Thứ Hai, 8 tháng 8, 2016

Nguyễn Vy Khanh

















Nguyễn Vy Khanh
(5/3/1951 - ......) Quảng Bình
Nhà văn, Nhà thơ,

Nhà nghiên cứu phê bình văn học






 Nguyễn Vy Khanh Sinh ngày 5-3-1951 (28-1 Tân Mão), tại Vĩnh Phước, Quảng Trạch, Quảng-Bình. Cử nhân giáo-khoa Triết Tây (1973), Cao học Triết Tây (1975) - đại-học Văn khoa Sài-Gòn, và tốt nghiệp thủ khoa ban Việt-Hán khoá 13 (1971-1974) đại học Sư phạm Sài Gòn. Sau khi tị nạn chính trị tại Canada, tốt nghiệp Cao-học Quản trị Thư viện (Master of Library Science, đại học Montréal, 1978). 
Hai nghề chính thức: giáo chức trước 1975, và chuyên viên thư viện (librarian) Quốc hội và chính phủ Québec từ 1978 ở Montréal và Quebec City; ngoài ra chuyên nghiên cứu lịch-sử và nhân-văn liên hệ đến Việt Nam, với quan niệm: 
“Kiến thức cũng như nghề nghiệp chính thức và nghiệp dư, sau nhiều thập niên hoạt động, cho chúng tôi tâm niệm và ý chí, trong khả năng khiêm tốn và khả thể, đi tìm sự thực và ghi lại cho các thế hệ sau, với hy vọng rằng chỉ có thống nhất nhân tâm và địa lý khi nào những khúc mắc và vấn nạn lịch sử đã được nhìn nhận và giải tỏa”.
Hiện sống và làm việc tại Montréal và Quebec City (Canada).







Tác phẩm đã xuất bản






1
Khung Cửa
(Thơ, Tác giả xb, Sài Gòn, 1972)









2
Ngô Đình Diệm Và Nổ Lực Hoà Bình Dang Dở
(dịch-thuật, “Ngo Dinh Diem En 1963” của Nguyễn Văn Châu; Los Alamitos CA: Xuân Thu, 1989)









3
Lỗ Tấn Và Truyện Xưa Viết Lại
(biên khảo và dịch-thuật; Xuân Thu, 1997) 









4
Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến Tranh 1957-1997
(Đại Nam, 1997; tái bản 2000)









5
Văn Học Và Thời Gian
(Văn Nghệ, 2000)









6
Văn Học Việt Nam Thế Kỷ 20
Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại
(Đại Nam 2004)








7
33 Nhà Văn Nhà Thơ Hải-Ngoại:

tuyển tập nhận-định văn-học (ebook; Montréal: TGXB, 2008; tái-bản Toronto: Nguyễn Publishings, 2016). 






8
Văn Học Miền Nam 1954-1975


nhận-định, biên-khảo và thư-tịch; 2 tập.
(Toronto: Nguyễn Publishings, 2016; tb, Nguyễn Publishings, 2018). 







9
Trương Vĩnh Ký: Tinh-Hoa Nước Việt


(Toronto: Nguyễn Publishings, 2018)















Bài đã đăng trên văn học & nghệ thuật






(tiểu luận)





(tiểu luận)



(phê bình)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(phê bình)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(chân dung)


(phê bình)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(đối thoại)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(phê bình)


(tiểu luận)


(phê bình)


(phê bình)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(tiểu luận)


(chân dung)


(tiểu luận)


(phê bình)


(tiểu luận)


(kịch)


(tiểu luận)
















Nguyễn Vy Khanh trên Tạp chí Da Màu






Văn học miền nam tự do 1954 - 1975







Thảo Trường, nhà văn dấn thân với nỗi ý thức không rời





Nguyễn Vy Khanh nói về Duyên Anh













Tản mạn về dục-tính và nữ quyền
Nguyễn Vy Khanh


Người xưa như tác giả Truyện Kiều, viết về chuyện tình dục là với điển tích (Ra tuồng trên Bộc trong dâu; Vòng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề), hay dùng nghĩa bóng (Tiếc thay! Một đóa trà mi / Con ong đã mở đường đi lối về). Dục tính không thật có với văn chương cổ điển vì những tính cách ước lệ, trí thức và hình thức. Không có sáng tạo, cá tính, do đó không cần cả tác giả, phải chăng đó là một lý do của hiện tượng vô danh của tác phẩm thời xưa?

Dục tính khác thô tục, tục tĩu, như áo mỏng dính với trần truồng, dâm thư dĩ nhiên không phải là tác phẩm văn chương. Henry Miller mà tác phẩm từng bị cấm ở quê hương của ông, trong Obscenity and the Law of Reflection đã xem dâm tục (obscenity) xuất hiện trong văn chương như một kỹ thuật, không liên hệ gì đến dâm thư (pornography). Dục tính như một giá trị chỉ nhắm đánh thức, khêu dậy, dẫn nhập, đem ý nghĩa đến cho thực tại cuộc sống . Đối với Việt Nam, dục tính chỉ thực sự xuất hiện trong văn học ở thế kỷ XX, bước đầu bởi nam giới và dục tính luôn chỉ có ý nghĩa trong một văn hóa, trong một xã hội. Dâm tính trở thành yếu tố tiểu thuyết, gia vị hấp dẫn cho tác phẩm. Thời Nhất Linh, dâm tính chỉ chớm thoáng qua, như trong truyện ngắn Tháng Ngày Qua, nhân vật Giao trọ học nhà bạn, đã dám ... để ý đến vợ bạn, "bốn mắt gặp nhau (...) cặp môi nàng mấp máy, dưới tấm áo mỏng, ngực nàng phập phồng, hai con mắt nhìn đăm đăm vào chàng có vẻ lẳng lơ, nồng nàn như đắm tình..." (1). Các tác giả thời này kể chuyện tình yêu, nhưng ít người đi vào chi tiết làm tình hay tả chân thân thể người nam hay nữ. Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang,... từng bị kết án là khiêu dâm, thực ra họ chỉ có ý trình bày bộ mặt khác, trái, của xã hội, nêu lên những tệ hại, có ý giáo dục, hướng thượng. Phùng Nguyễn trong Bia Ôm (2) tả "đôi vú nhỏ mềm nhũn và âm hộ nhầu nát" hình như cũng không có mục đích viết dâm thư! Trước 1975, Lê Xuyên đã bị tố viết văn khiêu dâm, trong thực tế tiểu thuyết của ông chỉ tả cảnh tả tình những hẹn hò, những ăn chơi trắc tréo dài dòng nhưng không mấy tả chi tiết cảnh làm tình; kẻ lên án chỉ chứng tỏ đạo đức giả hoặc chưa từng đọc qua.

Tạp chí Sáng-Tạo vào thập niên 1960 ở miền Nam, đã đăng nhiều truyện đầy dục tính của các tác giả về sau không đi tiếp nghiệp văn, như Duy Thanh (Khép Cửa, Thằng Khởi, Chiếc Lá,...), Thạch Chương (Tinh Cầu,..). Giải phóng tình dục “hôm nay” là một trong những chủ trương văn nghệ của nhóm. Thạch Chương tức nhạc sĩ Cung Tiến sau này lúc bấy giờ viết truyện ngắn "hiện sinh" và là lý thuyết gia cho khai phá này, trong bài "Giới thiệu một nhận thức siêu thực về nghệ thuật" đã viết : "... Chúng tôi muốn quay lại vũ trụ hoang sơ dục tình nguyên vẹn mà tâm hồn mỗi kẻ còn trinh như sữa. Nhưng là cái tinh khiết đáng sợ của con bò rừng. Nghệ thuật hôm nay là sự biểu lộ một "furie du total", một tiếng gọi quay trở về rừng sâu thẳm mà ở đó còn vẳng lên những tiếng cười điên mê, những tiếng la cuồng dại vọng về từ trăm thế kỷ của bản năng thuần túy. (...). Nghệ thuật hôm nay còn được biểu tỏ mãnh liệt trong tình yêu ngọt ngào của xác thịt, hay "tình điên". Dục tình, như có người đã nói trên mặt báo này, là động lực độc nhất của thế giới. Đọc .. phần lớn những tác phẩm của D.H. Lawrence, ai mà không cảm thấy vật dục mình xao xuyến, một thứ xao xuyến rất nghệ thuật, rất siêu thực, rất trắng, rất tinh khôi...". Lý do ông đưa ra vì sống trong một thời đại "sống trong cái thế trên đe dưới búa, một bên là tự do tuyệt đối cá nhân, một bên là áp bức chính đáng..." (3).

Trong truyện Thằng Khởi, Duy Thanh để cho nhân vật xưng Tôi, một cô gái 16 tuổi, muốn ngủ và rồi ra tay "hiếp dâm" một thằng gánh nước người Chàm: "Tôi đã để ý đến nó năm tôi 16 tuổi. Cái vẻ đẹp man rợ ngu xuẩn ấy mang cho tôi nhiều ý nghĩ dâm dục. Tôi chắc rằng thằng Khởi chưa hề ngủ với ai bao giờ (...) Thằng Khởi vẫn ngủ trong lều. Đôi môi dầy của thằng Khởi mấp máy và vị nước bọt của nó sền sệt nhạt nhẽo. Tôi lay nó dậy. Thằng Khởi chồm lên chắc định la làng nhưng tôi bít miệng nó lại. Mắt nó mở to có vẻ ngạc nhiên lắm, nhưng cũng ngồi im. Rồi đưa tay quờ vào người tôi. Hơi thở của nó và của tôi hừng hực trong đêm tối..." (Sáng Tạo, 21). Cũng Duy Thanh trong truyện Chiếc Lá để nhân vật là cô gái 18 tuổi "thích thay đổi, từ vấn đề ái tình, sinh lý, không khí, đồ ăn,..." và không thích cái gì quen hoặc vô nếp cả. Khi còn là cô bé 15 tuổi, cô ta đã ngủ với anh rể vừa để trả thù chị mình vừa tìm cảm giác: "Tôi muốn đo cái độ dục của hắn khi hắn ngủ với chị ấy thế nào. Cũng lạ, cái cảm xúc ấy lúc đề phòng trước thì thấy tầm thường hết sức. Tôi thấy cái hình thù sát cạnh mình đến vô nghĩa..." (4).

Nhưng người tả cảnh thật sự dục tính đầu tiên có thể là Lê Hoằng Mưu, chủ bút Lục Tỉnh Tân-văn, tác giả Hà Hương Phong Nguyệt (1915), Oán Hồng Quần (tức Phùng Kim Huê Ngoại Sử, 1920), nhất là với Người Bán Ngọc (1930-31), dù văn còn ảnh hưởng biền ngẫu và câu chuyện xảy ra ở Trung Hoa nhưng nhân vật và khung cảnh rất Việt Nam. Một câu chuyện tình cổ điển gần 400 trang, nhưng suy nghĩ, ngôn ngữ và hành cử của nhân vật cũng như cách diễn tả tiểu thuyết có tính thật của đời sống lúc bấy giờ. Người bán ngọc đây là Tô Thương Hậu giả phụ nữ bán ngọc để gần gũi và trờ thành tình nhân của Hồ phu nhân"trững mỡ" trong hai năm chồng đi buôn xa, trước là đồng tình luyến ái, sau trai gái thật khi Thương Hậu không cầm lòng được đã để lộ cái "oan gia".

"Vén mùng rồi vừa gạt chưn để lên giường, xẩy thấy một tòa thiên nhiên, lịch sự như tiên giáng thế, làm cho người bán ngọc mảng mê nhan sắc trố mắt đứng nhìn, quên bổn phận mình, mưu sự tệ tình, bất cẩn, ... Thấy Hồ phu nhân mê mẩn giấc nồng sổ đầu, nằm bỏ tóc, xấp xả khó gìn cho đặng. Bèn sẽ lén lấy mền đắp bụng cho Hồ phu nhân; rồi lại muốn đưa tay rờ rẫm vuốt ve cho thỏa. Không dè, mới thò tay vừa tới bụng sợ phập phồng nó làm cho tấc dạ bồi hồi, tay rung lập cập. Người bán ngọc không dám rờ! Lật đật thục tay vào rồi xây mặt ngó quanh quẩn bên mình, ... Vuốt qua vuốt lại, rờ xuống rờ lên đôi ba phen mà Hồ phu nhân mê mẩn không hay, người bán ngọc thấy vậy mới dễ ngươi, ái tình lại dồi long tà dục... muốn kề má hôn cho phỉ dạ. Có một điều là rờ rẫm vuốt ve thì không sao, chớ hễ muốn kề má xuống hun, thì lại hườn cựu lệ, trống ngực đánh rầm rầm, chân tay run lẩy bẩy... đổ mồ hôi ướt đẫm như người bị cảm mạo phong sương... dục thúc quá dằn long không tiện, ngườI bán ngọc bèn gượng đưa tay ra rờ cái ngọc cốt phi phàm ... Rờ tới đâu chết điếng tới đó,..." (5).

*

Văn chương dục tính có khuynh hướng đi với nữ quyền. Hồ Xuân Hương - giả dụ có một Hồ Xuân Hương thật, tác giả những bài thơ Nôm tục lưỡng nghĩa, bà đã phải gò bó trong lối thơ hai nghĩa thời bấy giờ, đê nói lên những dồn nén và những đòi hỏi nữ quyền, "chém cha cái kiếp lấy chồng chung". Ở Việt Nam, cho đến giữa thập niên 1960, tác phẩm của các nhà văn nữ đã là những đóng góp làm đẹp cho đời, cho thế giới văn chương dù với tính cách bên lề, ngoại lệ. Thật vậy, đối với văn học chữ quốc ngữ thì năm 1927, bà Tương Phố với Giọt Lệ Thu đã thật sự khởi đánh dấu sự có mặt của nữ giới trên văn đàn chữ nghĩa. Thụy An với Một Linh Hồn (1942), Bốn Mớ Tóc (1950, ký Lưu Thị Yến) nhìn ra cuộc đời, Anh Thơ với Răng Đen (1943) rồi Nguyễn Thị Vinh với Thương Yêu (1953) đã bắt đầu nói đến thân phận người đàn bà trong đời sống đại gia đình, trong khuôn khổ phong hóa - họ không sống cho cá nhân mình. Thụy An, Nguyễn Thị Vinh nói đến số phận những thế hệ phụ nữ đã phải sống trong đứt đoạn, nghịch lý khó khăn giữa giáo dục thời thiếu nữ và thực tế ở đời khi trở thành phụ nữ ! Linh Bảo với Những Đêm Mưa, Tàu Ngựa Cũ xuất bản cùng năm 1961, đã nhẹ nhàng khởi nêu vai trò người phụ nữ. Đến Nhã Ca, người nữ tình yêu đã lãng mạn và mạnh mẽ nhưng chiến tranh và trách nhiệm đã khiến đôi lứa và gia đình quan trọng hơn cá nhân. Nói như Virginia Woolf, họ vẫn quanh quẩn trong "những hành lang tối ám của lịch sử". Người đàn bà sinh ra sống cho gia đình, lo cho cha mẹ, cho em, rồi khi rời gia đình thì rơi vào gia đình khác, lo cho chồng, cho con rồi cho cháu, ăn ở có đức, rồi chết ... theo đúng lễ nghi, phong tục! Người phụ nữ cho đến giai đoạn này chỉ đi tìm hạnh phúc!

Phải đến Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy-Vũ và Trùng Dương, văn chương mới trở thành phương tiện cho nữ quyền và quyền sống. Thật vậy, từ cuối thập niên 1960, người viết nữ đã mạnh bạo đi xa hơn, tự tin hơn và những vấn đề phụ nữ được chính thức trương lên chữ nghĩa. Cái Tôi, nhân vật chính, nội dung, tình cảm, tình yêu, tình dục, ... không còn là của riêng những nhà văn thơ phái nam. Hơn là những "hình ảnh người nữ" trong tác phẩm viết bởi nhà văn nữ hay nam, từ Khái Hưng, Nhất Linh,.. đến Hồ Trường An, Nguyễn Thị Phong-Dinh,v.v.

