Thứ Tư, 7 tháng 9, 2016

Túy Hồng (1938 - 2020)

















Túy Hồng

Tên thật: Nguyễn Thị Tuý Hồng
(12/10/1938 Thừa Thiên - 9/7/2020 Hoa Kỳ)

Nhà văn

Giải nhất văn học nghệ thuật Sài gòn 1970. 
Ðịnh cư tại Seattle Washington Hoa Kỳ từ 1975






Nhà văn Tuý Hồng tên thật Nguyễn Thị Tuý Hồng, sinh 12-10-1938 tại Chí Long, Phong Điền, Thừa Thiên. Tốt nghiệp đại học sư phạm 1 năm tại Huế. Viết văn từ năm 1962.
Được giải nhất văn học nghệ thuật Sài gòn 1970.

Sang Mỹ năm 1975 được đi học Anh Văn và học lớp thư ký cấp tốc một năm. Ðịnh cư tại Seattle Washington Hoa Kỳ từ 1975.

Đã cộng tác với: Văn Hữu, Bách Khoa, Lập Trường, Văn, Văn Học, Tin Sách, Nghệ Thuật, Kịch Ảnh, Con Ong, Diều Hâu, Tia Sáng, Độc Lập, Tin Sáng, Thần Phong, Thời Nay, Đời Nay, Khởi Hành, Tiền Tuyến, Vấn Đề… 










Tác phẩm đã xuất bản:







1
Thở dài
(1963)




2
Vết Thương Dậy Thì
(1967)




3
Tôi Nhìn Tôi Trên Vách
(1970)




4
Những Sợi Sắc Không




5
Trong Mưa Móc Hạt Huyền


6
Bướm Khuya
(1971)




7
Nhánh Tóc Sợi Dòn
(1972)




8
Mối Thù Rực Rỡ




9
Eo Biển Ða Tình
(1973)




10
Trong Cuối Cùng




11
Sạn Ðạo




12
Tay Che Thời Tiết

13
Mưa Thầm Trên Bông Phấn




14
Thông Ðưa Tiếng Kệ

















Tuý Hồng





Tên: Nguyễn Thị Tuý Hồng. Bút hiệu: Tuý Hồng. Ngày sinh: 12-10-1938 tại Chí Long, Phong Điền, Thừa Thiên. Viết văn từ năm 1962 (viết 1 bài rồi nghỉ 2 năm sau mới viết lại).

Tác phẩm: Thở dài, nhà xuất bản Đời Mới 1965, Kim Anh tái bản 1966; Vết thương dậy thì, nhà xuất bản Kim Anh 1966; Trong móc mưa hạt huyền, nhà xuất bản Đồng Nai 1969; Tôi nhìn tôi trên vách, nhà xuất bản Đồng Nai 1970; Mùa hạ huyền, Văn Khoa 1971; Những sợi sắc không (Giải nhất Văn chương toàn quốc 1970), nhà xuất bản Khai Trí 1971; Biển điên, nhà xuất bản Văn Khoa 1971 ; Bướm khuya, nhà xuất bản Đồng Nai 1971

Đã cộng tác với: Văn Hữu, Bách Khoa, Lập Trường, Văn, Văn Học, Tin Sách, Nghệ Thuật, Kịch Ảnh, Con Ong, Diều Hâu, Tia Sáng, Độc Lập, Tin Sáng, Thần Phong, Thời Nay, Đời Nay, Khởi Hành, Tiền Tuyến, Vấn Đề…

Tuý Hồng và Những sợi sắc không

… Huế là quê hương tôi, quê hương đang có vô số nhà cửa cần bán rẻ để người Huế vào Sài Gòn tìm một chỗ ở cuối cùng. Tôi đã ở Huế từ trong bụng mẹ đến năm thứ 28 của cuộc đời. Huế mang thai tôi, để ra tôi, cho đến khi tôi đi lạc vào Sài Gòn này. Từ hai năm nay, tôi ở nhà thuê, nói tiếng Bắc, ăn chả giò, ăn bún riêu, canh chua cá dấm, thịt bò viên, mía ghim và có một người yêu…

… Bỏ Huế mà đi lòng tôi nhớ trời, nhớ khoảng thiên nhiên. Huế đẹp từ vũng nước đọng bên đường đến lượng cỏ non Hương Giang, từ cọng rau muống bờ hồ đến cây phượng già xanh lục… Những đêm mùa đông, những con “ệnh oạng” kê mõm khắc khoải kêu than từ những ao rau muống… kêu chi mà khỏ mà trầm thống!…

… Cực lòng quá, Huế ơi! Tôi đi… ở với Huế buồn lằm… vào Sài Gòn hoạ may có một nụ cười, vào Sài Gòn hoạ may có một người yêu!…

(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 10-11)

Huế, quê hương của Tuý Hồng đã góp mặt vào văn nghệ với truyện ngắn “Thở dài”, làm bỡ ngỡ nhiều người vì nội dung và lời văn bỏng cháy tình dục. Sự góp mặt đầu tiên cũng là sự đóng góp vĩnh viễn vào khung trời văn học Việt Nam một bông hoa lạ và quý. Cô gái xứ Huế, mặc áo tím, che nghiêng nửa mặt chiếc nón bài thơ, mái tóc huyền bỏ xõa ngang lưng, lê đôi guốc mộc gõ lóc cóc trên nhịp cầu Tràng Tiền mỗi sớm, gõ mỗi chiều trên ván cầu Bạch Hổ, để các thi sĩ làm thơ, nó không nằm trong kích thước Tuý Hồng. Tuý Hồng là một ngọn lửa, là một mũi tên, là lưỡi dao nhọn, là những đột biến giãy giụa, là sự dấn thân không trả giá, là cuộc sống hôm nay không có nguỵ trang bằng môi cười e lệ, bằng dáng dấp thẹn thùng, bằng sự mập mờ, che đậy. Huế, kinh đô nhà Nguyễn với thành quách lâu đài, với lăng tẩm uy nghi, với dòng Hương Giang lững lờ xuôi mái, với núi Ngự Bình phơ phất chim bay, với bốn mùa thay đổi. Tất cả, đã tạo nên Huế một sắc thái đặc biệt, nó trầm lắng ưu tư trong quá khứ và nó vạm vỡ, hùng tráng trong cách mạng.

Tuý Hồng được Huế đùm bọc từ thuở ấu thơ tới năm 28 tuổi. Biết bao nhiêu kỷ niệm giăng mắc đầy ứ tâm hồn. Cái cuộc sống đó, nó không đơn thuần, giản chiết, mà nó đẩy sâu mỗi số phận vào góc tối của suy tư, đồng thời nó bắt con người phải phản kháng hay chấp nhận những gì hiện hữu.

Tuý Hồng nhớ Huế, thương Huế ở giữa Sài Gòn mưa nắng hai mùa với dòng sống ồn ào không biết mỏi mệt. Cái cảnh mơ mộng đi sóng đôi trên con đường Phan Chu Trinh nhìn hoa violette, hay trải hồn theo tiếng hò ngân dài trên mặt nước sông Hương, không thể có ở đây, ở một hoàn cảnh chụp bắt, lừa lọc, phản trắc kể cả những khuôn mặt anh em! Nó làm cho cuộc sống gẫy vụn ra từng khúc. Nó làm bải hoải và chán mỏi đến tận cùng xương tuỷ, nhưng mọi người không thể và không có cách nào rời xa nó cả. Nó là nguồn sống, là huyết mạch. Nó đưa người lên, dìm người xuống. Nó là cuộc chơi đầy hứng thú và nguy hiểm.

Tuý Hồng kinh qua ba tác phẩm nhỏ: Thở dài, Vết thương dậy thì và Trong mưa móc hạt huyền để đi vào những tác phẩm bề thế rộng lớn có tính cách quyết định sự nghiệp văn chương của nhà văn. Tôi nhìn tôi trên vách, tác phẩm dài đầu tay của Tuý Hồng. Trong cuốn sách, tuy nhà văn dùng ngôi thứ nhất, nhưng nguỵ trang dưới tên Khanh để giữ tính cách riêng của nhân vật, sự thực, nó chính là một đoạn đời khi giã từ tuổi con gái của tác giả, cũng như Colette viết về đời mình trong nhiều cuốn sách, với các nhân vật mang tên Claudine hay Renée chẳng hạn. Vả lại, cái đó không quan hệ. Điều quan hệ là giá trị thực thể của tác phẩm đối với độc giả cùng những dữ kiện mà nội dung cuốn sách chuyên chở, có mang lại một kết quả nào về ý thức đời sống có mặt hay không?

Nội dung Tôi nhìn tôi trên vách, viết về đời sống của Khanh, cô gái xứ Huế, vào Sài Gòn rồi lấy Nghiễm, văn sĩ người Bắc. Trước khi lấy chồng, Khanh làm nghề cào thuốc ở các phòng mạch. Nghiễm anh trai gì cẩn thận, không muốn Khanh hành nghề này, sau khi thành hôn, vì một lần vô tình Nghiễm đã chứng kiến sự chụp bắt, lầm mò của y công vào thân thể cô gái có nhiệm vụ chào hàng. Nghiễm sống độc thân đến năm gần 40 tuổi mới lấy vợ. Khanh ba mươi mới lấy chồng. Hai cái già khú đế lấy nhau vì tình yêu để rồi chịu đựng nhau trong nếp sống thường nhật. Tiền cưới, một phần, do bạn bè của Nghiễm giúp, cộng thêm số tiền Nghiễm được bạc. Cưới xong, Nghiễm và Khanh chung sống ở một cao ốc giữa Sài Gòn. Tuy đã lấy vợ, nhưng Nghiễm vẫn uống rượu và rong chơi cùng bạn hữu. Khanh không quen lối sống nơi đây, nên bảo Nghiễm sang lại phòng về nhà bố mẹ ở. Bi kịch nội tâm đã đẩy Khanh vào một vùng trời oán hận với kỷ niệm, vì hiện tại có Nghiễm, có bố mẹ, các em gái và bạn hữu. Tất cả những gì u uẩn nhất, chua cay nhất đều được Tuý Hồng viết với vò xé, đôi khi tàn nhẫn. hình ảnh Phi híp-pi, Sanh, Ninh và chị Sương, Bích Vân, Bích Khuê v.v… chỉ là những khuôn mặt phụ được tác giả tạo ra để sử dụng vớn ẩn ý nào đó, nhằm gây nên sự tình, đẩy nội dung vào môi trường thuận lợi của kỹ thuật dựng truyện. Nhưng cuối cùng, tác giả vẫn dành cho người đọc sự thoải mái nhẹ nhàng vì chẳng có gì đáng tiếc. Hạnh phúc vẫn nằm trong tay với chồng con nguyên vẹn.

Những mơ mộng thời con gái mất dần theo thực tế. Lấy chồng đâu phải đùa giỡn và không cuộc sống nào toàn bích. Những đuổi bắt của thời con gái, chỉ còn là ảo ảnh do tiềm thức cấu tạo nhằm đánh lừa thực tại. Khi yêu nhau, cái gì cũng tốt, cái gì cũng đẹp, yêu từ giọng nói yêu đi,

Em nói tiếng Huế cho anh nghe đi. Anh thích nghe tiếng Huế, tiếng Huế mà chửi nghe cũng hay!…

Nhưng câu nói chỉ để lừa nhau đó thôi, cuộc đời làm cho sự thực lần lần hiện ra từng mũi nhọn. Những mũi nhọn của đời sống xuyên qua suy tư, đâm lút vào trí não làm tê liệt thần kinh, làm rã rời hy vọng. Sự chờ đợi và mong mỏi không còn cho bồn chồn đứt nuối, nó trở thành nỗi hờn ghen, oán hận và ý nghĩ phũ phàng trong mỗi tưởng tiếc! Tình yêu có đấy, cuộc đời có đấy, ân tình có đấy, nhưng nó là cái gì vừa tung cao lại giật xuống, vừa cho đi lại lấy về, vừa xây dựng lại phá đi, vừa thương yêu lại phụ rẫy. Nó là nỗi khốn khó của thực tế đối chiếu với dự tưởng. Nó không tròn đầy vòng tay mong mỏi. Nó thiếu hụt. Nó chơi vơi như kẻ không biết bơi bị cuốn vào trận đắm tàu. Tuý Hồng là ngọn lửa hoả diệm sơn ngất ngất, chứa chấp tận đáy sâu một khối lượng nhiệt khổng lồ, mỗi lần chuyển động là mỗi lần gieo đớn đau, đổ vỡ và chất phún thạch kia chảy lan tràn làm chết sững cả một vùng cỏ cây vô tội. Tuý Hồng viết như ném vào cuộc đời những phũ phàng, như tiếng thét giận dữ để phản kháng lại sự trói buộc, cái bất toàn của luật lệ xã hội với thân phận đàn bà. Bởi vậy, ngôn ngữ văn chương của Tuý Hồng nghe sượng sần, chát chúa.

… Em tôi là văn sĩ. Bước chân vào làng văn là đi đời con gái. Bây giờ thử hỏi một nữ sĩ: Cô đã ngủ với đàn ông lần nào chưa? Thì phải hết sức vô giáo dục, hết sức trơ trẽn, hết sức giả tạo, ngổ ngáo, trân tráo mới có câu trả lời: Tôi chưa hề ngủ với đàn ông lần nào!…

(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 26)

A, nữ sĩ! A, văn nghệ! Nếu vậy làm nữ sĩ cũng cực nhọc lắm, đâu có dễ dàng. Cái mảnh hồng nhan với đường con rõ rệt, gồm những tế bào được cấu tạo bởi: muối khoáng, nước, vôi, sắt, acit v.v… có phải điều quan trọng, có phải một gìn giữ thiêng liêng cho mỗi nhan sắc? Hay nó chỉ được đánh giá bằng đam mê nhục thể, bằng ve vuốt môi hôn, bằng thể tích của cặp đùi, của vùng đồi cỏ êm mướt, với chiếc tử cung và hai buồng trứng, như Tuý Hồng quan niệm? Không, nó đâu như vậy! Văn nghệ nó là đời sống ở trên đời sống. Nó cung cấp những dữ kiện để tạo nên đời sống, nó chấp nhận hay phản kháng những gì mà đời sống đẩy tới. Nó làm cho mỗi số phận vượt thoát thấp hèn, ti tiện. Nó là môti cười dịu ngọt, nó là giọt đắng tê lưỡi, nó là dòng lệ không bao giờ khô, nó là câu khóc không thành tiếng. Cái tâm hồn nửa đực, nửa cái, cứ thích xông xáo ở ngoài, cứ đâm sầm vào xã hội như trâu bạc mất mùa, Tuý Hồng dùng để xác định cương vị của nữ sĩ hôm nay, chẳng qua chỉ để tỏ bày thái độ, để khẳng định lập trường trước xã hội mà thôi. Chính thức, cuộc đời cũng như cuộc tình, đối với nữ sĩ vẫn long lanh màu hổ phách trong đáy ly liên hoan, sóng sánh men rượu ân nghĩa, vẫn ấm ngọt, vẫn mịn màng như hột bánh nhân duyên.

Tuý Hồng viết sắc và nhọn. Sắc như lưỡi dao mới mài, nhọn như mũi dùi mới giũa. Những dữ kiện vừa cay đắng, vừa mỉa mai, vừa dâm đãng, vừa cao thượng, vừa yêu thương, vừa ghét bỏ, vừa buồn vừa vui làm người đọc như bị bủa vây trong một không khí mờ ảo, mù mịt hơi cay, để rồi khóc, để rồi cười, để rồi nuối tiếc!…

Lấy chồng muộn, Khanh thèm có con nâng niu, phòng mai hậu về già đỡ lo, vì thế, đêm tân hôn đối với nàng là đêm thư hùng lồng lộn, đêm trống mái dập vùi, nàng khát khao mong mỏi sau đêm đó, đường kinh sẽ tắt và bụng tròn vo bởi có đèo thêm mầm sống. Nhưng sáu tháng trôi qua vẫn như tháo chỉ, đan len hoài công uổng sức! Cũng như Khánh hy vọng, lấy vợ rồi, Nghiễm sẽ bỏ mọi thói hư tật xấu như uống rượu, rong chơi cả đêm cùng bạn hữu và với các “cô cháu” kêu bằng “chú” đáng nghi ngờ! Nhưng không được. Nghiễm, nhà văn, nghĩa là ngoài bổn phận làm chồng. Nghiễm vẫn còn có đời sống riêng, một đời sống phóng túng của loài ngựa rừng không thích đóng yên, mắc hàm thiếc, che mắt một chiều. Từng đêm trên cao ốc, khắc khoải mong chồng đi chơi khuya về, làm Khanh chán mỏi. Hơn nữa, cái chung cư đó còn gây cho nàng những ấn tượng hãi hùng, ghê tởm. Không khí hắc ám vây quanh toàn vũ nữ ngày đêm lướt thượt lượn lờ. Ái tình thì đánh ghen, giành giựt với những khuôn mặt tiên nữ lúc hoàng hôn và dạ xoa mỗi bình minh thức giấc. Nó không thích hợp với Khanh, cô gái Huế có nếp sống trầm tĩnh, kín đáo, dù trong lòng có nổi loạn yêu thương từng cơn vật vã!…

Sau cùng, Nghiễm đã thua, chiều theo ý Khanh dọn nhà về ở chung với gia đình bên vợ. Trâm và Thảo, hai cô em lớn của Khanh. Trâm viết văn, làm nữ sĩ đó! Nghiễm như lạc vào thế giới lạ, cảm thấy cô đơn. Xung quanh được bao phủ bởi một nếp sống khác, khác hẳn từ lời nói, khác từ miếng ăn, khác từ cử động. Nghiễm, trước mắt mỗi cô em vợ là con người cẩn thận vô lối đến ti tiện, mở tủ lạnh cũng khó chịu, rửa chén bát dối cũng không ưng ý, để từ đấy đi vào mâu thuẫn. Còn Khanh về nhà bố mẹ, cũng chẳng sung sướng gì, nàng trở thành cái bung xung, một bên chồng, một bên bố mẹ và các em, chao ôi! Các cô em sao ác ôn làm vậy? Thảo mỉa mai bảo Khanh: Hầu chồng như hầu chúa, cha thì đau lên đau xuống chẳng pha cho cốc sữa. Trâm chua chát: Cá voi luỵ rồi, nước biển tha hồ ra sức chào xáo xung động. Còn Nghiễm lại nhăn nhó: Sao Thảo nó chửi vào mặt anh vậy? Khanh là ung nhọt, là đau đớn có đấy. Phải chứng kiến và làm nhân chứng bất đắc dĩ cho hạnh phúc khốn khó của riêng mình và chung gia đình:

… Tôi vùng chạy xuống thang gỗ vào phòng đắp mền nằm co rút. Nước mắt hình như nóng hơn khi tôi khép hai mi lại. Ướt đẫm cơn khóc câm, tôi hình dung ra những chuyện tiếp diễn từ buổi sáng đầu tiên tôi về lại nhà cha mẹ: ngày của Nghiễm không phải là một khối thời gian để trắng mà tràn đầy công việc, chàng còn bận chuyện liên miên nên giấc ngủ của chàng bao giờ cũng bắt đầu từ nửa đêm đến tám giờ sáng và từ hai giờ chiều mới được ngủ lại giấc trưa. Cái tủ lạnh để trong phòng hai vợ chồng. Trong đó là bia, là trái cây, là nước lọc, là fromage, jambon, pâté, giấc ngủ của chàng bị dựng dậy từ sáu giờ sáng vì tiếng mở tủ lạnh lách cách của các em tôi vào lấy nước lọc. Chàng nằm trên giường theo dõi bước đi, bước chạy của từng đứa, cánh tay từng đứa dang ra mở tủ đóng tủ. Đến ngày thứ sáu cái tủ lạnh mở không ra đóng không vào. Nghiễm bảo:

“Những đứa em gái của cô sao nhiều đàn ông tính, đãng trí, buông thả, dễ dãi, cẩu thả. Cô phải bảo với chúng là đồ vật cũng có tri giác, đồ vật cũng biết đau.”

Hai mi mắt tôi bắt đầu đỏ sửa soạn những giọt lệ:

“Vâng, vâng, tôi sẽ không cho chúng thọc tay vào tủ lạnh này nữa.”

(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 67)

Chính thức, đồ vật không biết đau, người bỏ tiền ra mua chúng về thì đau thật! Nghiễm, sống độc thân quá lâu, hơn nữa, từ nhỏ đã phải tự mình lo cho mình, gây dựng cho mình, do chính mồ hôi và nước mắt của mình mà có chúng, nên sự giữ gìn là cần thiết đối với Nghiễm. Còn Khanh, vì tự ái nên nàng khổ, Khanh cũng không quên cám ơn Nghiễm, vì lấy chàng nên nàng mới được ăn nhiều miếng ngon, mặc nhiều đồ tốt, nhưng Khanh muốn rằng, không phải vì thế mà Nghiễm có quyền khinh nàng và gia đình mình. Bài học làm vợ đã cho Khanh biết thế nào là nhẫn nhục. Nhưng trời lại phú cho nàng cái tính tự ái, ưa suy nghĩ nên nàng khổ. Cái khổ đó, nàng muốn vứt đi như vứt bỏ món đồ phế thải hoặc trả thù cho bõ ghét, cho bõ tức, tuy vẫn yêu chồng, thương bố mẹ, các em. Nghiễm, đôi khi dưới mắt nàng, cũng chẳng tốt đẹp gì, bê tha rượu chè, mê rượu hơn mê vợ, và có lần Nghiễm cho Khanh biết: trước chàng còn hút thuốc phiện nữa kia, bây giờ tu tỉnh lại rồi đó! Bỏ tám phần mười rồi đó, nhà văn mà! Có lúc Khanh giận quá đã phải nhờ Trâm viết thành văn hộ mình một dòng: Hạnh phúc đôi khi là một tên cướp đuổi nàng chạy như chuột. Nhưng đó chỉ do sự mất bình tĩnh trong chốc lát, vì những gốc râu của Nghiễm day trên môi Khanh vẫn làm nàng tê tái, khoái cảm!…

Cái nếp sống chồng Bắc, vợ Huế, còn làm khổ mỗi người về miếng ăn, thức uống. Nghiễm thích bún riêu, chả giò, thịt bò xào cần v.v… nhưng gia đình Khanh lại chỉ ưa cá nục kho, mắm ruốc! Lấy chồng nhà văn lại còn ham đeo hột xoàn, tức là chọn nhầm cửa. Nhưng đàn bà lạ lắm, hay tự ái vặt, thấy bạn có hột xoàn, tự nhiên trong lòng nảy sinh mơ ước cho được bằng người. Bích Khuê, một goá phụ trẻ, bạn của Khanh buôn hột xoàn, hay đánh bài với mấy ông tướng thất nghiệp qua vài cuộc đảo chính, chỉnh lý. Sự có mặt của Bích Khuê như lời khích động, lời mời chào vượt thoát. Nghiễm chỉ yêu vợ chứ không yêu gia đình nhà vợ, nên chàng thường mua lén thức ăn ngon chờ cả nhà đi ngủ, gọi vợ dậy ăn vụng. Sự ước mong một đứa con của Khanh rồi cũng đến. Nó hành nàng với một cơn đau chết giấc. Trong cơn mê vì độ nóng, Khanh nhìn thấy viên kim cương Culiman của hoàng gia Anh, và các trò chơi tình ái qua ba hồi bảy hiệp của đời con gái thăng trầm.

Đứa con Khanh mong, nó đã ra đời: mắt lớn, tai to, tóc rậm, xồm xoàm tiền sử. Tên nó: Khanh Hiền. Mắt nó đen như satin để sau này lớn lên hớp hồn đàn ông như mọi cô gái Huế. Cuộc đời Nghiễm, Khanh, thêm đứa con vẫn cứ nằm chình ình ở căn phòng khách được ông bố vợ xây tường vội vàng ngăn đôi cho cách biệt. Nghiễm vẫn vậy, uống rượu đều và đi Đêm Màu Hồng. Còn không khí vẫn bị quá khứ đi về giăng mắc. Những cuộc tình không có chiều dài, nhưng cũng đủ làm nên kỷ niệm. Dòng sông Hương nước chảy lững lờ xanh biếc, óng ánh ôm nhịp chèo périssoire dồn dập. Ôi! Dòng nước cứ mỗi năm một lần bị đại dương lấp hiếp lại ghi dấu mặn nồng làm cả thành phố thiếu nước uống. Nào lăng tẩm, nào cửa biển Thuận An, nào đèo Vọng Cảnh, nào chùa Thiên Mụ và một hôm nàng thỏ thẻ vào tai Nghiễm: Anh Nghiễm ạ! Cá voi đực si tình lắm. Ngày xưa có một ông mê em như cá voi đực, mê kỳ lạ, mê đến mọc mộng ra. Nghiễm: Ừ!… Nghiễm biết rõ quá khứ của Khanh nhưng đã thuộc về dĩ vãng. Chàng chỉ cần sự trong trắng của Khanh từ ngày cưới trở đi thôi. Nhưng, làm sao Nghiễm có thể kiềm chế Khanh không được suy nghĩ, không được đến thăm bạn bè? Bích Khuê đó và Sanh chẳng hạn:

… Tôi đứng lên chào về. Sanh nhìn tôi từ tóc tới chân, mắt chàng êm ái mát như lụa và ngọt sắt như quýt Hương Cần. Tôi sức nhớ một câu văn tôi đã ghi vào bìa cuốn vở giảng văn năm đệ nhị: “Đừng nhìn nhau lâu, sợ rồi thương mến nhau, chỉ cần quen biết thôi, tình đừng nên tìm sâu.” Hồi đó Bích Khuê nói: “Con Khanh hắn yêu anh Sanh như sanh với sứa!…”

(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 119)

Rồi con đường Phan Chu Trinh nằm bên dòng sông An Cựu ghi dấu kỷ niệm tuổi trẻ. Hôm nay Sanh còn đó, Khanh còn đó, mà xứ Huế thật xa vời. Hình ảnh con Khanh thằng Sanh điên điên tàng tàng đã bị thời gian khoả lấp vào đổi thay, nay chợt trong tiềm thức le lói ánh lên màu hạ cũ. Chuyện đến vay tiền Bích Khuê để mua máy rang ngô, biết đâu chẳng phải cuộc viếng thăm để giải toả kiềm chế:

“Bắt được cô bỏ nhà đi chơi đấy nhé, hết chối, hết cãi.”

“Phải rồi, tôi đi đánh tứ sắc đấy.”

“Này, liều vừa vừa nhé!”

“Anh sao cứ ra tay lớn vào những việc nhỏ.”

“Trước khi đi tôi đã buộc cô ở nhà trông con.”

“Em đi có việc cần.”

“Tôi đã bảo ở nhà, là ở nhà. Cấm không cãi.”

“Ai biết anh khó vậy. Nếu biết anh khó… khó… như vậy… biết vậy thà lấy chồng Huế cho sướng…”


… Cơn khóc khởi đầu bằng những cái chớp mắt nhỏ, nỗi buồn khởi đầu bằng tiếng thở dài ẩm ướt, cơn điên khởi đầu bằng những sợi thần kinh hư, tôi thảng thốt nghĩ rằng tôi đang ở trong một cái ống, mở thoáng hai đầu trông ra cuối trời mơ ước, cuối trời kỷ niệm. Tôi trông ra và tôi thúc thủ bó tay.

Thảo rướm giọng:

“Lấy chồng đôi khi là một sự lỡ tay.” Trâm ngừng viết ngửng đầu lên khôi hài:

“Lấy chồng là tự sát…”

(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 124-127)

Sự ngỡ ngàng tình cảm làm Khanh thấy nhức buốt trong mỗi ngày giờ, sống trong kích thước gia đình, nàng tìm phương kinh qua, bằng cách với Nghiễm cho mình theo học Văn khoa. Khuôn viên đại học đẩy Khanh gặp Phi híp pi. Khuôn mặt này, tác giả chỉ dùng như một ám ảnh, một buồn phiền, mà nhà văn cần giải toả ẩn ức trong đáy thẳm tâm linh. Cái cuộc sống do Khanh chủ động hồi con gái không còn nữa. Nó chỉ như một sợi tơ đứt mỏng manh bay phất phơ theo chiều gió. Phi như con dã thú, như một tội ác, như sự ghê tởm, như viết sâu Quảng làm lở lói ý nghĩ của nàng. Nó vuốt má Khanh, cầm tay Khanh và xấu hổ chưa, nó còn đòi chết trên bụng nàng. Ôi! Cái bụng đam mê có vùng mơ ước! Nỗi đớn đau chợt tới. Khanh mong vượt thoát ít phút cái lưới của Nghiễm giăng qua mau, quá dầy lại bị cái lưới cuộc đời ô trọc bao phủ. Phi trân tráo lại nhà thăm Khanh. Cái mái tóc thời tiền sử của Phi, làm Khanh chợt nghĩ đến thời kỳ ăn lông ở lỗ, chưa lửa, chưa khói, chưa sắt, chưa vải che thân…

Sự thực, tác giả đã nguyền rủa xã hội Việt Nam trong chiến tranh đau khổ, còn dung dưỡng những điều quái gở qua vóc dáng Phi đó! Câu chuyện Phi chưa xong, đến chuyện Ninh, chàng trai xứ Huế quen nhau ngày xửa ngày xưa. Mỗi khi Khanh gặp lại con trai Huế, như gặp đời sống của mình nên bao giờ nàng cũng vồn vã quấn quít. Vì thế, nếu có ý nghĩ u ám trong đầu, đó cũng chẳng phải điều lạ. Các cô em trách Khanh về vấn đề này tuy chẳng thích gì Nghiễm, anh con trai Bắc kỳ khó tính. Tuy làm gì cứ làm, nghĩ gì cứ nghĩ, Khanh vẫn thương chồng lắm,

… Thương chồng, thương luôn những ly rượu của chồng. Thương chồng, thương cả chiếc miệng nói nhanh. Thương chồng, thương cả tật rung đùi, thương từ ngón chân cái, ngón chân út đến sợi tóc sớm bạc trên đỉnh đầu, thương từ đầu gối thương lên đôi môi lười biếng tạo những chiếc hôn, đôi môi chỉ biết hôn khi có chuyện cần…

(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 241)

Nhưng đôi khi quá giận, Khanh nói lên những lời chua hơn giấm, cay quá ớt, ngay vào mặt Nghiễm:

“Giết tôi đi, tôi không chấp nhận thứ chồng trâu ngựa đó… Những người bạn cũ của tôi vẫn có một giá trị, một sức nặng cụ thể cho tôi mến phục. Họ khốn khổ, họ trong sạch, họ thanh thản, họ uống nước vối chớ không biết uống rượu… Có lẽ họ tồi hơn anh ở những chỗ đó: họ thức khuya để học bài thi chứ họ không thức khuya để ngồi ngắm ca sĩ phòng trà…”

(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 260)

Lời nói như những mũi kim châm, như từng chiếc lưỡi lê đâm phập vào da thịt rồi để nguyên đó. Nó dìm xuống vực sâu bao nhiêu ân nghĩa. Nó cắt xén từng sợi tình vấn vít. Nó thấm. Nó đau. May quá còn chị Sương, một người đàn bà biết cư xử theo lẽ phải, tuy cũng bắt nạt chồng “một cây”. Chị Sương nói: Có ba thứ danh dự con Khanh không được chạm đến: danh dự của chồng, danh dự của cha mẹ, danh dự của tụi em mình chưa có chồng; và chị nói với Thảo, nếu thằng Nghiễm có lên đây (trên lầu) gây lộn với con Khanh, mình về phe thằng Nghiễm.

Vì uống rượu và làm việc quá nhiều nên Nghiễm khạc ra máu. Khanh lo lắng chạy đến nhà Bích Khuê xin đơn thuốc gia truyền, gặp Sanh. Sanh trách Khanh, tự nhiên nhảy vào Sài Gòn lấy Nghiễm làm bao nhiêu thằng hổng cẳng, rồi hắn buông một câu:

“Tại sao Khanh lại có thể đi kết hôn với Nghiễm nhỉ. Khanh có nhận thấy là Nghiễm không đáng xách dép cho Khanh không?”

(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 273)

Cái anh con trai xứ Huế này thật nhảm. Đã thua cuộc còn làm tàng. Khanh giận, nhưng câu trả lời của nàng hơi yếu, tự an ủi rằng, không chấp làm gì thằng con nít điên.

Nghiễm ngã người vào cột đèn sau một bữa chả cá mời vợ, trong lúc chờ taxi về. Bệnh Nghiễm nặng thực, tưởng chết ngay, Khanh đưa chồng vào nhà thương Chợ Rẫy một đêm, hôm sau vào Grall, Khanh đang mang bầu đứa con thứ hai. Việc nuôi bệnh là điều khổ cực. Nghiễm bị chai gan vì rượu. Nghiễm phải kiêng thức ăn đặc, nên Khanh ăn phần cơm của chàng, trong nhà thương:

Tôi cười buồn miễn cưỡng nhấc chiếc nĩa xúc vài cuống “nui” cho vào miệng. Qua ba lần nuốt, tôi bỗng cảm thấy đĩa “nui” ngon, tôi gắp miếng sườn sang xé ăn hết cả, ăn hết đĩa xúp hết khúc bánh mì và sau cùng quả chuối dài. Tôi quay nhìn Nghiễm ngủ, tôi phát ngán tôi. Chồng đau nặng mình đớp đủ thứ một cách khoái khẩu như thế này…

(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 278-279)

Nghiễm đau nặng lắm, tự nhiên lại rung đùi, đấy là một điềm lành, là dấu hiệu tha thiết nhất của cuộc sống trước mặt Khanh lúc đó. Thời gian làm Nghiễm bình phục, nhưng Nghiễm không về nhà, nằm dưỡng bệnh tại một cao ốc do người bạn tốt cho mượn. Mỗi chiều Khanh đưa cơm và ngủ lại đó. Thời gian này có “cháu” Bích Vân lại thăm, Khanh ghen. Đi từ cơn ghen, Khanh quan niệm bọn đàn ông văn nghệ người nào cũng chia cuộc đời mình làm hai: một cho vợ con, một cho người tình và mỗi người đều có năm bảy lá gan để sẵn sàng đem cho gái. Còn Khanh, vô tình gặp Ninh, gã nói dối Bích Khuê cần gặp nàng. Khanh theo Ninh về nhà. Ai ngờ, có Phi híp-pi chờ sẵn, Bích Khuê không thấy. Hai đứa nó hành hạ nàng, đánh đập nàng, may có Sanh đến cứu. Hình ảnh Sanh lúc nào cũng lởn vởn bên cạnh đời Khanh. Nó không có đấy mà hiện diện trong mỗi góc sống của đời nàng. Nó là cõi trời đã mất, một phiến mây đã qua, một vùng tuổi trẻ nguyên vẹn với giao ước vượt khỏi vòng tay. Quá khứ nhức buốt làm Khanh ngất ngư trong vũng lầy tâm tưởng. Để cứu vãn kinh tế gia đình vì Nghiễm đau, Khanh phải đi dạy học, nhưng nàng cũng không quên tìm vui cho riêng mình. Nàng theo Bích Khuê đi phòng trà, phấn son, giày dép, tóc tai hợp thời trang, ngồi xem thiên hạ đánh bạc và đi tắm biển với người con trai lạ mặt, tên Thể. Hắn đã ôm đại nàng giữa sóng biển dào dạt cuốn xô hai thân xác!… Rồi cũng vì Bích Khuê mà nàng phải nổi nóng cấu xé Phụng vì bị nghi oan ăn cắp chiếc nhẫn kim cương trong lúc Phụng tắm. Thể có mặt như một bãi phân!

Tất cả những việc trên, tác giả chỉ dùng nhằm đưa nội dung vào “cao độ kỹ thuật”, nhưng đồng thời cũng để bày tỏ thái độ sống và sự phản tỉnh sau những chuỗi dài vật vã đam mê, buông thả tâm hồn, thân xác! Ngay cả vấn đề gia đình, Nghiễm còn đó, ba đứa nhỏ còn đó, bố mẹ và các cô em còn đó, ngày tháng còn đó, trước mặt. Nhưng hạnh phúc vợ chồng không thể hoà hợp khi mọi chuyện riêng tư còn được dò xét và phê bình bởi người ngoại cuộc, dù người đó là bố mẹ, chị em. Hạnh phúc cần được che đậy dưới một dung tích nào đó, kín đáo và riêng biệt. Nó nhỏ bằng bàn tay hay to bằng cái đình, miễn nó thuộc về mình. Chỉ có mình và nó. Sau cùng, nhờ trời Nghiễm và Khanh đã có một dung tích để giải toả mọi ám ảnh, phiền não. Tôi nhìn tôi trên vách hay Tôi nhìn tôi trong hồn, với hình ảnh quá khứ, hiện tại và còn đó, nỗi cô đơn nguyên vẹn. Những hình bóng nào đấy in chập chùng trên tấm-vách-đời-tôi như những vết thương không bao giờ kín miệng, ngày và đêm chỉ làm nhức nhối tâm tư…

Trong hơn bốn trăm trang sách, Tuý Hồng đã vẽ nên bao nhiêu hoạt cảnh vui buồn, với nhiều cay đắng, nhớ thương và giận dỗi. Tuý Hồng viết như bứt ra khỏi hồi những vướng vít, như cầm lưỡi dao khứa vào da thịt mình, để nhìn từng giọt máu đỏ hồng chảy nhễ nhại với tiếng cười tự ái. Những vết thương tình ái dù đã thành sẹo trong tâm hồn, nhưng vẫn là ngứa ngáy khó chịu mỗi lần nghĩ tới. Cuộc sống dù được trải rộng ra hay thu hẹp lại, lúc nào Tuý Hồng cũng tự mình bày vẽ, điểm trang cho mình nét đặc biệt, thật đặc biệt, thật riêng rẽ giữa những nhàm chán đến buồn nôn. Nói đến thân xác, không còn là nói điều cấm kỵ và những ngón tay ngọ nguậy ái tình cũng chẳng phải lời nói dâm ô, hoặc điều sỉ nhục. Đối với Tuý Hồng, cái khung trời tình ái mà tuổi trẻ tôn thờ, không đi ra ngoài thú vui nhục thể. Chính nó, mới là tình yêu chân thật. Hỡi tên gác rừng của văn hào D.H. Lawrence, mi đã bất tử cùng với người đã tạo ra mi uổng thay, mi đâu có biết!

