Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2020

Lê Mộng Nguyên (1930 - 2023)















Lê Mộng Nguyên
(05/05/1930 - 19/5/2023)
hưởng thọ 93 tuổi

Nhạc sĩ

GS-TS Quốc gia, Viện Sĩ Viện HLKHHN Pháp



Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên là tác giả ca khúc nổi tiếng Trăng mờ bên suối. Ông còn là giáo sư, tiến sĩ Luật và Khoa Học Chính trị, được bầu vào Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại của Pháp. Ngoài ra, Lê Mộng Nguyên còn viết văn và làm thơ.





Tiểu sử

Lê Mộng Nguyên sinh ngày 5 tháng 5 năm 1930, tại Phú Xuân, Huế. Lê Mộng Nguyên dùng tên thật cho hầu hết các sáng tác, đôi khi ông dùng một bút danh khác là Yên Hà hoặc Lan Đào. Ông là con trai áp út của một gia đình nho giáo, điền chủ ở tỉnh Thừa Thiên. Cha ông tên Lê Viết Mưu, mẹ là bà Hồ Thị Ngô. Ông bà có bảy người con, trong đó Lê Mộng Hoàng, anh của Lê Mộng Nguyên là một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng.

Lúc nhỏ, Lê Mộng Nguyên bắt đầu đi học ở trường làng Phú Xuân, rồi vào học trường Tiểu học (École Primaire) Chaigneau ở Huế. Sau đó ông thi tuyển vào trường trung học Khải Định và là một trong ba người đỗ đầu, được Chính phủ cấp học bổng. Ông học ở đó từ 1943 đến khi thi Tú tài năm 1950.
Lê Mộng Nguyên làm thơ, nhạc và viết văn từ thuở nhỏ, lúc 9 tuổi khởi sự làm thơ và có nhiều bài được đăng trong nội san của trường trung học Khải Định với bút danh Yên Hà.

Năm 15 tuổi, trong một cuộc thi Văn chương Học sinh trường Trung học, ông viết một bài về Phan Đình Phùng và đạt giải thưởng Hoàng Đế Bảo Đại, năm đó ông cũng sáng tác ca khúc đầu tay "Xuân Tươi" (dưới bút hiệu Lan Đào), được báo ‘’Quốc gia’’ đăng trong ‘’Đặc San Mùa Xuân’’. 
Năm 18 tuổi Lê Mộng Nguyên đã được cấp thẻ nhà báo, cộng tác cùng nhiều tờ báo khi đó: Phật giáo Văn Tập, Quốc gia, Việt Nam Tân Báo, Đường Mới.

Năm 1950, sau khi tốt nghiệp Tú tài toàn phần tại Việt Nam, Lê Mộng Nguyên sang Pháp du học, được ông Nguyễn Khoa Nam bảo lãnh tại Paris[1]. Ban đầu ông muốn theo học hòa âm tại Trường âm nhạc Paris nhưng sau đó bỏ ý định, quay sang học luật tại Khoa luật và Khoa học Kinh tế Đại học Paris 1 Panthéon Sorbonne (Faculté de Droit et de Sciences Economiques).

Năm 1954, Lê Mộng Nguyên tốt nghiệp cử nhân Luật. Từ năm 1955 tới năm 1958, ông được mời làm tùy viên kinh tế và xã hội cạnh Tòa đại sứ Việt Nam tại Paris (Attaché économique et social près l'Ambassade du Vietnam à Paris) dưới quyền của đại sứ Việt Nam Phạm Duy Khiêm. Sau đó ông quay lại trường đại học và thi đậu cuộc thi để được hành nghề luật sư. Năm 1962, ông đậu Tiến sĩ quốc gia (Doctorat d'État) với ba bằng cao học về Droit public, Droit privé và Sciences Politiques. Sau khi thôi hành nghề luật sư, năm 1967, Lê Mộng Nguyên dạy luật Hiến pháp (Droit constitutionnel) và Khoa học Chính trị (Sciences politiques) tại trường Đại học thành phố Besançon, miền Đông nước Pháp. Năm 1985 ông quay lại Paris và giảng dạy tại Đại học Paris 8 Saint Denis đến khi về hưu năm 1997. Trong thời gian đó, ông cũng sáng tác nhiều ca khúc, nhưng không phổ biến. Tuy ít tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Pháp, nhưng ông cũng đã ký tên ủng hộ việc cứu trợ nạn thuyền nhân vượt biển. Sau khi về hưu, ông cộng tác với vài báo chí Việt tại hải ngoại, trong đó có nguyệt san Nghệ thuật của nhạc sĩ Lê Dinh và Hồn Việt của ký giả Vương Huyền.

Lê Mộng Nguyên thành hôn với Nicole Moulin, một phụ nữ người Pháp vào ngày 8 tháng 1 năm 1959. Trước đó hai năm, họ gặp nhau sau một cuộc biểu tình tại quận La Tinh Paris. Hai người không có con. Ông cũng chưa từng về lại Việt Nam từ khi đi du học năm 1950.




Ngày 5 tháng 12 năm 1997, Lê Mộng Nguyên được bầu vào Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại (Académie des Sciences d'Outre-Mer) của Pháp, thay thế cho Cựu Hoàng Bảo Đại. Người được bầu vào Hàn Lâm Viện này phải có những tác phẩm được xuất bản, những công trình nghiên cứu đáp ứng đường lối của hàn lâm viện trong công cuộc phát triển văn hóa, khoa học, kinh tế, kỹ thuật hay nhân loại của những quốc gia hải ngoại trong khối Pháp. Lê Mộng Nguyên là người Pháp gốc Việt đầu tiên được bầu làm hội viên chính thức (membre titulaire), có thể được bầu làm chủ tịch Hàn Lâm Viện này và có quyền bầu để chọn người vào làm hội viên.
Trước đó, đã có một số người Việt làm hội viên liên lạc (membre correspondant) như Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng; hội viên cộng tác (membre associé) Thái Văn Kiểm. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng là hội viên chính thức tự do (membre titulaire libre), có nghĩa là hội viên thực thụ không thuộc ban (section) nào cả nhưng có quyền bỏ phiếu hay tranh cử bất cứ chức vụ nào của Hàn Lâm Viện.



Sự nghiệp âm nhạc


Lê Mộng Nguyên tự học nhạc từ khi còn nhỏ, học đánh đàn mandoline với một người bạn học cùng lớp, sau đó có học guitar và violon. Ông sáng tác ca khúc đầu tay Xuân tươi vào năm 15 tuổi ký tên Lan Đào. Bài nhạc Mừng Khánh Đản đã được Thượng tọa Minh Châu nhờ Lê Mộng Nguyên sáng tác vào năm 1948 nhân dịp khánh thành Chùa Từ Đàm.

