Thứ Tư, 14 tháng 12, 2016

Vũ Hữu Định (1942 - 1981)









Vũ Hữu Định

Tên thật: Lê Quang Trung
Bút danh khác: Hàn Phong Lệ
(1942 Huế - 1981 Tp/HCM)
Hưởng dương 40 tuổi
Nhà thơ


Tên tuổi của ông gắn liền với bài thơ Còn chút gì để nhớ, được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc cùng tên.[1]










Tiểu sử

Lê Quang Trung sinh năm 1942 tại Thừa Thiên - Huế trong một gia đình nghèo. Ông từng sống qua nhiều nơi ở Tây Nguyên, Sài Gòn, lập gia đình và định cư ở Đà Nẵng. Ông làm thơ đăng báo từ khoảng thập niên 1960, với bút danh Hàn Phong Lệ, về sau đổi thành Vũ Hữu Định. Tên Vũ Hữu Định bắt đầu phổ biến từ khi bài thơ Còn chút gì để nhớ của ông được Phạm Duy đem phổ thành nhạc vào năm 1970.

Vũ Hữu Định vào đời sớm, lập gia đình sớm và nghèo nàn trong suốt quãng đời ngắn ngủi của mình. Ngoài làm thơ, ông từng làm cán bộ xây dựng nông thôn ở Đà Nẵng. Ông từng trốn quân dịch nhưng rồi bị bắt lại.

Sau biến cố 1975, ông ở lại Việt Nam và bị đưa đi học tập cải tạo 1 tháng.

Ông được biết đến là một người mê rượu, tuy nghèo khó nhưng có máu giang hồ, tính tình phóng khoáng. Ngày 3 tháng 4 năm 1981, sau 1 chầu nhậu với bạn bè, ông bị té cầu thang (có thông tin cho rằng bị té lầu) và qua đời, hưởng thọ 40 tuổi.[1]






Bài thơ
Còn chút gì để nhớ


Phố núi cao phố núi đầy sương 
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn 
Anh khách lạ đi lên đi xuống 
May mà có em đời còn dễ thương 

Em Pleiku má đỏ môi hồng 
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông 
Nên tóc em ướt và mắt em ướt 
Nên em mềm như mây chiều trong 

Phố núi cao phố núi trời gần 
Phố xá không xa nên phố tình thân 
Đi dăm phút đã về chốn cũ 
Một buổi chiều nào lòng vẫn bâng khuâng 

Xin cảm ơn thành phố có em 
Xin cảm ơn một mái tóc mềm 
Mai xa lắc trên đồn biên giới 
Còn một chút gì để nhớ để quên 

Còn một chút gì để nhớ để quên







Tác phẩm gồm 4 khổ, mỗi khổ 4 câu, mỗi câu từ 7-8 chữ[3], mang theo những hình ảnh nhẹ nhàng, tế nhị của phố núi Pleiku, từ cảnh vật: phố núi cao, phố núi đầy sương phố núi cây xanh trời thấp thật buồn anh khách lạ đi lên đi xuống may mà có em đời còn dễ thương



Tới con người: em Pleiku má đỏ môi hồng ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt nên em hiền như mây chiều trong


Bài này được viết năm 1970, khi nhà thơ sang thăm 1 người bạn gái ở Pleiku. Cùng năm này, bài thơ được đăng báo Khởi Hành của Viên Linh và được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc, rồi trở nên phổ biến với giọng hát Thái Thanh. Ca khúc được phổ theo nhịp 3/4, điệu Boston, lời thơ vẫn giữ nguyên với khổ thơ cuối được nâng lên thành cao trào.[1]

Sau này nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, bạn thân của ông[2], cũng có 1 tiểu thuyết lấy tên Còn chút gì để nhớ.




