http://phannguyenartist.blogspot.com/
Tế Hanh
Trần Tế Hanh
(20/6/1921 -16/7/2009) Quảng Ngãi
nhà thơ
Cơn bão nghiêng đêm
Nhạc: Lê Cát Trọng Lý
Thơ: Tế Hanh
Cơn bão nghiêng đêm, cây gãy cành lay lá
Anh nắm tay em qua đường cho khỏi ngã
Ta đã yêu nhau, thề mãi mãi bên nhau cơ mà?
Anh bỗng ra đi, anh ra đi vội vã...
Cơn bão nghiêng đem, anh quên em thật sao?
Giờ bão đã tan rồi, hàng cây đã xanh xanh trở lại.
Nhưng anh đã xa rồi, cơn bão lòng em thổi mãi...
Giờ bão đã tan đi thật xa, trời cao ngát xanh xanh hiền hòa.
Nhưng anh càng xa rồi, cơn bão lòng em thổi mãi không nguôi.
Tế Hanh
Trần Tế Hanh
(20/6/1921 -16/7/2009) Quảng Ngãi
nhà thơ
Cơn bão nghiêng đêm
Nhạc: Lê Cát Trọng Lý
Thơ: Tế Hanh
Cơn bão nghiêng đêm, cây gãy cành lay lá
Anh nắm tay em qua đường cho khỏi ngã
Ta đã yêu nhau, thề mãi mãi bên nhau cơ mà?
Anh bỗng ra đi, anh ra đi vội vã...
Cơn bão nghiêng đem, anh quên em thật sao?
Giờ bão đã tan rồi, hàng cây đã xanh xanh trở lại.
Nhưng anh đã xa rồi, cơn bão lòng em thổi mãi...
Giờ bão đã tan đi thật xa, trời cao ngát xanh xanh hiền hòa.
Nhưng anh càng xa rồi, cơn bão lòng em thổi mãi không nguôi.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 20 tháng 6 năm 1921 tại làng Đông Yên, phủ Bình Sơn; nay là xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Cha ông là Trần Tất Tố, làm nghề dạy học và làm thuốc. Ông có bốn anh em, trong đó người em út là nhạc sĩ Trần Thế Bảo.
Thuở nhỏ, ông học ở trường làng, trường huyện. Năm 15 tuổi, ông ra học tại trường Khải Định (tức Quốc Học Huế).
Sau đó, ông tiếp tục sáng tác, rồi tập hợp thành tập thơ Nghẹn ngào. Năm 1939, tập thơ này được giải khuyến khích của Tự Lực văn đoàn.
Năm 1941, Tế Hanh và thơ của ông ("Quê hương", "Lời con đường quê", "Vu vơ", "Ao ước") được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong cuốn Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).
Tháng 8 năm 1945, Tế Hanh tham gia Việt Minh, tham gia công tác văn hóa, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng; và là Ủy viên giáo dục trong ủy ban lâm thời thành phố Đà Nẵng, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
Từ năm 1949 cho đến năm 1954, ông ở trong Ban phụ trách Chi hội Văn nghệ Liên khu V.
Sau Hiệp định Genève, 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Văn nghệ. Năm 1957, Hội nhà văn Việt Nam thành lập, Tế Hanh tham gia Ban Biên tập tuần báo Văn của Hội, và nhiều năm, ông còn là Ủy viên chấp hành và Ban thường vụ của hội.
Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I[3]
Vào những năm 80, ông bị đau mắt và mắt ông mù dần. Từ đó ông bệnh liệt giường lúc mê lúc tỉnh. Ông qua đời vào lúc 12 giờ ngày 16 tháng 07 năm 2009 tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não [4].
Tác phẩm chính
1
Nghẹn ngào
Nghẹn ngào
(1939)
Nhớ
Chuyện buồn
Quê hương
Chiếc rổ may
Lời con đường quê
Cánh đồng bao la
Cắn đào
Nhắn nhe
Những ngày nghỉ học
Quyển vở nháp
Phơi phới
Dễ thương
Sống vội
Chứa chất
Tình tự
Trao đổi
Ao ước
Độc ác
Chủ nhật
Ngại ngùng
Quê bạn
Những đêm tối
Sầu tên
Tấm lịch đời
Nguỵ biện
Có những con đường
Tặng hoa
Đắng cay
Thắc mắc
Viết tên trên cát
Chiêm bao (I)
Mong manh
Hờ hững
Kể lể
Tâm lý trên trời
Thương
Vườn cũ
Phượng
Trái chín
Chùa
Cảm thông
Một nỗi niềm xưa
Trăng tàn
Người mẹ
Hoàng hôn
Một làng thương nhớ
Không đề (I)
Nhớ
Chuyện buồn
Quê hương
Chiếc rổ may
Lời con đường quê
Cánh đồng bao la
Cắn đào
Nhắn nhe
Những ngày nghỉ học
Quyển vở nháp
Phơi phới
Dễ thương
Sống vội
Chứa chất
Tình tự
Trao đổi
Ao ước
Độc ác
Chủ nhật
Ngại ngùng
Quê bạn
Những đêm tối
Sầu tên
Tấm lịch đời
Nguỵ biện
Có những con đường
Tặng hoa
Đắng cay
Thắc mắc
Viết tên trên cát
Chiêm bao (I)
Mong manh
Hờ hững
Kể lể
Tâm lý trên trời
Thương
Vườn cũ
Phượng
Trái chín
Chùa
Cảm thông
Một nỗi niềm xưa
Trăng tàn
Người mẹ
Hoàng hôn
Một làng thương nhớ
Không đề (I)
2
Hoa niên
(1945)
3
Lòng miền Nam
Lòng miền Nam
(1956)
Người đàn bà Ninh Thuận
Đội vũ trang tuyên truyền Lâm Đồng
Bà mẹ canh biển
Bên anh
Các anh sẽ trả thù cho em
Tặng đồng chí thương binh
Trên chiếc tàu Ba Lan
Tình Bắc Nam
Nối liền Bắc Nam
Nam Bắc, Bắc Nam
Chào mừng ngày 1 tháng 5
Hải Phòng - Qui Nhơn
Mẹ con
Tiếng ca không giới tuyến
Những lời ngoài bưu thiếp
Trời sắp sáng rồi
Hoa
Hai ta
Chiêm bao (II)
Nhớ con sông quê hương
Người đàn bà Ninh Thuận
Đội vũ trang tuyên truyền Lâm Đồng
Bà mẹ canh biển
Bên anh
Các anh sẽ trả thù cho em
Tặng đồng chí thương binh
Trên chiếc tàu Ba Lan
Tình Bắc Nam
Nối liền Bắc Nam
Nam Bắc, Bắc Nam
Chào mừng ngày 1 tháng 5
Hải Phòng - Qui Nhơn
Mẹ con
Tiếng ca không giới tuyến
Những lời ngoài bưu thiếp
Trời sắp sáng rồi
Hoa
Hai ta
Chiêm bao (II)
Nhớ con sông quê hương
4
Tiếng sóng
Tiếng sóng
(1960)
Tiếng sóng
Ngoài khơi trong lộng
Cái chết của em Ái
Người thuỷ thủ và con chim én
Chị Duyên anh Hải
Chung bến chung lòng
Nông trường cà phê
Qua công trường gỗ
Đến Mộc Châu
Thăm đồi A1
Tên quê hương
Em trả lời
Đu đủ và cam
Có một con tàu mang tên anh