Từ Tôi nhìn tôi trên vách Tuý Hồng đã đi vào Những sợi sắc không với sự đắm chìm của bao thân phận quay cuồng, vật vã trong lịch sử và cách mạng, ở đấy tình yêu hiện diện như sự thách đố với đạo đức và định mệnh.

Huế nên thơ và trầm tĩnh? Huế e lệ và kín đáo? Không, Huế trong năm 1963 là sôi sục căm thù, Huế là mồi lửa thứ nhất, là tiếng gào thứ nhất, là giọt máu thứ nhất, là cam đảm thứ nhất, là quyết tâm thứ nhất trong phong trào nổi dậy để xô đổ một chế độ đã 9 năm làm chủ miền Nam nước Việt, khi nó không còn làm họ hài lòng. Các thanh niên trí thức đã cùng Phật giáo và toàn dân thành phố Huế nhất tề đứng lên tranh đấu. Một số trí thức bị bắt, bị tra tấn và bị truy nã. Tiếng súng cách mạng 1/11/1963 thành công. Họ reo hò vui sướng. Nhưng sau đó, những người cùng chung lưng đấu cật hôm trước lại không cùng nhau nhìn về một hướng. Một ngã ba sông thành hình. Từ đó là gãy vụn, chia lìa và tình yêu cũng chỉ được đánh giá qua lý tưởng cách mạng, hoặc bằng sự chụp bứt nhục thể nếu có hoàn cảnh.

Những khuôn mặt chính: Trương, Lê Hùng, Sinh, Cỏ May, Trầm, quấn chặt lấy nhau trong không gian xứ Huế, và rất nhiều nhân vật phụ chạy xung quanh họ như quân đèn cù. Họ yêu nhau, làm khổ nhau, phản bội nhau, nhớ thương nhau, qua bao nhiêu trạng huống giày vò, qua bao nhiêu bước đi thời đại. Họ tựa vào cánh tay cách mạng để tạo một lý tưởng. Họ tựa vào tình yêu đều dìm họ xuống đáy vực của nghi ngờ, phản bội, ích kỷ, giả trá và lợi dụng. Bi kịch đối với mỗi số phận như những trang đời đen tối, như cơn giông gió thổi từ một vùng trời phẫn nộ, như một hang sâu chập chờn khua động màu xanh nhợt nhạt của những bàn tay giơ lên cầu cứu trong nỗi thất vọng!…

Tuý Hồng dàn trải cuộc sống trong một kích thước vừa đủ, ở đó tác giả đã góp mặt, đã say mê, và sống thực cái đời sống con gái từng tham dụ vào trò chơi cách mạng. Tác phẩm Những sợi sắc không mở đầu bằng 21 kẻ trí thức buộc thành phần sinh viên, giáo sư, bác sĩ trong đó có 2 cô gái: Cỏ May và Trầm. Trong những ngày bị giam, một mối tình nhen nhúm giữa Cỏ May và Trương, giáo sư. Tuy bị mất tự do nhưng 21 “sách” vẫn nô giỡn, yêu đời vì họ tin rằng sự kìm hãm này chỉ tạm thời. Muỗi cứ đốt, rệp cứ cắn, họ cứ ngâm thơ Đường luật và đánh cờ tướng. Họ nói giỡn với lời lẽ như vỗ vào mặt nhau mà không sợ mất lòng:

“Bọn này ăn cơm nguội… đói đàn bà quá nên thấy cô Trầm đẹp vội tán chơi… ồ ồ nếu cô Trầm không ưng ý thì bọn này quay sang cô Cỏ May. Ối chà… đúng là một cuộc tán gái nảy lửa, cuộc tán gái sấm sét qua cơn giông là hết, là dứt tuyệt và mãn tù ra thì ai đi đường nấy. Ờ ờ không biết khi được thả rồi còn có tán gái được nữa không? E rằng thiên tài bị rỉ sét ăn mòn đi rồi!… – Thôi đi cha… Khỉ nào lại có thứ khỉ không biết trèo…”

Cỏ May, cô gái vì lý tưởng mà tranh đấu, còn Trầm, viết văn, có mặt cho biết mùi đời vậy thôi. Trầm, cô gái phiêu lãng, việc đời đối với nàng cái gì cũng là nhỏ kể cả tình yêu.

Qua một đêm cách mạng, mọi người được trả tự do với sự hoan hô nhiệt liệt của dân chúng. Những buổi liên hoan được tổ chức liên tiếp. Những người ở tù hôm trước bây giờ được coi như có thành tích cách mạng. Họ hội thảo, họ ăn uống, họ cười nói, họ coi cuộc đời và sự thành công hôm nay một phần lớn do họ.

Mối tình của Trương và Cỏ May cũng lớn vui theo cách mạng. Trong khi đó Trầm vẫn cô đơn, sống theo ý mình, theo cuộc đời đã chọn lựa: nghề viết văn với tự do tuyệt đối. Trương, giáo sư đại học gia nhập phong trào chống đối chính quyền lúc đó, vì cảm thấy có bất công trong cách đối xử với Phật giáo và độc tài trong vấn đề cai trị, nhưng một khi nhiệm vụ đã thi hành xong. Trương muốn trở lại cương vị cũ. Từ Pháp về, Trương có mang theo vợ đầm tên Laura và một đứa con. Người vợ không hợp thuỷ thổ nên đã tự ý mang con trở lại Pháp. Trương lo thủ tục ly dị theo điều kiện của Laura và bắt đầu yêu Cỏ May. Cỏ May, cô gái Huế lạ lùng vừa yêu tình nhân, vừa yêu lý tưởng, cả hai thứ, nàng muốn phải cao đẹp ngang nhau. Vì lý do nào đó cần chọn lựa, nàng sẽ nghiêng về lý tưởng. Tình yêu giữa Trương và Cỏ May đã đi đến lễ hỏi, tuy Cỏ May khổ sở về bài bố cáo của Trương đăng báo ly dị vợ.

Cách mạng đã thành công, các cuộc hội thảo được tổ chức luôn luôn để gìn giữ khí thế đấu tranh vì:

Sau cách mạng không phải là một giấc ngủ vùi. Người làm nó không ăn không ngồi rồi, không nhởn nhơ bay bướm. Chúng ta có hai quả đấm bằng thép để nhiếc bốc vào bao cát phong kiến, có chiếc lưỡi dài để nhiếc móc vào những phần tử sâu mọt tai hại, bọn mật vụ cần lao phải ngã ngục. Đó là luật thiên nhiên, luật đào thải xã hội. Như cây phải trút lá như rắn phải lột xác…

(Những sợi sắc không, trang 18)

Những người trẻ tuổi đi vào cuộc sống như đi vào cuộc sinh sát, như đi vào căm thù ngàn kiếp! Họ phải phá hết, phải đạp đổ hết những gì họ không ưng. Họ bắt cuộc sống phải theo mình, mọi người phải theo mình, trong khi chính họ không cần theo ai cả! Ý thức cách mạng trong họ là cái gì vừa kiêu căng vừa tàn bạo, một chiều. Chẳng biết có phải thứ độc tài mới chăng? Trương không đồng ý về đường lối đấu tranh đó, chàng bỏ về, bác sĩ Nghị bỏ về, nhưng Cỏ May ở lại. Cỏ May nhìn cách mạng như nhìn vào lý tưởng tuyệt đối. Tình yêu giữa Trương và nàng chỉ có thể nối liền bằng sợi dây cách mạng. Nếu Trương không thích đứng chung chiến tuyến với anh em nữa, chắc chắn nàng sẽ hy sinh tình yêu! Cỏ May càng tức giận khi thấy khuôn mặt nham nhở của Phiến và Trầm, những khuôn mặt không thể phân định rõ ràng lập trường: trông ngoài thì như ngỗng, nhưng trong chát ngầm như chuối xanh, như sung sống!

Buổi họp tan, Trầm về nhà Cỏ May ăn cơm, nàng được học khôn ở ông Thông, bố Cỏ May, đang sống theo phương pháp tân dưỡng sinh, gạo lức muối mè:

“Trầm biết không? Sinh ra trên vùng đất nghèo thì phải ăn cơm hẩm, cơm mốc, phải dễ nuôi, phải cực. Sống là phải cựa quậy, phải ngo ngoe nhúc nhích, phải vùng vẫy không để ai đấm lưng, lôi bụng mình được, trước phải không ai chèn cổ, sau phải không có ai ngáng chân. Phương pháp đấu tranh đầu tiên là phải biết kham khổ hoá cái bao tử, bắt nó phải thắt bóp, bắt nó cam go khổ cực…”

Nhưng trong lúc đó, những đứa con gái ông, không đứa nào chịu khổ cực được hết, Ngàn, Ngự, Nguyên v.v… vẫn cứ ăn uống theo phương pháp cựu dưỡng sinh, trừ Cỏ May mỗi tháng hai lần ăn theo bố mẹ. Không những thế, Nguyên còn ham lấy chồng qua câu nói nửa đùa nửa thật: “Chị Trầm ơi! Biết bao giờ cha mẹ chịu thương thuyết với cha mẹ em để xin hỏi cưới em cho con trai họ hè?…” Trầm dạy khôn: “Muốn lấy chồng thì phải tấn công dồn dập, phải xuống đường liên miên để đón tàu tranh giựt, đừng khư khư núp kín trong nhà đợi người ta đi hỏi như ôm cây đợi thỏ…”

Trầm, cô gái đã trao đời mình cho một ý hướng, quan niệm rõ ràng về cuộc sống có mình đang góp hơi thở:

Một đứa con gái viết văn, một ả giang hồ cầm bút, nói một cách hơn cả cộng sản tam cùng nói, phải theo đến mười ba và hai mươi bốn cái cùng của cuộc đời. Trước luân lý tôi là đĩ. Sống cuồng nộ bất kham. Sống kích động giành giựt. Lướt qua ngọn lửa, vọt theo lao, cuốn trong gió lốc, trườn mình trong sấm sét, hào hển, thở dốc ngất ngư cảm giác…

(Những sợi sắc không, trang 27)

Đối với Trầm, cuộc sống chẳng là cái quái gì cả. Ái tình, cách mạng, lý tưởng cũng để che đậy sự ti tiện, bẩn thỉu, đê hèn và dâm đãng bên trong! Do vậy, nàng luôn luôn đùa giỡn, khinh bạc những thứ gì mà xã hội chấp nhận hay đề cao. Cái thân xác này, nếu có làm ai mơ ước cũng chỉ để giải quyết sự dồn nén của nhục dục, và tâm hồn, thứ tâm hồn bệnh hoạn luôn luôn đòi hỏi những gì làm no nê khát vọng. Tuý Hồng đã sòng phẳng trong vấn đề ân oán giang hồ và tôn trọng luật chơi với một thái độ vô cùng nghĩa hiệp! Cuộc ái ân giữa Hoán và Trầm cũng nằm trong khuôn khổ đó. Nào xá gì một chút tình đối với anh con trai nói khoác, cho rằng thiên hạ có bao nhiêu con gái, mình có bấy nhiêu bồ! Không gã đàn ông nào lừa dối được Trầm cả trừ phi nàng muốn để bị đánh lừa. Sự lợi dụng thể xác cũng chỉ là điều ích lợi cho cả hai bên, vì nàng đã đánh hơi thấy sự phản bội cũng như khuôn mặt tình yêu nguỵ trang của Hoán, gã chỉ yêu Trầm từng phần, cái phần hấp dẫn nhất! Tình yêu, hò hẹn, tuyên thệ, kỷ niệm chỉ là giả dối. Mọi đứa đàn ông đều bước mau và quay mặt khi đã đi sâu vào thân xác của Trầm. Tình yêu của Hoán trồi sụt như kinh nguyệt con gái. Hoán đã bao vây tình cảm của Trầm khi nàng làm préceptrice ở gia đình ông Phan, kèm học cho bé Hải, Hoán là chú bé Hải.

Trầm, nữ sĩ bụi đời, khi thôi kèm học bé Hải, nàng vô Nha Trang kiếm sống. Nàng cho rằng, đời đã hư, vữa, chua lè rồi, phá luôn! Cái ý tưởng điên cuồng, rồ dại ấy phát sinh tự đáy lòng chán chường thế cuộc vì thế cuộc chẳng có gì đáng cho ta gìn giữ. Trầm đã dấn thân vào đam mê đến trân tráo, nàng tự thú: Tôi bây giờ hôn rất tài, hẹn hò rất tài, đi hoang rất tài, ân ái rất tài… dửng dưng như một cục sắt nguội, như bất cứ loài khoáng chất nào trong và ngoài vỏ trái đất. Trầm như vậy đã trở thành một động vật vô tri. Nàng có đó, biết đó, thấy đó, nhưng không phải là mình!

Cuộc hội thảo lửa trại khai diễn giữa những người đang bị ánh sáng cách mạng làm loá mắt, rối loạn thần kinh, với sự có mặt của Lê Hùng, giáo sư trẻ, mới từ Pháp về, cuồng tín, đầy tham vọng chính trị,

Trương mấy lần dợm đứng lên đều bị Cỏ May níu lại. Cử toạ xôn xao vài tiếng ồn ào lẻ. Trương hất mạnh bàn tay Cỏ May bước ra ba bước lên tiếng:

“Thưa giáo sư Lê Hùng… như vậy là tôn giáo đã rõ ràng vào cuộc đời và tôn giáo của chúng ta đã công khai tự đặt mình trước một đối thủ rồi, đã mơ hồ thấy chân dung kẻ thù rồi… Vậy kẻ thù mà giáo sư đặt ra đó là ai?”

“Thưa giáo sư Trương… tại sao lại nêu vấn đề kẻ thù… tôi xin nhấn mạnh: độc tài, chia rẽ, đàn áp, bất công… ai đánh ta, ai tiêu diệt ta thì ta phải tự bảo vệ, tự dàn một thế thủ bằng khí giới bất bạo động mà thôi…”

… Ngôn ngữ giáo sư Hùng thao thao như rồng phun, như một dòng nước cuốn sạch mọi điều thắc mắc vụn vặt. Những người chất vấn đều lần lượt về chỗ. Trương vẫn còn đứng, bác sĩ Nghị đủng đỉnh bước ra nhìn thẳng vào mặt chàng:

“Vấn đề đặt ra là tranh đấu, tranh đấu cho có tự do, dân chủ thật sự, cho giảm bớt chênh lệch giữa người và người trong xã hội… Kẻ thù chúng ta là ai?… Nó ở trước mặt, nó ở sau lưng, nó ở xa, nó ở gần, nó lảng vảng đây đó. Giáo sư Trương đã thấy và mọi người đều đã thấy.”

“Tôi muốn kêu đích danh, chỉ đúng mặt. Tôn giáo của tôi là Phật giáo, đó là một sự rõ ràng và khi có người nhân danh tôn giáo tôi để nói có kẻ thù ở sau lưng, trước mặt, ở xa, ở gần thì tôi muốn biết kẻ thù đó là ai? Đó là một sự rõ ràng.”

Một nữ sinh viên bước ra:

“Thưa thầy, con sẽ kể cho thầy một liên danh: độc tài, áp bức, chia rẽ, bất công, đàn áp… thầy nghe đủ chưa ạ?”

(Những sợi sắc không, trang 54-55)

Cuộc tranh luận cứ kéo dài, Trương đứng về phe thiểu số sáng suốt vì không muốn chấp nhận sự tình: một quốc gia trong một quốc gia, một quê hương trong một quê hương, một chính thể trong một chính thể! Cuộc hội thảo đưa sang vấn đề chửi trí thức miền Nam bằng những câu thật cay độc;

… Trí thức, các ông đang ngủ hay đang thức, hay ông đang ngáy? Ông đang ăn hay đang uống? Ông đang tiểu tiện hay ông đang đại tiện? Ông đang hành lạc ở động phủ nào? Ở cửa động nào? Trên chiếc giường nào? Trên tấm nệm nào? Lưng ông ngã vào tự do, tay ông chống trên công bằng, đầu ông ngã trên dân chủ, đùi ông gác lên bác ái. Ông được hưởng đủ hết, hưởng đủ các thứ đó. Bây giờ nhé, nếu những lũ dân cù đầy chúng tôi tranh đấu reo hò… tức nhiên ông cảm thấy bị nghe, bị rung động, bị gây huyên náo , bị làm quấy phiền, bị mất an ninh ở cặp chân hay đôi tay gì đó… tức nhiên ông khoát tay im đi, im đi, bảo đừng có ồn… câm họng.

(Những sợi sắc không, trang 57)

Đó, đó là cách mạng, là tranh đấu, là bắt mọi người phải chấp nhận, tuân hành những gì mình nghĩ và nói. Trương đã bị cách mạng đẩy ra khỏi hàng ngũ về phương diện chính trị, Cỏ May đã đẩy chàng ra khỏi vòng tay tình ái, tuy chỉ tròn một tháng nữa làm đám cưới. Mấy cô em gái Cỏ May đang hy vọng chị đi lấy chồng, mình sẽ gặm giò heo, ăn bánh thật nhiều, được may áo mới để đi phù dâu… phù rể nữa. Một lá thư Cỏ May viết gửi Trương để cắt đứt mối tình, vì đường lối suy nghĩ của Trương hôm nay không còn thích hợp với nàng. Trương đau đớn nghĩ đến Laura với ba năm chăn gối đoạn tình và Cỏ May chưa có gì đã mất!

Cỏ May đến tìm Trầm than van: Tau với Trương bỏ nhau rồi, nghỉ rồi, défiancer rồi, hồi hôn rồi, trả lễ rồi. Tau… bỏ Trương rồi, đá nhau rồi, hết trơn hết trụi tình nghĩa với nhau rồi!…

Trầm, cô gái khôn ngoan và liều lĩnh. Đối với nàng, chính trị chỉ như sấm sét… tuy long trời lở đất nhưng chỉ làm cho một thoáng sợ hãi rồi thôi. Trầm lấy đời mình ra khuyên nhủ bạn, không xong. Nàng đã sống như giống đực, như Tarzan, đã làm các nhà đạo đức đỏ mặt nhưng rốt cuộc, đời vẫn vậy, chẳng phải vì mình mà nó chết, chẳng phải vì mình mà nó sống. Đừng có dại, đừng có dại Cỏ May! Nhưng Trầm quên, tạo hoá đã an bài!…

Trong ngày buồn xa vắng, chợt Sinh đến. Sinh, khuôn mặt yêu thương của Trầm. Chàng Đại uý này là chiếc cù lao nằm giữa biển lòng nàng. Sự thật, biển lòng Trầm có nhiều cù lao nhưng cù lao của Sinh lớn và bề thế hơn cả. Sinh yêu Trầm, muốn đi đến chung đôi. Mối tình của Sinh rất cụ thể, nhưng Trầm vẫn muốn làm kẻ lãng du rong chơi giữa cuộc đời để hưởng thụ, dù phải trả giá nào đi nữa. Sinh hỏi nàng, có thể coi chàng như ruột thịt được không? Trầm cười khịt khịt nói: không được, không được… coi anh như “ngoài da” thôi! Trầm đó! Trong hoàn cảnh nào nàng cũng ngổ ngáo và không ngần ngại, mỗi khi cần sỉ vả cuộc đời! Bút pháp của Tuý Hồng vô cùng linh động, viết tự nhiên nhưng thật sâu sắc, vì nó mang nặng phần đời của nhà văn, nếu không vậy, chẳng còn Tuý Hồng. Trầm đã yêu, đã dâng hiến thân xác cho nhiều kẻ đàn ông khác như Truyền, Lực, Siêu. Những bàn tay đàn ông đã trườn đi mải miết trên thân xác nàng để khám phá da thịt. Nhưng càng yêu thì không được yêu, làm điếm thì không được con. Giờ đây nàng đã biến thành một vật xúc tác vô cảm, một đồng lầy da thịt vô tri giác!… Nàng cảm thấy mình mang thứ “đàn ông” trên thể xác đàn bà. Nàng đã bị loài ong độc và chất nam châm quái ác hút sạch mồ ma đời con gái. Bây giờ nàng chỉ còn là một cái khuôn đàn bà, có bộ ngực núi và thung lũng, một tử cung thâm u heo hút cùng hai buồng trứng rườm rà sai quả…

Trầm van xin người yêu – Sinh, hãy ngủ với nàng một đêm, đừng trọn đời!… Tâm trạng Trầm thật thác loạn, làm điên đầu các nhà luân lý học,

… Sinh liếm môi cười rồi chợt đâm bổ tới nằm nhào ra giường gối đầu lên đùi Trầm. Sinh ngửa mặt trông chiếc quạt điện một hồi ngắn rồi cầm vạt áo dài đắp để rúc đầu vào vùng tối âm hai cột thịt đùi người đàn bà. Chàng chợt so sánh cơn cuồng nộ nhục dục với những viên thuốc trụ sinh. Một bên mặt chàng và một cái tai chà xát mạnh bạo vào miền dưới của bụng người đàn bà. Vùng khoái cảm vỡ vụn ra thành từng hạt li ti hoà tan trong huyết quản hai người và cả một khu vực sung sướng không thể tích vỗ nhẹ lên bờ thân thể và muôn vàng máu nhỏ run rẩy…

(Những sợi sắc không, trang 86)

Như thế đấy, cuộc đắm say nhục thể được viết ra không chút e dè, ngượng ngập. Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ để mô tả, để khích động dâm tính trong mỗi cảm nghĩ. Một vùng trời chợt sáng lên, chợt u tối. Một cơn mê vừa chụp xuống, một thức tỉnh chợt bàng hoàng. Không nguỵ trang, không thèm dối trá, Tuý Hồng đi vào vùng đất cấm giữa văn chương và thân xác như đi vào nhà mình, đi vào phương vị đã dành riêng cho mình từ thuở nào, nên có viết, có nói đến nó, cũng như người khác viết về cái bàn, cái ghế v.v… Thường quá mà, việc gì phải giấu diếm, úp mở, che đậy? Việc đời thế cả, bốn bức tường đều biết!…

Giáo sư Lê Hùng miên man cùng chính trị, cách mạng và đấu tranh. Vì cực đoan nên luôn luôn chàng kết tội kẻ khác. Vì kẻ nào làm chính trị cũng phải một cục bướu đại chảng ở sau lưng. Hôm nay chúng ta phải mổ xẻ, phải vứt đi cái tật nguyện đó. Giải phẫu bằng cách nào? Bằng cách ra báo, vì bên cạnh chúng ta tờ Lập Luận (lập trường) đang có sức mạnh bật sơn. Chúng ta cũng cần khí giới để đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội! Trầm có tham dự cuộc hội thảo.

Nàng không chấp nhận sự có mặt của tờ báo, một cơ quan ngôn luận dùng để sỉ vả chính quyền và mị dân,

… Đối với tôi, tờ Lập Luận là một võ khí tranh đấu của nhóm người cứu quốc miền Trung này… Dạ thưa quí vị, tôi xin nói thêm một tiếng nữa: thanh danh, mặt mũi, tư cách của người cai trị ở đâu mà lại để cho một tờ Lập Luận làm ầm ầm bừa như thế được… và tại sao cái miệt đấu tranh này lại đi tôn thờ một tờ báo, lại đi triều bái một thứ chính phủ vợ bé, một thứ chính phủ nàng hầu, một thứ chính phủ vô hình, vô bóng như vậy được nhỉ? Và cái chính phủ chính thức bây giờ lại cũng rúm ró sợ sệt cái chính phủ hầu nong Lập Luận…

… Lê Hùng phất cánh tay: Khoan, khoan, tốp tốp cô Trầm… đối với một chính sách cai trị ngô chẳng ra ngô, khoai chẳng ra khoai như thế này thì chúng ta không thể câm như lúa được…

… Chúi mũi vào một tờ báo còn hơn nghếch mắt nhìn guồng máy cai trị mình nó sa đoạ. Chúng ta phải nói với Nguyễn Khánh rằng: chúng ta không sống nổi với cộng sản nhưng miền Nam chưa có ai xứng đáng để chúng tôi tôn thờ…

(Những sợi sắc không, trang 102-103)

Trầm như thế đó, khi đắm chìm vào tình ái, đắm chìm tột độ, nhưng lúc cần đến thái độ, nàng cũng tỏ ra sẵn sàng chết vì nó. Nàng là thứ độc, thứ dữ. Cỏ May không thể bắt chước nàng. Ý kiến này của Phiên, gã thanh niên ăn nói ngổ ngáo, nhưng hiện hữu vô duyên trong tác phẩm. Cỏ May đã khước từ tình yêu với Trương, đã trả lễ hỏi nhưng trong lòng vẫn nhớ thương. Nàng kêu lên từng tiếng bi thảm,

“Thôi cho anh cả đầu tóc tôi đây, cho anh cả hai lít rưỡi máu trong người tôi, cho anh bộ xương, cho anh, cho anh… Tình yêu là một cuộc thảm sát. Thôi thôi không thèm khát nữa, thôi thôi không còn gì nữa. Tôi chỉ còn ba mươi bảy ký lô. Chao ôi!…”

(Những sợi sắc không, trang 110)

Trầm không lý-tưởng-hoá tình yêu như Cỏ May. Nàng như con sóng đại dương còn đàn ông là những chiếc thuyền nhỏ bé. Vùng sa mù nào đấy mà Cỏ May đã ômg mặt khóc oà, thương cho tình yêu chết yểu, đối với Trầm nó chỉ như cười cợt, bông đùa. Chân lý tình yêu qua Trầm, được điểm danh sống sượng, được treo lơ lửng trên những hành tinh ân ái. Nó là những bóng ma lặng lờ, câu kinh nhớ lại. Nàng vẫn là một cái gì, còn một cái gì mà không ai có thể định hình gọi tên được. Nó luôn luôn dở dang, mãi mãi bắt đầu. Một khung trời nửa cũ, nửa mới. Một hoạt cảnh nửa thật, nửa giả làm choáng váng những kẻ mê nàng. Chữ trinh chỉ là tấm màn phong kiến hết sức mỏng manh, hết sức phi lý!

Trương, nhà trí thức vừa bị tình yêu đá cho một cú đau tê, bị cách mạng bạt tai tím mặt, đến thăm Trầm. Một vóc dáng hư hư thực thực, lượn chập chờn trong tiềm thức Trầm qua Trương. Con mọt sách vở đã được cuộc đời cho những bài học, nhưng không vì thế mà nao núng. Trương tìm Trầm như tìm niềm quên, như tìm sự khuất chìm của thương hận! Một tình yêu mới, nhen nhúm trong tâm hồn Trương, nhưng còn giữ kín nơi lòng. Cuộc gặp gỡ giữa Trầm và Trương thật phất phơ, thật ngượng ngùng. Trong khi đó, các em gái Cỏ May cho Trầm biết, Lê Hùng và Cỏ May đã có những liên hệ. Tác giả thắt thêm một “nút”. Trầm thảng thốt chợt nghĩ chuyện Trương đến thăm mình và Lê Hùng đi với Cỏ May. Trầm nghi ngờ, nàng biết tâm tính Cỏ May không hợp với Lê Hùng vì Cỏ May là kẻ đi tìm tuyệt đối, còn Lê Hùng, kẻ đầu cơ giai đoạn.

Tuý Hồng đã kết thúc phần I của tác phẩm Những sợi sắc không với những “nút” thắt dở dang, với những sự tình vừa sôi động, chầm bập vừa khốn khó. Các số mệnh còn đương vi hành trên lộ trình chung của tình cảm cũng như lề lối sinh hoạt, chưa tới mức quyết định tìm phương hướng cho mỗi thân phận. Tuý Hồng, nhà văn thích lý sự, hình như lý tính là đặc trưng cho phái nữ nên ở đâu, lúc nào có thể, tác giả không quên tìm về cho mình những trường hợp để cấu tạo lý luận và dùng nó để đặt vấn đề, trình bày lý do, dù thanh nhã hay sỗ sàng cũng được!

Phần II của cuốn sách được mở đầu bằng sự có mặt của Trầm trong ô vuông thành phố Sài Gòn, nơi có cuộc sống ồ ạt kinh niên, và có một bầy kên kên văn nghệ hễ thấy đàn bà là bay lượn dáo dác như muốn cấu xé con mồi. Những cuộc họp mặt mỗi tối, không phải để thảo luận về đường lối đấu tranh cách mạng hay tìm chiều hướng sáng tác, mà để ăn, uống rượu và văng tục.

… Những tên đàn ông bỏ bàn ăn sang ngồi xếp bằng tròn ở sa lông nói ra những chữ tục thật ngon miệng. Chai Johnnie Walker mới uống xong dựng ở góc phòng, Chúng cúi xuống quẹt que diêm quăng vào trong chai đốt nghịch những giọt rượu còn sót lại. Trầm có cảm tưởng những câu nói tục của đàn ông đều phóng đúng tai nàng, nàng cười gằn cắn vào môi điếu Salem thắp tiếp, kéo một cái ghế trống gác chân lên nhìn Yến Ly gật gật đầu. Lý đi chân vòng kiềng đến trước mặt Thảo Trang coi người hớn hở: này này bà Thảo Trang ơi… ông Chung ông ấy cứ xoắn xít bên cô Trầm hoài à… bà phải ghen lên chứ! Nụ cười Thảo Trang nở ròn với vẻ trắng bóng khả ái của đôi hàm răng đều: ồ trường hợp cô Trầm với những người đàn ông đây… ai muốn tán cô thì cứ tán… đó là trường hợp một nữ sĩ độc thân. Nếu tôi không thành hôn với Chung… thì cũng vậy!…

… Yến Ly lắc đầu chỉ tay: nhưng cái bọn văn sĩ đực rựa này chúng nó là một bầy kên kên… mình lao đầu vào… vào… rồi tâm hồn mình mục rã, rồi xác thịt mình sẽ rữa ra…

(Những sợi sắc không, trang 130)

Trầm vốn mang trong người nhiều chất đàn ông nên những lời nói tục không làm nàng thấy ngại, còn cho rằng ngôn ngữ đàn ông phải có tục, cũng như câu văn phải có chấm, có phẩy… Cái không khí cuồng nộ do rượu và đàn bà tạo nên nhức nhối, khác hẳn với không khí mà Trầm vừa xa cách nó. Tiệc tàn, Kiệt vì có xe, nên phải đưa Trầm cùng mấy người bạn về. Nửa đường, hắn tức vì bị lợi dụng làm tài xế nên dừng xe lại, mở cửa bước xuống, đứng đái vào cột đèn, trước mặt mọi người. Xong, nhất định không lái xe nữa. Trầm và bốn tên đàn ông phải kêu taxi.

Vào Sài Gòn Trầm ở nhà Phi và Đào, hai cô gái Huế. Trầm kể lại chuyện Kiệt đái. Phi chép miệng: đời tau bị đàn ông thay nhau phụ bạc nhưng, chưa lần nào bị đàn ông đả thương một cách tục tằn như vậy! Rồi chiều hôm sau, Trầm lại sửa soạn đi ăn chơi. Một tiếng hỏi:

“Trầm, mi lại sửa soạn đi chơi với ai đó?”

“Thằng Chu say.”

“Trời ơi! Cái thằng cha hồi hôm đái trước mặt mày đó hả?”

“Không phải, thằng cha này đái trong buồng tắm…”

(Những sợi sắc không, trang 135)

Hoạt cảnh vẫn như hôm trước, chỉ thêm mấy tên cựu Bộ trưởng, cựu Đổng lý thất thế, gia nhập với tụi làm văn nghệ cho quên đời. Chu, hiện làm giáo sư đại học, đang tấp tểnh muốn làm Bộ trưởng. Hắn là tên trí thức đón gió, cũng đi chùa lễ Phật và biết nghe ngóng tình hình. Ở giữa khung cảnh này, Trầm chợt nghĩ đến Cỏ May và tự ví mình với nàng Kiều: Kiều chỉ vì ngón đàn tưng tưng mà đoạn trường, mình vì viết lách lăng quăng mà gian truân!

Sau những ngày dài kéo lê trong ăn chơi với mục đích để giải toả câu chuyện riêng tư. Trầm lại như cánh chim bay về tổ cũ.

Trở lại Huế với một thân, một phận, với chuỗi ngày đều đặn chồng trước mặt. Trương lại hiện diện trước mặt nàng. Tiếng lòng của Trương âm vang trong tiềm thức Trầm. Trương đứng đó, trải lớn trên khung cảnh hùng vĩ của tình yêu và bất ngờ chàng ôm gọn Trầm vào lòng. Nhưng Cỏ May còn đó, không cho phép nàng phản bội bạn, tuy trong lòng, những ngón tay tình ái đang ve vuốt trái tim căng máu. Cái khối hạnh phúc đã gần kề, nàng đành phải gạt lệ chối bỏ. Chối bỏ với nhức buốt tâm can,

Trương và Trầm cùng đứng bên chiếc ghế, Trầm bóp nhẹ bàn tay Trương nói:

“Cỏ May đi chơi với Lê Hùng thắm thiết lắm rồi, chính miệng mấy con em mắc dịch của nó tố cáo với tôi.”

Trầm chợt nhận thấy một tạ gạo cũng chưa nặng bằng cái cười nhếch mép của Trương.

“Thế thì chúng ta đủ sức yêu nhau rồi Trầm nhỉ?…”

(Những sợi sắc không, trang 153)

Tuy không muốn, nhưng Trầm vẫn đi tắm biển Thuận An với Trương. Lúc về, được thư Cỏ May vứt qua khe cửa. Cái thân thể nặng vì tội lỗi, do chuyện này nặng thêm chút nữa. Bài học cuối cùng vẫn chưa đến, còn đam mê thì như núi lửa mà tình dục thì chói chang, luôn luôn đói khát ái ân, như trẻ con ngứa răng bạ cái gì cũng cắn. Thân thể nàng đã bao lần bị chiếm và tái chiếm, nhưng tình yêu như loài ma quỷ ẩn hiện chùm lấp mọi suy nghĩ. Cuộc sống trôi đi, cứ trôi đi với giăng mắc trong những trang sách của Tuý Hồng làm người đọc váng vất. Nhân vật Trầm là ngoại lệ, là sự phản kháng tích cực đối với trật tự và luân lý xã hội. Nó là niềm đau xót của cánh chim bị giam hãm, tù túng. Nó là những dằn vặt của kiếp đàn bà từ lâu bị cầm chân đạo lý. Nhà văn dùng nó như một biểu tượng giải thoát. Trong khi đó nhân vật Trương, tượng trưng cho sự co rút cuối cùng của cố gắng, một thứ anh hùng thấm mệt, muốn được ẩn nấp che giấu dưới máy yêu đương cho lãng quên đời. Trương than thở:

Tường vôi đã vữa, những chiếc đinh đã long, tôi không còn móc nối niềm tin vào đâu nữa, không còn bấu víu vào đâu nữa. Tất cả đã phai lớp phẩm màu thiêng liêng, tất cả đã tróc đi lớp nhựa bóng ngời cao đẹp, thánh thiện, hào quang lập loè đã tắt ngủm, tối đen… không còn gì… không còn gì, tất cả chỉ còn trơ lại đống lá đa vừa mới quét. Lòng đau quặn thắt từng cơn vì sự phá sản, sự truất phế siêu hình, nên bây giờ, tôi một mình tiếp xúc với đấng chí tôn của tôi không qua một trung gian nào cả…

(Những sợi sắc không, trang 163-164)

Sự tranh đấu đã làm Trương chán ngấy, vì những kẻ chống áp bức hôm qua, hôm nay lại thi hành áp bức đối với người khác khi họ ở thế mạnh. Vì nhìn rõ cái trục của sự việc, nên sự việc đối với Trương chỉ như trò giả dối, họ lợi dụng số đông để mưu đồ tư lợi. Trương yêu Trầm cũng không ngoài mục đích tìm quên. Nhưng Cỏ May luôn luôn vẫn là ám ảnh, khổ não. Hằng đêm, những cái tên đàn bà thân yêu vẫn vang vọng trong tâm não. Trương cảm thấy mình bị giày vò đến khốn khổ về cả hai khía cạnh: tình yêu và cuộc sống. Giữa lúc ấy, đột nhiên vóc dáng Khả hiện ra trong đêm mưa gió. Trương tưởng kẻ gian, vội thủ thế bằng cây súng, khi nhận ra bạn chàng rắn giọng trách, đã say rượu còn đi mưa! Khả hỏi, còn rượu không? Còn chai rượu chát. Khả tu một hơi rượu ừng ực hỏi, con Trầm làm nghề gì? Viết văn, một nghề không vốn. Uống đã, Khả lên tiếng:

“Tôi nghi chị cậu với người ta thật nên tôi mới ra làm lớn được ba tháng.”