Chú thích

^ a ă â b c THÁNG GIÊNG NHỚ VŨ HỮU ĐỊNH- bài của Trần Trung Sáng trên trang bichkhe.org
^ a ă Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên xq
^ Còn chút gì để nhớ - trang thơ của oldcottage.net











Còn Chút Gì Để Nhớ


Phố núi cao phố núi đầy sương 
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn 
Anh khách lạ đi lên đi xuống 
May mà có em đời còn dễ thương 

Em Pleiku má đỏ môi hồng 
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông 
Nên tóc em ướt và mắt em ướt 
Nên em mềm như mây chiều trong 

Phố núi cao phố núi trời gần 
Phố xá không xa nên phố tình thân 
Đi dăm phút đã về chốn cũ 
Một buổi chiều nào lòng vẫn bâng khuâng 

Xin cảm ơn thành phố có em 
Xin cảm ơn một mái tóc mềm 
Mai xa lắc trên đồn biên giới 
Còn một chút gì để nhớ để quên 

Còn một chút gì để nhớ để quên









Những bài thơ khác của Vũ Hữu Định







Chẳng Hay


Chiều dựng mùa đông mây xám ngắt
núi cao trời thấp có ta về
giang hồ đâu có ai phong ấn
mà nghĩ từ quan trở lại quê

Ta đi, xưa gió đưa vài dặm
ta đi, xưa mưa ướt vừa căm
quê nhà ngoảnh lại mờ trong gió
hình như không đủ buồn trong lòng

Ta đi, có những ngày trú quán
lòng mốc tình khô như lá bay
ngồi quán suốt ngày trông thiên hạ
ta có sầu không ta cũng chẳng hay

Ta đi, có những ngày khô héo
chẳng nhớ quê nhà, chẳng muốn về
mẹ, chị, đàn em như bóng khói
nương với đời ta quay quắt trong mê

Ở đâu rồi cũng đời vất vưởng
chiều lặng lòng câm dạt phố người
khi không ta có đời lang bạt
đời học trò xưa khép cánh hổ ngươi

Chiều nay không hẹn ta lại về
mùa đông dài vẫn níu chân quê
ta về gió đón phong sương lạnh
ta về, mưa đón ta về quê

Thôi chẳng về chi thôn xóm quạnh
nhà xưa giờ chắc cũng điêu tàn
đứng đây đường cái quan bên núi
ta cũng đã trầm lòng mê mê

Chiều dựng mùa mưa bên vách núi
chiều neo sương khói buổi ta về
mẹ, chị, đàn em không có mộ
thăm ai? thăm ai? ta về quê.

(Thơ Miền Nam - Võ Phiến)














Đêm Mưa Thiếu Rượu Nhớ Lý Hạ

Lý Hạ xưa say bằng huyễn mộng
ta nay say bằng rượu pha cồn
cảm đau thân thế người trong sử
rượu đắng cay mà sao thấy ngon 

Lý Hạ yêu người mà hóa quỷ
ta yêu người nên nghèo rớt mồng tơi
đêm mưa thiếu rượu thương người cũ
ngâm vài câu Lý Hạ, rợn người

cứ tưởng nằm kề bên họ Lý
gác chân nhau nói chuyện biển dâu
ma quỷ sợ tâm hồn ướt rượu
gối chai không mà thương nhớ nhau

thời đại thánh thần đi mất biệt
còn lại bơ vơ một giống sầu
rót mãi, bao nhiêu tình cũng cạn
nâng ly, nhìn thấy tóc bạc mau

mưa nhức, mưa như cuồng, tức thở
thịt rồng đâu ? nem phượng ở đâu ?
đũa ngọc, chén vàng đâu mất cả
mắm ruốc, me chua cũng cháy hết sầu

mời nhau một chén đêm huyền sử
Lý Hạ đâu ? - còn ta đâu ?

(Còn Một Chút Gì Ðể Nhớ / VN1996)










Đò Ngang

Cứ ngồi ngó mãi ra sông
Trông con đò khách giữa giòng lại qua
Ai về, ai bước chân ra?
Có ai về ở cùng ta chốn này
Quê hương mộng dữ bao ngày
Đã xanh phơi phới màu cây cổng làng
Chạnh lòng ngó chuyến đò ngang
Tiếng kêu sương gió dặm đường quạnh hiu
Tiếng kêu của những buổi chiều
Tiếng kêu mái quán ngày xiêu dốc rừng
Đi, về. Lòng quá bâng khuâng
Nơi đây quê thấp nhớ rừng quê cao.