Lê Thị Thấm Vân, một nhà văn hải ngoại đã phát biểu rằng:"Trong quá khứ, văn chương tình dục đa phần viết bởi ngòi bút đàn ông. Văn thơ kể, nói, chỉ, "dạy", diễn tả, ... những cảm xúc, "cách thức" rung động, thèm muốn, bày tỏ (thay cho) người đàn bà" (6). Văn chương dục tính hay có dâm tính lại do người nữ viết hình như hấp dẫn hơn vì cũng hình như có tính tự thuật nhiều hơn. Vì từ nay, người nữ làm chủ con người, tư duy, tình cảm và cuộc đời của họ trong văn chương. Làm người nữ, với văn chương! Simone de Beauvoir trong Le Deuxième Sexe (1949) đã phát động cái ý thức nữ quyền đó khi hô hào "On ne nait pas femme, on le devient". Trong văn chương, trong ngôn ngữ vì là cái có thực, có sự sống. Như vậy, viết trở thành hành động tự xác định của người phụ nữ, trở thành phát ngôn viên chính thức của con người phụ nữ, tiếng nói chính thức và từ tình dục.

Từ thuở tạo thiên lập địa, nếu theo truyền thuyết sáng thế từ Adam Eva thì Eva đã phạm tội ở vườn địa đàng, Adam dại gái nên bị cám dỗ; thân phận phụ nữ gãy đổ ở gốc cây táo từ đó. Đến lúc xảy ra phong trào đòi nữ quyền, người ta bắt đầu thấy phụ nữ lộ diện trên mọi sân khấu và đến cuối thế kỷ XX thì sân khấu gần như nhường hết cho các bà. Từ thập niên 1960, họ "lấn" thêm chuyện cái giường và thân xác. Họ gạt bỏ vòng cương tỏa tình dục nam quyền để làm lại thế giới với hình ảnh và dục vọng phái tính của họ. Marguerite Duras đã cho nhân vật nữ chủ động trong tình yêu: "Il a arraché la robe, il la jette, il a arraché le petit slip de coton blanc et il la porte ainsi nue jusqu’au lit. Et alors il se tourne de l’autre côté du lit et il pleure. Et elle, lente, patiente, elle le ramène vers elle et elle commence à le déshabiller" (7). Không xa nơi cô đầm Sadec, thập niên 1960 đã có một thế hệ nhà văn nữ như Trùng Dương đã tỏ tinh thần độc lập, dứt khoát tự giải thoát khỏi những ràng buộc của chế độ phụ hệ, cả trong động tác làm tình: "Một lúc nàng nới lỏng tay ra , thôi hôn tôi, mắt say đắm. Tôi nghe tiếng nàng nói qua hơi thở : Em lên anh nhé? Tôi khẽ gật đầu. Diệu xô tôi nằm xuống giường và lên người tôi. Diệu thường mở màn bằng cách đó. Hình như nàng tìm thấy cái thú nằm trên người tôi, một cái thú khá man dại và cũng chóng tàn"(8). Thử so với Loan của Đoạn Tuyệt chỉ muốn được đọc sách tiếp rồi ngủ sau đã phải đưa đến án mạng!

Hoặc các nhà văn nữ lên tiếng chống lại những thân phận tùng thuộc, nhận chịu, chờ đợi. Họ vạch mặt những qưyền lực đàn áp của định chế chính trị, của xã hội, của đồng lõa phái nam. Cái Tôi trước cái "anh, mày" tức người đối diện, trước cái Ta, cái chúng ta! Cái Moi của Simone de Beauvoir là cái Tôi xồ xề, sung túc ! Từ đó tình yêu có thêm nhiều hình dung từ, ngoài những tình yêu lý tưởng, cao thượng, đau khổ, ... lỗi thời, nay thêm tình yêu bản năng, tình dục, tự do, đổi chác, khoái lạc, cả tình yêu phút chốc, bồng bột, hiểm nghèo, ... Về điểm này, người viết nữ thời nay như muốn trở lại thời bán khai, tự nhiên, giải phóng tình dục khỏi những quy ước của hôn nhân, phong hóa. Đi xa hơn, không chỉ đòi bình quyền, còn tự chứng minh tự xác tín cái cá biệt "nữ", khác biệt về tình dục, về xúc cảm thân xác, về kinh nghiệm và cả ngôn ngữ. Họ làm chủ cơ thể, cảm xúc và tư duy. Trùng Dương trong Mưa Không Ướt Đất chẳng hạn cho nhân vật lý luận triết lý, truyện có tính cách lý luận hơn là sống nếu muốn gọi đó là hiện sinh. Xưa kia nhà văn nam viết, phân tích tâm lý mọi người thì nay các nhà văn nữ muốn phân tâm đàn ông và tự phân tâm! Một loại "văn hóa" mới, năng động và cách tân phái tính. Họ không ngừng ở thể loại nhật ký, thi ca, tiểu thuyết , mà đi xa hơn, làm chủ cơ quan văn nghệ, lên tiếng phỏng vấn, thuyết trình, ... Nhưng chính với văn chương, với tiểu thuyết và thi ca như phương tiện, mà người nữ lên tiếng, phát biểu, làm chứng.

Lệ Hằng thời trẻ xảnh xoẹ đi tìm hạnh phúc, hạnh phúc là ái ân, da chạm da, nói như Phượng Uyên trong Thung Lũng Tình Yêu chỉ muốn "thiên đường chính là vòng tay, là mùi hương đàn ông, là hơi thở của chàng. Tôi không tìm nữa một cảnh bồng lai, vì đôi môi người yêu, giọng nói người yêu, và đôi mắt chàng, là giòng sông tình ái, là rừng say sưa là suối bất tử đời đời tắm mát tình yêu " (9). Sẽ đòi hỏi hơn với Sóc Nâu là chuyện tình yêu khả thể với một người bạn nam Dũng, kiểu " Em thèm được làm một người đàn bà. Dưới tay anh, dưới thân thể anh, và dưới tình yêu của anh nữa... Dũng ơi ... Hãy trở thành một người đàn ông với em đi" (10).

Với Túy Hồng trước 1975, nhân vật nữ luôn đầy sức sống vùng vẫy trong một xã hội tù túng, ngộp thở. Họ luôn muốn phá đổ những lễ nghi, cung cách, những nếp sống phụ hệ, gia phong theo họ đã lỗi thời. Dục tính, mà một số nhà văn nam phê bình bà trước 1975, đã bị gán ghép, đồng hóa với thái độ và lối sống tự do, theo bản năng giấu dưới những mỹ từ tình yêu, tình bạn. Hãy còn bóng bẩy, rụt rè hiện thực, cùng lắm qua lời nói, ý nghĩ như nhân vật nữ trong Vết Thương Dậy Thì (1967): "Hãy ngậm em giữa hai môi dầy trác táng, uống em đi, nuốt em đi ừng ực. Chỉ vẽ cho em cách chế cà phê và cách chui vào lòng anh để thao thức cồn cào tỉnh người bỏ ngủ vì đã liếm em trên đầu môi chót lưỡi, đã ngậm, đã nuốt ực em vào anh rồi"(11). Người nữ đi thẳng, nói trắng : "nếu yêu em thì đừng đi quanh nữa (...). Anh hãy cho em đi con đường ngắn nhất, con đường độc đạo của tình yêu" nói như bạn cô giáo Cam Thảo, nhân vật Thở Dài, trong khi cô thì viết thư thúc người yêu cưới mình!

Trần Thị Ng.H. qua Lạc Đạn - viết năm 1973, và một số truyện ngắn đăng báo trước 1975 cũng đã, qua văn chương, tự xác nhận, ra tay để phá đổ huyền thoại phụ nữ như là đối tượng, xây dựng lại tương quan với người khác giống, đảm nhận tự do, một cách lạnh lùng, dứt khoát, dù vẫn cho thấy một loại bất mãn, dồn nén! Nơi thái độ, như hối hận sau liên hệ đồng tính với Thắm, sau khi đã "ôm nhau như đôi tình thân. Thắm rà đôi môi nhỏ trong cổ tôi, đôi vú non căng nở phập phồng, hốt hoảng. Tôi kinh hãi xúc động dầm dề. Tôi muốn la lớn trong cơn khoái cảm mộng mị và kì cục...". Như sau khi chấp nhận trò chơi "đau xé nổ tung đầm đìa. .. đỏ lòm oan uổng" với "người đàn ông lạ mặt", rồi phải "dỗ dành chỗ mềm yếu nhất, dỗ ngọt, săn sóc" đã xác tín - trong ý tưởng, với người mẹ âu lo rằng "con trinh bạch không tội lỗi, con nguyên vẹn của má" (12). Tình yêu, tình người ở đây, không là những bất ngờ! Trong các truyện ngắn khác ở tập này và tập Tập Truyện Ngắn Trần Thi Ng.H. (1999), bà còn nói đến những mặt trái, tội ác, cái chết tự xử, cái chết người khác, những cái chết dàn cảnh!

Cách mạng tình dục tiếp tục với văn học hải ngoại : Đỗ Kh., Khánh Trường, Trần Vũ, Trân Sa, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Hoàng Bắc,... Bài này chúng tôi nhìn qua phía các nhà văn nữ, họ lên tiếng về những âu lo, tâm tình mà lâu nay nhất là ở Việt Nam ít thấy. Những âu lo của Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan thanh cao quá, trừu tượng quá, Hồ Xuân Hương nếu là tác giả thật những bài thơ về tính giống và tác động phòng the, cũng vẫn ở ẩn dụ, bóng gió, không trực tiếp, trốn trong cách thế nho nhã! Nhà văn nữ Việt Nam ở hải ngoại nói thẳng những lo âu thực tế, sờ được, cảm được, không cần nhiều ngõ quanh, đi vòng. Sinh lý hết được xem như cấm đoán, lại được xem như đòi hỏi chính đáng, tình dục trở thành nhu cầu tự nhiên, phải có, không thiên kiến và mặc cảm phạm tội, cả có khi ngây thơ trong tìm kiếm. Tự nhiên và chấp nhận trò chơi trăm phần trăm, với tấm thân sẵn đó, như đó!

Nói chung, phụ nữ chống văn minh, văn hóa dựa trên quyền hành đàn ông, phụ quyền, chống Tây phương kỹ nghệ định nghĩa đàn ông ở khả năng sáng tạo và chế biến sự vật. Phụ nữ chống văn chương như một nền chế, họ thích mặt trận "ngôn ngữ" hơn, thích phổ dương liên hệ trực tiếp với chữ viết cũng như với thân xác. Phụ nữ Mỹ châu đòi quyền lợi, họ dấn thân, xuống đường, lập nghiệp đoàn,... ít cho người đọc thấy dây dưa tình cảm. Ngôn ngữ không quan trọng, cái quan trọng là chống đàn áp, đô hộ của đàn ông . Trong khi đó ở Pháp và Âu châu, ngôn ngữ được đặt lại vị trí, thẩm mỹ học, một loại phản văn hóa đặt nền trên sự đè nén. Người viết nữ xây lại nội dung, cấu trúc lại những ngõ thoát, lối ra của ngôn ngữ. Sướng khoái thể chất đi với sướng khoái lời nói, chữ dùng. Thêm vào, những khuynh hướng mới về tiểu thuyết như hậu thuộc địa (postcolonial) là một loại diễn văn muốn thay thế những quan điểm đã được thiết lập trước về lệ thuộc và vâng lời bằng quan điểm hoàn toàn ngược lại, đề cao tự lập cá nhân và tự chủ. Xây dựng lại nội dung bằng đường thoát ngôn ngữ. Lạc thú thân xác đi liền với lạc thú ngôn ngữ, đến sau lạc thú ngôn ngữ. Người nam đi vào văn để tìm hoặc nếu đã thấy, trình bày lý thuyết, triết lý hay một "nghiệp", người nữ thì đến để thực hiện cái tôi, xác định cái tôi, cá nhân. Và họ đi vào tình dục. Sex được dịch là hữu-tính (tự điển Thanh Nghị), làm như không sex là số không to tướng! Đưa đến những cuộc sống ...ngoại lệ: đàn bà không sanh con, đồng tính luyến ái, lãnh cảm (Jane Austen, chị em Emily và Charlotte Bronte, Simone de Beauvoir, George Eliot, ...). Sống đời thế tục, tận hưởng phút giây, lãng mạn tình yêu đến tự do tình dục!

Người nữ sống đời hải ngoại hội nhập, choáng ngợp giữa những lạ-lẫm (exotic), đầy ắp và choáng ngợp trước tự do ở xứ người, tự do tuyệt đối và cá nhân chủ nghĩa, từ vật chất, thân xác, tình cảm,.. Có thể họ muốn giả vờ, trưởng giả , nhưng lại không giữ lề, thích tự do ngoại tình,.. Có người đi đến thái độ hài hước đen, ngầm nữ quyền. Người nữ những thập niên cuối thế kỷ XX choáng ngợp tự do, tình dục, đi xa hơn cô giáo Hoàng. Cái giường hết còn là ám ảnh chính như với Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Túy Hồng (từng viết "cái giường là đồ vật tội lỗi nhất trong những đồ vật" trong Vết Thương Dậy Thì),... Sau chiến tranh, nhân vật Túy Hòng sống trong chia cách và đời sống mới, trở nên yếu ớt, căng thẳng, vô định trước tương lai, lại tăng dâm tính, tình dục trở nên cách hành xử hoặc tác động xác thân lên trên tình cảm. Đây là một hiện tượng từng chứng minh với những biến động lớn như vụ không tặc Tháp Đôi ở New York ngày 11-9-01. Để xóa căng thẳng và tái xác nhận đời đáng sống, cái sống đáng trân trọng, một tâm trạng sống sót, cho nên buông thả tình dục, với cả người mới quen. Cứ Tay Che Thời Tiết "có thể chờ chồng nhưng tôi không thể thủ tiết được" cho nên cứ "xoạc mông xoãi đùi đu bay lẫn lộn trong bát ngát tự do rì chặt chữ tình làm cứu cánh" (tr. 73), cuối cùng mới thấy chỉ là ảo tưởng, lãng mạn. Ảo mộng vun trồng vẫn hóa ra mộng ảo, con người không dễ thay đổi lớn !

Nhân vật Mưa của Lệ Hằng trong Bên Kia Là Núi (1998) một khi ra được ốc vỏ văn hóa cũ (cô giáo, vai chị), đã lồng lộn thụ hưởng đời sống tình dục hơn cả người tình Phi châu Saba của Hãn. "... Cô bỗng khùng lên, cánh đồng khô khát của cô ghì lấy Hãn. Chưa một lần nào, Hãn thấy cô tả xông hữu đột truy bức thân thể Hãn dữ dằn hơn. Gầm gừ mê mỏi, hào hển đứt hơi. Cuồng lên vì lạc thú, cô làm Hãn kích ngất vì những rung cảm khốc liệt của cô... "(13).

Như vậy, nay chính thân xác là đối tượng, là đề tài chính! Với Trân Sa và một vài nhà văn nữ, tôn giáo ngưng lại ở chỗ tình dục; tình dục không những tháo gỡ cấm đoán mà còn vô hiệu hóa cấm đoán. Tình yêu khác tình dục, cái sau cũng làm ... tình nhưng hết mình, chính xác, một chuyện. Làm tình phức tạp hơn, đòi hỏi con tim, lời nói, cử chỉ, cả văn hóa. Làm tình, trò chơi thân xác, tựu trung là một khoảng trống cần thiết, một chiến thuật đầy đủ, cũng là cách thức sống, một cách biểu tỏ, một phương tiện hiện hữu thể chất, máy móc - là những thứ nếu thiếu, thì cái còn lại chỉ là phó sản, hiện tượng phụ. Làm tình cũng là một cách học hỏi bằng tự xóa. Tình dục trước khi là hiện tượng xã hội, văn hóa, đã là thân xác.

Khi tay anh xoa xoa xà phòng vào “nơi ấy”,

nắng bên ngoài rực sáng thêm một chút nữa.

“Nơi ấy” giờ thì mềm xìu, bé tí, bình thường như vành tai, chóp mũi, khuỷu tay, đầu gối, gót chân… như bất cứ phần nào trên thân thể anh.