Trương giữ thân thể không nhúc nhích mắt nhắm tít, đầu gối chàng ngứa ngáy, chàng cũng không buồn đưa tay gãi. Khả nằm ngửa lập lại:

“Tôi nghĩ thiên hạ đồn đúng, chị cậu ngủ với người ta nên tôi mới nhảy ra chính trường được ba tháng!”

Trương đã ngủ tự lúc nào…

(Những sợi sắc không, trang 171)

Tuý Hồng viết không những chanh chua còn độc ác. Mỗi chữ như cục đá, do bàn tay búp măng trắng trẻo, nõn nà, ném vùn vụt vào mặt đối tượng như để trút hết căm hờn, giận dỗi. Những lời Trương tự sỉ vả mình, chính thức, do Tuý Hồng nói: Im, im đi những thù hận dài! Trí thức đểu, trí thức gàn, trí thức lèo lá hàng chợ… Lý với luận… mình chỉ là hạng trí thức tôm cá… Lý với luận! Hơn nữa, tác giả còn dùng những từ ngữ nghe chả êm tai chút nào như “trí thức gián”, “trí thức chuột” mà cũng nhân danh chiến tranh để tuyên bố chúng ta thân cộng. Người trí thức chân chính, khi đọc đến dòng này, chắc bực mình không ít, cũng như Trương bị câu nói của Khả làm bấn loạn tâm trí. Chàng tự hỏi: Ai là kẻ đáng cho chị Minh ngủ với nhỉ? Ông Việt cộng? Ông Mỹ? Ông Cần Lao?… Vì chị Minh lộng lẫy oai phong đứng trên đỉnh đầu cuộc đời. Tấm nhan sắc ấy, cái trí tuệ ấy như một uy thế, không trí thức nào địch nổi. Trương càng lúc càng chán nản. Thời cuộc như thế, tình yêu như thế, nên cuối cùng chàng trở thành thứ anh hùng thấm mệt! Chàng hô hào anh em sinh viên, những người cùng cảnh ngộ: lập bang hội không làm gì hết, mở quán cà phê nho nhỏ để đấu láo và đọc sách. Ý tưởng tiêu cực đã làm băng hoại cả nguồn sinh lực, đáng lẽ cần đóng góp vào công tác xã hội để xây dựng ngày mai, manh nha trong tâm trí một số đông trí thức miền Trung vì họ đã nhìn rõ “cái thế” của một quốc gia nhược tiểu trong vấn đề lớn quốc tế.

Sinh, chiếc cù lao lớn trong biển lòng Trầm lại có mặt lúc đó. Một thoáng hờn ghen chạy dài trong cái nhìn, câu nói:

Sinh bực dọc bỏ đứng lên đi những bước nặng:

“Lúc này nghe người ta nói Trầm còn luyến ái cả Trương nữa.”

Trầm cúi nhìn xuống đất:

“Anh kê tai nghe thiên hạ nói xấu tôi… Phải, tôi với Trương có lẽ mới bắt đầu vào cuộc.”

Sinh đứng thẳng ở bức tường ngậm thuốc, im tiếng. Trầm mỏi mệt lắc đầu:

“Mà có lẽ cũng đang phá cuộc… tôi với Trương…”

Miệng Sinh cười rộng:

“Tình yêu của Trầm là trò hề trong gánh xiếc.”

“Đúng em là bò lạc, em là ngựa hoang chưa về chuồng.”

Hai lông mày của Sinh nhăn lại gần nhau:

“Em dễ dàng ngủ với bất cứ một ai… Tại sao thế nhỉ? Trong khi em đâu phải…”

Trầm đưa tay lên gãi gáy:

“Cho phép anh mệnh danh em là đĩ. Đĩ tinh thần hay đĩ vật chất cũng là một, đĩ óc não rồi lây qua đĩ thể xác… cũng thế.”

(Những sợi sắc không, trang 184-185)

Sinh yêu Trầm thực, gã quân nhân đa tình này luôn luôn mở rộng hai cánh tay cao thượng đùm bọc lấy nàng như đùm bọc chính bản thân. Còn Trầm, như cánh thiêu thân không xa vời vùng ánh sáng đam mê của tuổi trẻ, dù tuổi trẻ được trả giá bằng muôn vạn đắng cay cả tâm hồn lẫn thể xác. Sinh đã nói, đã nghĩ, đã khuyên nhủ Trầm, đã bày tỏ hết sức mình những gì chân thành nhất, của đứa con trai đối với đứa con gái như Trầm,

Hối hận đi em, ăn năn đi em, tổn thương lòng tự ái đi em, mắc cỡ đi em, xấu hổ đi em, ê chề đi em, và hãy nghĩ rằng tình yêu phải có luân thường đạo lý, bớt đa tình, đừng đa dâm. Đàn bà trong cái xã hội này vẫn còn ngoan lắm, hư hỏng như em là một số rất ít. Em cũng nên tự vớt em ra khỏi dòng sông tình dục vì em không cho anh vớt, em hãy tự xuống đỉnh nhọn mê hoang vì em không cho anh đỡ em… Xã hội có làm gì em đâu mà em phá phách tạo phản…

… Trầm xô Sinh ra nói lớn: “Anh Sinh, thả cửa cho anh chửi em đó. Em chứ đâu phải ai. Không câu chấp, không nề hà, can đảm đến liều mạng, tự tin đến dửng dưng, bất cần thiên hạ, bất cần vũ trụ…”

(Những sợi sắc không, trang 191-192)

Tình yêu không cần lẽ phải, chẳng biết câu nói đó của danh nhân nào, nhưng thật thích hợp với Trầm, cô gái viết văn liều mạng, chỉ tuân theo những gì mình nghĩ, bỏ mặc lẽ phải phía sau. Những khuôn mặt người tình số một, số hai, số ba, số bốn v.v… đối với nàng chỉ là con số, con số vô nghĩa đi đôi với sự cọ xát da thịt. Phút cảm khoái qua rồi là hết, nàng chỉ cần tắm rửa một lát, mọi ân nghĩa đều theo dòng nước bẩn trôi xuống cống.

Nhưng có đích thực như vậy không? Trầm có hoàn toàn vô luân, dâm đãng như lời nàng tỏ bày không? Trong đêm dài, một mình đối bóng. Trầm tính sổ đời mình. Mỗi số phận Thượng đế đều ban cho một khoảng để sống và một khoảng để chết. Trong một thoáng. Trầm đã có ý định cầm lưỡi dao cạo cứa một nhát lên gân tay, để cho những giọt máu quí báu – bao nhiêu công dinh dưỡng – chảy vọt ra ngoài không khí và nhiễm từ từ đi vào giấc ngủ lãng quên đời! Chưa được, Trầm vẫn ham sống vì đời đang xinh, đang đẹp, đang được tô lục, chuốt hống trong môi hôn, với ma xát thịt da gợi cảm…

Những lời nói chua chát của Sinh chưa có thì giờ ra khỏi trí não Trầm, thì Cỏ May lại lừng lững đối diện,

Cỏ May cười nức nở:

“Trầm ơi! Mi và anh Trương yêu nhau!…”

Tiếng nói vỡ oà cho bao nhiêu nước mắt cùng đổ lã chã. Nỗi sợ hãi ụp đến một cách thần tốc. Trầm không kịp run, Trầm không kịp tái mặt, Trầm không kịp hé miệng, Trầm đứng khựng như một cột trụ thẳng.

Hồi lâu Cỏ May nhếch môi chua chát:

“Tau không ngờ, cho đến bây giờ tau vẫn không ngờ…”

“… Lạy Trời không phải mi và Trương yêu nhau. Tau ngờ bậy và thiên hạ ác miệng đồn bậy. Trầm ơi! Mi hãy chính thức minh xác với tau là mi và Trương không yêu nhau đi. Tau đến đây để nghe một lời minh xác, mi nên nói một lời cải chính đi. Tau tin mi chứ tau không tin ai hết. Mi không bao giờ nói láo với tau hết!”

(Những sợi sắc không, trang 198)

Trầm choáng váng, im lặng làm Cỏ May càng tin rằng họ yêu nhau thiệt. Cỏ May rời bỏ Trương, trả lễ hỏi hôm trước vì bị ánh sáng cách mạng làm đui mù, nhưng sau những ngày đụng chạm với Lê Hùng, với thực tế, nàng đã hiểu rằng, tình yêu không như cách mạng, trái tim có lý lẽ của nó, lý trí không hiểu được. Đau thay, hai khuôn mặt bạn bè, hai vóc dáng con gái đang hầm hè nhau vì một con mồi. Họ cùng chung một cơn khóc và không cùng chung một cơn cười!…

Trầm hăm hở đi rượt bắt mộng tình đến quên cả tuổi già, quên đời con gái, quên cái nhòm độc địa của người đời, quên dư luận tanh nồng khê khét. Nhưng nàng vẫn tỉnh táo để nhận định, Trương thương Cỏ May là đi vào tình yêu trường cửu, còn hắn thương Trầm là để chờ cơ hội tụt quần nàng. Sau cùng, nàng xác nhận với Cỏ May giữa hai người chưa có gì hết, ngoài việc lợi dụng nhau chút đỉnh gọi là!… Trong nhà tù, Trầm, kẻ bại trận, ra ngoài đời, Trầm lại thắng Cỏ May, nó là cái vòng luẩn quẩn thật thê thảm do hoàn cảnh cấu tạo. Cỏ May yên tâm ra về với hớn hỏ trong lòng vì mình vẫn là kẻ được cuộc. Trầm cảm thấy tự nhiên trở thành gỗ đá. Giữa lúc ấy, Trương hiện ra để gánh chịu những lời sỉ vả đắng cay:

… Trương bước vô. Trầm ngồi xuống ghế chống tay lên bàn:

“Đồ chồn! Anh là một con chồn! Đồ đầu người đuôi cáo… Đồ đểu! Đồ làm cho con người ta hoá đá!”

(Những sợi sắc không, trang 207)

Trương có mặt như tội nhân, như chiếc bia để Trầm ném mọi ngôn ngữ sỗ sàng vào mặt, không hối tiếc. Cơn bão táp qua đi, Trầm nói với Trương để tự nguyền rủa,

“Tôi vô luân quá, anh Trương hí!… Đàn bà lấy một chồng mới không vô luân, đàn bà lấy hai chồng là đã hơi hơi vô luân rồi. Tôi bao nhiêu chồng. Trên thân thể tôi là cả trăm thằng đàn ông. Những thằng đàn ông lượn quanh thân thể tôi rồi đáp xuống trúng ngay mục tiêu như kim chích vô thịt. Kim chích vô thịt thì đau. Thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn đời. Tôi vào buồng tắm, tôi dội nước, tôi rửa là hết liền…”

(Những sợi sắc không, trang 211)

Tuý Hồng đó. Cái văn phong của Tuý Hồng rất sượng sần, tê điến. Nó cứng và sáng chói như kim cương đồng thời cũng khô ran và khó nuốt như đá cuội. Tuý Hồng không đi tìm cái tầm thường, cái chung chung. Nhà văn muốn rướn cao trên đỉnh đầu của ý tưởng, của ngôn ngữ. Các nhà đạo đức hãy nhắm mắt lại, hoặc xé những trang sách đó đi, vì nó đã phỉ nhổ vào luân lý và đạo đức. Nhưng nó là Tuý Hồng. Nó là chứng tích của thời đại. Và cái lũ kên kên đàn ông, đối với nhà văn luôn luôn như lũ đểu cáng, ba que, xỏ lá, thoả mãn rồi sẽ bay tít mù khơi!… Ở chương kết của Những sợi sắc không, nhà văn giải quyết vấn đề trong khung cảnh man rợ, thanh toán nhau để bao trùm ảnh hưởng và uy thế. Hình ảnh giáo sư Bình, đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng bị bắt mang ra hành hạ sỉ nhục, phải chăng là một vết nứt rộng lớn trong ý thức của con người quốc gia? Người đọc rùng mình, ghê tởm sự cuồng tín, u mê của lớp người đã nhân danh cách mạng để đối xử với những anh em cũng yêu nước, nhưng không đứng chung chiến tuyến:

“Ai dám rêu rao câu nói: Rượt Mỹ về nước tức là cõng Việt cộng vô nhà?”

Một người đàn ông mũi bự từ vòng vây thứ hai xông lên nói:

“Quốc dân đang xả xấu. Mày là đảng viên Quốc dân Đảng chó chết.”

Tức thì mấy cái miệng cùng hô:

“Đả đảo Việt Nam Quốc dân Đảng.”

Xẹt một cái, người đàn ông ở vòng vây thứ nhất lê loi một cú vào quai hàm giáo sư Bình rồi trở về chỗ cũ. Hai người ở vòng vây thứ ba lẹ tới đấm đá vào lưng, vào sườn non ông Bình, rồi giẫm chân lên ngực, giẫm chân lên bụng. Nạn nhân trợn mắt, thè lưỡi… Ông Bình nằm mềm nhão trên nền gạch cố rướn lớn giọng:

“Tôi không phục các anh, các anh thanh toán tôi, các anh độc tài hơn cả cái chính phủ các anh đang đả đảo. Các anh tranh đấu cho tự do, thế thì tự do của tôi đâu? Tự do ngôn luận của tôi đâu? Trong lúc các anh tranh đấu cho tự do, tôi mới biết tự do không có…”

… Ở tại nơi đây, người ta đã nhân danh tôn giáo để tranh đấu cho người, cho có một xã hội chủ nghĩa. Bởi, người ta đã nhân danh tôn giáo để làm việc, nên tôi có quyền phản đối, có quyền không phục cái việc làm của tôn giáo. Khi tôi phản đối tôn giáo, tôi vẫn là người Việt Nam, là quốc gia văn minh.

… Tôi phản đối cả chính sách của Mỹ tại quê hương tôi, tôi phản đối cả toàn dân nước Mỹ, tôi phản đối ông Tổng thống Mỹ, Quốc hội Mỹ. Nhưng tôi không phản đối một người Mỹ trên quê hương tôi, vì người ấy cũng là nạn nhân của chính sách Mỹ như tôi, người ấy qua quê hương tôi để chết cho chiến tranh của tôi và chiến tranh của người ấy…

(Những sợi sắc không, trang 218-219)

Cái cảnh tra tấn này giống hệt như cảnh đấu tố tại miền Bắc. Cũng không khí ấy, cái không khí của máu và oán cừu! Trương cũng bị đội quyết tử đến thanh toán. Trương cùng cái quán cà phê vẫn đi theo ngày tháng buồn tênh. Tiếng loa phóng thanh dội vào tai chàng từng nhịp điệu hò hét phẫn nộ, hô hào đòi chính quyền phải trả tự do cho tăng ni ở Quảng Ngãi. Trương nói với cái cửa sổ: Lại la hoảng nữa! Có gan làm thì có gan chịu thử đi cái nào. Chính trị thì làm mà ở tù thì không ở… khôn thế! Cuối cùng, Trương vẫn phải tháo thân ra cửa hậu vì quán cà phê bị bao vây và mồi lửa đang chập chờn tiến vào…

Tranh đấu và cách mạng tiêu diệt lần lần những gì chống đối họ, nhưng lẽ phải chẳng còn, nên mọi cố gắng đều vô ích. Cuối cùng, Cỏ May được Trương và Trầm giã từ những ngày phiêu lãng để ngã vào vòng tay Sinh với tê mê cảm giác.

Tác phẩm Những sợi sắc không đã vẽ lại bối cảnh sôi động vừa hùng tráng vừa bi thảm của miền Trung trong những ngày sát cánh với Phật giáo tranh đấu, lật đổ nền Đệ nhất Cộng hoà và tiếp theo một thời gian nữa. Những nhân vật trình bày trong cuốn sách là những khuôn mặt thực, được tác giả nguỵ trang bằng danh tính khác, chẳng hạn như Lê Hùng chính là giáo sư L.V.H., người đã giữ chức vụ Chủ tịch Lâm thời Ủy ban Giải phóng Huế trong những ngày Việt cộng tạm chiếm đóng thành phố Tết Mậu Thân, hiện ở Hà Nội. Hãy gạt bỏ tất cả mọi đam mê tuổi trẻ sang một bên, nội dung tác phẩm có giá trị cao về phương diện phê phán cũng như phân tích khách quan từng dữ kiện thuộc lịch sử. Kỹ thuật dựng truyện rất chắc, phương pháp hành văn thật linh động, lúc đứng đắn nghiêm trang, lúc sàm sỡ buông thả, lúc ngưng đọng bị thảm. Tuý Hồng đã tận dụng khả năng thiên phú để tạo cho mỗi nhân vật một đời sống đặc thù, một hoàn cảnh khốn khó để thử thách sức chịu đựng của vai trò. Cái đặc tính vừa thông minh vừa lì lợm của Trầm phải chăng là hiện thân của tác giả? Dù đúng dù sai, nhân vật này được cưng nhất và chính “nó” đã làm sống cuốn sách. Những sợi sắc không còn đưa ra vấn đề căn bản của đạo Phật với bốn chữ: sắc sắc không không. Bốn chữ đó bao hàm một ý hướng thật rộng rãi, thật mông mênh vì ở đời cái có, cái không làm sao phân giới, và ai dám khẳng định không và có là hai điều khác biệt? Do đó, mọi việc ở đời chỉ là mộng ảo và mỗi số phận được búng sẵn tự trời cao, nào ai biết?

Điểm đặc biệt, tác phẩm của Tuý Hồng mang nhiều địa-phương-tính qua ngôn ngữ và hành động, nhưng vẫn đi vào cái chung của văn học hôm nay, làm người đọc thích thú.

Tác phẩm Những sợi sắc không đã được trao tặng Giải nhất Văn học Nghệ thuật 1970. Tương đối, nó xứng đáng.

Từ đó, Tuý Hồng đi sang Bướm khuya, tác phẩm viết về cuộc đời chìm nổi của Nghi, nhân vật chính trong truyện. Nội dung Bướm khuya chuyên chở những sự tình bi đát với bối cảnh chiến tranh của năm 1946. Nghi, cô gái từ nhỏ ở bên ngoại với cha mẹ. Cuộc chiến đã manh nha, cha Nghi về bên nội một mình. Ít lâu sau gửi thư về bảo mẹ con Nghi phải trở về bên nội để tránh cảnh giặc giã. Ông ngoại không muốn để lũ cháu và con gái mình đi, vì biết về bên đó sẽ khổ. Nhưng ông Tuần, em Ngoại, khuyên nên để cho đi vì thuyền theo lái, gái theo chồng. Thế là những ngày thần tiên bên quê ngoại chỉ còn là kỷ niệm. Nghi năm đó lên 9 tuổi còn 4 đứa em nữa. Quê nội xa lắm, đi nửa tháng sông nước mới đến nơi. Lúc đó cô Thương, em ruột cha Nghi, đang hoạt động cho Việt Minh kèm theo hộ tống. Cô Thương không đi chung đò với mẹ con Nghi, ẩn hiện không chừng. Cô có súng lục và lựu đạn. Trong chuyến đò, Nghi đã thấy cảnh giết người. Một ám ảnh nặng nề, sợ hãi đối với tuổi thơ. Mẹ Nghi buồn lắm khi phải về quê chồng, vì đã biết rõ những gì mình sẽ gặp ở hoàn cảnh khốn khó đó. Nghi và các em vì ngây dại nên vẫn vui đùa. Quê nội nghèo lắm, khổ lắm! Mẹ con Nghi sống những ngày dài tủi nhục. Cha không hỏi đến một lời. Ăn uống kham khổ, ngủ chật chội bẩn thỉu, trong lúc đó vợ chồng của chú Trí được ưu đãi, ở phòng rộng rãi khang trang. Cũng may còn chú Tân có tinh thần quốc gia, không theo Việt Minh, vui tính, vô tư và yêu quý cháu, nên Nghi và các em cũng được an ủi.

Mặt trận tràn lan. Cuộc chiến làm cho không nơi nào yên. Quê nội, Tây tràn về và hiếp chóc. Nghi tuy mới 11 tuổi, nhưng phổng phao bằng cô gái 14, 15. Một bữa Tây vào làng càn quét, gặp mụ Còm toan hiếp, mụ sợ quá lạy van rồi chỉ chỗ mợ Trí trốn cho Tây, vô phúc, mụ chỉ nhầm nơi Nghi núp. Thế là ba thằng Tây thay phiên nhau hại đời Nghi. Cha Nghi cũng bị giết, nhưng không do Tây mà bởi ái tình. Cha Nghi mê Lan, cô ta lại là nhân ngãi của tên công an trưởng, nên cái chết không toàn thây làm mẹ Nghi nhục nhã, điều này do cô Thương tiết lộ.

Sau khi nhặt thây chồng, chôn cất xong, mẹ con Nghi về quê ngoại. Quê ngoại đã bị Tây chiếm rồi. Sự sung túc và hiền hoà ngày xưa không còn nữa. Cảnh nhà tang thương tao loạn! Chiến tranh và chuyện ác độc. Lại thêm trong gia đình Ngoại, mợ Út cũng bị hiếp, sau đẻ ra thằng Tây đen. Mợ Út là con thứ tư của Ngoại nhớn. Còn bà Trưởng và bà Phủ là em thứ hai, thứ ba, cũng ở chung nhà. Bà Phủ chồng bì Việt Minh giết dã man, mổ bụng nhét đầy đá cục vào. Bà Trưởng goá đã lâu tuy đã có tuổi, nhưng nhan sắc còn mặn mà, mê anh thu thuế chợ bị bà Phủ cầm roi mây đánh, và cột tóc vào vào cột vì làm nhục gia đình. Đánh xong, bà Phủ xin lỗi chị rồi nằm úpc mặt xuống đất cho chị đánh lại.

Nghi lớn dần lên theo năm tháng. Một chiều nàng đau bụng, sáng hôm sau đi tiểu thấy máu tháng. Nghi sợ quá, nhớ lại cảnh bị hiếp năm nào. Nàng mê man thảng thốt, mẹ dỗ rằng: trong chiến tranh không người đàn bà nào thoát, mẹ cũng bị hiếp rồi!…

Để vượt khỏi cơn túng quẫn, mẹ Nghi phải theo bà Út đi bán câu lạc bộ trong trại lính Tây. Nhà vắng vẻ không có ai, Nghi phải trông nhà, thay vì được đi học. Ít hôm, bà Út mướn được chị Chúc, người đàn bà nha quê đông con nghèo đói. Chị Chúc muốn lấy Tây để có nhiều tiền thay vì làm mướn, nhưng chị xấu quá, dù đã trang điểm môi son má phấn, Tây nó vẫn không thèm. Cái số may, chị Chúc vớ được ông bán rau, có đến hai xe vận tải.

Khi đã có tiền, mẹ con Nghi về Huế ở. Nghi vào học ở trường Jeanne d’Arc. Nghi muốn theo đạo, mẹ không cho. Một buổi Nghi gặp người đàn ông lạ trong nhà, ông Bút. Mẹ Nghi còn trẻ, không giữ nổi lòng mình. Ông Bút giới thiệu Thuý để kèm học thêm cho Nghi và các em. Thuý, cô gái bị chồng bỏ, buồn quá theo Việt Minh. Thuý dụ dỗ Nghi hoạt động. Nghi bị bắt. Cha dượng thăm nom chu đáo. Nghi thấy ông tốt hơn cha. Nhưng một tối có lệnh lên xe. Nghi được đưa vào căn phòng lộng lẫy có một bà đối đãi tử tế, cho ăn uống đàng hoàng. Ăn xong, lão quan già hiện ra trước mặt. Nghi nhìn trăn trối nội dung cho lệnh bắt mình. Hắn cưỡng hiếp nàng, nhưng lạ thay, sao nàng lại thấy khoái cảm, tuy vẫn kêu gào chửi rủa! Hắn làm xong, đến lượt cha dượng nàng vào. Tên đàn ông khốn nạn này đã bày mưu cho lão quan già cưỡng đoạt thể xác Nghi, bây giờ lại nham nhở nói: vì yêu Nghi mà lấy mẹ nàng! Hắn chẳng ngại gì mà không mua vui trên thân xác nàng.

Ở trong tù, Nghi nhớ đến Thịnh, mối tình đầu thật đẹp. Nhưng hỡi ôi! Số mệnh ác nghiệt chưa cho hưởng đã lấy đi. Được tha về, Nghi xuất huyết rồi chết. Lão Bút không còn ở với mẹ Nghi, sau khi đã bòn rút hết tiền và thân xác cả hai mẹ con.

Đoạn cuối tác phẩm nói về gia đình Thịnh, cùng mối tình của chàng đối với Nghi sau khi chết và kết thúc bằng những trang viết của Nghi, không ghi ngày tháng.

Với tác phẩm Bướm khuya, Tuý Hồng đã dàn trải câu chuyện trong kích thước rộng lớn, thời gian rộng lớn. Sự rộng lớn đó đã làm cho vòng tay Tuý Hồng mệt mỏi. Cái thân phận của Nghi, con mồi, bị nhà văn bi thảm thái quá làm xa lạ với người đọc. Hơn nữa, cái bối cảnh chiến tranh của những năm 1946 đến 1954 nó không hoàn toàn nằm ở trong khung cảnh hiếp dâm như nhà văn mô tả. Cái đó có, cũng chỉ phần nào thôi. Nó đâu phải cái trục chính để quân đội Pháp phải mang một lực lượng quân sự đông đảo như vậy, vượt vạn dặm trùng dương để rồi gánh chịu thất bại nhục nhã! Nhân vật Nghi là quá độ. Đoạn nói về gia đình Thịnh cùng những trang viết của Nghi cũng thừa. Nhưng bút pháp của tác giả thật vững, rất Tuý Hồng. Tác phẩm vẫn không kém phần cảm động, sâu sắc. Nhiều đoạn làm người đọc nghẹn ngào, tức thở. Cái không khí thê lương trùm lấp cả vùng trời thơ dại, và nỗi niềm cay đắng như từng lưỡi dao rạch nát cõi lòng!…

Ngôi đền văn học Việt Nam đã dành sẵn cho Tuý Hồng chỗ ngồi thật xứng đáng. Dù ngày mai với con đường trước mặt còn dài, với nhiều bông hoa lạ đang vươn trồng trong dự tưởng nhà văn, nhưng hôm nay, Tuý Hồng quả thực, vẫn là một-cái-gì, còn một-cái-gì làm người đọc suy ngẫm.

Trích văn Tuý Hồng

… Trương ngồi im như ngồi trong bức tranh, rất thảnh thơi, thuốc lá cũng không hút. Trầm gào tiếp khi hai con mắt xốn xang:

“Tôi tội lỗi, tôi có lỗi lớn không đối với ai cả. Bao nhiêu thằng đàn ông đã nhảy lên thân thể tôi tàn phá từng chỗ thịt cấm. Và bao nhiêu thằng đàn ông đã nhảy xuống thân thể tôi để nằm im như một tĩnh vật. Và bên họ, tôi cũng nằm im như một tĩnh vật, một con đỉa no nê. Tôi đã quyết định vậy và tôi đã nhận, đã làm. Tôi đã làm đĩ, đĩ thời gian rồi lây qua đĩ xác thịt. Tình cảm tôi giao hoan bừa bãi và xác thịt tôi cũng giao hoan bừa bãi… Anh ơi, có ngày đêm tôi đã kêu Thuý Kiều, Thuý Kiều con gái cụ Nguyễn Du đấy mà, tôi kêu Thuý Kiều như thế này: Kiều ơi, mình không yêu ai được lâu hết như Kiều vậy. Tiếng kêu của tôi đâm lui vào trong tôi quậy quậy cho tôi đau đớn tới chín chiều gan ruột, xông lên óc, xói vào não. Tôi bây giờ là một bãi lầy, một đống sình, một vũng bùn. Tôi biết, sở dĩ tôi hư như ngày hôm nay vì tôi đã lầm từ đầu, lầm từ một khởi điểm rất nhỏ, như đã lầm to cho đến bao giờ: như người mắc bệnh ung thư cổ tử cung, bắt đầu chỉ là một khởi điểm 0, một đốm nhỏ nằm tại eo tử cung chưa có triệu chứng gì để tự phát giác, nhưng dần dần đóm nhỏ ăn ruồng đến những tạng khác vào toàn vẹn bụng dưới. Tôi đã hư vì cái nhận định đến sớm nhất trong tôi: ái tình không phải là tâm hồn gặp tâm hồn, mà ái tình là xác thịt gặp xác thịt. Tôi đã be be cái miệng với Cỏ May và với những người khác: ái tình là một cái không có… Niềm tin của tôi đã bị đánh cướp rồi. Anh Trương! Có một tí tẹo lầm lẫn đó mà bây giờ như thế này, mà bây giờ như thế này, chữa không được nữa rồi…”

Trầm đứng dậy xõa tóc bước theo hình chữ nhất của gian phòng rồi đứng lại dưới bức vẽ truyền chân màu thịt bò tái của nàng:

“Anh Trương này, hình như giờ này ở ngoài đời có vô số con người đã đánh mất niềm tin rồi. Niềm tin đã mất sợ rằng rồi đây, lũ bác sĩ không còn tin ở thuốc Tây nữa. Lũ bác sĩ ngơ ngác, nghi ngờ cả nền y học Tây phương mất thôi.

Anh Trương ơi, hình như giờ này ở ngoài đời có rất nhiều người còn lương tâm, và lương tâm họ đang hằn lên những nét tím bóng hối hận.

Anh Trương ơi! Cỏ May chửi tôi quá! Cỏ May cao thượng với tôi quá! Cỏ May ăn ở đẹp với tôi quá! Tôi là một đứa ưa kiếm chuyện, ưa trừng mắt nhìn đời.”

Trầm ngó thẳng vào mặt Trương. Chiếc miệng người đàn ông vẫn ngậm cứng một cây tăm yên lặng. Người đàn bà bặm môi và tiếp:

“Tôi thấy tôi vẫn chưa ra khỏi cái dĩ vãng nguội, tôi bước hụt như bị hất cẳng trong hiện tại nóng… Còn tương lai, tương lai tôi là một cuốn phim hư. Tôi phải giơ tay lên vả vào mặt tôi, tôi phải tự cười, tự nói xấu tôi cho đã đời.”

Cánh cửa đẩy ra như bị mở trộm. Nắng bứt rứt bám vào tường, bám vào bàn ghế. Ly nước lọc Trương cầm ở tay thật hiền lành. Tiếng thở dài của Trầm nghe nặng nước mắt. Một tủi nhục nhờn nhờn trườn quanh thân thể, một tức tối nghẹn ngào phản kháng như đầu mũi kim len vào mạch máu chạy theo đường tuần hoàn vào quả tim lạnh héo hắt bộ ngực hận đời. Trầm bỗng đứng bật dậy muốn trương vi, trương vẩy, muốn khua môi, múa ngón cho rộn bộ như hát bội, nhưng, Trầm lại ỉu xìu ngồi xuống:

“Tôi vô luân quá anh Trương hí!… Đàn bà lấy một chồng mới không vô luân, đàn bà lấy hai chồng đã là hơi vô luân rồi. Tôi bao nhiêu chồng. Trên thân thể tôi là cả trăm thằng đàn ông. Những thằng đàn ông lượn quanh thân thể tôi rồi đáp xuống trúng ngay mục tiêu nhin kim chích vô thịt. Kim chích vô thịt thì đau. Thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn đời. Nhưng tôi không nhớ ai trọn một giờ. Tôi vào buồng tắm, tôi dội nước, tôi rửa là hết liền… Tôi không nhớ ai trọn một giờ mà. Những người đàn ông và lũ kên kên thèm tôi, rỉa hết cả thịt tôi rồi đá lông lốc bộ xương của tôi đi. Ngày hôm nay, giữa cuộc đời, chỉ có một người đàn ông dám thú nhận yêu tôi, đòi lấy tôi làm vợ – Sinh đó – nhưng tôi đã liệt Sinh đồng hạng với những người đàn ông khác. Tôi đã tục tĩu hoá mối tình, tôi đã dơ dáy hoá mối tình, tôi chịu ăn nằm với Sinh, nhưng không chịu để Sinh lấy làm vợ. Tôi đã coi Sinh không ra một cái gì hết, tôi đã coi tôi không ra một cái gì hết. Tôi ăn nằm với Sinh ở khách sạn, tôi ngủ đò sông Hương với Sinh, tôi ân ái với Sinh trên divan, ở phòng khách… Còn Sinh, Sinh yêu tôi vô tả vô tận, yêu bám lấy tôi như vẩy cá dính vào con cá. Xá tội mà yêu, nhắm mắt mà yêu, ở xa cũng yêu. Ở gần, chàng van xin tôi như hát vè con cá, ở xa, chàng liên miên thú tội trên mặt giấy. Sinh khư khứ nắm lấy tình yêu như cái lỗ mũi cố níu lấy hơi thở. Sinh yêu tôi cho đến giấc ngủ chung thân, chứ không phải như một kẻ níu lấy mạn thuyền bơi một hồi rồi bỏ. Yêu đến ngây thơ rồ dại, nhưng, cũng chín chắn lắm lắm, son sắt lắm lắm. Trên cuộc đời này, hầu hết đàn ông đều đểu, chỉ còn lại Sinh và vài người là khác. Chàng dệt mối tình từ đầu đến cuối, từ mặt tiền đến mặt hâu. Nhưng tôi đã coi Sinh giống như bất cứ người đàn ông nào khác.”

Trầm ngừng lại nuốt nước bọt, ngó qua Trương đang ngắm nghía mình rồi tiếp:

“Sinh là một người trẻ tuổi có ý thức lớn, ý thức khổng lồ, chàng không ngó tôi bằng cái nhìn cận thị, chàng biết trước những việc tôi làm nhưng đại xá hết. Tôi làm gì chàng cũng tha thứ, chàng cũng chiều chuộng. Bởi, chàng là kẻ diệt mối tình từ đầu đến cuối. Bởi, chàng cố làm cho tôi thấy tình yêu là có, tình yêu bao giờ cũng có.

Tôi đã bảo chàng là một người trẻ tuổi có ý thức.

Sinh hành quân liên miên. Mỗi lần nghỉ phép, chàng về chạm trán với bầy con gái điên ở thành phố, một bầy con gái mất trí. Đi đầu là tôi. Mỗi lần nghỉ phép, chàng về gặp một bọn đàn bà đang làm loạn lên, bối rối, hốt hoảng. Đi đầu là tôi.

Cuộc đời mở tám mặt tấn công đàn bà. Chiến tranh mở tám mặt tấn công đàn bà, sự lo sợ làm nhão người họ ra, nhão trái tim ra, nhão óc não ra, nhão xác thân ra… Tôi đã la hét giữa bọn con gái không điên. Tôi đã giậm chân, giật tay giữa bọn con gái còn tỉnh. Bọn con gái bình tĩnh đó rồi sẽ hoá nhão hết, cái bọn con gái không chịu một ảnh hưởng gì của chiến tranh tám mặt tấn công và của cuộc đời tám mặt tấn công, chúng sẽ hoá đá hết, chúng sẽ biến thành các vật hoá thạch hết, nếu chúng không điên như tôi.”

Trầm hỉ mũi đi thẳng lại trước Trương mắt đỏ nhìn chàng:

“Tôi là một đứa nghịch nữ, một đứa đàn bà ngược đời. Trời ơi và anh Trương ơi, trời đã sinh ra tôi sao trời còn sinh thêm những người đàn bà giống tôi nữa?”

Trầm khóc mùi, khóc ướt đầm, khóc nức nở cao thấp. Trương bước tới cầm vai Trầm lay mạnh, ấn xuống, giọng chàng ấm như hơi thuốc lá:

“Cô, cô Trầm… em Trầm, em không bao giờ là của tôi nữa!”

Cổ Trầm mềm gục xuống:

“Tôi, tôi là của Sinh, tôi là của Sinh.”

Trương buông tay, giọng nói còn ám khói:

“Cô Trầm! Cô bây giờ đã xuống nước.”

Trầm mềm tiếng nói:

“Không, tôi không xuống nước, dù chỉ một giọt.”

Trương kêu nhỏ:

“Tôi thấy có một trái lửa đam mê vừa tắt.”

“Tôi đang trong cơn động kinh tĩnh, con động kinh sáng suốt, cơn động kinh không nóng, không co giật.”

Trương đứng xê Trầm ra, từ tốn đi bách bộ trong phòng chàng tiến lên dịu dàng, bước tới khoan thai, tay sờ lên mặt bàn, lên thành ghế, lên nóc tủ. Chàng đi sâu vào, dừng lại ở đầu giường, Trầm vội đưa tay:

“Khoan, khoan đừng đi tới nữa, đừng đi tới vị trí chiếc giường của đĩ.”

Trương quay lại:

“Nếu em còn làm đĩ nữa, tôi sẽ lấy roi bò bắt em nằm xuống, đánh vào mông em, ngay trên chiếc giường mà em đã làm đĩ.”

(Trích bản thảo Những sợi sắc không từ trang 209 đến 213)
Nguồn: Tạ Tỵ. Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay. Lá Bối ấn hành lần thứ nhất. Bìa của Đinh Cường. In xong tại Việt Hương ấn quán, 34 đại lộ Lê Lợi, Sài Gòn ngày 29-1-1972. Giấy phép SPNHT số 4452 BTT/PNHT, ngày 20-9-1971. Ngoài những bản thường có in thêm 50 bản trên giấy quý dành riêng cho nhà xuất bản và bạn văn của tác giả. Nhà xuất bản Lá Bối. Lô 0 số 121 Chúng cư Minh Mạng, Sài Gòn 10. Giám đốc sáng lập: Nhất Hạnh. Thư từ xin đề ông Võ Thắng Tiết. Giá: 800đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.



















