhỏ. Từ xếp da, ông lấy ra một cái gói bọc bằng giấy hồng đơn đã cũ mèm, đường xếp gần rách mà hình như ông mang theo từ lâu lắm, có lẽ từ thời quyết định đứng lên theo hịch Cần Vương. Ông thong thả mở gói, đổ chất thuốc đen vào một chén nước lạnh đã đặt sẵn trên cái án thư kê trước mặt rồi lấy ngón tay khuấy cho tan đều. Khi cả chén nước đều đen ngầu, ông sửa lại khăn áo, bưng lên trên hai tay đầy vẻ kính cẩn rồi quỳ xuống mà nói:

          -Kẻ chịu mệnh Hoàng Thượng mà không làm tròn mệnh, xin chỉ lấy cái chết để tạ Hoàng Thượng.

          Và ông quay đầu lại ông Hường, ông nói một câu giản dị:

          -Ông hãy gắng sức, tôi xin đi trước

          Ông quay một vòng:

          -Xin giã biệt các quan và bà con.

          Ông đưa chén thuốc lên môi, thong thả nuốt từng ngụm một. Uống xong, ông đặt chén ung dung nâng cái hốt ngà lên, đầu cúi xuống cho được trang nghiêm. Tất cả mọi người đều đã quỳ xuống. Nhiều người không ngăn được mối xúc động mãnh liệt, phải nhét vạt áo vào họng sợ e cất lên tiếng khóc sẽ làm giảm mất không khí thiêng liêng…

          ….

          Lát sau, khi những cái rùng mình mạnh làm ông lảo đảo thì ông Hường đỡ ông cho ngay ngắn rồi các quan đều lạy. Một tiếng nấc phía trước tôi, một tiếng nấc ở phía sau. Tiếng khóc nổi lên đồng loạt. Một người còn trẻ mà tôi nhớ chính là ông Nguyễn Thành, thét lên trong cơn xúc động dồn dập:

          “Phan đại nhân ! Tôi nguyện sẽ giết hết, giết hết chúng nó để trả thù cho ông !...”

 

          Nhà văn Nguyễn Văn Xuân không những thành công trong các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, ông còn rất xuất sắc trong lãnh vực biên khảo. Năm 1967 ông cho ấn hành cuốn Khi Những Lưu Dân Trở Lại. Trong tác phẩm có cái tên rất tiểu thuyết này, tác giả không ngần ngại bày tỏ: đã có một thời ông “không cần biết văn chương miền Nam là gì” và “cứ đinh ninh là nó sẽ chẳng đi đến đâu cả”. Nó ở đây, theo ông là những truyện Tàu được dịch sang Việt ngữ  của Tín Đức Thư Xã, những tập văn vần Phạm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn…thậm chí đến những bộ tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Dưới mắt ông, miền Nam có hai loại: bình dân và trí thức. Bình dân thì “quê mùa, hủ lậu” chỉ biết tới những Tuyết Hồng Lệ Sử, Vợ Tôi, Vợ Lẽ Yêu Của Tôi vv…Còn trí thức, đa số  là những người “retour de France” chỉ viết bằng Pháp ngữ, tối tăm và khó hiểu, dù miền Nam đầy dẫy những bác phu xe ngồi dựa ngửa đọc báo ở bên vệ đường, khác hẳn với miền Bắc, miền Trung.

           Nhưng sau khi vượt qua cái tuổi ba mươi, Nguyễn Văn Xuân có cái nhìn rộng rãi và xác thực hơn, ông có tham vọng định lại giá trị văn hóa miền Nam, bắt đầu bằng sự khẳng định báo chí miền Nam phong phú, đa dạng  và “hiện đại hóa” nhất nước, cụ thể như Phụ Nữ Tân Văn. Ông cũng nêu lên danh tính một số cây bút miền Nam đi tiên phong trong bộ môn tiểu thuyết của cả nước như Trần Chánh Chiếu, Lý Hoằng Mưu, Tân Dân…Ông còn đi xa hơn trong việc đánh giá những dịch giả, khi nêu lên thắc mắc: “..tại sao nhắc đến Nguyễn Văn Vĩnh mà không nhắc đến những dịch giả truyện Tàu đầu tiên, những người đã có công dẫn khởi cho nền văn nghệ miền Nam buổi ban đầu ?”

          Tin tưởng nền văn học sẽ phát triển không ngừng, trong nhịp tiến của chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, Nguyễn Văn Xuân bắt tay vào việc nhận định vóc dáng đã và đang có của nền văn học nghệ thuật miền Nam tự do. Ông đi từ những đề mục:

          1/ Văn nghệ miền Bắc di chuyển vào Nam và tại sao văn học miền Nam căn bản là nói và trình diễn. 35 trang dành triển khai đề mục này.

          2/ Đi về miền Nam (18 trang)

          3/ Hiện tượng Lục Vân Tiên (11 trang)

          4/ Các làn sóng mới (27 trang)

          5/ Một Thời Mới (20 trang)

          Ở mỗi đề mục, Nguyễn Văn Xuân nhận định và phân tích rất cẩn thận, tinh tế.

          Nếu đi sâu vào những gì ông nhà văn kiêm học giả này trình bày, chắc sẽ không thích hợp với một bài viết vốn chỉ có mục đích ghi lại những kỷ niệm mà tôi đã may mắn có được với tác giả Bão Rừng.

 

          Một tập biên khảo thứ hai không kém phần quan trọng và rất cần thiết cho nền văn hóa Việt Nam, do Nguyễn Văn Xuân viết là tập Phong Trào Duy Tân, ấn hành năm 1969. Tác phẩm này đã được giới trí thức trước và sau 1975, đánh giá là một “công trình sử học” công phu và đồ sộ nhất trong việc tìm hiểu, giới thiệu những người làm cách mạng chống Pháp đầu thế kỷ XX tại Việt Nam, mà đất Quảng Nam vốn được xem là cái nôi. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân được sinh ra, lớn lên trên chính con đất “địa linh nhận kiệt” này, nên những nghiên cứu của ông có giá trị chính xác cao và chắc chắn ít thiếu sót. Bố cục của tác phẩm như sau:


          Phần I:

          Nguyễn Lộ Trạch và thiên hạ đại thế luận.

          Phan Châu Trinh (1872-1926): Cuộc đời, tư tưởng và hoạt động.

          Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu (1867-1940).


          Phần II

          Căn cứ địa của phong trào Duy Tân.

          Phát động phong trào.

          Nam du.

          Khi Phan Châu Trinh xuất ngoại trở về.


          Phần III:

          Từ lý thuyết tới thực hành.

          Hợp thương và “quốc thương”.

          Nông hội đầu tiên.

          Học không thi ? Học để biết ?

          Một anh hùng thảo dã: Lê Cơ.

          Các hiện tượng khác của phong trào.

          Nghệ Tĩnh, lãnh tụ phong trào Duy Tân bị bắt trước nhất.

          Đông Kinh Nghĩa Thục hay phong trào Duy Tân miền Bắc.


          Phần IV:

          Những cuộc biểu tình vĩ đại-1908.

          Diễn tiến: dân làm chủ tình hình.

          Khủng bố trắng.

          Cái quan luận định.

 

          Sách biên khảo, nhất là chuyên đề về sử học, theo tôi, khá kén đọc giả. Những người tìm đọc đa số là giới trí thức, và một ít có tâm hồn dân tộc bén nhạy. Không biết những lần tái bản Phong Trào Duy Tân sau 1975 tại quốc nội, sức thu hút bạn đọc của sách ra sao ? Năm 1969, năm tác phẩm Phong Trào Duy Tân xuất bản, tôi có mở một quán bán sách trên đường Hùng Vương, Đà Nẵng, quán Ngôn Ngữ, nên tôi biết khá rõ tình trạng tiêu thụ khiêm nhường của tác phẩm này. Đó là điều đáng buồn. Rất may, giá trị của một tác phẩm đích thực không phụ nhiều vào mức tiêu thụ. Hình như ngày nay các bạn trẻ trong nước đã tìm đến với Phong Trào Duy Tân của Nguyễn Văn Xuân nhiều hơn. Tôi vui mừng khi nghe nói cuốn sách đã được tái bản nhiều lần. Nhưng cũng hơi buồn, không tìm thấy lời giới thiệu nào qua mạng điện toán, vốn đã rất nhộn nhịp ở Việt Nam. Khi dự định viết bài kỷ niệm này, tôi gắng tìm đọc một số tài liệu ít ỏi về Nguyễn Văn Xuân tại thư viện Mile End của thành phố Montréal. Thật vui mừng khi tìm gặp cuốn Quảng Nam Đất Nước Và Nhân Vật I &II của ông Nguyễn Q. Thắng, nhưng niềm vui tắt ngay sau đó, bởi trong cuốn sách dày đến 832 trang này, giới thiệu đến 140 nhân vật, từ quý ông Đặng Tất, Đặng Dung…đến Nguyễn Văn Trổi, Chu Cẩm Phong, Lưu Quang Vũ nhưng không có ông nhà văn hoạt bát, thích đàm đạo với thế hệ trẻ Nguyễn Văn Xuân. Sự thiếu sót của ông Nguyễn Q.Thắng có lẽ không phải là sự vô tình. Tuy bị một vài cá nhân làm công tác văn học sơ ý hữu tình như vậy, nhưng nhà văn Nguyễn Văn Xuân, một người thành danh từ miền Nam, hình như vẫn được tiếp tục kính trọng và tìm đọc sau 1975. Và rất may mắn, tiểu sử ông được ghi trong cuốn Tự Điển Văn Học bộ mới, do nhà xuất bản Thế Giới ấn hành 2000 cuốn vào năm 2004. Bài giới thiệu về Nguyễn Văn Xuân nằm ở trang 1226 do Bùi Thị Thiên Thai viết. Chân dung ông không có trong các trang in ảnh.

 

          Nhà văn Nguyễn Văn Xuân rời bục giảng nhà trường sau 1975, nhưng vẫn sinh hoạt trong lãnh vực văn học. Ông đã có dịp ra thăm Hà Nội, nơi đã từng phổ biến đến bạn đọc truyện ngắn đầu tay của ông. Anh cũng đã đi khá nhiều vùng của đất nước, tham dự nhiều cuộc hội thảo văn học như: Kỷ niệm 130 năm ngày bị Pháp đô hộ (1988) tại Đà Nẵng, Đại hội lần 3 của hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tại Hà Nội năm 1995, Hội thảo 530 năm vua Lê Thánh Tông đặt danh xưng Thừa Tuyên Quảng Nam ở Tam Kỳ năm 2001…

          Về tác phẩm, ông cho nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành cuốn Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Tân Khúc, đây là một công trình nghiên cứu, phát hiện tài liệu văn học của ông từ năm 1971, tiếp theo những công trình của học giả Hoàng Xuân Hãn. Trong công trình này, Nguyễn Văn Xuân đã dùng khả năng Hán Nôm của mình để khẳng định bản dịch Chinh Phụ Ngâm, đúng danh là Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Tân Khúc của ông Phan Huy Ích thay vì bà Đoàn Thị Điểm. Cũng theo học giả Nguyễn Văn Xuân, Đặng Trần Côn đã viết tác phẩm bằng chữ Hán này vào năm 1754 hoặc sớm hơn. Bản dịch của Phan Huy Ích có từ năm 1804 (Giáp Tý).

          Một cuốn tiểu thuyết, có thể sau cùng của Nguyễn Văn Xuân, được  nhà xuất bản Trẻ, cùng công ty Văn Hóa Phương Nam tại Đà Nẵng cho ấn hành dưới tên Kỳ Nữ Họ Tống, vào tháng 11 năm 2002. Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử. Trong 428 trang, khổ 13cm x 19cm,

một câu chuyện có thật trong lịch thời chúa Nguyễn, được thuật lại bằng những tư liệu có thực và tài hư cấu linh hoạt, để cho câu chuyện thêm sống động trong suốt 19 chương, chia làm 6 phần: Người Chị Dịu Hiền, Sóng Gió, Con Người Khác, Nội Chiến, Hy Vọng Mới, Quyền Lực Cuối Cùng. Nhân vật chính của truyện là Tống Thị, một nhân vật lịch sử của xứ Đàng Trong, một người đàn bà có sắc đẹp tuyệt vời, ý chí kiên cường cùng những tham vọng lẫn thủ đoạn bất nhân, đủ để làm chao đảo một triều đại. Nhưng nhân vật chính sẽ không được nổi bật nếu không có nhân vật Hải Bằng, người yêu của Tống Thị. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân đã nhập hồn vào trong nhân vật này, để thuật lại câu chuyện. Cái “tôi” của Hải Bằng, người muôn năm cũ, chính là cái “tôi” của Nguyễn Văn Xuân.