Nhạc phẩm nổi tiếng nhất của Lê Mộng Nguyên Trăng mờ bên suối được viết ngày 13 tháng 11, năm 1949 khi ông mới 19 tuổi. Trăng mờ bên suối nói lên nỗi lòng của tác giả khi nhớ người yêu, nhớ sông Hương núi Ngự trước khi lên đường sang Pháp du học vào năm 1950. Trong một bức thư trả lời một người bạn, Lê Mộng Nguyên viết: "Bài trăng mờ bên suối viết ngày 13 tháng 11 năm 1949 (tôi còn giữ bản thảo), một buổi chiều không mưa ở nhà một mình tôi ở Huế (đường Gia Long), với cây lục huyền cầm Y Pha nho, vừa nhạc vừa lời song song với nhau, rất mau lẹ (từ 20 đến 30 phút là xong), trong một cuốn vở có phân ly (papier millimétré) đầy ký chú những bài học Lý Hóa ở trường Khải Định". Lời hát của Trăng mờ bên suối cổ điển và sang trọng, khá giống với Suối mơ của Văn Cao:
Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu Một đêm thiết tha rồi đây xa cách Rồi đây hai ngả biết tới phương nào...Suối mơ... lời hẹn ước ven bờ suối xưa Nhớ chăng... người phương xa trong khói điêu tàn Suối ơi... vờn theo bóng trăng vàng ngày xanh Nào những lúc trên thuyền say sưa Nhìn trăng vừa lên, ai hay chia lìa Sương khói biên thùy hiu hắt người đi xa trường sa...

Tuy được viết vào cuối năm 1949, nhưng Trăng mờ bên suối được xem như một ca khúc tiền chiến và đã trở thành bất hủ của tân nhạc Việt Nam. Nhạc sĩ, ca sĩ Thu Hồ là người hát Trăng mờ bên suối đầu tiên trên đài phát thanh Pháp Á năm 1949.

Lê Mộng Nguyên cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên sáng tác về Huế, miền Trung, ca tụng nơi ông đã sinh ra và lớn lên. Ngoài những nhạc phẩm có tính cách tranh đấu như Vó ngựa giang hồ (1949), hay Mùa lúa mới và Trường ca Quân tiến, từ thời thiếu niên Lê Mộng Nguyên đã sáng tác nhiều ca khúc lãng mạn "để tiếp theo hứng cảm của các tác giả mà ông yêu chuộng như Văn CaoĐặng Thế Phong..."[2]. Từ ngày sang Pháp học, ông viết các bản nhạc nói lên nỗi nhớ quê hương như Xuân tha hương, Lá thư cho mẹ, Trời Âu... Lê Mộng Nguyên cũng viết bản Bụi đời, Người đã trở về cho bộ phim Bụi đời do anh trai ông là Lê Mộng Hoàng đạo diễn năm 1957.

Khoảng 1990, tại Việt Nam, một tuyển tập nhạc Phật giáo gồm 25 bài do Lê Mộng Nguyên viết trước năm 20 tuổi đã được Giáo hội Phật giáo Việt Nam xuất bản.






















Tác phẩm

Âm nhạc





Bài Thơ Huế





Bên Dòng Sông Seine






Bụi Đời

Chiều Thu

Chiều Vàng Bến Chợ Đông Ba

Chiều Vàng Năm Xưa






Cô Gái Huế






Đôi Mắt Nhung

Gia đình Thân Ái

Giao Mùa

Hoàng Hoa Thôn

Hướng Phật Đài

Kiếp Giang Hồ

Lá Thư Cho Mẹ

Ly Hương
Ma Vie Sans Toi (Đời Không Có Em)

Mơ Đà Lạt

Một Chiều Thương Nhớ

Mưa Huế

Mùa Lúa Mới 






Mừng Khánh Đản






Người Đã Trở Về

Nhớ Huế

Quê Tôi

Trái Tim Đau

Lời Cuối Của Anh

Hồi Hướng

Tìm Lại Ngày Xưa

Thề Non Nước

Thu Sầu

Thu Trên Sông Seine

















Trời Âu

Trọng Thủy Mỵ Châu

Trường Ca Quân Tiến

Về Chơi Thôn Vỹ

Việt Nam Thắm Tươi

Vó Ngựa Giang Hồ

Xuân Tha Hương

Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương

Xuân Tươi

Nhớ Cha

Nhung Nhớ

Em Cho Anh Tình Yêu

Hòa nhịp yêu thương

Giao Mùa

Soi Gương

Yêu anh em làm thơ

Bến Đời Không Ước Hẹn

vân vân.














nghe những bài hát hay nhất của Lê Mộng Nguyên









Các tác phẩm khác



La Constitution de la Vème République de Charles de Gaulle à François Mitterrand
(4ème édition, 1994, Ed. STH)
Hiến pháp đệ Ngũ cộng hòa từ Charles de Gaulle tới François Mitterrand



Les systèmes politiques démocratiques contemporains
(4ème édition, 1994, Ed. STH)
Những hệ thống chính trị dân chủ cận đại



Initiation au droit
(1996, Ed. L'Hermès)
Hành trình đi vào luật pháp



La Constitution de 1958
(1996, ed. L'Hermès)
Hiến pháp 1958



Le Budget de l'Etat
(1997, ed. L'Hermès)
Ngân Quỹ Quốc gia



Finances Publiques
(1997, ed. L'Hermès)
Tài chính Công Cộng







Bốn sách tổng hợp: 



Les agglomérations urbaines dans les Pays du Tiers Monde
(1971, ed. de l'Institut de Sociologie, Bruxelles, Bỉ)
Vùng thành thị trong các quốc gia đệ Tam thế giới



Le Vietnam au temps présent
(1992, Đường Mới)
Xứ Việt Nam đương thời



Đảng Cộng sản trước thực trạng Việt Nam
(1994, Đường Mới)



Những Vấn đề Cấp Thiết của Việt Nam
(1995, Tiếng Gọi Dân tộc xuất bản)



Tập thơ Đời Không Có Em
(1998)





Cùng hơn một trăm bài xã luan viết về Hiến pháp và Dân Chủ cho nhiều tạp chí Âu châu tiếng tăm.








Chú thích


^ Khi đó Lê Mộng Nguyên 20 tuổi, trong khi tuổi trường thành thời ấy là 21
^ Trích phỏng vấn Lê Mộng Nguyên