Phỏng vấn trên Gió O





















sáng tác ...









































Võ Phiến tản mạn





Nữ sĩ Túy Hồng




Hai tiết trôi qua, giờ ra chơi, tôi vào phòng giáo sư ngồi nghỉ. Các nam đồng nghiệp làm như không nhìn thấy tôi, vẫn nói chuyện với nhau.

Hôm nay sắc trời đổi khác, nhưng tác phong của mấy ông thầy giáo trẻ ấy vẫn như mọi ngày, họ không bao giờ nhìn tôi nửa con mắt, hoặc tán tỉnh tôi một đôi lời mà lòng tôi thì rất sẵn.

Trường trung học Hàm Nghi tọa lạc sau cửa Thượng Tứ, một ngôi trường khiêm tốn, không nổi tiếng như trường Quốc Học và trường Đồng Khánh. Học trò con trai xứ Huế, sau cuộc cách mạng quân đội lật đổ chế độ gia đình trị họ Ngô, đã đứng vùng lên biểu tình bạo động, đấu tố giáo sư.

Ai ai cũng biết chắc rằng thế nào Bắc-Quân cũng tổng tấn công và đánh chiếm Huế bất cứ giờ phút nào, cha mẹ và các em tôi di củ vào Sàigòn. Tôi là công-chức mới vừa được bổ dụng, bị kẹt lại ở phố cổ, vùng địa đầu.

Tôi xin thuyên chuyển về dạy trường Gia-Hội. Trường này nằm sau đầm sen trước tủ dinh ông Hoàng Mười, sáng chiều có con đò nhỏ một mái chèo ngỏ ngẩn trầm tủ giữa hai bè bèo tím biếc và vạt rau muống tươi xanh non dại như lòng con gái nhẹ mềm..

Những đêm rằm, tôi chèo thuyền về xóm Đập Đá đất khô cứng, ngó xuống thôn Vĩ-dạ xanh um hàng cau lả mình trong gió đa tình, trong ánh trăng Hàn Mạc Tử, lòng thấy nhớ những cuốn sách dày, những tập thơ mỏng, những tên tuổi người viết lách.

Những ngày thứ bảy, tôi phóng xe đạp lên đồi Vọng-Cảnh, hướng về điện Hòn-Chén, thả tầm mắt ngắm núi Ngự Bình trọc đầu, nhìn xa xa về cửa Thuận An, rồi đăm chiêu ngắm Thành Nội êm đềm tĩnh lặng.

Cất dấu hình bóng sông Hương núi Ngự trong tâm, ấp ôm khung trời xứ Huế đa tình đa tật trong lòng và không mấy nặng tình với luân lý Khổng Mạnh, tôi nảy sinh tham vọng viết văn. Nhiều đêm tôi thức trắng viết truyện ngắn đầu tay gửi đăng báo Sàigòn. Một tuần lễ trôi qua, tòa soạn báo Văn Hữu phúc đáp. Trong bao thư trả lời có một nghìn đồng tiền nhuận bút và những dòng chữ hồi âm của nhà văn Võ Phiến: 

“ Sao tôi khờ dại và ngu như bò! Sao tôi thật thà chất phác như trâu. Suốt thời gian làm việc ở sở thông tin Huế, tôi dốt nát và u mê như heo! Tôi không dám tìm gặp cô một lần, và không đủ can đảm làm quen với cô hồi đó! Xứ Huế đang yêu ai và có bao giờ sông Hương ngủ đò.. Chào cô!..”

Hai ngày sau, Võ Phiến thân ái tặng sách:

“Tôi gửi cô cuốn Hồng Lâu mộng.”

Tôi phóng xe đạp ra bến sông ngồi suốt buổi chiều. Chớp leo lét trên đồi, sấm rung rền từ đàng xa, mây nằm chồng lên nhau như mây đang làm tình. Cơn giông và làn gió cuốn laị, đàn quạ bay lượn tròn, kêu man dại rồi vòng lại bay lui. Tôi tự hỏi nếu ai đó có một chút buồn, một chút chán đời trong buổi chiều rực rỡ này, kẻ đó chắc không phải là tôi.

Sau đó, tôi dắt xe đạp đi bộ vào làng Quáng, dừng lại bên một cái hói, con lạch này là một nhánh cuả sông Hương.

Nguyệt Biều làng Quáng bao xa
Cách nhau cái hói trổ ra hai làng.

Trước khi rẽ vào Bến Ngự, tôi ghé chợ mua một mớ khoai lang dương ngọc, một chút ít bột hàn-the để làm một gói mứt Huế gủỉ tặng Võ Phiến.

Những lát mứt khoai lang nặng nghiệp văn nghệ, những trang tiểu thuyết Hồng-lâu mộng nặng tình văn hữu, thư từ giao thiệp đều đều mỗi ngày, nhưng Sàigòn và Huế giới nghiêm chúng tôi: tôi không xê dịch khỏi Huế và Võ Phiến cố định ở Sàigòn. Rồi một buổi sáng nắng Huế hung hăng bốc nóng, ông cai trường dúi vào tay tôi một bức thư, Võ Phiến với nét chữ nghiêng nghiêng đã viết: 

"Anh xin thú thật với em một tội lỗi, vì một ngày kia em sẽ hỏi. Xin em tha thứ cho anh: anh đã lập gia đình từ lâu, và vợ chồng anh có bốn đứa con."

Đó là cái nghiệp của ít nhiều nhà văn và nhà thơ nữ miền Hương-Ngự, những kẻ tháo gỡ vòng dây trói Khổng Mạnh Huế để vào nam hòa nhập với tự do Sàigòn. Những người viết nữ thường sa vào tay những kẻ đã có vợ và nhiều con. Nếu tôi là một ông thầy tướng số mù, (thầy bói thì phải mù, chứ thầy bói mà hai mắt mở thao laó thì nói ai nghe), tôi sẽ tiên đoán vận mệnh của các nhà văn nữ: văn chương thì rạng rỡ, nhưng tình duyên thì trắc trở. Những nhà văn nữ thường thích sinh sống ở Sàigòn hơn ở Huế, Vĩnh Long, Phan Rang. Sàigòn thông cảm tâm sự của họ hơn Huế, và những nơi khác. Sài gòn có đủ đàn ông để họ lãng mạn và làm bạn.

Cha tôi và ông em rể của tôi tìm đủ mọi cách vận động cho tôi được thuyển chuyển vào Sàigòn. Hồi đó, một công chức xứ Huế xin đổi vô Sàigòn là một việc không phải dễ, nhưng một công chức Sàigòn xin đổi ra xứ Huế, vùng điạ đầu gai lửa thì.. muốn là được .

Tủ dinh ông Hoàng Mười rộng rãi trang nghiêm, bộ quốc gia giáo dục thu mua và trùng tu thành trường trung học Gia-Hội, tôi làm đơn xin được ở trong khuôn viên nhà trường. Cấp trên cấp cho một phòng cạnh nhà ông Cai. Bà Cai gánh cho tôi hai thùng nước giếng mỗi ngày.

Mẹ tôi ra Huế một lần và yên tâm khi thấy chỗ ở của tôi an toàn.

Tôi tham vọng viết truyện dài, nhưng không có thực tài, khả năng chỉ đủ để sáng tác truyện ngắn. Trong một truyện vừa không ngắn không dài, tôi miêu tả hình ảnh một tên đàn ông đểu giả gian dối, một kẻ ngọai tình với tôi và phụ tình với vợ. Nhiều đêm dài mất ngủ, cùng với hoa quỳnh ngày tàn đêm nở, tôi trút giận hờn vào những câu văn ác ôn. Tình yêu là một giọt máu mang số 35.

Võ Phiến khuyên:

“ Em hãy liên lạc với tòa báo, nói với ông chủ bút gửi trả lại cái truyện ngắn đó..không đăng báo. Em mà để cái truyện ngắn đó đăng lên báo..thì thì em lỗ, anh thì chẳng mất mát gì.”

“?.”

“ Em hãy thay đổi bút pháp, thay đổi giọng văn, đừng trút giận hờn vào bài viết. Đừng đùa với dư luận, đừng khai sự thật với độc giả.. Phải dấu kín, phải niêm phong bí mật lại. Dư-luận độc địa lắm. Chúng ta không lấy được nhau thì chúng ta sẽ làm sui gia với nhau. Con anh sẽ lấy con em.”

“ Con anh đã lớn sầm sầm cái đầu, còn tôi thì chới với chưa chồng, làm sao đẻ con kịp để mà.. sui gia.”

Năm đó, học sinh Huế bãi khóa biểu tình, tuyệt thực dấn thân, đấu tố thầy giáo, trường học đóng cửa suốt nửa niên khóa.

Các tướng lãnh miền Nam âm mủu lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm trong lúc Bắc quân Cộng Sản tấn công dồn dập, dân chúng hoang mang, mất niềm tin. Giang sơn miền Nam sắp tiêu tan, những tướng lãnh cầm nắm vận mạng quốc gia cứ phóng tay phát động những cuộc cách mạng. Cách mạng xía vô đời sống hằng ngày của người dân, cách mạng kéo theo chỉnh lý, phản cách mạng nối tiếp đảo chánh, miền Nam nhất định sẽ chết yểu. Ông tướng này đá ông tướng kia lăn xuống để mình trèo lên ghế cao.

Học sinh chờ đợi chừng đó để bỏ học. Trời làm thiên tai, Huế giông tố mưa gió bão lụt, trường học vừa mới mở cửa đã đóng lại. Suốt hai mùa thi đầu hè và cuối hè, tổng số thí sinh trúng tuyển ít quá, chính quyền lo sợ học sinh bất mãn sẽ bạo động bãi khoá tuyệt thực. Để o- bế lòng dân, bộ giáo dục cho mở thêm một kỳ thi trung học đệ nhất cấp thứ ba trong năm gọi là ân khoa, một khoa thi đặc ân dành cho học trò thi hỏng được thi lại, và giáo chức được đặc ân đi chấm thi tại nơi nào tuỳ thích trên lãnh thổ miền Nam: Đà Lạt, Nha Trang, Lâm Đồng, Buôn Mươi thuộc.





Tôi đi Dalat chấm thi và tạm trú tại cư xá Bùi Thị Xuân. Võ Phiến từ Sàigòn đến Dalat trước tôi vài tiếng đồng hồ. 

Trời mau tối, lâu sáng. Dalat chưa vào đêm, gió xé rách những cánh hoa và xoay tít chúng trên vai người đi đường. Các nữ giáo chức ăn cơm tối xong họp mặt chuyện trò trong phòng khách. Cô Hồng Vân nói sẽ làm đơn xin thuyên chuyển lên Lâm Đồng dạy học. Chị Lai Hường thì hy vọng được đổi đến cao nguyên Dalat hành nghề mô phạm vì chị đắm đuối say mê một sĩ quan võ bị Thủ Đức. Bà Minh Khuê giám học trường Đồng Khánh Huế, cũng hứng lên muốn xin thuyên chuyển đến trường Bùi Thị Xuân Đàlat sương mờ..

Đêm tối, Võ Phiến đến cư xá Bùi Thị Xuân tìm gặp tôi, nhìn tôi qua cửa kính một lát rồi gõ cửa.

Chúng tôi đi đêm dưới trăng mờ Dalat. Vườn nhà ai, những búp hoa Quỳnh màu bạch ngọc đã uốn cong cánh từ chiều muộn để sẽ nở bung cánh ra khi màn đêm dần xuống. Mỗi bước đi của chúng tôi là mỗi nhịp đời nhẹ êm, mỗi hé nở âm thầm của quỳnh hoa, mỗi hơi thở dài sâu của câm lặng tình cảm. Bóng tối chụp lên cảnh vật, nhưng ánh trăng cũng sáng soi chiếu xuống vòm cây cành lá. Đêm nhẹ êm, thế giới về khuya tĩnh lặng, hương quỳnh-tương thơm dịu trời mây. 

Trong thời gian và không gian này, quỳnh hoa sẽ bung nở với trăng, với khoảng không bao la và với bóng tối lan tràn để khi đêm hết, quỳnh hoa sẽ tàn vì mặt trời chói sáng, quỳnh hoa sẽ chết đúng vào ngày mai với ańh thái dương nóng cay. Cuộc đời của hoa quỳnh chỉ trường thọ được một đêm thôi.

Bàn tay nhà văn xoắn chặt vai tôi:

“ Bây giờ anh đưa em về, ngày mai anh sẽ đến đón em sớm.”

Ánh trăng trên đường về sờ mó vuốt ve thịt da tôi, tôi nếm tình yêu trên chót lưỡi, nhắm mắt nhìn hình bóng mình in trên đường đời sỏi đá, trên lối đi lót gạch và đầu óc tôi tự hỏi làm sao một ai đó có thể vướng mắc chút sầu riêng trong một đêm trăng toàn bích và an lành như thế này. Tôi tự hỏi thêm một câu nữa: sao anh không cùng em đi hết đêm dài? Tình yêu cay như phở tái chín, tình yêu chua như hàn the, hay tình yêu làm xác thân ta rạo rực sướng khoái..làm sao giảng nghĩa được? Anh và em như hai hạt muối mặn hòa tan trong đêm ngọt. Những cảm giác em đang có, thúc đẩy em muốn đi cùng anh khắp tổ quốc và đến một nơi chỗ không có tiếng reo hò chiến thắng, không có tiếng khóc than thất thủ kinh thành, không có nội chiến Nam-Bắc quốc-cộng . Em đang hứng, em đang đầy và em đang căng, em có thể hứng và đầy và căng và yêu anh từ chỗ anh đang đi bên em đến bất cứ chỗ nào anh nằm xuống ôm em.

Sáng hôm sau, nhà văn bốc tôi ra khỏi cư xá giáo chức để đến một ngôi nhà cho thuê.

Đàlat hôm ấy thật đẹp. Sau mấy ngày âm u, hôm nay nắng hồi sinh. Trời bao la nắng hanh vàng, tôi hôn nắng, tôi hôn ánh sáng .

Tôi giữ bàn tay Võ Phiến khi đi giữa rừng thông. Dưới chân đồi, xe lam ba bánh đưa rước khách và xe ngựa thồ qua lại ngược chiều. Hai bàn tay tôi thật khô, thật ấm, và thật mềm, nhưng đa tình lắm lắm.

Lên tới đỉnh cao trên lủng đồi thông, chúng tôi yên lặng ngồi xuống. Chiều tắt nắng. Thời tiết lười biếng. Gió thở từng hỏi dài mát dịu. Trời đất hòa đồng với ngàn hoa muôn lá. Trời trên cao và đồi thông Dalat dưới thấp hiểu lòng nhau, xích lại gần nhau hơn. Hoa lilac màu tím biếc bông cà. Hoa đừng-quên-em màu hồng sẫm. Tình yêu đột xuất trong xác thịt tôi. Tình yêu là cặp bài trùng ăn ở với nhau mãn đời, là đôi bạn không bao giờ đoạn tuyệt, là chuyện vui để cười chút thôi, là tâm địa không sâu độc đa mang thù oán, là quần áo lót yêu thương vợ anh mặc vào người, là viên thuốc bổ, là sự thúc đẩy anh phải kiếm việc làm, và là con chó tốt bụng chỉ sủa gâu gâu chứ không bao giờ cắn..vân vân ..Chỉ gồm hai chữ mà thôi, nhưng sao mà rắc rối không định nghĩa được cái gọi là tình yêu.

Võ Phiến xích lại gần:

“ Anh không ham muốn em từ phút ban đầu, cũng không ham muốn em sau cái phút anh nhìn em qua cửa kính cư xá Bùi Thị Xuân, mà anh chỉ yêu em bởi vì những câu văn đầu tay em viết trong truyện ngắn gửi đăng báo..Yêu đời sống, chúng ta hãy đầu-cơ khả năng, thì giờ và lòng thành vào văn chương. Anh cho nghệ thuật tất cả tài sản tinh thần của anh. Con đường anh đi là con đường văn nghệ, chấp nhận sống và chết, trừu tượng và cụ thể. Anh không phải là họa sĩ, nhưng anh có màu sắc nét vẽ; anh không phải là nhạc sĩ nhưng anh có âm thanh tiếng động.”

Nhìn thông reo, anh nói tiếp lời tình vào tai tôi:

“ Em hãy nhìn lên: Trời gió, thông reo, em hãy ngắm kỹ những đọt thông trên cao tít. Gió như vậy, nhưng những đọt thông vẫn không lay động, chỉ những cành lá dưới thấp xoay mình mà thôi.”

Tôi gật đầu:

“ Dalat tuyệt vời! Đất Dalat nhiều phân bón nên cây cối tốt tươi..Mỹ viện trợ cho miền Nam gạo cơm tiền bạc, và cả phân bón cây cối”.

Võ Phiến không cử động bàn tay nữa:

“ Huế đất rộng, người ít. Nhà cửa ở Huế, nhà nào cũng có một miếng vườn. Sàigòn thì quá đông người chật chội, nạn nhân mãn và nạn kẹt xe là hai mối đe dọa sẽ làm Việt Nam khó mà trở thành một cường quốc Đông nam Á.”

Tôi nhìn quanh:

“ Nhiều người ở Huế đang chuẩn bị di tản vô Saìgòn..Tôi cũng sắp theo gia đình vô Nam lánh nạn Cộng Sản.”

“ Đừng vô Saìgòn nắng nóng! Huế có muà thu gió mát. Còn Sàigòn muốn hưởng gió mát mùa thu thì phải có quạt máy.”

“ Anh cứ khuyên tôi đừng xa Huế, bộ anh muốn mượn tay Cộng Sản giết tôi chắc? Theo ý anh thì miền Nam còn cầm cự được bao lâu nữa mới mất vào tay Cộng Sản?. ”

“ Mối lo âu hàng đầu của chúng ta là chúng ta không tập đứng với hai bàn chân của chính mình, mà phải dựa vào một thế lực từ bên ngoài.”

Võ Phiến là một văn tài lớn, ngòi bút của ông như quả banh lăn quá lằn vôi biên, ông viết đủ mọi thể loại: văn xuôi văn vần thơ bút ký. Ông cộng tác với nhiều báo chí nhưng tuyệt đối không viết tiểu thuyết ba xu đăng báo hằng ngày.

Ông tự do nhiều, chống Cộng mạnh, và sẽ chống Cộng cho đến khi hai lỗ mũi không còn thở được nữa. Và ông quê một cục, cả đời không hát một câu, không thuộc lòng một bài ca nào hết. Đó là một người vô thần vô thánh không can nổi, không đi lễ chùa cầu an, không vô nhà thờ rửa tội sám hối, không Phật không Chúa không Hồi-giáo Mohamed. Có lẽ danh nhân thế giới mà Võ Phiến mến mộ là Sigmund Freud.

Tôi hỏi:

“ Có phải đức tin của anh là tình dục?”

Khi chúng tôi ngang qua quân trường võ bị, bỗng có một người đàn bà đi ngược chiều, tay dắt một đứa con gái mặc áo đầm.

Võ Phiến mặt mày tái xanh, sợ hãi, vụng về hoảng hốt qúynh lên:

“ Vợ anh, em tìm xe về đi

***





Võ Phiến đi Huế công tác một lần nữa. Nhà văn Đỗ Tấn dẫn ông ta đến thăm tôi lần đó.

Lần đó Võ Phiến nói:

“ Em không bằng Nguyễn thị Hoàng, em thua kém Nguyễn thị Thụy Vũ. Họ kính nể người yêu, họ không oán trách người tình, không căm giận những người đàn ông mà họ đã thương. Còn em, em không tốt, em nói xấu anh dữ dội trong truyện ngắn em viết..”

Qua hết muà xuân đau thương, tôi giã từ thành phố tình ca, thành phố cổ thơm hương đức hạnh của các bà công chúa, ngát hương thiền của các bậc chân tu, tỏa hương trầm của cố đô những muà lễ hội và nhẹ thoảng hương sen tinh khiết từ các ao hồ.

Em là gái trời cho không đẹp, và trời không cho một đàn ông. Một cô gái đã già, một nữ giáo chức cô đơn dạy học ở một tỉnh lỵ chậm tiến, nhưng tôi không Huế một chút nào cả, tôi nhanh chóng hội nhập đời sống Sàigòn. Hồi đó, tôi nói tiếng Bắc, phát âm rõ từng chữ và đúng giọng, nhưng không bắt chước được giọng Nam.

Giờ phút đầu tiên tiếp xúc với học sinh trong Nam, tôi ngạc nhiên nhận thấy học trò trường Mạc Đĩnh Chi Sàigòn ngoan hiền, kỹ luật và kính trọng thầy cô.

Tôi đến sở thông tin tìm gặp Võ Phiến lần cuối rồi dứt khoát chấm hết mối tình phiền não này. Không thường xuyên lui tới toà soạn Bách-khoa nữa, không luôn luôn gặp gỡ nhóm văn sĩ Bách-khoa nữa, tôi xoay qua giao lưu với các nhà văn tàn dư của nhóm Sáng Tạo, Hiện Đại.

Quen biết qua một hai cái thư trao đổi kiến thức từ lúc còn ở Huế, bấy giờ tôi mới gặp mặt văn thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, tức đại úy Dư Văn Tâm trong nha chiến tranh tâm lý.

Người ta bảo Mai Thảo mục hạ vô nhân; Võ Phiến tỉ mỉ chẻ sợi tóc ra làm tủ;Thanh Tâm Tuyền khó khăn kiêu ngạo không bao giờ khen ai một câu. Thanh Tâm Tuyền phê bình Võ Phiến và các văn hữu khác: “ Những nhà văn viết truyện dài 5 trang! Những nhà văn không có sách xuất bản!..Những người con nít viết văn, viết cái kiểu gì mà đọc lên hiểu liền, hiểu ngay, không cần phải suy đoán. Một tác phẩm có giá trị là một tác phẩm đọc xong, người đọc không hiểu tác giả muốn nói gì, muốn trình bày một quan điểm gì. Đó mới đúng là một cuốn sách hay. Muốn viết được truyện dài thì phải kéo dài tài năng ra.”

Vài tháng sau, tôi gửi bản thảo truyện dài đầu tay Những sợi Sắc Không dự thi giải Văn học nghệ thuật toàn quốc. Các giám khảo chấm giải là Võ Phiến, Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn vv..Các thí sinh gồm có Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ vv..

Truớc hội đồng giám khảo, Võ Phiến lên tiếng:

“ Xin đề nghị toàn ban giám khảo loại bỏ tác phẩm Những sợi Sắc Không, không cho phép tác phẩm này dự thi vì tác giả đã đánh máy bản thảo gửi đi dự thi chứ không gửi một cuốn sách. Yêu cầu ban giám khảo không nên chấm chọn tác giả này trúng giải. Muốn trúng giải Văn học nghệ thuật toàn quốc, thí sinh phải gửi sách đi dự thi, chứ không được gửi bản thảo..”

Trong buổi họp tuyên bố kết quả, Võ Phiến nhấn mạnh:

“ Giải Văn học nghệ thuật là một giải thưởng lớn. Truyện dài Những sỏị Sắc Không chỉ là một tập giấy đánh máy, một tập bản thảo chưa in thành sách, chưa phải là một cuốn sách. Tôi xin lập lại: đó chỉ là một tập bản thảo được đánh máy.. Hãy loại bỏ.”

Phiên họp tiếp tục vào ngày hôm sau; Võ Phiến lên tiếng:

“ Nhã Ca là một dáng lớn, một tài hoa chói ngời trong văn học, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn thị Thụy Vũ là những người viết đang rực sáng, đang lên hương…”

Những gì xẩy ra trong mỗi buổi họp mặt của ban giám khảo, Mai Thảo đều kể hết với Thanh Nam:

“ Một tác phẩm đoạt giải nhất phải được ba giám khảo đồng ý. Trong lần họp cuối cùng, Võ Phiến gân quá, gạt hết mọi ý kiến xây dựng của các giám khảo khác. Tác phẩm Những sợi Sắc không chỉ được hai ông thầy đồng ý, nhưng quy luật bắt buộc phải đủ ba ông. Cuối cùng, ông trưởng ban tuyên bố: Truyện dài Những sợi Sắc không chỉ được hai vị giám khảo chấp thuận, hãy còn thiếu một. Vậy, tôi sẽ tường trình laị với văn phòng phủ tổng thống rằng: Giải Văn học nghệ thuật năm nay không có tác phẩm trúng giải nhất, mà chỉ có hai tác phẩm đoạt giải nhì đồng hạng.”

Mai Thảo kể tiếp:

“ Bỗng từ cuối phòng họp,Võ Phiến ho lên một tiếng,uống một ly chanh đường cho dịu cổ rồi nói một hỏi: Năm 1963 là một năm ghi dấu những bước tiến, những thành công của văn chương nữ giới. Những nhà văn nữ của chúng ta giờ này đang làm chấn động tình cảm, đang xuôi ngược tìm kiếm chất liệu, đang lao đao vấp ngã vì những vấn đề triết học quá cao siêu, vì những hoang mang ngờ vực trước tình thế sa đọa của đất nước.”

Vị chủ tọa hội nghị tuyên bố bế mạc buổi họp:

“ Thưa quý vị, tác phẩm Những sợi Sắc Không của Túy Hồng chỉ đoạt giải nhì đồng hạng”…

Bỗng Võ Phiến dong tay lên phát ngôn một lần nữa, ngón tay trỏ cong cong như cái lưỡi câu:

“ Khoan khoan.. tôi đồng ý với giám khảo Nguyễn Mạnh Côn và giám khảo Mai Thảo: Tác phẩm Những sợi Sắc không đoạt giải nhất văn học nghệ thuật miền Nam năm 1970.”

Mai Thảo tiếp theo:

“ Võ Phiến chẻ sợi tóc ra làm tủ. Những gì hắn đã trải qua, hắn nhớ dai và thù dai.. Hắn là nhà văn lớn, một cây bút kẻ cả, nên cũng có lắm người đàn bà đi qua đời hắn. Tất cả những người đàn bà bước vào đờihắn, đều được hắn tạp ghi, tạp luận và tạp bút. Nhưng cái tác phẩm Những sợi Sắc Không đó, hắn loại bỏ, bởi vì có điểm thiếu sót là tác phẩm chưa in thành sách. Và tác giả Những Sợi Sắc Không, cũng không hề được hắn nhắc tới tên, như hắn đã âu yếm nhắc tên Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Thuỵ Vũ trong buổi họp.Võ Phiến là một cây bút phê bình khách quan và công bằng, không thiên vị. Điều gì hắn cho là đúng với lẽ phải thì hắn làm.”

Võ Phiến viết nhiều sách, sở trường của ông là Truyện Vừa, không dài không ngắn.

Gật đầu, rung đùi, nâng ly bia 33 lên miệng, dụi mẫu thuốc lá vào cái gạt tàn, Thanh Nam nói:

“ Giải nhất, giải nhì, với giải đồng hạng.. Suýt chút nữa thì không ăn được cái giải gì và làm trò cười cho thiên hạ.”

Sau khi Mai Thảo từ giã để đến phòng trà với người ca sĩ hát bài có phải em là mùa thu Hà Nội, Thanh Nam nhìn tôi:

“ Có những kẻ nhớ lâu và giận lâu.. Anh, một người con gái anh đã quen và đã yêu thì không bao giờ anh ghét. Anh công bằng nói rằng Võ Phiến thù em.”

Tôi trợn mắt:

“ Văn không phải là người. Những gì tôi viết ra.. đều là đùa nghịch giỡn chơi thôi. Tôi chỉ biết một điều về Võ Phiến là ông ta rất thương yêu vợ.”

Thanh Nam bảo tôi bỏ nghề dạy học để xoay qua viết bài cho đài phát thanh.

Chiến tranh tiếp diễn, miền Nam là món nợ, là một cục nợ khổng lồ người Mỹ mắc từ tiền kiếp nên kiếp này phải nhúng tay vào chiến cuộc miền Nam, một quốc gia nhược tiểu đang giãy chết với bốn đạo quân: Mỹ, Bắc Việt, giải phóng, Nam quân.

Thanh Nam, là một văn sĩ nhỏ nhưng chơi toàn với những tay lớn, đã nhờ một ông thiếu tá giới thiệu tôi với một bác sĩ quân y để xin một giấy chứng nhận tôi bị đau bệnh thần kinh điên loạn, được nghỉ phép ăn lương, gọi là nghỉ phép giả hạn. Tôi ở nhà nghỉ giả hạn ăn lương của đài phát thanh Mỹ bốn năm và vẫn lãnh lương giáo chức của chính phủ miền Nam Việt Nam. Sau đó Thanh Nam nhờ nhà báo Lê Phương Chi giới thiệu tôi với ông giám đốc Khai Trí để bán tất cả những tác phẩm tôi đã viết, đang viết, và sẽ viết với một số tiền trả trước. Thanh Nam nói: 

“ Em cứ làm theo lời anh. Trời phạt anh chịu.”

Nhờ viết bài cho nữ danh ca Thái Thanh đọc hằng đêm trên làn sóng điện chiến tranh tâm lý, ba mươi tháng tư ngày quốc hận, tôi đem được gia đình sang Mỹ. Trạm nghỉ chân đầu tiên trên bước đường di tản là đảo Phú-Quốc. Công chức đài phát thanh được lãnh mỗi người ba mươi sáu đô la tại biển đảo này.

Sau một tuần lễ, người tị nạn leo lên hạm đội số 7 của hải quân Hoa Kỳ để sang Mỹ đổi đời.

Lênh đênh trên đường biển sóng reo sóng cười, biết mặt trùng dương biết trời mênh mông, nhưng dân tị nạn cứ quen miệng kêu khổ ơi là khổ. Hầm tàu chật chội nóng hực hỏi người. Trẻ con ói mửa, iả đái và kêu khóc vì đói bụng, đau đít, rôm sảy. Ngày đêm mọi người nằm lăn ra trên sàn tàu. Không có chiếu trải dưới lưng, không có chăn đắp trên mình, mỗi ngày mỗi tị nạn chỉ được cấp phát một hộp lương khô C-ration, nhưng mỗi ngày, hy vọng mỗi vươn lên. Hoa Kỳ, Mỹ, Núi vàng.. đời sống mới đang mở cửa trước mắt chào đón mọi người.

Một bà nằm cạnh tôi nói nhỏ:

“ Hạm đội số bảy của đại cường quốc cái kiểu gì mà nghèo khổ thế này.”

Tôi đáp:

“ Chắc đây không phải là hạm đội số bảy, mà chỉ là hạm đội số sáu rưởi..”

Chiến hạm lướt sóng, vượt Thái bình dương rồi đến Mỹ.

Mệt mỏi vì say sóng, Thanh Nam bia rượu uống nhiều từ thuở bụi đời nên giờ phút này xỉu. Tàu cập bến, dân tị nạn phải trèo thang dây để lên bờ.

Một người đàn ông đồng hương chỉ tay vào bốn đứa con tôi và nói:

“ Ông Bà một nách bốn đứa con dại, để tôi giúp, tôi đỡ hai đứa bé này trèo lên bờ.”

Rồi ông ta kéo hai đứa nhỏ đi.

Lên đến đảo Guam, Thanh Nam bảo:

“ Em phải ở trong trại lính không được đi đâu hết, thằng Ốc Sên sẽ phải đi xin sữa cho thằng Cu Tí uống. Anh mỗi ngày phải ra khỏi trại lính để hỏi tin tức bạn bè ai đi được, ai kẹt lại.”

Theo lời đồn thì những ai làm đài phát thanh ăn lương Mỹ đều được Mỹ bốc đi hết. Tôi được biết Viên Linh và Lê Tất Điều hiện đang có mặt trên đảo tị nạn.

Cuối cùng, dân tị nạn được tàu bay bưng đến thành phố Pennsylvania miền Bắc Mỹ.

Từ đảo Guam đến Hiệp Chủng Quốc, con chim sắt thẳng cánh bay bốn ngày đêm. Chúng tôi sinh dưỡng bốn đủá con, gia đình sáu người, nhưng Thanh Nam không lanh trong những lúc người đàn ông cần phải lanh, chỉ tìm được năm chỗ ngồi. Bốn ngày đêm giam hãm trong bụng tàu bay chật hẹp, thằng con út nằm trên đùi tôi lên cơn sốt nóng lạnh, tôi mệt mỏi ngồi ôm con niệm Phật từ bi gia hộ cứu độ cho nó đừng làm kinh run giựt tay chân. Trẻ con dưới ba tuổi làm kinh, lớn lên sẽ không cao.

Mất ngủ đêm ngày, đầu óc tôi thao thức nghĩ rằng mình đã sống hư hỏng hơn một nửa cuộc đời ở quê hương rồi, bây giờ phải lo làm ăn, dại gì mà chơi, ngu gì mà lười. Ước ao gì có được một cuốn từ điển Việt Anh lúc này để học Anh văn ngay tức khắc. Nước Mỹ đây rồi, đất lành ta đã thiền hành và đã đến, Việt kiều sẽ học English để đi làm, sẽ dồn tiền mua nhà, mua xe, mua bảo hiểm. Việt kiều sẽ có một sớm mai hồng, một bình minh xanh để ngắm, để nghe tiếng chim nói vào tai rằng đêm đã tàn, ngày đã nở, phải vùng dậy để lắc lủ con tàu đời. Quá khứ đã chết, cuộc đời mới đã nhô ra ở phương đông..

Bỗng tôi sực nhớ mấy lời trao đổi giữa nhà văn Lê Tất Điều và nhà báo Lê Phương Chi ngày nào còn ở Sàigòn:

“ Tình yêu của Võ Phiến dành cho cô bạn xứ Huế đã chết nghẻo cổ rồi, gái Huế ngủ đò và hò Huế chấm hết từ canh ba rồi. Bây giờ Võ Phiến chỉ mơ ước ngủ với Trùng Dương biển cả.”

“ Bạn nói đúng quá và thật quá! Trùng Dương Nguyễn Thị Thái trẻ hơn nhiều và đẹp. À, mà có phải Trùng Dương đó không? Sức mấy! Võ Phiến mơ cao quá!”

Tôi ngủ thiếp đi một chặp cho đến khi chiêu đãi viên hàng không loan báo phi cơ sắp đáp xuống phi trường 

Pennsyilvania. Hành khách phải nịt dây an toàn thật chắc và cài khóa an toàn thật kỹ, không được rời chỗ ngồi, không được vào phòng vệ sinh từ giờ phút này.

Khi phi cơ ngừng cánh, tiếp viên hàng không lại bảo hành khách hãy ngồi yên..rồi lại bảo đứng dậy chuẩn bị hành lý và bước xuống máy bay trong trật tự.

Chân tôi chạm đất hứa, đầu tôi đội trời tự do. Đại bản doanh quân lực Hoa Kỳ hùng anh nhất thế giới đặt tại đây. Tôi đi và thở không khí trong sạch của một siêu cường quốc sản xuất nhiều thuốc xịt trùng và diệt sâu bọ hữu hiệu nhất thế giới, nhiều xe hỏi tối tân nhất thế giới.

Thanh Nam gặp bạn quen dừng lại nói chuyện, tôi kéo bốn đứa con bước nhanh về lều trại số tám, dân tị nạn kêu là barrack số tám.

Truớc cửa barrack có một người đàn ông đang đứng đợi ai đó. Tôi tiến lại gần chút nữa. Hóa ra là cố nhân Võ Phiến. Ối giời ôi..Võ Phiến cũng đi được sao? Ôi thôi rồi tôi quên lú đi mất. Võ Phiến cũng cộng tác với đài phát thanh Mỹ. Vậy mà tôi cứ tưởng chỉ có Lê Tất Điều với Viên Linh trong chuyến hành trình qua Mỹ quy mã này mà thôi!

Thằng Cu Tý bỗng kêu lên:

“ Mẹ..Tý muốn ỉa quá.”

Con chị nó quát lên:

“ Câm cái đít lại! Không được ỉa trong quần.”

Võ Phiến chạy chậm đến bên tôi, mặt mày tái nhạt và ẩm mồ hôi, hỏi thở tưởng như sắp đứt, nói:

“ Em đem con em đến barrack số mười đi, gia đình anh đã ở trong barrack số tám này rồi, vợ anh đang nghỉ ngơi trong đó, vợ anh hơi mệt, vợ anh cần dưỡng sức, vợ anh đang nằm trong đó. Vợ anh..vợ anh..”

Tôi chưa thấy một người đàn ông nào thương vợ nhiều như thế, yêu vợ kỹ như thế. Vợ anh, vợ anh..cái miệng cứ tía lia vợ anh vợ anh, làm như người ta sắp giựt mất. 

Bà Võ Phiến tên cúng cơm là Viễn Phố.

Túy Hồng,
Ngày 23 tháng chín năm 2012


























Tác giả khác viết về Túy Hồng



























Ngọn rau răm cay hoài ngàn năm

Túy Hồng


Mưa mềm nhà gỗ, mưa quen thân từ lâu nhưng tình không nặng như mưa Huế. Những cơn mưa Huế ngày xưa tôi bước một mình qua về trên cây cầu ván bắt ngang sông An-Cựu, nước hắt ướt hai vạt aó dài. Huế mưa dầm và gió-o lạnh thổi rách lá chuối trong vuờn, Huế mưa man dại, rồi Huế nắng cuồng điên với tiếng ve sầu, và tôi đã làm con gái suốt hơn một phần tư thế kỷ ở Huế.