          Tôi không tóm lược cốt truyện ở đây, để mong bạn đọc tự tìm đến với người kỳ nữ Việt Nam của chúng ta, mà tôi tin không thua sút bất cứ nhân vật nữ tài danh nào trong lịch sử Trung Hoa.

          Bên cạnh hai tác phẩm in sau năm 1975, nhà văn Nguyễn Văn Xuân còn cho phổ biến nhiều bài trên các đặc san, tạp chí. Riêng tại hải ngoại, chúng ta có thể tìm đọc các bài viết sau đây của ông:

          Những Hội Mùa Xuân Ở Miền Trung (đặc san Quảng Đà, Hoa Kỳ, 1991).

          Đà Nẵng Thời Tây Sơn (đặc san Quảng Đà, 1994).

          Quê Ta Ngày Tết (Quảng Đà, 1994).

          Đất Quảng Quê Tôi (đặc san Quảng Nam Đà Nẵng, Hoa Kỳ, 1999).

          Cù Lao Chàm Và Đà Nẵng Đều Là Hồng Kông…Hụt (Sông Thu, Hoa Kỳ, 1999).

          Trường Phái Ẩm Thực Quảng Nam Cũ – No Và Đậm (Quảng Đà, Hoa Kỳ, 2000.)

          Những Nhân Vật Đặc Biệt Của Hội An (Quảng Nam Đà Nẵng, Hoa Kỳ, 2000).

          Người Ngoại Quốc  Tới Hội An Từ Thế Kỷ 17 – 19 (đặc san Xứ Quảng, Hoa Kỳ, 2000).

          Những Nhân Vật Nổi Bật Của Người Hoa Ở Hội An Thế Kỷ XVII (QNĐN, HKỳ,2001).

          Ảnh Hưởng Của Hoàng Diệu (đặc san Quảng Đà, Hoa Kỳ, 2004).

          …

          Nhìn về bối cảnh tác phẩm, ngoài hai cuốn Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Tân Khúc và cuốn Vụ Án Truyện Kiều (bị thất lạc) những đề tài của nhà văn Nguyễn Văn Xuân đều được ông cố tình giới hạn trong lãnh địa xứ Quảng. Điều này, đã làm cho khá nhiều người đánh giá ông có đầu óc cục bộ, địa phương. Nhưng ông cho rằng những công sức của ông vẫn chưa đủ nói lên được, nói hết được cái tình với đất đai, với con người dành cho một vùng đất ông được sinh ra và trưởng thành. Có lẽ việc dồn mọi tâm huyết về đề tài địa phương của mình, qua truyện ngắn, tiểu thuyết lẫn biên khảo, nên ông được những người làm văn hóa sau này phong ông là nhà Quảng Nam Học.

 

          Tôi không còn nhớ rõ, đã được quen biết với nhà văn Nguyễn Văn Xuân trong dịp nào, cơ hội nào. Nhưng điều chắc chắn là đã khá lâu, vì chúng tôi, tuy nằm trong hai lứa tuổi chênh lệch nhau khá nhiều, nhưng cùng ở trong lòng một thành phố, cùng có một đam mê văn chương. Nói chưa học ở ông “bán tự” nào là nói việc học hành ở ghế nhà trường. Thật ra, tôi và đám bạn cùng lứa đã thụ huấn từ nhà giáo Nguyễn Văn Xuân rất nhiều điều trong văn hóa cũng như cuộc sống. Mỗi lần có dịp đến thăm ông hoặc đôi khi ông buồn chân ghé qua, là một cơ hội tôi được nghe ông giảng dạy nhiều điều bổ ích. Chẳng thể nào không học được cái khôn từ một người, giữa thập niên 50, đã là một nhà giáo trung học nổi tiếng tại các trường Tây Hồ, Tân Thanh, Phan Thanh Giản, Sao Mai, Bán Công…Người đó lại ham học hỏi, biết cả Hán, Nôm, Pháp ngữ, thông thạo tiếng Nhật, đủ làm thông ngôn cho Nhật một thời gian. Trước năm 1969, tôi ít khi ghé thăm nhà ông một mình. Tôi thường đi với một vài bạn khác, có thể với Thái Tú Hạp, với Hoàng Trọng Bân, Châu Văn Tùng hoặc Hà Nguyên Thạch, Nguyễn Thiếu Dũng (cháu gọi Nguyễn Văn Xuân bằng cậu,)…

          Không rõ ông dọn về ở tại căn nhà  54 E trong con hẻm ngắn trên đường Thái Phiên tự bao giờ. Căn nhà này, tôi được lui tới nhiều lần. Vuông sân trước mặt tiền hẹp nhưng vừa ấm vừa mát. Ấm về mùa thu, mùa đông, vì kín gió, nhờ sự che chắn của các tường nhà chung quanh. Mát về mùa xuân, mùa hạ vì những bóng râm mát cũng từ những mái ngói, cây xanh của các nhà láng giềng. Tôi rất khoái nền gạch hoa trong ngôi nhà ông. Những lát gạch màu xám nhạt, không mang hình một loại hoa nào, nhưng lại mang những đường nét như một phần nhỏ của một góc họa phẩm nào đó, đậm đà, đặc biệt. Ngoài cái nền gạch hoa mát lạnh, mà một đôi lần tôi cởi cả vớ để hai bàn chân được tiếp thu cái man mác, dễ chịu nhiều hơn, tôi còn rất tâm đắc, thích thú với cái phản gỗ rất dày, rất bóng, mà nhà văn Nguyễn Văn Xuân, dùng làm một phần bàn viết. Bao nhiêu sách báo, tự điển, giấy viết, nằm ngổn ngang trên mặt phản uy nghiêm này. Tôi nhìn từng vật với thiện cảm quí mến của mình, và có cảm tưởng chúng cũng đang reo vui trong cái hạnh phúc nằm nghỉ, khi chủ nhân của chúng say vui trong câu chuyện với khách đến thăm. Chính cái phản viết của nhà văn Nguyễn Văn Xuân thời nào, đã giúp tôi hình thành được cái giường viết cho mình hiện nay. Chỉ khác, cái giường chữ nghĩa eo hẹp của tôi, nằm ép gần sát, ngay sau cái ghế quay để ngồi nhìn mặt máy còm, thay vì cái phản viết nằm bên trái hay bên phải cái bàn nhỏ của nhà văn Nguyễn Văn Xuân.