Phỏng Vấn Nhạc Sĩ Lê Mộng Nguyên

Bảo Trâm Thực Hiện




Bảo Trâm (BT) : Thầy bắt đầu sáng tác vào năm mấy tuổi ? Trong trường hợp, cảnh huống nào ? 
Lê Mộng Nguyên (LMN) :Xin Trâm cho tôi bắt đầu nói về thi văn vì đó là nguồn gốc của sáng tác âm nhạc trong trường hợp riêng tôi. Làm thơ từ 9 tuối và được người ta biết là có khiếu viết văn ngay từ dạo ấy ở Huế, tại trường cao đẳng tiểu học Chaigneau, tôi diễn tả ‘’Cái ghen của Hoạn Thư’’ trong một bài thi lên lớp được thầy quá khen và đã không ngần ngại cho điểm 20 trên 20... và sau này trong tuyển thải giữa các thí sinh trường trung học (concours général) ở cựu thủ đô đế quốc An-Nam, tôi chiếm Giải Nhất (Giải Thưởng Bảo Đại). Sở dĩ tôi bắt đầu bằng thơ và quốc ngữ vì hai điểm này (như tôi đã nói trên) có dính dáng đến sự nghiệp soạn nhạc của tôi. Nguyên do : hồi ấy, cạnh nhà tôi ở Chợ Cống (Phú Xuân) có anh Trần Kim Ngọc lớn hơn tôi độ ba bốn tuổi, biết tiếng tôi viết văn hay nên nhờ tôi đặt lời cho vài bản nhạc của anh sáng tác qua cây đàn mandoline. Để thuận tiện, anh Ngọc dạy cho tôi đàn măng cầm và bán rẻ cho tôi cây đàn của anh vì anh quá thích lời tôi viết cho nhạc của anh. Từ đó, tôi tập đàn và bắt đầu sáng tác trên măng cầm (sau này, qua lục huyền cầm Y pha nho) và mặc dầu chưa đọc một sách nhạc lý nào cả, tôi tìm kiếm một mình và tự học qua những bản nhạc đã xuất bản lúc bấy giờ của Lưu Hữu Phước, như Bạch Đằng Giang, Nam Tiến, Hội Nghị Diên Hồng... hoặc nhạc hướng đạo như Lên Đàng, Gọi Đoàn... hoặc những bản ca quốc tế đặt lời Việt như trong tập ‘’Đời Vui Sướng ‘’ của Phạm Văn Xung, ‘’Tiếng Chim Ca’’ của Lưu Ngọc Văn và Đào Văn Thiết... Bài Xuân Tươi là bài tôi sáng tác đầu tiên năm 15 tuổi, tôi rất hãnh diện được báo ‘’Quốc Gia’’ cho đăng ngay trong ‘’Đặc San Mùa Xuân’’ (dưới bút hiệu Lan Đào là tên 2 người em gái của một người bạn thân thiết, anh Trần Đình Bá) : Xuân về chào đời, Ngàn thắm tươi, Xuân về đầy lời tràn núi sông, Hát vang trong bao nhiêu lòng, Chào Quốc gia, mừng hát ca đời thắm hoa, vân vân. Lời nhạc trong sáng, vô tư, đúng là hình ảnh của một thời êm đẹp đã qua !

Sau đó tôi tự học (autodidacte) nhạc lý trong sách ‘’La deuxième année DE MUSIQUE Solfège et Chants’’ của Ạ MARMONTEL, Paris Armand Colin 1890, cả thảy 336 trang nhưng rất đầy đủ vì có rất nhiều tỉ dụ lấy từ những bài nhạc lừng danh. Về phần hòa âm, tác giả cho vài ‘’Notions élémentaires d’harmonie’’, vỏn vẹn 6 trang mà thật quá ích lợi cho bất cứ người nào mới bắt đầu trong lãnh vực. Hiện giờ, tôi vẫn giữ cuốn sách cũ kĩ này của ông Marmontel với những lời mở đầu do các nhạc sĩ đại tài thuộc Bác sĩ Học viện Pháp (Institut de France) như Gounod, Massenet, Saint-Saẽns, Delibes... như một kỷ vật đáng tôn thờ. Từ nhạc vui mạnh đến nhạc buồn lãng mạn (vì hoàn cảnh chiến tranh và những cuộc tình dang dở) và để tiếp theo hứng cảm của các tác giả tôi yêu chuộng như Văn Cao (Suối Mơ), Đặng Thế Phong (Con Thuyền Không Bến), Nguyễn Văn Thương (Đêm Đông), Hoàng Giác (Ngày Về), Dzoãn Mẫn (Biệt Ly), Anh Việt (Bến Cũ)... tôi đã làm trong những năm 1948, 49, 50 những bản nhạc mà hơn nửa thế kỷ sau người ta vẫn còn ưa thích, như Nhớ Huế, Bài Thơ Huế, Mỵ Châu Trọng Thủy, Trăng Mờ Bên Suối...
(BT) : Trong thời gian du học tại Pháp, thầy có sáng tác gì nữa không ? Nếu có, thì những sáng tác ấy mang chủ đề gì ? Nếu không, xin thầy cho biết lý do tại sao ?
(LMN) : Trong mấy năm đầu : 1951, 1952 và 1953... ở Paris, tôi tiếp tục sáng tác, hôm nay dở lại bản thảo, thấy có nhiều bài diễn tả nỗi lòng cô quạnh của một người trai trẻ sống trên đất khách, xa nhà, quê hương và người yêu dấu. Nhớ nhà và ân nghĩa sinh thành, tôi viết bài Lá Thư Cho Meï và sau khi ba tôi mất, bài Tìm Lại Ngày Xưa để tặng hương hồn người thân phụ quá cố. Tôi có kể chuyện này trong bài tùy bút ‘’Những cái chết đã qua trong đời tôi hay là những mảnh đời không tươi sáng...’’ (xem Hồn Quê 6, ngày 15-06-2001). Về phần tình cảm và lãng mạn nhớ nhung, có bài Tha Hương (viết đêm 11-12-1950, 2 tháng sau khi tôi đặt chân xuống phi trường Orly-Paris ngày 05-10-1950, cung ré mineur với (hành nhạc) : Tempo di English Waltz), chưa đặt lời... tôi cũng không hiểu tại sao. Đến lượt Xuân Tha Hương rất thiểu não... và từ Hiệp định Genève năm 1954, một số bài tiêu biểu như : Sông Seine, bao giờ ta veà nước Nam ? Kiếp Giang Hồ, Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương, Bụi Đời (cảm đề phim do Lê Mộng Hoàng đạo diễn), và gần đây : Quê Tôi, Chiều Vàng Năm Xưa... đó là không kể Thu Trên Sông Seine, Giao Mùa, Thề Non Nước là những bài thơ của Vương Thu Thủy, Phạm Ngọc, Tản Đà được tôi phổ nhạc.