Đêm qua tôi nằm ngủ ở Mỹ để mà nghe Huế mưa. Huế rơi từng sợi sương, Huế rớt từng sợi tơ vương, Huế rụng từng sợi chỉ ướt trước khi mưa đổ nước đầy sông Hương. Giữa khuya, tôi nhớ tới hai câu thơ cũ của Paul Verlaine:





Il pleure dans mon coeur,

Comme il pleut sur la ville.

(1874)


Mưa rơi trong tim tôi
Như mưa rơi trên thành phố.


Tôi không biết mỗi năm có bao nhiêu ngày Huế mưa và Huế lụt; nhưng ở đây, thành phố Portland trung bình thì chừng 152 ngày trời ướt. Nhưng năm nay thời tiết đổi ý đón đông về quá sớm. Muà hạ ấm biến đi đâu không thấy tới. Đoàn ngỗng Canada bay mất khỏi ao thu khi gió lốc ớn lạnh thổi rốc vào. Tin khí tượng loan báo một cơn bão tuyết, đô thị Portland bất lực vì điện mất ba ngày đêm; sau đó, thành phố Aloha cũng bất lực luôn, như một người đàn ông liệt dương không tình dục. Tuyết rơi thẳng và suông như những dây mành tương bằng nhựa, nhưng bị gió tát mạnh bể ra mảnh vụn. Tuyết tan nát, đó mới là lúc thời tiết lạnh tái tê. Nếu tuyết không bị gió dập vùi, cánh tuyết cũng mập như cánh hoa. Những con ngựa cúi mặt xuống nhai tuyết. Những cây thông đứng reo vi-vu giữa trời cố gắng cản sức gió xoáy. Tôi mở máy sưởi chạy 63 độ đêm ngày và nhìn qua cửa kính tuyết rơi như một màn mê hồn trận.

Bây giờ tháng ba, mặt trời đi ngủ trước năm giờ chiều; tuy nhiên, đàn chim xuân nhớ lời hẹn đã trở về đậu trên các ống khói

Rồi lũ chim tạm rời lầu cao của ông hàng xóm người Xiêm để đáp xuống bờ vai ngôi nhà bà hàng xóm Campuchia. Ánh nắng èo uột đầu năm dương lịch làm nổi bật đường bay cuả chúng. Có khi ngực chim uỡn, thân chim uốn cong lại để phóng vụt lên bầu trời rộng. Có khi lưng chim duỗi thẳng ra để liệng và lướt dài và lúc sau, cả bầy hình như cùng nằm trên tấm võng lụa vàng tơ. Rồi ngược chiều kim đồng hồ, một đàn, một lũ đông cùng xếp hàng bay theo nhau đúng cơ bản thao diễn quân sự. Tiếp theo, hình nhủ chim tập thở, hít vào rồi đẩ̉̉y hơi ra. Sau đó chim căng cánh thật vững chắc, lách sang phải, quẹo trái để trở về đường bay cũ. Đếm được tất cả một tiểu đội. Bài học bán-quân-sự giảng rằng một tiểu đội gồm có mười bốn tên lính. Sau vài ba giây, bỗng có hai con nữa từ trời cao đáp xuống nhập bọn để cùng rong chơi trên thinh không. Chúng không múa một vũ khúc nào trong khi cử động cặp cánh giữ thăng bằng cho khỏi rớt xuống đất mà chúng chỉ vẽ, chỉ quệt những nét căn bản cuả bài học vẽ ở thời kỳ sơ khởi nhìn đời với năm màu sắc xanh đỏ trắng vàng đen.. Người văn-sĩ biết rằng chim là thầy gíáo dạy viết và dạy vẽ.

Tôi, Lê thị Hảo, bước ra ngoài đứng nghe chim kêu…

Lũ chim đấu hót tíu tít và reo vui, có khi nghe dòn như chuột rúc, êm tai như vượn hát sóc cười. Chim có tiếng nói ngắn, làn hơi không phong phú nên đôi khi nghe như đếm một, hai. Rồi sau đó, sau khi ưỡn ngực, duỗi lưng, cong đít, chim chắp cánh lại niệm Phật. Khi chim ngân nga và chuột ê-a vào thiền, chúng chỉ đọc hoặc tụng được từng hai chữ, từng hai nốt nhạc ngắn rồi nghỉ và hai âm thanh tách riêng lẻ chứ không dính nhau. Lũ chim này không có giọng ca mê ly phong phú, không có làn hơi dài và sâu để trùng xuống rồi ngân bỗng thật cao như hoàng yến, sơn ca, hoạ mi thuộc loại songbirds, chúng cũng không nhâỷ nhún, muá quay được như chim công, chim hạc, hoặc thiên-nga để biểu diễn vũ điệu ở chóp cao nghệ thuật, mà chúng chỉ là chim thường, như chúng ta là người thường, như chàng binh nhì chịu-chơi là lính trơn; tuy nhiên, vì là cánh chim giang hồ nên chúng líu lo tung bay trong mây gió cho cuộc đời được chan chút nước béo.

Chúng khoái rẽo đất trồng rau cuả bà hàng xóm Cao-Miên. Bà ấy hỏi: “Viêtnam có bao nhiêu cây rau sống?”

Hảo không biết, bà ấy tiếp: “Caomiên có tất cả 40 loại rau dại ăn sống được. Chúng tôi ăn đọt bầu-ơ, lá bí lợ, cà dái-dê, cà độc dược.. và tất cả các loại cà chua thuộc nhóm vine vegetable, rau dền tiá thuộc nhóm herb gardens.”

Hảo ngắt lời: “Chung quanh đền thờ Angkor Thom và Angkor Wat người ta có trồng rau không?”. Hảo hỏi mượn bà ta hai muỗng nước mắm, tính nết bà này giống Hảo, nói chuyện cứ hai phút lại đem ông chồng ra kể xấu một câu:

“Thằng cha đau gan mà ăn cà-ry.. thằng Tommy là con riêng cuả hắn đó.”

Khi ông chồng trẻ cuả bà ta chở Hảo đi chợ ông ấy than: “Tôi nấu cà-ry lấy mà ăn.. Tôi mua cái nhà mua đã mười sáu năm.. mà coi, cái bếp vẫn còn mới tinh, tuần nào tôi cũng lau chùi… Một vợ với hai đứa con gái.. không tuần nào mà tôi không khom lưng moi tóc rụng trong mấy cái buồng tắm.”

Hảo biếu ông ta một két nước ngọt, ông ta cho lại bức tranh và giảng: “Biểu diễn vũ điêụ dân tộc Aspara, vũ nữ Campuchia, giủã hai bàn tay úp lại niệm Phật, đã bưng một caí chén nhỏ đựng mấy cánh hoa ngọc lan khi hai bàn chân nhón bước đẫy đưa cái đít đa tình cong cong. Và toàn thân nàng phảng phất hương trầm cùng với mùi bông bại-hoại, một loại bông ba thờ hồn ma bóng quế.”

Hảo nói: “Campuchia là một rỗ rau sống. Cây giá của xứ Đông-dương dòn tươi ăn thật ngọt.”

Ông hàng xóm kêu: “Viêtnam là một rỗ rau sống, ngọn rau răm cay hoài ngàn năm.”

Hảo kêu theo chàng: “Trái khổ-qua của người Campuchia đắng hoài nghìn năm.

Chàng Miên-kiều khoe: “Mắm-bò-hóc là một món ăn rất quý của chúng tôi, làm bằng thịt bò muối mặn đặc-sản cuả Cao-mên. Chính quyền Cambốt gần đây đã ký nhiều giao kèo với các nhà sản-xuất quần áo tại Mỹ để nhận may quần áo. Nhân công rẻ và đường kim mũi chỉ đẹp, bền… nên dân Mẽo ưa thích. Và, ngoài ra, chính quyền Campuchia vừa mới viện trợ cho Vietnam hàng trăm tấn gạọ.”

Nghe nói mà nóng mặt. Viêtnam nghèo đói nến nỗi phải xin viện trợ kinh tế của Cambốt?.. Xạo hoài cha nội này…

Trong hẽm cụt này, năm sáu gia đình Mỹ sống biệt lập vỏ́i đức tính tiết kiệm cuả họ.. Khi những cục xà bong trong bếp và trong mấy cái buồng tắm xài gần hết, chỉ còn lại những miếng nhỏ cầm lọt tay, nàng hàng xóm đầu vàng bên hông nhà Hảo để dành, rồi sau đó đem nấu vỏ́i potpourri thành một bánh xà bong to cắt ra được bốn miếng. Potpourri là một hợp chất cuả hoa khô, lá thơm, rể cây .. nấu thành một thứ nước bông để gia dụng. Với potpourri, người đẹp này còn tự tay làm lấy đèn cầy, kem thoa mặt, kem bôi tay, ice cream, body lotion, peanut butter… và khi cà chua được muà, nàng mua về một rỗ lớn, nghiền nát ra để nấu thành mấy chục hũ xốt cà chua đỏ bầm như máu gấu, đem cất ở basement. Năm nay, tiểu bang Oregon lụt lạnh bất lực, mất điện hai ba lần, cô hàng xóm này mở rộng cửa garage bày bán mấy chục cây đèn cầy bự do tay cô nàng nấu lấy và đổ khuôn với chất thơm hoa quả ngoài vườn.

Hảo vào nhà kê cao mấy cái gối ngồi dựa lưng rồi cầm tờ tập san “Thế-Kỷ 22nd” đọc một mớ thơ và truyện ngắn đăng trong đó. Cái tật đọc sách bằng cách cầm cuốn sách mà đọc như thế này đã gây một mối bất hoà giữa Hảo và chàng em trai; hắn bắt lỗi Hảo tại sao không đọc internet, không mở computer.

Buổi chiều đẹp với cái hẹn được người đàn ông mời đi ăn. Tóc tôi rối và quăn nhưng tôi không chải đầu một giờ sáu mươi lần như mụ phù thủy trong truyện Lọ Lem và tôi cũng không soi gương cả ngày không hở như bà hoàng hậu trong phim Bạch tuyết. Tôi không biết có bao nhiêu triệu cô gái đêm tân hôn không tự tay cởi áo quần ra, tuy suốt đời họ mặc quần áo vào rất nhanh và cởi quần áo ra rất nhanh. Tôi nhớ gần đủ tất cả những chuyện cổ-tích răn dạy người đời trừ chuyện Tấm-Cám. Chuyện Tấm Cám đưa ra một mối thù và sự trả thù.

Cái hẹn đúng sáu giờ, nhưng năm giờ rưỡi Hanh vẫn chưa tới, Hảo bước vào bếp gọi điện thoại yêu cầu ông ta xác định lại giờ giấc cho đúng. Trời ban cho tôi rất nhiều đức tính tốt đẹp, Trời tặng tôi một hộp đồ nghề quý giá đựng đủ công dung ngôn hạnh, nhưng trong cái hộp đó không may lại thiếu tính kiên-nhẫn .. giống như trong hộp đồ nghề của người thợ mộc tài hoa thường thiếu cái đinh ốc thức là con vít ..

Vừa mới quay được ba con số thì có người bấm chuông cửa.

Hanh mặc sơ mi sọc màu xám sậm. Áo len nhẹ khoác ngoài cởi ra vắt hờ trên đôi vai vuông và mỏng, cravate lụa mua ở Hongkong, dáng người gọn và nhẹ từ mái tóc dày trên lớp da đầu bóng cho đến đôi giày láng.

Hảo tán ông ta một câu: “Lúc anh còn trẻ, chắc anh phải đẹp trai như vua Minh Mạng… Can I marry you?”

Hanh đáp lại:

Ngày xưa, chắc Hảo phải mặc áo dài đẹp như các nàng ca sĩ trẻ trong các băng nhạc Thúy Nga “Paris by night.”

“Anh nhắm mắt lại, anh cũng thấy được thân hình tôi không có đường cong mà chỉ có đường mòn chạy thẳng từ ải Nam-quan tới mũi Cà-mâu”

Vào tiệm ăn, Hanh hỏi:

“Hảo ăn gì?”

Ông bạn già gọi tôi bằng tên chứ không kêu là chị Hảo. Gọi nhau bằng tên cúng cơm thôi và lấy kéo cắt bỏ nhủ̃ng tiếng anh, tiếng chị, cô dì chú bác.. và tạm dẹp cách xưng hô khách sáo sang bên rìa đường cho tình bạn bớt nhạt nhẽo như nước canh hến.. First-name basis giống như Mỹ, giống như Tây một phần nào, và khác hẳn Tàu… Hảo không nhiều bạn, không có hộp thư bưu điện, chỉ có một hộp thư nhà , một địa chỉ e-mail, một điện thoại cố định trong nhà, không có điện thoại lận lưng khi đi ra ngoài. Hảo có thể già hơn ông ta một mớ tuổi viết bằng hai con số, nhưng ông bạn này có lẽ lúc còn trẻ đã đọc quá nhiều truyện Tàu, truyện trinh thám, tiểu thuyết phiêu lưu,..đã thu thập được những tác phong hào phóng, ngôn ngữ hồn nhiên cuả các tay giang hồ cỡi ngựa, thư sinh đọc sách nên quen xử dụng lối giao thiệp thẳng và ngắn.., Ông ta ban cho tuổi già cuả tôi một phước lành.. gọi tên nànglà Hảo, coi Hảo như một cô sơn nữ ngây dại chạy lỏn-xỏn trên những tảng đá phủ rêu rừng.

Hanh lại hỏi:

“Hảo ăn gì?”

“Cá hấp”

Tôi đâm cái nĩa nhọn vào giữa lớp da cá trơn và chỗ thịt trắng tươi. Tôi đưa miếng cá lên và ngoạm nó liền, thật lẹ rồi ngậm miệng nhai. Hành tỏi phi thơm thấm ướt nước bọt, miếng cá khá to, cái lưỡi dài của tôi rung nhẹ nếm mùi muối biển, mùi rong biển, hơi muối từ ruột biển, chất vôi, chất đạm và dục tình nồng nàn từ eo biển. Cái ngon, cái tươi của loài cá nước mặn cử động, trở mình, lăn tròn trong cái miệng rộng của tôi. Răng tôi to để tôi nhai đồ ăn rất nhuyễn. Miếng ăn tốt đẹp, bổ lành bò trên lưỡi tôi, lướt tới cổ họng, dính vào răng rồi lăn xuống bụng để nằm nghỉ mát trong dạ dày. Tay tôi vói đâm miếng cá khác, rồi chọt thêm miếng nữa, lấy cái muỗng xúc thịt vụn, múc nước béo. Rồi tôi lật sấp con cá lại, đưa dao moi cái ruột…

Hanh kêu lên từ chỗ ông ấy ngồi, đĩa sò huyết trước mặt vẫn chưa đụng tới:

“Ăn thử một con ốc biển coi”

Nãy giờ Hảo không để ý đến cái tivi kê nghiêng trên đầu Hanh. Một nam ca-sĩ, còn trẻ quá nên Hảo không biết đó là ai đang trình bày bài hát Nhảy gió, một ca khúc trữ tình từ thời chiến tranh Đông dương khi đầu người bị chém rụng hoặc bị chặt đứt đều đều mỗi ngày mỗi đêm:

Đây gió đây trong rừng,
Đây cánh đồng đời bao phóng khoáng.
Kìa chim non đang rờn hoa tươi trên cành líu lo muôn lời

Tay ngắt bông hoa hồng,
Hoa với cành cùng đua sắc thắm,
Nhìn ra nơi phương trời cô em tôi sầu nhớ chi trong lòng !

Chiều đang lên chuông hòa tiếng vàng,
Và bâng khuâng như lòng vướng buồn.
Gió mát mách rằng :
Cô em tôi sầu nhớ chi trong lòng ! **

Hanh giảng: “Theo một nhà văn trẻ ở Viêtnam thì đây là một điệu nhẩy cha cha cha không có xuất xứ. Hồi xưa đó, dân hai làng Trị-Thiên nói rằng không có giấy tờ gì chứng thực nhạc phẩm này do ai đặt ra cả, chỉ biết rằng bài hát đó có buà phép thu hút tuổi trẻ một thời vậy thôi..để kết chặt tình gắn bó giủã cô gái quê và anh bộ đội Việt- quốc đoàn. Hai bên cứ xông tới nhau mà nhẩy, thấy nhau từ xa đã ngứa cẳng nhẩy cà tưng lên, dù ngày mai anh bộ đội sẽ ra đi và có thể sẽ chết.. Đôi khi lâu quá chưa gặp nhau, nàng thôn nữ ra vườn nhẩy với cây cau cây chuối … Cha cha cha , Bebop.. tay trái nam vỗ vào tay phải nữ, chân trái nữ đá vào chân phải nam, mặt đối mặt, lưng đâu lưng… mắt liếc, môi cười. Gặp nhau đầu đêm, ôm nhau giữa đêm và sáng mai tình yêu đóng cặn trong đáy bụng.”…

Hảo ngắt lời: “Nhà văn trẻ đó…tôi có đọc một số truyện ngắn.. . viết hay và nhanh hơn ai hết , hắn ta còn gói bánh chưng kheó, tôi coi hắn ta gói bánh chưng trên computer; khi gói, hắn cầm cái bánh chưng lên tay để xếp lá lại cho vuông bốn góc và buộc lạt thật nhanh, hắn không đặt cái bánh lên cái khay hoặc lên cái mâm mà làm cho dễ, thế mới tài.. Đã vậy, hắn còn viết văn hay”

Hanh uống ngụm bia rồi tiếp: “Nhưng một thời gian sau, bài hát đó biến mất như một phép ma”

Người bồi bàn lướt tới hỏi Hanh có muốn hâm laị đĩa sò huyết đã nguội. Hanh đẩy điã sò huyết sang một bên. Màn ảnh nhỏ chuyển qua một khúc tình ca Phạm Duy.

Hanh giải thích: “Cô hái mơ” là tác phẩ̉m đầu tay cuả Phạm Duy năm 1942, phổ nhạc thơ Nguyễn Bính”

Hảo hỏi. “Rồi sao nữa?”

Năm 1943, Thạc-sĩ Phạm Duy Khiêm từ Pháp mang về nước một cái điã hát để Phạm Duy đặt lời ca Việt: đó là hai bài Chiều Tà-Sérénata và Khúc hát thanh xuân.

“Có phải Phạm Duy đã phổ nhạc bài Khoẻ Vì Nước không ?”

“Không, bài hát đó khoẻ quá… chắc phải do một nhạc sĩ dồi dào sức khoẻ đặt ra”

Ông Hanh, Tôn-thất Hanh, lôi trong túi áo ấm ra tờ giấy và cây bút nhựa còn đầy dòng mực nguyên tử rồi bảo Hảo:

“Hảo..hãy nói với tôi một câu ân tình tiếng Huế, nói rõ và chậm từng chữ một, từng dấu sắc, dấu huyền hỏi ngã … cho tôi ghi vào giấy. Trưa mai chủ nhật, nhà thờ sẽ trống vắng sau khi mọi người đi lễ về, tôi sẽ ngồi vào cỗ dương cầm để phổ nhạc câu nói cuả em. Trong miệng Hảo, tôi không thấy miếng cá hấp, tôi không ngửi hành tỏi tiêu ớt … mà tôi chỉ nghe tiếng nhạc tình cuả Schubert và âm hưởng một bài nocturne của Chopin, tôi sẽ dùng những notes do ré mi fa sol.. đặt vào dưới mỗi chữ em phát âm.”

Hảo trả lời: “Nhưng tôi không phải là người Huế, tôi là người Sịa …”

Người ngồi trước mặt không những gọi Hảo bằng tên, từ khuôn mặt ông ấy, tôi nghe tiếng em thốt ra. Tôi cảm thấy áp huyết của mình không cao như thường ngày nữa mà tự nhiên hạ xuống. Tiếng tim đập nhẹ êm, không nhanh không chậm, không sai nhịp điệu như mỗi lần đi khám bệnh phải thở sâu vào đáy phổi cho ông bác sĩ đặt ống nghe ngực, nghe lưng.

Qua cửa sổ, ańh mặt trời mờ sương. Và quả đất vẫn âm thầm quay không một tiếng động.

Thình lình Hanh nói:

“Có lẽ trong khoảng.., có lẽ tháng sau hoặc tháng sau nữa ..tôi sẽ về Viêtnam… Thu-Thuỷ và hai đứa nhỏ viết thư sang..”

Hảo đột nhiên thấy áp huyết cuả mình vừa mới hạ xuống đó đã vụt lên cao hơn 20 điểm, Hanh tiếp:

“Tất cả mọi giấy tờ đoàn tụ đều đã hoàn tất, mọi thủ tục đều đã lo đủ.. an toàn hết.. sức khoẻ cũng đã khám xong.. Chỉ còn chờ bán nhà xong là đi.. Bên này tôi đã mua vé máy bay sẵn.. đợi bán nhà xong là đi Viêtnam ngay đưa mẹ con chúng nó sang.”

Tôi thấy trên cánh tay tôi một sợi gân sưng to hơn, áp huyết lên cao, stress lên cao.. Bệnh stress tôi cóc sợ, ông bác sĩ trẻ cuả tôi cũng lờ đi luôn, nhưng nhiều tài liệu y-khoa lại thắc mắc tới. Vậy, dù gì dẫu gì, đêm nay, tôi cũng phải diễn tả tâm tư của mình ra chứ còn cách nào hơn:

“Anh phải về nước để đưa vợ con sang.. Mong anh đi chân cứng đá mềm”

Thấy mình bắt chước những câu nói của một nhà văn trẻ ở Viêtnam, Hảo vội nói lại:

“Mong anh đi răng cứng lưỡi mềm. Mong anh ̣đem gia đình qua Mỹ hưởng giàu sang với số tiền lợi tức dồi dào hằng năm do công- ty Người Việt trả cho anh vì anh có cổ-phần trong đó.”

Hảo lại phải miêu tả tâm lý một lần nữa vì Tôn-thất Hanh bắt đầu ngồi im:

“Suốt một đời, tôi không hướng ngoại, tôi ít giao thiệp. Lúc nào tôi cũng sống trong thế thủ. Tôi gồng mình giữ thế thủ để tránh những mũi tên, những viên đạn vô tình nào đó đưa đi trật đường. .. Không bao giờ tôi đưa mình ra để đỡ đạn, để hứng tên bắn trệch tâm điểm. Nhưng tôi đã bị trúng một viên đạn lạc.. Ai đã bắn tôi viên đạn đồng này?.. Ai đã gây mê tôi vết thương quá nặng này?.. Giờ đây, có lẽ tôi chỉ còn một con đường để đi tới là.. đi lui về vườn để kết bạn với ông hàng xóm Miên-kiều.”

Hảo đứng lên, Tôn-thất Hanh tiến đến chỗ trả tiền. Trông ông ta vẫn còn dẽo dai chưa đến nỗi nào. Tấm áo cardigan bướng bĩnh vắt qua vai, tóc vẫn mọc rậm đến tận trán, chưa rút cao lên đến phần trước của cái đầu láng. Ngày xưa người Huế chải tóc với dầu dừa và gội đầu bằng nước chùm-kết nên tóc ít rụng và trán lâu hói.

Ra tới chỗ đậu xe, Hanh đề nghị:

“Mình đi chơi cho hết đêm nay”

Dù Hảo có dễ và dại đến đâu, cũng không thể đi hết đêm nay với cha nội này, nên từ chối:

“Không, đêm nay tôi phaỉ về nhà sớm để nấu phở cúng Phật.. Và ngày mai tôi phải dậy sớm để nghe chim hót. ”

Ở xa, có chớp nháy và sấm rền. Thời tiết không tin được sẽ là mưa hay nắng, như lòng người đàn ông vậy. Hanh đưa Hảo về tới nhà, trước khi mở cửa xe chui ra, Hảo trối trăn lại một câu: “Nếu người Mỹ không mặc quần Jeans nữa, thì tôi mới thôi thương nhớ anh. Từ đây, mỗi ngày, tôi sẽ thổi một cái hôn vào giữa lòng bàn tay nhờ gió đưa tới anh.”

Hảo xuống xe, đi vào. Vừa đút cái chìa khoá vô ổ thì cánh cửa có người đứng bên trong mở ra. Thằng con lớn với hai đứa cháu nội reo lên:

“Hi.. bà.”

“Hi.. bà nội”

Hảo bảo thằng con: “Về thăm sao không điện thoại trước để mẹ ở nhà.”

Hảo bật đèn sáng đứng ngắm hai đứa cháu nội. Thằng con lớn khoe:

“Mẹ.. hai đứa nhỏ bây giờ nói tiếng Việt oai lắm, giỏi lắm. Con Sa biết đếm từ 1 đến 10. Sa.. đếm cho bà nghe nào: một, hai ..”

Con Sa đếm xong, cha nó vỗ tay hô lên: “Hay quá trời.. giỏi quá đi mất thôi… Bây giờ đến phiên thằng Coi nói chuyện tiếng Việt với bà nội.. Coi, không được nói tiếng Anh.”

Thằng Coi chỉ tay vào bức ảnh chồng Hảo đặt trên bàn thờ rồi hỏi:

“Bà nội, trước khi bà nội get married với cha nội này.. thì ai là người bà nội thuộc về?”

Mặt thằng con trai lớn cuả Hảo dày một nỗi tự̣ hào làm như thằng Coi nói tiếng Việt không thua gì cô Kim trên sân khấu băng nhạc Thuý Nga. Năm 1975, từ Thuỵ-Sĩ, cô Kim tham quan Việtnam để vẽ tranh nhưng mãi cho đến bây giờ vẫn ở lại không về. Kim đến nơi này khi mới tròn hai mươi, mạnh khoẻ làm việc nặng nhọc, xây ngôi nhà tình thủỏng đặt tên là “may mắn” để cứu độ trẻ con mồ côi khuyết tật. Nhiều đứa con nuôi cuả cô đã lập gia đình để cô lên chức ‘bà ngoại’, và nhiều đứa con nuôi của cô vẫn ngày ngày đập lộn để cô phân xử. Phải chăng đó là việc lớn Kim làm?

Hảo đưa tay ngăn thằng cháu nội và giảng: “Coi, người chồng của bà nội, đứa cháu gọi là ông nội chứ không phải là cha nội”

Thằng nhóc con suy nghĩ một giây rồi lại đưa tay chỉ vào tấm ảnh thờ lần nữa ,xong gật đầu:

“Bây giờ ông nội này chết rồi, vậy thì bà nội thuộc về con.”

Hảo khụy hai chân xuống đỡ hai bên hông, và nhấc cao đầu gối lên, hai cánh tay đưa ra quơ quét hai đứa cháu nội vào vòng, riết cứng chúng nó lại đến nghẹt thở để ngửi mùi con nít gồm mùi kem đánh răng, nước bọt, shampoo, sà bong, mùi phấn rôm, bánh cookie, coca cola, cà rem, nước mắm, thịt gà kho sả, pizza, xì dầu. Những thứ đó làm cháu nội thơm hơn con trai, nhưng hãy tự hỏi, hai đứa cháu nói tiếng Việt giỏi như thế này có thể xóa tan nỗi buồn cuả một mối tình vừa bể ra mấy miếng trong lòng tôi?

Đầu năm 1976, gia đình Hảo còn ở tiểu bang New Jersey miền đông Mỹ. Người chồng mạnh khoẻ cuả Hảo đã đá ân nhân bảo trợ một cú song phi, cương quyết mò về seattle nơi đông Viêt-kiều cư ngụ. Về đó, Hảo đi may thuê được một năm rồi cũng đá cái máy may Singer một cú double-kicks để đi học lớp thư-ký xếp hồ sơ, clerk two. Ba tháng đầu học tiếng Anh, ba tháng sau học đánh máy. Ông thầy già cầm từng ngón tay của mỗi học viên bắt phải đặt đúng vào mỗi chữ trên keyboard, ông ta còn cúi xuống kéo hai bàn chân cuả học trò ra không cho vắt lên nhau khi ngồi học và giảng dạy rằng không được đánh máy với hai ngón tay chọt chọt..Chồng Hảo tên là Khanh, làm báo nhưng cũng đánh máy với chỉ hai ngón tay thôi, còn tám ngón kia vô dụng, không dùng tới. Đời chàng chắc cũng tám mươi phần trăm bỏ không như tám ngón tay ấy vậy.

Ngày đông ray rứt lạnh, ánh sáng bị xô té về chiều tối, aó len ân nhân bảo trợ cho phải mặc hai cái thì hai bàn tay người di-tản mới không run để ngồi thực tập trước máy chữ … Tay lạnh nhưng lòng quýnh lên không yên, ruột và gan cùng sốt nóng. Bốn giờ chiều, Hảo nhìn ra cửa thấy Khanh, và ông bạn thâm niên , bước vào lớp nói chuyện với thầy giáo báo tin thằng con thứ ba, thằng Ét, bị đụng xe.

Một vết thương ở đầu, một vết thương nặng ở bụng, một cánh tay gãy

Tuần trước ở lớp học đánh máy cấp tốc, giáo viên giảng bài Con Ếch Mẹ: Một nhà bác học bắt hai con ếch nhốt vào bình thuỷ tinh làm thí nghiệm. Đầu tiên, ông đem con ếch con ra xử tử trước, ông cầm con dao mổ cắt gân ở hai bàn chân nó, nó khuỵ xuống và chắp hai tay lạy ông. Ở trong bình thủy nhìn ra, ếch mẹ run giật tung mình lên khỏi mặt nước, kêu rú, kêu rống gầm thét. Tiếng gào cuả nó, tiếng thét cuả người mẹ, cuả con vật sinh ra để làm mẹ. Ông bác vật cầm xon dao giải phẫu cắt tiếp cặp đùi con ếch con. Ếch mẹ réo lên, tru lên, đôi bàn chân nàng long ra, rụng xuống, hai tay chắp vào nhau vái lạy ông bác học. người thú-y-sĩ lại xử dụng dao mổ bén cưa đứt cặp đùi sau cuả con ếch bé. Ếch mẹ dữ dội rống lên như cọp gào, như tư-tử hống. Bình thí-nghiệm vỡ, thuỷ tinh văng ra, một mảnh nhỏ bắn vào tay nhà súc-vật học, vì lệ cuả mẹ hiền tuôn như nước lụt. Và khi ông bác vật bắt đầu lột da con ếch nhỏ thì ếch mẹ nổ banh bụng ra bốn mảnh chết liền tại chỗ.

Hình ảnh này, bốn mươi tám tiếng đồng hồ trước ngày tôi chết, tôi mới quên được.

Một ông bác sĩ da màu từ dưới đi lên nhìn Hảo, nhìn Khanh, rồi lại nhìn hảo như để quyết định phải nói với người nào:

“Bác sĩ phụ trách ca giải phẫu này là Dr. Stuntz, tự nguyện quân dịch sang Nam năm một chín bảy một”

Sau hỏn 5 tiếng đồng hồ, bác sĩ Stuntz bước ra giảng: “Chúng tôi phải mổ cái đầu bể cuả nó để lấy mấy miếng xương vụn ra. Chúng tôi phải xẻ cái bụng phình cuả nó ra để xả xì hơi, rồi may mấy vết nội thương lại, chúng tôi phải rạch cánh tay cuả nó ra để nối và đẩy cái xủỏng lòi vô rồi cột mấy sợi gân lại. Hy vọng và tuyệt vọng: 50/50. Nếu nó qua được hai tuần lễ đầu thì nó sống. Nó sẽ mê man không mở mắt ra được một thời gian dài ở bênh viện Nhi đồng”

Lâu lắc như thời gian Hằng Nga ngủ ở trong rừng, một tháng hai mươi ngày sau, thằng bé vẫn nằm mê ngủ tại nhà thủỏng trẻ con.

Một bữa, Thượng-toạ Thích Nguyên Đạt trụ trì Chùa Cổ Lâm điện thoại:

“Ngày mai Chùa sẽ làm lễ cầu an cho cháu.”

Mười lăm ngày sau, thằng bé mở mắt ra chào đời lại lần thứ hai. Chàng bác sĩ da màu dặn dò: “phải nằm bệnh viện thêm một thời gian nữa. Trong lúc này, bà sẽ được chỉ dẫn về cách chăm nuôi nó sau khi xuất viện. Nó sẽ đi học tại trường đặc biệt chứ không được trở lại trường cũ. Lớn lên, Ét sẽ không được lái xe hỏi, không đi xe đạp, không bơi lội, không dược chơi một môn thể thao nào hết. Mỗi khi ra đường, Ét phải đội nón sắt tức là football helmet.”

Hảo bỏ ngang việc làm, đi theo nó đến trường học cũ, không vào trường đặc biệt. Hảo đủọ̉c đi xe bus vàng miễn phí và ăn trưa tại trường một đô-la mỗi bữa.

Nửa năm sau, Khanh đau bệnh độc không lành. Thằng Ét lớn lên. Ba mươi năm sau, thằng Ét trở thành người đàn ông trẻ. Nhìn nó, Hảo thầm trách: “Trường tiểu học Colman nằm bên này đường 23rd, chỗ anh làm việc, toà soạn báo Đất Mới nằm bên kia đường 23rd, anh chỉ việc dễ dàng bủỏ́c qua đường 23rd để đi đón nó khi tan trường về. Nó mới hơn sáu tuổi… Con đường 23rd là một sạn đạo, một con đường giết người, xe hơi qua lại phăng phăng và không có cảnh sát đứng gác.”

Khanh thầm trả lời từ cõi chết: “nó tan trường về trong giờ làm việc, anh không được rời toà soạn để đi đón nó.

“Nhưng tờ báo chỉ là một mớ giấy, người … con người mới đáng quý”

Nhìn từ trang kinh bồ-tát cứu khổ, đô thị Seattle , hòn ngọc xanh cuả nủỏ́c Mỹ, giống nhủ thuyền Noah lênh đênh trên biển lụt đỏ. Con đường lằn vủ̀a đủ một người đi sau lưng nhà, gãy đứt đôi vỏ́i những cây cactus đâm gai nhọn mà người Quảng Trị kêu là cây xương rồng.

Hảo đáp xe bus theo học lớp thư ký xếp hồ sỏ buổi sańg, ba giờ chiều, lái xe hỏi đi làm ở nhà băng, ba trăm rưỡi đô-la một tháng. Năm mẹ con sống chui rúc trong ngôi nhà gỗ gồm hai phòng ngủ. Ngôi nhà già sụm, gỗ ướt sũng mồ-hôi vào muà hè, hai bức vách sụp xuống. Ba thằng đực phải ngủ ở phòng khách.. Cả mấy đưá con đều phải nửa ngày đi học, nửa ngày đi làm. Thằng Út kiếm đủọ̉c cái job ở tiệm bán thịt heo muối. Thằng Út và hai đứa bạn trong tiệm làm tay sai cho hai tên cô-hồn to con đứng chực ở ngoài rình ăn cắp đùi heo đem bán nên bị đuổỉ dài hạn.

Năm, tháng, tuần, ngày giờ .. vẫn trôi đều. Một bữa thằng Chu kêu: “Mẹ ỏi..Chu không đi học nữa, Chu đi làm full-time.”

Hảo cũng kêu luôn: “Đi học, hoặc vừa đi học, vừa đi làm.”

Hảo kêu to hơn tiếng gào cuả con ếch mẹ buổi chiều khi thằng Ét bị đụng xe. Chút mộng nhỏ, giấc ngủ viễn mơ trong cái bụng rỗng cuả con ếch mẹ đã bể banh ra.

Sao thằng con này có thể vô trách nhiệm như vậy? Ngoài Xã hội , con cái nhà ai bây giờ cũng đậu cái bằng đại học bốn năm là ít nhất. Nếu không, đó là vô học. Con tôi bỏ học. Ai đau khổ không? Tôi cất tiếng rao âm thầm, khác với tiếng rao ồn ào “Ai đậu hũ không” của người đàn bà bán hàng rong hẽm cụt Sàigòn.

Hảo nhìn mặt thằng con ham chơi: “Con phải báo hiếu mẹ một cấp bằng đại học. Lòng mẹ hiền nào cũng mong con mình sẽ là một kỹ-sư kiều lộ và trù cho thằng con nhà ai đó sẽ là một cu-li lục lộ. Ruột mẹ hiền nào cũng bấy như tưỏng nếu con mình bỏ học. Và con nhà khác cứ học hoài không bỏ.”

Sáu trong bảy đưỏ̀ng nét trên mặt thằng con giống cha nó, chỉ đôi mắt đẹp là khác, nó đưa ngón tay cái lên gãi cái đầu mà sáng nay nó đứng trong buồng tắm một giờ để chải: “Cái job này tốt lắm..good..cool. Mẹ ơi, Chu ghét học lắm rồi, Chu đi làm nhiều tiền.

Hảo nghĩ đến ngủỏ̀i chồng nghiện rủọ̉u trong tác phẩm Madame Bovarycuả Gustave Flaubert. Hảo nghĩ đến người cha nghiện thuốc phiện.. Họ là những kẻ lười biếng học hành, ghét chuyện làm ăn, và ở dơ, họ sợ tắm rưả và nghe tiếng nưỏ́c dội.