Trước đấy một giờ. Nó cương cứng, nóng hổi, hùng hổ

trong miệng em, giữa rãnh ngực em, trên mông em. Nó cố đâm thấu-xuyên-sâu-qua bao lớp da thịt để vào trong em. (Là nó, chẳng thuộc về ai).

(Lê Thị Thấm Vân, Căn Phòng 2.2 Âm Thanh Sóng) (14).

"... Suốt một buổi chiều / Yêu dọc từ dưới lên - và xuống / Từng lằn chỉ - khớp - từng phân li thịt da / Nhập một / ấm áp - rịn - ướt / Suốt một buổi chiều / Không ngớt / Nghiêng - xoay - cong - mềm mại / Cọ - trườn - lướt / Sau - trước / Những điệu thuần nữ / Có khi là một / Hai - ba - hoặc cả năm / Yêu khắp cùng lòng kia ưỡn ngã xuống như sóng / Và lượn úp lên - uốn chụp xuống / Đan khít mười / Không rời / Không một kẻ hở / Tuần tự - tất cả / Ngoài và trong - không một bỏ trống / Gò và trũng / Suốt một buổi chiều / Hai bàn tay lần đầu yêu nhau / Suốt buổi chiều / Trong căn phòng..." (Trân Sa, Động Tác Yêu) (15).

Thế giới ẩm ướt, trò tình dục không được một số nhà văn nữ Lệ Hằng, Trần Thị NgH, Trân Sa, ... coi là cấm đoán hay lớp áo mỏng che. Broadway ở New York còn đưa lên sân khấu vở Độc thoại của cái l. (Vagina Monologues) của Eve Ensler trong ngày được gọi là V-day, địa đàng trở nên ẩm ướt mà đối với một số nhà văn nữ, cái ẩm ướt cũng là căn cước của họ. Với họ, tình dục là tự nhiên và những hành cử tình dục cũng như bộ phận sinh dục bị bêu xấu hay không nói đến chắc là để làm dơ, làm xấu, làm mờ phai chính hành cử đó, đối tượng đó. Nên họ làm ngược lại!

Dương Như Nguyện đưa vào đời sống hội nhập Mùi Hương Quế (2000), một mùi thơm của tiềm thức và một thân xác của-lạ để đối phó với thực tại vật chất của xứ người. Một cái nhìn xuyên suốt tâm thức văn hóa gốc khi sống đời hội nhập và thành công ở xứ người. Nhân vật Trâm Kha chẳng hạn hội nhập nhanh: "Trong giai đoạn đầu, tôi tình nguyện ngủ với hắn" (tr. 138), chạy theo tình dục như lâm trận tranh đấu cho nữ quyền, và trên ngay phần đất cơ thể chính mình. Tâm thức về cái thân phận nữ phái, qua những nhân vật thân thích gia đình của bà. Qua nhiều thế hệ: bà ngoại, Tĩnh Tâm, ... Cũng là mùi thơm của oan khiên, tiếc nuối. Trong một truyện ngắn, Như Mưa, Nắng...?, Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể một chuyện tình đồng tính giữa hai người phụ nữ như một chớm nở pha lẫn nghi ngờ:

"Tôi không lesbian, nhưng yêu (...)

Tôi run động ngẩn ngườị Ai là tôi, khi tôi/ai thích chuyện này, khi tôi/ai mê cái khác? Tôi/ai biết quá đại khái về ai/tôỉ Như mưa nằng tầm phàỏ" (16).

Rồi những khám phá như S. Hite về điểm cực khoái của thân xác phụ nữ năm 1976, người nữ hết phải chờ, hết cần được cho; muốn là tìm cho được, hối thức, vồ vập... Người nữ vô tình đánh mất tình cảm đã đành mà mất luôn "ngây thơ tình dục", gia vị thiết yếu cho đam mê, tình yêu, gây quyến rủ. Người viết nữ giới từ ý muốn làm chủ văn chương về phái nữ, đã đi đến chổ làm chủ ảo mộng cho người nữ bởi người nữ. Naomi Worlf, một người tranh đấu nữ quyền Hoa Kỳ nổi tiếng, sau những đòi hỏi triệt để đã quay 180 độ, trở về tự nhiên, chủ trương "nữ quyền làm mẹ" (motherhood feminism) trong mấy cuốn như Fire with Fire, Misconceptions đòi hỏi quyền làm việc đồng thời làm mẹ. Vì hai hình ảnh chính của văn chương nữ phải là người mẹ và người nữ, nên thành đề tài, lý do và thể loại xử dụng và ngay cả việc tận dụng ngôn ngữ.

Trên đà đấu tranh bình quyền, thuốc ngừa thai, của thập niên 1960, người phụ nữ đã bớt hoặc không còn làm mẹ. Thuốc ngừa thai khiến người phụ nữ không phải mặc cảm tội lỗi ! Ngay có con đã có cách cấy giống khỏi cần yếu tố dương, nghĩa là xa hơn thái độ của nhân vật của Trần Thị Ng.H. trong truyện Sinh Nhật (17) định nghĩa một người mẹ/người nữ mới, một mình nuôi con, không cứ phải qua định chế hôn nhân. Và rồi bộ phận có tuyệt vời đến mấy cũng chỉ là một ... cơ quan, cái thiếu vẫn là liên hệ, luật âm dương kinh dịch từng nói đến! Cách mạng tình dục đã là hậu quả của cách mạng nữ quyền, nhưng đã đảo lộn mục đích-đối tượng. Thập niên 1960 họ đòi trả thân xác cho họ nhưng khi thân xác trở thành chính cái Tôi thì thân xác lại chiếm nhiều chỗ quá. Nhục dục từ chỗ bị dồn nén, trở thành khuôn mẫu, khoái lạc, là cấm kỵ trở thành totem (tổ vật), không sanh đẻ, trục trặc nhục dục (libido), cái giống trở nên buồn thiu sau khi tả tơi máy móc hóa, tầm thường hóa (chương trình truyền hình Sex and the City ở Mỹ). Thân xác không tình yêu, từ đối tượng trở nên chủ thể của nhục dục! 

Chống đề cao giống mạnh, nam quyền macho, phong trào nữ nêu khẩu hiệu "đàn bà là tương lai nhân loại, thế kỷ XXI là thế kỷ đàn bà". Mỗi giống tính không thể rút vào vỏ cô đơn tình dục, trí thức và luân lý, cuộc sống còn gì thú vị và tương lai! Nay có thể nói người nữ còn lại bốn ám ảnh chính: tình dục, sợ hãi, bạo lực và khinh rẽ. Nữ quyền đòi hỏi đến một lúc nào đó sẽ rơi vào chán nản, tình dục cũng thành buồn thiu. Saba, nhân vật trong Bên Kia Là Núi của Lệ Hằng, sống buông thả và bạo động tình dục như để chứng minh nữ quyền, cuối cùng đâm ra sợ cả tự do tình dục. Chưa kể đến hiện tượng tiểu thuyết dành cho độc giả phụ nữ, có khuynh hướng xem như những tranh đấu nữ quyền đã qua, nay đưa ra những hoàn cảnh nhân vật nữ bị tiếng sét ái tình hoặc tô điểm một hình ảnh "hoàng tử của lòng em", mà nếu gặp, người vai nữ dám bỏ hết tương lai sự nghiệp để đi theo - như trước kia, nhưng khác là nay do nhà văn nữ viết ra! Và cứ thế, những trào lưu tiếp nối, hết nữ-lưu luận sẽ thuyết lý gì khác?

Không đóng vai luân lý, đạo đức nhưng đối với văn chương dục tính, thiển nghĩ tính văn chương sẽ không ở lâu với những quẩn quanh tình dục không lối thoát. Không bắt buộc phải hướng thượng, nhưng nếu nhân vật, hành động và nội dung của văn chương cứ bị tình dục, thân xác giam hãm tù đày, định nghĩa về văn chương hình như đã bị hãm hiếp một cách tội nghiệp vậy! Đây là chỗ khép lại của nhiều thập niên thử nghiệm kể từ khi nhóm Sáng-Tạo đề nghị buông thả và khai phá tình dục trong văn chương. Cuối cùng, cũng cần nói thêm là dục tính trong văn chương phải chăng một phần do ở người đọc - một thứ "cây sậy biết suy nghĩ"; người đọc trở thành đồng lõa với loại văn chương dục tính ?./.



Chú-thích:

1. Nhất Linh & Khái Hưng. Anh Phải Sống (Sài Gòn : Đời Nay, 1961?), tr. 19.
2. Phùng Nguyễn. Tháp Ký Ức (Westminster CA: Văn, 1998), tr. 97.
3. Sáng Tạo b.m., 5, 11-1960, tr. 97-102.
4. Sáng-Tạo b.m., 1, 7-1960, tr. 26-32.
5. Sài Gòn : Đức Lưu Phương, 1931. Trích theo bản chụp lại.
6. Văn học CA, 124, 8-1996.
7. L’Amant. Paris : Minuit, 1984.
8. "Miền Chân Trời". Văn (SG), 31, 1965, tr. 76.
9. Sài Gòn : Gió, 1973, tr. 276-277.
10. Lệ Hằng. Sóc Nâu, XT tb, tr. 242.
11. Sài Gòn : Kim Anh, 1967, tr. 87.
12. Trần Thị Ng.H. Lạc Đạn Và Mười Truyện Ngắn (Toronto: Thời Mới, 2000), Tr. 67, 43 và 47.
13. San Francisco CA: Mõ Làng, 1998, tr. 183.
14. Tạp chí Thơ CA, số mùa đông 1999.
15. Nhánh Nhỏ (www.nhanhnho.org), 27, 1-2001.
16. Nguyễn Thị Hoàng Bắc. "Như Mưa, Nắng...?". Việt, 6, 2000, tr. 181&182.
17. Một truyện Trần Thị Ng.H. khác, viết năm 1998, in trong Lạc Đạn... Sđd.

30-1-2002
Nguyễn Vy Khanh









Nguyễn Vy Khanh

Văn học Miền Nam qua một bộ "văn học sử" của trong nước


Miền Nam đây là Việt Nam Cộng hòa và nền văn học của những năm 1954-1975. Văn hóa và nền văn học của miền Nam sau những cuộc thanh lọc, bắt bớ và cấm đoán, vẫn tiếp tục bị những bất thường và quái gở của một thế giới văn hoá, biên tập cố tình làm cho sai lạc. Ai cũng biết sau ngày cưỡng chiếm miền Nam 30-4-1975, văn học và văn hóa Việt Nam Cộng hòa đã bị cấm đoán, phủ nhận như thế nào qua nhiều đợt tấn công, dàn cảnh. Nay, đã 35 năm sau, chiến thuật đó vẫn còn ở một nước Việt Nam hô hào cái gọi là 'cởi mở', 'kinh tế thị trường'. Mới đây, chúng tôi được đọc bộ Văn học Việt Nam nơi miền đất mới trên 4 ngàn trang gồm 4 tập của soạn giả Nguyễn Q. Thắng (NXB Văn Học, Hà Nội). Miền Đất Mới ở đây được soạn giả bao gồm miền Nam Lục tỉnh và miền Nam Cộng hòa; và trong các tập 3 và 4 chủ yếu vẫn là những cây viết của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm nằm vùng, ly khai, tập kết, gởi vô Nam hoặc những cây viết từng có mặt thời Việt Nam Cộng hòa nhưng sau này sinh hoạt với các hội và báo chí của Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt Nguyễn Q. Thắng đã xen vào đó những nhà văn của miền Nam 1954-1975, nhưng vì ông có thể nói hãy còn tuân theo một “chính sách” hay “chỉ thị” nào đó, do đó chưa thể là một bộ văn học sử đúng nghĩa – nghĩa là ghi nhận, tổng kết và phê phán các tác giả và tác phẩm như đã xuất hiện và sinh hoạt một thời.

Những phê phán, nhận xét có thể có những chủ đích chính trị:

1. Cố tình nêu sai danh tính các nhà văn Việt Nam Cộng hòa: Ngoại trừ trong một số trích (nguyên) văn, toàn bộ sách của Nguyễn Q. Thắng không nêu đích danh các nhà văn qua các bút hiệu đã dùng, đã quen với người đọc và đã đi vào văn học sử như Mai Thảo, Nhã Ca, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, mà lại dùng tên thật (tên khai sanh) của họ để làm tiêu đề cũng như đánh giá. Mai Thảo trở thành Nguyễn Đăng Sinh (tập 3, tr. 1233, trong khi tên thực thật của Mai Thảo là Nguyễn Ðăng Quý) với chú thích rằng phần này được làm để thông tin về sinh hoạt báo chí và thơ tự do. Nhã Ca lúc được gọi là Thu Vân, lúc lại là Trần Thị Thu Vân. Võ Phiến thành Đoàn Thế Nhơn, Trùng Dương có lúc là Trùng Dương Nguyễn Thị Thái, v.v…

Nhà văn học sử khi viết về các tác giả văn học đều phải ghi bút hiệu là chính, chỉ ở những phần tiểu sử mới nhắc đến tên thật, hoặc giả tác giả đó dùng tên thật để sinh hoạt văn học nghệ thuật thì mới ghi tên thật: Giáo sư Nguyễn Văn Trung có các bút hiệu Hoàng Thái Linh, Phan Mai, nhưng các bút hiệu này chỉ được sử dụng hạn chế và khi xuất bản tác phẩm, tên thật của ông được ghi thì nhà viết văn học đương nhiên phải dùng tên thật của ông. Nguyên Sa ngược lại là một nhà thơ khi ký Nguyên Sa, và khi viết sách giáo khoa triết học (Descartes nhìn từ phương Đông, Luận lý học, Luận Triết học, v.v…) thì ký Trần Bích Lan (riêng cuốn Một bông hồng cho văn nghệ ký Trần Bích Lan khi nhà Trình Bày xuất bản năm 1967; khi ra hải ngoại NXB Đời của ông tái bản thì ký Nguyên Sa); do đó khi viết về nhà thơ Nguyên Sa, người ta có thể nói đến những sách giáo khoa mà ông là tác giả, dĩ nhiên là không thể ngược lại, viết về ”nhà thơ Trần Bích Lan” vì không hề có nhà thơ Trần Bích Lan dù Nguyên Sa và Trần Bích Lan là một người.

- Lê Vĩnh Hòa được ghi trong tiểu sử là “em ruột văn sĩ Đoàn Thế Nhơn...” (tập 4, tr. 270 – từ đây các chú thích đều trích từ tập 4) - thay vì Võ Phiến!
- Về hai nhà văn Y Uyên và Doãn Dân, ông Nguyễn Q. Thắng chỉ ghi năm mất của Doãn Dân; còn Y Uyên thì “mất năm 1969 đang độ tài hoa nẩy nở”(tr. 827) nhưng không ghi rõ chết vì đạn pháo của ai (Việt Cộng!) trong khi các tay văn nghệ nằm vùng ở miền Nam vô bưng chết thì được ghi lý do chết: Lê Vĩnh Hòa thì “hi sinh trong một trận chống càn tại Long Mĩ, Xẻo Giá...” (tr. 270); Trần Triệu Luật thì “hi sinh trên đường công tác ở Tây Ninh (cùng nơi cùng ngày với) Trần Quang Long”. Trần Triệu Luật được đề cao trong một mục từ riêng (51- TTL, nhà văn chiến sĩ) cũng như Trần Quang Long (42- TQL với thi đề 'nghiêng nón'”!
- Về Luân Hoán thì một chi tiết trong tiểu sử nếu không được nhắc đến vẫn còn hơn là ghi như Nguyễn Q. Thắng: “Những năm 60 ông (LH) bị động viên vào quân trường Thủ Đức một thời gian rồi trở về đời sống dân sự” vì phải thêm rằng sau Thủ Đức, nhà thơ Luân Hoán ra chiến trường và bị đạn pháo “quân thù” làm mất một chân!
- Hay khi viết về nhà văn Lê Tất Điều “Sau năm 1975 ông (LTĐ) định cư (?) ở Hoa Kì và nghe đâu vẫn có tác-phẩm in ở nước ngoài” - một nhà nghiên cứu, tác giả của bao bộ sách hàng vạn trang, mà chỉ biết “nghe đâu”!
- Cũng vì nghe đâu nên mới viết về nhà văn “Hồ Trường An, dược sĩ, nhà văn” (mục từ 32): “Từ năm 1977 định cư ở Pháp. Chưa có tác phẩm in thành sách, nhưng có nhiều truyện ngắn trên các tạp chí ở Sài Gòn trước năm 1975”.
- Còn gọi Viên Linh là “hoàng đế”, “nhà độc tài” văn học, như mục đề 28 về nhà văn Viên Linh, là hơi… quá, dù có thể cốt ý bênh cô Phương Thảo tức Vũ Hạnh. Thiển nghĩ với văn học miền Nam thời 1954-1975, Viên Linh vừa là một nhà thơ, nhà văn vừa là một chủ biên tạp chí (Thời Tập) có công, dĩ nhiên không phải công kiểu Vũ Hạnh!