Nói chuyện với sông Hiền Lương
Bài thơ tháng bảy (1962)
Tiếng sóng
Ngoài khơi trong lộng
Cái chết của em Ái
Người thuỷ thủ và con chim én
Chị Duyên anh Hải
Chung bến chung lòng
Nông trường cà phê
Qua công trường gỗ
Đến Mộc Châu
Thăm đồi A1
Tên quê hương
Em trả lời
Đu đủ và cam
Có một con tàu mang tên anh
Nói chuyện với sông Hiền Lương
Bài thơ tháng bảy (1962)
5
Hai nửa yêu thương
Hai nửa yêu thương
(1967)
6
Khúc ca mới
Khúc ca mới
(1967)
7
Đi suốt bài ca
Đi suốt bài ca
(1970)
8
Câu chuyện quê hương
Câu chuyện quê hương
(1973)
9
Theo nhịp tháng ngày
Theo nhịp tháng ngày
(1974)
10
Giữa những ngày xuân
Giữa những ngày xuân
(1976)
11
Con đường và dòng sông
Con đường và dòng sông
(1980)
12
Bài ca sự sống
13
Tuyển tập Tế Hanh
Bài ca sự sống
13
Tuyển tập Tế Hanh
(tập I-1987)
14
Thơ Tế Hanh
Thơ Tế Hanh
(1989)
15
Vườn xưa
Vườn xưa
(1992)
16
Giữa anh và em
Giữa anh và em
(1992)
17
Em chờ anh
Em chờ anh
(1993)
18
18
Tuyển tập Tế Hanh
(tập II-1997)
&
Những bài thơ khác
Anh đến với em là lẽ tất nhiên
Anh trong đau ốm gặp em
Anh yêu em
Đêm nay
Bài thơ - bức tranh - bản đàn
Bài thơ tình ở Hàng Châu
Bão
Bên phải bên trái
Bằng lăng
Cái giếng đầu làng
Cái mốc
Cái nhìn
Cây Bác Hồ
Cây nhót
Chị công nhân chăn bò
Chuyện em bé cười ra đồng tiền
Con đường
Diệu huyền
Em ở đâu
Em đến với anh
Em gần gũi, em xa xôi
Giấc mộng xuân
Giữa anh và em
Hai câu
Hà Nội vắng em
Hoa báo mưa
Hoa nở theo trăng
Hoa xuyên tuyết
Không đề (II)
Lời tình
Liễu
Mai vàng
Mía
Mùa thu tiễn em
Mặt quê hương
Mua hoa
Mưa ngâu
Nói về tình yêu
Ngọn đèn - con mắt - vì sao
Người hà tiện
Nhà hội hoạ - nhà điêu khắc và nhà thơ
Nhà vắng em
Những con chim
Những loại kính
Nhớ Quy Nhơn
Nhớ về Hà Nội hôm nay
Phần mộ mẹ cha
Rét nàng Bân
Sóng
Ta đã yêu em
Tâm sự
Tìm xuân - tầm xuân
Tình yêu và vĩnh viễn
Tặng
Thu
Trái thu
Trăng
Trung thu
Trường xưa
Vĩnh viễn
Về tình yêu
Với một vì sao
Văn xuôi cho em
Vu vơ
Vườn xưa
Ước ao
&
Những bài thơ khác
Anh đến với em là lẽ tất nhiên
Anh trong đau ốm gặp em
Anh yêu em
Đêm nay
Bài thơ - bức tranh - bản đàn
Bài thơ tình ở Hàng Châu
Bão
Bên phải bên trái
Bằng lăng
Cái giếng đầu làng
Cái mốc
Cái nhìn
Cây Bác Hồ
Cây nhót
Chị công nhân chăn bò
Chuyện em bé cười ra đồng tiền
Con đường
Diệu huyền
Em ở đâu
Em đến với anh
Em gần gũi, em xa xôi
Giấc mộng xuân
Giữa anh và em
Hai câu
Hà Nội vắng em
Hoa báo mưa
Hoa nở theo trăng
Hoa xuyên tuyết
Không đề (II)
Lời tình
Liễu
Mai vàng
Mía
Mùa thu tiễn em
Mặt quê hương
Mua hoa
Mưa ngâu
Nói về tình yêu
Ngọn đèn - con mắt - vì sao
Người hà tiện
Nhà hội hoạ - nhà điêu khắc và nhà thơ
Nhà vắng em
Những con chim
Những loại kính
Nhớ Quy Nhơn
Nhớ về Hà Nội hôm nay
Phần mộ mẹ cha
Rét nàng Bân
Sóng
Ta đã yêu em
Tâm sự
Tìm xuân - tầm xuân
Tình yêu và vĩnh viễn
Tặng
Thu
Trái thu
Trăng
Trung thu
Trường xưa
Vĩnh viễn
Về tình yêu
Với một vì sao
Văn xuôi cho em
Vu vơ
Vườn xưa
Ước ao
Ngoài thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận phê bình văn học, thơ thiếu nhi.
Giải thưởng
Giải thưởng văn học Tự lực văn đoàn năm 1939.
Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng.
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt I (1996)[5]
Đánh giá
Tế Hanh là nhà thơ khá nổi tiếng, sáng tác cùng thời với Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận...và là một trong ba thi sĩ sinh quán tại Quảng Ngãi nổi danh ngay từ trước năm 1945: Nguyễn Vỹ, Bích Khê, Tế Hanh.
Nhận xét
Nhà văn Nhất Linh: "Tế Hanh có rất nhiều hứa hẹn trở nên một thi sĩ có tài, ông có một linh hồn rất phong phú, có những rung động rất sâu sắc; và để diễn tả tâm hồn, ông có đủ nghệ thuật và cách đặt tìm câu chữ"[6].
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh và Hoài Chân: "Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi"...[7]
Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn: "Trong thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ lùng như Hàn Mặc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình. Tập "Nghẹn ngào" từng được giải thưởng Tự Lực văn đoàn. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ đều đều, những tập thơ mỏng mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu người ta nghĩ ngay đến Tế Hanh" [8].
Nhà thơ Thanh Thảo: "Ngay từ lúc xuất hiện trong phong trào Thơ Mới, thơ Tế Hanh đã là hiện tượng vì sự "mộc mạc, chân thành", vì sự "trong trẻo, giản dị như một dòng sông" [9].
2-Theo Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, 1988, tr. 149.
3-Nguyễn Văn Long, mục từ "Tế Hanh" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, tr. 1619.
6-Nhất Linh viết khi công bố giải vào năm 1939.
7-Trích trong Thi nhân Việt Nam, tr. 149.
9-Xem: Nhà thơ Tế Hanh qua đời.
Rớm lệ Tế Hanh
Nguyễn Trọng Tạo
Cát Bà, 16.7.2009
Tôi vừa đến Cát Bà thì nhận được điện của Thân báo nhà thơ Tế Hanh
vừa mất trưa nay, 16/7/2009. Một cái tin thật đơn giản, nhưng đã làm tôi
lặng người. Bởi không chỉ một con người ra đi, mà con người ấy lại là
một nhà thơ, một nhà thơ mang tên Tế Hanh.