Đứng Giữa Đồng Không

một bầy sáo nhỏ qua sông
một em tôi đã cầm lòng đi xa
như con sông nhỏ thật thà
sớm hiu hắt tạnh, chiều sa mưa nguồn

một bầy sáo đã đi luôn
một em tôi đã để buồn lại đây
con chim quyên đã lạc bầy
xuống sông vọc nước đợi ngày xế ngang

một bầy sáo nhỏ bay hoang
một em tôi đã bỏ làng đi xa
tôi ngu ngơ giữa chiều tà
em đi để lại mình ta giữa đồng

(trích trong tập Còn Một Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định)











Kỷ Niệm


con đường đất có màu xanh bữa nọ
cây bên đường màu lá lục hôm kia 
con chim bỏ đi có bận quay về 
cất tiếng hát chào niềm vui của gió 

anh ra đứng sau hè nghe để ngó 
không thấy chim mà thấy tiếng kinh chiều 
vui trong lòng anh đã bước chân theo 
em có nói là em không trở lại 

hôm em nói em đi buồn biết mấy 
anh có nghe bên đường tiếng chim kêu 
con chim chi buồn chết cả buổi chiều 
từ bữa đó anh nhớ đường ra ngõ 

con đường đất bàn chân từ thuở nhỏ 
một ngày vô bốn bận đi về 
cây bên đường, cỏ bụi, hàng tre 
quen đến nỗi không nhớ gì tha thiết 

hôm em đi anh bắt đầu thấm mệt 
thấy trường xa con đường ngại đi về 
mắt anh nhìn lên đọt ngọn tre 
dõi mấy bụi tìm con chim nhỏ 

con chim nhỏ có nằm trong vạt cỏ 
bữa hôm nay anh mới thấy cỏ vàng 
con chim đời nào lại sống trong hang 
anh vô cớ soi tìm trong đụn đất 

tuổi mười một anh biết mình đã mất 
một cái chi không nên ảnh thành hình 
cho tới bây giờ hết tuổi học sinh 
râu đủ bộ vẫn còn ngơ ngẩn mãi 

con chim nhỏ có bao giờ trở lại 
em năm nay không biết mấy con rồi 
con chim lạ lùng năm nọ của tôi ơi 
hóa mấy kiếp mà sao tôi vẫn vậy











Thời Tiết

cơn bão lớn về bình nguyên giục gĩa
run theo cây mùa lúa rạp buồn rầu
cát bụi lộn đường bay tản về đâu
khung cảnh dựng mùa nguyên sơ man dã

con sông nước về tràn mọi ngã
thuyền bè đi, đi mất tự bao giờ
những bến chiều tấp nập mộng ban sơ
đã hun hút trong triều lên trắng xoá

làng hôm trước bây giờ trông cũng lạ
màu muôn năm đã khác lối đi rồi
những cánh chim tai ách cuộc đời
đã bay chập chờn rao cơn mộng dữ

chiều ngấm lạnh màu hoang liêu rất cũ
mây đi đâu, trời chỉ một màu tro
gió vi vu ầm ỉ khúc nhạc buồn
đã réo rắc sầu gian nan phủ tới

người em gái của buổi nào nắng mới
con đường đi em có biết đi đâu
có dắt theo hình ảnh một con trâu
em ngất ngưởng hát khúc tình đang lớn

những quang gánh đem theo hồn của mọn
con gà con, con lợn nhỏ, thằng cu
bước tới quay lui chập choạng sa mù
mắt có ngước tìm người trôi theo nước

nẻo vô núi đường lên cao rậm rịt
ngậm mà nghe con gió đẩy nhau về
những lưng còng đau đớn nợ phu thê
mắt ráo hoảnh sững hai bàn tay trắng

người bó gối nghe phút vừa im lặng
dế run theo mạch chuyển trận mưa nguồn
mai mốt đi về đồng trắng phơi xương
bay lên núi lũ trâu bò ngơ ngác

mẹ có đứng vỗ tay cười nên nhạc
hoà âm theo réo rắt trận cuồng phong
cha có say sưa vững dáng trời trồng
hồn lộn lạo theo xác nhà xác ruộng

gió xê dịch màu tang thương đêm xuống
nước đem lên con trăng đỏ lộn hồn
con trăng lưỡi liềm nhạt nét chiều hôm
mới thoáng hiện mà sao màu đã khác