2. Những thiếu sót, sai lầm có chủ đích:

Trong phần về giáo sư Nguyễn Văn Trung (tập 4, trang 7-54), mở đầu Chương 8-Các Văn Gia Hiện Đại, Nguyễn Q. Thắng ghi rằng giáo sư Trung còn có bút hiệu Nguyễn Nam Châu. Thực ra, Nguyễn Nam Châu (bút danh Hoài Kim Yến) là một giáo sư đại học Huế những năm cuối thập niên 1950, viết nhiều bài trên tạp chí Đại Học và là tác giả những cuốn Sứ mệnh văn nghệ và Những nhà văn hóa mới (1958). Sau này ông Nguyễn Nam Châu trở về Bỉ làm giáo sư đại học và không lâu trước khi mất đã xuất bản một tập sách nhìn lại chủ nghĩa Marx. Nguyễn Q. Thắng còn ghi thời trước 1975, giáo sư Nguyễn Văn Trung sinh hoạt trong một số lực lượng, hội đoàn “dưới sự chỉ đạo trực tiếp, có lúc gián tiếp của lực lượng cách mạng nội thành” mà không dẫn chứng bằng cớ, dễ khiến hiểu lầm và trong trường hợp này sai lầm rất nghiêm trọng. Trong phần trích văn tác giả Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Q. Thắng trích lại một phần cCương 5 – “Văn-học trong vòng tay chính trị” của hồi ký Những chặng đường đã qua của giáo sư Trung, nhưng trong phần tiểu sử nhắc việc Phạm Công Thiện phê bình các tác phẩm của gs Trung, mà Nguyễn Q. Thắng lại không ghi nhận những 'feedback' về việc ấy mà giáo sư Trung đã ghi lại trong cùng tập hồi ký đã kể; hơn nữa nếu quan sát đã thấy bài phê bình của Phạm Công Thiện đã không xuất hiện trong các lần tái bản tập Hố thẳm tư tưởng, nhưng lại được một nhóm Phật tử ở Huế in lại thành tập in mỏng Phê bình luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Văn Trung năm 1973.

Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã viết trong hồi ký của ông:

“Sau đảo chánh 01/11/1963, ông Phạm Công Thiện xuất bản cuốn Hố thẳm tư tưởng, dành một chương phê phán luận án tiến sĩ của tôi với một thái độ khinh bỉ, trịch thượng, mạt sát thậm tệ. Cuốn sách bán chạy, dư luận bàn tán sôi nổi vụ “ông Phạm Công Thiện phê phán ông Nguyễn Văn Trung”, chờ đợi tôi lên tiếng đối đáp; nhưng cho đến nay tôi vẫn giữ im lặng, không có một lời nói công khai nào. (…) Tôi và ông Thiện gặp nhau ở tòa báo Bách Khoa với sự chứng kiến của anh Lê Ngộ Châu. Trong bữa gặp gỡ đó, ông Thiện thú nhận với tôi đại ý như sau: Tôi viết bài phê bình anh để thỏa mãn những uất ức bất mãn của giới Phật giáo coi anh là tiêu biểu cho trí thức Việt Nam nói chung và trí thức Công giáo nói riêng. Tôi xin hứa với anh sẽ bỏ bài đó trong lần tái bản sách sắp tới. Ông Phạm công Thiện đã giữ lời hứa.” (Chương IV-. Ông Phạm Công Thiện).

3. Những đánh giá và xếp loại vô nghĩa, lỗi thời:

Đây là trường hợp các nhà văn nữ miền Nam thời ấy Túy Hồng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, kể cả Nhã Ca, đều bị Nguyễn Q. Thắng gán cho nhãn hiệu 'vô sỉ'. Theo ông, các này mà ông gộp chung là “những người cùng nhóm là một thứ 'vô sỉ' (cynique) trong văn chương. Nghĩa là họ đem những cái không đáng phô trương ra quảng diễn không chút e dè (Nguyễn Thị Thụy Vũ tr.455, Trùng Dương tr.872, Nguyễn Thị Hoàng tr.629,…)”. Nguyễn Q. Thắng thêm rằng Nguyễn Thị Thụy Vũ làm công việc này “khá nhiệt tình trên từng trang văn”, còn tác phẩm nhà văn Trùng Dương “đều được dựng nên bởi nhân sinh quan và thế giới quan một cách “hiện sinh”, buông xả và gần như vô sỉ” (tr. 872, 873). Nặng nề nhất là với nhà văn Túy Hồng mà Nguyễn Q. Thắng cho rằng cùng với các nhà văn nữ kia “từng gây nên hiện tượng văn học có tính nhục cảm dồn nén thể xác của các cô gái lỡ thì... (một cách) tiêu biểu nhất” (tr. 538). Đây là thứ ngôn ngữ của Vũ Hạnh và Tin Văn (do Nguyễn Ngọc Lương, Trần Bạch Đằng chi phối, điều khiển)!

Nhà văn Nhã Ca có lẽ bị nặng nề nhất trong bộ gọi là văn học sử này. Với mục đề “35-Thu Vân, nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề” mấy ai nghĩ là Nguyễn Q. Thắng nói về nhà văn Nhã Ca? Ở trang 639, “Thu Vân” biến thành “Trần Thị Thu Vân”, và khi viết về thơ Nhã Ca, không, về nhà thơ Thu Vân chớ, thì ông Nguyễn Q. Thắng viết như sau: “Bà còn là một thi sĩ với những thi đề có giá trị nghệ thuật của mĩ tính thi ca hiện đại có thể nói thơ bà Thu Vân vượt trên văn bà Thu Vân”. Sau đó ông trích bài thơ nổi tiếng của bà nhưng lại cắt mất một phần tựa đề chỉ vì trùng với bút hiệu thật của bà (Nhã Ca!): “Bài… Ca thứ nhất”!

Nhà văn Nhật Tiến khi viết về các nhà văn nữ này đã nhẹ nhàng nhận xét rằng “...những tác phẩm viết táo bạo của giới cầm bút phụ nữ, gây cho độc giả một ấn tượng mới mẻ về những ý tưởng muốn thoát ly cái vỏ phụ nữ Á-đông thuần túy...” (Bách Khoa, 1967). Gần đây, nhà thơ Du Tử Lê thì khẳng định rằng “Nhã Ca, nhà văn nữ nói “không” với dục tính” trong bài viết cùng tựa đề trên tờ Người Việt (CA) số 6-4-2010.

Bộ sách của ông Nguyễn Q. Thắng đã khiến người đọc nhận thấy sự hiện diện quẩn quanh của một chỉ thị nào đó của bộ chính trị!

Cách nhìn của mấy cây viết “phải đạo” như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Trần Trọng Đăng Đàn, và nay Nguyễn Q. Thắng đã là một cái nhìn mang tính xã hội, chính trị của một quan niệm macho toàn trị, tức không mang tính văn chương; quan niệm bao cấp này đã lỗi thời và rất bất cập! Gần 10 năm trước, chúng tôi đã có dịp viết về đề tài Tính dục và nữ quyền này:

“Phải đến Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương văn chương mới trở thành phương tiện cho nữ quyền và quyền sống. Thật vậy, từ cuối thập niên 1960, người viết nữ đã mạnh bạo đi xa hơn, tự tin hơn và những vấn đề phụ nữ được chính thức trương lên chữ nghĩa. Cái Tôi, nhân vật chính, nội dung, tình cảm, tình yêu, tình dục,... không còn là của riêng những nhà văn thơ phái nam (...) Văn chương dục tính hay có dâm tính lại do người nữ viết hình như hấp dẫn hơn vì cũng hình như có tính tự thuật nhiều hơn. Vì từ nay, người nữ làm chủ con người, tư duy, tình cảm và cuộc đời của họ trong văn chương. Làm người nữ, với văn chương! Simone de Beauvoir trong Le Deuxième Sexe (1949) đã phát động cái ý thức nữ quyền đó khi hô hào "On ne nait pas femme, on le devient". Trong văn chương, trong ngôn ngữ, vì là cái có thực, có sự sống. Như vậy, viết trở thành hành động tự xác định của người phụ nữ, trở thành phát ngôn viên chính thức của con người phụ nữ, tiếng nói chính thức và từ tình dục (…) Không đóng vai luân lý, đạo đức nhưng đối với văn chương dục tính, thiển nghĩ tính văn chương sẽ không ở lâu với những quẩn quanh tình dục không lối thoát. Không bắt buộc phải hướng thượng, nhưng nếu nhân vật, hành động và nội dung của văn chương cứ bị tình dục, thân xác giam hãm tù đày, định nghĩa về văn chương hình như đã bị hãm hiếp một cách tội nghiệp vậy! Đây là chỗ khép lại của nhiều thập niên thử nghiệm kể từ khi nhóm Sáng Tạo đề nghị buông thả và khai phá tình dục trong văn chương...”

Một quan niệm khác mà Nguyễn Q. Thắng hay nói đến và gán cho vài nhà văn, là sadisme. Theo các từ-điển thì sadisme có nghĩa là “thói loạn dâm gây đau” trong y học và một cách tổng quát chỉ những trò, những lối sống và cả bút pháp “chủ khoái lạc bạo tàn”. Bút pháp của nhà văn Duy Lam mà Nguyễn Q. Thắng gọi là “nhà văn của dòng họ” đã được ông gọi là “bút pháp nặng tính sadique của văn chương hiện đại tây phương” (tr. 256). Em ông, nhà văn Thế Uyên thì được xem là “một nhà văn thuộc trường phái sadique như ông tự nhận ‘có lẽ tôi hơi sadique’” (tr. 325). Khuynh hướng này nhà thơ Nguyên Sa ở Miền Nam đã là người đầu tiên sử dụng. Sadisme là một ý niệm, một style, nếu áp dụng vào lãnh vực văn chương thì cũng chẳng có gì tai hại cần phải nhấn mạnh.


4. Bất nhất về thời gian:

Với những nhà văn Việt Nam Cộng hòa sống sót và thoát rời khỏi nước được, về sau tiếp tục sinh hoạt ở hải ngoại, Nguyễn Q. Thắng dừng tiểu sử họ và ngừng ghi tác phẩm của họ ở mốc 1975, trong khi các nhà văn của Việt Nam cộng sản hay theo Cộng thì lại được tỉ mỉ tiểu sử và tác phẩm đến ngày xuất bản bộ sách (2008-9). Một điểm khác nữa là Nguyễn Q. Thắng thường trích các tác phẩm đã đăng báo hơn là từ văn bản đã xuất bản của các tác phẩm và tác-giả đó. Vậy đây là một tuyển tập văn học qua báo chí hay văn học sử? Võ Phiến trước khi xuất bản các tuyển tập về văn học miền Nam 1954-1975, đã cất công viết một tập Tổng quan, trong khi bộ sách của Nguyễn Q. Thắng chỉ là một sưu tập và tiểu truyện về các tác giả miền Nam với những giới thiệu có tính thương mại hơn là đi vào nội dung!

Xem bộ sách của Nguyễn Q. Thắng không khỏi nhớ đến dĩ vãng tàn độc đối với nền văn học của những kẻ sống ở miền Nam, trong vùng Việt Nam Cộng hòa bị chiến bại, đã bị 'kẻ thắng' xóa bỏ bằng những nghị định và chiến dịch: Nghị định 20-8-1975 của Lưu Hữu Phước bộ trưởng Thông tin văn hóa của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam - nghị định cấm lưu hành sách báo xuất bản tại miền Nam trước đó. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) ghi rõ nhiệm vụ phải "quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa thực dân mới" ở miền Nam (Trích từ Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ Ngụy (Hà Nội: Văn Hóa, 1977), tr. 8). Tháng 3-1976, từng đoàn từng đoàn cán bộ càn quét tịch thu hết sách báo xuất bản dưới thời chế độ cũ, để đốt, "tẩy". Chiến dịch thanh toán "bọn văn nghệ sĩ phản động" khởi đầu sáng 3-4-1976, hai ngày sau vụ nổ công viên con rùa đường Duy Tân: công an lùng bắt hầu hết văn nghệ sĩ và trí thức. Sau đó là tù đày, cải tạo, và khi nghi bóng nghi gió lại tiếp tục càn quét thu vén sách Việt Nam Cộng hòa như vào tháng 3-1981, nhà cầm quyền ra hẳn một cuốn danh mục sách và tác giả cấm lưu hành. Những gì không xuất phát từ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản đều phải xóa bỏ, phủ định, vì "mảng" văn học này bị kết án là "đồi trụy hóa con người", "phục vụ xã hội tiêu thụ miền Nam" tức một thứ "văn học phục vụ chính trị phản động", phản cách mạng - những cái nhãn hiệu có thể làm tiêu mạng sống con người! Từ 1975 đến nay có hơn 20 cuốn sách phê phán xuyên tạc nền văn nghệ Việt Nam Cộng hòa: văn học tay sai cho thực dân mới cũ nhưng đáng sợ như những trái bom! Như vậy, ngay sau khi "chiến thắng", các cán bộ và cả guồng máy liền gấp rút tấn công và thủ tiêu những thành tích văn hóa văn học ở miền Nam trước khi họ đến.

Gần đây đã có vài cử chỉ có tính “xét lại”. Vài tác phẩm của nhà văn Việt Nam ở hải ngoại được xuất bản ở trong nước, dĩ nhiên đã qua gạn lọc (gần đây thêm Kiệt Tấn - Em điên xõa tóc, Hoàng Khởi Phong - Người trăm năm cũ). Riêng tác phẩm của các nhà văn Việt Nam Cộng hòa từng bị cấm đoán sau 1975, nay cũng được tái bản (như của Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, Thế Uyên, Nhật Tiến, v.v...), vậy mà Nguyễn Q. Thắng làm công việc gọi là văn học sử lại không cho biết Phi Ích Nghiễm là Dương Nghiễm Mậu! Khi giới thiệu các truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu được NXB Phương Nam hợp tác với NXB Văn Nghệ xuất bản năm 2007, Phạm Xuân Nguyên đã có cái nhìn thích đáng hơn Nguyễn Q. Thắng:

“Văn chương dân tộc Việt Nam thế kỷ XX, do nhiều hoàn cảnh lịch sử và lý do khác nhau, đã không thuần nhất và thống nhất. Có một thực tế đã trở thành lịch sử là trong giai đoạn 1954 - 1975 đất nước bị chia thành hai miền lãnh thổ với hai thể chế khác nhau và dưới hai thể chế trên hai miền lãnh thổ ấy đã tồn tại hai nền văn chương khác biệt về ý nghĩa chính trị. Nhưng ở những tác giả và tác phẩm tiêu biểu, ở bên này hay bên kia, đó đều là văn chương đúng nghĩa, tức là có giá trị nhân bản, nhân văn đối với con người. Tôn trọng lịch sử thì phải thừa nhận một thực tế khách quan là văn chương Việt Nam thế kỷ XX có các bộ phận khác nhau, và để hình dung bức tranh đầy đủ về văn chương dân tộc thì phải có sự tổng hợp, thống nhất các giá trị văn chương đích thực từ các bộ phận cấu thành ấy. Độ lùi thời gian và hoàn cảnh chính trị xã hội hiện thời của đất nước đã tạo điều kiện cho việc này. Trên tinh thần đó, “Tủ sách văn học miền Nam trước 1975” do Nhà xuất bản Văn Nghệ và Công ty văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện là một ý tưởng và công việc cần thiết và hợp thời, trên cả hai phương diện chính trị và văn chương, đáng được trân trọng và ủng hộ. Lựa chọn in lại những tác phẩm có giá trị văn chương của các nhà văn nhà thơ từng sáng tác ở Sài Gòn giai đoạn 1954 – 1975 là nhìn văn học ở tư cách văn học dưới con mắt lịch sử. Hơn thế, đó còn là đưa trả lại cho văn chương nước nhà những giá trị xứng đáng của nó và đem lại cho độc giả văn chương những tác phẩm họ cần biết, cần đọc để hiểu đầy đủ, toàn diện hơn nền văn chương dân tộc thế kỷ XX. Có thời ném đá đi và có thời lượm đá về.

