Thứ Sáu, 5 tháng 2, 2016

Trần Đăng Khoa














Trần Đăng Khoa
(24/4/1958 - .......) Hải Dương
Nhà văn, nhà thơ, nhà báo

Trần Đăng Khoa vốn là Trần Giang Khoa (em gái của Khoa tên Giang) nhưng vì mới đi học nên ông viết sai là Trần Dang Khoa, đến khi có bài đăng báo, tòa soạn sửa lại thành Trần Đăng Khoa.


(theo Chuyện vãn về bút danh, tác giả Ngô Vĩnh Bình, báo Sài Gòn Giải Phóng).




Trần Đăng Khoa (sinh ngày 24 tháng 4 năm 1958), quê làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyên Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát thanh có hình VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Hiện nay là Phó Bí thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam.






Tiểu sử

Từ nhỏ, ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968, khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông: Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời) được nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ "Hạt gạo làng ta", sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).

Ông cũng được biết đến nhiều với câu chuyện khi mới hơn 10 tuổi đã đề nghị đổi câu thơ "Đường ta đi rộng thênh thang tám thước" thành "Đường ta rộng thênh thang ta bước" trong bài thơ Ta đi tới của nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ là Tố Hữu.

Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10/10 tại trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân tăng cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất, việc bổ sung quân cho chiến trường không còn cần thiết nữa, ông được bổ sung về quân chủng hải quân. Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế giới M. Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, giữ chức Phó Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 2008, khi Đài tiếng nói Việt Nam thành lập Hệ phát thanh có hình VOVTV, ông được phân công làm Giám đốc đầu tiên của hệ này cho đến 2011. Hiện nay, ông là Phó Bí thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam VOV.











Tác phẩm







1
Từ góc sân nhà em
1968










2
Góc sân và khoảng trời
tập thơ, 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới









3
Khúc hát người anh hùng
trường ca, 1974










4
Bên cửa sổ máy bay
tập thơ, 1986










5

Tiểu luận phê bình: Nhà xuất bản Thanh niên, 1998, 
tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản.






Trích đoạn





Bài 4: 

Phù Thăng


I

Lần đầu tiên, tôi được biết Phù Thăng. ấy là khi ngồi chuyện phiếm với Xuân Thiều lâu rồi. Dễ đã hai chục năm có lẻ. Chiều ấy, không biết Xuân Thiều tới tìm ai đó, rồi tình cờ, tạt qua phòng tôi. Thế rồi, bên chén trà đã nhạt, có ai đó bàn đến truyện mini, một dạng truyện độc đáo. Độc đáo bởi nó ngắn. Cực ngắn. Có truyện chỉ vài trăm chữ, thậm chí vài chục chữ, mà vẫn chuyển tải được tới bạn đọc một vấn đề lớn. Chỉ một dúm chữ, nhưng truyện vẫn có hồn, có cốt, có cả nhân vật. Nói tóm lại, nó vẫn là cái truyện nghiêm chỉnh, chứ không phải một dạng tiểu phẩm, có tráng qua chút văn chương. Nghĩa là đọc nó, người ta vẫn thấy tự nhiên, thoải mái, không có cái cảm giác bức bối, ngột ngạt như bị vo nén lại, rồi nhét vào trong một cái ống xe điếu!

Rồi để chứng minh cho cái lý luận mini ấy, Xuân Thiều rủ rỉ kể cho tôi nghe một truyện của Phù Thăng. Cái truyện có tên là Hạt thóc. Cứ theo lời Xuân Thiều thì truyện ngắn lắm, chỉ vẻn vẹn có một vốc chữ, đem tải ra cũng không kín một trang vở học trò. Chuyện kể về một gã tâm thần. Gã từng là nhà văn, từng làu làu tiếng Pháp. Thế rồi chẳng biết do ngộ chữ thế nào đó, gã đâm ra lẩn thẩn. Gã cứ nghĩ mình là hạt thóc bé bỏng tội nghiệp. Và vì thế, cứ trông thấy gà qué ở đâu là gã co cẳng chạy. 

Thật tội nghiệp cho gã! Thà gã cứ nghĩ mình là một cục cứt để rồi mà sợ chó, thì đời gã chẳng đến nỗi khổ như vậy. Chó đang thưa vắng dần. ở làng quê bây giờ, có bói cũng chẳng tìm thấy bóng dáng một chú chó nhỏ. Để phòng bệnh dại, người ta đã triệt chó. Trên vùng núi cao, ở những bản xa mù, thỉnh thoảng lắm mới có tiếng chó sủa eo óc, nghe như tiếng ếch kêu. Mà cũng chẳng biết có phải đấy là tiếng chó sủa thật không, hay chỉ là chút ký ức vẩn lên trong tâm trí người bộ hành mệt mỏi, thấp thỏm bước trên những con đường rừng khuya khoắt, mong có chỗ dừng chân, muốn gặp một bản làng, mà rồi nghĩ ra vậỵ Chỉ ở Hà Nội mới có chó. Rất nhiều chó. Chó ngào ngạt suốt một rẻo đê Nhật Tân. Nhưng đó lại là những con chó hoà bình, chẳng có gì phải sợ. Khốn nỗi gã lại là hạt thóc. Một hạt thóc bé nhỏ nên mới sợ gà. Mà gà thì ở đâu chẳng có. Chúng sinh sôi nảy nở đàn đàn lũ lũ ở các nông trường, các trại gà công nghiệp, các làng quê xóm bản. Đến cả những phố phường sầm uất, sang trọng, ồn ào người xa gần cũng có thể bất thần nghe thấy tiếng gà gáy te te ngay trên ban-công, ở những biệt thự cao tầng chìm lấp sau những giàn hoa giấy khuê các. Bởi vậy tính mạng gã luôn bị đe dọa.