ở trên núi trên rừng đi lưu lạc
thấy trăng lên con nai nhỏ vội mừng
đi men về bờ suối cũ bâng khuâng
đám cỏ mộng đã thơm mùi đất mới

dòng suối chảy đã nghe chiều vời vợi
dần lan xa hơi của chuyện đổi dời
con nai buồn nhưng cũng vội tin vui
cứ thoang thả, rừng hôm nay đã vậy

qua trôi giạt của cuồng phong hồng thủy
ruộng hôm nay đã thay lốp phù sa
làng hôm nay đã thay lại nếp nhà
thêm mồ mã thêm những đường mới mở

con sông nọ một bên bồi bên lở
lở bao nhiêu thay mất bến đò đi
bồi bao nhiêu có nên ruộng đồng lì
đứng mãi mãi cho lúa mùa được mọc

bao nhuêu kẻ nhìn ra sông để khóc
bao người vui vì thửa ruộng vừa bồi
chuyện ruộng đồng cũng là chuyện buồn vui
năm ba tháng cây quen màu đất mới

năm ba tháng người quen đời thay đổi
cỏ đã xanh trên mồ mã chưa già
lũ trai làng đã thèm khát đi xa
chuyện ly biệt thay chuyện mùa nước lụt

chuyện cô phụ có hai hàng nước mắt
gượng mà vui đưa tiễn bước người đi
làng, xóm, thôn, ngày vội nối ngày
trống gọi mõ, đêm sáng đèn gọi lửa 

từ bữa đó, trẻ không còn nhớ nữa
người già quên vì không muốn đau thương
mùa nước đôi khi mấp mé lên đường
già thì sợ, trẻ con mừng khấp khởi

mưa mãi sai mùa, gió sai chiều tới
lũ chim tai ách quen lối tìm về
những bóng chim mù bay dợm trong quê
nhiều giấc ngủ một đêm mà bạc tóc

chuyện làng xóm, chuyện tiếng cười tiếng khóc
nắng sớm, mưa trưa, chiều bão không ngờ
sương của mùa nguyên thủy rất đơn sơ
đã có lúc mù quê nghe dễ sợ

tuổi bé dại không biết mình đang thở
lớn khôn ra tiếng thở cũng rụt rè
bạc tóc, ngập ngừng theo nẻo hồn quê
chuyện thời tiết nghe ra già trước tuổi


(Tập Thơ "Còn Một Chút Gì Ðể Nhớ". Trẻ/VN1996) 

Nguồn:http://www.digital-info.com/luanhoan/thoVN















Vũ Hữu Định
Tình Ca l Vn





Văn thơ miền Nam 1954-1975 được gọi là nền văn học bất hạnh. Vì nó đã bị xuyên tạc, tuyên án, thiêu hủy và bôi xóa; các tác giả đã bị tù đày, đọa đày và lưu đày. Trong số đó, có nhà thơ Vũ Hữu Định (1942-1981), từ 1972 đã xem mình như một người lỡ vận:

Ta đã hát khúc hát đời lỡ vận
Hát âm u trong đêm tối một mình (tr. 65)

Vũ Hữu Định tên thật là Lê Quang Trung, sinh tại Thừa Thiên, sống nhiều nơi ở Tây Nguyên, lập gia đình tại Đà Nẵng và định cư tại đây. Làm thơ từ thập niên 1960, đăng báo rải rác. Năm 1975, đi học tập cải tạo một thời gian ngắn vì là cán bộ Xây dựng Nông thôn, rồi làm công nhân Nhà Đèn. Đầu năm 1981, tại làng An Hải, Đà Nẵng, anh qua đời vì say rượu té từ lầu một, cái chết còn gây nghi vấn. Sinh thời, anh không có tác phẩm xuất bản. Đến 1996 bạn bè mới đóng góp để nhà xuất bản Trẻ ấn hành thi tập Còn một chút gì để nhớ gồm 45 bài, lấy tên từ một bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc và thịnh hành một thời:

Phố núi cao phố núi đầy sương,
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn (tr. 5)

Hiện nay, sau khi tái bản thơ Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, truyện ngắn Y Uyên, nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn đã sưu tầm và in lại thơ Vũ Hữu Định để tặng biếu, không bán, trong tinh thần bảo lưu và truyền bá di sản văn học miền Nam. Chúng tôi đã có lần đề cao thiện chí này; nay một lần nữa, xin công nhiên ca ngợi một việc làm tâm huyết.