Bốn tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi mắt trên trời, Cũng đành,Nhan sắc, Tiếng sáo người em út) vừa được ra mắt ở Nhà xuất bản Văn Nghệ là trên tinh thần này. Đọc nó, độc giả sẽ được phát hiện một nhà văn xuất sắc với một lối viết hiện đại, thấm đầy chất hiện sinh, đi sâu vào thân phận con người, phơi bày những cảnh ngộ làm người trong một thế giới nhiều bất trắc, phi lý. Do đó đọc ông không thể đọc theo kiểu ngoại quan mà phải bằng con mắt nội quan...” (Thể Thao & Văn Hóa, 13/4/2007).

Viết văn học sử mà gọi Nguyễn Đăng Sinh thay vì Mai Thảo, Đoàn Thế Nhơn thay cho Võ Phiến, Thu Vân và Trần Thị Thu Vân thay vì Nhã Ca, v.v... thì quả là bất thường thật! Không lẽ những danh tính nhà văn Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Nhã Ca, v.v… hãy còn nhạy cảm và gây dị ứng đến thế sao? (Dĩ nhiên không thể có Hồ Hữu Tường, Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn, v.v... trong bộ sách của Nguyễn Q. Thắng!). Cũng cần nhắc lại, những nhà văn nhà thơ của miền Nam bị giấu tên trong bộ sách của Nguyễn Q. Thắng nằm trong số 10 vị từng bị gọi là Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng - tựa sách do nhà xuất bản Văn hóa in năm 1980 và tái bản nhiều lần. Tập này gồm 10 chương, nêu đích danh 10 nhà văn miền Nam để xóa bỏ sự nghiệp văn hóa và văn học của họ, những người theo họ là nguy hiểm nhất vì ảnh hưởng “di hại” lâu dài. 10 “biệt kích” đó là Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Nhất Hạnh, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Võ Phiến, Hồ Hữu Tường và Nhã Ca.

Một nền văn học giấu mặt, danh xưng đảo lộn,... thì làm sao đến gần được sự thật mà lại còn lớn tiếng kêu gọi hòa hợp hòa giải? Và phải chăng nền “học thuật một nửa sự thật” này đã khiến cho một giảng viên đại học sư phạm đã không biết Tự Lực Văn Đoàn là gì, hoặc Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam là ai (Chương trình Ai là triệu phú? của đài truyền hình Hà Nội, 1-2007).

Chúng tôi tự hỏi không biết có nên thêm vào bài này rằng sau bộ sách Văn học Việt Nam nơi miền đất mới của Nguyễn Q. Thắng là vụ Nguyễn Đức Tùng in tập Thơ đến từ đâu gồm những phỏng vấn một số nhà thơ trong ngoài và sau đó là vụ Hội thảo văn học Việt – Mỹ sau chiến tranh được tổ chức tại Hà Nội cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm nay, 2010, vụ trước còn có lời ra tiếng vào, vụ sau chỉ có báo Nhà Nước Việt Nam đưa tin. “Con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ”: tên nghe kêu nhưng con đường đó chỉ đi rất giới hạn, từ Hà Nội đến Trung tâm William Joiner ở Boston rồi trở về, không quá khứ xa hơn, cũng không có tính truyền thống lẫn văn học!

Ngày song thất 2010

© 2010 Nguyễn Vy Khanh
© 2010 talawas



















Phỏng vấn





Tên thật: Nguyễn Vy Khanh 
Ngày và nơi sanh: 1951, Quảng Bình 
Hoạt động trước 1975: Giáo chức Trung học đệ nhị cấp, Khánh Hoà 
Định cư: 14-5-1975, Montréal, Canada rồi Quebec City và trở về Montréal 
Đã sáng tác: Thơ, truyện, bình luận chính trị và biên khảo văn học sử 
Ước vọng: Hoàn thành biên khảo toàn bộ Văn học miền Nam 1865-1975; Văn học Việt Nam hải ngoại; Kinh Dịch áp dụng, etc... 
Các nơi đã qua và muốn trở lại: Nha Trang, Mỹ Tho, Đà Lạt, vài làng quê ở Pháp và Canada. 


1) Cát Biển (CB): Chào anh Vy Khanh. Quả là một duyên hội ngộ! Anh nổi tiếng vì thường viết về người khác hơn là "bị" người khác phỏng vấn anh. Hôm nay Nguyệt San Văn Hoá Hồn Quê xin dành cơ hội lý thú này mời anh ra sân khấu để giúp mọi độc giả khắp nơi hiểu thêm vài khoé cạnh về nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh. Xin anh vui lòng cho biết những chi tiết về chánh quán, các sinh hoạt trước và sau 1975, gia đình, và môi trường sống hiện tại. 

Nguyễn Vy Khanh (NVK): Trước hết tôi xin cảm ơn anh Cát Biển và nhóm Hồn Quê đã có nhã ý hỏi thăm tôi và cho tôi cơ hội đến với độc giả. Cái "Tôi" mà nhà tư tưởng Pascal đã nhắc nhở là đáng ghét thành thử tôi từng từ chối phỏng vấn, nhưng hôm nay tôi xin được phá lệ để trả lời quí anh, lý do sẽ bàn bạc qua các trao đổi với anh. Xưa nay tôi vẫn tự đặt quy luật tu thân là cố gắng, lúc nào cũng cố gắng, mỗi khi làm việc gì, nếu gặp trở ngại tôi sẽ tạm đi đường detour, như khi xa-lộ sửa đường phải đi đường khác, nhưng cuối cùng phải trở lại cho được con đường đã vạch hoặc muốn đi. Tâm nguyện tôi thích làm quan sát viên âm thầm, kẹt quá mới phải đưa mặt ra, thành thử tôi từng là thư ký hoặc tổng thư ký của nhiều tổ chức (Hội Người Việt Quebec City, Tổng Liên hội Người Việt Tự Do Hải ngoại, Gia Đình Cựu Giáo Chức ở tỉnh bang Québec, Trung tâm Việt Nam Học, Cộng đồng Công giáo Montréal, v.v.) - một chức để "vác ngà voi" hơn là để đọc diễn văn. 

Xin trở lại câu hỏi của anh. Sinh quán tôi là một làng quê Quảng Bình nhỏ và rất nghèo đất cày lên sỏi đá bên bờ sông Gianh và chân núi Đâu Mâu, nơi từng là ranh giới chia đôi đất nước thời Trịnh-Nguyễn. Vừa đầy một tuổi thì quê nhà trở thành bãi đấu trường cho "cách-mạng" và đấu tố hãi hùng, ba mạ tôi di cư vô Huế và bốn năm sau nữa thì Nam-tiến vô Sài Gòn trưởng thành cho đến khi tốt nghiệp đại học Sư Phạm Sài Gòn chọn nhiệm sở Khánh Hoà và lập gia đình mới trở ra Trung. Tôi tốt nghiệp thủ khoa khóa 13 ban Việt Hán nhưng năm đó luật đổi, chỉ chọn Ty thay vì chọn trường như trước, nên khi đến Ty chọn trường, gặp ... hạm - tham nhũng đó anh, chứ không phải đồng ngũ của anh đâu anh Cát Biển, tôi chọn trường trung học quận Vĩnh-Xương bên quốc lộ 1 gần tượng Phật trước khi vào đến Nha Trang. 

Về nghề nghiệp, trước sau tôi rất ... bảo thủ, chọn những nghề...chắc - chắc ăn và thích hợp với con người tôi. Khi cùng xong dự bị Văn Khoa và năm thứ nhất Luật, tôi định thi vào Quốc-gia Hành chánh, nhưng năm đó được biết ra trường sẽ về ... Phường, Xã, thành thử tôi bỏ giấc mơ làm ... quan, trở lại thi vô Sư phạm học làm ... thầy thì kỳ thi tuyển đã qua, phải đợi năm sau. Tôi bỏ Luật nhưng vẫn học Văn khoa song hành và đậu cử nhân giáo khoa Triết tây năm 22 tuổi rồi Cao học Triết Tây với giáo sư Nguyễn Văn Trung, luận án về đạo đức trong văn học Việt Nam hiện đại, tôi chọn một đề tài hợp cho hai ngành Việt Hán và Triết Tây tôi đang theo đuổi. Tôi tốt nghiệp Sư phạm năm 1974 và ra trường chưa dạy trọn niên khóa đầu đã phải bỏ Nha Trang di tản vô Sài Gòn và rời khỏi nước một đêm trước ngày 30-4-1975. Thời sinh viên tôi cũng đã từng dạy ở nhiều tư thục ở thủ đô. Nói một năm nhưng tôi vào Sài Gòn hai lần đổi giấy hoãn dịch đều bị kẹt lại ngoài ý muốn, đường quốc lộ 1 lúc đó ở Long Khánh hay bị địch chiếm, lần thứ hai phải lấy Air Viet Nam về nếu không bị lão hiệu trưởng dọa với người nhà sẽ truy tố đào nhiệm; sau tháng Tư 1975, y lộ ra là người của bên kia! 

Số được "du học tập thể" nên hôm nay, 27 năm sau, mới được tiếp chuyện với anh trên đất Bắc Mỹ! Đến Montréal hôm trước thì hôm sau tôi được nhận học Cao học Quản trị Thư viện (Library Science) nhưng không một xu dính túi, và bà xã sắp sinh đứa con trai đầu lòng, nên tôi đi làm 12 giờ một ngày, một tuần ngày một tuần đêm, và năm sau mới đi học lại. Ra trường tôi nhập quốc tịch Gia Nã Ðại hôm trước thì vài hôm sau có việc làm công chức (lại một nghề chắc ăn, dù ở xứ người!), 8 năm ở thư viện Quốc hội, phần còn lại ở bộ Giao Thông. Nghề gốc là thủ thư nhưng nay chức là chuyên viên về thông tin và liên hệ đến Technology Transfer cũng như Knowledge Management. Hình ảnh người làm quản thủ thư viện người ta hay nghĩ đến một bà tóc muối tiêu đeo gương cận nặng, ngồi một chỗ, nay cũng đang bị "tiệt giống", nhất là ở các thư viện nghiên cứu khoa học, computer, information management động não hầm bà lằng! 



(Đứng) Nguyễn Vy Khanh, Nguyễn Khánh Hoà, Thu Ba, anh chị Quách Gia Tịnh (Ngồi) Quan Dương, Nhật Nguyễn, Hữu Việt


2) CB: Xin anh cho biết các chi tiết và những phấn đấu nội tâm về chuyến di tản của anh năm 1975. Tại sao anh lại đến định cư tại Canada, và các khó khăn lúc mới đến Canada? 

NVK: Nha Trang bỏ trống ngày 1 tháng 4-1975, sau khi đã chứng kiến những cái chết bi thảm trên những xà-lang từ Đà Nẵng vào neo ở Cầu Đá, chúng tôi đành chất đồ lên xe theo đường quốc lộ 1 xuôi Nam. Đi đến đâu thì ở đó tan hoang theo : Cam Ranh, Phan Rang, Phan Thiết. Chúng tôi suýt chết trên quốc lộ 1 gần Bình Tuy khi chính phủ Sài Gòn ra lệnh pháo kích vào đoàn xe và người di tản - người quốc gia giết người quốc gia, tin đồn là để bảo vệ thủ đô ?! Những quân xa ép xe thường dân phải nhường đi trước nhưng đến đó mới thấy đa số đều bị chết hoặc bị thương nặng, khi chúng tôi đi qua thì mùi đạn và tử khí thật rùng rợn, nhiều người chưa chết giơ tay cầu cứu nhưng ai cũng sợ quá không ngừng la.i. Tôi vẫn tin có số mạng vì sau đó khi theo chiến hạm số 1 ra Côn đảo đêm 29, chúng tôi đã tính xuống thuyền nhỏ để vào bờ cũng như khi qua đến đảo Guam còn tính lên tàu Việt Nam Thương Tín để hồi hương. Chuyến tàu nhỏ do một ông đại tá Hải quân có vợ móc nối với bên kia khi vào cửa Cần Giờ liền bị bắn chìm vì họ chờ đem tàu lớn về, còn tất cả những người hồi hương trên chiếc tàu VNTT đều bị hốt vô trại tù Phú Khánh. Vào thời điểm đó tôi chán đồng minh, xin đi Pháp thì Pháp phải nịnh chủ mới, Canada thì nhận hết những ai có bằng đại học. Sang đến Canada vài tuần thì chúng tôi mới cảm nghiệm được thế nào cái buồn xa xứ không ngày về, nhất là bà xã tôi chưa quen sống xa gia đình, đã định đi New York với mấy bác lớn tuổi hơn xin Liên-hiệp quốc cho hồi hương, nhưng cuối cùng sự khôn ngoan đã cản mọi người! Canada là một quốc gia rất nhân đạo, chúng tôi đến Canada rồi mới xin thể chế di trú (landed immigrant), được cho ở hotel ngay trung tâm thành phố Montréal, bửa ăn có người tiếp y như nhà hàng vậy. Chính phủ Canada giúp người tị nạn hội nhập và tự lập rất sớm, so với Hoa-Kỳ, sau hai tuần là giúp kiếm thuê appartment, tìm việc làm hoặc đi học sinh ngữ 7 tháng có trả lương y như đi làm. Montréal lúc đó có chừng trăm sinh viên du học, với đoàn tị nạn nâng dân số Việt lên đến 4, 5 rồi 40, 50 ngàn người. Tôi đang làm thông dịch cho Sở di trú Canada giúp đợt boat people Hải-Hồng thì có việc ở Quebec City, khi đi nhận việc là chấp nhận một cuộc lưu vong thứ hai, vì ở đó dù là thủ đô tỉnh bang nhưng người Việt trước sau chỉ có vài trăm người. Với thời gian, ý nghĩa và cường độ sự lưu vong của tập thể lên xuống theo biến chuyển ở bên nhà, bên này, cũng như theo những người đến sau này! 

3) CB: Lý do nào đưa đến sự chọn lựa ngành Triết Tây mà anh đã theo đuổi trước 75? Hướng đi đó đã làm thay đổi thế nào trong suy tư và lối viết cuả anh? 

NVK: Chuyện tôi hơi lẩm cẩm, nhưng việc tôi chọn ngành Triết là một cách chính thức hóa những yêu thích đã thẩm nhập trong tôi một cách vô thức. Chắc anh còn nhớ thời 1964-66 sách Phạm Công Thiện, Tam Ích và sách dịch của Trần Thiện Đạo đã là những sách gối đầu giường của nhiều sinh viên học sinh. Tôi đọc nhiều từ những năm 11, 12 tuổi vì tôi được thừa hưởng thư viện của người cậu vì chính trị phải bỏ nước ra đi. 15, 16 tuổi tôi đã viết xong một tập tiểu luận ... về hiện sinh và kiếp người, đại để như vậy, tôi già sớm và lẩm cẩm đã bắt đầu thành ... nếp từ đó ! Học Triết mà yêu thích thì dễ tà tà vì thứ nữa tôi là con trai một nên không bị áp lực học để hoãn dịch! Học đến cử nhân rồi Cao học Triết tây nhưng người ảnh hưởng tôi nhiều là linh mục Kim Định triết Việt và hai giáo sư bên sư phạm là Trương Văn Chình và cụ Giản Chi. Kiến thức với các vị sau cũng như nhiều giáo sư khác, cho tôi căn bản Việt Nam và ngôn ngữ xử du.ng. Từ cuối năm thứ hai sư-phạm, tôi đã đọc được sách chữ Hán văn-ngôn như Sử-Ký Tư Mã Thiên, thành thử chữ tôi dùng phần nào từ nguồn sách cổ đã nhập tâm ! 