May sao, có một người hiểu được nỗi bất hạnh ấy của gã. đó là ông bác sĩ tâm thần. Ông niềm nở đón gã vào viện. Bệnh viện của ông cũng lạ. Nó chẳng giống những bệnh viện tâm thần mà ta thường thấỵ Nhìn khắp bốn phía chẳng có tường ngăn, rào chắn. Ngày đêm cửa mở thông thống. Bệnh nhân không ai bị trói giữ, giam nhốt. Đến nỗi chính gã cũng chẳng biết mình mang bệnh và đang ở trong một bệnh viện tâm thần. Gã hoàn toàn tự do, có thể tha thẩn đi hái thuốc cùng mấy cô y tá trẻ đẹp, có thể suốt ngày ngồi đàm đạo văn chương với mấy ông bác sĩ. Đôi lúc cao hứng, gã còn mang những bài thơ gã viết bằng tiếng Pháp đọc cho bác sĩ nghẹ Rồi ông bác sĩ cũng lại mang những bài thơ viết từ thời đang còn là sinh viên Trường Y ra đọc, nhờ gã góp ý, sửa chữạ Nói gì thì nói, chứ cái khoản văn chương thơ phú này, em cứ phải tôn ông anh là bậc đại sư phụ. Thế thì ai dám bảo gã là hạt thóc. Chỉ được cái bố láo!

Cứ thế, gã được kính trọng, được cư xử thân ái như cư xử với một con ngườị Và bằng tấm lòng nhân ái ấy, ông bác sĩ tài ba đã cứu được gã, đă đưa gã từ cõi mộng mị hoang tưởng về nơi xứ ngườị Ông anh làm nghề gì? Tớ là nhà văn. Cóc phải! Người ta bảo ông anh là hạt thóc! Bậy! Tớ là con ngườị Cậu nói gì mà lạ thế? Tớ là người!

Gã tròn mắt kinh ngạc thật sự. Còn bác sĩ thì tủm tỉm cười, gương mặt thật rạng rỡ. Sau đó ít ngày, gã ra viện. Cuộc chia tay thật bịn rịn. Rồi gã thung thăng ra về. Nhưng thật oái oăm, chính lúc ấy, cái lúc gã đang ung dung bước như một con người ấy, thì ở xóm ven đê, lại vút lên tiếng gà gáy. Thế là gã lại co cẳng chạy. Gã chạy tất tưởi, chạy cuống quýt, lao bừa vào bụi rậm, vào các xó xỉnh khuất lấp để lẩn trốn. Bác sĩ há mồm kinh ngạc. Ông không hiểu sao căn bệnh tái phát nhanh đến thế. Khó nhọc lắm, bác sĩ mới lôi được gã lẩy bẩy từ sau bồ thóc rạ Ông anh làm sao thế hả? Con gà... con gà... gã líu lưỡi lại. Ông anh có phải là hạt thóc không? Bậy! Tôi không phải là hạt thóc. Tôi là người. Là con người! Thế sao thấy gà anh lại chạy. Khổ! Cậu thấy đấy. Tôi không phải hạt thóc. Nhưng con gà, vâng, chính là con gà ấy, nó vẫn cứ tưởng tôi là hạt thóc thì saỏ

II

Truyện vẻn vẹn có thế, lại qua lời kể bỗm bãm khói thuốc của Xuân Thiều, chưa phải nguyên bản, vậy mà nó vẫn ám ảnh tôi suốt một thời gian dài. Cái truyện này, nghe nói Phù Thăng viết khi ông đã rời bỏ Hà Nội trở về quê, làm một thợ cày. Trước đó, ông từng là tác giả kịch bản của nhiều bộ phim truyện nổi tiếng: Nguyễn Văn Trỗi, Quê nhà, Biển lửa, Tiếng gọi phía trước... Có phim từng đoạt giải vàng, giải bạc của liên hoan phim quốc tế, tổ chức tại Matxcơva. Tất nhiên, đây là phim truyện Việt Nam những năm sáu mươi, bảy mươi. Giá trị nghệ thuật của nó đến đâu, bây giờ ta cũng có thể xác định được rồi. Trước khi đến với điện ảnh, Phù Thăng đã là nhà văn. Truyện Con những người du kích đã đưa ông đến vị trí của một ngòi bút được bạn đọc yêu mến, tin cậy. So với nhiều nhà văn cùng lứa, Phù Thăng được tạo hóa ưu ái ban cho một văn tài. Văn tài ấy bộc lộ ở những con chữ tài hoa, hàm chứa những hiểu biết sâu sắc. 