Thơ Vũ Hữu Định lần này gồm 80 bài – chắc là còn thiếu – là một tập thơ hay, tài hoa, trong sáng, đáp ứng được sở thích đông đảo người đọc; một tác phẩm có giá trị cao về mặt tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật, lưu lại tấm lòng của nhà thơ quá cố, ghi tạc niềm thủy chung của bằng hữu, trong một hoàn cảnh lịch sử, xã hội nghiệt ngã và bạc bẽo.
*

Thơ Vũ Hữu Định quay chung quanh các chủ đề: quê nhà, tình bạn, tình yêu trong khát vọng một không gian rộng rãi. Trước khi đi vào các đề tài này, chúng ta nên biết qua thân thế tác giả, qua những bài thơ tâm sự, chủ yếu là "Bài thơ năm bốn mươi", làm dịp tết Tân Dậu, 1981, trước khi qua đời, thơ "kiểm điểm" vô hình trung thành thơ tuyệt mệnh, như bài "Di chúc" của Nguyễn Khuyến:

Bốn mươi tuổi rồi đây
vợ năm con không no không đói

bốn mươi tuổi rồi
hai lăm năm uống đắng
(giỏi nghề rượu từ thuở mười lăm)
học hành thì lăng nhăng
thân tự lập thân từ năm bảy tuổi
không nhớ hết nghề đã trải
bán báo, đánh giày, ở đợ
đánh trống phòng trà, dạy học, làm thơ
phó giám đốc nuôi trẻ bơ vơ
còn cả chục nghề thôi không kể
ham đọc sách chẳng phải vì ham học
thần thánh trăm ông chẳng phục ông nào
ông nào cũng tốt
ông nào cũng tào lao
có lắm thánh nhân thì đời chỉ rối mù
nhiều triết học thêm tối mù đa sự

bốn mươi năm khoảng dăm lần tù… (tr. 86)

Trong bài "Ngựa hí đầu non", ta còn biết thêm:

Sinh nhằm tuổi Ngọ, đêm vừa hết…
Mới hai tháng đã biết mùi bom đạn

1942, thời chiến tranh Nhật-Đồng minh. Lên bảy tuổi:

Đã theo mẹ đêm đêm qua xóm
xách đèn rao khoai sắn cầm hơi (tr. 67)

Trong bài "Cảm ơn người vợ", 1972, ta được biết anh cưới vợ khoảng 1965:

Bảy năm tình chồng vợ
bảy năm em hẩm hiu
lần nào em sinh nở
ta cũng phải vắng nhà
đứa đầu lòng tù tội
đứa thứ hai, đi xa (tr. 129)

Chúng ta không biết rõ anh tù tội vì việc gì, làm gì đến nỗi dăm lần tù. Theo chứng từ của bạn bè, Vũ Hữu Định là người cởi mở, vui chuyện, ưa rượu, ưa bạn, đàn giỏi hát hay, nhẹ trách nhiệm gia đình, vợ con đương nhiên là phải khó khăn. Và anh cũng thừa nhận điều đó:

Năm đứa con như năm hạt ngọc 
Nếu không có em sao khỏi cát lầm 
Còn anh thì cứ lông bông… (tr. 88)

Tháng 3/1973, nhà thơ Tường Linh có bài "Gặp lại Vũ Hữu Định", ghi nhận hoàn cảnh của anh:

Thì ra ngươi chửa hết gian nan
Thôi hãy cầm như lửa thử vàng…

Chúng ta đã chấm phá được đôi nét chân dung Vũ Hữu Định. Chân dung ấy sẽ rõ nét hơn khi quần tụ bạn bè, trên chiếu rượu:

Nợ nần chưa thoát nổi
càng nợ, càng hăng vay
thiếu cái danh, nhưng không thiếu bạn bè
đi đâu cũng có phần rượu tặng. (tr. 85)

Trong mọi tình cảm, có lẽ tình bạn là mang nhiều âm sắc thời đại nhất. Đã xa rồi những "cố nhân" trong thơ Đường, thơ Tống. Xa rồi giọng u hoài, trầm mặc của Nguyễn Trãi:

