Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2014

Nguyễn Trung









(1940 ........) Sóc Trăng

Họa Sĩ






Khuôn mặt cuối cùng của nhóm Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam được ghi nhận ở đây là Nguyễn Trung, có lẽ là một trong những họa sĩ có nhiều cá tính, tài năng và trí tuệ bậc nhất của giai đoạn vừa qua.

Lúc còn là sinh viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định đã đạt được những giải thưởng hội họa quan trọng: huy chương bạc Triển Lãm Hội Họa Mùa Xuân 1961, huy chương vàng Triển Lãm Hội Họa Mùa Xuân 1963. Say mê theo đuổi nghề nghiệp, dám bức phá những ràng buộc, qui cách nhà trường để đi đến những chân trời mới của hội họa nên đã gây nhiều va chạm với các thầy dạy vẽ của trường, điều này bình thường thì đáng tiếc nhưng đối với một số trường hợp ngoại lệ nào đó thì ngược lại. Chúng ta nhớ đến phản ứng của một số nghệ sĩ trẻ thời trước như Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Đỗ Cung, Tô Ngọc Vân, Hoàng Lập Ngôn... với ban giám đốc trường Mỹ Thuật Đông Dương, đó là phản ứng bắt buộc của tài năng khi nhận ra con đường đi tới, cần phải đập tan những rào cản để tiến bộ.

Vào thời kỳ đầu tiên, Nguyễn Trung cũng đã ít nhiều thử thách với hội họa trừu tượng, thứ trừu tượng lãng mạn (Abstraction lyrique) với những đường nét tinh lọc đến cùng cực những chim, nai, đồi, cây, hoa, thiếu nữ... ẩn hiện gợn lên trên nền tranh với hòa sắc lạnh, nhưng chỉ vài năm sau thì bỏ hẳn để xây dựng cho mình một thế giới hết sức cá biệt, dầu vẫn bị ràng buộc trong những phạm trù của một thứ nghệ thuật hình dung. Khoảng năm 1965-1966, ngôn ngữ riêng của Nguyễn Trung đã được định hình, dần dà cũng có ít nhiều chuyển biến nhỏ, nhưng cơ bản thì không có gì thay đổi. Với những đường nét, bố cục vững chãi, chặt chẽ, với một kỹ thuật chững chạc để nhào trộn màu sắc, đơn giản mà vẫn táo bạo, rất cổ điển mà đầy tinh thần sáng tạo và tìm kiếm mới mẻ, nghĩa là với một màu sắc đặc biệt, một bút pháp cá biệt, anh luôn luôn chế ngự được thế giới mình tạo ra.






Rõ ràng là có nghiên cứu và chịu ảnh hường sâu đậm một số nguồn gốc nghệ thuật nào đó. Ví dụ như cách ghi nhận thiên nhiên bên ngoài của Henri Rousseau, hoặc không khí, bút pháp, lối sử dụng màu sắc của một số tiểu họa phẩm và bích họa Ấn Độ và vùng Trung Cận Đông hay một màu ngọc xanh biếc trên những đồ gốm độc sắc đời Tống, nhưng đã nhào luyện, biến chế tất cả những yếu tố ngoại lai trở thành thân thuộc, làm mất đi mọi vết tích cũ để chỉ còn lại là mình: mọi thứ góp nhau lại để chỉ trở thành là một, là ngôn ngữ hội họa Nguyễn Trung. Trả lời trong một cuộc nói chuyện với Đinh Cường, Nguyễn Trung đã chỉ ra cho chúng ta thấy rõ thêm cội nguồn thế giới màu sắc của mình:

Tôi sinh ra ở một vùng phì nhiêu nhất Việt Nam, tỉnh Sóc Trăng, ở đó chỉ thấy toàn ruộng với màu xanh của lúa non và màu vàng của lúa chín. Phong cảnh bằng phẳng đến độ buồn hiu, nhất là mùa mưa thì ruộng là biển nước còn trời là một màu xám chì, chỉ riêng mùa gặt thì cả trời rực vàng và rất thơm, lúc ấy thì còn thấy được chút đỉnh màu sắc của trời cho. Có lẽ vì vậy tôi vẽ phong cảnh rất dở, và tôi rất ít xài màu sắc, có lẽ vì sự ít màu sắc của xứ tôi mà tôi đã chịu ảnh hưởng tính cách đạm bạc của tranh thủy mặc của Trung Quốc, sự khắc khổ của hội họa Đức. (*)

Năm 1969, trong phòng triển lãm của Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, Nguyễn Trung phát biểu một ý tưởng đơn giản, nhưng có lẽ với ý tưởng này chúng ta có thể cảm được tranh của anh dễ dàng hơn, rất bình dị mà khá thâm trầm, sâu sắc:

Dường như chỉ nghệ thuật mới có thể mang tình yêu và sự bình an trở về với tâm hồn ta. Dường như chỉ có nó mới có thể mang đến ta sự cứu rỗi ấy trong khi càng ngày chúng ta càng dấn thân vào cuộc sống văn minh thiếu nhân cách, địa ngục của giận dữ, thù hằn và bạo động đến nỗi chúng ta quên dần những lời xin lỗi và thứ tha, những cử chỉ yêu thương và thông cảm. (In trong Vựng Tập triển lãm).