Tôi chợt nhớ câu thơ thật thân phận của ông thuở hoa niên, câu thơ
hay và lạ ấy lại như vận vào chính ông những năm tháng cuối đời:
“Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau”
Vâng, 10 năm cuối đời sau một cơn tai biến mạch máu não trong đêm
thơ kỷ niệm 40 năm đường Trường Sơn 559 lịch sử (1999), ông đã phải nằm
im lặng trên giường bệnh cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng. 10 năm thật
chậm chạp với ông như một chuyến đi “không đủ sức đi mau”. Tại sao vậy?
Khó mà giải thích. Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng, nhà thơ Tế Hanh vẫn còn
nặng nợ với đời.
Mười lăm năm trước, tôi hỏi ông có còn làm nhiều thơ không, ông liền đọc cho tôi nghe bài thơ 2 câu:
“Người ta hỏi tôi làm gì?
- Tôi làm thinh”
Làm thinh với ông cũng là một hành động?
10 năm “làm thinh” trên giường bệnh, trong bệnh viện hay trong căn
phòng trên gác nhỏ phố Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội, ông đã nghĩ gì? Không
ai biết. Nhưng những câu thơ của ông vẫn làm lay động bao thế hệ Việt
cả trong và ngoài nước. Năm ngoái, khi tôi đến Canada, một anh bạn nghe
bài hát Khúc hát sông quê của tôi phổ thơ Lê Huy Mậu, liền nhắc tới bài
thơ Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh và anh đọc thuộc không sai một
chữ. Tế Hanh lặng lẽ sống bằng những bài thơ của mình như thế trong lòng
bạn đọc.
“Chẳng biết nước có nhớ ngày nhớ tháng
Nhớ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi?”
Hồi tôi làm báo Thơ (2003-2004) của Hội Nhà Văn, tôi đề nghị nhà thơ
Tế Hanh tự chọn trang thơ tâm đắc của ông, và ông chỉ gật gật bài nào
ông đồng ý khi đưa ra danh mục tôi chọn trước, nhưng rồi ông cứ chưa
yên, hóa ra thiếu bài “Nhớ con sông quê hương”. Quả là với Tế Hanh,
không thể thiếu con sông quê hương được. Ông cũng có một câu thơ mà chỉ
nổi tiếng khi Trần Đăng Khoa đã lặp lại của ông để trở thành một bài hát
của nhạc sĩ Nguyễn Thành: Biển một bên và em một bên. Câu thơ gốc của
ông không có chữ “và”.
Có lẽ trong 4 nhà thơ từng được bình chọn trong một cuộc trưng cầu
bạn yêu thơ trên tạp chí Tác Phẩm Mới sau 1975, cùng với Huy Cận, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên… Tế Hanh lại được khá nhiều bạn đọc yêu thích, là nhờ
cái điệu thơ chân thành đôi khi đến “ngẩn ngơ thi sĩ” của ông.
“Nông trường ta rộng mênh mông
Trăng lên trăng lặn vẫn không ra ngoài”
“Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị”
Những câu thơ như ai cũng có thể làm được, nhưng phải đến Tế Hanh
mới có những câu thơ như thế. Những câu thơ khiến tôi liên tưởng tới thi
sĩ đồng quê tuyệt diệu của nước Nga – Xergay Esenin.
Tế Hanh, một thi sĩ hiền lành thế lại cũng đã từng dịch thành công
nhiều bài thơ của Esenin, có một câu thơ theo tôi không thể nào dịch
khác Tế Hanh: “Nếu không thành nhà thơ/ tôi đã thành trộm cướp”. Vâng,
thi sĩ chính là những tính cách mạnh một cách chân thành như vậy đó. Đó
chính là bài thơ Esenin tâm sự với mẹ.
Tế Hanh cũng đã hơn một lần nói về mẹ trong thơ, nhưng chưa lần nào
làm tôi xúc động như bài thơ Bên mồ mẹ. Bài thơ chỉ mấy khổ ngắn, ông
viết khi nước nhà thống nhất, trở lại quê nhà Quảng Ngãi sau mấy chục
năm xa cách. Ông cũng như bao người thắp hương bên mồ mẹ, nhưng cũng chỉ
Tế Hanh mới có cái tâm trạng chân thật đến đau buốt này:
“Quê mẹ không còn mẹ
Bao giờ con lại về”
Bây giờ, nhà thơ thương quê thương mẹ ấy đã ra đi. Ông vĩnh viễn từ
biệt cuộc đời này, nhưng thơ ông thì dường như cứ bảng lảng bên cạnh
những người còn sống. Đó cũng là con người ông, cách sống ông, hồn thơ
ông – một rớm lệ Tế Hanh.
chia cho em một đời say
một cây si/ với/ một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
một cây si/ với/ một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
Thơ Tế Hanh
trái: Nông Quốc Chấn, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông
*𝙏ế 𝙃𝙖𝙣𝙝, 𝘿ò𝙣𝙜 𝙨ô𝙣𝙜, 𝙢ù𝙖 𝙃ạ.
Anh đến với nhân gian vào một ngày Hạ chí, 15-5 năm Tân Dậu, ngày dương là 20-6-1921, cũng vào ngày Hạ chí (✱), rồi ra đi vào một buổi trưa hè, 16-7-2009.
Tế Hanh sáng tác tập thơ 𝘕𝘨𝘩ẹ𝘯 𝘕𝘨à𝘰 chủ yếu vào kỳ nghỉ hè, 1939 và được giải khuyến khích Tự lực văn đoàn năm đó. Đến ngày anh mất là 70 năm. Những con số như là mệnh số. Đôi lời thơ giản lược đời anh:
𝘛â𝘮 𝘩ồ𝘯 𝘵ô𝘪 𝘭à 𝘮ộ𝘵 𝘣𝘶ổ𝘪 𝘵𝘳ư𝘢 𝘩è
𝘛ỏ𝘢 𝘯ắ𝘯𝘨 𝘹𝘶ố𝘯𝘨 𝘭ò𝘯𝘨 𝘴ô𝘯𝘨 𝘭ấ𝘱 𝘭á𝘯𝘩
(Nhớ con sông quê hương, Tháng 6-1956, Tuyển Tập, tr. 90)
Hay là:
𝘛𝘳á𝘪 𝘵𝘪𝘮 𝘮ù𝘢 𝘩ạ 𝘴𝘢𝘺 𝘴ư𝘢 𝘯ở
𝘔ắ𝘵 𝘯ắ𝘯𝘨 𝘭𝘰𝘯𝘨 𝘭𝘢𝘯𝘩 𝘬𝘩ắ𝘱 𝘯𝘨ã đườ𝘯𝘨
(…)
𝘏ồ𝘯 𝘵𝘳ư𝘢 𝘳ạ𝘰 𝘳ự𝘤 𝘮𝘰𝘯𝘨 𝘢𝘪 đó
𝘚𝘶ố𝘪 đỏ 𝘭𝘢𝘯 𝘵𝘳à𝘯 đế𝘯 𝘵ậ𝘯 đâ𝘶?