Bạn bè đất Việt ai thăm hỏi
nhờ nhắn: đời ta vẫn cỏ bồng

Hay giọng băn khoăn, xa xăm của Nguyễn Khuyến thăm hỏi bác Châu Cầu, lụt lội năm nay bác ở đâu, giọng nhẹ nhàng, thơ mộng của Huy Cận thương bạn chiều hôm sầu gối tay. Cũng đã xa rồi những "Tống biệt hành", "Vọng nhân hành" của Thâm Tâm. Tao loạn, thì đất nước đã trăm lần tao loạn. Nhưng chiến cuộc 1960-1975 mang một sắc thái đặc biệt, và tình bạn sinh tử thời này ngân vọng một âm hao riêng, trong chất bi phẫn nặng phần phi lý:

Trên non may có tình bằng hữu
tuổi trẻ đau chung một khúc ca
ôm nhau thức với vầng trăng lạnh
vượt lá tìm sao định hướng nhà.

có những ngày đi trong núi thẳm
tuổi trẻ nhìn nhau, nhớ xóm thương làng
thở chung một tiếng nghe sầu cháy
tâm sự chuyền nhau điếu thuốc quan san

cám ơn điêu đứng rừng sinh tử
cạm bẫy người giăng để giết người
tuổi trẻ gần nhau trong gió lửa
giữ dùm nhau những tiếng chim cười (tr. 45)

Bài "Chuyện người tuổi trẻ" này, Vũ Hữu Định làm tặng nhà thơ Trần Dzạ Lữ, cùng một bài khác, mang rõ nét thời sự:

Ngày Huế giải phóng
mày lang thang trong Nam

xa nhau càng nghĩ càng thương
thằng bạn thơ cuộc đời bầm dập
trốn lính, đi lính, rồi thì học tập
thương ơi câu nói "ở răng cho vừa đời"

nghe nói mày về quê đi bán bánh mì
vợ giặt mướn cho nhà thương đẻ
rồi nghe nói mày đi Nam trở lại
quê không dụng nổi đôi vợ chồng thơ
năm năm rồi mày sống xa quê
ôi cái làng quê Nam Phổ Hạ
thời chiến tranh mày quay quắt mong về (tr. 42)

Hòa bình, thống nhất mà lại làm nhiều người xa quê – và xa nhau – hơn là chiến tranh, chia cắt. Bài thơ này làm khoảng 1980, bắt đầu bằng câu ca dao quen thuộc:

Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay
Ai hiểu sao thì hiểu.

Tình bạn, bao giờ cũng mang tính cách thời đại, xã hội. Tình yêu có không gian rộng rãi hơn: tiếng sét ái tình có thể giáng xuống bất cứ lúc nào và nơi nào. Tình bạn có thuở, có thì, có nơi, có chốn. Yêu nhau rồi mới ngồi vào chiếu; ngồi vào chiếu rồi mới ra tình bạn. Bá Nha, Tử Kỳ cùng chiếu nhạc buổi Xuân Thu. Quản Trọng, Bảo Thúc cùng miếng đỉnh chung thời Chiến Quốc. Montaigne và La Boétie cùng phất áo giữa tòa án Bordeaux. Nguyễn Khuyến, Dương Khuê áo mão đồng khoa… Vũ Hữu Định, Trần Dzạ Lữ, Trần Hoài Thư, cùng nhiều bạn khác cùng gối đầu trên báng súng, tai nghe trực thăng, đại bác… Cơn binh lửa tạo ra và củng cố tình bạn. Cái quý là tình bạn còn lại sau cơn binh tàn, lửa tắt. Và quý hơn nữa, trong tình bạn ấy, sau khi chắt lọc tiếng trực thăng đại bác nhiễu nhương, còn lại tiếng đập cùng nhịp của những trái tim. Ấy là tình người. Tình yêu là định mệnh cá nhân; tình bạn là cơ duyên thời đại. Cao quý thay lòng chung thủy giữa những tâm hồn tự nguyện, trong tình yêu cũng như tình bạn.

Vũ Hữu Định, người đã ra đi, tình còn ở lại.