          Trong khoảng 1970 đến 1984, tôi có dịp gặp gỡ với tác giả Bão Rừng nhiều hơn. Ông được tín nhiệm tối đa để giữ chức Chủ tịch Hội Khuyến Học Đà Nẵng, thành lập năm 1970, bên cạnh Phó Chủ tịch Đặc trách Văn hóa- Nghệ thuật, nhà văn Duy Lam, tức trung tá Nguyễn Kim Tuấn, Chánh Văn Phòng cho nhiều vị tướng Chỉ huy trưởng Quân đoàn I. Và Phó Chủ tịch đặc trách xã hội, nhà văn Phan Du. Cố vấn cho hội gồm ba vị trưởng lão trong ngành Y: bác sĩ Trần Đình Nam, (nhân sĩ, từng giữ chức Thị trưởng Đà Nẵng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ chính phủ Trần Trọng Kim, niên trưởng Giám sát viện thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam; qua đời tại Đà Nẵng năm 1973, tang lễ cử hành trọng thể dưới sự hiện diện của tướng Ngô Quang Trưởng, đại diện cho chính phủ), bác sĩ Thái Can, nhà thơ, bác sĩ Huỳnh Tấn Đối,chủ tịch hội Hồng Thập Tự Đà Nẵng.

          Hội Khuyến Học tọa lạc ở số 38 đại lộ Độc Lập. Đây là con đường chỉ cho lưu hành một chiều. Ngôi nhà được thị xã cấp cho hội rất bề thế, khang trang, được sử dụng theo nhu cầu sinh hoạt, nên đi đến quyết định chung: cho người Mỹ thuê một phần để làm Phòng Thông Tin và Hội Việt Mỹ. Phần còn lại, là trụ sở của hội. Để vào nơi sinh hoạt, hội viên, quan khách và học sinh đều phải dùng con đường nằm bên hông toàn bộ ngôi nhà. Tuy là một con đường hẻm nhưng có chiều ngang khá rộng đủ để cho xe hơi ra vào hai chiều dễ dàng. Con đường phụ này cũng dẫn đến quán cà phê Ngọc Anh, một chỗ ngồi rất được ưa chuộng của đám nam thanh nữ tú có hương đèn sách của Đà Nẵng. Tư gia của nhà văn Duy Lam cũng nằm trong khu vực yên tĩnh và có phong thái trí thức này.

          Các hoạt động của hội Khuyến Học lúc bấy giờ nhằm trong các công việc xã hội:

-  thành lập phòng đọc sách,

-  mở lớp dạy đêm,

-  mở quán cơm học sinh,

-  xét cấp học bổng,

-  tổ chức những sinh hoạt công cộng như thuyết trình, ra mắt sách, triển lãm tranh…

Phòng đọc sách rất cần thiết, vừa có cách tính cách trang trí,vừa là nơi thu hút những người

ham mê sách báo tìm đến. Phòng đọc sách đúng là nơi để truyền đạt những điều cần biết, cần học đến quần chúng một cách tự nhiên và hữu hiệu.

          Lớp dạy đêm mở ra cho nhiều lứa tuổi, nhiều trình độ khác nhau, dành cho những người thiếu cơ hội đến trường trong ánh nắng mặt trời, hoặc những người đã tiếp thu bài vở lơ là.

          Quán cơm học sinh dành cho các em từ nông thôn nghèo khó, theo học tại tỉnh thành. Với lệ phí, hình như 3 đồng cho hai bữa sáng, chiều, hội Khuyến Học phải lo chạy phần chủ yếu là gạo để đài thọ. Một số nhà buôn của thành phố đã rất nhiệt tình tiếp tay với hội trong nghĩa cử này.

          Học bổng dành cho những học sinh khó khăn về tài chánh nhưng không thiếu khả năng học giỏi được đưa ra, cân nhắc, trao đổi và chọn lựa. Hình như học bổng chưa cấp được nhiều, nhưng cũng đã có một số em nhờ vào sự giúp đỡ này mà tiến xa trên đường học vấn.

          Những sinh hoạt như thuyết trình, ra mắt sách vv… là những mặt nổi cần có của hội. Với sinh hoạt này, hội Khuyến Học đã thực hiện rất thành công. Cụ thể như buổi nói chuyện về sự phát triển ngành dệt vải ở Quảng Nam của ông Cửu Diễn, buổi thuyết trình về việc gây giống Hoa Lan của nữ khoa học gia Trần Thanh Vân từ Pháp về...Tôi cũng rất hân hạnh được hội Khuyến Học bảo trợ cho buổi ra mắt tập thơ Rượu Hồng Đã Rót.

          Ngoài những công tác thường xuyên trên, hội Khuyến Học đã tổ chức thành công một Tuần lễ Văn hóa. Trong tuần lề này hội đã đưa những hội viên và chúng tôi, về thăm viếng nông thôn, nghiên cứu việc trồng trọt, sau đó thực hiện những giỏ trồng khoai, ươm giá ngay tại nhà, rất lý thú.

          Tôi tin rằng những con dân của Đà Nẵng sau này hoặc những người từ những địa phương khác, muốn tìm hiểu một thời khuyến học của Đà Nẳng ắt phải tìm đọc phần tiểu sử hoặc những gì có liên quan đến nhà văn Nguyễn Văn Xuân, nên tôi đã không ngần ngại đi hơi xa trong chuyện Hội Khuyến Học như trên. Hơn thế nữa, tôi còn muốn ghi thêm ra đây những danh tính một thời đã tích cực với cái hội làm việc xã hội này. Xin được xem đây là lời cảm ơn,

          - Hồ Minh, Thiếu Tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa, Thẩm phán Tòa án Mặt trận; đã qua đời trong trại cải tạo Tiên Lãnh.

          - Nguyễn Thiếu Dũng, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, giáo chức, dạy tại trường Nữ Trung học Đà Nẵng, phu quân của nhà giáo kiêm nghiên cứu sử Châu Yến Loan.