Sau tập truyện vừa Trận địa mới, truyện Phá vây ra đời. Đó là cuốn tiểu thuyết dày 500 trang viết trực tiếp về cuộc chiến tranh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thời kỳ đầu kháng Pháp. Một tiểu đoàn trinh sát mở một trận đánh nghi binh, thu hút lực lượng địch về phía mình, giải vây cho đồng đội. Và rồi, bằng trí tuệ và lòng dũng cảm của mình, những người lính của tiểu đoàn trinh sát đã phá được vòng vây, không phải chỉ vòng vây địch, mà cả những vòng vây vô hình nhưng không kém phần nguy hiểm, đang giăng mắc ở ngay trong ta, ấy là những định kiến, những quan niệm hẹp hòi, ấu trĩ, trói buộc con người, cản trở sự tiến triển của cách mạng, của văn hoá và văn minh. đây là cuốn sách ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Một chủ đề phổ biến trong văn học ta những năm sáu mươi. Tập sách sẽ là con thuyền êm chèo mát mái, nếu không có vài dòng Phù Thăng luận về chiến tranh. Trong ý nghĩ của ông lúc bấy giờ, chiến tranh dù nhìn ở góc độ nào cũng không phải là điều tốt đẹp. Bởi nó cuốn theo bao nhiêu xưong máu của những người dân vô tội. Đây là một vấn đề lớn có tính thời đại sâu sắc mà ông lại trình bày một cách giản đơn như thế và ở thời điểm ấy, nó đã hóa sóng gió đánh vào đời ông. Trận sóng này còn phủ lên cả những trang văn bình dị khác, như cái đoạn ông khắc họa vị tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn trinh sát. Anh đi kiểm tra trận địa nghi binh về, thấy lính ngả nghiêng nằm ngủ dướI trăng. Ngày mai là trận đánh lớn. Những người lính này sẽ tự nguyện làm mồi nhử địch, thu hút hỏa lực địch. Cậu lính nào cũng trẻ đẹp và khoẻ mạnh. Những sức trai như thế kia vào trận mà chết thì uổng quá. Trước mắt anh, họ đều là thợ càỵ Nếu không có chiến tranh, những sức vóc ấy mà cho đi phạt bờ, cuốc góc thì sướng biết mấy!

Những ý tưởng đó bây giờ cho là hết sức bình thường, nhưng ở thời điểm ra đời của nó lại khó được chấp nhận. Điều đó cũng dễ hiểụ Phù Thăng giải trình với bạn bè: Thực tâm tôi nghĩ thế thì tôi viết ra một cách trung thực thế. Nếu các anh cảm thấy không được thì thôi, không in nữạ Nếu trót in rồi thì không phát hành nữa, chứ bây giờ bảo tôi chữa khác đi, thì thú thực, tôi chẳng biết chữa thế nào. Trận sóng Phá vây ấy, đã hất tung Phù Thăng về với đồng ruộng, quê nhà. Phù Thăng lại thấy có cái gì đó vui vuị Ông tâm sự với một nhà văn trẻ: Mình thế là rất được ưu ái đấỵ Các anh ấy còn thương, cho làm quan tại giạ Lương tháng vẫn nhận đều đều ở xưởng phim, chẳng bị chiết khấu đồng nàọ Bây giờ thì bình thường, chứ cứ như ngày trước, được làm quan tại gia là sướng và oai lắm đấy! Và rồi từ đó ông quan tại gia cứ sáng sáng vắt vẻo cái que tre buộc toòng teng mấy rảnh lá chuối khô, lùa vịt ra đồng. Dưới cái gậy chỉ huy của ông, hàng trăm tên lính xung kích sẵn sàng xông trận. Chỉ khẽ vẫy tay là cái đạo quân ấy rùng rùng chuyển động, nom tếu như một cái chăn khổng lồ bị giời xé. Khi đoàn quân ấy đã chiếm lĩnh trận địa rồi, ông mới lụi cụi phạt bờ cuốc góc. Trông chẳng ai biết đấy là một ông quan. Rồi cứ vài ba tháng một lần, ông lại về Hà Nội nhận lương, cho đến khi ông trao chìa khoá, trao căn phòng mình ở Hà Nội cho anh em trong cơ quan, rồi nhận sổ hưu, về làng hẳn. Từ đó đến nay, ông không trở lại Hà Nội nữạ Cũng không thấy ông tiếp xúc giao du với giới văn chương. Và làng Tất Lại, xã Cộng Lạc, quê ông, từ đó có thêm một ông thợ cày cần mẫn. Ngày nào ông cũng đánh trâu ra đồng, kể cả những hôm giá ngắt, nước ruộng trong leo lẻo, cá mại cờ chết rét, nổi phềnh lên, dạt cả vào vệ cỏ, ông vẫn cày quần quật từ sáng đến tối mịt. Có hôm bị huyết áp, ông ngã vật xuống ruộng càỵ Lũ trẻ chăn trâu đã khiêng ông về nhà.

Cứ tưởng lần ấy, ông đi hẳn. Ai ngờ ba ngày sau đã thấy ông vắt, diệc trên cánh đồng rồị Một mình ông nhận đến bảy sào ruộng khoán. 

- Sao bác nhận lắm ruộng thế? Có phải mướn người làm không? - Một phóng viên báo tỉnh hỏi ông.

- Việc gì phải mướn. - Ông cười móm mém. - Mình vốn là thợ cày mà. Phải làm thôị Mướn người biết lấy gì ra mà trả cho họ. Mấy chục đồng lương thiếu uý hưu của mình, ông tính sống sao nổi ở thời kinh tế thị trường nàỵ Mình còn kéo theo ba cái rờ moóc nữạ Tháng trước, cô con gái út làm ở đài truyền thanh huyện lại về xin bố tiền. ở quê, nhiều thứ phải chi tiêu lắm. Tất cả chỉ còn biết trông vào hạt thóc thôi.