Nói gì thì nói, kiến thức triết học giúp tôi nhiều khi đi vào những lãnh vực khác, nghiên cứu cũng như thưởng thức văn học, triết đông và Tây, như một cái phông không thể thiếu, như một loại tiềm thức cho mọi ý thức, và tôi có cái may mắn đó! Không có nghĩa là tôi khá hơn, nhưng trọn vẹn hơn, có căn bản hơn cho ai muốn đi vào lãnh vực nghiên cứu bất kể ngành gì. Anh CB thấy đó, khi vào một thư viện (ngoại trừ thư viện chuyên ngành), sách triết học và tôn giáo luôn đứng đầu bảng phân loại, sau đó kiến thức con người mới chia ra nhiều ngành khác, văn học cũng vậy ! Năm năm học Triết, từ đó đến nay có nhiều dịp suy ngẫm, nay tôi nghĩ triết-học không đủ, phải thành triết đ?o. Tôi nghĩ chỉ có một triết đạo áp dụng cho con người, bất kể nguồn gốc, chủng tộc, nhưng có nhiều hình thức, phương tiện. Và có thể có nhân quả, có kiếp trườc đời sau, nhưng theo tôi nghĩ cái quan trọng là cái hiện tại cần phải cáng đáng cho ra trò. Kiếp hiện sinh, cái hiện tại là chuyện trước mắt cần phải có hành động. Sự cứu rỗi đến từ hành động hiện sinh, vì sự hiện diện của ta ở đây, lúc này, có giá trị, ý nghĩa cần phải được xác nhận, qua hành động, qua nhập thế! Sống hôm nay cho kiếp sau đời sau như một số tôn giáo dạy, mà bỏ phần tích cực, thực tế trước mắt, tôi nghĩ là không tưởng và không làm trọn thiên chức làm người hôm nay trên trần thế này! Ý nghĩ triết đạo này còn nghiệm đúng qua một vài nhà tư tưởng người Việt, ở hải ngoại như triết gia Trần Công Tiến tác giả hàng loạt sách Triết hiện-tượng luận áp dụng mới xuất bản mấy năm trở lại đây ở hải ngoại, trong đó ít nhất có hai cuốn vừa được nhà xuất bản Mỹ in, dĩ nhiên là viết tiếng Anh. Tiến đi từ triết-học thuần lý đến triết đạo áp dụng, từ triết rời thần đi đến kết hợp với thần học ! Tiến là đàn anh nhưng chúng tôi có "duyên" từng "cắp sách đi học" lại lúc vừa mới lạc lõng lưu vong ở Montréal, anh ta làm luận án Triết còn tôi "thực tế" hơn bỏ nghề "gõ đầu trẻ" để theo ... sách, mà ở xứ này "gõ đầu trẻ" thiệt dễ bị vô tù sớm, còn sách thì hiếm khi phản mình lắm, anh có đồng ý với tôi không? 

4) CB: Ngày gặp anh tại Nam Cali năm nay, tôi không ngờ anh rất trẻ trung và hồn nhiên, so với lối viết quá chững chạc đến độ như một ông đồ hay một giáo sư nghiêm túc trọng tuổi. Xin anh giúp phân tích cho biết các đặc tính gì trong giọng văn của anh đã đưa người đọc đến những ấn tượng ấy ? 

NVK: Anh hỏi câu này thì khó cho tôi. Tôi vẫn viết bình thường, tôi không ngờ lại gây cho người đọc những cảm tưởng đó. Có thể tôi già sớm chăng? Cũng có thể do nguồn học vấn triết lý, cổ văn và nghề nghiệp sư-phạm dù không lâu của tôi như tôi vừa trả lời câu hỏi trước của anh cũng như những sách "khó tiêu" hoặc cổ-lổ-sĩ tôi đã đọc thời trẻ ! Có điều tôi đã viết là phải có dẫn chứng, tài liệu và câu văn phải dễ hiểu, trắng đen rõ rệt, nếu chưa chắc chắn thì tôi không viết, vậy thôi! Tôi thêm, đó cũng còn là văn thiếu lý thuyết văn chương, thiếu thứ lý luận academic có những khả năng mê hoặc con người thích nó! 

5) CB: Làm ơn tiết lộ chút xíu, Nguyễn Vy Khanh ngoài đời có cùng một nếp sống mực thươ'c, khuôn khổ như nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh mà chúng tôi vẫn có ấn tượng qua các bài khảo cứu ? 

VNK: Có chứ anh, hơn 27 năm ở ngoài này, tôi đã và đang làm ông biện nhà thờ 3 lần, một lần ở Quebec City và hai lần ở Montréal, hiện tôi làm tổng thư ký hội đồng quản trị Cộng đồng Công giáo vùng Montréal. Phương pháp, khuôn khổ thì tôi nghĩ tôi có, nếu không thì tôi đã tiếp tục làm thơ hay vẽ vời như tôi từng đam mê thời mới lớn - ý tôi muốn nói là làm thơ ít có những bó buộc vật chất cũng như thời gian như công việc nghiên cứu, còn làm thơ cho hay và để đời thì dĩ nhiên còn khó hơn là soạn dăm ba cuốn khảo luận! Nhưng con người cá nhân Nguyễn Vy Khanh không "khắc khổ" lắm đâu, tâm hồn và tư tưởng thì vẫn chưa thành sạn (tôi hy vọng!), vẫn dao động theo biến chuyển đời và văn học nghệ thuật, vẫn "đói" cái mới, cái lạ - cái chân thiện mỹ nói chung, dùng chữ chân thiện mỹ chứ nếu nói cái đẹp thì sợ anh lại hiểu lầm tôi. Dĩ nhiên ngoài đời tôi cũng như anh đã "tình nguyện" làm thân "cá chậu chim lồng"! 

6) CB: Tác phẩm đầu tay cuả anh, thi tập Khung Cửa xuất bản 1972. Đây là những năm trận chiến VN đang găng. Anh cho biết tại sao là tập thơ mà không là truyện hay biên khảo? Động lực nào đưa đến việc thành hình tập thơ đó. Thơ giúp được gì cho người làm thơ? 

NVK: Tôi là người đô thị vì sống gần như cả đời thiếu rồi thanh niên ở Sài Gòn và thú viết văn làm thơ đến với tôi cũng trong khung cảnh đô thành đó. Năm đệ Tam tôi đã viết một tiểu luận triết lý về kiếp người (bạn bè vẫn gọi tôi là "ông cụ non"), nhưng hai năm cuối trung học tôi làm thơ nhiều hơn vì trùng hợp với thời gian lãng-mạn, anh biết rồi, tức chạy theo mấy bóng hồng áo trắng! Năm 1972 đánh dấu khúc ngoặc cuộc đời tôi, tôi làm sổ ... đời, đem hết những ngây thơ, lãng-mạn vào một tập thơ chừng hơn 50 bài, kết quả của những đam mê cho đến ngày đó, in hạn chế tặng bạn bè và đóng thùng, rồi bắt đầu một cuộc đời mới! 

Từ năm đệ Tứ tôi đã sinh hoạt văn nghệ với một nhóm bạn, lạ là lúc đó còn non trẻ mà nhóm đã chỉ sáng tác truyện, thơ và viết tiểu luận pha triết lý. Hai năm cuối trung học, tôi lại sinh hoạt văn nghệ ở trong một nhóm bạn mới, sau có đứa chết trận Mậu Thân, đứa bỏ học đi lính trả thù cho bố quận trưởng bị phục kích chết hoặc chán nản buông xuôi cho số mệnh. Lên đại học thì nhóm rã, nhưng hiện trong số mà tôi có tin tức hoặc liên lạc thì có đứa vẫn còn làm thơ gửi ra ngoài đăng tạp chí ở Mỹ, đứa từng chủ trương một tạp chí văn học ở Cali và đang viết thường trực cho tờ Viet Mercury. Với chúng tôi lúc bấy giờ làm thơ là một phương tiện sống và giải tỏa tâm tư, và là một phương tiện dễ thương, hiền hoà nhưng ăn sâu vào con người nhiều nhất. Những bài tiểu luận triết lý, xã hội chúng tôi viết lúc đó chỉ gây thảo luận dăm ba lần, nhưng những bài thơ đạt, vẫn được bạn nhắc nhở, ngâm nga lâu hơn ! 

7) CB: Biết là không thể nào vắn tắt nhưng cũng xin anh điểm qua một khái lược chung về các hoạt đông văn học hải ngoại, các khuôn mặt, các cây viết đáng kể hoặc đáng chú ý về thơ, văn? Các nét chính cuả họ, và các luồng biến hoá về nội dung hoặc hình thức mà anh ghi nhận được. 

NVK: Anh hỏi một đề tài mà tôi nghĩ cần đến những nghiên cứu kỹ lưỡng, khách quan trước khi nói ra, vì sợ mười con ngựa cũng không truy theo kịp. Tôi đã bắt đầu quan sát từ đầu, từ những năm 1975, 1976, thu thập, ghi nhận tìm hiểu và viết về văn học hải ngoại cũng như một số đề tài, tác giả - qua hai cuốn đã xuất bản, 40 Năm Văn Học Chiến Tranh (1997) và Văn Học Và Thời Gian (2000) và một cuốn đang in, Nhìn Lại Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX: Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại trên 600 trang (cũng như một tập gồm nhiều bài viết về một số tác giả và tác phẩm khác nhưng tôi không biết khi nào thì có thể in được. Tôi làm công tác này như một đóng góp tự nguyện cho chuyện chung và tự túc (chứ không phải tôi làm ở một thư viện có sẵn sách tiếng Việt như có vài người hiểu lầm!). Nhưng gần đây tôi đã đi đến "kết luận" rằng tôi cho ngủ (dormant/sleeping) công việc này; hiện cũng đã có nhiều cây viết khác sáng giá và có hấp lực hơn tôi, hợp "gu" các tạp chí văn học hơn tôi. Tôi rút vào bóng tối Tây-hiên nhưng vẫn quan sát và đọc, và sẽ chỉ viết trở lại 7, 10 năm nữa (resolution đầu năm 2003 của tôi!), biết đâu lúc đó độc giả sẽ đông hơn và trong-ngoài nước đã thật sự có qua lại về văn hóa và công việc làm văn học sử thuận lợi hơn, khách quan hơn! Bao giờ đứng ngoài, đứng sau cũng dễ nhìn và suy nghĩ hơn là đứng bên trong! 

Trở lại câu anh hỏi, văn học hải ngoại sau hơn 27 năm, tôi thấy ngày càng phong phú, đa dạng, phương tiện in ấn dễ dàng khiến công việc viết và xuất bản cũng dễ hơn, dân chủ hơn. Nhưng tác giả đúng nghĩa thì ngày càng hiếm hơn, tác phẩm lớn thì còn hiếm hơn nữa. Gần đây tôi có hai bài viết sẽ đi trên Hồn Quê, Chủ Đề và Hợp Lưu có ghi lại một số nhận xét này của tôi và về phía thơ thôi. Có thể tôi hơi lý tưởng, nhưng tôi nhận thấy những người làm văn học vì văn học rất ít, ngay cả các tạp chí văn học được xem là tiêu biểu, quí ngài chủ trương hay chủ bút có những thái quá hoặc thiển cận, nhỏ mọn, tính yêu sự thật và tư cách văn hóa cũng khả nghi. Người viết hoặc cộng tác ít được tôn trọng, thường thì trở thành nạn nhân của chính hobby này. Trong không khí đó, không thể có đối thoại, trao đổi dân chủ, thẳng thắn và có văn hóa được. Muốn có bài được đăng nếu không cùng phe thì phải mua báo, tặng quà rồi phải nhắc tên vợ chồng chủ báo, quê hương của họ hay bạn bè họ, hoặc tâng bốc những gì họ viết. Còn nếu nói thật, ngay cả theo lời yêu cầu của chính họ, thì sẽ bị tẩy chay và không bao giờ còn được họ nhắc đến, ngay cả việc bày ra trò chơi thảo luận mới với những người y chang họ (semblables!)! Câu hỏi anh tạo dịp cho tôi ... xả xú bắp, không chừng anh sẽ bị vạ lây đấy nhé! Anh và Hồn Quê đã tạo dịp cho tôi nói thì tôi cũng xin thêm rằng tôi thấy người làm văn học (ngoại trừ giới sáng tác tôi không có ý kiến ở đây) phần lớn họ bảo thủ và quá nhiều tự ái, tự kỷ, và càng tự xưng trí thức thì càng tệ, họ chỉ có một sự thật, đó là sự thật theo ý họ nếu không là của họ! 

8) CB: Về các thơ truyện tại hải ngoại, riêng anh thường đọc văn thơ của các tác giả nào? Các đặc điểm nào mà anh thích khám phá ? Các CD, DVD của các nhạc sĩ nào anh thích nghe? 

NVK: Khó trả lời anh câu hỏi này vì sự thưởng lãm đã biến đổi theo thời gian và nội tâm. Khi nghiên cứu văn học sử tôi phải đọc không lựa chọn, nhưng khi viết về một tác giả hay tác phẩm thì phải có hứng và đối tượng có một đặc thù nổi bật nào đó, thường là tình cờ đến, như khi tôi viết về tập truyện Đoạn Đường Hốt Tất Liệt của anh Lâm Chương, hoặc khi tôi đọc lại toàn tập của Nguyễn Huy Thiệp là lúc tôi đang suy nghĩ về những chuyện huyền thoại lập quốc và Kinh Dịch Việt, v.v. 

Còn đọc để giải trí, thưởng thức "vô tư" thì tôi khó khăn hơn, nhiều lần trước một chuyến công tác xa tôi đã rơi vào tình trạng phân vân không chọn được tác giả Việt Nam nào có mà chưa đọc, cuối cùng tôi chọn một tác giả ngoại quốc cho chắc ăn đi đường! Những tác giả tôi đang "thích" có thể kể trên đầu ngón tay về thơ và văn, vì trong tôi có hai con người luôn tranh chấp nhau, một thưởng thức như mọi người và một con người thích tìm hiểu nội dung hay cái xuyên suốt tác phẩm! 



Nguyễn Vy Khanh qua nét vẽ Nguyễn Quốc Tuấn



9) CB: Có phải chăng số lượng biên khảo về văn học sử của người Việt hải ngoại đang trở nên hiếm hoi? Xin anh chia sẻ các khó khăn mà người viết văn học sử tại hải ngoại đang phải đương đầu? 

NVK: Theo tôi không phải hiếm nhưng có một số bất cập hoặc yếu điểm: một mặt không hệ thống và lệ thuộc một số trùm sò làng văn nghệ, lệ thuộc các tạp chí và nhà xuất bản, mặt khác không có điều kiện để phát huy một cách lành mạnh. Không khí trí thức, văn nghệ cũng không có, không có trao đổi và phê bình đứng đắn. Biên khảo văn học sử đang thu hẹp dần, nhường chỗ cho ký sự văn học, tản mạn và giới thiệu sách. Phê bình đối với một số người trở thành chụp mũ, bôi xấu, thí dụ những vụ xào xáo Văn Bút Hải Ngoại, Nguyễn Ngọc Ngạn, Nhật Tiến, v.v. Riêng cá nhân tôi, có thể tôi xưa hoặc quá nguyên tắc, nhưng đối với tôi, con người văn nghệ sĩ phải có tư cách. Một nhà thơ có thể rượu chè, đời sống không giống ai nhưng tôi khó chấp nhận chung chiếu nhà thơ những kẻ vừa làm thơ ca tụng cuộc đời vừa làm "đặc công" chuyên phá hoại cộng đồng, tập thể, làm ung thối mọi sinh hoạt chung! Cũng vậy, một trí thức (tự xưng) theo thời, hoạt đầu chính trị, không thể là một nhà văn đúng nghĩa, theo ý tôi! v.v.. 