          - Thái Tú Hạp, Đại Uý, nhà thơ, nhiệm sở Quân đoàn 1, hiện ở Hoa Kỳ, chủ nhiệm tuần báo Saigontimes ở Los Angeles USA.

          - Lâm Quang Phước, (con nhà thầu khoán Lâm Quang Tự), Thiếu Uý, tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Huế, nhiệm sở Quân đoàn 1. Chủ quán cà phê Lộng Ngọc; đã qua đời năm 1980 tại Sài Gòn khi không vượt thoát nổi một cuộc vượt biên.

          - Trần Đình Thanh Lam, (cháu đích tôn bác sĩ Trần Đình Nam), tốt nghiệp Đại học Sư phạm, dạy ở trường Nữ Trung Học; hiện cư ngụ tại Sài Gòn.

          - Võ Văn Dật, nhà nghiên cứu sử, hiện ở Hoa Kỳ.

          - Đỗ Toàn, họa sĩ, sĩ quan khóa 24 Trừ Bị Thủ Đức; đã qua đời.

          - Trương Duy Hy, Đại Uý quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nhà biên khảo, hiện sống tại Việt Nam.

          - Nguyễn Văn Bảy, dạy trường Kỹ Thuật Đà Nẵng; sau 1975 bị ghép vào tội âm mưu lật đổ chính quyền và bị xử bắn cùng nhà giáo Trần Ngọc Thành gần đồi Phú Thượng, đường lên núi Chúa, Bà Nà).

          - Nguyễn Tấn Long, nhà biên khảo, đã qua đời năm 1991.

          - Nguyễn Ngọc Lang, Bác sĩ, nhiệm sở bệnh viện Đa Khoa Đà Nẵng, hiện hành nghề tại Montréal, từng giữ chức Chủ tịch hội Vượt Biển tại Montréal, Canada.

          - Hoàng Quy, nhà thơ, Quản đốc Đài phát thanh Đà Nẵng, hiện cư ngụ tại Cần Thơ.

          - Tống Nhạn, (con cụ Tống Quyến, Hội An), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, sĩ quan, chánh văn phòng Đại tá Thị Trưởng Đà Nẵng; đã qua đời vì bạo bệnh tại Việt Nam.

          …

          Hẳn nhiên còn một số nhân vật tích cực khác, nhưng tôi không kịp nhớ hết. Nhìn chung trong đám người “ăn cơm nhà vác ngà voi” ấy (vì không ai có lương cho công việc của mình), nhà văn Nguyễn Văn Xuân, ông Hội trưởng, vẫn là người hăng say, tích cực nhất. Ông nhìn việc, định người rất khéo léo sáng suốt. Riêng cá nhân tôi, một người lang bang, không có mặt trong Hội Khổng Học của nhà thơ Trần Gia Thoại, cũng chẳng là hội viện của hội Khuyến Học của thầy Xuân. Nhưng nơi nào tôi cũng xẹt qua, làm một vai thân hữu, không chứng minh thư. Tuy vậy, qua thân tình, nhà văn Nguyễn Văn Xuân cũng đánh hơi tôi có khả năng thực hiện các bài phóng sự, nên thường đề nghị tôi đi thăm nơi này, đi viếng nơi kia. Một địa chỉ, tôi đã nghe lời ông mà đến, tiếc rằng tôi không thực hiện được kỳ vọng của ông. Chỉ đem về cho riêng tôi một bài thơ không lấy gì xuất sắc. Bài thơ có tên “Tặng Các Em Cô Nhi Viện An Hòa”, in trong tập Rượu Hồng Đã Rót, nguyên bản:


          “Cánh chưa mỏi nhưng lòng vừa muốn đậu/ trên vai hồng những búp tuổi măng non/ trên vầng trán của mặt trời dậy sớm/ trên môi cười của từng nỗi cô đơn

           tôi, chẳng phải là loại chim kỳ lạ/ bay tình cờ ghé lại cõi đời em/  cũng không phải gã lái buôn vần điệu/ uốn nắn lòng cho ngôn ngữ giàu thêm

           tình chân thật là món quà ra mắt/ mong các em cho tôi được làm quen/ từng viên gạch lót phòng em ngồi học/ từng góc giường em trằn trọc mỗi đêm

          từng tiếng kiểng tay quàng vai tập hát/ từng nụ cười Đại đức dạy em ngoan/ từng gáo nước Ni cô âu yếm dội/ vào hồn em trong suốt nỗi hân hoan

          tôi muốn viết, vâng rất thèm được viết/ những hạt cơm, những chiếc áo hằng ngày/ những phép tắc một đời cô nhi viện/ những ước mơ không có dịp tỏ bày

          hãy gắng nói về những điều đang nghĩ/ như đóa hoa vừa mới nở sau vườn/ như nước mắt một đêm nào ướt gối/ nhớ từng người, từng vách lá, con mương...

          các em hãy khóc đi, đừng cố gắng/ nuốt lệ vào, nuôi can đảm, cười khan/ đời tồn tại cũng đành cơm với áo/ lỡ làm người, ai không có bi quan

          các em hãy cho tôi cùng dự cuộc/ bởi đời tôi nào đã chắc gì hơn/ còn cha mẹ chắc gì không lạc lõng/ sống một mình không hẳn đã cô đơn

          các em chớ cho tôi giàu kiểu cách/ sống, suy tư, không chân thật, bình thường/ bởi đời vốn dẫy đầy điều phi lý/ không dỗi hờn đâu dễ biết yêu thương

          thôi xin lỗi các em, tôi lắm chuyện/ ghé vào đây đâu phải để phân trần/ điều vẫn dặn lòng mình, là hãy thở/ hơi vào người, hơi nhập vào thân/

          dẫu phút chốc cũng sẽ thành vô nghĩa/ lần gặp này, xin được nhớ man man/ chào các em, chào trăm dòng suối nhỏ/ trăm rừng cây vừa phai thuốc khai quang”



 (Luân Hoán- Rượu Hồng Đã Rót)


 

          Một sinh hoạt văn hóa khác mà giới trí thức Đà Nẵng thời bấy giờ rất hết lòng là vận động để thành lập viện đại học. Trong công việc này, nhà văn Nguyễn Văn Xuân cũng được ghi công đầu. Tôi có cơ hội diện kiến ông nhiều hơn, nghe ông nói nhiều hơn. Là một nhà giáo thâm niên, Nguyễn Văn Xuân có tài hùng biện. Những gì ông trình bày có sức lôi cuốn sự theo dõi của người nghe một cách tuyệt đối. Mạch lạc, rõ ràng ngay trong việc dùng chữ, dù giọng ông khá nặng chất Quảng Nam thuần túy. Ông rất thích đề cập đến ngành Hát Bộ. Ông nói về những khám phá của mình trong môn nghệ thuật này một cách say sưa. Ngồi nghe ông nói,tôi nghiệm ra, chẳng phải ông nói chuyện, mà ông đang lên lớp, đang giảng bài. Và chắc chắn ông đã tìm thấy thích thú trong những buổi đàm thoại của mình với bất cứ người nào, bạn văn nào.