(BT) : Lần đầu Trâm gặp thầy, trong giảng đường đại học vào năm 1986, Trâm lên bục giảng hỏi thầy : Phải thầy là tác giả của Trăng Mờ Bên suối không ?... Thầy đã nghĩ gì ngay lúc ấy ? Tâm trạng thế nào ? Ngạc nhiên ? Vui ? Ngậm ngùi ?
(LMN) : Trước hết, xin cảm ơn Trâm đã kể lại cuộc ‘’gặp gỡ’’ này trên NET và gần đây trên báo Nghệ Thuật của nhạc sĩ Lê Dinh ở Montréal, qua bài tùy bút Kỷ niệm với tác giả của Trăng Mờ Bên Suối rất dịu dàng và nhung nhớ, đã làm tôi xúc động vô cùng. Trâm viết năm 1998 mà tôi chỉ mới được đọc hồi tháng tư năm nay (2001) nghĩa là từ ngày tôi có Internet và gia nhập ‘’Nhóm Sáng Tác’’ của Trâm và một số thân hữu chủ trương. Hồi ấy tôi chỉ thoáng nghe Phương Khanh nói là Trâm có viết một bài kỷ niệm với tôi rất hay nhưng tôi chưa vào Internet mà cũng không biết cách nào để đọc trên máy người khác. Lúc Trâm đến hỏi tôi năm 1986 sau bài học về ‘’Khoa học Chính trị’’ tôi dạy hôm ấy cho sinh viên của Département d’Administration Economique et Sociale mà tôi được hân hạnh làm giám đốc (directeur) ở đại học Paris VIII, tôi hơi ngạc nhiên trong khoảnh khắc vì chuyện đã xưa rồi mà nay vẫn còn có người (một cô sinh viên nhỏ nhắn, xinh xắn và e dè) nhắc nhở trên đất khách, nhưng lòng thấy vui vui như một hạnh phúc mong manh đã trở lại sưỡi ấm một quả tim lưu lạc. Hồi ấy, tôi không liên lạc nhiều với cộng đồng VN, nhưng mỗi lần gặp một sinh viên VN nhất là phái nữ ghi tên theo dõi những ‘’khoa quyết tuyển’’ (matières à option) của tôi, là một nguồn hãnh diện mới... Sau đó, Trâm có tặng tôi một tập thơ (7 bài) với nhan đề ‘’Hoàng Hôn Trắng’’ và một băng cassette audio trong đó Trâm tự hát và ghi âm (đàn đệm lục huyền cầm) những bài đượm tình nhung nhớ (như tôi đã kể lại trong ‘’Từ Mây Khúc đến Hẹn Anh 15 Năm của Bảo Trâm - Trang Thanh Trúc hay là Paris và Montréal trong tình đời và tình người’’, ns HỒN QUÊ 7 , ngày 15-07-2001).

(BT) : Trâm xem lại một số sáng tác của thầy, thấy chủ đề quê hương rất nhiều, hoặc nhắc về một tình yêu nào đó trong dĩ vãng và cái dĩ vãng ấy luôn luôn được lồng trong khung cảnh quê hương. Có đúng như vậy không ? Và nếu quê hương luôn luôn hiện diện trong những nhạc phẩm của thầy, thầy có bao giờ trở lại quê quán chưa ? Có hoặc không, xin thầy có thể cho biết lý do ?
(LMN) : Xin Trâm biết rằng không những chỉ trong một số sáng tác mà hơn nữa tôi có thể nói là trong tất cả những sáng tác của tôi, bất kể là nhạc hùng từ Vó Ngựa Giang Hồ (1948) đến Việt Nam Thắm Tươi (2001) hay nhạc tình cảm từ Trăng Mờ Bên Suối (1949) hay Nhớ Huế (1950) cho đến Thề Non Nước (2001) và Chiều Vàng Năm Xưa (05-11-2001), qua gần một trăm bản nhạc mà tôi đã cho in hay viết ra, chủ đề duy nhất là quê hương đất nước, hứng cảm tận cùng là làng mạc, thôn xóm, sông Hương, núi Ngự với một dĩ vãng vừa êm dịu vừa thương đau, một mối tình dang dở nhưng đã trở thành bất diệt như bài Trăng Mờ Bên Suối (1949) làm tại quốc nội (xin xem tùy bút ‘’TMBS hay là cuộc hành trình trong một quá khứ lãng mạn và thương yêu’’ của Lê Mộng Nguyên, Hồn Quê 9, ngày 15-09-2001) hay Xuân Tha Hương (hoặc Kiếp Tha hương) viết tại Paris (1952) trong những ngày đau khổ và cô quạnh trên đất khách ... : Chỉ thiếu một mình em chiều nay phương trời Âu xa vời. Mây kéo lê thê, trời nước bao la kìa dòng sông Seine lơ lửng xuôi ngày tháng. Mùa xuân đến khắp trời, khắp nơi người ta đi lướt thướt. Riêng tôi đứng nhìn, nhớ lại ngày qua cùng em sánh vai bên dòng đời âm thầm ! Tôi nhớ sông Hương với giọng hò cô lái. Khi thấy sông Seine nước đục lờ không tình yêu ! Vườn hoa nơi đây lại gợi nhớ Văn Lâu. Sao lúc xuân về mà nước non âu sầu ? Xa cách muôn trùng bởi vì đâu còn lưu luyến ? Ngày xưa tiếng đàn còn thiết tha tình duyên ! Bài này (do nhà xuất bản An Phú phát hành ở Saigon) đã được Thái Thanh hát lần đầu tiên tại Đài phát thanh Việt Nam trong năm 51-52 theo lời yêu cầu của người yêu của tôi còn ở lại bên nhà. Đầu năm nay (tháng 02-2001), tôi có viết nhạc phẩm ‘’Ma Vie Sans Toi’’ (Đời Không Có Em), lời bằng tiếng Pháp (mà cũng là cả một bài thơ) theo nhạc của TMBS :Pourquoi ne viens-tu pas en France ?Où il fait bon vivre, ensembleNous continuons notre amourAu bord de la Seine du bonheur.Sous le beau ciel bleu de ParisNotre idylle le jour, la nuitReprend son cours et sa passionEn bravant le destin du mondeAMOUR ! Pour la vie ou pour un jourMon coeur bat pour toi mille fois encoreAMOUR ! de mes jeunes années passéesà travers champs, dans les présles nuits d’étéJe ne sais pas pourquoi la vienous lie et nous désunitMa vie depuis n’a aucun sensLoin du pays de mon enfanceSouffrant, je vis au jour le jourDans cette vie sans ton amour.
.. và vừa rồi (ngày 05-11-2001) bài Chiều Vàng Năm Xưa đượm nhớ nhung và buồn man mác như là tiếp nối trên đất khách một cuộc tình dang dở đã diễn tả trong ‘’Trăng Mờ Bên Suối’’
Từ ngày Saigon mất và để trả lời câu hỏi của Trâm, tôi không bao giờ có ý định trở lại cố hương... Tôi sẽ trở lại quê quán một ngày mai nước Việt thanh bình và dân tộc ấm no, hạnh phúc. Xin lỗi Trâm, tôi không muốn nói thêm nhiều về chuyện này.


Mời nghe

(BT) : Trâm quen biết thầy từ năm 1986, nhưng không bao giờ thấy thầy có mặt trong những buổi sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng VN. Mà phải chờ mãi đến đầu những năm 90, tình cờ mới được gặp thầy trong một buổi văn nghệ của Tổng Hội Sinh Viên VN tại Paris tổ chức. Xin thầy cho biết, trong cái khoảng thời gian ấy, có nghĩa là từ lúc Trâm gặp thầy vào năm 1986 đến1990, sinh hoạt thường ngày của thầy là gì và những sáng tác vẫn tiếp tục ra đời hay đã bị gián đoạn ?