Phù Thăng làm quần quật như một nông dân. Chẳng ai biết ông là một nhà văn hào hoa, phong nhã một thờị Bà bán nước chè xanh ở quán nước đầu xã Cộng Lạc, vốn là một giáo viên văn nghỉ hưu tỏ ra rất am tường: Các bác muốn tìm ông Thăng mà hỏi nhà văn Phù Thăng thì chẳng ai biết đâụ Cứ hỏi ông Thăng có con trâu sứt tai, hoặc gọi tắt là ông Thăng Sứt thì cả làng này, từ già tới trẻ, ai cũng biết. Mà kể cũng lạ. - Bà chép miệng, - Ông lão người cứ quắt như gốc sắn khô, mà trị được con trâu to vật. Con trâu ấy dữ lắm, trẻ con đứa nào cũng hãị Chúng còn gọi là con điên hay con điên sứt. Con điên sứt ấy đã cho mấy ông thợ cày thủng bụng rồi đấỵ Vậy mà nó lại chịu ông Thăng. ở làng này chỉ có ông Thăng mới cày được nó, cũng chỉ có ông Thăng mới cưỡi được nó.

Vậy đó. Con điên. Con điên sứt. Những biệt hiệu đầu gấu sặc mùi đao búa của con trâu ương ngạnh, ai ngờ lại là đặc điểm, là chứng chỉ để người ta nhận diện một nhà văn hào hoa, phong nhã. Người ta còn gắn cả cái tai sứt của con trâu cho ông, đủ biết ông là một lực điền như thế nào rồị Thực tình Phù Thăng đâu đã bỏ văn, để rồi phải núp sau cái tai sứt của con trâu điên khùng. Ông vẫn viết cần mẫn. Ngày cày ruộng quần quật, đêm lại chong ngọn đèn dầu, cặm cụi cày trên cánh đồng giấy trắng rợn, trắng đến sờn cả da gà. Bà vợ hơn ông hai tuổi lại rên rẩm: Thôi! Tôi lạy ông! Đừng viết nữa. Khổ thế này còn chưa đủ sao. Nhất nhỡ lại sa sẩy nữa thì sống sao nổi. Ông già rồi.

Nhưng Phù Thăng làm sao bỏ viết được. Cái nghiệp văn chương nó thế. Không phải ông chọn văn chương mà chính văn chương đã chọn ông để đày đọa để hành hạ ông trong cõi người nàỵ Bây giờ thì nó đã thành máu thịt của ông, đã thành số phận của ông rồị Bỏ cây bút, ông còn biết tựa vào đâủ Ông biết lấy sức lực nào để cày hết bảy sào ruộng khoán? Sức mạnh bí hiểm ấy, bà không thể biết được. Đối với một nhà văn, khi không còn sức sáng tạo nữa thì nhà văn ấy thực sự đã chết rồị Chính niềm vui của sự sáng tạo văn chương đã giúp Phù Thăng vượt qua cái chết trên đồng làng và cả trên bàn mổ. Phù Thăng đã ba lần bước lên bàn mổ với các vết thương từ thời kháng Pháp. Ông vốn là thương binh. Chính các bác sĩ cũng không hiểu tại sao một ông lão gày guộc, dường như chỉ có đôi mắt là còn sức sống, lại có sức lực dẻo dai đến thế. Và rồi đêm đêm những trang văn vẫn ra đời. Chồng bản thảo mỗi ngày một đầy thêm. Phù Thăng gói bản thảo thành từng bó, quấn giấy xi-măng, rồi cho vào chum ủ lá xoan tươị Đấy là cách phòng chống mối mọt của những nông dân nghèo thời trung cổ. Trong căn buồng ẩm thấp, tối sẫm, lúc nào cũng vo ve tiếng muỗi, ngoài chum thóc, chum sắn, còn có cả một chum văn nữạ Vậy mà cho đến nay, Phù Thăng vẫn đứng bên ngoài dòng văn học. Cả một đời cặm cụi viết, lầm lũi đi, đến lúc tuổi đã già, dụi mắt nhìn lại, thấy con đường văn ngổn ngang những cột mốc với những tên tuổi khác. Lục khắp cũng chẳng bói đâu ra một chút dấu ấn của đời mình.

III

Có lẽ vì thế, người đọc bây giờ, nhất là các bạn trẻ, không biết Phù Thăng, thiết tưởng cũng dễ hiểu. Trong số hơn sáu trăm hội viên Hội nhà văn, nhiều người được kết nạp đã lâu mà đến nay, tên tuổi vẫn lạ hoắc, đến nỗi ngay cả những người trong nghề cũng thấy lù mù, chẳng biết họ viết văn hay làm thơ, hay là nhà phê bình lý luận. Trong màn sương mù ấy cũng chẳng thấy cái bóng mờ mờ nhân ảnh của Phù Thăng. Còn trên quầy sách thì thật rôm rả. Ríu rít bao màu sắc. Mới có, cũ cũng có. Vẫn chẳng thấy dáng dấp Phù Thăng. Những năm gần đây, sách ra rất rộng rãi. Nhiều tác giả Nhân văn Giai phẩm xưa từng có lúc thiệt thòi, giờ cũng được bù lại. Tuy nhiên, sự ưu ái ấy cũng vẫn chưa phải đã là một may mắn. Bởi nhiều hình bóng chỉ có sức sống mãnh liệt ở xứ sương mù. Sương tan thì bóng hình cũng theo sương mà tan nốt. Nói một cách văn vẻ như một nhà thơ trẻ, thì đấy là những con rồng trong mây, lúc ẩn, lúc hiện, khi phô khúc đen, khi xoè khúc trắng, nom thật ngoạn mục, thật kỳ vĩ. Nhưng đến lúc bày ra giấy rồi mới hay nó chỉ là những con chạch chấu gầy gò teo tóp. Giá không được may mắn ấy, có khi lại may mắn hơn, bởi trong tâm trí người đọc, biết đâu người ta vẫn nghĩ anh là một con rồng, có khi còn hơn cả con rồng. Phù Thăng cũng lại nằm ngoài sự may rủi ấy. Biết đâu, đấy lại chẳng là một điều hay cho ông. Mãi gần đây, tôi mới có dịp được gặp ông.