Trong phòng triển lãm năm 1970 bày chung với Hồ Hữu Thủ và Nguyên Khai, tranh Nguyễn Trung là cả một thế giới vô cùng thơ mộng, từ Thiếu nữ đứng trên đá, Sen hồng đến Khỏa thân, Đêm xanh, Hoa vàng... Tuy nhiên, ấy là một thứ mơ mộng pha nhiều chất đắng và khô. Vẻ khô, buồn thảm đó tỏa chiếu trên đôi mắt thiếu nữ đứng trên đá, quàng khăn trùm lụa, hai bàn tay gầy chụm vào nhau. Đằng sau thiếu nữ là nền cát, nền trời xám sậm, nhìn kỹ thì ngả sang xanh. Có một sự hòa hợp giữa ánh sáng tỏa ra từ nền trời u tối ấy và ánh sáng từ từng mảnh đá nhỏ đều đặn dưới chân thiếu nữ. Không những vẻ khô ấy toát ra từ gương mặt bà mẹ già sau những cánh hoa tàn úa mà toát ra ngay trên thân thể tươi mát khỏa thân của thiếu nữ, trên từng phần phản diện giữa tối sáng trên tấm thân ấy.


Nguyễn Trung sử dụng nguyên tắc về bóng tối và ánh sáng một nguyên tắc cổ điển chủ yếu từ thời nghệ thuật phục hưng mà những Leonardo da Vinci, Rembrandt, Raphael, Jan Vermeer Van Delft đã rất chú tâm dụng đến. Ánh sáng tỏa chiếu trên sự vật, bị che lấp gây nên bóng tối ngay trên từng mảnh đá nhỏ, từng cồn cát thấp, từng cánh hoa, từng ngọn cỏ, trên những đường nhăn của chiếc áo thiếu nữ. Tuy nhiên, bất kỳ thứ kỹ thuật nào thì cũng có ưu thế và nhược điểm riêng. Ở trường hợp Nguyễn Trung cũng thế, từng chi tiết trên bức tranh được vờn tỉa, đánh bóng rất kỹ, thí dụ như bức Thiếu nữ đứng trên đá vừa được đề cập, mỗi chi tiết nhỏ trong tranh là một quyến rũ kỳ lạ , mỗi mảnh đá đều toát ra tiếng nói, mỗi gợn cát, mỗi nét nhăn trên tà áo, trên chiếc khăn đều thế. Có nhà phê bình cho rằng tranh Nguyễn Trung chỉ còn là một thứ rung động kỹ thuật chính vì thế. Vậy thì, có lẽ nghệ thuật phải hy sinh chi tiết để đạt đến toàn thể, và ngược lại, nhưng tuy thế, mỗi cơ cấu phải có riêng những đòi hỏi, kiến trúc và hòa hợp của riêng nó cũng vẫn là điều tất nhiên mà thôi.



Hẳn rằng cũng nhận ra khía cạnh ấy nên về sau này hình như anh đã đi đến một tổng hòa cao hơn, vẫn giữ lấy nguyên lý và kỹ thuật tạo hình cũ nhưng đã biết loại bỏ nhiều chi tiết. Chúng ta thử xem một bức tranh điển hình của thời điểm 1975, bức Sen hồng vẽ một thiếu nữ mình trần, mặc chiếc váy màu xanh biếc của đại dương, một cánh tay vươn ra nắm lấy đóa sen hồng hàm tiếu, phía sau là hồ sen theo lối tượng trưng, phía sau nữa là bầu trời chập chùng sâu thẳm. Thiếu nữ dường như trong veo lên bằng đường viền ánh sáng và sự đánh lừa của màu sắc. Gần chân thiếu nữ, giữa mảng màu hồng mờ sáng, họa sĩ đặt thêm vào một bình gốm nhỏ men nâu như điểm xuyết cho bố cục tấm tranh, kéo tất cả cái thanh thoát bên trên trì trệ xuống một chút, rất quân bình và tuyệt đẹp. (Xem bức Sen Hồng ở phần Một Số Tác Phẩm Và Tác Giả Điển Hình.)