(LMN) : Nếu riêng Trâm lần đầu thấy tôi trong đêm văn nghệ Tết của THSV năm 1990, đó không phải là lần đầu tôi có mặt trong một buổi văn nghệ của đồng bào mình tổ chức. Thật ra, những năm trước đó, năm nào tôi cũng có mặt tại Nhà Hát Lớn Maubert-Mutualité để ủng hộ sinh viên nước mình (nhà tôi cách đó chừng hai phút đi bộ thôi). Trước 1990 và ngay từ năm 1977-1978, tôi đã thuộc vào nhóm trí thức kêu gọi dân tộc và nhà cầm quyền Pháp quan tâm cứu trợ nạn thuyền nhân vượt biển (boat people) do một tờ báo VN đề khởi, nhắm mục đích việc thuê chiếc tàu ‘’Đảo Ánh Sáng’’ - ỵle -de-Lumière (lúc ấy Trâm mới 12 tuối mà cũng vừa mới đặt chân trên đất Pháp thành thử không làm sao theo dõi được) vào khoảng tháng 4-1979, với sự ủng hộ của các nhóm trí thức người Pháp không phân biệt tả hữu, như Jean-Paul Sartre, Raymond Aron, Simone de Beauvoir, Maurice clavel, Jean Lacouture, André Glucksman, Yves Montand, Olivier Todd, Bernard Kouchner... Từ dạo ấy tôi có viết nhiều bài báo phần đông bằng tiếng Pháp về vấn đề Việt Nam, ngoài ra phải lo giảng dạy ở đại học Besançon, hơn nữa (tương tự bất cứ giảng sư đại học nào) phải làm ‘’travaux scientifiques’’ rất nhiều (khảo cứu về luật hiến pháp và khoa học chính trị, đăng báo và xuất bản nhiều sách) để được thăng trật và thuyên chuyển lên đại học Paris VIII từ năm 1984-1985. Trong khoảng thời gian từ 1986 đến 1990, tôi không có nhiều thì giờ để sáng tác nhạc mặc dầu hứng cảm lúc nào cũng dồi dào (lâu lâu cho đăng một nhạc mới trên báo chí hải ngoại và nhất là trên những đặc san Mùa Xuân). Ngoài ra, bắt đầu 1993 tôi viết thường xuyên những bài về chính trị VN và quốc tế (bằng Pháp ngữ) trên bán nguyệt san ‘’L’Appel de la Nation’’, và từ 1995 trên nguyệt san song ngữ ‘’Tin Tức’’ cùng trên tạp chí tam cá nguyệt ‘’Human Rights’’ (Huntington Beach), ‘’ Đối Lực’’ và ‘’Khai Thác Thị Trường’’ ở Toronto hay những bài phê bình văn nghệ rất thường xuyên từ năm 1998 trên nguyệt san Nghệ Thuật của nhạc sĩ Lê Dinh ở Montréal...




Từ trái: Mai Anh Tuấn, Lê Mộng Nguyên, Quách Vĩnh Thiện, Nguyên Lộc, Trần Quang Hải, Tuyết Dung, Hoàng Yến, Linh Chi, Nguyên Dung, Nguyễn Minh Châu 
(Paris 9/8/2001) 


(BT) : Động cơ nào thúc đẩy thầy gia nhập những sinh hoạt của cộng đồng VN tại Paris ? 

(LMN) : Nỗi nhớ nhà, thương nước, thương đồng bào... đã là những lý do trong việc tôi tham gia (với chút thì giờ còn lại ngoài công ăn việc làm và viết lách), tôi nói tham gia chứ không phải gia nhập vào hội này hội khác. Tôi muốn đứng ngoài hội hè và đình đám để hăng say làm việc một mình có hiệu quả hơn, cho nên luôn từ chối làm chủ tịch, tổng thư ký hay thành viên ban quản trị của nhóm này hay nhóm khác. Tôi muốn , với những sách khảo luận, những bài báo, bài nhạc, bài thơ, làm cho dư luận quốc tế chú ý đến tình trạng đau khổ của đồng bào quốc nội. Bài Thề Non Nước tôi phổ nhạc thơ Tản Đà, muốn nói lên nỗi đoạn trường vô cùng tận của tôi trên xứ lạ, lúc nào cũng hướng về quê cha đất tổ và như nữ sĩ BảoTrâm đã viết rất chính xác để kết thúc bài tùy bút êm đẹp và nhung nhớ của nàng ‘’Kỷ Niệm Với Tác Giả Của Trăng Mờ Bên Suối’’ : Nước có trôi đến đâu cũng trở về nguồn !

(BT) Xin thầy cho biết những dự định trong tương lai?

(LMN) : Tôi sống rất nhiều trong hiện tại... Nhưng để trả lời câu hỏi của Trâm : trong một tương lai rất gần (nghĩa là trong một, hai hoặc ba tháng ... hay sang năm) tôi sẽ cho xuất bản sách ‘’Phê Bình Văn Nghệ’’ (Thi Văn Nhạc Sĩ Hải Ngoại), và một tuyển tập bằng Pháp ngữ ‘’Contes philosophiques asiatiques’’ cùng một biên khảo ‘’La Guerre Civile Vietnamienne’’ (khoảng chừng 500 trang). Sách viết xong hết cả từ lâu, hiện tôi đang do dự tìm kiếm và lựa chọn một nhà xuất bản có tiếng trong lãnh vực. Về phần sáng tác âm nhạc, tôi vừa nhận được thư của một nhà xuất bản Pháp muốn liên lạc với tôi (qua SACEM) xin cho in một số nhạc của tôi như : Ma Vie Sans Toi, La Légende de My Chau et Trong Thuy, v.v. 


(BT) : Để kết thúc, Trâm có vài câu hỏi nhỏ mà thầy chỉ cần trả lời bằng một chữ mà thôi. 1 chữ đủ nói lên tất cả (nhưng lẽ dĩ nhiên thầy hoàn toàn tự do lựa chọn cách trả lời) :

(LMN) :
Tôn giáo : Tự Do Tín Ngưỡng (Liberté de croyance)
Chủ Nghĩa : Dân Chủ Tự Do (Démocratie Libérale)
Màu sắc : Xanh trời (Bleu ciel)
Saison : Mùa Thu (Automne)
Thần tượng : GANDHI (1869-1948)
Điện ảnh : APOCALYPSE NOW
Văn chương : Việt Nam : NGUYỄN DU (Kim Vân Kiều) ; Pháp : VICTOR HUGO, LAMARTINE
Âm nhạc : MOZART 
Vos bons côtés : Tôi là một người rất giàu tình cảm ! 
Vos mauvais côtés : Dậy rất sớm mỗi ngày để làm việc (kể cả ngày lễ và chủ nhật). Xấu hay tốt ? Tùy ý độc giả Hồn Quê phán đoán. 

Votre citation préférée (d’une personne célèbre) : Bốn câu thơ của LAMARTINE (trích bài ‘’L’Isolement’’, trong thi tập ‘’Méditations Poétiques’’) :Que me font ces vallons, ces palais, ces chaumières, Vains objets dont pour moi le charme est envolé ? Fleuves, rochers, forêts, solitudes si chères, Un seul être vous manque, et tout est dépeuplé ! 