          Nguyễn Văn Xuân có sự tự tôn địa phương rất lớn. Ông chưa chê bai một vùng đất nào của tổ quốc, nhưng đề cập về Quảng Nam, ông luôn luôn thấy được những ưu điểm của vùng đất mà những người ngoài vùng đều tỏ ý ngại ngùng, nếu phải đến cư ngụ. Ông yêu đất, ưu tiên là đất Quảng Nam. Ông yêu người, ưu tiên là người Quảng Nam. Những phố cổ Hội An, Ngũ Hành Sơn, Bà Nà núi Chúa, thôn làng Thanh Chiêm…đã làm ông hãnh diện. Phải trực tiếp ngồi nghe ông nói về những thắng cảnh của quê hương ông, mới thấy thích thú, mới thấy mỗi cảnh sắc có phần đẹp hơn ra, giống như thay da đổi thịt dưới con mắt tầm thường của mình. Nói chuyện nghiêm túc hấp dẫn, lôi cuốn, nhưng một đôi khi có dịp “nói hoang” ông cũng tỏ ra tinh tế, hóm hỉnh và thâm trầm rất mực, điều này có thể tìm thấy trong văn phong của tác phẩm Kỳ Nữ Họ Tống. Ông là một Phan Khôi của những thập niên 60, 70 khi nhắc về Quảng Nam, khi nói đến văn học nghệ thuật xứ Quảng có sông Hàn.

 

          Sau buổi trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975, ngày bước chân đầu tiên của các bạn du kích công khai vào thành phố Đà Nẵng, chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau. Lặng lẽ, nghe ngóng, trông chừng, thủ thế…là thái độ chung của chúng tôi. Không dại gì không “chấp hành nghiêm chỉnh” những việc mình có thể “chấp hành” được. Tôi ít ra đã hơn thầy Xuân một chữ Ngụy. Thầy chỉ có “dân” và “quyền”, tôi có cả “quân”. Ngày 30 tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng vẫn còn trong tình trạng vô chính phủ. Bước sang tháng tư, trong tuần đầu, không khí ngột ngạt nhưng vẫn còn rất dễ thở. Tôi trình diện ở sân chùa Hải Châu dưới vai ngụy quân thay vì ngụy quyền. Không rõ thầy Xuân đã trình diện tại đâu. Cuối một ngày trình diện ở chùa Hải Châu về, tôi gặp tác giả Dịch Cát tại nhà tôi, 58 đường Hùng Vương. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân không bi quan mà cũng chẳng lạc quan. Ông chấp nhận sự đổi thay của lịch sử một cách trầm tĩnh, không bày tỏ một thái độ nào. Ông chỉ hỏi thăm tôi về những thiệt hại khi nhìn cánh cửa sắt chưa kịp sửa chữa. Trong lần gặp gỡ này, ông đã giao cho tôi một mẩu khai lý lịch, dài chừng 30 trang. Ông cho biết đây là mẩu khai dành cho những người có viết lách lăng nhăng. Ông cũng dặn đi dặn lại nên chép làm 2 bản, một bản giữ lại, một bản để nộp. Chuyện khai thật, khai giả tùy nghi, không quan trọng, nhưng đừng quên những điều đã khai, sau này chắc phải còn lặp lại. Khi mang tới cho tôi mẩu khai này, nhà văn Nguyễn Văn Xuân có lẽ đã sẵn sàng cùng tôi chia xẻ những hoạn nạn sắp xảy ra trước mắt. Chuyện đồn, ông được nhà văn Vũ Hạnh cấp cho một cái giấy chứng nhận gì đó, chắc là chuyện tưởng tượng. Tôi đã không kịp khai lý lịch theo mẫu “bồi bút” vì sáng hôm sau, tôi đã cùng nhà thơ Hoàng Quy khăn gói ra trình diện.

          Trong cuộc sống có những cái may mắn bất ngờ. Trên đường đến nơi trình diện, để cho thêm ấm bụng, tôi và Quy ghé quán mì Quảng trên đường Lê Lợi. Những sợi mì vàng óng, những cọng giá trắng tươi cùng những cọng rau xanh, ớt đỏ… đã tức thì đánh thức tôi với dấu hỏi trong đầu, tại sao phải trình diện, khi tôi đã là một tài nguyên phế thải, một sĩ quan chỉ có sổ cấp dưỡng ? Thế là, tôi thất tín với Quy, để cho ông Quản đốc Đài phát thanh trình diện một mình. Trong giai đoạn này, bất cứ ai đã lỡ lọt vào cửa trình diện cải tạo thì đừng hòng trở ra. Không đến nổi “giết lầm hơn bỏ sót” nhưng được “học tập” vẫn không thừa, vẫn quý hơn không. Tôi đã có một quyết định xuất thần vô cùng sáng suốt. Nhưng không có nghĩa tôi trốn được cái nợ không vay, phải trả. Bởi sau đó tôi vào trại Ngô Văn Sở. Nếu chuyện đổi tiền xảy ra chậm trễ hơn, tôi chưa biết đã trôi nổi về đâu.