10) CB: Giống như tư cách đứng đắn minh bạch không thể nào nhầm lẩn được của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng từ bản chất nghiêm túc của anh ấy, mà tôi từng cộng tác chung trong chương trình Truyền Hình Việt Nam tại Nam Cali, trong lối văn của Nguyễn Vy Khanh người đọc luôn luôn cảm nhận một sự chân thành tận tâm phát hiện từ ngòi bút của anh vì anh không hề múa bút. Xin anh vui lòng chia sẻ kinh nghiệm vui buồn từ phản ứng độc giả đối với một số bài biên khảo thẳng thắn, do ở chỗ anh đã không bẻ cong ngòi bút của chính mình? 

NVK: Xin cảm ơn anh Cát Biển đã có lời quá khen. Đến nay tôi vẫn đã chỉ có những đóng góp rất nhỏ, tôi luôn khởi đi từ nguyên tắc đi tìm chân-thiê.n-mỹ, đem áp dụng cho việc học, làm việc chuyên môn kiếm sống cũng như cho việc nghiên cứu nghiệp dư, trong thực tế dĩ nhiên tôi đã phải gặp một số phản ứng phần lớn bất ngờ dù khi viết ra đã tiên đoán được phần nào. Lý do là chúng ta nói chung thường thích được khen, đề cao, với những hình dung từ "thượng, đại, tuyệt, mô hình, tiêu biểu, cách tân, v.v" mà đố kỵ với những tư duy khởi từ "hình như, thật ra, vẫn có thể, v.v."! Vì thế mà có người đạo diễn cả những màn tự đề cao và quay cả video để ... đời ! Sống trong thế-giới của quảng cáo bán hàng và cá nhân chủ nghĩa, chuyện đó cũng dễ hiểu và cùng lắm có thể thông cảm, nhưng có nhiều nguy hại cho sự thật. Người làm văn học sử có bổn phận với sự thật, yêu quý sự thật hơn tình đồng hương, đồng ngũ, đồng hao hay cùng chiến tuyến chẳng hạn! 

Dẫn nhập như vậy để nói rằng công việc nghiên cứu của tôi đã gặp phản ứng khi động đến phần phê bình và tài liệu. Tôi xin giới hạn phát biểu của mình về những tác giả mà tôi từng có cơ hội bàn đến hoặc viết về họ. Một số không chấp nhận phê phán dù vẫn rêu rao rào đón chấp nhận, hoặc không muốn người khác đi sâu vào sự nghiệp họ hay đụng đến quá khứ sự nghiệp của họ. Có người phản ứng trực tiếp hoặc qua đệ tam nhân. Tôi xin miễn nhắc đến danh tánh, một trong hai người phản ứng dữ dội nhất trước đó đã tặng sách, khi bài viết xong thì điện thoại viễn liên rồi điện-thư đính chính nhiều nhận xét của tôi mà nếu lấy ra thì bài tôi viết mất hết ý nghĩa, đầu đuôi tầm phào, sau đó người này tự viết về mình và nhờ người khác quảng cáo sách của mình mà mạch văn trong bài viết này nếu ai tinh tế sẽ thấy khác hẳn mạch văn của cây viết ấy trong các bình luận trước và cả sau đó; có thể có lúc tiến bộ, lên cấp mà tôi không cảm nghiệm được chăng? Gần đây ngài "tác giả" lớn này và một nhà khác bày chuyện thảo luận về tác phẩm của chính hai người, một kiểu nói chuyện trước tấm gương. Theo tôi, họ tự nghĩ ở chiếu trên và chỉ thích quảng cáo bán sách mà thực ra rất sợ phê bình và đối thoại! Một người khác nữa thì buồn tôi ghi lại những chuyện "sự nghiệp" họ trước 1975, cho tôi cảm tưởng họ ra ngoài nước là làm lại cuộc đời mới, "sự nghiệp" mới, cho nên mọi người, cả người nghiên cứu văn sử cũng phải quên quá khứ của họ! Theo anh, văn học sử phải từ chức trong những trường hợp này sao? Tôi nghĩ phải phát triển bộ môn "phê phán lịch sử" (historic critic) vì theo tôi bộ môn văn học sử cũng như lịch sử Việt nam ta đang gặp khủng hoảng vì chính trị và tâm địa của con người "đương đại"! Xét lại và đặt cho đúng vai trò lịch sử của bước đầu văn học chữ quốc ngữ cũng như các nhân vật lịch sử như Trương Vĩnh Ký, Phan Thanh Giản, Nhất Linh, v.v.. 

Tiện đây kể anh nghe chuyện bài viết Miền Nam Khai Phóng của tôi từ khi đưa lên Internet năm 1996 và in lại trong các tuyển tập, được khen thì ít nhưng phê bình nặng thì nhiều, tiếu lâm một tí là những thành phần mạnh miệng với tôi nhất là những đối tượng của bài tôi viết. Chỉ mới nêu lên một số sự thực hay mời suy nghĩ lại mà đã đụng rồi, nhưng tôi đã có con đường của tôi! Tôi muốn "của Caesar trả lại cho Caesar" khi viết bài nói trên, muốn nhắc nhở công trạng của những nhà tiên phương xây dựng nền văn học chữ quốc ngữ từ những năm 1865 ở trong Nam. Khi làm công việc đó tôi nhắc đến công của một nhà biên khảo văn học sử trong Nam, giáo sư Bùi Đức Tịnh, từ năm 1974 đã là người đầu tiên đánh giá lại nền văn học đó. Các ông Nguyễn Văn Trung và Thế Uyên (cũng như Bằng Giang) đều là những nhà nghiên cứu đến sau và một phần tình cờ vì hoàn cảnh của biến cố 30-4-1975, nhưng hai ông vẫn khoe là người có công đầu trong việc đó. Mảng văn học đó từng bị các nhà văn học sử miền Bắc làm ngơ, nay người miền Nam có công nói đến đầu tiên lại bị ... tiếm công! Phần tôi, khi bài được in trong tuyển tập Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng 1 năm 1996 tôi mới biết giáo sư Nguyễn Văn Trung đã từng nghiên cứu Lục Châu Học và cư ngụ cùng thành phố ở Montréal. Trước đó tôi vẫn liên lạc với trưởng nam giáo sư có thời làm chung bộ với tôi và được cho xem nghiên cứu về Câu Đố của giáo sư. Nhân đây tôi cũng nêu thắc mắc không hiểu sao cuốn Đại Nam Việt Quốc Triều Sử Ký (1879) đã do nhóm Nghiên Cứu Sử Địa ở Sài Gòn xuất bản từ năm 1974 (và được giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ tái bản ở Montréal năm 1986) mà vẫn được xem là khám phá mới sau 1982?

11) CB: Chắc không thể nào không hỏi anh câu này, vì Hồn Quê vốn là một Nguyệt San Văn Hoá trên liên mạng. Anh nhận xét thế nào về những lợi hại cuả internet đối với các công tác văn học nói chung? Có phải vì internet mà các nhà xuất bản đã từ từ bị diệt chủng? 

NVK: Tôi không nghĩ như vậy đâu, hai thế-giới đó bổ túc cho nhau, hai sản phẩm cũng khác nhau. Tôi xin nói về việc nghiên cứu thôi, cho đến nay, những input trên Internet chưa có một giá trị khả tín 100% về nghiên cứu, nhiều khi người xử dụng còn bị "tẩu hỏa nhập ma" vì phải kiểm chứng lại bằng tài liệu giấy. Vả lại sách sẽ nằm trên kệ nhà hoặc trong trong thư viện, nhưng các gia trang web có khi biến mất không báo trước. Tóm, Internet là một phương tiện rất tốt cho sinh hoạt và phổ biến cũng như thưởng thức văn học, nhưng chưa thể thay thế được các phương tiện đã quen! Có thể tôi lầm chăng, hoặc quá chủ quan? Anh nói đến Hồn Quê thì tôi cũng nhận thấy tạp chí liên mạng này từ khi ra đời đã có những đóng góp cho việc phổ biến văn học: thơ văn, nghiên cứu, phỏng vấn, qua trang chữ hypertext và cả âm thanh, hình ảnh. Vừa cung cấp data văn học nghệ thuật vừa là nơi để người làm công việc đó gặp gỡ và có môi trường đến với người đọc. Ngay cả một số thử nghiệm làm mới văn nghệ như thơ Linh họa, thơ Thiền, v.v. cũng đã xuất hiện qua phương tiện này. Hy vọng HQ sẽ tiếp tục thử nghiệm và làm mới văn-chương nghệ thuật, nội cái việc nghĩ đến và ra tay thử nghiệm đã là quý rồi! Nếu không có Hồn Quê và những diễn đàn, cơ quan tương đương như Văn học Nghệ thuật, Nhánh Nhỏ, Suối Nguồn, Giao Mùa, v.v., thì làm sao những người viết trẻ có cơ hội viết, sáng tác cũng như trình làng những thử nghiệm, cách tân, v.v. ? Chính Internet sẽ đa dạng và trẻ-trung-hóa và có thể cứu vãn tình trạng lão-hóa của báo in, của giới làm văn học nghệ thuật! Các tạp chí Văn Học, Văn ở Cali khi mới xuất hiện trẻ trung và có ý làm mới, hy vọng thế nào, thì nay lão hóa thế ấy - đây cho thấy sự khác biệt giữa trẻ thật và trẻ hóa trang! 

12) CB: Internet tiến triển vơ'i đôi hia bẩy dặm như là một nhu cầu thiê't yếu cho sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Anh định nghĩa thế nào là Internet Culture? Ai là những thành phần tham dự? Lợi và hại? 

NVK: Tôi nghĩ cái anh gọi là Internet Culture đó có thể so sánh với kho tàng ca dao tục ngữ của Việt Nam ta. Một khối kiến thức, tin tức, dữ kiện và tài liệu (thơ truyện trên Internet cũng chỉ là một loại tin tức data), và là của chung, ai ở bất cứ đâu đều xử dụng và lúc nào cũng được (dĩ nhiên có những trang web phải có password nhưng nói chung cũng dễ vào). Lợi hại nhiều ít, trước sau, điều này rất tương đối! Nhưng không ai có lựa chọn nào khác với Internet, ngay cả bộ Quốc phòng Mỹ! 

13) CB: Cần có sự liên hệ hỗ-tương thế nào giữa các sinh hoạt trên mạng (như Hồn Quê) và các báo in (printed media) nhằm đẩy mạnh các sinh hoạt văn hoá của chúng ta? 

NVK: Câu hỏi này anh hỏi quý vị trực tiếp thực hiện các trang web và các ngài chủ báo in, tôi không ở trong hai giới đó nên cùng lắm chỉ dám hy vọng có một sự hài hòa, bổ khuyết, cộng tác tích cực giữa hai giới đó thay vì nghi ngại nhau. Thực ra hai sinh hoạt đó có một đối tượng (public) hơi khác nhau, có thể trùng hợp với một thiểu số, nhưng Internet có thể đi về trong nước hoặc khắp năm châu mà không tốn tiền tem, đỡ tốn giấy (mốt bây giờ là bảo vệ môi trường sống), có thể có những sinh hoạt, tranh luận mà giới thưởng ngoạn báo in không biết đến hay không cần biết. Ngược lại có những người đọc báo in tự cảm thấy ha.nh-phúc khi còn trực tiếp với trang giấy, nếu báo in còn có độc giả thì phải tiếp tục sứ mạng đó thôi! Tuy vậy hiện nay tôi thấy có một liên hệ không được lành mạnh phía in, đã tự tiện lấy bài trên các trang Internet để in thành sách mà không hề nói một câu với tác giả hoặc người phụ trách trang Web đó. Thí dụ mà tôi biết là một tuyển tập về Trịnh Công Sơn in trong nước gần một nửa đã lấy từ Internet của người viết ngoài nước. Tôi có vài bài (bị) trong nước lấy in lại và còn kiểm duyệt kỹ những đoạn ...đáng đọc nhất (cuốn Đi Tìm Nguyễn Huy Thiệp, 2001). Nhưng ngoài này hiện tượng đánh cắp bài còn rùng rợn hơn nữa, chắc anh cũng đã biết hoặc nghe kể rồi ? 

14) CB: Tôi có ít câu hỏi hơi bao quát, nhưng xin anh cứ tùy nghi trả lời nhé. Anh cho biết vài cảm nhận khách quan so sánh văn học trong nước và văn học Việt ở hải ngoạỉ? Về tiềm năng sống còn của văn chương Việt nơi hải ngoại đối với các thế hệ trẻ mai sau. Và xa hơn, về văn chương Việt Nam và một viễn tượng góp mặt giải Nobel quốc tế một ngày nào đó?

NVK: Nói trong nước trước. Tôi nghĩ nếu có những điều kiện thích hợp nghĩa là có dân chủ, tự do, đa nguyên thật, văn học nghệ thuật sẽ phát triển và sẽ có ngày được cả giải Nobel, vì người viết có địa lợi có thể sống thật và viết thật từ những kinh nghiệm sống, tư liệu đời cũng như tư liệu tham khảo ở sẵn ngay đó. Về sáng tác cũng như biên khảo, lý luận! Còn ngoài nước, "mảng" văn học nghệ thuật bám quá khứ sẽ ngày càng xa rời cái sống thực, kinh nghiệm, còn phần mảnh hội-nhập mới quá sẽ cứng cáp hơn và sự cọ xát quá khứ-hội-nhập có thể làm nảy sinh những văn tài quốc tế và giải Nobel! Nhưng muốn đạt đến đó một cách tập thể, chúng ta còn phải làm vệ sinh khá lâu cũng như phải dứt khoát nên tu bổ miếu đền hay nên xây nhà mới trên đất mới!

Trong hay ngoài nước thì thế hệ trẻ có một lựa chọn dứt khoát và khó khăn : bỏ quá khứ nào và như thế nào, xây tương lai trên nền tảng nào? Phải có thái độ nào đối với văn thơ kiểu tiền chiến, miệt vườn, chống Mỹ chống Pháp, chống v.v. như hiện nay cũng như đối với những mốt mới, "hiện nay" hơn, như thơ Tân hình thức, thơ cụ thể, văn thử nghiệm nhập nhằng, v.v. 

Trong một bài viết về Thơ Hôm Nay gần đây, tôi có nói rằng : "Chấp nhận cái mới hoặc canh tân là chuyện khó. Người làm thơ trẻ trong nước nay choáng ngợp trước nghệ thuật, tự do bùng mở dễ đi lùi hay bị rơi vào ... lãng mạn, trữ tình, hơi lỗi thời, "ông cụ non", v.v. Ngoài nước, trong tình cảnh lưu đày và trong một không gian văn hóa ngộp thở Đông-Tây, hoàn cầu hóa, đa văn hóa, may thay vẫn có những hương thơm, bóng mát, hiên Tây,.. của một số người làm thơ, nghĩa là thơ có nhiều, thơ hôm nay cũng hiện diện! Đó rốt cùng mới thật là giá trị của thi ca, vì giá trị là khả năng tiếp nối lịch sử và đời sống trong cái hiện tại! Thi ca luôn là một khởi đầu chung thân, luân hồi, một hiện-đại làm lại liên lũy; cách tân là làm sống cái khả năng hiện đại đó vì hiện đại nói cho cùng không đối lập với quá khứ, hiện đại là phổ quát - nhưng nếu chỉ phổ quát là giết thi-ca vì thơ hôm nay cũng như thơ mỗi thời, phải có dấu ấn của thời đại! Nếu thi ca phải tham chiếu, thi ca không thể vươn cao và đi xa!"

"Người làm thơ trong và ngoài nước nhiều người có tài; nhưng có thể đời sống vật chất, tinh thần và không khí văn nghệ đã không tạo hoàn cảnh sáng tác thuận lợi chăng? Ngoài nước có vẻ ít cái sống, ngoài quá khứ có thừa, nhưng có cơ hội học hỏi cập nhật; trong khi trong nước có cái sống nhưng bị canh gác hơi kỹ bởi những người nhân danh tổ quốc (nào?), văn hóa truyền thống (nào?). Cái mới, cái khác của thơ cần phải có đáp ứng liền, phải năng động thường trực, phải đi với thời đại. Có sự sáng tạo độc đáo với mỹ học riêng mới để dấu văn chương!"