(Hè 1969, Tuyển Tập, tr. 214)
Tế Hanh bắt đầu nổi tiếng với một tác phẩm chưa hề được xuất bản là 𝘕𝘨𝘩ẹ𝘯 𝘕𝘨à𝘰, sau này sẽ được tăng cường, đổi tên là 𝘏𝘰𝘢 𝘕𝘪ê𝘯, Đời Nay xuất bản giữa năm 1945, ít người đọc vì thời cuộc lúc đó [1].
Nhiều người biết thơ Tế Hanh là qua 𝘛𝘩𝘪 𝘕𝘩â𝘯 𝘝𝘪ệ𝘵 𝘕𝘢𝘮, 1942, do Hoài Thanh và Hoài Chân trích dẫn, là những bài 𝘘𝘶ê 𝘏ươ𝘯𝘨, 1939, 𝘓ờ𝘪 𝘊𝘰𝘯 Đườ𝘯𝘨 𝘘𝘶ê, 1937, 𝘝𝘶 𝘝ơ, sau đổi tên là 𝘕𝘩ữ𝘯𝘨 𝘯𝘨à𝘺 𝘯𝘨𝘩ỉ 𝘩ọ𝘤, 1938, và Ướ𝘤 𝘈𝘰. Riêng bài 𝘘𝘶ê 𝘏ươ𝘯𝘨 đươc phổ biến rộng rãi nhờ được in trong các sách giáo khoa bậc tiểu học, theo chương trình Trần Trọng Kim từ thời kháng chiến chống Pháp và nhiều khi được đổi tên, như 𝘓à𝘯𝘨 đá𝘯𝘩 𝘤á, ngày nay nhiều người cao tuổi còn nhớ. Tại miền Bắc và cả nước sau này, bài 𝘕𝘩ớ 𝘤𝘰𝘯 𝘴ô𝘯𝘨 𝘲𝘶ê 𝘩ươ𝘯𝘨, 1956, được giảng dạy ở các lớp phổ thông nên nhiều người biết. Tế Hanh là một tác gia có quần chúng.
Ngoài ra, về mặt văn học một số người biết hai bài 𝘘𝘶ê 𝘏ươ𝘯𝘨 và 𝘕𝘩ữ𝘯𝘨 𝘯𝘨à𝘺 𝘯𝘨𝘩ỉ 𝘩ọ𝘤 qua lời giới thiệu trên báo Ngày Nay, Hà Nội, cuối năm1939 khi nhóm Tự Lực Văn đoàn trao giải thưởng cho Tế Hanh. Bài viết có hiệu lực vì ký tên Nhất Linh:
"𝘛ế 𝘏𝘢𝘯𝘩 𝘤ó 𝘳ấ𝘵 𝘯𝘩𝘪ề𝘶 𝘩ứ𝘢 𝘩ẹ𝘯 𝘵𝘳ở 𝘯ê𝘯 𝘮ộ𝘵 𝘵𝘩𝘪 𝘴ĩ 𝘤ó 𝘵à𝘪, ô𝘯𝘨 𝘤ó 𝘮ộ𝘵 𝘭𝘪𝘯𝘩 𝘩ồ𝘯 𝘳ấ𝘵 𝘱𝘩𝘰𝘯𝘨 𝘱𝘩ú, 𝘤𝘰́ 𝘯𝘩ữ𝘯𝘨 𝘳𝘶𝘯𝘨 độ𝘯𝘨 𝘳ấ𝘵 𝘴â𝘶 𝘴ắ𝘤. 𝘝à để 𝘥𝘪ễ𝘯 𝘵ả 𝘵â𝘮 𝘩ồ𝘯, ô𝘯𝘨 𝘤ó đủ 𝘯𝘨𝘩ệ 𝘵𝘩𝘶ậ𝘵 𝘷à 𝘤á𝘤𝘩 đặ𝘵 𝘵ì𝘮 𝘤â𝘶 𝘤𝘩ữ. Ô𝘯𝘨 𝘤𝘩ỉ 𝘤ò𝘯 𝘤𝘩ờ 𝘵𝘩ờ𝘪 𝘨𝘪𝘢𝘯 để 𝘨ặ𝘱 𝘯𝘩𝘪ề𝘶 𝘤ả𝘯𝘩 𝘷à 𝘷𝘪ế𝘵 𝘵𝘩ê𝘮 đượ𝘤 𝘯𝘩𝘪ề𝘶 𝘣à𝘪 𝘵𝘩ơ 𝘩𝘢𝘺" [2].
Nhất Linh trong lời giới thiệu nhanh và khái quát đã có nhận định tinh tế - cũng như Hoài Thanh sau đó: tâm hồn phong phú, rung động sâu sắc cần "𝘵𝘩ờ𝘪 𝘨𝘪𝘢𝘯 để 𝘨ặ𝘱 𝘯𝘩𝘪ề𝘶 𝘤ả𝘯𝘩", "cảnh" đây là phong cảnh hay hoàn cảnh. Tế Hanh không làm thơ bằng trí tưởng tượng (imaginaire) như nhiều nhà thơ khác. Đây là sở trường cũng là sở đoản của anh.
Trải dài non 70 năm, sáng tác Tế Hanh có thể thu lại trong hai chữ "tình cảnh". Cảnh do tình cảm tạo ra như trong 𝘕𝘩ớ 𝘤𝘰𝘯 𝘴ô𝘯𝘨 𝘲𝘶ê 𝘩ươ𝘯𝘨; tình do cảnh ngộ tạo ra, như cuộc chia ly Nam Bắc; cũng có bài thơ hay, lọt ra ngoài quỹ đạo đó, nhưng không nhiều.
Khởi thủy, thơ Tế Hanh là thơ học trò, rung cảm cũng tàn theo những mùa hoa phượng. 𝘏𝘰𝘢 𝘕𝘪ê𝘯 gồm 40 bài; đưa vào Tuyển Tập 1987 còn lại 10 bài, bỏ bớt ¾, tỷ lệ ngược lại so với Xuân Diệu, tập 𝘛𝘩ơ 𝘛𝘩ơ, 1938, đưa vào Tuyển Tập 1986 được ¾. 𝘓ử𝘢 𝘛𝘩𝘪ê𝘯𝘨 của Huy Cận cũng đại khái như vậy. Cả ba vị đều là quan chức quyền thế, chắc là không ai o ép. Nhưng gạt bỏ đến ¾ tập thơ đầu tay chắc cũng có phần đau xót.
Ví dụ bài 𝘘𝘶𝘺ể𝘯 𝘷ở 𝘕𝘩á𝘱 dù không hay vẫn tiêu biểu cho đặc điểm của Tế Hanh, và một lối thơ thời đại:
𝘕𝘩ữ𝘯𝘨 𝘷ở 𝘴𝘰ạ𝘯 𝘣à𝘪 𝘩𝘢𝘺 𝘵𝘰á𝘯, 𝘭𝘶ậ𝘯
Đị𝘢 𝘥ư, 𝘤á𝘤𝘩 𝘵𝘳í… 𝘥á𝘯𝘨 𝘭𝘰 â𝘶
𝘊𝘩ỉ𝘯𝘩 𝘵ề, đầ𝘺 đủ 𝘯𝘩ư ô𝘯𝘨 𝘨𝘪á𝘰,
𝘝ở 𝘯𝘩á𝘱 𝘭ô𝘪 𝘵𝘩ô𝘪 𝘨𝘪ố𝘯𝘨 𝘩ọ𝘤 𝘵𝘳ò.