Hảo nhìn mặt thằng con dại: “Nếu bây giờ con chịu khó nhiều, thì tương lai con sẽ có cái bằng cấp. Hơn người sướng lắm con ơi, nắm trong tay một cái bằng cấp..con sẽ ngồi trên chóp bu cuả cuộc đời.. được bao nhiêu người bâu quanh.. Nếu con ăn một trái xoài, con cũng sẽ cảm thấy ngon hơn và đời con sẽ mát rưọ̉i…”

“Nhưng Chu không ăn xoài mà mẹ”. Thằng bé cáu.

Bạn bè đồng hương ngày hôm nay hình như chia ra từng nhóm để chơi với nhau , đi lại ăn uống, thân thiết giao tình. Người trong mỗi nhóm đối đãi” vỏ́i nhau cởi mở, cho nhau quà cáp ..Họ thích nhau, hạp tâm lý nhau, nhà cửa ngang bằng và không ưa kẻ khác nhóm.. Người trong mỗi nhóm bênh vụ̉c nhau, đề cao danh dự̣ nhau và hạ thấp uy tín nhủ̃ng kẻ khác nhóm hoặc những kẻ lẻ loi đứng riêng. Không ai tốt, cũng chẳng có ai xấu, không ai sang, cũng chẳng có ai tồi,.. không hợp nhau thì không chơi với nhau ..thì nói xấu nhau và đả kićh nhau.. giản dị vậy thôi…

Một nhóm phụ nữ trí thủ́c ở Seattle chủ-trủỏng “Computer trên hết, internet trước hết”. Các bà này không kết thân với những kẻ nằm dài trên giường đọc sách thay vì lên mạng đọc internet. Các bà này không bạn bè vỏ́i những kẻ gọi điê.n-thoại và gửi thư cho nhau qua bưu điện thay vì e-mail; theo họ, viết thư tay và gọi điện thoại cho nhau là dưới computer. (Mới ngày nào Jean Paul Sartre đã mắng Cộng Sản là nhủ̃ng kẻ dưới người).

Tinh thần chia rẽ nhấp nháy sáng trong cộng đồng, trong tình giao kết giủã các hội đoàn, các phe phái, các phong trào thiện nguyện, các nhóm văn nghệ…

Và tinh thần chia rẽ cũng le lói ánh lân quang trong nhóm nhà văn Trần Thị Mai, tuy bà Mai, từ ngày mất nước, ̣đến nay đã về nước gần 10 lần và mỗi lần về như vậy đã tốn sáu nghìn năm trăm đô-la mua vé máy bay, mua 50 chai dầu gió xanh trị cảm cúm và ba cái xe-lăn-tay đóng thùng đem về Vietnam tặng các chàng phế binh cụt chân…Năm ngoái, nhà văn nữ này lại len lén về Việtnam gặp mặt các chàng phế binh.. Việc làm này xấu hay đep̣?..Vậy mà bà này vẫn bị nhủ̃ng kẻ khác nhóm phê phán: “Nhà văn này từ đầu đến đuôi không hề viết một câu tố cộng.. Nay bà ta cứ đi đi về về hoài như vậy.. vì bà ta hy vọng nhà nước Việtnam sẽ cho phép bà gửi bài về đăng trên các báo tại quê nhà..”

Vì vậy, Hảo càng tin rằng trong vấn đề giao tế, tốt xấu không cần, mà chỉ cần hạp nhau, ăn ý nhau là đủ.. Đi chỗ khác chơi đi, mi không thuộc nhóm tau, mi là người lạ .. chỉ người trong một nhóm mới thân nhau cùng.

Hảo bảo con: “Mẹ thuộc bộ-lạc “dốt computer”.. ai cũng cười mẹ. Cậu ở Cali cũng cười.. Nếu con học giỏi, người ta sẽ không cười mẹ nữa.. con hãy vì mẹ mà gắng học.”

Thằng con không chịu đựng được những lời nói dai nữa, nhỏm đứng dậy, Hảo ngăn lại:

“Nếu con là mẹ và nếu mẹ là con.. thì con sẽ khuyên mẹ như thế nào? Con có thể để cho mẹ bỏ học nửa chừng, dở dang, bất trị? Coi phim Cao-bồi, con nên biết rằng con ngựa trời sanh ra bản tâm tốt hơn con người, lòng ngựa hiền hơn lòng người, tính ngủạ chịu khó nhất trong các sinh vật và trái tim ngủạ đầy lời tha thứ thương yêu…Chu..con cải lời mẹ, con thua ngựa, con không bằng giống ngựa”

Ngoài cửa sổ, vườn ông Mỹ mập trồng nhiều cây không trái, vì chỉ cốt để ngắm lá đẹp đổi màu khi muà thu tới. Mùa thu được thi sĩ thưỏng yêu nhất vì lá thu vàng đậm nhủ màu quýt Satsuma..Thi sĩ không thương lá xuân màu lục tươi…

Hảo nhìn cái máy chữ, nhìn hàng chữ lỏ́n QWERTYUIOP trên tấm keyboard, nhìn cuốn tự điển kếch sù in bức hình chạm nổi cuả nhà thông-thái Noah Webster. Cuốn tự điển già, khô héo tâm can còn tôi thì đa tình và ướt.. Khi mỏ́i làm lại cuộc đời trên đất lạ, không một tiếng Mỹ dính miệng để mà nói, một tiếng Anh chẽ ra làm đôi cũng không lắp lại đưọ̉c để mà đọc, không biết lái xe, không tiền, không người nâng đỡ tinh thần.. đêm đêm, sau mười giờ rưỡi, chồng con đánh răng đi ngủ, tôi mở cuốn tiểu thuyết tình, mở những trang sách tả cảnh, tả tâm-lý và sex “The women’s room” ra , tập đọc và ngồi viết mỗi chữ, môĩ câu văn tiếng Anh mười lăm lần trên giấy nháp để học thuộc lòng…Ai bán cho tôi một cuốn sách, người đó không phải chỉ bán một ghim giấy với hàng hàng chữ in đậm mực, và bià màu vỏ́i hình vẽ, mà đúng là tôi đã mua đưọ̉c một chút hiểu biết tình đời.

Hảo kêu con: “Chu ơi, con phải học để có chút bằng cấp làm dáng, mẹ mang con đi Mỹ vì nguyện vọng đó..Nghe lời mẹ, please. Mẹ già rồi, xưỏng cuả mẹ đã xốp, nhưạ cuả mẹ đã khô, nhủng đời mẹ vẫn dán keo vào đời con. Nếu con là nước mắm, mẹ là cái chai; nếu con là mật ong, mẹ là cái hũ, nếu con là que diêm, mẹ là cái hộp quẹt.”

Hảo nói tiếp: “Giống chó St. Bernard đã cứu sống hàng ngàn người vượt đèo leo núi bị té tuyết và bị chôn vùi trong lòng băng. Nó dùng chân cào tuyết moi nạn nhân lên, nó nằm xuống ôm lấy ngưỏ̀i đó để lông chó chuyền hỏi ấm vào da người, rồi nó thè lưỡi liếm mặt nạn nhân để kêu goị ba hồn bảy viá người chết hãy tỉnh lại…Xong, nó, hoặc có thể một con chó khác chạy về nhà thờ báo tin cho các thầy tu khổ hạnh đem băng-ca và đồ cứu thương tới.. Làm đưọ̉c chuyện đó, con chó phải học và tập luyện mỗi ngày..Chu, con đừng để thua ngựa và chó..”

Thằng Chu vẫn đứng cạnh cửa sổ, con mèo đen ngồi xuống liếm chân. Ông hàng xóm bảo thỉnh thoảng nên bôi một chút mật ong, hoặc chút bỏ vào chân nó để nó củ́ quanh quẩn ở nhà liếm lông không đi hoang trên mái ngói.

“Chu ơi.. chắc đêm nào mẹ cũng phải quệt một chút mỡ hoặc một chút dầu Olive vào chân con để con ngồi liếm và bớt đi chơi đêm”

Theo khoa tướng số Tàu, người đàn ông cao là người khờ dại, không khôn lanh, không phải là kẻ luôn luôn thắng, và kẻ đó cũng không thể huề, bao giờ cũng chỉ thua mà thôi, thua dài trên những đường dọc đường ngang cuả lưới tình. Thằng Chu cao hơn cha nó một chút nhưng thằng con không đi chân chữ bát. Và cũng theo khoa bói toán Tàu, người đàn ông hỏi thấp một chút mới à tay lanh, cao tham vọng, cứng nghị lực, cương quyết chịu khó kiếm tiền. Họ luôn luôn nuôi nhiều mộng mơ để đánh bại nhủ̃ng kẻ cao cẳng dài giò, và chíńh họ mỏ́i đúng là tay đa tình tận mạng vỏ́i đàn bà.

Hảo nói ra một ý cốp được từ tiểu thuyết ba xu: “Tuổi trẻ ở Mỹ được Trời giúp đỡ và ban ân nhiều hơn ỏ̉ các quốc gia khác; nếu mẹ được trẻ lại, được hồi xuân và chưa sang đông.. mẹ quyết học để kiếm tiền. Ngày xưa, tiền giấy Viêtnam màu xanh xám: ngày nay, giấy bạc Hoa-kỳ màu xanh tủỏi..Tổng-thống Jefferson trên tờ giấy bạc 2 đô-la, Tổng-thống Washington trên tờ giấy bạc 1 đô-la, Tổng-thống Madison trên tờ năm nghìn đô-la..Tiền. tiền. Đả đảo tình yêu, hoan hô tiền tiêu, chỉ có tiền trên cuộc sống này thôi”


Thằng bé kêu: “Mẹ nói gì kỳ vậy..bậy bạ.”

“Chu ơi..me. mong con siêng năng học hành để sau này con kiếm tiền nuôi cái thân con, chứ không phải để mua trái sầu-riêng cho mẹ ăn”

Hảo nhìn thằng con cao như một cầu-thủ bóng rỗ nhưng không biết có ném trúng banh không, của mình. Cây bạch dương nhuộm ánh chiều tà ngoài củả kính không biết tuổi đã già bao nhiêu. Hảo hít hơi vào cho khoẻ rôì tiếp: “Nước Mỹ cho mỗi cá nhân một cỏ hội thuận tiện để mua nhà nếu người đó có công ăn việc làm. Nếu con học nhiều, con sẽ có một ngôi nhà làm bằng gỗ quý, xây trên một địa điểm sang trọng. Ruột mẹ thắt lại khi nghĩ rằng lúc con 40 tuổi, con vẫn phải thuê một phòng, một appartment để ở chứ không mua được cái nhà.”

Hảo nhìn ra cây bạch-dương lần nữa. Nó không cho mình trái để ăn nhưng nó thân thương như bạn. Lá bạch dủỏng rủ xuống như lá dương liễu.

Trên đầu cây bạch dương, nắng xuân già chiếu xuống những vệt sáng cằn cỗi. Chiều qua bà hàng xóm Caomiên đứng nói chuyện trước nhà:

“Con Hélène của tôi không học hành thẳng ro một mạch hết đại học, nó bỏ đi làm ngang xương..nó đòi phải có xe hơi, rồi nó move out.. ra ở riêng,no choice.

Hảo hỏi: “Nó có bầu chưa? Nếu nó uống thuốc ngừa thai trên 10 năm thì nó sẽ tuyệt tự không có con được.”

Hảo đứng dậy dí tay vào trán thằng Chu: “Con phải lo lấy đời con. Chỉ có sự̣ học. Tuyệt đối không lấy vợ sỏ́m. Đả đảo đàn bà. Con phải thủ trong saving và checking accounts một số tiền để mua xe hơi, mua đồ ăn, đóng tiền nhà, trả bill điện nước cống rãnh, rác.. và các thứ bảo hiểm.. Làm được những cái đó, đó mới đúng là hai chữ tự-do .. Đó mỏ́i là hai chữ chính-nghiã… Độc lập mà không tiền thì cũng dẹp.. đồng tiền to hơn quả đất. Quả tim không to hơn quả đất bao giờ.”

Hảo nghĩ đến bốn hạt ngò khô trong gói gia vị nấu phỏ̉ Bắc quê hủỏng và bảy hạt tiêu trong đòn chả lụa rồi gặn bảo con: “Cô Loan, cô Thắm, Cô Vinh..nhủ̃ng người bạn trẻ hơn mẹ, người nào hiện cũng đang ở trong những ngôi biệt thự hoặc trông ra bờ biển, hoặc ngó xuống hồ Sammamish, còn mẹ con mình thì cái nhà là cái chuồng nuôi ngựa và chật chội như nhà Viêtnam ở các hẽm cụt… Trời không chia bánh cho mỗi người đều nhau.”

Bà hàng xóm Mắm-bò-hóc tâm tình rằng khi con Helene còn bé, bà đã đến trường học tiếp xúc vỏ́i các nhà giáo xin bài tập đem về nhà bắt nó làm, rồi bà còn đi chuà lạy Phật xin huỷ diệt bớt tình mẫu tử trong tim bà, xin đức Quan-Âm bóp nhỏ tình mâũ-tử laị một chút, bởi đứa con không thủỏng bà mẹ nhiều như bà mẹ đã thưỏng nó. Môĩ quê hưỏng đều có ngủỏ̀i mẹ hiền. Ngủỏ̀i mẹ Đông-dủỏng không đặt lòng thưỏng con thấp xuống ngang hàng với tình yêu chồng. Cũng vậy, trên tivi, người mẹ Hoa-Kỳ sáng nào cũng dậy sỏ́m bới thức ăn trưa vào túi giấy cho con đem theo đến trường.

Hảo đã đọc một truyện ngắn Trung quốc viết về tâm lý du học viên tại Mỹ: Với 23 cái xuân, cô Wein Chan đã khôn ngoan như một người 71 tuổi. ..Dù quần ống bó hở bụng hở mông, keó lên thì khó, keó xuống thì dễ như con gái Hảo vẫn mặc.. dù đồ đầm, dù áo khoét hở nách banh ngực; dù jeans,..tộng vào kẹt cứng trong cái tủ closet làm hai cánh cửa trật đường rầy long ra, đứng ì không kéo tới đẩy lui đủọ̉c.. dù bạn trai thằng thì ở xa, thằng thì ở gần ..nhưng, phưỏng châm cuả cô là học. Học thông minh, học tham lam, đêm ngày dán mắt vào cái computer. Bộ óc già và bất khuất trong ngủỏ̀i cô khuyên cô hãy ăn chơi chậm lại một chút, hãy lấy cái cái bằng đại học 4 năm để tạm đi làm và mua một ngôi nhà nhỏ để dọn ra ở riêng trước đã. . Sau khi tự lập, tự do, dân chủ, phú cường, cô bé lại ghi danh vào đại-học không gián đoạn một ngày vì cô bé ham sự nghiệp như ông Khai- Trí thiết tha yêu từng cuốn sách.. Mỗi lần về quê quán thăm mẹ, cô bé mua một số đồ điện tử đem về bán và hốt một mớ bac̣ để dành, khi trở lại Hoa Kỳ sẽ cất vào saving account. Cô bé xinh như cái cúc áo. Một nhóm bạn đã tán cô: you’re cute as a button.

Hảo bảo con: “Con phải noi gưỏng hiếu học cuả các du học viên, chúng nó chăm học hơn con cái Viêtkieu ở đây. Con không ngu dốt nhủng con dại.. bố con cũng không khôn, không lanh như người ta. .”

Bởi vì vậy.. nên khi biến cố 1975 rớt xuống miền Nam thì đời đã vữa như tiêu chảy, sức khoẻ đã héo khô như táo bón.

Hảo nói tiếp: “ Người nữ du học viên giàu vì nhờ trí khôn. Mẹ thấy bao nhiêu người thông minh nhưng đã thất bại, mẹ chỉ phục ai khôn ngoan thôi.”

Một con ruồi đen óng lọt vô nhà, bay đến cửa sổ, bò quanh bức màn. Nắng mai áp má vào mặt gối bọc vải cretone hai màu. Bây giờ tháng bốn, da trời xanh loãng, rặng núi Rainier xanh đậm.

Hảo vẫn nói dai: “Chu ơi, nếu con bỏ học, mẹ lo sợ con sẽ không lấy được vợ Vietnam, chúng nó không ưng mày.”

Thằng bé chậm rãi: “ Chúng nó ưng con mà mẹ..iu iu.. Lấy vợ Vietnam dễ ẹt..”

Hảo nghiêm mặt: “ Người Vietnam chăm học, chăm làm. Lấy đủọ̉c con gái của người Viêtnam khó lắm con ơi.”

Sang Mỹ, người Viêtnam đã quần quật làm việc như trâu nên mới có câu tân-cách-ngôn Sang Mỹ, đi cày.

Ông bạn Nguyên Tất Thái cuả tôi, ban ngày làm việc tám tiếng ở Boeing, ban đêm thức sau hai giờ sáng cặm cụi sửa nhà: Mua nhà cũ rồi gỡ vách ra, làm lại vách mới, làm siding mới, xây thêm phòng, nới rộng bếp, cải cách buồng tắm, đặt ống nước, tráng gạch men… Sang Mỹ chưa đầy sáu năm, hai vợ chồng xuất vốn lần lượt mua 6 ngôi nhà cũ rồi tân trang lại thành nhà mới treo bảng bán.

Nguyễn Tất Thái đang lợp nhà, thấy Hảo đến, bèn xuống thang để nói mấy câu mà anh ta đã nghĩ ra khi đang ngồi trên mái ngói:

“Tôi có máu mê làm việc chứ không khoái ăn nhậu và tôi tin rằng một khi đã sang đây, chỉ có thằng điên mỏ́i không làm việc để đổỉ cuộc đời cũ lấy cuộc đời mới.. Nếu lúc còn ở Vietnam, chúng ta ai ai cũng nỗ lực làm ăn tích cực như thế này thì, tôi nghĩ rằng, chưa chắc miền Nam đã mất một cách quá mau lẹ vào tay miền Bắc.”

Đó là câu nói chính tâm từ đáy bao tử người di tản thốt ra. Cái nhà là giấc mộng cuả kẻ bước ra khỏi nước. Phải chăng người di tản có một lý tưỏ̉ng hay chỉ có một sức nóng, một luồng khói bốc lên trong cơ thể thúc dục họ phải làm chủ những ngôi nhà, những mẫu vườn ?

Sau người hùng đi cày ở Seattle, là người đẹp đi cày cũng ở Seattle: Bà Loan đã mua được mấy mẫu đất hoang khai phá thành một vườn hạnh phúc, một vườn cây có đủ mọi giống thảo mộc với đôi tay lao động của chính bà, với một sức làm việc không khác chi tù cải tạo ở Viêtnam, một sức khỏe của một bác sĩ chỉ chữa bệnh và không bao giờ đau ốm như bệnh nhân. Suốt đời, Loan không hề đau răng vì trong miệng Loan có 32 cái răng khoẻ như răng rồng.. Cuộc đời còn lại cuả bà Loan bây giờ là khu vườn. Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.. một lòng thành dành cho vườn, để mỗi ngày khom lưng đào đá, cuốc đất suốt tám tiếng, hoặc ngồi xổm 12 tiếng nhổ cỏ dại. Người Mỹ không ngồi xổm được vì sợ bể đầu gối. Đầu gối cuả người Mỹ vừa to vừa dòn và hai cục xương sụn cứng như hai cái búa nên cũng rất khó xếp chân lại để ngồi thiền mà thở vào rồi lại thở ra. Người Viêtnam đầu gối dẻo dai như bánh ít bà Loan đã phá vỡ kỹ-lục ngồi thiền do Đức Phật sống Dalai Lama đặt ra tại Tây Tạng. Bà có thể ngồi chò-hỏ 11 tiếng liền mà đầu gối không bể, không nứt, không cứng như hai cục xưỏng ngựa. Ngoài ra, Loan còn lái được xe tractor như phụ nữ Trung Quốc sau cuộc cách mạng văn hoá, để đào một cái giếng, hai cái hồ trồng rau muống lấy giống từ hồ Cologne tại Đức. Quanh năm Loan ăn rau muống xào với tôm tươi bóc vỏ khi đang còn nhẩy tong tong.

Ngày ông bạn Nguyen Tât Thái còn hưởng dương bên bạn bè, em gái ông trách ông không mua bảo hiểm nhân thọ. Hảo nói nhỏ với Loan:

“Tài sức làm việc của chị và của ông Thái, tôi tin rằng chỉ có hai và không có ba ở Seattle này. Tài sức ấy quý giá hơn bất cứ những thứ bảo hiểm, như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm lụt, bảo hiểm lửa.. nhưng dù sao chị cũng phải mua bảo hiểm để bảo toàn cáí nguồn phúc lợi quá lớn lao cho những kẻ chị cưng quý.”

Hảo nói với thằng con: “Ông Thái được một tờ báo Tin-Lành Mỹ ở Seattle khen là người làm việc giỏi nhất trong cộng đồng. Ngoài ra, các cộng đồng Thái-lan, Trung Hoa , Hàn Quốc, định cư ở Mỹ lâu đời đều cùng công nhận rằng người Viêtnam chịu khó làm ăn, việc chưa tới tay đã lăn xả vào làm, và làm nhiều giờ phụ-trội nhất, siêng năng nhất. Con phải noi gương các cô, các bác ở đây, không được lười biếng . Người lớn đi làm, con nít đi học.”

Hảo nhìn thằng con rôì làm mấy câu thơ nhỏ:

Khi con ra đời, lá bắp non và xanh.
Ngày con mọc răng, cây bắp bắt đầu già..
Lúc con biết nói, trái bắp ngọt và vàng.

Hảo thêm: “Tờ báo đó còn bảo rằng người Viêtnam ‘ấm’ nhất trong các sắc dân tị nạn tại Mỹ, và người Đại Hàn thì ‘lạnh’ nhất…Ý tờ báo đó muốn nói người Viêtnam friendly..hơn ai hết.”

Thằng con vẫn ngồi ì.. Hảo uống một ly nước lạnh hứng trực tiếp từ vòi nước máy. Cố gắng uống hết cốc nước loãng, Hảo hơi lạnh bụng, nhưng nhất định không tập thói quen uống nước trà.. Ngày mới đặt chân lên đảo Guam, nỗi mủ̀ng vui đầu tiên của mấy bà tị nạn trong trại là được biết ở Mỹ uống nước không cần đun sôi. Sau đó , tháng chín năm 1975, xuất trại, họ vo gạo nấu nồi cơm đầu tiên trong căn bếp Mỹ.. Mọi đồ dùng trong bếp, tất cả đều nhỏ và nhẹ chứ không kềnh càng to và nặng như ở quê nhà. Với lưỡi dao hình răng cưa, Hảo đã thái những lát thịt bò mỏng dính. Ông xã Hảo nấu ăn giỏi như đầu bếp Tây ngày xưa và mong ước mở một cửa tiệm.

Hảo nhắc chuyện cũ rồi bảo thằng con: “Bố mày chăm làm bếp, mày phải chăm học để khi ăn một món gì khỏi phải ăn năn.”

Hảo hớn hở tiếp: “Bố mày ăn ít nhưng nấu nhiều..để nhìn ngắm đồ ăn . Chu.. hay là mày ghi tên học lỏ́p nấu ăn đi con..Nếu con trở thành một tay bồi bếp, làm ra tiền với dao thớt son chảo chai lọ chén đĩa..gia đình mình sẽ có phước lắm con ơi, con sẽ đẹp trai nôỉ bật lên trong cộng đồng Việt kiều ở đây.”

Hảo đưa mắt ngó màu lá non cuả cây kiwi đứng ngoài cửa sổ rồi nói dai: “Khi con nấu ăn ngon miệng, niềm vui quả có thật..Cha con nuôi giấc mộng đó nhưng không thành. Thật tội nghiệp cho bố mày nằm chết ở dưới đó trong khi ở trên này chúng mày học hành chẳng ra gì.. Chu.. không đi học, bỏ ngang, là tự sát. Con hãy gắng học và đừng mập ra. Nếu con ham chơi, con sẽ to béo ra, đôi vai cuả con sẽ không còn vuông góc.. và con ôm mối hận nghèo.”

Bỗng điện thoại reo.

Bà bạn trẻ ở Los Angeles kêu: “ Chị.. em đây.. Lâu nay chị cứ trốn mặt ở nhà hoài nên không biết chuyện gì đã xẩy ra tại cái xã hội này hết cả.. Bây giờ đây này, giá trị con người được đánh bởi số bằng cấp con cái người đó đậu. Chị không biết gì hết, luật mới trong cộng đồng bây giờ là rứa đó..Không ai coi mình ra một cái gì hết nếu con cái mình không đỗ đạt.”

Hảo thở dài: “ Người xưa cũng bảo vậy…bao giờ con lập công danh. Bấy giờ lòng mẹ mới đành mới yên.” Với kinh nghiệm hải ngoại, mỗi khi làm bếp khó, Hảo không hỏi bài từ mấy bà bạn lấy chồng vietnam nữa, bài học hay nhất là điện thoại cho các bà Lan Hoa Peaset, Thanh Lan Lashner, ThanhThanh Woods.. Họ nấu ăn hay hơn người xưa, họ làm bếp khéo hơn các bậc dâu hiền ngày cũ; chưa hỏi tới, họ đã ân cần chỉ dạy mình ngay: Phở là một món canh, chỉ khác một điều là khói phở ấm tình bạn, hơi thở của phở đậm yêu đương, tâm tư của phở vương vấn hồn cam thảo. Nước phở phải trong vắt tình nghĩa vợ chồng. Hồi quế gừng hành tỏi hạt ngò phải nướng vàng cho thêm phần kićh thích. Gia vị phở Bắc quê hương giờ quá thân thương đối với chúng ta, và mùi vị của những lát thịt bò thái mỏng đã trở thành những đoạn thẳng tình nghĩa trong tâm lý Viêtkieu thương yêu Vietnam … Ngày xưa, người đẹp Quốc – Việt được mời lên tivi diễn tài làm bếp, chị vén áo dài gấm, để lộ hai bàn tay búp măng đeo đồng hồ, hột xoàng..muá con dao nhọn thoăn thoắt trên tấm thớt dày rồi vừa làm vừa giảng bài và dơ cao con cá lên rồi hạ nó xuống rút xương nó ra nhét thịt băm vào.

Hảo hỏi bà bạn ở Tacoma: ” Nấu phở bò lâu mất 8 tiếng đồng hồ, có làm hôi nhà không? Hương gây mùi nhớ ..”

Câu trả lời dứt khóat: “Nồi phở thứ thiệt, tô phở thật … tình quê hương thơm .. Nồi phở giả hiệu, nấu bằng những hộp xúp gà bán ở chợ Mỹ ..Phở organic tôi gọi đó là Phở hữu cơ”

Hảo nói: “Còn tôi thì nấu phở sai công thức.”

Bạn tiếp: “Sứ mạng nấu ăn của người đàn bà là tại tâm, theo năng khiếu, không theo công thức … Người đàn-bà-mới bây giờ vẫn còn còn nấu ăn tại tâm.. vẫn còn bỏ áo quần cuả chồng vào máy giặt máy sấy và đi chợ không mua những món ăn bày sẵn ở cái quầy deli…”

Cái đầu lâu khô cuả Hảo liền lạc đề nghĩ tới thiên hồi ký A field of innocence của một cựu chiến binh Hoa Kỳ, Jack Eastes, viết lại một mảnh đời lính tráng của mình ở Viêtnam. Chàng GI này nói tới cái xu-chiên với hai cái cup, tức là hai cái chén bằng cao su mềm và nở. Người đàn bà đựng bộ ngực trong hai cái chén đó. Được như vậy, các bà bạn Lan Hoa Peaset, Thanh Trang Lashner, Thanh Lan Woods..mới làm chủ những ngôi nhà to rộng hoặc nằm trên một ngọn đồi, hoặc trông xuống bờ hồ bờ biển, hoặc ngó lên chóp núi trắng như gạo phủ. Tô phở với những lát thịt tình nghĩa có phải là những đoạn thẳngg tâm lý trong những mối nhân duyên Việt Mỹ?.

Người đàn bà Vietnam thương con nhất trên đời và thương chồng thứ nhì trong đời, nhất con nhì chồng. Người đàn ông Mỹ, Larry, chồng của Trang, thương vợ nhất trên đời và thương con thứ nhì trong đời, Nhất vợ nhì con. Mấy ngôi nhà nguy nga do tay người đàn ông thương vợ đó, người công dân của một quốc gia không có chủ-nghĩa đa thê từ nghìn xưa, làm ra, là tài sản của người vọ̉ chứ không phải của bầy con. Bà bạn Hảo bỏ đủ thì giờ ra nấu ăn ngon mê hồn..Trong một tiếng rưỡi đồng hồ, Trang có thể quấn xong 200 cái gỏi cuốn, nhồi b̀ột mì bột gạo nặn ra hai trăm cái bánh bao..Ngày lễ Chúa hoặc ngày vía Phật, người đẹp thiện nguyện đi Chuà hoặc đến Nhà thờ xắn tay áo làm đủ các món ăn chay mặn bày bán và luôn luôn thu về cho cửa từ-bi, giáo đường bác-ái cả hơn một nghìn đô-la.

Hảo ngậm ngùi nghĩ tới cái xú-chiên khác, không phải là hai cái chén cao-su mềm mát mà là hai cái bầu giác hơi cứng ngắt ngắt ở trong đựng hai trái hồng khô được ép sấy từ China. Treo cái xu-chiên đó trên đôi vai, người đàn bà này làm sao có thể tọa lạc trong những nhà to cửa rộng ngó ra biển và hồ.

Nhất vợ nhì con. Mỗi kỳ lương ông chồng Trang cẩn-thận đem hết tiền về.. Con cái khoẻ mạnh lớn lên vào đại học lấy hết bằng cấp đưa mẹ giữ .. Sống một đời như vậy đủ chưa hay con tim tiên tiến trong lồng ngực đang đập nhẹ kia cũng muốn khoắc khoải một chút đàn ông Viêtnam nào đó .

Sách quốc văn giáo khoa thư dạy rằng ở đời có ba ông thầy thuốc giỏi: Thứ nhất là thầy sạch sẽ, thứ nhì là thầy điều độ, thứ ba là thầy vệ sinh. Môĩ cuối tuần, sau khi đi chợ mua đồ ăn đem về đầu cơ tích trữ trong tủ lạnh, con gái Hảo giặt, sấy và xếp tất cả áo quần thay ra trong bảy ngày. Nó lột hết tất cả những tấm khăn trải giường, những tấm vải dày lót lưng, những tấm chăn thô dệt bằng sợi cứng, áo gối.. rồi tuần tự cho vào máy giặt máy sấy. Nhà cửa râm rang tiếng ồn.. lu bu công việc.. Trong khi gấp xếp áo quần sạch, thì mớ áo quần dơ khác lại được tộng vào máy giặt.. Cứ thế, máy giặt, máy sấy chạy ầm lên và nó im lặng gấp xếp. Sáng hôm sau chủ nhật là ngày tổng vệ sinh một cái nhà 5 phòng ngủ, ba buồng tắm rưỡi. Máy hút bụi rống lên không thua gì máy cắt cỏ gào hét. Cái xô nước rửa nhà, cái chổi, chai thuốc tẩy trùng Lysol, tấm bố chùi nền nhà.

Trong chuyến đi thăm con gái vừa rồi, Hảo xào nấu cho Thuý nhiều món ăn và nhìn nó đưa đẩy cái máy hút bụi chải những đường lằn trên những tấm thảm trải nhà, nó lau láng cái bồn tắm, treo tấm màn xanh thẫm và đặt chai thuốc gội đầu với chai thuốc xã tóc màu hồng đứng bên nhau như một cặp vọ̉ chồng mới cưới.

Hảo vừa đứng chải tóc vừa nói khi nó đang khom lưng moi rác: “Người Việtnam không sợ vi trùng như người Mỹ, lấy chồng Viêtnam sướng lắm con ơi, nâng khăn sửa túi họ khoẻ và nhàn.. Còn đàn ông Mỹ ..khó lắm con ơi, cay lắm con ơi, kẹo lắm con ơi.. như lúc nào con cũng phải đương đầu với sức ép, với mặc cảm, với bất an không biết ngày mai sẽ ra sao: Với Mỹ, sắc đẹp trên hết, tài làm bếp bắt buộc, sức khoẻ phải có, và phải, phải không có ngày cuối tuần để xã hơi, ngày cuối tuần phải tổng sac̣h sẽ, tổng vệ sinh nhà cửa..tận lực làm việc nhà.”

Ánh mắt đứa con gái ngó chăm vào cái lược nhựa của Hảo đưa đi từ cái đầu lưa thưa tới cái vai xuội, rồi nhìn thẳng xuống nền nhà theo đường tóc rụng, Rồi sau năm phút, nó đi ra chỗ đó, cúi xuống mò mẫm lượm tóc Hảo rụng cho vào thùng rác.

Hảo đi thăm con gái, định bụng ở lại với nó một năm, nhưng mới được ba tuần lễ đã mò về Portland. Ta về ta ở nhà ta, dù dơ dù sạch nhà mình vẫn hơn.

Rồi Hảo điện thoại cho bạn : “Trang ơi, giữa cái tài làm việc nhà và cái sắc đẹp, tôi nghĩ rằng chính cái sức khoẻ làm việc nhà đã giúp các bà giàu có, cộng với cái mặt đẹp. Phải hai cái mới làm ra tài sản của người vợ Mỹ. Sức cần lao của Trang của Vinh, của Thảo.. không phải ai cũng bằng được! Các bà, định đúng nghiã, là mẹ hiền, là vợ quý đã áp dụng công thức Khổng-Mạnh vào việc nhà.. Còṇ tôi, phần tôi chắc chỉ xứng đôi vừa lứa với mấy ông Mỹ homeless, vô gia-cư, đi lang thang ở Downtown Portland mưa gió lạnh.”

Hảo bây giờ bảy mươi tuổi, hoạ sĩ Thái Tuấn chín mươi tuổi. “Năm anh hai mươi, em mới sinh ra đời. Ngày anh chín mươi, em mới vừa bảy mươi.”

Ngày con Thuý báo tin dữ: “Mẹ.. con sẽ cưới Jeffrey.”… Hảo tức thì điện thoại cho nó: “Con lấy chồng Mỹ, con đâm đầu vào cửa ngục rồi con ơi.. con chỉ sung sướng hơn người vợ Hàn – Quốc một chút thôi. thà ở tù cải tạo còn khoẻ hơn. Cái thằng chồng Mỹ của con, thằng Jeffrey, nó đâu phải dễ ăn dễ nuốt như người Viêtnam, nó chỉ ăn những món xúp măng tây cua gạch, chả giò, gỏi cuốn, phở Bắc, cơm chiên Dương-châu, cháo cá ám, bún chả, chạo tôm… con phải chìu chuộng nó và nấu cho nó ăn .. những món đó rất khó và kiểu cách lắm con ơi ..Con sẽ mất thì giờ, sức khoẻ, mất tâm não để phục dịch nó trọn đời. Bởi cái thằng Jeffrey chồng con, nó nhất quyết chỉ ăn những món đó thôi.. Nó không quen ăn những món khác… Rồi thì con phải ngoan hiền dịu ngọt ,người Mỹ ở sạch quá, con phải mất hai ngày nghỉ mỗi cuối tuần để tổng dọn dẹp, tổng vệ sinh nhà cửa, tổng ngăn nắp trong ngoài.. Trong khi đó, đàn ông Viêtnam tuy ở dơ một chút, tương đối ít tắm rửa.. và cả tháng chưa làm giường thay áo gối, khăn nệm một lần.. nhưng.. ăn uống thì dễ, ai cũng dễ ợt không khó chút nào hết. Nhờ đó, mình nắm giữ được thì-giờ quý báu của mình không để mất một cách đáng tiếc. ̀Thúy, mẹ muốn con hãy so-sánh hai thứ: thứ chồng Việt và thứ chồng Mỹ, thứ nào đáng lấy hơn.”

Hai giờ sau, Hảo lại gọi điện thoại cho Thúy: “Con không thể lấy Jeffrey được.. Nửa chừng xuân đời con, hôn nhân sẽ tan vỡ, Con không bằng được các cô Trang, cô Vinh, cô Nga…Họ là những người đàn bà đã lấy nhu để đương đầu với củỏng và đã huề chứ không thua những ông chồng đại cường quốc của họ…Họ có sức mạnh của người đàn bà nhược tiểu: Họ đặt luân-lý lên hàng đầu, họ tề gia nội trợ giỏi, nấu ăn ngon lành, chịu khó lau nhà và giặt đồ.. Khí giới Khổng-Mạnh đương đầu với văn minh cơ khí vật chất.. là vậy đó Thuý ạ.. Con ô-nhiễm văn minh tây phương, con thua chồng chứ không thể huề với chồng như họ được.. Họ, người Mỹ nhìn họ và thấy văn hóa Việtnam đẹp qua hình ảnh họ., qua hình ảnh chiếc áo dài họ mặc, qua mâm cơm có món canh, món xào, món mặn họ nấu.”

Ăn cơm tối xong, Hảo lại điện thoại nữa, con Thuý kêu lên : “Tại sao cứ gọi hoài vậy?..Từ nay, mẹ không nên nói mấy chữ chồng Mỹ, chồng Việt. Lấy Tây, lấy Tàu vv…đừng nói mấy tiếng đó nữa, nhiều người không ưa mẹ.”