Đã bắt đầu có nhiều từ bỏ khoa học hội họa Tây phương, từ bỏ khá nhiều sự hợp lý của qui tắc mỹ thuật Phục hưng, chúng ta thấy Nguyễn Trung đã tiến về rất gần với cảm quan thẩm mỹ phương đông, vẽ điều cảm thấy hơn là nhìn thấy, nếu là ánh sáng thì đúng là ánh sáng âm dương của đạo học, tức là ánh sáng thụ động và ánh sáng hoạt động của thiên nhiên và tâm hồn, tất cả hiện lên trong sự tương phản cửa nhau, nên đã hòa hợp lại trong một thể chung nhất. Cái đẹp như thế sẽ được tri kiến trong một cách nhìn tổng thể hài hòa. Nguyễn Trung tỏ ra khá tinh tế khi vận dụng nguyên lý này, tuy vẫn còn đặt trên nền tảng khoa học hội họa phương tây để xây dựng một bút pháp riêng cho mình. Có một điểm nên quan tâm khi xem tranh Nguyễn Trung là càng về sau này anh càng có khuynh hướng tiến về sự giản dị trong đường nét, màu thì chỉ còn gần như một thứ độc sắc (monochrome) hoặc xanh xám, xanh biếc, xanh đông thanh, chỉ có chuyển sắc rất nhẹ bằng cách pha trắng, nâu, hay đen vào. Vẻ huyền bí của những nghệ sĩ gốm đời Tống đã phảng phất đâu đây. Và cũng chính ở chỗ này, Nguyễn Trung càng được xem là thành công lớn khi định hình một tính cách nghệ thuật riêng tư khá đặc sắc. Sau hơn ba mươi năm đắm mình trong màu sắc và khung vải, có di động nhưng ít thay đổi vì luôn luôn tự chủ dưới một cách nhìn rất nhất quán. Ánh sáng là vấn đề hàng đầu, có thể nói đó là nguyên lý của hội họa Nguyễn Trung. Và gần đây, Nguyễn Trung đã đúc kết với đầy tính khẳng định:


Trong thiên nhiên ánh sáng là chiếc vương miện vĩ đại làm tăng thêm vẻ sang trọng, uy nghi của núi rừng hoa cỏ. Trong hội họa ánh sáng là sức sống của hình và nét và tự nó cũng là hình, và nét. Tùy theo to nhỏ, dày mỏng, tùy theo cách sắp đặt, có thể làm cho nó chuyển động, nô đùa trên khung bố. (In trong Vựng Tập triển lãm 36 tác phẩm mới Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, Nguyễn Lâm, Nguyễn Phước, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Trung. Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, 1994).




Trước đây, trong một bài viết trên một tuần báo văn học, bàn về thế đứng và cách phát biểu của người làm nghệ thuật lúc bấy giờ, Nguyễn Trung bày tỏ ý muốn thực hiện công việc tựa như họa sĩ Mẽ Tây Cơ Rivera, trở về lại với thế giới mộc bản cổ truyền của dân tộc để sáng tạo nên một vũ trụ nghệ thuật mới đầy sinh động, cái sinh động bắt nguồn từ một cuống rốn sâu xa và vững chắc. Tưởng cũng nên nhắc đến một công trình dở dang trước đây của Nguyễn Trung, anh dự tính thực hiện một bộ tranh mộc bản gây cảm hứng từ bàiVăn Tế Thập loại Chúng Sinh của Nguyễn Du, nhà đại thi hào bậc nhất nước ta. Vài bản phác thảo mới vẽ bằng bút sắt, chưa khắc gỗ, công bố rải rác đây đó đã gây cho người xem cái cảm giác thâm trầm , sâu thẳm. Chọn đề tài này cũng là một cách bày tỏ thái độ đối với cuộc chiến tranh kinh dị, tàn độc càng lúc càng khốc liệt trên số phận của đất nước lúc bấy giờ. Trở lại với ý kiến của Nguyễn Trung vừa đề cập ở trên, chúng ta thấy anh đã thực hiện được ít nhiều mốc đường trong viễn tượng đã vạch, cho nên ở tranh anh, dù là với bất cứ đề tài gì, nơi khuôn mặt và cánh tay trần của thiếu nữ, hay ngay cả một đề tài tĩnh vật, thì cũng là một thứ tĩnh vật rất Việt Nam, rất tài hoa và đã tỏ lộ ra một bản sắc độc đáo. Điều này cần phải được đào sâu và triển khai thêm nữa, bởi vì bất cứ nền nghệ thuật nào muốn đứng vững và tồn tại đều phải biểu lộ cho được tinh thần của cộng đồng bằng một bút pháp, khí sắc riêng biệt. Được như thế thì giữa bản hợp ca muôn điệu của cộng đồng nghệ thuật nhân loại, chúng ta mới đủ nội lực để phổ thêm vào một cung đàn hòa hợp, nhất định phải đầy sáng tạo tính và dân tộc tính, hoành tráng và tươi tắn, trong sự hợp nhất mà vẫn mang hương sắc độc đáo. Trước năm 1975, Nguyễn Trung phần nào đã thực hiện được một số tác phẩm trong phương hướng ấy, và về sau này đã đưa nhiều tác phẩm đến chỗ tinh hoa nhất, anh đã phát triển năng lực mình một cách đúng mức.