Đó là dạo Quân khu Ba kỷ niệm lần thứ 50 ngày sinh của mình. Cục chính trị cho mời toàn thể anh em văn nghệ sĩ của Quân khu về Hải Phòng gặp mặt. Chúng tôi vừa tới Cục chính trị thì cô tiếp viên nhà khách đã đon đả: Các bác lên đi. Trên đó nhiều phòng lắm... Anh em đến đủ chưa? Lê Lựu hỏi lập bập. Trên đó chỉ có một bác Thăng ở Hải Dương thôi. Có phải bác Phù Thăng không? Cháu không rõ. Chỉ biết bác ấy tên là Thăng. Hình như bác La Thăng gì đó. Bác ấy vẫn làm bài hát mà. ở đây toàn các bác múa hát thôi. Các bác ấy đàn sáo suốt đêm qua. Vui lắm.

Tôi bổ lên nhà khách. Đèn sáng choang, nhưng chẳng có ai cả. Trên cọc màn treo lủng lẳng một cái áo trấn thủ thủng lỗ chỗ như những vết đạn bắn. Có lẽ Phù Thăng thật. Mà đúng là Phù Thăng. Khi chúng tôi đang ngồi uống trà, thì Phù Thăng tất tả bước vào. Ông mặc tấm áo may-ô vàng ố, cái quần kaki đã bạc, ống thấp, ống cao. Phù Thăng như từ thửa ruộng cày bước thẳng vào phòng khách. Thấy chúng tôi, ông sững lại, rồi reo òa lên như một đứa trẻ:

- -ối giời, các ông! - Và rồi, thật bất ngờ, Phù Thăng sụp xuống.- Tôi lạy ông Khải, tôi lạy ông Lựu, tôi lạy ông Khoa!

Ô hay, sao lại thế này? Lê Lựu há hốc mồm kinh ngạc. Nguyễn Khải đứng dậy, luống cuống. Xưa nay người ta thường chỉ lễ người chết, chứ có mấy ai lễ người sống bao giờ. Thương nhau, biết nhau cả, mà rồi đằng đẵng mấy mươi năm chẳng gặp được nhau, thì dẫu có sống cũng coi như người đã khuất núi rồi. Bởi thế mà Phù Thăng mới lạy chúng tôi, nước mắt lã chã. Cả ba chúng tôi đều cuống lên, chẳng biết làm sao, cũng sụp xuống, xá lại. Hai bên lụp cụp lạy nhau. Các cô phục vụ nhà khách kéo đến, tưởng các bác diễn tuồng.

- Trời! Tôi không thể nghĩ mình còn có dịp được trông thấy các ông nữa!

Phù Thăng nói bằng giọng mếu máo. Ông ngồi lọt thỏm trong ghế sa-lông. Một ông già nhỏ thó, đen đúa. Hàm răng đã rụng hết. Trông ông teo tóp như một hạt thóc lép. Chỉ có đôi mắt là long lanh sáng. Hình như toàn bộ sức sống của cả con người ông, đều gom lại trong đôi mắt ấy. Trời, tôi không ngờ, không ngờ... Phù Thăng vẫn thều thào. Quả cũng bất ngờ thật. Nguyễn Khải ở Thành phố Hồ Chí Minh. Lê Lựu ở Hà Nội, Phù Thăng ở làng Tất Lại, Hải Dương. Ba ngọn núi kỳ dị của đồng bằng Bắc Bộ ấy, ai ngờ lại có dịp ngồi ngắm nhau. Bởi thế, Phù Thăng vẫn chưa hết bàng hoàng của một người trong cõi mộng.

- Không biết sau lần này, chúng mình liệu còn có dịp nào được gặp lại nhau nữa không nhỉ? Chắc là không... không đâu...

- Gặp chứ! Gặp chứ!

Lê Lựu nói lắp bắp, rồi đưa tay vỗ tóp tép vào cái đùi tong teo của Phù Thăng, rồi lại nắm cái đầu gối củ lạc của ông mà lắc lắc. Đoạn, anh ghé tai Phù Thăng, hỏi một câu gì đó, chắc là về tình ái. Thế là Phù Thăng cười toá lên, mặt rúm ró.

Chuyện vã một lúc, Lê Lựu rủ mấy anh em xuống thăm các anh chị văn công đang om xòm tề tựu ở khu nhà dưới kia. Đi di, ngồi ru rú ở đây làm quái gì. Mấy khi có dịp thế này. Đêm nay ta ra đồi, nhảy Va-xi-lô với mấy mẹ xanh đỏ, bác Thăng nhé!

Phù Thăng lại phều phào cười. Chúng tôi bước lững thững trên con đường mới rải nhựa, bảng lảng sương khói. Xa kia, sau đồi Cò, mảnh trăng non cong vắt như cái khoẳm trâu mà một gã thợ cày nào đó vừa quăng lên bầu trời. Phù Thăng bước bẫng lẫng. Ông bảo tôi: 

- Lúc nào Khoa cố gắng bớt chút thì giờ ghé về nhà mình chơi. Mình muốn nhờ ông đọc giúp mấy cái truyện. Đọc để biết thôi. Chứ in thì chắc khó lắm. Thời kinh tế thị trường bây giờ, để in một cuốn sách, phải bán đến dăm sáu tấn thóc thì mình chịu. Kiếm đâu ra nổi số thóc lớn như thế.