Hảo đã thua con, không thắng, không huề . Con nhà này đứa nào cũng cứng cổ như Cộng-sản Hàn-quốc, không cách chi hơn nó được. Nhưng con Thuý vừa cho mình một số tiền để sửa nhà và thay cái máy sưởi. Và tôi đã tiêu mất vào những việc khác hết trụi mấy ngàn bạc rồi.. Làm sao đây tôi ơi..? .Nước Mỹ năm nào Trời cũng lạnh quá , nhất là hai tiểu bang Californỉa và Connecticứt…

Hảo quay lại thằng con trai : “ Chu.. con hãy suy nghĩ lại rồi ngày mai con bảo mẹ: mẹ ơi, con không bỏ học để đi làm, con sẽ chăm học.”

Sáng nay Hảo thức dậy sớm đọc một tài liệu về cách răn dạy con trẻ: Dạy con không phải dễ dàng như rủ nhau đi biểu tình đả đảo Cộng-san ởCalifornia.

Cuối tháng sau,Thằng Chu đưa cho Hảo hai trăm đôla: “Chu cho mẹ.. Chu love you..mẹ già..”

Nhìn nó dúi tiền vào tay mình, Hảo nói : “Con cũng già rồi, old son.”

Qua kẽ hở cuả lá bạch dương, nhiều tia mặt trời chiếu đại vào chiếc ghế dài, chỗ thằng Chu nằm ngủ ban đêm. Buổi sáng thằng Chu bụng đói đi làm. Xe hơi, đôi giày, bộ quần áo, nó tách rời khỏi căn nhà nhỏ nhiều bụi; buổi tối, thằng Chu diện đồ đẹp để đi chơi; đêm khuya, nó về nhà ngủ trên cái ghế dài đan bằng cây wicker ở phòng khách.

Một ngày cuối tuần, thằng con reo lên: “Chiều thứ bảy này, mẹ đi với Chu đi đổi xe mới nghe mẹ.”

Hảo cầm đôi vai nó lắc một cái: “Ông Mãnh này, con vừa đổi xe mấy tháng trước.”

“Nhưng Chu cần đổi xe mới mà mẹ, cái xe này hư lắm rồi.”

Hảo hỏi giận: “Cái xe còn tốt.”

Thằng con cãi: “ Nó không tốt đâu, cái xe nó không ngoan đâu, nó hư lắm, Chu không thương nó nữa.”

Hảo nghiêm mặt: “Con hư rồi, cái xe vẫn ngoan vẫn tốt.”

“Mẹ..credit của con xấu quá mà mẹ, Chu với mẹ đủ́ng tên chung mới đổi xe được.. Chu love you, mẹ. I love you mẹ, mẹ ngọt hiền.”

Hảo nhìn quanh nhà. Tường xiêu vách xụp, nghĩ tớimấy con kiến lửa mà thợ mộc Mỹ kêu là kiến-ăn-cây (wood eaten ant). Ngày xưa ỏ̉ Việtnam có loại kiến rừng, mình tròn và ngắn, màu nâu tươi óng ánh, trong bụng có một cục đường phèn ăn ngọt như kẹo.

Hảo than: “Sao con không bắt kiến-ăn-cây giúp mẹ, nó gặm gỗ hư hại nhà cửa.. Thằng con ông hàng xóm bắt được cả một tổ.. Con bắt kiến ăn cây cho mẹ nhờ đi con.”

Thằng con Út đang ngồi coi xấp hình cầu thủ baseball, vội quay ḷại lên tiếng bênh anh: “Mẹ ơi thôi đừng mắng nó nữa, nó mất con gái rồi, con bồ cuả nó đi đêm với thằng khác rồi…Love..tình yêu cuả nó bể ra nhủ trứng gà rồi.. Không có xe mới, không còn con gái nào thương mình nữa. Tình yêu cay như mứt gừng.”

Trong khi Hảo trợn mắt, thằng Út tiếp: “Tại sao mẹ cứ cãi lời nó vậy? Nó đau chết cả cha nó nó rồi, girlfriend của nó dộng đầu nó vào thùng rác đậy lại rồi. Love.. con chim cuckoo đã câm tiếng nói trong cái đồng hồ trên tường rồi, củ khoai môn của người Hawaii cũng sẽ thối , trái bắp có râu và trẻ, chai sauce cà chua màu đỏ như máu dơi…. Love.. chiếc thuyền tình nhỏ đã lướt đi trên biển rộng…”

Hảo nghẹt cổ như cống rãnh Sàigòn kẹt bụi rác, nhớ lại lời chồng đã chết và đã nguội: “Thằng này nó đau bụng đi cầu hoài vì nó là thi-sĩ.”

Hảo nhìn con: “Tại sao lại làm thơ? Mẹ đi Chùa, chẳng thấy con cái nhà ai làm thơ hết.”

Những góc vuông trong nhà Hảo có lẽ nhiều sâu bọ đang bò âm thầm ,những con sâu bụng không sáng như đom đóm nhưng bên trong có đốm lửa. Hảo nhìn thằng Chu, con sâu đẹp trai nhất vừa lún xuống trong bãi lầy.

Hai thằng đực ngó chăm vào mặt Hảo để moi ra một chút thông cảm, thằng anh cứ việc đùn cho thằng em nói: “Con bồ cuả thằng Chu, Thanh Thanh..dộng cái đầu ngu cuả nó vào cầu tiêu để đi ngoài với thằng Al rồi. Chu loves Thanh Thanh… Love.. tình yêu nguyên chất như rủọ̉u Volka không bao giờ sủi bọt trào ra ngoài .. First love..đã chấm hết, young love.. không còn nữa.. .thằng Chu mất xe nên mất tình yêu..Tình yêu cay như quế.”

Hảo gãi tóc thưa: “Mày nói cái giống gì vậy Út?..Nghe mày nói ..phát bệnh…. hết cả tiền đổ xăng.”

Thằng em lại biện hộ cho thằng anh: “ Nó không bằng, nó thua Al..Al lái xe vaulkswagon, Al ở appartment.. Đứa đó giàu hơn nó.”

Hảo nạt: “Al Al..dẹp cái thằng Ao đó lại đi, ao hay hồ gì cũng dẹp đi.”

Sáng thứ bẩy, thằng Chu chở Hảo đến hãng Toyota. Tuần lễ trước, cơn bão gió-O quét qua thành phố, một ít hơi lạnh còn lại huýt vào mặt kính xe. Trên con đường liên tỉnh, hai người phu lục lộ quét dọn lớp tuyết cuối muà tấp lại thành những gò nhỏ. Hảo hình dung khuôn mặt chàng Don Juan trong tình sử Mễ Tây Cơ. Người đểu này tán tỉnh từng loạt người đẹp. Lấy nhau rồi bỏ nhau lia lịa. Qua một cỏn bão, hết một mối tình. “It was a wondrous lovely storm that drove me.” Tôi đểu với đàn bà là bởi thời tiết xấu. Bởi mưa điên, bởi gió khùng. Tiếng kêu lạc quan của Don Juan, người tình đa diện là tiếng gào cuả gió trong rừng khô, tiếng gầm của nước mặn trong lòng biển, tiếng nghiến răng cuả nắng khi trời đại hạn.

Thằng Chu lay vai Hảo: “Mẹ.. khi vào mua xe, mẹ cứ để Chu coi xe và lựa chọn, mẹ không có ý kiến gì hết nghe mẹ.”

Hai mẹ con theo chân người môi giới đi khắp khu đất khổng-lồ giăng cờ đuôi- nheo để coi đủ mặt những chiếc xe hơi cũ nằm chờ.

Thằng Chu bằng lòng đổi chiếc Ford của nó để lấy một chíếc Fiat trần bằng vải thô.

“Muà này hết mưa rồi, loại xe này bán dễ, lọt tới lọt lui dễ lắm trên thị trường..Mấy tháng sau mình lại đổi cái xe khác để lái khi trờii lạnh…Don’t worry, mẹ. Love you mẹ già ơi. Mẹ, don’t hate me.”

Ánh sáng trong đôi mắt con ấm như nắng dịu, tia vui và tuổi trẻ hừng lên từ cửa sổ tâm tư con, đang ngó vào đôi mắt mờ sâu của mẹ. Những chấm tinh anh nhỏ của riêng con đang chiếu vào mẹ để mẹ thấy được bản chất con, tính xấu và tính tốt trong con, cái thực và cái hư trong ý nghĩ con. Khi con thôi phô bày bản chất con trong trong đôi mắt mẹ, mẹ vẫn thấy trong dòng sông thị giác sâu đẹp của con, bộ mặt của mẹ thật nhỏ nhưng rõ nét, một bộ mặt mà khi nhìn vào những tấm gương trong buồng tắm thì ma chê qủy hờn nhưng bỗng chợt đẹp khi nhìn vào mắt con. Mắt con là tấm gương tốt nhất mà mẹ được soi mặt.

Thằng Chu nói: “Chu chở mẹ vào chọ̉ Mỹ mua đồ ăn, Chu cho mẹ 35 dollars, Chu love you mẹ. Mẹ đừng ghét Chu nghe mẹ.”

Hảo nắm chặt lấy tay nó: “Mình vô chợ Vietnam mua bao gạo nàng Hương đi con.”


“Mẹ.. chợ Mỹ bán gạo Homai mỗi bao rẻ hơn gạo Saigon 11 dollars.”

“Nhưng mẹ quen ăn gạo hoa nhài..ăn gaọ nàng Hương lâu năm rồi không bỏ được.”

“Gaọ Mỹ cũng là gạo Jasmine dài mà mẹ…”

Hảo xua tay: “Nhưng gạo Homai có nhiều chất ngọt nên cơm Homai chỉ để được hai ngày là thiu.”

Hảo ngậm ngùi nhớ hạt gạo Homai ngày nào, ngắn bằng nửa hạt gạo nàng Hương, tròn và trong, Mỹ viện trợ sang Viêtnam nuôi quân dân và công chức sống còn với chiến tranh.

Vào chợ, Hảo cầm chai tương Cự-đà lên coi thấy giá đắt quá vội bỏ xuống ngay. Một loại cereal trẻ con ăn sáng mang tên bác-sĩ Kellogg có chất đậu nành, nhưng người Mỹ vẫn chủa chịu ăn đậu hũ tức là tofu. Hảo đang chọn mấy bìa đậu rán thì thằng Chu bước đến kêu: “Mẹ, mình đi mua cơm rồi về.”

Hai chữ gạo và cơm thằng Chu đều gọi là rice. Theo nó đến chỗ bán gạo, Hảo vốc một nắm lên giảng: “Đây là gạo. Hạt gạo khi nấu chín rồi thì trở thành hạt cơm. Cơm là gạo khi đã nấu cạn nước, gạo là cơm khi đang còn sống. Con phải nói cho đúng là mua gạo về nấu cơm chứ con không được nói là mua cơm về nấu gạo, mua xôi về nấu nếp.”

Thằng bé vội hỏi: “Vietkieu, chữ Vietkieu có nghiã là gì?”

“Là người Vietnam sống ở nước ngoài, chữ này mới đặt ra sau 1975.”

Thằng con lại hỏi: “Vietkey là gì?”

” Là software không cầm lên đủọ̉c, không đặt xuống được, để nhét vào computer.”

Về tới nhà, Chu diện xe mới đi chơi quá một giờ khuya. Hảo ra ngõ đứng đợi. Ngày mai chủ nhật đầu tháng, nhà băng gọi đi làm overtime. Tuần lễ đầu cuả mỗi tháng, nhân viên part-time như Hảo đủọ̉c nhà băng cho làm cả ngày dài. Trong vòng 5 năm, nếu đánh máy đúng hơn và trả lời điện thoại đỡ hỏn, Hảo sẽ được phỏng vấn để vào full-time.. Năm năm làm việc bán-thời-gian ở nhà băng, xe thì cũ, tuyết vừa xuống đã chết tiệt máy ngay. Nhà băng chỉ cho phép nhân viên được vắng mặt một ngày trong muà bão tuyết mỗi năm. Ngày xưa Sàigon tôi sợ hoả tiễn 122 ly, sang đây thì ghét tuyết.

Đứng đợi thằng con tới hai giờ khuya, Hảo cần phải ngủ nên vào nhà gọi cảnh sát. Ông cớm bên kia đầu giây hỏi:

“Con bà bỏ nhà đi từ bao giờ ?”

“Trưa hôm nay.”

“Con bà mới đi khỏi nhà mười hai tiếng, bà không được trình cảnh sát ngay. Nếu con bà mất tích sau 48 tiếng, khi đó bà mới được báo cho cảnh sát biết.”

Sau khi cơn bão cuối đông quét qua đô thị Ngọc bích, không khí bắt đầu ấm. Đêm nâu màu cà-phê, ngày trắng nhạt đẫm trong nắng lụa vàng, và tình yêu vẫn xanh non nhủ trái thanh long và trái kiwi. Ánh sáng trong nhà cũng vui tươi như ở ngoài trời. Trên bức tranh tĩnh vật cuả họa sĩ Jacky Winsdor hình nhủ những chuyển động tròn vẫn lăn đều.

Một buổi tối, mấy mẹ con ngồi ăn món mì xào với đậu rán thịt băm nấm giá sống… Hảo gắp một miếng đậu phụ đưa lên giảng:

“Hơn năm nghìn năm về trước, các nhà nông Trung- hoa khám phá ra cây đậu nành , tức là cây đậu tương.”

Thằng Chu nuốt xong một đĩa mì nhỏ rồi bảo: “ Mẹ..Chu quit job, Chu không làm cái nghề này nữa, clerk 2 ăn lương cuả chính phủ đói quá. Chu..bored lắm rồi, lắm khi Chu phải thông dịch cả ngày.”

Con Thuý hốt hoảng kêu: “ làm việc công sở, ăn lủỏng chính phủ không bao giờ bị lay off và bị đuổi, mỗi năm đều được tăng tiền..”

Hảo bảo: “Bác H.Q. tìm việc này cho con, con bỏ, bác sẽ buồn, chị Thuý mày phải tự tìm việc lấy. Ngoài ra, cái nghề thông dịch viên giúp mình được tiếp xúc với đồng hương, mình sẽ học thêm tiếng Việt.”

Thằng bé lắc đầu : “Chu xin làm với hãng bán xe hơi Ford.”

Con Thuý tức giận: “ Ngu. Mày sẽ chết đói vì nghề này không được trả lương, chỉ khi nào bán được chiếc xe nào thì mới được ăn hoa hồng.”

Đôi tai Hảo lùng bùng nghe tiếng kêu oan cuả con ếch mẹ một chiều xưa khi thằng Ét bị đụng xe, tiếng nghiến răng của ngàn cánh bướm bay ra từ một tác phẩm cuả nhà văn Wei Hui, tiếng nói của cơ quan tìm việc làm và loa phát thanh của sở thất nghiệp vọng từ Vietnam sang.

Hảo đặt đĩa mì xuống: “Con dại rồi, tự nhiên nhẩy vô làm cái việc không lương ..bán xe hơi, bán bảo hiểm..đả đảo hai cái nghề đó.”

Mỗi lần ngang qua mấy cơ sở bán xe hơi, chỉ cần nhìn từ góc cuả một con mắt thôi, Hảo cũng đã thấy xe hơi đậu đầy, đông như đoàn quân Đồng-minh đang thao-diễn trong ngày tưởng niệm tử-sĩ Memorial Day.. nhưng chẳng có hồn ma bóng quế nào hiện ra mua cả…

Thằng Chu hăm hở xua tay: “Mẹ không biết gì hết.. Dany bạn Chu làm nghề này, mỗi tháng kiếm được hơn sáu nghìn đôla. Chu sẽ đem về cho mẹ hai nghìn đollars…để mẹ sửa nhà, nới rộng bếp , làm thêm phòng ngủ. Chu love mẹ già.”

Con Thúy hầm hừ: “Mẹ đừng nói chuyện với nó nữa. Mẹ không changeđược nó đâu, không sửa đổi nó được như sửa cái đồng hồ chạy cho đúng giờ..nó sẽ chỉ là một baby cho đến khi nó 40 tuổi..Chu ơi, mày không thương mẹ.Trên đầu mẹ tuổi già đã đến rồi, sức khoẻ của mẹ lúc off lúc on.”

Hảo phụ hoạ: “Đúng, nha- sĩ bảo trong miệng mẹ cái lưỡi đã bắt đầu trắng và răng của mẹ đã bắt đầu mất xương.”

Con Thuý không nói thêm, Hảo tiếp: “Đừng bỏ cái job này bắt lấy caí job khác Chu ơi. Cái nghề này nhàn, có tiền, con sẽ mua được những trái cây ngọt xớt nhủ trái cherry, trái fig, trái kiwi..còn nếu làm nghề bán xe hơi, con chỉ đủ tiền mua chuối mà ăn thôi.”

“Nhưng Chu chỉ thích làm nghề bán xe hỏi thôi.”

Hảo quát: “Đồ ngu..Vậy là suốt đời mày chỉ ăn chuối mà thôi.”

Rồi Hảo quay qua phân bua với con gái: “Nó cũng không đủ tiền mua nấm mà ăn, suốt đời nó cũng sẽ chỉ ăn cà tím egg plant, cà dái-dê, và rau dền rẻ tiền.”

Thằng Chu đi làm ở hãng Ford đủọ̉c 8 tháng thì cái xe bị nhà băng tịch thu. Con Thúy xin được chân phụ bếp ở đại học Washington đem tiền về sửa căn nhà sắp sập vì già quá một trăm tuổi. Những bức tường bằng gỗ thông không cứng, bốn tấm vách vôi không được tráng plaster. Trần nhà quá thấp, người cao trên sáu feet có thể với tay sờ được. Hảo mua giấy hoa về dán tường và ước mỏ sang năm sẽ thay thảm mới. Mấy mẹ con đồng ý lấy cơm tháng ăn cho tiện, nhủng ăn được chừng 10 ngày thì dẹp cà-mèn lại không xách đi lấy cơm tháng nữa.. khôngcách chi nuốt thêm cơm tháng được nữa, tuy rằng cơm tháng rẻ.

Ông hàng xóm Mỹ đen cho Hảo một cái tủ nhỏ bằng gỗ walnut có hai ngăn đựng quần áo nhưng bị kẹt không kéo ra đóng vào được.

Ông ta chỉ tay vào mặt tiền nhà Hảo: “Cái nhà này cần những cái liếm của những thùng sơn”

Ông ta đi Canada thăm con gái một tuần lễ trở về bảo Hảo : “Con gái tao rất bằng lòng chuyện này.. Mày lấy, mày..làm vợ tao nhé Hảo..Okay?. Tao lấy mày làm vợ hiền.. sống chung tình già.”..

Ngày vẫn kéo mặt trời lên cao, đêm vẫn múc ánh trăng từ đáy giếng, mấy thằng con Hảo vẫn tiếp tục có một tương lai mờ đục..Rồi mùa đông trôi qua, bầu trời tan hết phiền não, chùm chìa khoá reo xủng xoẻng trong túi áo thằng Chu, chiếc xe bán ice-cream rung chuông leng-keng chạy vào xóm nhỏ, trái bắp vàng trồng ở thị trấn Kent ngọt một niềm vui, quả dưa leo màu lục-hà nhai dòn nhưng nhạt thách , bầy ong lửa hút mật từ cây clover và hoa egg-plant. Hảo nhìn ngắm cỏ thơm im lặng vào thiền và giải mây màu da cam sunkit vàng trong như thạch xoa quàng qua chân trời. Hảo nhìn ngắm mặt hồ lăn tăn sóng gợn và lá bay từ muôn phía. Rồi muà thu lại tới, lá phong màu hồng thắm như màu tôm khô người về Viêtnam đem sang, lá phong có khi vàng tươi và có khi vàng sẫm như màu gạch cua trôi trên nồi bún riêu, như múi quýt clementime mang sự tích một chuyện tình đứt đoạn.

Thằng Chu bảo Hảo: “Mẹ..Chu đi Canada chơi với Dany một tuần lễ.”

Sao con cứ tiêu phí thì giờ, không tiếc nuối gì khi nhìn hai cây kim nhọn nhích qua những con số trên mặt đồng hồ. Hãy tưởng tượng con đang dăng một giải lụa dài giữa hai cây cọc trước mắt con. Giải luạ này tượng trưng cho chiều dài của cuộc đời con. Hãy trừ bớt thời thơ ấu, trừ bớt thời gian cuả tuổi già lẩm cẩm, và loại ra những kỳ nghỉ hè ở không, những lúc đau ốm, thì giờ giải lao.vv. Đáp số của bài toán trừ là: con chỉ còn lại 20 năm để hoạt động. Mẹ lấy một thí dụ khác: Một ngày dài bao nhiêu? 24 tiếng đồng hồ thôi.. Hãy trừ đi thì giờ ăn trủa, những giờ khắc cuả đêm đen dành cho giấc ngủ, giờ chỏi, coi tivi..con chỉ còn lại tám tiếng đồng hồ mỗi ngày để làm việc, để năng động…Chúng ta có 20 năm một đỏ̀i, 8 tiếng đồng hồ mỗi ngày để làm ăn. Con phải hoạt động, con không được thụ động. Con phải active, con không được négative.

Hảo nói: “Mẹ không muốn con đi chơi.”

Thằng Út xen vô: “Mẹ để cho nó đi Canada chơi đi. Nó vừa mất con gái mà mẹ.. Tình yêu dơ dáy như dầu hôi xăng nhớt. Tình yêu khó như English học không vô. Tình yêu dữ như cơn bão Katrina.”

Hảo nhìn thằng con thi-sĩ thất nghiệp: “Yêu là són ở trong quần một ít.”

Buổi chiều, một bạn cũ gọi điện thoại: “ Còn nhớ Vĩnh không? Vĩnh ngày xưa dạy đại học Huế đó mà. Ông ta có sáu đứa con thì năm thằng con trai đậu 5 cái bằng bác sĩ, 5 ông đốc- tờ, 5 ông MD đấy nhé, médical doctor đấy nhé. Một đứa con gái thì học hành cũng một vừa hai phải thôi nhưng cũng lấy được một ông tiến-sĩ, Ph.D….ghê chưa..”

Bạn ngừng lại chờ Hảo trả lời, nhưng Hảo không… Vĩnh ngày xủa dạy đại học, còn tôi thì dạy trung học đệ nhất cấp, giai cấp chênh lệch.

Bà bạn tiếp: “Con cái cuả bạn bè bây giờ đỗ đạt bằng cấp, nhà nào cũng có con học giỏi.”

Hảo trả lời: “Con ngủỏ̀i ta thì toàn là MD với Ph.D, còn con cuả ‘tui’ thì toàn là ĐM.., đ.m chúng nó làm mẹ già mất mặt.”

Bạn cũ chợt kêu: “tại sao tự nhiên Hảo lại xủng “tui” như vậy? dữ quá.. Mình là bạn mà.”

“Chưa biết ai dữ đa.”

“Ai nữa? Hảo bị stress.. Con người Hảo thiếu một hơi thở của phép tu Thiền.”

“Liên.. tập một hơi thở, mất bao nhiêu thì giờ ? Thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài..thở ra..”

Chàng em trai Hảo cũng bảo: “Hãy bỏ thói quen đọc báo giấy và phải tập đọc báo maṇg.. Internet. Chị cứ đọc báo giấy và sách giấy hoài nên chị dốt. Sao chị không thưởng thức internet, không si tình cái computer, coi nó như tri kỷ.. chị cần phải lên internet để đọc những bài viết về Đạo Phật rất giá trị.”

“Ừ, Chị sẽ lên mạng, đọc thơ mạng, văn mạng, báo maṇg..tôi xin thề và hứa từ ngày mai sẽ không đọc một câu, một chữ gì trên giấy nữa mà chỉ đọc trên mạng mà thôi. Trên cái desktop cuả tôi và trên cái laptop của thằng cháu nội.”

Buổi tối, tôi vừa ăn cơm vừa coi tivi và DVD, bên cạnh con mèo đen. Trên màn hình Little Saigon, đêm nay có chương trình “ Những băng nhạc lịch sử”

Hảo nghĩ thầm thằng Chu giờ này đang ở Canada, bỗng điện thoại reo:

“Hi..My name is..Tôi tên là Angela, xin hỏi Chu Nguyen có ở nhà không ạ?”

Hảo trả lời: “Nó đi xa và chỉ trở về sau một tuần lễ.”

Hảo và con mèo vừa mới trở lại màn hình thì một cú gọi khác: “ Hello, my name là Marina.. tôi là girlfriend của Chu Nguyen, tôi xin được nói chuyện với nó.”

Hảo lịch sự trả lời: “ Nó đang ở Canada, vắng nhà một tuần lễ mới về”

Tivi nhỏ ́lướt sang màn trình diễn y phục cuả các mỹ nhân xưa :Tiểu thư Mỵ nương xiêm y đỏ lửa ra lệnh đuổi cổ Trương-Chi xuống thuyền đánh cá nên Trương Chi chết, Mỵ-Nương khóc, một giọt lệ đá lăn xuống khối u tình..

Công chuá Huyền Trân vén rèm vẫy tay áo thụng gạt nước mắt giã từ Chiêm-quốc trở về Việtnam sau khi xong việc nước và chưa xong tình nhà.

Người vẽ kiểu áo, Trần-thị-Lai-Hồng,còn nghiên cứu y phục Trống đồng và đường nét cuả chữ Nôm.. đã phát hoạ 6 bộ võ phục dành cho Nữ-tướng Lê-Chân, hai vì vua-nữ họ Trủng, và Triệu Trinh Nủỏng.

Sân khấu chuyển sang phần thời trang mới: Chiếc áo dài Viêtnam đẹp như một niềm tin lạ, một hãnh diện muôn đời và giá trị cuả nó quý báu hơn những danh lam thắng cảnh tại Việtnam dưới mắt du khách. Ngực, eo, mông và hai tà áo gầy, thân hình các thiếu nữ thanh thon, cong.. trông nhủ dài ra..ẻo lả nửa như khêu gợi dục tình, nửa như nhẹ bay theo hồn bướm mơ tiên khi hai tay mềm mại co duỗi dơ lên hạ xuống.

Chiếc áo dài di chuyển làm mờ tối tất cả những bức tranh tĩnh vật treo trên tường và ngoại cảnh bao quanh. Băng nhạc thành công vì chiếc aó dài chứ hoàn toàn không phải nhờ nhũng bài hát chậm tiến.. (Có nhủ̃ng nhạc phẩm cũ và chậm, ca-sĩ há miệng hơi lâu, cái lưỡi trắng bày ra.)

Ngàn năm sau, truyện Kiều có thể mất, nhưng áo dài Việtnam còn, nước việtnam còn..

Bỗng nhiên, Hảo nhớ ại năm xưa nhà văn Tường-Hùng đã nói: “Chiếc áo dài Viêtnam khiêu dâm hạng nhất.” Câu phê-bình này áp dụng vào cái quần trắng thì có lẽ đúng hơn: Khi một kép đưa tay đỡ một đào sắp té ngã vào lòng chàng, tà áo dài hất sang một bên, cô gái co một chân lên, có thể cái quần xì-líp ba góc hiện ra.. Hình ảnh này thật đẹp mắt và khán giả vỗ tay khen.. Hãy kết tội cái quần và tha cho chiếc áo dài. Cái quần du nhập qua Tàu vào thế kỷ 17, sau đó xuống Viêtnam. Người Viêtnam bắt đầu mặc quần từ thế kỷ thứ 18, năm 1744 dưới thời Chúa Võ vương Nguyễn Phuć Khoát.

Tuần sau, thằng Chu đi chơi về, nó sẽ được coi băng nhạc áo dài Việtnam..

Bỗng điện thoại lại réo, Hảo và con mèo vội rời cái tivi, chạy ra nghe: “ Hi, my name is Lan Hương, xin lỗi có Chu Nguyen around there?”.

Rồi điện thoại im, và từ ngoài trời một cỏn mưa đá lật đật đổ xuống. Hình như mưa đá năm nào cũng chỉ rơi hai hoặc một lần trong thành phố báo tin miền quê muà màng sẽ thất thu và lũ chim đã sửa soạn hành trang bay đi trốn tuyết rồi. Màu mưa đá trắng tinh như sữa tươi và hạt mưa tròn cứng, không tình cảm khác với mưa Huế buồn như khóc.

Rồi Hảo bỏ quên cơn mưa ngoài trời để ăn cơm và coi tivi-Sàigon. Màn ảnh nhỏ chuyển qua mục “sức khoẻ là vàng”.Hai bác-sĩ Lê Đức Trường Sinh và Lê Đức Xuân Tô khuyên người bệnh hãy đứng đắn khi đau, nghĩa là phải uống thuốc đúng theo toa bác-sĩ, uống cho hết cả chai thuốc chứ không được ực ực vài ba viên thấy bớt bèn bỏ, và hãy đề cao cảnh giác đủ̀ng ăn cơm quá nhiều: Cơm chỉ là cơm khi mới từ nồi xới ra chén, nhủng khi đã đớp vào miệng và nhai nhuyễn rồi, thì hạt cỏm đã mất trinh vì nước bọt, đã trở thành maltose, tức là đường. Như vậy, người Viêtnam quá ngọt, ngọt hơn ai hết trên quả đất tròn này, hãy tự hỏi phải chăng trên đường đời ngọt chua này, họ đã lầm đường vì quá yêu cơm và bún? Người Viêtnam mỗi ngày tì tì ăn ba bữa cơm, hãy tự thấy rằng trong nước tiểu vàng tươi của mình có rất ít muối Morton. Nước tiêủ phải mặn mới là nước tiểu tốt. Hảo đang lo sợ sẽ đau bệnh đái đường thì điện thoại lại ré:

“Hi..my name is Joanne,..lý do tôi gọi điện cho Chu Nguyên là để “chắc ăn” với him về cái hẹn cuối tuần.”

Hảo bỏ ống phone xuống, đến bên bếp gắp mấy miếng thịt ba-rọi chiên dòn đem ra ngồi ăn trước cỗ tivi. Ông bác sĩ gia-đình, ông ‘my doctor’, khuyên Hảo đừng ăn mặn ăn ngọt ăn béo. Vừa mới nhai nuốt được một miếng choresterol ba rọi vào bụng thì điện thoại lại réo:

“Hi.. my name is Nicole ..Tên tôi là Nicole girl friend của Chu Nguyên.”

Hảo và con mèo nhìn nhau. Điện thoại lại tiếp tục đưa ra một cái tên khác: “Hi.. my name is Kim Duyên..”

Mấy ngày sau, thằng Chu về, vẻ mặt tươi phây phây như trò “Xuân đi học coi người hớn hở trong sách “Quốc văn giáo khoa thư.” Nó lắc vai Hảo:

“Chu hết tiền rồi, Danny cũng hết tiền rồi.. Chu nhớ mẹ, Chu về với mẹ. Chu love you mẹ. Chu miss mẹ. Mẹ, Chu đói bụng.”

Hảo nấu vội tô xúp đậu và chỉ vào mặt nó: “Mày vừa mới đi khỏi, có 6 đứa con gái điện thoại lại hỏi. Con đượi nào cũng xưng là girlfriend của mày, là bồ tèo, là cục cưng của mày.. Ui chao, mày có tới 6 con vợ không cưới. Trong một buổi tối, mày có sáu cái hẹn với sáu con công chúa không biết con cái nhà ai.”

Từ cửa sổ phòng khaćh, Hảo nhìn cái bồn tắm bằng cao su cuả nhà hàng xóm bên phải. Đối diện là khoảng đất bà láng giềng bên trái đặt cái lò nướng thịt. Sau lưng là cảnh tri’ phát ra âm nhạc to tiếng cuả các chàng thanh niên Mễ.

Hảo nhìn thằng Chu. Con có cái hẹn với mẹ từ kiếp trước..? Con yêu mẹ, tình con lắng đọng như cặn rượu Volka. Rượu Volka có bản chất sắt thép từ liên- bang Sô-Viết, không bao giờ chịu đông lạnh dù ngâm trong nước-đá-cục cuả Hiệp-chủng-quốc Hoa Kỳ.. Chỉ có tình con với mẹ mới kiên cố như vậy chứ tình ái ở ngoài đời?.. Anh cho em muà đông. Anh cho em 365 tiếng thở dài mỗi năm.

Biết đến bao giờ con quay về ăn tất cả những bữa cơm gia đình, và mỗi buổi sáng, con xách những túi giấy đựng đồ ăn trưa bới từ nhà tới sở và con bỏ tật ăn khuya…

Hảo điện thoại cho chàng em. Hắn ở ngoài vườn, cô em dâu trả lời. Hảo hỏi: “ Mấy thằng con trai của chị có hy vọng lấy được vợ viêtnam không em?”

“Khó lắm chị ơi, ngay như hai thằng con của em cũng rất ít hy vọng..”

“Sao kỳ vậy em? Đàn ông Viêtnam cao giá lắm mà.”

“Cái tư tưởng đó cũ và mốc meo rồi. Mười lăm năm về trước thị̀ đúng, nhưng bây giờ thì xẹp rồi..Tụi con gái mới lớn bây giờ chúng nó quốc tế , đầu cứng cổ cứng không uốn cong như cành hoa cúc được, còn.. ba cái thằng Mỹ bây giờ thì quá ma lanh., tụi Mỹ nó khoái gái Á-châu thân hình thanh thanh thon thon, con nào thanh thanh thon thon thì tụi nó dợt trước. Đàn ông Vietnam bây giờ tội lắm, mặt mày cứ cúi xuống buồn len lén.. số đàn bà con gái mất vào tay Mỹ quá nhiều rồi..”

Hảo cãi: “Khó tin quá.”

“Chị cứ ở nhà hoài nên đầu óc không cập nhật hóa, không biết chuyện gì đang xẩy ra .. Đàn ông Viêtnam rất sáng giá, đó là chuyện xẩy ra ngày hôm qua…Nhưng hôm qua đã trở thành lịch sử rồi, cái xẩy ra hôm nay mới là cái đáng nói tới, và ngày mai thì còn trong sương mờ.. Mấy con bé thanh thanh thon thon ..tụi Mỹ nó xí phần hết rồi..Quốc gia Việtnam đã dần dần mất bao nhiêu người đẹp rồi.”

Hảo hỏi em dâu:

“Em..chị có tin được lời em nói không?”

Hảo bỏ điện thoại xuống. Nếu quả thật như lời em dâu nói , nếu đúng như rứa thì thằng Chu sẽ lấy một con nhỏ nào? Một con nhỏ nhưng mà to con.. sồ sồ, sề sề chứ không phải thanh thanh thon thon?

Một đêm khuya, thằng Chu đi làm về bảo:

“Mẹ..Chu lớn rồi, Chu move out, Chu không ở với mẹ nữa.. Mỗi tuần lễ, Chu sẽ về nhà thăm mẹ hai lần. Chu love you..lắm lắm. Mẹ hiền..mẹ ngọt hiền.”

Tôi nếm nỗi cô đơn trên lưỡi tôi. Có phải mắt tôi chỉ nhìn thấy có những đứa con trên cuộc đời mà thôi bởi vì người đàn ông đã quay lưng? Tôi đã ngừa thai, đã phá một cái thai trong bụng khi chưa đầy hai tháng, nhưng nếu một lần tôi đã rặn ra một đứa con, tôi phải nuôi nó no ấm, dạy nó đúng phép và chờ đợi một tương lai.

Ngày mai con ra riêng, không ở trong căn nhà này nữa. Ngày mai mẹ sẽ giận con. Mẹ giận con, hai bàn chân mẹ ướt lạnh trong đôi vớ dày mẹ đang mang. Mẹ sinh ra con, nghĩa là đẻ ra một người chứ không phải đẻ ngay tại chỗ một bác sĩ, một kỹ sư, một dược sĩ, một giảng sư, một phi công vv, nếu con trở thành một trong những người đó, nếu con đạt được một địa vị nào đó trong xã hội, ấy là do con tự tạo, tự làm lấy cho chính mình, với sự ích lợi của lời mẹ dạy, người hùn vốn cho con vào đời. Con không bẩm sinh với một cái chí lớn khi lọt từ lòng mẹ vào đời mà chính con phải tự luyện lấy cái chí đó khi bắt đầu khôn lớn và hiểu biết.

Ngày 29 tháng 8 năm 2007


Túy Hồng

** Theo nhà văn Tô Hoài thì đây là bản nhạc Phần Lan, Đào Vũ dịch từ lời Trung Quốc, tài liệu tại đây:











phỏng vấn nhà văn


T Ú Y H Ồ N G

P H Ụ N Ữ và V Ă N C H Ư Ơ N G



Hoài Nam: Trước khi vào chuyện, xin chị cho biết vài nhận định về văn chương. Như Jean Paul Sartre từng thảo luận “ Qu’est-ce-que la littérature ? “ Văn chương là gì ?

Túy Hồng : Xin mượn lời Phan Kế Bính : Văn chương là tất cả vẻ đẹp trong trời đất.” Trong dịp nói chuyện này, văn chương là văn và thơ.


Hoài Nam: Nói về phụ nữ, xưa cổ nhân dạy : “cái nết đánh chết cái đẹp.” Bây giờ, người ta nói :”cái đẹp đè bẹp cái nết,” nên vô số các bà các cô chăm chút sửa sang trau dồi nhan sắc, tìm đủ mọi cách quyến rũ qua lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành động … hoặc ăn mặc bắt mắt khêu gợi … mà không chú trọng đến việc trau dồi trí óc bằng sách vở chứ đừng hòng nói đến làm văn chương. Chị nghĩ sao về vấn đề này ? 