Chúng ta phải công nhận rằng chủ trương của Nguyễn Trung cũng như nhóm Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam (với tuyên ngôn đã dẫn ở trên) là hết sức đúng đắn, cấp thiết, hợp tình khi kêu gọi các nghệ sĩ tạo hình trẻ Việt Nam tập hợp nhau lại để suy nghĩ, đúc kết, xây dựng cho được một đường lối của nghệ thuật Việt Nam, một trường phái tạo hình Việt Nam hiện đại. Bởi vì nền nghệ thuật của chúng ta chỉ có thể tồn tại và được nhìn nhận khi nó là một biểu lộ độc đáo của dân tộc chúng ta, mà những độc đáo nội tại chỉ có thể trở thành hiện thực nghệ thuật khi nó bắt nguồn và phù hợp với quan niệm cố hữu của giống nòi, chứa chan linh hồn dân tộc, nồng ấm trong chiều sâu của một nền văn minh tâm cảm mà chúng ta vẫn thường tự hào đã thừa hưởng trên 40 thế kỷ. Với đặc tính thuần túy Việt Nam làm nồng cốt, cùng tinh thần tự do thẩm mỹ, hòa hợp trong những yếu tố thời đại nhất, chúng ta sẽ xây dựng một nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại mạnh khỏe, vững chắc, vạm vỡ. Đặt vào tình hình trước năm 1975 của Sài Gòn đang tan rã, lời phát biểu công khai ấy đã chứng thực sự trưởng thành khá cao của một ý thức rất đáng khen ngợi, tán thưởng.




Chung quanh Hội Họa Sĩ Trẻ vẫn luôn là một cuộc hội tụ của nhiều chân dung mang từng tính cách riêng, mặc dù vậy, vai trò của Nguyễn Trung vẫn là một nét nổi bật. Sau 1975, Hội Họa Sĩ Trẻtan tác vì thời thế, vậy mà đến năm 2001, một cuộc họp mặt của các nghệ sĩ tạo hình của nhóm này lại được thực hiện trong một tình hình rất đặc biệt: những người còn lại trong nước bày tác phẩm với các bạn lưu vong từ nước ngoài trở về.

Vai trò của Nguyễn Trung vẫn là chủ động trong cuộc họp mặt lý thú này, với sự tham dự của Trịnh Cung, Đinh Cường, Đỗ Quang Em, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Lâm, Nguyên Khai, Cù Nguyễn, Mai Chửng, Dương Văn Hùng, Nguyễn Pước, tổ chức ở Gallery Vĩnh Lợi, 41 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Sài Gòn, từ 22-7-2001.

Nguyễn Trung và các bạn của anh đã gọi cuộc triển lãm này là một "hồi cố" được hiểu như là một cuộc gặp lại giữa những người bạn cũ, những người đã từng hoạt động nghệ thuật khi tuổi còn thanh xuân và sau một thời gian dài xa cách, gặp lại nhau thì đầu đã hai thứ tóc, có người muối tiêu, có người đã bạc trắng xóa, vậy mà họ còn rất hào hứng, nói như Nguyễn Trung "không phải đê ôn lại chuyện cũ mà để uống với nhau một cốc rượu. để khoe nhau công việc mới của mình" (Tuổi Trẻ Chủ Nhật, số 28, ngày 22-7-2001).

Dưới đây là ghi nhận của ký giả Diễm Chi về cuộc triển lãm này trên báo Phụ Nữ ở Sài Gòn, số ngày 25-07-2001. Bản tin ngắn này có tên là "Cuộc hội tụ của những họa sĩ Sài Gòn đã thành danh."

Đó là các họa sĩ đã có một thời tuổi trẻ sôi nổi cách đây 30 năm. Bây giờ tranh của họ đã trở thành một thứ "cổ điển" riêng cho từng người, với một tầm cỡ đầy đủ về nghệ thuật và sự trau chuốt kỹ càng về kỹ thuật. Một Nguyễn Lâm rực rỡ với sơn mài, một Cù Nguyễn hào hoa, một Đỗ Quang Em với từng chi tiết quý báu nhỏ nhất. Cỏ nhiều chuyển dịch trong tranh của Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Phước, Đinh Cường, Nguyên Khai và ở những mảng xám của Trịnh Cung. Tượng đá, đồng của Dương Văn Hùng, Mai Chửng trụ lại với súc mạnh lưu niên... Tất cả đều đã đi đến những chiều sâu, sự thâm trầm, bền vững. Riêng Nguyễn Trung với ba bức sơn dầu màu trắng vẫn giữ một dáng dấp dẫn đường như anh đã có suốt một thời gian dài...