          Phần tôi thì như vậy, còn phần nhà văn Nguyễn Văn Xuân ra sao, tôi không được rõ lắm, chỉ biết từ đó ông trở thành một người “mất dạy, vô lương” cho đến ngày nay. Bi đát hơn, hoàn cảnh ông không được lạc quan như trong bài Vết Thương, tôi đã viết:


          “…em không hỏi, vì sao em yêu dấu

          cứ nuôi ta thằng mất dạy vô lương

          cứ yêu ta như nụ tình em vẫn nở

          đóa hoa hồng trong cùng tận vết thương”


          Người vợ xinh đẹp đảm đang của ông bị chiếm đi quầy bán vải tại chợ Hàn. Nguồn sinh kế dồi dào bỗng đứt. Những người con cũng lần lượt mất việc. Uất ức đã đưa bà vợ hiền của thầy Xuân đến cái sốc tinh thần trầm trọng. Bà cười khóc bất thường, quên cả mặt mũi chồng con. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân đành bấm bụng chịu đựng. Ông đạp xe đi suốt ngày, chẳng biết đi đâu. Có lần tôi ngồi trong nhà anh tôi, ở trên đường Thái Phiên, rất gần nhà ông, vơ vẩn nhìn ra đường, phát hiện ông đang lang thang. Những bước lang thang của ông cũng rất bất thường, chỉ thu hẹp trong một đoạn đường ngắn, chợt đứng, chợt đi, chợt nhìn quanh, chợt cúi đầu. Tôi định vù ra chào hỏi, nhưng rồi lại thôi. Lặng lẽ quan sát ông, rồi ngậm ngùi giả lơ. Ông đang buồn, đang lo, chắc chắn là như vậy. Tôi tôn trọng giây phút suy ngẫm buồn phiền của ông. Một lần khác tôi đã bạo miệng, đề nghị dành một chỗ ngồi cho con trai ông, trước hiên nhà tôi, nếu anh ấy muốn mua bán hoặc làm một cái nghề gì đó. Con trai ông, tôi không còn nhớ tên, đã có đến ngồi trước hiên nhà tôi vài tuần rồi bỏ cuộc.

          Trước hoàn cảnh gia đình bi đát như thế nhà văn Nguyễn Văn Xuân vẫn giữ được sự điềm đạm. Gặp nhau không còn nói chuyện thơ văn mà đề cập, hỏi han đến đời sống từng bạn văn. Một hôm ông đến rủ tôi ra thăm nhà văn Phan Du đang ốm nặng. Tôi sợ nhất là đi thăm người ốm thập tử nhất sinh và đi đưa tang. Nhưng không thể không tháp tùng ông đến tư gia tác giả Hai Chậu Lan Tố Tâm…ở tận ngoài bãi biển Thanh Bình. Không biết nhà văn Phan Du đã về sống bên mép sóng biển từ bao giờ ? Ông đến với cuộc đời từ ngày 01 tháng 5 năm 1915, có hơn nhà văn Nguyễn Văn Xuân đến những 6 năm. Nhà văn Phan Du người làng Phước Đức, huyện Quế Sơn, là một công tử (út) của vị tiến sĩ Phan Quang (một trong năm con phụng cùng bay- ngũ phụng tề phi- khoa Tiến sĩ hoàng triều Thành Thái -1889-1907- năm thứ 10), có  một đời sống công chức khá giả, nhưng những ngày cuối đời khá ảm đạm. Trong suốt buổi thăm viếng, tôi gần như giữ im lặng. Chính nhà văn Nguyễn Văn Xuân cũng tiết kiệm lời tâm sự rất nhiều. Buổi thăm viếng buồn bã này đã thưởng cho tôi một trận cảm cúm kéo dài mấy tuần sau.

          Khác với nhà văn Phan Du, nhà văn Nguyễn Văn Xuân có một sức khoẻ rất khả quan. Ông cao lớn, rắn rỏi và năng động vô cùng. Ông vẫn giữ được những ưu điểm này cho đến ngày tôi ra nước ngoài, và có lẽ kéo dài được sự bền bỉ trong nhiều năm sau. Tại hải ngoại, một lần Thái Tú Hạp nhận được một tin thất thiệt, chúng tôi đã đăng phân ưu cho ông, sau đó mới biết nhầm lẫn. Khi nhận được thư xin lỗi của chúng tôi, ông gởi cho tôi một hồi âm, đây cũng lá thư duy nhất của ông, tôi nhận được. Trong thư ông viết:

          … “ Về chuyện ấy, anh chả nên để ý. Tôi đã chết nhiều lần. Hồi 1954, về nhà anh tôi, tôi thấy có ảnh và bàn thờ. Tôi chỉ mỉm cười…”.

          Ngoài chuyện bày tỏ sự bình tâm trước chuyện sống, chết, ông còn cho biết:

          … “tôi không quá cực về vật chất, nhưng gia đình bệnh và buồn. Buồn lắm.

         Thân ái thăm anh  và các bạn, ước mong có ngày vui như anh mong ước, khi chữ nghĩa không bị hạn chế trong một nơi nào”.

          Thư ông viết vào ngày 03 tháng 8 năm 1992. Hơn 14 năm qua, mọi chuyện đã có nhiều đổi thay. Giới trí thức miền Bắc đã biết kính nể khi tìm đọc tác phẩm của ông, dù sự kỳ thị vẫn còn thấp thoáng đâu đó. Một tuyển tập  Nguyễn Văn Xuân, dày 1012 trang đã được in, phát hành với bìa cứng, đã ít nhiều nói lên sự thay đổi trong đánh giá của giới lãnh đạo văn học nhà nước. Nhưng với trên 80 triệu dân, tác phẩm chỉ được tung ra thị trường 700 cuốn, quả là một con số đáng suy ngẫm. Năm 2002, tôi có về Đà Nẵng trong gần 3 tuần. Tôi có ghé đến 54E Thái Phiên nhưng chỉ được nhìn những cánh cửa khép kín, cái vuông sân như co cụm, nhỏ đi rất nhiều. Buồn. Cậu em vợ chở tôi chạy quanh một vòng thành phố. Tôi ghé nhiều tiệm bán sách. Và cuối cùng tìm được tuyển tập Nguyễn Văn Xuân tại một nhà sách trên đường Lê Lợi. Tôi mua một cuốn. Trong 699 cuốn khác của tác phẩm quý giá này, không biết được mấy cuốn đã và sẽ về với những tủ sách gia đình ?

          Một năm sau, trên đặc san Quảng Nam Đà Nẵng, do hội Quảng Đà ở Dallas Hoa Kỳ thực hiện, tôi đọc được bút ký “Đà Nẵng, Tôi Về” của Trần Yên Hòa, một cây bút khởi đi từ hải ngoại, sau 1975. Trong bút ký anh Hòa cho biết có ghé thăm thầy Xuân, một ông thầy chính anh cũng chưa thọ giáo  được “nửa chữ” nào. Lần đầu Hoà ghé đến không gặp được người mà nhà thơ Thành Tôn dặn dò nên gặp. Lần thứ nhì:

          … “Tôi đến căn nhà cũ, gõ cửa.Tiếng người đàn ông vọng ra:

-  Ai đó ?