15) CB: Có lần anh nói anh thích đọc Thanh Tâm Tuyền và một số nhà văn khác. Xin anh cho biết các cây viết đàn anh mà anh đã thích đọc hoặc đã tạo một ấn tượng sâu đậm nào đó trong ngòi bút anh? Và nếu được xin phân tích từng nét lôi cuốn riêng cuả họ theo cảm quan cuả riêng anh? 

NVK: Thật ra tôi chỉ thích không khí tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền và cách nêu vấn đề gián tiếp qua tác phẩm của ông, nhưng tôi nghĩ Nguyễn Đình Toàn của Con Đường đã ảnh hưởng tôi ít nhiều trong giai đoạn đầu tập viết lách, thành thử dễ hiểu là khi đưa một nhà xuất bản thì bị ... chê! Tôi bỏ viết truyện sau đó để tìm con đường riêng. Thế-giới tiểu thuyết của hai nhà văn này có thể thích hợp với tâm tình và con người tuổi trẻ thích suy tư ở miền Nam vào giai đoạn đó, nay thì có thể không gây cùng ảnh hưởng như thế, hơi vieux jeux! Tôi đã viết về các nhà văn này trong cuốn Nhìn Lại Văn Học VN Thế Kỷ XX , mời anh và quý độc giả theo dõi! 

16) CB: Về quyển Đời Một Phóng Viên cuả ký giả lão thành Văn Bia, lời tựa cuả Nguyễn Vy Khanh đã được nhiều tiếng khen. Bối cảnh sinh hoạt báo chí văn học từ lúc bắt đâu thập niên 40 đến nay luôn luôn phức tạp. Nhân dịp này anh có thể đóng góp thêm về vai trò khó khăn mà các cây bút đàn anh đã phải đối phó khi chính trị vẫn là một động lực mạnh bạo nhất ảnh hưởng đến sáng tạo. 

NVK: Anh nhắc đến chuyện này thì tôi cũng kể anh nghe là có người trách tôi dính chuyện chính trị làm chi, cứ làm việc văn học. Nhưng tôi thì vẫn quan niệm làm gì thì mình vẫn luôn đi tìm sự thực. Trong thi-ca đó là cái đẹp thật, nguyên tuyền, là chân thật của nhà thơ khi diễn tả tâm tư, cái nhìn, thành lời, thành thi tính! Trong truyện cũng vậy, có cái thế-giới thật nội tại và có cái hiện thực nhân sinh. Theo dõi và nghiên cứu văn học sử với tôi cũng là một phương tiện tìm kiếm sự thật và chia xẻ với người đo.c. Còn chính trị thì tôi vẫn chủ trương dấn thân dưới một số hình thức vì liên hệ đến an sinh con người kể cả những "cây sậy" biết suy nghĩ. Nhà văn phải biết sống với chính trị, nếu không dễ tiêu tùng lắm. Làm văn học mà nịnh vua, nịnh lãnh tụ lộ liễu sẽ có ngày tự mình phản bội lấy mình và "tác phẩm" dễ rơi vào quên lãng, vì trước hết gây dị ứng với người đọc, sau nữa các lãnh tụ sống không thọ lắm, rồi nào tư cách, v.v.! Tôi từng gần với nhiều giáo sư đại học, nhiều nhà nghiên cứu, lý thuyết, nên cũng biết được một số chuyện đau lòng (theo tôi) ! Vấn đề muôn đời của nghệ thuật vị nhân sinh mà không bị nhân sinh, chính trị biến nghệ thuật thành tôi đòi, vong thân, mất cá tính, bản thể! 

Trở lại cuốn hồi ký của ký giả Văn Bia, tôi không so với hồi ký của các văn hào, lãnh tụ nhưng tôi vẫn nghĩ cuốn của ảnh có đóng góp cho việc tìm hiểu lịch sử hiện đại: ảnh nhìn lại đời ảnh với cái nhìn của một người từng sống thực, qua đó người đọc cũng có thể hiểu được một số chuyện lịch sử, mà lối viết hồi ký của ảnh cũng là một cách đi tìm sự thực, vì không tỏ ra nắm biết hết mọi chuyện như những hồi ký khác!

17) CB: Theo anh thấy lúc trước nhiều người vẫn nhấn mạnh đến một hệ thống triết lý hoặc luân lý nào đó cho con người qua các triết gia tây phương, thế nhưng quan niệm nhân bản và tự do của đời sống như tại Hoa Kỳ cho rằng con người không cần phải bị đóng khung trong một hệ thống suy tư kiên cố nào cả, mà chỉ nên làm những gì mang lại an vui cho mình và những người sinh hoạt chung với mình trong một xã hội công bằng là đủ. Quan niệm của anh thế nào về các khác biệt này? 

NVK: Theo tôi, mỗi hệ thống đều có cái hay và cái không thích hợp cho mỗi người, đời sống xã hội, triết lý cũng như y khoa, v.v. Làm thế nào để mỗi cá nhân có thể sống hoặc tư duy theo chiều hướng thích hợp và ở mỗi giai đoạn của cuộc đời, nghĩa là phải cập nhật và nhất là phải tự kiểm thảo, lắng nghe chính mình, cũng như người khác! Hoa-Kỳ là một nước tự do, dân chủ, nhiều cơ hội cho tài năng và mưu chước; nhưng tất cả cũng rất tương đối, nếu ta nghĩ cho kỹ, chưa thể là thiên đàng hạ giới! Cho đến ngày xảy ra biến cố 11 tháng 9, người Mỹ chưa bao giờ tự xét, họ luôn coi thường những phê phán của chính đồng minh, cũng như vẫn quen coi thường nhân quyền đích thực cũng như quyền tự quyết của mọi dân tộc. Đó là lý do một số quan sát viên Âu châu như Emmanuel Todd (Après l'empire) và Alexandre Adler (J'ai vu finir le monde ancien) (cả hai mới xuất bản gần đây, 2002) xem thế kỷ XXI là bước đầu mạt-thời của đế quốc Mỹ! 

18) CB: Nhân đây nhờ anh cho vài nhận định về các triết gia Tây phương nổi tiếng của thế kỷ XX, đã bắt ngòi ca'c chấn động mạnh vào xã hội, điển hình là các tư tưởng gia Jean-Paul Sartre, Marx... và các ảnh hưởng quan trọng của họ vào các trào lưu suy tư và sự hành xử của xã hội trong thế kỷ vừa qua. 

NVK: Dịch lý là lẽ tuần hoàn tự nhiên, thì tất cả lý thuyết, triết lý, ý thức hệ đều có lúc đi lên, thành mốt, thành dịch sốt vó, nhưng rồi cũng có lúc tàn tạ hay bị xóa bỏ, và ngược lại! Đó là số phần của những Machiavel, Marx, Tocqueville, Jean-Paul Sartre, Freud, Mao, ... cũng như những thuyết nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, hay về kinh tế, kỹ nghệ, kỹ thuật, canh nông, v.v.. Khi đang là hiện tượng, gặp thời, thì những tư tưởng đó can thiệp thay đổi, xáo trộn đời sống con người, nhưng sau đó những mốt, những lý thuyết khác sẽ đến để cân bằng cái "quá độ" trước đó. Cái đáng tiếc là con người và nhiều chế độ không hiểu nguyên lý đó, để nâng thành cao trào, quá độ khi một chế độ hay lý thuyết đã hết lý lẽ sống còn hoặc đã hết xí-quách tự tại như chủ nghĩa cộng-sản ở một vài nước cuối cùng hiện nay, như nay đã năm 2003 mà còn có những người theo trào lưu hiện sinh - trễ đã hơn quá nữa thế kỷ, v.v. Các đảng phái chính trị Việt Nam khác cũng đang lỗi thời, hết hấp lực khi tự mãn với những lý thuyết của đầu thế kỷ trước (XX), trong khi ở Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn,.. chính trị đã biến hóa, cập nhật hơn! Quá khứ có đẹp và hay đến mấy cũng phải theo luật dịch lý đó! 

19) CB: Văn học chiến tranh VN qua mấy chục năm chinh chiến đã có những nét đặc thù nào? Sự góp mặt cuả những cây bút quân đội đã khai phá thêm các chiều hướng nào?

NVK: Câu anh hỏi tôi đã trả lời qua cuốn 40 Năm Văn Học Chiến Tranh đúng cho đến năm 1997 lúc tôi soạn cuốn đó. Tuy nhiên những năm gần đây tôi nhận thấy cái "mảng" văn học ấy đã có thêm những hiện tượng và thay đổi khác, tích cực, hay, cũng có, mà đáng ngại cũng có. Xin khất anh câu này, một thời gian nữa, lần ... hưu chiến sau, tôi hứa sẽ trở lại! 

20) CB: Xin anh cho biết các lãnh vực hoạt động mà anh đang yêu thích nhất, hoặc ao ước sẽ dấn thân nhiều vào? 

NVK: Như đã trả lời anh ở trên, tôi đã chuẩn bị để trở lại với lãnh vực triết lý hoặc văn hóa thuần túy. Tôi đang sơ thảo viết về triết đạo và cũng đang nghiên cứu thêm về huyền thoại lập nước và dựng nước theo Kinh Dịch cũng như một số khám phá mới. Tôi muốn nghỉ viết văn học sử là để làm những công việc này mà tôi hy vọng thích thú và thoải mái hơn, ít ra cho tôi! Ngoài ra tôi đang theo học và tập khí công y đạo, trước là thêm kiến thức sau là áp dụng cho chính bản thân và gia đình, cũng như làm một số chuyện thiện nguyện tại địa phương! 

21) CB: Xin cho biết các động lực nào khiến anh hướng về Kinh Dịch? Thế nào là một vũ trụ quan phù hợp theo tinh thần Kinh Dịch? Anh có nghiên cứu thêm môn Tử Vi không? 

NVK: Nói hướng-về hay trở-lại chỉ là một cách nói, vì tôi vẫn (cố gắng) sống theo nguyên tắc ngũ hành. Tử vi cũng như khí công, tài chi, thiền, đông y, v.v. đều là áp dụng, phó sản của Dịch lý Ngũ hành, từ một nguồn đó mà ra. Cá nhân tôi chưa "đạt" tới mức có thể tin hay xử dụng Tử Vi, vì tôi theo một phần nhỏ những áp dụng khác của dịch lý còn chưa xong! Học triết Đông và Việt Hán như tôi thì trước sau cũng đi đến Dịch lý. Hiểu và sống theo tinh thần Dịch lý Ngũ hành là hai chuyện nên, nhưng khó thực hiện với con người thường nhiều đam mê, sắc dục, tham vọng. Nhưng nếu từ hiểu biết rằng có phúc thì có họa, rằng trong được có mất, nơi tang thương nẩy mầm sự sống,... mà biết tìm cách đem yêu thương vào nơi gian dối, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, và "trung, thứ nhi dĩ " như Khổng Tử từng khuyên, một cách chân thật, thì đó đã là những bước đi tốt !

22) CB: Những ước nguyện nào, nếu có, mà anh tiếc là đã không thành tựu được? Và những thành đạt nào mà anh cảm thấy hài lòng là có ý nghĩa cho đời mình? 

NVK: Như tất cả những người sống ở miền Nam, cuộc đời, như là một người Việt, đã bị cắt đứt hẳn hoặc bị rẽ đôi từ ngày 30-4-1975. Nằm trong số những người may mắn rời khỏi nước đúng lúc (cứ cho là như vậy!), tôi phải nhận chịu cái bất hạnh mất tất cả, từ đời sống cá nhân đến bạn bè, gia đình, khu phố, đất nước, mất cả quá khứ, phần đời trước đó, những dự tính cho tương lai nghề nghiệp, v.v. Nhưng tôi cũng tự an ủi có cái may đã có một số kiến thức, học vấn về những gì phải mất, thành thử nơi đất người, sau khi đã ổn định sự sống-còn cho cá nhân và gia đình, tôi đã nghĩ tới và bắt tay làm một cái gì cho phần mất mát đó, trong lãnh vực và kiến thức có đươ.c. Công tác cộng đồng hay văn học, chính trị đều là những khía cạnh khác nhau và tùy thời, của sự đóng góp đó! 

Nhìn thấy và hiểu phần nào những bất công, sai trái trước 1975, sau 1975, ngay cả hiện nay, trong cũng như ngoài nước, cũng như khi đọc lịch sử và văn học sử, tôi lần lượt ghi nhận, viết ra, nói lên với tâm nguyện đóng góp, để một ngày nào đó, những đóng góp dù nhỏ nhoi của mình cũng như của những người khác trở nên hữu ích. Như đã hơn một lần trình bày, tương lai Việt Nam sẽ phải dựng xây trên một quá khứ đã được sửa sai, chỉnh lý vì cái quá khứ đó, lịch sử đó, có rất nhiều sai trái, ác phải gọi là ác, thiện là thiện, bất công là bất công, v.v. nhưng nhìn nhận xong phải có sửa chữa, nếu không sẽ lại như cũ, vẫn sai trái, bất công thì cũng chẳng ra gì ! Quê-hương đất nước sẽ thay đổi, con người sẽ phải ngồi lại với nhau, trên một nền móng mới, có điều kiện và dự phóng đi lên, cập nhật, hiện đại! 

23) CB: Anh quả là một người trả lời phỏng vấn thật hay và gây sự thú vị tuyệt vời nơi người hỏi. Đây là câu hỏi chót để kết thúc cuộc nói chuyện thật lý thú hôm nay: thế nào là định nghĩa của riêng anh về cái gọi là hạnh phúc? Và trong quãng đời đã qua của Nguyễn Vy Khanh, giai đoạn nào được anh xem là hài hòa và mãn nguyện nhất? 

NVK: Ở đời không có cái gì tuyệt đối cả thì hạnh-phúc cũng tương đối, có khi khó nhận biết hoặc khó tả. Cái hạnh-phúc nhất với một người có thể là vô nghĩa với người khác. Với cá nhân tôi, nhìn lại đời mình một cách dễ dãi thì có nhiều giai đoạn hạnh-phúc: lúc tiểu học hạnh-phúc ngây thơ, lúc mới lớn hạnh-phúc biết ... yêu, đỗ đạt, hạnh-phúc hôn nhân, gia đình, con cái, khi nghiên cứu tìm được cái cụ thể chứng minh cái đã cảm nhận hoặc đã trực giác thấy, khi viết mà được sự đồng cảm của người đọc, v.v. Những "mảnh" hạnh-phúc nhỏ đó chập lại cũng có thể xem là hạnh-phúc lớn, biết cảm nhận như vậy thì còn lớn nữa ! Còn hài hòa và mãn nguyện thì có thể nói là phút giây hiện tại, biết đã đi, biết ngừng khi không thể, biết cảm nhận và sống trọn vẹn cái may mắn dù nhỏ và biết còn có thể đi tiếp! 

Xin thành thật cảm ơn anh Cát Biển và nguyệt san Hồn Quê cho tôi có dịp nói chuyện và bầy tỏ một số ý kiến, có thể chủ quan nhưng chân thành! Và nếu quý anh và độc giả có gì cần phải thảo luận, xin cứ tự nhiên! 

CB: Hồn Quê chân thành cảm ơn anh Vy Khanh. 

Thực hiện: Cát Biển 
Jan 10, 2003
  










Song Thao & Nguyễn Vy Khanh









Với Phan Xuân Đình & Hoàng Xuân Sơn















Nguyễn Vy Khanh & Nhật Chiêu






Nguyễn Vy Khanh nói chuyện Văn học miền Nam










tiệc cưới ái nữ Song Thao, với NX Hoàng, Trường Kỳ, Bắc Phong, Trang Châu, Lưu Nguyễn.












Với Luân Hoán, Quang Dương, Nguyễn Vĩnh Long









Song Thao, Phan Trần Đức, Nguyễn Vy Khanh









Trở về






MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của quý văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.