Đối với Phù Thăng bây giờ, quả là mọi thứ chỉ còn biết trông vào hạt thóc. Và câu chuyện mini của ông xưa, lại ám ảnh tôi, chợt làm tôi ớn lạnh. Bất giác, tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sẫm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy...

5-1996

Trần Đăng Khoa
(Trích Chân dung và đối thoại NXB Thanh Niên, 1999, tr. 61-75)















Đọc Chân Dung Và Đối Thoại của Trần Đăng Khoa

Đỗ Ngọc Thạch





















"Thơ tình người lính biển" 
Hoàng Hiệp phổ nhạc
thơ Trần Đăng Khoa





















6
Đảo chìm
tập truyện - ký
đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần.



Tập truyện ký viết về Trường Sa, gồm 12 đoạn:

- Vị tướng già và chàng lính trẻ

- Hòn đảo kỳ lạ

- Một xứ sở tự do
- Nhà thơ của đảo
- Bữa yến tiệc không thành
- Cô tiên trên đảo
- Người lính gác đảo chìm
- Tiếng còi tàu đột ngột
- Nàng An ta ra mê na.
- Sóng gió không từ biển
- Bão biển
- Biển mặn
















7
Người thường gặp




















Giải thưởng

Ông ba lần được tặng giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong (các năm 1968, 1969, 1971)
Giải nhất báo Văn nghệ (1982)
Giải thưởng Nhà nước (năm 2000)















Chân dung Trần Đăng Khoa là chân dung thứ 98 trong 99 chân dung nhà văn của Xuân Sách:


Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
“Biển một bên và em một bên”.
















Trần Đăng Khoa – Người “bán lẻ” các vì sao!

Bùi Hoàng Tám

Chân dung Trần Đăng Khoa, qua bài viết dí dỏm của nhà thơ Bùi Hoàng Tám, là kẻ “bán đứng” thi ca, “thâm canh” Đối thoại và “bán lẻ” các vì sao.


Tôi nhớ cách đây hơn chục năm, trên mục đối thoại của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, trong cuộc gặp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Cao Sỹ Kiêm, nhà thơ Trần Đăng Khoa có nói đại để rằng anh sẽ “kinh doanh bầu trời và bán lẻ... các vì sao”.

Đọc đến đoạn ấy, tôi mê lão lắm. Giời ạ, làm nhà thơ phải “lãng mạn, gió mây và ngớ ngẩn” thế chứ. Giời đã sinh ra nhà thơ là để anh ta có sứ mệnh “biết khinh tiền bạc”. Thật là không thể tưởng tượng nổi một nhà thơ háo danh, tham tiền như mõ, mà hễ mở miệng ra là lại gọi “tiền ơi”!, lúc nào cũng đau đáu lời kêu gọi: “Sao không về vàng (vàng bạc) ơi!”.


Nhà thơ Trần Đăng Khoa


Trời ơi! Thi sĩ Trần Đăng Khoa đây ư?
Lúc ấy, vì không có ti vi, báo chí như bây giờ nên chả biết mặt lão thế nào (chứ như bây giờ, mở ti vi vài hôm lại nhìn thấy mặt đến… nhạt cả đi) nên bằng trí tưởng tượng của mình, tôi vẽ ra một Trần Đăng Khoa người cao dong dỏng, da trắng trẻo, cặp kính dày như đít chai trề trễ xuống mũi, mặt lơ ngơ đi giữa cuộc đời. Có khi tay còn cầm một bông hoa và một... chai rượu.

Thế nên lúc gặp, tôi như không tin ở mắt mình. Trời ơi! Thi sĩ Trần Đăng Khoa đây ư? Lão thấp lủn củn, béo, đen và khôn như… ma xó. Đã thế, lão còn khoe với tôi lão là nhà kinh doanh có hạng. Dạo ở Nga, nhiều nhà doanh nghiệp còn nhờ lão “soi đường, chỉ lối”. Có lần lão còn được hưởng lương “cố vấn kinh doanh”.

Tất nhiên là lão chối đây đẩy “lời đồn” lão từng mua về nước 3 vạn 9 ngàn cái khăn quàng để đến lúc đem bán cho hàng... giẻ. Hỏi thì lão bảo: “Tào lao! Làm gì có chuyện đó”.

Chuyện ấy có thể thiên hạ bịa cho vui và cũng có thể lão chối vì ai muốn nhận “mắm thối” về mình nhưng chuyện lão kiếm tiền như nước sông Kinh Thầy thì có thật.

Tiền vào như nước Kinh Thầy
Dịp đầu năm 1999, nhà văn Lê Lựu ghé tai tôi thì thầm: “Tết này thằng Khoa kiếm hơn chục triệu đấy”. “Lão buôn hàng lậu à?” Tôi cười hỏi. “Không, nó buôn Tết, bán... mùa xuân”. Té ra, theo một nguồn tin rất… văn nghệ, dạo đó mỗi tết Khoa thường viết vài chục bài cho toàn các tờ báo lớn. Lãnh đạo các báo vừa quý vừa thương, muốn tạo điều kiện để thi sĩ kiếm thêm thu nhập, vừa thỏa lòng độc giả nên cái khoản nhuận bút khá xôm. Mỗi bài 500 – 700 có bài lên đến tiền triệu (tiền khi đó) là chuyện không hiếm.