Người Sài Gòn đến phòng tranh với sự thích thú gặp lại và sự trầm trồ quen thuộc như từ thời các họa sĩ còn trẻ...

Huỳnh Hữu Ủy
(Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại, trang 222)
VAALA, 2008










ĐẸP HAY XẤU
Mấy cách nhìn về Nguyễn Trung 

Lý Đợi
















XÁM TRẮNG ĐEN


Triển lãm tranh của họa sĩ Nguyễn Trung
Khai mạc 18g ngày 9. 12. 2010 đến 26. 2. 2011
Phòng tranh Quỳnh
65 Đề Thám, Q.1, Tp.HCM

*

Triển lãm Xám trắng đen của Nguyễn Trung khai mạc lúc 18 giờ ngày 9. 12. 2010 tại phòng tranh Quỳnh (65 Đề Thám, Q.1, TP.HCM) và còn kéo dài đến ngày 26. 2. 2011. Theo chủ quan, triển lãm này đáng chú ý, không phải vì đã có 3 tác phẩm được bán, mà vì nó có thể mang đến cho người xem mấy cách nhìn khác nhau: thích, không thích, hoặc băn khoăn.

1.
Với những người đã quen-thích-yêu Nguyễn Trung ở “bề nổi tiếng”, với các tranh vẽ thiếu nữ lãng mạn, thơ ngây, bán chạy ngoài thị trường thì sẽ tỏ ra thất vọng vì triển lãm “không hình” này. Vì với họ, vẽ có hình mới là công phu, “không hình”, trừu tượng có vẻ như quá cẩu thả, dễ dãi.

Cũng có ý kiến cho rằng Nguyễn Trung đã hơi đơn điệu trong việc cấu trúc tác phẩm, nhiều bức không có được điểm nhấn để tạo chiều sâu nơi người xem. “Trừu tượng ăn nhau là ở chiều sâu tương tác giữa tác phẩm và người xem”.





Tác phẩm AR, acrylic, house paint, oil stick on canvas, 180x240cm, 2010.

2.
Triển lãm sẽ gây phấn khích với những ai quan sát Nguyễn Trung trong tiến trình hội họa của bản thân; và cả việc các họa sĩ Việt Nam tiếp xúc với ngôn ngữ trừu tượng trong mấy chục năm qua.

Một họa sĩ (không muốn xuất hiện tên) nói rằng Nguyễn Trung đã khá thong dong trong việc xử lý các khoảng trắng lớn trên tác phẩm. Nhiều bức có chu vi hơn 2 mét vuông, mà màu trắng và màu xám chiếm chủ đạo, Nguyễn Trung vẫn xử lý được, quả là tài tình. “Không hình” chứ không phải là “không vẽ”, anh bạn này nói.

Theo vài quan niệm trong hội họa cổ xưa, thì màu trắng (có khả năng hòa mình trọn vẹn vào màu khác) và màu đen (“nuốt chửng” các màu khác) không phải là “thật màu”. Thậm chí, có nhiều họa sĩ tranh thủy mặc (thường chỉ có trắng với đen), không xem trắng là màu, nên chỉ tư duy với màu đen. Nếu nhìn theo hướng này, Nguyễn Trung chỉ tư duy với màu xám, vì hai màu kia không là “thật màu”.

Tuy nhiên, theo tên của triển lãm, Nguyễn Trung đã không làm vậy, ông tư duy với cả 3 màu. Trong một hỏi đáp với báo Tuổi trẻ mới đây, Nguyễn Trung nói: “Xám, trắng, đen không có ý nghĩa gì quan trọng hết. Chỉ là một ý tưởng về tạo hình, chỉ là muốn dùng màu sắc tối thiểu để hình thành bức tranh.”

Trong đợt tranh này vẫn còn lởn vởn trong đầu tôi những ấn tượng mạnh mẽ về tuyết lạnh, cái màu trắng tinh khiết đã theo đuổi mình bao nhiêu năm, tưởng đã vứt bỏ được nhưng rốt cuộc vẫn còn nguyên đó. Ngoài ra cũng với những hình ảnh đường phố, những vết bẩn, hoen ố trên tường, trên lối đi, những chữ viết, những con số nguệch ngoạc, vô nghĩa nhưng đối với tôi là những gì dễ thương nhất, là những yếu tố đầy chất thi ca”.