(Hoa Niên, 1945, tr. 26)
Bài này còn có tác dụng sư phạm, dạy các em tập làm văn. Bài 𝘕𝘩ữ𝘯𝘨 Đê𝘮 𝘛ố𝘪 được Hoài Thanh trích đoạn:
𝘒ì𝘢 𝘭ê𝘯 𝘦𝘮! 𝘙ự𝘤 𝘳ỡ 𝘣ố𝘯 𝘱𝘩ươ𝘯𝘨 𝘵𝘳ờ𝘪,
Đô𝘪 𝘮ắ𝘵 𝘵𝘰 𝘯é𝘮 𝘭ử𝘢 𝘴á𝘯𝘨 𝘮𝘶ô𝘯 𝘯ơ𝘪…
(Hoa Niên, tr. 44)
Là một bài thơ hay, dù không đúng giọng, như Hoài Thanh đã nhận xét chính xác: "𝘭ờ𝘪 𝘵𝘩ơ 𝘤ò𝘯 𝘤ó 𝘨ì 𝘭ệ𝘤𝘩 𝘴𝘰 𝘷ớ𝘪 𝘩ồ𝘯 𝘵𝘩ơ" (1941). Bài này cũng bị loại. 𝘊á𝘪 𝘛ế 𝘏𝘢𝘯𝘩 bị bỏ sót, 𝘤á𝘪 𝘬𝘩ô𝘯𝘨 𝘛ế 𝘏𝘢𝘯𝘩 cũng bị bỏ sót, khiến ta nhớ lời Xuân Diệu ví von: giết bao nhiêu con vịt mới làm được bát tiết canh. Và trên non 20 thi phẩm Tế Hanh xuất bản sau này, không rõ có bao nhiêu bài bị loại; những bài được tuyển không phải bài nào cũng hay. Nhiều bài, nhiều câu tuyên truyền lộ liễu ngày nay khó đọc lại (nhưng đọc những bản dịch qua tiếng Pháp, như của Boudarel thì lại xuôi tai. Cũng là một chuyện đáng suy nghĩ).
Nói chung, nhờ kinh nghiệm sống, học tập và sáng tác, thơ Tế Hanh về sau có phần điêu luyện hơn, dù trên cơ bản anh vẫn trung thành với một phong cách, lâu dần biến thành một quan niệm lý thuyết.
𝘛ô𝘪 𝘮𝘶ố𝘯 𝘷𝘪ế𝘵 𝘯𝘩ữ𝘯𝘨 𝘣à𝘪 𝘵ơ 𝘥ễ 𝘩𝘪ể𝘶
𝘕𝘩ư 𝘯𝘩ữ𝘯𝘨 𝘭ờ𝘪 𝘮ộ𝘤 𝘮ạ𝘤 𝘵𝘳𝘰𝘯𝘨 𝘤𝘢 𝘥𝘢𝘰.
(1957, Tuyển Tập, tr. 100)
Lấy ví dụ cụ thể: bài 𝘉𝘪ể𝘯 làm 1974, mang hơi hướm lối thơ lãng mạn thuở 𝘏𝘰𝘢 𝘕𝘪ê𝘯, nhưng lời thơ trau chuốt, giàu hình tượng và âm điệu hơn:
𝘌𝘮 𝘤𝘩ạ𝘺 ù𝘢 𝘳𝘢 𝘱𝘩í𝘢 𝘣𝘪ế𝘤 𝘹𝘢𝘯𝘩
𝘛ó𝘤 𝘦𝘮 𝘵𝘳𝘰𝘯𝘨 𝘨𝘪ó 𝘵𝘩ổ𝘪 𝘣ồ𝘯𝘨 𝘣ề𝘯𝘩
𝘌𝘮 𝘤ườ𝘪 đô𝘪 𝘮ắ𝘵 𝘭𝘰𝘯𝘨 𝘭𝘢𝘯𝘩 𝘯ắ𝘯𝘨
𝘔𝘶ố𝘯 ô𝘮 𝘵ấ𝘵 𝘤ả 𝘬𝘩𝘰ả𝘯𝘨 𝘮ô𝘯𝘨 𝘮ê𝘯𝘩;
𝘊𝘰𝘯 𝘴ó𝘯𝘨 𝘵ừ 𝘹𝘢 𝘬𝘩ơ𝘪 𝘵𝘪ế𝘯 đế𝘯
𝘓ượ𝘯 𝘥à𝘪 𝘶𝘺ể𝘯 𝘤𝘩𝘶𝘺ể𝘯 𝘤á𝘯𝘩 𝘵𝘢𝘺 𝘨𝘪ă𝘯𝘨
𝘜ố𝘯 𝘮ì𝘯𝘩 𝘯𝘩ư 𝘮ú𝘢 𝘵𝘩𝘦𝘰 𝘤𝘩â𝘯 𝘨𝘪ó
𝘏ơ𝘪 𝘵𝘩ở 𝘱𝘩ồ𝘯𝘨 𝘵𝘳ê𝘯 𝘮ặ𝘵 𝘱𝘩ẳ𝘯𝘨 𝘣ằ𝘯𝘨
𝘝à 𝘬𝘩𝘪 𝘭à𝘯 𝘹𝘢𝘯𝘩 𝘷ươ𝘯 𝘤𝘢𝘰 𝘭ê𝘯
𝘉ọ𝘵 𝘵𝘳ắ𝘯𝘨 𝘵𝘶𝘯𝘨 𝘵𝘳à𝘰 𝘵ỏ𝘢 𝘣ố𝘯 𝘣ê𝘯
Ấ𝘺 𝘭ú𝘤 𝘨ở𝘪 𝘷à𝘰 𝘵𝘳𝘰𝘯𝘨 𝘵𝘪ế𝘯𝘨 𝘴ó𝘯𝘨
𝘓ờ𝘪 𝘤𝘩à𝘰 𝘤ủ𝘢 𝘣𝘪ể𝘯 đế𝘯 𝘣ê𝘯 𝘦𝘮.
(Tuyển tập, tr. 290)
Lời thơ tình tứ, kín đáo, lành mạnh, có thể giảng dạy cho các em nhỏ "tập làm văn".
Trong nghệ thuật, khó dùng khái niệm tiến bộ, nhưng rõ là bài 𝘉𝘪ể𝘯 có phần điêu luyện hơn thơ thất ngôn trong 𝘏𝘰𝘢 𝘕𝘪ê𝘯 cùng một đề tài trữ tình. Đây là nghề dạy nghề, Tế Hanh thường xuyên thực tập và học hỏi chớ không phải "𝘯𝘩ờ 𝘤ó 𝘤á𝘤𝘩 𝘮ạ𝘯𝘨, 𝘯𝘩ờ 𝘤ó 𝘯𝘩â𝘯 𝘥â𝘯, 𝘛ế 𝘏𝘢𝘯𝘩 đã đ𝘦𝘮 𝘮ộ𝘵 𝘤𝘩ấ𝘵 𝘮ớ𝘪 𝘤𝘩𝘰 𝘣ả𝘯 𝘵𝘩â𝘯 𝘮ì𝘯𝘩, 𝘳𝘪ê𝘯𝘨 𝘤𝘩𝘰 𝘮ì𝘯𝘩, 𝘳ấ𝘵 𝘛ế 𝘏𝘢𝘯𝘩" như Chế Lan Viên đã viết trong câu kết bài bạt cho Tuyển Tập. Viết như vậy, là nói lấy được, không những là nói sai, mà còn nói ngược.