Tôi đến hỏi Khoa, lão cười phơ lớ: “Làm gì có của”. “Chắc thâm canh mỗi bài 4 lần chứ gì?”. “Đâu có, ai lại thế...”.

Phải thừa nhận mấy năm đó, tài lộc thi nhau đổ vào nhà lão. Chỉ tính sơ sơ riêng Chân dung và đối thoại lần đầu, NXB trả cho 5 triệu, 10 lần tái bản, mỗi lần ông Ngợi (giám đốc NXB Thanh niên) lại lẳng lặng rút ra 2 triệu giúi vào tay lão. Độc khoản này, lão ăn kép (vì tất cả các bài đó đã đăng báo, lão tập hợp và cho in lại), bội thu 25 triệu đồng.

Đã từng “bán đứng” thi ca và “thâm canh” Đối thoại…
Cái khoản “bán đứng thi ca – nói chuyện văn chương, lão toàn… đứng nói” , lão cũng rất đông khách. Ngày ấy, văn chương còn có giá, nhất là các dịp mừng xuân mới hay ngày lễ, tết… Khách khứa kéo đến nhà lão thủ thỉ: “Thôi thì trăm sự nhờ thày giúp cho” cứ như mời thày cúng ngày tư rằm, mồng một.

Nhớ dạo kỉ niêm Ngày thanh lập Quân đội Nhân dân năm đó, mấy thầy cô ở trường X lên từ ngày 3/12 “mời thầy về giúp”. Thế mà lão hẹn người ta “Ấy, thưa với các thầy, các thầy thư cho em đến ngoài 23 có được không ạ”. Cứ mỗi cuộc “Thưa thầy” như vậy là “nhà em khoa” thu hoạch ít nhất cũng là 300 ngàn, nhiều thì 500 ngàn đến 1 triệu. Thôi thì cứ xoàng xoàng tất cả 10 triệu nữa. Vị chi năm đó, lão thu hoạch chừng 50 triệu. Theo thời giá khi đó, trị giá bằng 20 tấn thóc. Xem ra cánh đồng văn chương cũng khá mầu mỡ cho Hạt gạo làng ta.

Chân dung và đối thoại không chỉ mang lợi cho lão. Tính đến nay đã có hàng trăm bài báo in, báo nói, báo hình “thâm canh”. Bình quân mỗi bài cỡ 150 ngàn thì các nhà phê bình, phóng viên văn hóa cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư đã kiếm hàng chục triệu bạc.

Có lần tôi hỏi một chủ sạp báo ở Hàng Trống: “Một ngày chị bán được mấy cái Chân dung...?”. “Ngày nhiều bù ngày ít cũng chừng chục cuốn”. Tức là chị bán được cỡ 300 ngàn và thu được 90 ngàn nhờ 30% phát hành phí. Một ngày kiếm gần trăm ngàn bạc từ một cuốn sách quả là số tiền không nhỏ.

Còn 30 em ở tổ bán báo Xa mẹ một ngày bình quân mỗi em cũng bán được 4 – 5 cuốn. Tức là mỗi em có được 40 - 50 ngàn đồng/ngày. Một chú bé hí hửng khoe với tôi: “Hôm 8/3, cháu bán được 15 cuốn. Có một ông mua hẳn 5 cuốn. Cháu hỏi chú mua làm gì nhiều thế. Ông ta bảo biếu bà nội một cuốn, bà ngoại một cuốn, một cuốn cho vợ, một cuốn cho em vợ và một cuốn cho con gái. Rồi ông ta nháy mắt với cháu: Tao làm công tác tư tưởng đấy”. Tôi đã tận mắt thấy gia đình một phạm nhân gửi “hối lộ” giám thị trại giam một cái “Chân dung và đối thoại”.

Những người làm nghề kinh doanh thường hay tin vào vía tốt. Tôi cũng tin là Trần Đăng Khoa tốt vía. Cứ cho rằng Góc sân và khoảng trời là tác phẩm văn học có giá trị (tái bản gần khoảng trên 50 lần, theo số liệu của Phát hành sách TP. Hồ Chí Minh quý I năm 99, lượng bán ra vẫn đứng thứ 2 sau Từ điển, còn Chân dung và đối thoại xếp thứ 10), nhưng đến cái chuyện lão Nguyễn Viết Chộp cũng làm tăng tia ra của tờ An ninh Thế giới thì quả là lão tốt vía vì thật tình cái chuyện ấy nhàn nhạt.

Lo mất thương hiệu hơn cả doanh nhân
Nhưng đừng ai quá tin vào tướng số mà hùn vốn kinh doanh với lão.
Cái nghề viết vốn mồ hôi, nước mắt nên lão viết rất khó khăn. Mỗi lần đặt bài là một lần khốn khổ vì lão hẹn tái hẹn hồi. Có lần lão bảo: “Tôi viết khó khăn lắm ông Tám ạ”. Có lẽ đó là sự thật và bù lại, những bài của Trần Đăng Khoa đều nhiều người đọc và cũng rất đáng đọc. Có lẽ do hay và do cả cái “thương hiệu thần đồng Trần Đăng Khoa” nữa. Và cũng chính vì thế, lão như nhà buôn chuyên nghiệp, rất lo mất cái “thương hiệu” của mình.