Vài họa sĩ có quan tâm đến hội họa trừu tượng và có xem triển lãm này, được tôi hỏi, đã đồng ý với nhận định của phòng tranh Quỳnh, trong thông cáo báo chí: “Kể từ lúc bộ tranh đơn sắc Bảng đen ra đời (2004), nghệ sĩ Nguyễn Trung vẫn đang thử nghiệm với những bức tranh khiêm tốn màu sắc. Xám trắng đen là một bộ tác phẩm phơi bày lối dùng phức tạp chỉ những màu sắc được đề cập, tạo nên một tác phẩm sinh động, không chỉ đầy những suy nghĩ hướng nội mà cũng rất tinh nghịch.

“Thành thị hiện hữu rất nhiều qua những bức tranh này. Nguyễn Trung đã lấy cảm hứng từ những vỉa hè, những bức tường, những vết xước và dấu vết trong kết cấu đô thị của TP.HCM. Khác với những tác phẩm hoa văn trừu tượng trước đây của ông, vốn ảm đạm hơn ở nơi lịch sử ẩn sau bề mặt vỡ vụn được nhấn mạnh, những bức tranh mới này có vẻ như dẫn dắt người xem đi qua một thành phố thân thuộc, nơi những khám phá mới nhỏ bé được phơi bày”.

Sau triển lãm Bảng đen, cũng có nhiều ý kiến đoán rằng với hội họa trừu tượng, có vẻ như Nguyễn Trung đã dừng lại. Nhưng nếu so Bảng đen với triển lãm lần nay, thì ngoài sự thong dong và làm chủ bảng màu, Nguyễn Trung đã tỏ rõ sự tiết chế trong việc tối giản màu sắc. Sự tối giản này đã tạo được nhiều cảm xúc nơi người xem.





Tác phẩm aaa, ccrylic, house paint, pencil, oil stick on canvas, 180x180cm, 2010.

*
Dự kiến treo 19, nhưng chỉ treo 12 tác phẩm, khổ lớn, từ 100x100cm trở lên, phòng tranh Quỳnh trên lầu và dưới đất đã kín vách. Nếu so với hành trình của chính mình, nói nôm na, thì Nguyễn Trung đã “trừu tượng hơn” rất nhiều. Với trữ lượng được hé lộ ở đây, khả năng bức phá và thay đổi của Nguyễn Trung cũng còn nhiều hứa hẹn.

Tác phẩm được đặt tên với các chữ cái viết hoa và viết thường, các con số, ví dụ: AaA, F, aaa, BM, E, g… Các chữ cái và con số, cũng như các nét vẽ nguệch ngoạc… gần như là biểu hiệu xuất hiện trong tất cả các phẩm, nó là điểm nhấn để gây tương tác nơi người xem.

Việc chú thích vật liệu cũng khá chi tiết và lý thú. Ví dụ tác phẩm BM được chú thích như sau: 2010, acrylic, house paint, bút chì, thỏi sơn dầu trên bố, 150x150cm. Việc chú thích cẩn trọng như thế này (chỉ ghi trong một catalog riêng, chứ không dán lên tường), ngoài yêu cầu về chuyên môn trong việc trưng bày, nó còn khơi gợi cho người xem khi nghĩ về cuộc chơi của màu sắc và vật liệu, giống như lời của Nguyễn Trung “muốn dùng màu sắc tối thiểu để hình thành bức tranh”. 

Trong 12 tác phẩm trưng bày, 11 bức được vẽ xong trong năm 2010. Nếu chỉ nhìn vào ngày tháng ở chữ ký, thấy tháng 7 và 8.2010 được Nguyễn Trung khá yêu thích. Các tranh hoàn thành trong tháng 7.2010 có 3 bức, ký ngày 3, 10 và 15; tháng 8.2010 có 4 bức, ký ngày 1, 10, 13 và 15. Nếu muốn đặt nghi vấn Nguyễn Trung về việc vẽ trừu tượng nhanh hay chậm, có thể dựa vào đây để hỏi?




Tác phẩm BM, acrylic, house paint, pencil, oil stick on canvas, 150x150cm, 2010.

3.
Đây là ý kiến của tôi, người viết bài:

Trong thông cáo báo chí, có đoạn, phòng tranh Quỳnh viết để khẳng định: “Sinh ra ở Sóc Trăng vào năm 1940, Nguyễn Trung là họa sĩ tranh trừu tượng đầu tiên của Việt Nam. Sự nghiệp nghệ thuật của ông trải dài trên 50 năm bắt đầu từ thời thực dân Pháp và cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhà vô địch trong trường phái trừu tượng Việt Nam, Nguyễn Trung và một số nghệ sĩ trẻ mà ông dẫn dắt vẫn sáng tác trong thể loại này, trong khi nó vẫn bị xem là một loại hình nghệ thuật bê tha, suy đồi, đặt cá nhân lên trước quốc gia. Thông qua sự kiên cường, và cam kết gắn bó như một lức lượng sáng tạo thực sự của cộng đồng nghệ thuật Việt Nam của ông, ông được công nhận là một trong các nghệ sĩ hoàn hảo nhất của quốc gia”.