          Tôi trả lời:

-  Tôi đây ! Tôi đến thăm thầy Nguyễn Văn Xuân.

          Có tiếng người ngồi dậy, rồi tiếng nói:

-  Đẩy cửa vào đi, cửa không khóa.



     

     Tôi đẩy cửa vào, vẫn căn phòng hôm qua, bừa bộn những đồ linh tinh trên sàn nhà, trên sofa, nào là giấy, khăn, quần áo vất bừa bãi. Một ông già từ phòng trong khệnh khạng bước ra. Ông đang mặc áo vào vì ông ở trần, tay ông run run nên ông mặc áo rất khó khăn. Ông bước ra ngoài phòng khách và chân đi không nổi. Ông đi như lết từng bước ngắn. Thấy vậy, tôi liền bước vào phòng trong để dìu ông. Tôi vừa dìu vừa hỏi:

-  Thầy là thầy Xuân ?

-  

          ….

          Bây giờ trước mắt tôi là một ông già trên tám mươi tuổi, gầy còm, ốm yếu, bệnh hoạn. Đôi chân ông khẳng khiu, teo lại như chỉ còn hai khúc xương, không còn chút thịt nào. Đầu tóc ông hói đậm, tóc lưa thưa, răng rụng gần hết”

          Ông thầy Xuân tráng kiện, sung sức của chúng tôi ngày xưa bây giờ đã trở nên quá bi thảm qua cái tả chân, có lẽ rất chân thực của Trần Yên Hòa. Hậu quả này không chỉ do thời gian, mà đích thực nỗi buồn phiền đã góp tay gây tội. Làm sao có thể giữ gìn khả quan thân thể khi điều kiện kinh tế gia đình cũng bào mòn lượng máu thịt:

-  “Già rồi còn sức đâu mà viết, mà lúc này bịnh hoạn quá, yếu quá. Nhà xuất bản Đà

Nẵng có xin phép tôi và cho in tuyển tập Nguyễn Văn Xuân. Họ cho tôi 20 quyển bảo tôi bán lấy tiền thay tiền nhuận bút. Tôi bán được rất ít nên còn đó…”

                                                                                                                             (Trần Yên Hòa)

 

          Thật đáng thương cho một nhà văn có chân tài và nổi tiếng. Không biết hội nhà văn Việt Nam đã truy tặng cho ông một tấm bằng khen, một huy chương nào chưa. 20 cuốn sách cho một công trình dài suốt một đời tâm huyết, có chút gì như chua xót chợt đến với tôi. Câu nói: “Nhà văn An Nam khổ như chó” của nhà thơ Nguyễn Vỹ quả chẳng thấm vào đâu so với lời bày tỏ chân tình của nhà văn Nguyễn Văn Xuân.

          Những năm tháng tiếp theo, tôi nhận được tin ông ngồi xe lăn, ông được tán thưởng. Buồn vui lẫn lộn. Bài viết về ông, một người thầy, một người anh, một người bạn, tôi viết khá khó khăn, không rõ vì sao. Bài chưa chấm dứt, chiều hôm qua, 15 tháng 10 năm 2006, tôi nhận được một điện thư do anh Đặng Tiến forward  từ họa sĩ Đinh Cường, điện thư của anhTrần Phương  Kỳ (chuyên viên văn hóa Chàm) Nội dung:

          “Anh ĐT thân,

          Anh khỏe không. Chiều nay tôi vừa ở Hà Nội về, ghé thăm thầy Nguyễn Văn Xuân. Ông khỏe hơn trước. Ăn uống được và vừa đọc xong quyển sách gần 600 trang viết về Quảng Nam. Mừng vì ông rất tỉnh táo.

          Chỉ có một tin tôi muốn gởi đến anh và thân hữu của thầy Xuân, là, trong cơn bão khủng khiếp vừa qua, nhà ông bị hư hại nặng, nhất là dãy nhà làm để cho thuê, kế sinh nhai hàng ngày của gia đình ông, bị hư sụp phải sửa lại rất tốn kém, mà ông thì bó tay.

          Vậy nếu có thể nhờ anh vận động một tay dùm để giúp đỡ thầy Xuân..

         … Kỳ”


          Mấy dòng tin từ quê nhà làm tôi nao nao buồn, lại càng ngậm ngùi hơn khi cảm thấy cái bất lực của mình trước sự không may của một người thân quen. Không có “lá lành đùm lá rách” thì tạm dùng “lá rách đợ lá rách” chắc chẳng ai trách phiền. Ngồi nghĩ mông lung, đâm ra nghi ngờ nhà văn Nguyễn Văn Xuân có duyên nợ gì với sự bão tố hay chăng ? Cách đây hơn 60 năm, ông đã dựng nên một trận bão rừng. Trận bão của văn chương này đã làm điêu đứng nhiều nhân vật, trong đó có cả tác giả. Ngày nay một trận bão của đất trời lại trực tiếp gây họa cho gia đình người đã dựng nên bão rừng, chắc ít nhiều cũng làm cho nhà văn Nguyễn Văn Xuân ngậm ngùi. Sự thiệt hại lớn lao về vật chất không thể không là một vết thương trầm trọng của một người chỉ giàu tình yêu đất nước, chữ nghĩa. Cuốn Hồi Ký đời ông và tác phẩm Truy Tầm Bản Sắc Việt Nam của ông còn có cơ hội đến với bạn đọc ? Tôi hy vọng, vẫn còn nhiều tấm lòng sẽ mở đường cho những đứa con đã hoàn tất của nhà văn Nguyễn Văn Xuân ra đời. Tôi cũng hy vọng sẽ được thấy tận mắt những thịt da, mang hơi thở sau cùng của nhà Quảng Nam Học, trước khi theo ông về một cõi xa, không cần địa chỉ.

 

16-10-2006, đúng giờ thứ 20, Montréal đang mưa nhẹ, lá cây đã đủ màu vàng, đỏ…

 

 

 Luân Hoán

 

         

    












Son Nam & Nguyen Van Xuan





















Trở về









MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.