Xin tạm dịch : 

Trước thung lũng, đền đài và nhà lá
Ngoại vật trống không, mê ảo rụng rời
Cả những sông, núi đá, khu rừng thẳm
Từng ẩn núp mộng tưởng với cô liêu 
Nay thiếu bóng một người yêu muôn thuở 
Tâm hồn ta như hoang vắng, quạnh hiu

Votre rêve (aspiration) : Tôi hy vọng trong một ngày mai rất gần tất cả nhân loại sẽ chung sống trong tự do, hạnh phúc và thân ái. Xin thành thật cảm ơn ký giả Vương Huyền, chủ trương nguyệt san Hồn Quê và nữ sĩ Bảo Trâm đã cho tôi có dịp bày tỏ đôi lời tâm sự với đồng bào độc giả quí mến trên mạng lưới qua một nguyệt san lừng danh.


(PARIS, ngày 25 tháng 11-2001)
Bảo Trâm Thực Hiện

















Trăng Mờ Bên Suối
hay là cuộc hành trình trong một quá khứ lãng mạn và thương yêu

Lê Mộng Nguyên



Trong bài diễn văn mở đầu cuộc Tuyển Lựa Ca Sĩ Giải Cung Vàng 3 do Đài Tiếng Nói Việt Nam của ký giả Lê Thái và báo Nghệ Thuật của nhạc sĩ Lê Dinh tổ chức đêm mồng một tháng tư năm 2000 tại Trung tâm Văn Hóa Xã Hội Brossard (Québec, Gia Nã Đại) để kỷ niệm Đệ Tứ Chu Niên của Đài và để vinh danh một ‘’nhạc sĩ kỳ cựu’’ đã không ngần ngại bay từ Paris đến Montréal làm Chánh Chủ Khảo, tôi có đôi lời nhắn nhủ 16 thí sinh được lựa chọn vào phần Chung Kết như sau : ‘’... Hãy hát một cách hồn nhiên, thành thật, nếu buồn thì phải cho người nghe nhung nhớ, nếu khổ thì phải chia xẻ với khán thính giả mắt rưng rưng, nếu vui thì phải hòa hợp với mùa xuân đang chớm nở... Tóm lại : các em phải làm thế nào cho đồng bào hiện diện nơi đây được thông cảm với nhạc và lời của tác giả, với người hát và với bối cảnh muôn hình vạn dạng của một quá khứ mà nhạc sĩ muốn ghi lại cho đời...’’ Theo cùng một quan niệm, Trăng Mờ Bên Suối được viết cách đây hơn nửa thế kỷ vào một ngày không mưa tại Huế để đánh dấu một mối tình bất diệt nhưng đau khổ của hai đứa trẻ yêu nhau trong thời khói lửa... với linh tính sẽ xa nhau mãi mãi (Tóc xanh nhuốm bạc màu nhân thế, Tưởng nhớ người xưa mộng lỡ làng... Trời Âu, thơ LMN) sau một đêm gặp gỡ cuối cùng bên bờ suối, dưới ánh trăng mờ : Ai hay chia lìa, Sương gió biên thùy, Hiu hắt người đi sa trường xa... Lúc bấy giờ, chiến tranh bùng nổ giữa quân đội Quốc gia (dưới thời cựu hoàng Bảo Đại, Quốc trưởng kiêm Thủ tướng Chính phủ thành lập ngày mồng một tháng bảy 1949, với Tướng Nguyễn Văn Xuân, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng), dư luận xôn xao bàn tán về cuộc tổng động viên sắp ban hành...


Với cây đàn lục huyền cầm Y Pha Nho chiều hôm ấy (13 tháng 11 năm 1949), tâm hồn xao xuyến và dưới một sự xúc cảm dạt dào, tôi đã viết rất mau lẹ (từ 20 tới 30 phút) trong một cuốn vở học trò và trên những trang giấy có phân ly (papier millimétré) đầy ký chú những bài học Lý Hóa ở trường Quốc học Khải Định, một tác phẩm mà sau này sẽ trở thành bất hủ, nhạc phẩm Trăng Mờ Bên Suối. Ai là nhạc thần trong sự sáng tác bài nhạc này đã làm cho ngay tác giả lúc nghe lại chiều hôm ấy cũng phải rụng rời con tim ? Nhiều người đã hỏi tôi và gần đây, Huyền Châu (nữ ca sĩ số một hiện giờ ở Montréal) trong cuộc phỏng vấn Lê Mộng Nguyên trên Đài TNVN chiều hôm 02/04/2000, muốn biết (tôi xin trích) trong trường hợp nào và những tình cảm, những kỷ niệm nào đã cho tác giả nguồn cảm hứng để sáng tác nhạc phẩm muôn thuở TMBS mà nàng đã được hân hạnh và vinh dự trình bày đêm ca nhạc 01/04/2000. Linh tính một sự đau khổ trong tương lai vì phải rời quê cha đất tổ qua năm sau (nghĩa là cuối năm 1950) cùng với óc tưởng tượng dồi dào của một học sinh 19 tuổi đã làm cho tôi biến hóa những cuộc gặp nhau bên bờ sông Hương, sau Đài Trận Vong Chiến Sĩ nằm trước cửa hai trường Khải Định-Đồng Khánh (Em ơi đã hứa bao lần, Bên Bia đá nặng lời sông Hương thề...’’Mấy Tờ Thư’’, thơ LMN) và trên đường Nam Giao (nơi trú ngụ của cô gái Huế người hoàng tộc mới tuổi dậy thì : Về nơi mô ? Chiều Nam Giao, nhớ người Bến Ngự, nhớ lời ước thề... Bài Thơ Huế, nhạc LMN), trong lúc chiều vàng mặt trời sắp xuống, thành một gặp gỡ cuối cùng bên bờ suối vắng dưới ánh trăng mờ, mà ngay hoa lá cũng động lòng nức nở khóc nỗi chia ly :


Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối
Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu
Một đêm thiết tha rồi đây xa cách
Ròi đây hai ngả biết tới phương nào...