Túy Hồng : Lúc còn học trường Quốc học Huế, anh bạn Nguyễn Loan ngồi bàn cuối kể rằng những ngày chúa nhật anh cùng mấy anh khác leo lên thượng thành cửa Thượng Tứ, đặt cái ống nhòm dòm vào hầu hết các nhà con gái loanh quanh. Các vua Triều Nguyễn cho xây Thành nội gồm các Cửa Ngọ Môn, Cửa Ngăn, Cửa Thượng Tứ v.v. … là để có những địa điểm cao nhìn xuống kiểm soát toàn diện thành phố. Nhà cửa Huế thường có một miếng vườn và cái bếp đằng sau gió lùa gió lọt. Anh thợ nhòm Nguyễn Loan nhận xét tận mắt từng mỗi hoạt cảnh từ cái bếp và khu vườn nhà các người đẹp : người ngồi giặt áo quần cạnh bể cạn là bà mẹ; người quét rác là mẹ; người đem áo quần đã phơiõ khô vô nhà xếp lại là me;ï người chẻ củi là mẹ, người lãnh hết việc nấu ăn là mẹï. Anh Nguyễn Loan kêu lên : “ Gái Huế thiệt là đoảng, bao nhiêu việc nhà mẹ làm hết !” 

Sau đó nhiều năm, tôi vào Saigon và lập gia đình. Cái bếp của giới trung lưu Saigon quả là cái hầm. Trờ Saigon nóng mà ướt. Trời cay và nắng chói loá. Cái bếp là chỗ hầm hơi nhất trong nhà. Người nội trợ mỗi ngày đi chợ về nấu ăn với cái bếp dầu hôi lợm giọng. Dầu hôi là dầu không thơm lửa phựt khét lẹt nên phải canh chừng. Thứ bếp sắt đó có tám cái bấc (wick) – người Huế gọi là tim – vặn lên vặn xuống nhiều lần là kẹt. Mỗi buổi chiều, người nội trợ phải vào bếp sớm, dùng kéo cắt bỏ phần cháy của tám cái bấc, vứt đi, lau chùi cho sạch và đổ thêm dầu. Đã là đàn ông Việt Nam thì không phải cho ăn gì cúi đầu ăn nấy, mà, mỗi bữa cơm, trưa cũng như chiều, đều đòi hỏi món canh, món xào, và món mặn.

Qua hình ảnh người mẹ của cố đô Huế và người vợ của giới trung lưu thủ đô Saigon, thì cái nết đã đánh chết cái đẹp, cái sửa sắc đẹp, cái son phấn áo quần; nhưng trên thực tế - trên sự thật và không gì ngoài sự thật - cái nết đã thua cái đẹp bao nhiêu keo ? Cái đẹp không những đè bẹp cái nết mà còn đập dẹp luôn cả cái tài, nói chi tới văn chương ! Ngày xưa Trương Chi, vì đâu anh không lấy được con gái quan thừa tướng, và vì đâu anh đã chết tương tư ?




nét chữ của nhà văn Túy Hồng




Hoài Nam: Chị có nghĩ rằng phụ nữ làm văn chương cũng là một cách “làm đẹp,” đặc biệt là làm đẹp đầu óc ?

Túy Hồng: Văn chương là phô bày những gì người cầm bút đã chứng kiến từ đời sống bên ngoài và những gì người cầm bút cảm nghĩ. Hai nhà, văn và thơ, cùng tả cảnh gia đình, phơi bày bất công xã hội, phản đối đàn áp, ca ngợi hoà bình … Với nhiệm vụ đó, người làm văn chương thật rất có công và có ích. Làm văn chương không phải là đi những bước nhàn du trên con đường vui mà phải khổ công tìm kiếm chất liệu để sáng tác. Trong hoàn cảnh người đọc không mua sách và báo chí bám vào quảng cáo, người cầm bút có nên nản lòng hay nên phải nhân tình yêu văn chương lên nhiều lần ?

Nhiều người tự hỏi tại sao các nhà văn âu Mỹ lúc về già vẫn viết nhiều và viết hay. Tại sao các văn thi sĩ Việt Nam ta cứ càng ngày càng đuối sức sáng tác, viết yếu đi ? Và tại sao lại có những người cầm bút cứ nhẩy vào viết lách một vài tác phẩm rồi lại nhẩy ra, như ông tướng Tàu Trình Giảo Kim vung lên ba búa rồi bỏ chạy vậy ? Các nhà văn của các cường quốc thế giới học cao, đọc nhiều và đi du lịch khắp nơi nên tài năng thiên phú của họ kéo dài cho đến già không hết thời. Văn thi sĩ của quê hương nhược tiểu chúng ta nói chung không có được một trình độ trí thức cao như họ, tuy chúng ta cũng cố gắng làm đẹp đầu óc như họ….

Viết là tự trói mình vào một cái nghiệp, đòi hỏi người cầm bút cần phải bền lòng dù công việc này nó ăn tươi nuốt sống tất cả thì giờ, mà cuộc đời vốn ngắn ngủi.


Hoài Nam: Chị là người phụ nữ lấy văn chương làm sự nghiệp. Những động lực nào đã thúc đẩy chị chọn văn nghiệp ? 

Túy Hồng: Ngày còn học Đồng Khánh Huế, thầy cô thường lấy những bài luận văn được chấm điểm cao nhất của Bùi Bích Hà đọc cho cả lớp nghe. Hết năm đệ tứ sang trường Quốc học, giáo sư tài hoa Lê Hữu Mục khuyên học trò mỗi khi đọc sách gặp một câu văn hay, nên ghi vào sổ tay.

Tôi còn nhớ một vài câu đã ghi khi cuối tuần họp Gia đình Phật tử : “Có ngón tay thật cần thiết để chỉ vào vầng trăng. Nhưng khi đã thấy được ánh sáng, ta còn nhớ chi đến ngón tay nữa!” Hoặc : “ Trời mưa xuống hoài. Lá rụng đè lên lá. Mưa rơi đạp lên mưa. Gió xô gió ập vào lưng tôi. Có bao nhiêu khúc xương của tôi đã nhão ra như vôi ?” 

Đó là trung tâm điểm nỗi buồn thân phận muộn màng. Đó là đề tài tối cao tôi dùng để viết văn, Khi mưa rơi và gió thổi, tôi thấy lá đàn áp lá và giọt mưa này đập tan những giọt mưa kia. Khả năng tả cảnh của tôi chỉ đạt được nhiêu đó thôi. 

Gia đình tôi ai nấy cùng mê đọc truyện Tàu và truyện kiếm hiệp. Thuỷ Hử, Tam Quốc Chí, Thần Điêu Đại hiệp, Tiêu Thập Nhất Lang …. Chị em tôi sống theo nhịp tay đong đưa mềm mại của vũ điệu T’ai Chi Ch’uan, tức Tài Chí, thế võ cao siêu nhất của người chinh nhân trong giáo phái Lão Trang, điệu múa của người cầm kiếm ôm gươm theo đuổi nghiệp binh đao, môn võ công hàng đầu của người đấu kiếm trên thượng đài và của người chiến sĩ mê theo tiếng gọi của sa trường ngày xưa. Chúng tôi có căn nhà xây trên một vị trí đẹp nhất nhì thành phố Huế là con đường Phan Chu Trinh trông xuống dòng sông An Cựu.

Tôi thương nghệ thuật và yêu quý tiền nhân đến độ khi Nhất Linh chết, tôi để tang ba tháng. Dấu hiệu để tang là miếng vải đen nhỏ bằng ngón tay út gắn dưới vai áo dài trắng mặïc đi dạy học.

Mấy điều vừa kể không biết có phải là động lực thúc đẩy tôi chọn nghề viết ? 



Hoài Nam: Xin chị kể vài chuyện vui nhỏ trong thời bắt đầu làm văn chương. 

Túy Hồng: Thuở ban đầu, tôi gửi đăng báo Phổ Thông hai mẩu chuyện khôi hài. Nhà thơ Nguyễn Vỹ cho lên báo liền. Báo phát hành ra tới Huế, một chàng đi xe đạp ngang nhà, ném qua hàng rào cái thư ngắn :

Cô Tuý Hồng,

Tui đã đọc hai mẩu chuyện khôi hài của cô đăng trên báo Phổ Thông của nhà thơ Sương Rơi Nguyễn Vỹ. Tui đã cạy miệng ra cười mà không nổi. Tui xin cảm phục lòng can đảm cô đã dám đem hai mẩu vụn khôi hài vô duyên, buồn thiu, thiếu muối đó lên mặt báo. Tui xấu hổ đã ở cùng xóm với cô trên con đường Phan Chu Trinh trông xuống dòng sông An Cựu.

Ký tên: Vô danh

Chị em tôi ai cũng đọc Phạm Cao Củng, Đoan Hùng - Lệ Hằng với trí phục thù … nên người nào cũng có ít nhiều óc trinh thám, nhưng cái thư này thì bị dấu nhẹm. Sau đó, tôi gửi đăng truyện ngắn “ Bát Nước Đầy” và không bị gửi thư nặc danh. 


Hoài Nam: Khi viết văn, chị thường chọn đề tài như thế nào, và có ý chuyển đạt một vấn đề nào ?

Túy Hồng: Một nhà văn nữ dễ thương không nên lạm dụng ngòi bút viết về cái tôi nhiều quá. Trong quá khứ, nhóm nhà văn chống cộng Sáng Tạo đã bị chỉ trích “tự đặt mình lên trang mà thờ,” bị bắt bẻ “lấy cái tôi làm đề tài.” Chọn đề tài, chọn đề thì dễ, nhưng có sức để viết cái đề ấy mới khó. Nhà văn Việt Nam, từ thời “hậu Genève” 1954 đến thời kỳ “hậu mất Saigon” 1975, nói theo nhà văn Mai Thảo “ đã đem ngọn lửa văn hoá loé sáng vượt biên vào Nam và vượt biển sang Mỹ,” thật sự chưa ai có đủ sự dồi dào về đề tài, và sự thật thì ngọn lửa văn hoá họ đốt lên ở Mỹ mỗi ngày một leo lét. Nhìn chung, chỉ có sự làm mới từ ngữ thôi, và nhìn riêng về phái nữ thì các nhà văn trẻ viết bạo quá ! 


Hoài Nam: Còn về các nhân vật, thường là hư cấu hay có dựa vào kinh nghiệm bản thân hoặc theo nhân vật có thật ngoài đời ?

Tuý Hồng: Theo nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, tâm lý nhân vật là phần quan trọng

Trước năm 1975, nguyệt san Bách Khoa có một toà soạn với ghế xa-lông bọc nệm lót và trong phòng trị sự còn kê thêm một máy may Singer. Nhà phê bình Lê Châu tức chủ bút Lê Ngộ Châu, theo Lê Tất Điều, là người đọc bài vở để chọn đăng, kỹ hơn các báo khác.

Các tác giả đến toà soạn đưa bài nghe được những câu như : “ Về phía các tác giả nữ, Nguyễn Thị Vinh viết “tới”, gần sự thật hơn, các nhân vật, nhất là các vai đàn bà trong truyện được ghi đậm nét hơn, nói lên được lòng tốt và đức tính hiền lành của họ.” … “Các nhà văn nữ tiếp theo … có lối viết mới hơn, kêu hơn, vào sâu hơn trong vấn đề tình dục, nhưng vấp phải cái hỏng ở phần xây dựng nhân vật : họ không vẽ được cái mặt và cái chân tướng của người đàn ông, nghĩa là không hiểu tâm lý đàn ông. Trùng Dương khá nhất trong đám, tả người đàn ông ra đàn ông khi đi đứng, lúc nói cười, lúc đưa điếu thuốc lên môi … Trong cách mô tả này, Trùng Dương làm được việc hơn Nguyễn thị Hoàng, Nguyễn thị Thuỵ Vũ …Những người này đã chỉ cố nặn ra những hình người với những đường nét mờ, những chân dung xa lạ ngay cả với chính họ. Nguyễn thị Hoàng, Nguyễn thị Thuỵ Vũ và v.v. … đã tự thuật, đã ca tụng cái “ta” nhiều quá nên trong tác phẩm của họ âm thịnh dương suy.

Lê Châu nói thêm : “ Đổi đề tài đi chứ ! Tại sao nhân vật của Tuý Hồng cứ phải là cô giáo ? Tại sao Thuỵ Vũ cứ chuyên viết về những cô gái bán snack bar ?”

Cổ nhân có nói tả người khó, tả ma quỷ dễ. Trong những tác phẩm xưa, ta nhận thấy có sự hoà hợp âm dương, có người có ta, có đàn ông và có đàn bà.

Đọc văn đàn bà ngày nay, ta nhận thấy đàn ông trong các tác phẩm hình như phải nhận một hình phạt nho nhỏ nào đó. Phải chăng trên cõi đời này đàn bà đã yêu đàn ông nhiều hơn họ được yêu lại ? Phải chăng khi đọc họ, ta nghe được tiếng kêu buồn của tình yêu không được thoả mãn ?

Qua những nhận xét của Lê Châu, ta có nên nghĩ rằng viết về tình dục đòi hỏi một ngòi bút am hiểu, kinh nghiệm; không nên vô tội và ngây thơ, không hiểu đàn ông. Ông là ai ?

Mới đây, năm ngoái, Thuỵ Vũ đã trả lời trong bài phỏng vấn Thuỵ Vũ Chăn Dê :” Người nào vô văn chương mà ghê gớm, đó là vì trong đời sống hằng ngày người ta hiền quá, nên mới nhảy vô văn chương mà phá .”

Vậy, qua cả hai Lê Châu và Thuỵ Vũ, chúng ta có nên tạm nghĩ rằng trong tác phẩm của một số nhà văn nữ, đoạn văn nào họ lếu láo viết về tình dục là những đoạn văn không thật, không giá trị ?


Hoài Nam: Trong văn chương, xưa nay đặt nặng tinh thần trong nghĩa “văn dĩ tải đạo,” nhưng nay đặt nặng về thể xác, nhất là văn chương phụ nữ. Chị quan niệm đàn bà viết văn phải như thế nào để thành công ?

Túy Hồng: Mảnh đời thơ ấu của chúng ta đã mở ra với trang sách “Quốc văn Giáo Khoa Thư.” Bài học đầu tiên dạy “đi học phải đúng giờ” là bài thơ song thất lục bát “ Xuân đi học coi người hớn hở … “ Tiếp theo là những bài thuộc lòng khác “Ai bảo chăn trâu là khổ; Nhà ga là nơi xe lửa đậu; Cảnh quê hương đẹp hơn cả …” Đó là văn chương dạy đạo lý. Ngoài ra, sách Quốc văn Giáo Khoa Thư còn dạy chúng ta tập viết những câu văn không thiếu không thừa một chữ, những câu văn chữ ít nhưng nghĩa nhiều, đã ấn sâu chữ tâm đầu tiên, một chữ tâm non nớt vào đầu óc tiểu học chúng ta.

Rồi giã từ tuổi thơ, chúng ta vụt lớn lên với hai chương trình quốc văn và Pháp văn bậc trung học dạy ta ba tác phẩm chính yếu : Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, vaø Truyện Kiều, tức trái tim Nguyễn Du. (Cũng vẫn là văn dĩ tải đạo và chúng ta đã yêu thương Nguyễn Du của chúng ta vì người thầy đó đã dạy ta chữ tâm của đất nước và chữ tâm ở cửa địa ngục : luân lý đẹp nhất khi luân lý là lòng hy sinh hỉ xả).

Về phía chương trình Pháp văn, sự có mặt của tác phẩm Madame Bovary của Gustave Flaubert đã gây nhiều tai tiếng cho học đường vì đó là một cuốn dâm thư : cô Emma, con gái một điền chủ, được đưa vào tu viện học lúc 13 tuổi. Sau khi xuất viện, về quê sống với cha trông coi một trang trại và lấy chồng, bác sĩ Bovary. Chàng này con của một bợm nghiện. Về y học là một bác sĩ thơm tay chữa bệnh cho dân quê, nhưng trên tất cả mọi phương diện khác ở đời, Charles Bovary là một chàng ngốc, ngốc đặc và khờ dại. (Con của bợm nghiện chăng ?) Emma lười biếng, chán sống với chồng, không thương yêu con, mà mơ ngủ và nghĩ hoài tới những người đàn ông khác. Emma ngoại tình, tiêu tiền. Cuối cùng, Charles Bovary mang công nợ. Emma hối hận, mua một nắm thuốc bột giết chuột về nhà ăn để tự tử. Một thời gian sau, đứa con gái nhỏ lớn lên, Charles Bovary chết. Chàng chết lãng mạn, trái tim chàng rách một nét bi thương. Charles ngồi chết dưới bóng im lá nho non màu ngọc thạch, hương hoa nhài nhẹ nổi trong trời không, những con ruồi Spanish bu quanh hoa li-li. Và trong tay chàng, Charles nắm chặt một lọn tóc trăm năm của người vợ.

Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng này năm 1856 đã đưa Gustave Flaubert và nhà xuất bản ra tòa về tội xúc phạm luân lý. Cái chết của Charles Bovary có lãng mạn hay không ? Cái kết cục câu chuyện gây một chút buồn, một chút đau, nhưng vẫn có một chút ngọt ngào. Văn chương lãng mạn thời Pháp thuộc đã làm mềm yếu tuổi trẻ thồi đó.

Nhạc Tây phương và văn chương lãng mạn Pháp cùng du nhập vào quê hương chúng ta một lúc: nhạc tình được đón nhận đến tận các chiến khu xa để trở thành nhạc tiền chiến, khí giới tinh thần của đoàn quân Việt Minh; văn xuôi và văn vần được đưa vào chương trình trung học, ở thành thị dạy dỗ con em chuyện tình. 

Ở Huế, Linh mục Nguyễn Hy Thích thuộc dòng tu khổ hạnh cực lực phản đối lối giáo dục ẻo lả này, một chương trình đồi trụy làm khô héo nhựa sống của thanh niên, lão hoá tuổi thanh xuân của đất nước. Cha Thích nói : “Đây là một lối giáo dục tình tính tang. Kim Vân Kiều là chuyện tình, Chinh phụ Ngâm và Cung oán Ngâm khúc là chuyện tình … Đàn ông chớ đọc Phan Trần, đàn bà chớ đọc Thuý Vân Thuý Kiều. Chinh phụ Ngâm phản chiến, Cung oán Ngâm Khúc là chuyện ghen tuông thường tình của đàn bà.

Nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng kêu lên rằng Kiều là một con điếm. “Sách dạy ngày nay đĩ đứng đầu !” Và phải chăng bởi đường lối giáo dục thuộc địa này, một đường lối giáo dục già nua héo úa, nên hơn 70 năm về trước, nhà cách mạng Nguyễn Aùi Quốc cũng đã thốâng thiết than : “Hỡi Đông Dương đáng thương hại ! Người sẽ đi về đâu nếu đàm thanh niên sớm già này không sớm hồi sinh ?”

Tóm lại, chúng ta biết ái tình từ cái tuổi hãy còn thơ ngây, cho nên bây giờ, những tác phẩm văn chương tình dục cũng có thể là một trong những hậu quả do những chuyện tình trong chương trình giáo dục. Vì là phản ảnh của đời sống, một tác phẩm văn chương cần có sự cân bằng của luân lý và tình yêu, cao cả hoặc tội lỗi.


Hoài Nam: Trong một câu trả lời trên, chị nói rằng : “ Nhìn riêng về phái nữ thì các nhà văn trẻ viết bạo quá.” Mới đây, tập san Hợp Lưu số 85 tháng 10 và 11-2005, trong bài Phụ nữ và Vấn đề Tình dục, Nguyễn Văn Lục viết “ Trước đây, thập niên 60-70, đã có Tuý Hồng viết rất bạo dạn dữ dội. Gái Huế đa tình, nay đã có nhà văn như Tuý Hồng buông thả, phóng khoáng, mở toang … ” Chị nghĩ thế nào ?

Túy Hồng: Phụ nữ và văn chương ! Đàn bà viết gì thì chỉ có ông Freud và chính họ tự hiểu họ mà thôi. Nhà phân tâm học Aùo Sigmund Freud và các nhà văn nữ đương đại của chúng ta cùng định nghĩa female hormone là những giọt dầu dâm dục trong cơ thể đàn bà, những giọt mỡ màu xám chì trong máu, những giọt nhớt từ các phần mềm của phái yếu nhễu ra, và cũng là những giọt nước mắt béo từ ngọn nến tình dục muộn màng.

Ngày nay, tại Mỹ, chúng ta có Lê thị Thấm Vân, Trịnh Thanh Thuỷ, Nguyễn thị Thanh Bình, Nguyễn thị Ngọc Nhung v.v. … và cách ba phần tư quả địa cầu từ Mỹ đến Việt Nam, chúng ta có Vi Thuỳ Linh, Đỗ Hoàng Diệu v.v. …

Sau đây là trích đăng vài đoạn văn của Lê thị Thấm Vân : “ Tôi nằm đây, đưa tay phải nhẹ đặt vào nơi đó. Cửa mình của trần gian, cử mở ra sự sống. Nơi chồng tôi bao lần vục mật, mân mê chùm lông man dại như rừng rậm hoang dã … Henry Miller đã có lần viết : ‘tôi dấu chim tôi trong đám lông hoang dại của nàng.’ … “Múc từng gáo, dội từ đỉnh đầu. Nước ào ào tuôn dọc theo cơ thể. Da loáng nước. Cái thau nhựa xanh đặt ở góc phải tràn nước. Khua tay ấm áp như da thịt mình, ở phần dưới … Tôi ngâm mình trong thau nước đầy. Những sợi lông bồng bềnh, khẽ vuốt ve, mân mê, màu ngô non, mướt nước … ” (Xứ Nắng) 

Một trích đoạn khác trong Âm vọng, cũng của Lê thị Thấm Vân : “ Vú mình con không bú mà chỉ toàn đàn ông con trai bú, mút, ngậm, nút, mò, bóp, đè, ngấu, nhai. Ngồi đếm lại, tổng cộng lại cũng hơn mười đầu ngón tay. Thằng nào cũng thích , từ già đến trẻ, từ Mễ tới AnÁ, mà mình cũng thấy đã đía mới chết cha nhứ ! Cái vú bên trái mình thích được bú hơn vú bên phải. Cứ mỗi lần thằng cha nào bú là nước l.. mình ứ ra, rồi nước dãi cũng tươm đầy họng, quặn cả bụng, chỉ muốn đ.. liền tức khắc.”

“ Tôi chịu hết nổi, tuột gấp quần, chỉ kịp qua khỏi đầu gối. Tôi ngồi bẹt xuống sàn xi-măng ẩm nước, góc tường lạnh thấm qua lưng, hất cái ghế đẩu nhựa sang một bên, ngón tay tôi run run đút sâu … luốn lách qua từng thớ thịt khe rãnh nhấy nhụa ấm nóng. Sóng cuồn cuộn trên vũng bụng. Ngón tay hút chặt. Đầu môi con bạch tuột. Tôi biết tôi muốn gì, làm gì, ngay trong giây phút này. Tôi hoàn toàn thuộc về tôi.”

Sau đây là hai đoạn văn của nhà văn nữ son trẻ Đỗ Hoàng Diệu, kể chuyện một cô dâu trẻ bị ông nội chồng (đã chết) và bố chồng (đã chết) hãm hiếp rồi về nhà làm tình với chồng và sinh ra một đứa con : “ Chồng tôi, tôi biết gọi anh là gì ? … Tôi nằm im lẩm nhẩm bao điều vô nghĩa … Như một con thú, chồng tôi vật tôi như một con mồi. Đôi mắt chỉ còn là hai vệt đỏ lục lọi da thịt tôi tan nát. Không cởi tất , cứ thế Công chồng lên tôi, chọc sâu tàn nhẫn. Tôi càng đẩy Công ra, Công càng cứa như dao đâm. Không phải đâm mà anh chích vào người tôi những con trùng làm công tác huỷ hoại bộ nhớ. Tôi nín lặng mặc cho Công quay lộn, mài dũa …”

“ Tôi muốn cởi phăng áo, dướn ngực vào mặt Công. Tôi muốn tri hô : ‘Tinh trùng anh loãng như nước máy. Linh hồn anh là linh hồn của một tên hủi …’ Tôi thấy rõ trí nhớ tôi tan vữa dần sau mỗi cú thọc sâu của Công, chỉ có Buôn Hủi, làng Hủi, và người đàn ông Thượng tồn tại … Khi Công chấm dứt, tôi không còn nhớ gì hết, kể cả 10 ngón tay vừa cấu nát lưng Công. Tôi nhìn chúng xa lạ không hiểu đã xảy ra chuyện gì ban nãy. Ngoài kia, ánh trăng đại ngàn vẫn ngời ngợi lung linh bên trên những con người thành phố thơm nức, sạch sẽ nhưng không trí nhớ.” ( Đỗ Hoàng Diệu, Dòng Sông Hủi)

Và sau đây là một đoạn văn ngắn trích từ bài phê bình văn chương của nhà phê bình Nguyễn Văn Lục, đăng trên Hợp Lưu số 81 :

1/ Âm hộ như một giải phóng phụ nữ

2/ Âm hộ như một bản cáo trạng

a) về kinh nguyệt

b) về màng trinh

c) về mòng đóc

d) về chuyện sinh đẻ


Phải chăng đó là những câu kinh để tụng khi bắt tay làm tình ? Nhà văn viết bạo bao nhiêu, nhà phê bình phê bạo bấy nhiêu. Văn chương kiểu này thì ái quốc Hồ Chí Minh, cách mạng Huỳnh Thúc Kháng và khổ hạnh Nguyễn Hy Thích chắc nằm chết không yên !

Trước hết, tình dục có phải xấu không ? Nhà văn Irving Stone nói rằng tín đồ giáo phái Puritan phải kết hôn để sinh đẻ và có thể sinh ra những vị thánh.

Sau hết, tình dục có phải tốt không ? Có bao nhiêu phần trăm sự thật trong văn chương tình dục qua ngòi bút các nhà văn nữ lớp mới, và làm tình, quả thật có sướng như họ đã tả không ?

Viết là tưởng tượng – fiction – căn cứ trên thực tại – fact. Tôi yêu fiction dựa trên fact.. Nghệ thuật có giá trị khi nó là sự thật, không phải của giả. Tình dục không cho ta một nắm to của cái cảm xúc gọi là “sướng”, và không gây cho ta một chỗ đau nào đó trên thân thể. Sự thật, giây phút tuỵệt đỉnh lúc ân ái chỉ diễn ra chừng năm bảy tích tắc kim đồng hồ, và cái lượng đam mê cũng nhỏ thôi chứ đâu có bự như những nhà văn nữ lớp mới đã tả. Sự thật thì ít nhưng chúng ta đã xít ra cho nhiều. Sự thật thì bé nhưng chúng ta đã xé ra cho to.

Tiền nhân chúng ta đã rượu vào lời ra “Tứ khoái trên đời là ăn, ngủ, làm tình và đại tiện.” Còn gì thích hơn ăn ngon ngủ kỹ. Cái dâm đâu bằng cái khoái khẩu. Trước màn ảnh TV mỗi đêm, đầu bếp thượng thặng Emeril, như một võ sĩ Tàu múa kiếm dưới trăng, đã đi những đường dao đẹp mắt trên cá thịt rau quả thật mềm mại và ngon lành. Đầu bếp Trung Quốc Gary Lee, cũng một đêm nào ngồi trên tảng đá ăn trái lệ chi – trái vải – với vợ, đã nói : “Đức Khổng Tử là người sành ăn nhất nước Tàu.”

Ngoài ra, theo ý kiến của các bác sĩ, lạm dụng tình dục rất có hại cho sức khoẻ. Các nhà văn nữ lớp mới thật không để tâm gì đến vấn đề healthcare các ông bồ của mình gì hết, nhất là các ông bồ Việt Nam. Đàn ông Việt Nam không phải là thứ dềnh dàng cao to như hải tặc Thái Lan, cũng không phải là quỷ tháng mười vampire, mà đúng như nhạc sĩ Lam Phương đã đàn hát tưng bừng “ Nhìn vào khe song trông anh ốm yếu ho hen … ”

Một điều đáng tiếc nữa là trong tác phẩm các nhà văn nữ lớp mới, phần tả cảnh và phân tích tâm lý đã bị phần tả tình dục chiếm chỗ. Điều này chúng ta cũng nhận thấy khi dọc một số tác phẩm các nhà văn Mỹ. Các nhà văn nữ Việt Nam đã tỏ ra thiếu kinh nghiệm và không thực tế về tâm lý : con ngựa bà trời tức là con bọ ngựa cái, sau khi thoả mãn tình dục rồi thì cưa đứt đầu bọ ngựa đực ra mà ăn. Có phải trong khi làm tình, người đàn bà cứ nằm mà nguyền rủa người đàn ông ? Có phải sau khi làm tình xong, ngưòi đàn bà không nằm nghỉ xả hơi cho khoẻ mà phải mỉa mai kép độc của mình là tinh trùng anh loãng như nước máy !

Về thơ, Trần Mộng Tú – nhà thơ trữ tình, người mang trong tâm hồn những tư tưởng vô bờ về cái đẹp nhưng vẫn đẩy được dòng thi ca dào dạt của mình vào những ngõ ngách đạo đức trong thi phẩm Ngọn Nến Muộn Màng, đã nói “Sao bây giờ người ta đổ xô viết bạo? Đâu có phải là thời kỳ thịnh hành nhất của văn chương tình dục ? Đề tài này bao nhiêu người đã viết rồi, các nhà văn bây giờ chỉ làm mới cách dùng chữ mà chữ nghĩa bạo hơn nhưng ý nghĩa chẳng có gì. Với cái đà này thì văn chương sẽ không đi về đâu hết.”

Xin lưu ý điểm này, chúng tôi đã trích ra những đọan văn viết bạo để làm dẫn chứng cho phần trả lời.

Trong những sáng tác ngắn hoặc dài, có những đoạn văn các nhà văn nữ lớp mới không viết bạo. Họ viết tốt với những tư tưởng mới và lập trường suy luận riêng, chịu ảnh hưởng phương Tây, tôn trọng tự do cá nhân. Họ là lớp trí thức trẻ, căn bản học vấn và tuy Âu hoá nhưng tình yêu lớn nhất của họ vẫn là tình đất nước. Họ sẽ không ngừng lại sau vài ba sáng tác, họ sẽ tiến lên trên đường xa, ôm sứ mạng văn chương, vì đã đến lúc những trào lưu đã cạn dòng phải rút thoát để cho những ngọn triều trẻ dâng lên thay thế.


Hoài Nam: Với cương vị là một nhà văn nữ, chị nghĩ thế nào về nhận xét của Dương Thu Hương : “ Nghề văn, nói chung là một nghề nguy hiểm. Nghề văn, đối với đàn bà, một trăm lần nguy hiểm hơn.” 

Túy Hồng: Năm 1954, Hiệp định Genève chia đôi đất nước, trong lúc ngót một triệu đồng bào di cư vào Nam tìm tự do, thì nhạc sĩ Hoàng Giác đang làm việc tại Đài phát thanh Saigon , vội vã “tung cánh chim tìm về tổ ấm” trở lại miền Bắc. Cộng sản Việt Nam, nhân đạo hơn Cộng sản Bolshevik Nga sô và cộng sản Khờ-me- đỏ Pol Pot, đã tỏ ra ưu đãi các nhạc sĩ tiền chiến và bạc đãi văn thi sĩ vì nhà văn thường phản đối chính quyền và ưa viết sách chống cộng. Dương Thu Hương là một cây bút phản kháng, bất khuất … Nhưng tại sao nghề văn đối với những người đàn bà nguy hiểm một trăm lần hơn đối với những người đàn ông ? Điều này tôi không hiểu.


Hoài Nam: Chị nghĩ là những nhà văn nữ hiện đại cần viết về thảm cảnh thân phận đàn bà, thay vì viết về tình dục, hay có một đường lối nào khác để thành công ?



Túy Hồng: Sống dưới chế độ Cộng sản, Dương Thu Hương bất khuất phản kháng, lòng can đảm vượt xa những anh hùng nam nữ xuống đường đả đảo Mỹ và Thiệu- Kỳ trước 75. Từ 15 năm nay, tôi vẫn nghĩ Dương Thu Hương là nhà văn nữ viết hay nhất về thực trạng xã hội, về cảnh đẹp quê hương, về tài nấu cháo cá, và tình thương dành cho số kiếp đàn bà. “Thân phận người phụ nữ Việt Nam hiện nay vẫn ở tầng thứ nhất, nghĩa là vẫn ở cuộc tranh đấu quyết liệt cho sinh tồn … Muôn đời, người đàn bà vẫn mơ ước được trở thành người đàn bà thực sự.” (Lời Dương Thu Hương) 

Nguyễn thị Vinh viết đằm hơn với tám tác phẩm : Hai Chị Em (1953), Thương Yêu

(1954), Xóm Nghèo (1958), Cô Mai (1972) v.v. … Và mới đây, trong một bài nói chuyện dài ở Na-Uy, chị Vinh vẫn luôn ca ngợi danh dự của người đàn bà khác, chứ không phải chính “cái tôi” của chị. Nguyễn thị Vinh thành công với lối viết hiền và nhẹ như văn chương Tự Lực Văn Đoàn. 


Hoài Nam: Sức mạnh vũ lực của Napoléon từng được Victor Hugo so sánh với sức mạnh của ngòi bút nhà văn, khi nói “ Napoléon có một quốc gia, một quân đội hùng mạnh. Nhà văn chỉ có một ngòi bút, nhưng đằng sau ngòi bút là lương tri.” Chị có cùng quan niệm với Victor Hugo không ? 

Túy Hồng: Cách đây 15 năm, hàng hàng lớp lớp Việt Kiều hải ngoại hướng về quê hương hoan hô Dương Thu Hương, nhà văn nữ lớn nhất đang ở giữa chúng ta, đang đến và đã đến rồi. Cờ đã phất, chất nổ phải được ném, và Dương Thu Hương sẵn sàng tranh đấu. Một ông chủ báo trẻ ở Seattle tiểu bang Washington sau khi đi lễ chùa đã nói “ Dương Thu Hương, tôi xin bầu làm nữ Tổng thống của Việt Nam.”

Rồi từ quốc nội có tin nhà văn phản động Dương Thu Hương bị nhà nước bắt giữ. Rồi báo Người Việt Cali loan tin Bác sĩ Bùi Duy Tâm đáp máy bay về quê hương phản đối nhà cầm quyền và giải cứu Dương Thu Hương.

Một thời gian ngắn sau, ở Seattle, tất cả đồng hương cùng đứng lên chào mừng Nguyễn Huy Thiệp sang thăm. Giảng đường Đại học Washington được mượn dùng để Nguyễn Huy Thiệp được hỏi ý kiến. Người phỏng vấn – Mỹ gốc cây Mít – đặt câu hỏi bằng tiếng Anh, người thông dịch chuyển sang tiếng Việt, Nguyễn Huy Thiệp trả lời bằng tiếng mẹ, phát ngôn viên đẩy qua tiếng Anh. Phần hội đàm thân mật, nữ sinh viên khuyến khích, mọi người đặt câu hỏi. Thắc mắc viên lên tiếng muốn biết về hiện tình sinh hoạt văn học quê nhà. Giải đáp viên ro ro tiếng Việt, chuyển ngữ viên đưa sang tiếng Anh. Báo Người Việt Tây Bắc đăng một câu hỏi quan trọng của một số người ái mộ “ Thưa nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, sau hai tập truyện ngắn vừa xuất bản, chừng nào ông sẽ gửi truyện dài dự thi và đoạt giải Nobel văn chương ?” Nguyễn Huy Thiệp có lẽ quá cảm động về sự đón tiếp quá nồng hậu, đã trả lời : “Tôi luôn luôn cố gắng hoạt động. Với tất cả mọi công việc, tôi đều cố gắng và mãi mãi cố gắng hết cả sức lực.”

Nhà văn Mỹ ăn khách John Jakes trong Love and War nói một câu mà nếu không nói thì người Việt Nam cũng biết : “ Đối với người làm nghệ thuật, có ba cánh cửa giúp họ đi tới thành đạt. Cánh của thứ nhất : được đám đông hoan nghênh; cánh cửa thứ hai : bị đám đông tẩy chay; cánh cửa thứ ba : tự sức mình.” 

Mười lăm năm trước, một ai nào đó đã nghĩ rằng sự tôn vinh quá độ của quần chúng đôi khi cũng có thể làm nhà văn lo âu và nhà văn vốn nhiều tự trọng sẽ trở nên dè dặt không dám viết những tác phẩm cho tương lai của mình, sợ không đáp ứng được lòng mong đợi của đám đông?

Về nhận xét của Victor Hugo, tôi không nghĩ rằng sức mạnh của một ngòi bút có thể so sánh được với vũ lực “grande armée” của Nã-Phá-Luân trên chiến trường Borodino quân Nga-sô đại bại năm 1812.


Hoài Nam: Xin cảm ơn chị Tuý Hồng đã bỏ thì giờ nói chuyện với chúng tôi về Phụ nữ và Văn chương. Xin chúc chị một năm mới an bình.



Hoài Nam phỏng vấn
© 2006 gio-o

Bản quyền thuộc tác giả và Gió O. Mọi cắt dán in ấn lại đều phải có sự chấp thuận của tác giả


























Trở về 







MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.