Tôi không bình luận gì về nhận định “nhà vô địch” này, chỉ riêng việc khẳng định Nguyễn Trung “là họa sĩ tranh trừu tượng đầu tiên của Việt Nam” thì có vẻ như không chính xác, hoặc có ý hàm hồ (- như ý trên một blog).

Không chính xác, vì theo sử liệu nghệ thuật để lại, thông qua các cuộc công bố tác phẩm trên báo chí và triển lãm, thì Tạ Tỵ (1922-2004, có nơi ghi ông sinh năm Tân Dậu 1921) mới là người tiên phong về trừu trượng tại Việt Nam. Thập niên 1950 đã thấy hình chụp những bức tranh trừu tượng, hoặc trừu tượng kết hợp lập thể của Tạ Tỵ xuất hiện trên vài tạp chí. Năm 1956, Tạ Tỵ đã triển lãm 60 bức tranh tại Sài Gòn, có nhiều tranh lập thể. Năm 1961, triển lãm cá nhân giới thiệu 60 tranh lập thể và trừu tượng của Tạ Tỵ diễn ra tại Sài Gòn. Các tác phẩm như Nhịp thời gian (1959, 75x56cm), Nhạc Calypso (1960, 80x80cm), Màu thời gian (1960, 95x180cm) “cho thấy những cấu trúc hình học của giai đoạn lập thể bước hẳn sang trừu tượng với sự nhấn mạnh vào tiết tấu và sự khúc chiết của bố cục”, dẫn theo báo Sáng dội miền Nam, tạp chí Bách khoa, bài viết về Tạ Tỵ của nhà sử học về nghệ thuật Bội Trân Huỳnh-Beattie.

Còn hàm hồ, vì có thể xuất phát từ quan điểm cho rằng vẽ như Nguyễn Trung mới là trừu tượng, và trừu tượng nhất (?). Cá nhân tôi thì cho rằng phòng tranh Quỳnh do thiếu thông tin mà khẳng định như thế, chứ không phải do hàm hồ.

Theo ý kiến của vài họa sĩ còn sống và sử liệu nghệ thuật để lại, thời tham gia Hội Họa sĩ trẻ Việt Nam tại Sài Gòn trước 1975, Nguyễn Trung chủ yếu vẽ tranh có hình, cách vẽ thiếu nữ sau này của ông là một hành trình tiệm tiến từ giai đoạn này.

Cũng xin nói thêm, Hội Họa sĩ trẻ Việt Nam thời bấy giờ thu hút nhiều họa trẻ tham gia, mà sau này trở nên các tên tuổi có ảnh hưởng như Cù Nguyễn, Nguyễn Trung, Trịnh Cung, Nghiêu Đề, Hồ Thành Đức, Nguyên Khai, Hồ Hữu Thủ, Rừng, Lê Tài Điển, Đỗ Quang Em, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đồng, Ngy Cao Uyên, Hiếu Đệ, Mai Chửng, Nguyễn Phước, Nguyễn Lâm, Dương Văn Hùng, Đinh Cường… Trong danh sách này, Nguyễn Phước (sinh khoảng 1941) mới là người vẽ tranh trừu tượng trước tiên, xem lại các tin bài trên báo thời bấy giờ sẽ rõ, hay hỏi các họa sĩ còn sống trong số này, sẽ rõ.

Theo nhà nghiên cứu mỹ thuật Huỳnh Hữu Ủy trong cuốn Nghệ thuật tạo hình Việt nam hiện đại(VAALA, USA, 2008), trang 164, có đoạn viết: “Khoảng 1963, Nguyễn Phước và Nguyễn Lâm thường triển lãm chung với nhau, với những tác phẩm biểu tượng đầy bi quan. Lần lần hai khuynh hướng của họ càng khác nhau. Nguyễn Phước có lẽ là người thay đổi nhiều nhất, không phải chỉ đối với Nguyễn Lâm mà đối với phần đông các họa sĩ đồng thời. Anh khởi đầu bằng những nhân vật khắc khổ với đôi mắt sâu đen, màu sắc đạm bạc. Khoảng 1966-1967, anh chuyển hẳn sang lối trừu tượng với màu sắc mịn màng, tế nhị, cho đến nay”.




Tác phẩm AaA, acrylic, house paint, pencil on canvas, 200x285cm, 2010.