Chế Lan Viên thường nhắc câu này của Tế Hanh, không ghi xuất xứ:
𝘚𝘢𝘯𝘨 𝘣ờ 𝘵ư 𝘵ưở𝘯𝘨 𝘵𝘢 𝘭ì𝘢 𝘵𝘢,
𝘔ộ𝘵 𝘵𝘪ế𝘯𝘨 𝘨à 𝘭ê𝘯 𝘵𝘪ễ𝘯 𝘯𝘨𝘶𝘺ệ𝘵 𝘵à.
Câu thơ diễn tả tâm trạng người nghệ sĩ thời Pháp thuộc bước sang đời Cách mạng sau 1945, phải "lột xác" để sáng tác, lìa bỏ con người trí thức tiểu tư sản, mong hòa mình với hiện thực và quần chúng. Câu thơ có hai mặt: tự nó, nó có giá trị thi pháp, tân kỳ, hàm súc và gợi cảm. Là câu thơ hay. Nhưng trong ý đồ của tác giả, và người trích dẫn, thì là một câu thơ hỏng, vì nó chứng minh ngược lại dụng tâm khởi thủy. Rõ ràng là câu thơ trí thức tiểu tư sản suy thoái. Gậy ông đập lưng ông. Đây là một vấn đề văn học lý thú.
Tế Hanh thường kể lại, thời chống Pháp là thời kỳ sáng tác khó khăn nhất, vì “𝘤ó 𝘯𝘩ữ𝘯𝘨 𝘲𝘶𝘢𝘯 𝘯𝘪ệ𝘮 𝘤𝘩ư𝘢 đượ𝘤 𝘨𝘪ả𝘪 𝘲𝘶𝘺ế𝘵 𝘳õ 𝘳à𝘯𝘨 𝘵𝘳𝘰𝘯𝘨 𝘴á𝘯𝘨 𝘵ạ𝘰” [3]. Anh chỉ có được bài 𝘕𝘨ườ𝘪 Đà𝘯 𝘉à 𝘕𝘪𝘯𝘩 𝘛𝘩𝘶ậ𝘯, 1952 kể chuyện chiến tranh, không lấy gì làm độc đáo. Nghiệm cũng lạ lùng: thơ Tế Hanh thường xuất phát từ một sự việc cụ thể: chiếc rổ may, cuốn vở nháp, con đường quê, vậy thì gặp ngọn gió chủ nghĩa hiện thực, thơ anh phải phất như diều chứ? Nhất là Tế Hanh hăng hái tham gia cướp chính quyền từ 1945, được kết nạp vào Đảng rất sớm, tháng 11-1947, hai năm trước Xuân Diệu. Thế mới hay trong lãnh vực nghệ thuật, ý chí chính trị và năng lực sáng tạo không nhất thiết phải sinh đôi. Như vậy thì cái gì lãnh đạo cái gì?
Thơ Tế Hanh bắt nguồn từ hiện thực cụ thể, lấy một ví dụ: dòng sông.
𝘛𝘳à𝘯𝘨 𝘎𝘪𝘢𝘯𝘨 của Huy Cận chắc cũng bắt nguồn từ một con sông nào đó vùng Nghệ Tĩnh, "𝘭ặ𝘯𝘨 𝘭ẽ 𝘣ờ 𝘹𝘢𝘯𝘩 𝘵𝘪ế𝘱 𝘣ã𝘪 𝘷à𝘯𝘨" nhưng vươn đến một con sông vô danh, một hình tượng văn học. Ai hỏi, Huy Cận cũng nói thế. Ở Tế Hanh, cụ thể là con sông Trà Bồng, tên nôm là Châu Ổ, chảy qua huyện Bình Sơn, cách cửa biển Sa Cần "𝘯ử𝘢 𝘯𝘨à𝘺 𝘴ô𝘯𝘨", đúng như tác giả ghi nhận trong bài "𝘘𝘶ê 𝘏ươ𝘯𝘨", 1939. Khi tập kết ra Bắc, anh 𝘕𝘩ớ 𝘊𝘰𝘯 𝘚ô𝘯𝘨 𝘘𝘶ê 𝘏ươ𝘯𝘨, 1956, cũng là dòng sông ấy. Đến ngày đất nước thống nhất, vào mùa hè 1975, Tế Hanh 𝘛𝘳ở 𝘭ạ𝘪 𝘊𝘰𝘯 𝘚ô𝘯𝘨 𝘘𝘶ê 𝘏ươ𝘯𝘨, đã mô tả:
𝘏ì𝘯𝘩 𝘥á𝘯𝘨 𝘤𝘰𝘯 𝘴ô𝘯𝘨 𝘵𝘩ì 𝘤𝘩ẳ𝘯𝘨 𝘬𝘩á𝘤,
Cho dù đời sống dân cư đã đổi thay:
𝘛𝘩𝘶𝘺ề𝘯 𝘮á𝘺 𝘥ọ𝘤 𝘯𝘨𝘢𝘯𝘨 𝘵ỏ𝘢 𝘵𝘳ắ𝘯𝘨 𝘭ò𝘯𝘨 𝘴ô𝘯𝘨,
𝘕𝘩à 𝘥â𝘯 𝘤𝘩à𝘪 𝘨𝘪ă𝘯𝘨 𝘯𝘩ữ𝘯𝘨 𝘭ướ𝘪 𝘯𝘪 𝘭ô𝘯𝘨
𝘔à𝘶 𝘹𝘢𝘯𝘩 đỏ 𝘯𝘨ờ𝘪 𝘯𝘨ờ𝘪 á𝘯𝘩 𝘯ướ𝘤.
(Tuyển Tập, tr. 273)
Con 𝘵𝘶ấ𝘯 𝘮ã, xa xưa nay biến thành 𝘵𝘩𝘶𝘺ề𝘯 𝘮á𝘺. 𝘔ả𝘯𝘩 𝘩ồ𝘯 𝘭à𝘯𝘨 nay giăng mắc trên 𝘭ướ𝘪 𝘯𝘪 𝘭ô𝘯𝘨 𝘮à𝘶 𝘹𝘢𝘯𝘩 đỏ.