Tôi vừa viết xong thì anh Lê Mộng Hoàng lúc ấy mới đi chơi về, hát thử ngay với giọng ténor léger của anh rất xúc cảm, tôi quyết định gửi cho danh ca Thu Hồ trính bày ba bốn hôm sau trên Đài Phát thanh Pháp Á (Radio France-Asie) và ngay từ dạo ấy, TMBS đã sẩy tay tác giả để tự làm một cuộc đời danh vọng, vượt cả không gian và thời gian, trải qua bao thế hệ. Để tường thuật buối ca nhạc thân mật đêm 7 tháng 10-1978 tại Quán Trúc (tòa soạn báo Quê Mẹ ở Paris), ký giả Hồ Trường An viết : Anh Lê Mộng Nguyên, một nhạc sĩ lừng danh trong thập niên 50, tác giả những bản ‘’Trăng Mờ Bên Suối’’, ‘’Nhớ Huế’’, ‘’Bài Thơ Huế’’ hôm nay lên hát lại những tác phẩm của mình. Khoảng thời gian vắng bóng trong giới âm nhạc quá dài, nên anh quên khá nhiều lời hát. Có kẻ nhắc dùm anh và anh hát với cảm xúc dạt dào. Anh sáng tác nhạc như bỏ con rơi của mình cho cuộc đời, không ngờ người đời còn giữ gìn cho anh’’ (Quê Mẹ số 26, ngày 14/10/1978, tr. 15). Thật vậy ! Tôi bỏ nhà ra đi từ cuối năm 1950 sau khi đã sáng tác rất nhiều nhạc để lại cho Thu Hồ hát trên Đài Pháp Á và cho in nhiều lần tại các nhà xuất bản Hương Mộc Lan, Tinh Hoa, Ái Hoa, An Phú hay Á Châu, vân vân. Và sau đó những nam nữ ca sĩ danh tiếng không ai là không hát và thu thanh ít nhất một lần và một bài TMBS. Từ đất Pháp, tôi được biết qua thư từ rằng vào khoảng năm 1951-1952, TMBS được thính giả Đài Phát Thanh Việt Nam lựa chọn vào 8 bài hát hay nhất trong nước và từ ấy, vào đĩa 78, 45, 33 vòng, cassettes, vidéo, CD vân vân ở quốc nội và hải ngoại... Nhạc sĩ Trịnh Hưng kể lại cho tôi biết lúc anh còn là Bộ đội Việt Minh làm Văn Công, anh đã nghe nhiều người hát TMBS vì đó là một bài hát lãng mạn rất hợp với tâm trạng người lính mặc dầu chính phủ Cộng sản cẩm hát nhạc ủy mị một cách gắt gao trong quân đội. Trịnh Hưng viết cho tôi trong thư đề ngày 14/03/1998 : Năm 1952 tôi về Thành, về Hà Nội, tôi đi đờn ở Dancing cho lính Tây nhảy, họ cũng có chơi ở đó cho ai nhảy slow, và tôi về nhà có dạy một số em học sinh đờn Hawaìi, họ học được ba tháng là thế nào cũng bắt tôi dạy họ bài TMBS của anh vì vậy tôi cứ tướng là anh nhiều tuổi lắm. Khi đó tôi mới ngoài 20, tôi tưởng là một người làm được bài nhạc đó chắc là đã lớn rồi, chứ đâu có ngờ anh còn quá trẻ và làm nhạc thành công quá sớm, lúc đó tôi chưa làm được một bài nhạc ngắn nào cả nên càng khâm phục. Rồi vào Saigon thì bài nhạc đó cũng thịnh hành. Không một thanh niên hay thiếu nữ nào chả biết đến nó và hát nó...


Lẽ dĩ nhiên là TMBS từ dạo ấy đã dính vào da tôi hơn cả một danh thiếp ! Người ta chẳng ai chú ý đến nghề nghiệp của tôi đã làm cho tôi sinh sống ở đất khách quê người : Tôi chỉ cần tự giới thiệu là nhạc sĩ, tác giả TMBS là ai cũng biết tiếng rồi ! Có người so sánh tôi với Alain-Fournier, tác giả ‘’Le Grand Meaulnes’’, chỉ có một tác phẩm mà cũng đủ nổi tiếng khắp năm Châu ! Nói vậy là không đúng, vì tôi làm nhạc từ 15 tuổi : bài Xuân Tươi viết năm 1945 : Xuân về chào đời, Ngàn thắm tươi, Xuân về đầy lời tràn núi sông, Hát vang trong bao nhiêu lòng, Chào Quốc gia, mừng hát ca đời thắm hoa ... Nhạc tươi vui như mảnh đời vô tư của thời thơ trẻ : bài này dưới bút hiệu Lan Đào được đăng báo QUỐC GIA Đặc sanTết Mậu Tý. Cũng trong năm ấy, bài nghiên cứu lịch sử ‘’Phan Đình Phùng’’ của tôi được đăng trên ViỆt Nam TÂn BÁo dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim; năm 18 tuối tôi được cấp Thẻ Nhà Báo (Carte de Presse), sau khi đã viết thơ và nhạc cho phẬt giÁo vĂn tẬp và làm trưởng ban hợp ca thanh,thiếu niên Phật tử ở Huế. Chính tôi với tư cách tác giả bài Mừng Khánh Đản đã điều khiến ban hợp ca này (với cây đàn vĩ cầm hồi ấy) trong dịp khánh thành chùa Từ Đàm rất lớn ở Huế năm 1948 :

Ngày Rằm Tháng Tư nay về đây !
Ngày trần gian chào đón Đức Phật Từ tôn chúng ta
Ngàn ánh sáng tưng bừng lan trong nắng mai huy hoàng...

Năm 1948 cũng là năm tôi sáng tác Vó Ngựa Giang Hồ; bài này được HƯƠNG MỘc Lan xuất bản năm 1949. Trong sách NH_C LÝ Dẫn Giải do Lê Thương đề tựa in năm1949, anh Giám đốc Trần Văn Đặng loan báo sẽ xuất bản Chiều Thu của Lê Mộng Nguyên cùng với ‘’Ngợi Trùng Dương’’ và ‘’Trên Sông Hương’’ của Lưu Hữu Phước. Bài Một Chiều Thương nhớ viết năm 1949 (29/11) nghĩa là hai tuần sau TMBS là sự tiếp nối của một mối tình dứt đoạn :


... Rồi đây sương gió duyên kiếp lỡ làng

Trời xa xăm lắm em biết đâu tìm
Lòng anh khắc khoải chờ mong
Mờ mịt trời Âu đôi lứa khóc âm thầm


Cũng như bài Ly Hương sáng tác năm 1950 trước khi tôi rời đất nước là để kết thúc một cuộc tình từ nay dang dở : ... Chiều nay ly hương, Rời xa nước non ngàn năm luyến lưu một đời gió sương, Một chiều ly hương úa phai ngày ấy, Con tàu lướt sóng về đến trời Âu... Những bài tôi làm trong năm 1950 rất nhiều (trước khi qua Pháp du học tháng 10 -1950) trong đó có : Nhớ Huế (28/02/1950), Bài Thơ Huế, Ly Hương... toàn muốn diễn tả cái đau đớn tận cùng của hai đứa trẻ đang gặp nhau nhưng biết trước sẽ ngàn năm vĩnh biệt nhau:

Em của anh giờ nay ở đâu ?Tìm em anh dạo suốt canh thâuĐường chia hai ngả anh đâu biết
Là sẽ ngàn năm vĩnh biệt nhau

Bài thơ ‘’Tìm Em’’này của tôi (đăng trong CHTY 5-1999) đã được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc và do Khắc Dũng ca trong CD ‘’Hẹn Về Phan Thiết’’, 2000, Singapore). Sống trên đất Pháp từ ngày 05/10/1950, và để tặng người xưa đã lập gia đình, tôi đã hứng cảm nhạc lòng ưu ái và đau khổ qua : Xuân Tha Hương, Bên Dòng Sông Seine (Sông Seine, bao giờ ta về nước Nam ?), Thề Non Nước (Thơ Tản Đà), Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương, Kiếp Giang hồ, Quê Tôi... và một thi tập ĐỜi KhÔng CÓ Em (sẽ xuất bản).