Phòng khách của Tạp chí Văn nghệ quôn đội là nơi tụ tập của khách văn chương. Chè sẵn, nước sôi sẵn, ấm chén sạch nhưng thường xuyên không có nước trà uống vì chẳng ai chịu... pha. Cái chuyên nước buổi sáng đổ chè vào thế nào thì đến tối... còn nguyên như vậy. Đám bã chè nhão ra như bùn vì không ai thay chè mới. Cứ gạt nước sôi vào rồi lại rót ra, có đặc uống đặc, có nhạt uống nhạt. Cái sự lười của đám văn chương tưởng đến thế là cùng nhưng có lần tôi bắt gặp Trần Đăng Khoa sáu lần nhấc chén lên rồi lại đặt chén xuống vì chén khô. Và lão cũng thà... chết khát còn hơn phải rót nước vào cái ấm pha chè để uống.

Thi ca và… ốc luộc!
Cần nhắc lại, không “ngơ ngác như con nai vàng” mà thi sĩ Trần Đăng Khoa nổi tiếng vì khôn ngoan và kiềm chế. Hình như chỉ một lần duy nhất tôi thấy lão khờ khạo. Đó là lần lão với tôi đi ăn ốc ở hồ Tây. Vừa đỗ xe, mấy chú bồi bàn đã ríu rít: “A chú Khoa”. Còn mấy em mắt xanh mỏ đỏ thì: “Ôi, anh Trần Đăng Khoa” rồi vanh vách đọc thơ lão (ngày ấy nhà văn sung sướng thế).

Đến lúc chủ quán tính tiền cái này ngần này... cái này ngần này... vị chi là bằng này thì cặp mắt một mí của lão bỗng dưng tròn xoe và suýt thành... hai mí. Lúc ngồi lên xe, lão cứ lầu bầu: “Đọc thơ của người ta mà máy chém người ta thế”.

Ơ hay, lão khờ khạo đến thế là cùng. Lão cứ ngỡ thiên hạ đọc thơ của lão thì sẽ thêm cho lão mấy con ốc luộc chắc. Mà cũng chỉ có lão mới dám coi rẻ văn chương thế chứ. Văn chương cao ngạo sao lại đem so với ốc, loài chỉ biết tiến thân bằng mồm. Lão không hiểu điều tối thiểu rằng thơ mãi mãi vẫn là thơ còn ốc luộc thì muôn đời vẫn là ốc luộc.

Nhưng nói cho cùng cũng là tại lão, mới 8 tuổi hắn đã từng thốt lên: “Sao không về... vàng ơi”. Năm ngoái, khi ở đền bà Chúa Kho, tôi thấy tận mắt một bà gần 50 tuổi, béo nần nẫn, xòe hai bàn tay như quả chuối mắn ở mâm vàng mã mà khấn rằng: “Sao không về vàng ơi” với một giọng đầy thiết tha, mời gọi.

Một hôm, một chú bé bán báo nói với tôi: “Giá các bác nhà băn cứ viết như cái Chân dung thì chúng cháu chả lo đói”. Tôi xoa đầu chú mà bảo: “Hạt gạo làng ta bây giờ cày cấy trên cánh đồng văn chương màu mỡ lắm, dễ kiếm lắm chứ chả vất vả như thời nước như ai nấu đâu, con ạ”.

Phẩm chất thi sĩ đích thực và là nhân cách của kẻ sĩ
Dạo Đại hội Nhà văn, lão bảo riêng với tôi: “Kỳ này tôi xin nghỉ Ban chấp hành ông ạ”. Cứ nghĩ lão nói đùa hoặc “làm giá” nên tôi khuyên để lão đỡ… ngượng nếu còn ham hố: “Ông phải làm vì anh em, vì nền văn học nước nhà chứ”. Nào ngờ lão còn bảo: “Ông tin tôi đi. Tôi cũng sẽ xin thôi cả giám đốc VOV hình (kênh phát thanh có hình của Đài Tiếng nói Việt Nam) nữa”.

Thế rồi ra đại hội, lão là người đầu tiên xin rút khỏi danh sách bầu Ban chấp hành. Và cũng chỉ thời gian ngắn sau, lão thôi chức giám đốc VOV có hình của Đài Tiếng nói Việt Nam.

Có lẽ không phải có “cái dáng cao cao, đôi mắt ngơ ngác” làm nên một nhà thơ mà chính bởi cái sự coi thường chức tước mới là phẩm chất thi sĩ đích thực và là nhân cách của kẻ sĩ. Xưa nay, chức tước dù to, dù nhỏ nhưng khước từ nó phải đâu chuyện dễ, ai cũng làm được.

Có điều đáng trách ở Trần Đăng Khoa, đó là hơn một lần lão hứa với tôi sẽ tập hợp tất cả những tác phẩm viết về Trường Sa để in một tập bởi cho đến nay, lão là Hội viên Hội Nhà văn duy nhất tham gia bảo vệ Trường Sa và có những trang viết hay nhất, xúc động nhất về mảnh đất này. Thế mà lão cứ lần lữa, dù bài viết giới thiệu tập sách lão nhờ tôi đã viết xong.

Với tư cách một người bạn, một độc giả và một công dân, tôi – Bùi Hoàng Tám chính thức giao nhiệm vụ năm 2014 này ông Trần Đăng Khoa phải hoàn thành cuốn sách này bởi đó là tình yêu, trách nhiệm đối với Tổ quốc. Đây là chuyện không thể khất lần, ông Khoa ạ!./.


Tác giả bài viết: Nhà thơ Bùi Hoàng Tám
(Ảnh FB nhân vật)

Bùi Hoàng Tám/báo Công Thương



























Trần Đăng Khoa và vợ con










Trở về



MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.