Có một trùng hợp thú vị, là khi triển lãm của Nguyễn Trung diễn ra thì trang web Da Màu lại in tác phẩm Phù điêu xám lỗ chỗ với ký hiệu đen số X (Grey Relief Perforated with Black Sign No X) của danh họa Antoni Tàpies (1923–), vẽ năm 1955, với vật liệu hỗn hợp trên vải bố (mixed media on canvas). Có thể xem các tác phẩm khác của Antoni Tapies tại đây.

Và tiếp tục nói thêm, khi xem tranh trừu tượng của Nguyễn Trung, kể từ thập niên 1990, sau khi ông đi Pháp về (1991), tự nhiên tôi lại nhớ đến danh họa Pierre Soulages (1919-), người làm cả sơn khắc và điêu khắc. Sự nhớ cũng được vài họa sĩ nhớ ra, nhưng có điều họ ngai nói ra, hoặc không muốn nêu tên. Vào google thì có thể nhìn thấy nhiều tác phẩm của Pierre Soulages, đơn cử như ở đây hoặc ở đây.

Cuối cùng, khi đứng ngoài sự thích, không thích, hoặc băn khoăn, xét về lịch sử và tiến trình hội họa, tôi vẫn cho rằng Nguyễn Trung là một trong những họa sĩ đáng nể của Việt Nam.

La Hán Phòng, 11. 12. 2010
























Solo exhibitions:


2004 -Galerie Quynh, Ho Chi Minh City, Vietnam, “Blackboard.”

2001- Galerie Quynh, Ho Chi Minh City, Vietnam, “The White Series,” a virtual exhibition.

1999 – Trang An Gallery, Hanoi, Vietnam, “Revelations of Time and Self.”

1990 – Maison du Vietnam, Paris, France.



Selected group exhibitions:


2003- Galerie Amber, Leiden, The Netherlands.

- Gajah Gallery, Singapore.

- Galerie La Vong, Hong Kong.

2002- Gajah Gallery, Singapore, “Mo,” with Ho Huu Thu.

- Utterly Art Gallery, Singapore.

- Galerie La Vong, Hong Kong.


2001 -Galerie La Vong, Hong Kong.

2000 – Galerie La Vong, Hong Kong.

1999 – Galerie Vinh Loi, Ho Chi Minh City, “Nine Artists from HCMC.”

1998 – Pacific Bridge Contemporary Southeast Asian Art, Oakland, California, USA, “On the Horizon.”

- Museo Biblioteca Archivio, Bassano del Grappa, Italy, “L’anima Soffocata.”

- Forum des Halles, Paris, France, “Vietnamese Art from 1925 to Today,” exhibition by Vietnamese and French artists.

1997 – Gallery Simyo, Seoul, Korea, “The New Face of Vietnam.”

1996 – Metropolitan Museum of Manila, Philippines, “11th Asian International Art Exhibition.”

- Fujita Vente Art Museum, Tokyo, Japan, “Vietnamese Art after Doi Moi.”

1995 – Singapore National Art Museum, “10th Asian International Art Exhibition.”

1994 – Ho Chi Minh City Art Museum, HCMC, “Asian Friendship Exhibition.” Traveled to Tokyo, Japan.

1993 – Ho Chi Minh City Fine Arts Association, HCMC, “New Space,” exhibition by Vietnamese and Singaporean artists.

1992- Plum Blossoms Gallery, Hong Kong and Singapore.

- Hoang Hac Gallery, Ho Chi Minh City, “Abstract Painting.”

1991 – Grand Palais, Paris, France, Societe Nationale des Beaux Arts Biennial.

- Forum des Halles, Paris, France, exhibition by overseas artists living in France, Maison des Associations.

- Plum Blossoms Gallery, Hong Kong.

1990 – 1996 – Ho Chi Minh City and Hanoi, annual “Recent Works” exhibition by a group of ten artists.

1959 – 1989 – National and international solo and group exhibitions.


Awards:

1960 – Spring Salon Art Competition, Silver Medal

1963 – Spring Salon Art Competition, Gold Medal


Public collections:

Ho Chi Minh City Art Museum, Vietnam; Vietnam Fine Arts Museum, Hanoi; Singapore National Art Museum; Museo Biblioteca Archivio, Bassano del Grappa, Italy

Private collections:

Vietnam, Japan, Hong Kong, Singapore, Taiwan, France, USA, Germany, England, Switzerland, Italy, Canada













Tác phẩm











































































Chân dung nhà văn Trang Thế Hy
tranh Nguyễn Trung










(ngồi, trái) Tôn Thất Văn, Nguyễn Duy, Nguyễn Trung
(đứng) Trịnh Công Sơn










(trái) Phan Nguyên, Nguyễn Trung Saigon 1998








(trái) Đinh Cường, Nguyễn Phước, Nguyên Khai, Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung, Hồ Hữu Thủ, Trịnh Cung









Phan Nguyên & Nguyễn Trung  
Sài Gòn 2014











Trở về












MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.