Chữ “ga” gốc tiếng Pháp đã du nhập vào Việt nam từ lâu, như trong thơ Tản Đà. Nhưng có lẽ đến bài 𝘕𝘩ữ𝘯𝘨 𝘯𝘨à𝘺 𝘯𝘨𝘩ỉ 𝘩ọ𝘤, 1938, sân ga mới thành một hình tượng văn học có chức năng truyền cảm, thay cho những bến đò, những quán trọ ngày xưa. Từ ngữ ngoại lai: lưới ni lông cũng trở thành một hình tượng văn học, chưa chắc gì đã kém nghệ thuật hơn một từ vựng cổ kính đã trở thành khuôn sáo:
𝘛𝘳ướ𝘤 𝘴â𝘯 𝘯𝘩ữ𝘯𝘨 𝘵ấ𝘮 𝘭ướ𝘪 𝘨𝘪ă𝘯𝘨
𝘓𝘰𝘯𝘨 𝘭𝘢𝘯𝘩 𝘮𝘶ố𝘪 đọ𝘯𝘨 𝘬ế𝘵 𝘣ằ𝘯𝘨 𝘩ạ𝘵 𝘵𝘳𝘢𝘪
(1974, Tuyển Tập, tr. 289)
Ba năm sau, 1978, Tế Hanh lại về quê. Cảnh vật lại đổi thay thêm. Người dân đắp đập trên sông để ngăn nước mặn dâng theo thủy triều, làm chua đất, “𝘵𝘩𝘰á𝘵 𝘬𝘩ỏ𝘪 𝘵ừ đâ𝘺 𝘤ả𝘯𝘩 𝘳𝘶ộ𝘯𝘨 𝘱𝘩è𝘯”:
𝘕𝘨𝘩ề 𝘯ô𝘯𝘨 𝘷𝘶𝘪, 𝘯𝘨𝘩ề 𝘣𝘪ể𝘯 𝘵𝘩ê𝘮 𝘷𝘶𝘪,
𝘛𝘩𝘶𝘺ề𝘯 𝘮á𝘺 đ𝘪 𝘯𝘩𝘢𝘯𝘩 𝘯𝘩𝘪ề𝘶 𝘤á 𝘵ươ𝘪
𝘊𝘩𝘪ề𝘶 𝘷ề 𝘤𝘰𝘯 đậ𝘱 đô𝘯𝘨 𝘯𝘩ư 𝘤𝘩ợ
𝘉ờ 𝘥ướ𝘪 𝘣ờ 𝘵𝘳ê𝘯 𝘴ó𝘯𝘨 𝘳ạ𝘯𝘨 𝘯𝘨ờ𝘪
(1978, Tuyển Tập, tr. 308)
So với bài 𝘘𝘶ê 𝘏ươ𝘯𝘨, 1939, thì vẫn ngần ấy yếu tố, nhưng cảnh quan đổi thay, tâm tình cũng đổi mới. Nhưng cấu trúc thi pháp nơi Tế Hanh vẫn nhất thiết như trước. Bài 𝘛𝘩ơ 𝘮ớ𝘪 𝘷ề 𝘤𝘰𝘯 𝘴ô𝘯𝘨 𝘹ư𝘢 này gồm 10 khổ, làm theo lối tự sự, tuyến tính (linéaire) không khác bài thơ đầu tay 𝘓ờ𝘪 𝘤𝘰𝘯 Đườ𝘯𝘨 𝘘𝘶ê bốn mươi năm trước bao nhiêu, về mặt cấu trúc. Chúng ta khó đưa ra một nhận xét như thế về thơ Huy Cận hay Xuân Diệu – và ở đây chỉ so sánh những tác giả có thể so sánh.
Chúng ta thừa dịp đi vào một phạm trù đại cương và sâu sắc hơn: cấu tứ trong thi pháp một nhà thơ mà Tế Hanh trở thành ví dụ .
Suốt đời thơ Tế Hanh nhẩn nha kể chuyện: chuyện đời mình, chuyện gia đình, giòng sông, cây mù u. Chắc anh cũng chẳng cố tình đâu, mà ý thơ cứ đến, cứ đến như thế. Dòng thời gian tuyến tính cấu trúc tư duy Tế Hanh, ít nhất là tư duy sáng tạo. Ví dụ trật tự thời gian trong 𝘘𝘶ê 𝘏ươ𝘯𝘨. Bắt đầu tác giả đo không gian bằng thời gian, 𝘤á𝘤𝘩 𝘣𝘪ể𝘯 𝘯ử𝘢 𝘯𝘨à𝘺 𝘴ô𝘯𝘨, rồi tuần tự theo thời khắc: 𝘴ớ𝘮 𝘮𝘢𝘪 𝘩ồ𝘯𝘨... 𝘯𝘨à𝘺 𝘩ô𝘮 𝘴𝘢𝘶..., 𝘤𝘰𝘯 𝘵𝘩𝘶𝘺ề𝘯 𝘪𝘮 𝘣ế𝘯..., 𝘯𝘢𝘺 𝘹𝘢 𝘤á𝘤𝘩... Rồi đến những động từ chuyển động 𝘣ơ𝘪 𝘵𝘩𝘶𝘺ề𝘯 đ𝘪…, đó𝘯 𝘨𝘩𝘦 𝘷ề…, 𝘯ằ𝘮..., 𝘵ưở𝘯𝘨 𝘯𝘩ớ....
Trong khi đó dòng 𝘛𝘳à𝘯𝘨 𝘎𝘪𝘢𝘯𝘨 của Huy Cận xuôi chảy bên ngoài thời gian:
𝘓ò𝘯𝘨 𝘲𝘶ê 𝘥ợ𝘯 𝘥ợ𝘯 𝘷ờ𝘪 𝘤𝘰𝘯 𝘯ướ𝘤,
𝘒𝘩ô𝘯𝘨 𝘬𝘩ó𝘪 𝘩𝘰à𝘯𝘨 𝘩ô𝘯 𝘤ũ𝘯𝘨 𝘯𝘩ớ 𝘯𝘩à.
Thời gian, dòng sông, của Huy Cận, mơ sợi khói hoàng hôn, có thể là của Ulysse trong truyện Homère hay của Thôi Hiệu chảy qua lầu Hoàng Hạc. Thời gian trong Tế Hanh là thời gian cụ thể, có ngày có tháng, sống lại trong thơ. Cấu trúc thi pháp thơ Tế Hanh theo tuyến tính, là cấu trúc truyện kể (structure narrative) bài 𝘕𝘩ớ 𝘊𝘰𝘯 𝘚ô𝘯𝘨 𝘘𝘶ê 𝘏ươ𝘯𝘨 cũng vậy:
“𝘘𝘶ê 𝘩ươ𝘯𝘨 𝘵ô𝘪 𝘤ó…, 𝘵â𝘮 𝘩ồ𝘯 𝘵ô𝘪 𝘭à..., 𝘣ạ𝘯 𝘣è 𝘵ô𝘪..., 𝘤𝘩ú𝘯𝘨 𝘵ô𝘪 𝘭ớ𝘯 𝘭ê𝘯..., 𝘵ô𝘪 𝘩ô𝘮 𝘯𝘢𝘺..., 𝘵ô𝘪 𝘴ẽ 𝘷ề...”. 𝘓ờ𝘪 𝘤𝘰𝘯 Đườ𝘯𝘨 𝘘𝘶ê, bài thơ đầu tay làm 1937, cấu trúc chìm cũng đại khái như thế.