Những bài nhạc mà tôi ưa thích và hay hát nhất hồi còn học sinh cùng lớp với bạn Tôn Thất Niệm tại trường trung học Khải Định (cạnh trường nữ học sinh Đồng Khánh ở Huế) và có thể có ảnh hưởng sau này (một phần nào trong tiềm thức) việc sáng tác TMBS, là : ‘’Thiên Thai’’ (Văn Cao), ‘’Giọt Mưa Thu’’ và ‘’Con Thuyền Không Bến’’ (Đặng Thế Phong), ‘’Ngày Về’’ (Hoàng Giác), ‘’Đêm Đông’’ (Nguyễn Văn Thương), ‘’Biệt Ly’’ (Dzoãn Mẫn)... Để nhắc lại thời tươi trẻ này, nhà văn học sử Nguyễn Cúc (tác giả sách SAIGON 300 NĂM CŨ) đã ghi lại trong ‘’Tiếng Sông Hương’’ (Kỷ Niệm 100 năm Trường Quốc Học : 1896-1996, Dallas 1996, tr. 252 trong LTS giới thiệu truyện ngắn ‘’Khúc Nhạc Trở Về’’ của tôi) : Học sinh Khải Định thế hệ 45, hay hát và hát hay có Tôn Thất Niệm và Lê Mộng Nguyên. Bạn bè ‘’hai phe’’ mỗi người thích một giọng hát riêng. Tôn Thất Niệm, còn nhỏ đã ‘’mệ’’ rồi, tiếng hát còn mệ hơn; giọng trầm, hơi ‘’ấm’’ với tiếng ngân microtone như lắng đọng trong tim xa vắng... lâng lâng. Lê Mộng Nguyên, tiếng hát velato, nhẹ nhàng, ướt át, hụt hẵng chơi vơi. Cũng cùng thế hệ 45, sáng tác nhạc (cũng là điều lạ lùng, hồi đó không ai dạy cả) có Nguyễn Tăng Hích Trần Hoàn ‘’Sơn Nữ Ca’’ rất ‘’fantasia’’ và Trăng Mờ Bên Suối Lê Mộng Nguyên, sáng tác rất luttuoso... Gặp lại Lê Mộng Nguyên năm rồi ở Quartier Latin, đọc thêm lần nữa bài gởi đăng T.S.H. : KhÚc NhẠc TrỞ VỀ, thấy như vọng lại đâu đây âm hưởng ‘’nhạc lòng tê tái... có biết phương nào’’, một thứ séquence mélodique của đường tơ chưa dứt (Symphonie inachevée) ngày nào, năm xưa... rất Lê Mộng Nguyên.’’

1945 xa xưa ! Và nhân cuộc hành trình trở lại nguồn gốc hứng cảm TMBS, tâm tưởng lại đưa đẩy tôi về thời gian sau Cách Mạng tháng 8 : gia đình tôi dạo ấy ở làng Phú Xuân, bên bờ sông Bình Lục, cạnh đô thành Huế, với Đập Đá chia cách sông này với Hương giang, và bên kia là Thôn Vỹ Dạ...(bài Về Chơi Thôn Vỹ, 1950). Tôi còn mãi trong trí nhớ (một thiếu niên 15 tuổi) cái hình ảnh hư ảo của một ban ca nhạc rong, đi chỗ này qua chỗ khác để truyền bá tinh thần cách mạng và luôn tiện là một cách sinh sống trong thời khói lửa, trong đó có một ông già chơi đàn accordéon và với một đứa trẻ chừng 9 tuối, cùng hát bài ‘’Sơn La’’ (thật giống như trong ‘’Sans Famille’’ của Hector Malot), theo cung ré mineur với những âm thanh bình dị, dễ dàng : sol sol, la la, ré ré... (tôi không còn nhớ rõ đoạn tiếp), nhưng sau này biết là của Đỗ Nhuận (có người nói ‘’ông già’’ ấy chính là nhạc sĩ ĐN). Nhạc rất buồn làm tôi rưng rưng nước mắt, bóc túi tìm xem có đồng xu nào để trả ơn... Đêm ấy, trên đường về nhà dưới ánh trăng, tôi bàng hoàng liên tưởng đến bức tranh linh động mà tôi vừa chứng kiến và văng vẳng còn trong tâm trí tiếng hát đau khố như thốt tự đáy lòng của những kẻ bị tù đày dưới thời Pháp thuộc. Có lẽ ở trong tiềm thức và trong lúc sáng tác TMBS bốn năm sau, bằng cung ré mineur , những nốt nhạc bình dị và dễ thương đã thúc đẩy tôi làm rất mau lẹ cho xong bài hát mà sau này (cũng rất mau lẹ) sẽ trở thành một tình ca muôn thuở. Cái bình dị này được làm nổi bật trong chuyỆn ngÀy qua, Tạp bút của Nguyễn Ngọc Diệp (TTVHXH Bruxelles, 1999) mà tôi đã giới thiệu trong Nghệ Thuật (Montréal, Canada, số 58 tháng 01-1999), qua truyện 1 ‘’Mùa Hè Đầu Tiên’’, với đoạn văn hóm hỉnh như sau : ... Chị tôi lên tiếng trước : - Vì Vịt bầu đờn hay, ta yêu cầu nhà ngươi trình diễn bài người hẹn cùng ta đứng bên bụi chuối, nghe chưa ? Hơn nữa nhà tau có bụi chuối mà mi có đứng bên đó một lần phải không ? Xác nhận đi và đờn ngay, ta tha cho ! ... Tau cũng đồng ý cho qua chuyện chuối chiếc, chừ thì trở lại chuyện hát hỏng, nghe rõ mấy mụ o dọn mồm ? - Tau hỏi thiệt Vịt bầu tại răng mà ai mới học đờn mandoline cũng đờn bài bụi chuối ni ? - Vì bài ni dễ đờn lắm, mi thấy chưa, này, rề rề pha xôn la phà... Tôi đã không bực mình vì người ta muốn đổi lời cho vui như thế (mà chỉ mỉm cười và hãnh diện) vì đó là một chứng minh rằng Trăng Mờ Bên Suối sẽ sống mãi trong tâm hồn và lý tưởng của những kẻ thương mến nhau ! Xin cảm ơn các bạn xa gần : tôi vừa tìm ra một trong những lý lẽ xác đáng về sự thành công vĩnh viễn của một bài hát tôi viết cách đây hơn nửa thế kỷ. Xin tạm ngừng và nhân dịp mùa Xuân Văn Nghệ của ái tình : tôi xin mến tặng (một lần nữa) nhạc phẩm Trăng Mờ Bên Suối cho tất cả đồng bào khắp năm châu đã, đang, hoặc sẽ thề nguyện yêu nhau trọn đời, với nhau và với tình sông nước như Tản Đà tiên sinh đã nhắc nhở năm 1922 trong ‘’Thề Non Nước’’ (LMN phổ nhạc) :

Nước non nặng một lời thề,Nước đi đi mãi không về cùng non.Nhớ lời ‘’nguyện nước thề non’’,Nước đi chưa lại, non còn đứng không...................................................................Ngàn năm giao ước kết đôi,

Non non nước nước không nguôi lời thề...




Lê Mộng Nguyên (Paris)
























MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.