Muốn kể chuyện, một là phải có chuyện, hai là cần có người nghe. Lịch sử đã cung cấp cho Tế Hanh cả hai điều kiện ấy. Trong một thời gian dài, miền Bắc đã có một quần chúng đông đảo nghe thơ, không phải vì phẩm chất của thi ca mà vì những chuyện kể có vần vè như một hiện thực được diễn ca. 𝘔ẹ 𝘚𝘶ố𝘵, 𝘛𝘩𝘦𝘰 𝘤𝘩â𝘯 𝘉á𝘤 của Tố Hữu và rất nhiều bài thơ khác thuộc dạng đó, thậm chí còn phục sinh thể loại Trường ca. Còn về đề tài, với Tế Hanh là chuyện đất nước chia ly sau hiệp định Genève 1954, hứa hẹn hai năm sum họp, trở thành hai mươi năm khói lửa. Anh làm rất nhiều thơ về niềm nhớ thương Nam Bắc trong thời gian nhức nhối. Và chúng ta tự hỏi Tế Hanh phục vụ thời đại hay ngược lại, thời đại phục vụ cho Tế Hanh, cung cấp một cấu tứ cơ bản trong ý thức và tiềm thức, là thời gian. Và một quần chúng quảng đại, quảng đại trong hai nghĩa. Nói như vậy, không phải là phủ nhận tài hoa của Tế Hanh mà Nhất Linh đã hé thấy từ 1939. Nhưng để nói rằng: một số bài thơ thành công và được truyền tụng của anh là do tài hoa, tinh tế của trí tuệ, mà cũng có phần nhờ ngoại cảnh. Ngoại cảnh ở hai diện, phần tình cờ, vô thức là tuyến tính trong sáng tạo, và phần ý chí, là lịch sử, là sự kiện và quần chúng. Trường hợp Tế Hanh chưa chắc đã cá biệt; giả thuyết cho rộng thoáng: giá các vị ấy sinh muộn mười năm, thì có thể vẫn có một Tố Hữu, mà chưa chắc đã có Xuân Diệu.
Hoàn cảnh khách quan thuận lợi cho Tế Hanh, lại là trở ngại về thi pháp: tuyến tính không phải là ưu thế của thi ca đối chiếu với văn xuôi. Một mặt, văn xuôi đơn tuyến, đi thẳng một mạch; thơ chần chờ, vòng vo, đi tới đi lui. Nói theo Valéry: văn xuôi, so với thơ, như là đi bộ so với khiêu vũ. Mặt khác thơ không gắn bó với hiện thực, sự kiện mà có khi cần bắt nguồn từ hư tưởng, thậm chí hoang tưởng. Thích thơ Tế Hanh người đọc không bị mê hoặc, vì thơ Tế Hanh thiếu chất hoang đường để làm nên một tinh hệ riêng trên trời thơ Việt Nam.
Tế Hanh là nhà thơ bình dị, đến với văn học với những bài thơ học trò chơn chất. Trong phong trào Thơ Mới vào giai đoạn đã hoàn chỉnh và tân kỳ, thơ Tế Hanh vẫn hồn hậu. Tiếp cận với thơ Âu Tây rất sớm, Tế Hanh không chịu ảnh hưởng bao nhiêu, vì không cảm thụ được những hình ảnh xa lạ hay những rung cảm mới mẻ. Một cách tự nhiên thôi, tâm hồn non trẻ của anh chỉ rung động trước những hình ảnh thân quen: dòng sông quê, con đường đất; hiện đại lắm là sân ga với những 𝘵𝘰𝘢 đầ𝘺 𝘯ặ𝘯𝘨 𝘬𝘩ổ đ𝘢𝘶.
Sau này, sau 1955, kinh nghiệm sống phong phú hơn, kiến thức thơ thế giới dồi dào hơn, thơ Tế Hanh vẫn bình dị, và anh thành công nhất ở những suy cảm bình dị, như những bài thơ nửa tâm cảm, nửa chính luận, trong thời kỳ đấu tranh thống nhất nước nhà.
Nhưng thơ anh nhiều câu thật thà quá, nhiều bài nôm na, thô thiển khi cao giọng tuyên truyền hay khi tách rời ra khỏi những môi trường thân thuộc, ví dụ như bài 𝘓ê 𝘕𝘪𝘯 𝘷à 𝘣ả𝘯 𝘯𝘩ạ𝘤 𝘉é𝘵 𝘵ô 𝘷𝘦𝘯, khởi thảo tại Liên Xô, 1967 (Tuyển Tập, tr. 220).
Trong những người có địa vị trong phong trào Thơ Mới 1932-1945, Tế Hanh là người cuối cùng vĩnh biệt chúng ta. Về những tác gia Thơ Mới tôi đã có nhiều bài, riêng về Tế Hanh, tôi chưa từng viết được điều gì, trong khi với tôi, anh là người thân thiết nhất. Vì viết về anh rất khó, không thể nói riêng về một khía cạnh nào đó của thơ anh mà không đặt chung vào toàn cảnh của thơ Tế Hanh. Nói riêng về một đề tài, một bài thơ nào đó của Tế Hanh là lạc hướng và làm người đọc lạc hướng.
Trong bài này, tôi chủ quan cho rằng đã đề xuất vài điều chính yếu và tâm huyết, về hồn thơ và thi pháp một bậc đàn anh thân thiết..
Nhớ Tế Hanh.
Như một ngày hè xưa nhớ thương những mùa Hạ cũ.
Đặng Tiến
Orléans 15.8.2009.
___________________
(✱) Khi tra lại lịch vạn niên thì thấy ghi tiết 𝘏ạ 𝘤𝘩í năm Tân Dậu 1921 bắt đầu từ ngày 17-5 và kết thúc vào ngày 2-6, như vậy ngày 15-5 còn trong tiết 𝘔𝘢𝘯𝘨 𝘤𝘩ủ𝘯𝘨.
Cũng vậy, ngày Hạ chí dương lịch (𝘴𝘶𝘮𝘮𝘦𝘳 𝘴𝘰𝘭𝘵𝘪𝘤𝘦) thông thường rơi vào ngày 21-6 hay 22-6 (không phải là ngày 20-6).
[1] 𝘏𝘰𝘢 𝘕𝘪ê𝘯 đã được in lại, cùng với nhiều thi phẩm khác trong phong trào Thơ Mới, thành một bộ. Nxb Hội Nhà văn, 1992, TPHCM. Và trong sách 𝘛𝘩ơ 𝘔ớ𝘪, 𝘵á𝘤 𝘨𝘪ả 𝘷à 𝘵á𝘤 𝘱𝘩ẩ𝘮, nxb Hội Nhà văn, 1998, Hà Nội.
Thơ trong bài này trích từ 𝘛𝘶𝘺ể𝘯 𝘛ậ𝘱 𝘛ế 𝘏𝘢𝘯𝘩, nxb Văn Học, 1987, Hà Nội.
[2] Nhất Linh, do Vương Trí Nhàn trích dẫn trong 𝘕𝘨𝘩𝘪ệ𝘱 𝘝ă𝘯, tr. 234, nxb Văn Hóa Thông Tin, 2001, Hà Nội.
Theo bài 𝘛ế 𝘏𝘢𝘯𝘩 𝘓ờ𝘪 𝘊𝘰𝘯 Đườ𝘯𝘨 𝘘𝘶ê trong 𝘊â𝘺
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.