*
Nói đến thời đại là nói đến quê hương. Vũ Hữu Định tha thiết với quê hương, dù anh sinh một nơi, sống một nơi và giữa hai nơi là những bước chân lang bạt kỳ hồ. Anh khẳng định:

Mùa lúa năm nay đòng đòng đã trổ
anh yêu mùa yêu đất yêu quê (tr. 29)

Nhưng quê anh nơi nào?
Những con lạch anh chèo ghe thăm lúa
thả lưới giăng câu, mười mấy năm ròng
… 
Cau với bưởi bây giờ thơm hương trái
em bên vườn da thịt có thơm không? (tr. 28)

Vũ Hữu Định là „kẻ chợ“, dân thành phố; ở đây anh thác lời "kẻ quê", một nông dân mười mấy năm cày sâu cuốc bẫm, nhà mới thay tranh mong đón em về… Lời không thật nhưng tình thì thật.

Tình quê nơi Vũ Hữu Định, quyện với tình bạn và tình yêu là một khát vọng hạnh phúc trong nguồn cội. Quê hương của Vũ Hữu Định không chính xác như trong những „bức tranh quê“ mà ta đã gặp, những đồng chiêm trũng miền Vụ Bản, Nam Định của Nguyễn Bính, hoặc thôn làng sơn cước Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận, hay làng Trung Phước dưới chân núi Quảng Nam trong thơ Bùi Giáng, Tạ Ký, Tường Linh. Nơi Vũ Hữu Định, quê hương làm tâm cảnh tượng trưng cho một giấc mơ. Giấc mơ Trở Về của đứa con biết mình lạc hướng, vì cơn lốc của lịch sử đã đành, nhưng cũng có phần cố tình lạc hướng. Phải hiểu như thế mới giải quyết được nhiều mâu thuẫn trong thơ anh.

Và hiểu rằng nỗi nhớ nhà thường xuyên ám ảnh anh, không giống với nỗi nhớ bất ngờ, bất chợt trong thơNguyễn Bắc Sơn đồng lứa:

Qua cầu Sông Lũy nhìn quanh quất
Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà

Tình quê, đề tài cho nhiều bài thơ, có thể là nền thơ Vũ Hữu Định:

Mây còn bay nên đời còn mộng
tuổi trẻ ra đi sao lại nhớ nhà
ơi người tuổi trẻ sầu trong mắt
đêm trên rừng mộng gởi quê xa.

quê xa ta có em và mẹ,
nhớ ao bèo xanh bông tím thiết tha
nhớ người con gái bên hàng xóm
chiều thả thuyền vớt mộng nở hoa… (tr. 44)

Cảnh mơ hồ nhưng tình tha thiết. Quê xa đây là mộng tưởng. Vũ Hữu Định không được hạnh phúc có một làng chính xác để ca ngợi như Huy Cận, Bùi Giáng. Nhưng anh chẳng quan tâm đến điều đó:

nghĩ ra thì ở đâu cũng vậy
ta vẫn là ta khinh bạc đắng cay.
có lẽ ta là thằng bất sá
cớ sao ở đâu rồi cũng bằng lòng
thả trôi cái sống cho đời dạt
mẹ buồn ta tóc trắng lưng cong (tr. 76)

Quê hương, nơi Vũ Hữu Định là niềm u hoài khôn nguôi, hướng về cõi hạnh phúc đã mất hay chưa đến, trong nghĩa "quê hương và lưu đày" trong Kinh Thánh, hay Albert Camus.

U hoài bốc men cho những vần bay bướm:

Hoa dại ven đường gửi lại các em
Tiếng giã gạo gửi cho người mất ngủ
Trăng mười bốn gởi tâm hồn thiếu nữ
Trăng mười lăm gởi những kẻ yêu nhau

*
Tình sôi nổi, thiết tha nhất trong đời người có lẽ là tình yêu. Thơ tình yêu là lối thơ dễ làm và khó hay nhất. Một là vì đề tài lâu đời trở thành khuôn sáo, hai là người làm thơ tình khi thành thật thì chủ quan, đắc ý, tự nghĩ thơ mình là hay, hóa ra dễ dãi, trong khi người đọc bên ngoài, cho rằng lẩm cẩm. Thơ tình ngày nay, muốn thành công, phải giàu lượng trí tuệ và chất nghệ thuật; nhưng thơ hoa mỹ lại mất nét thành thực đơn sơ. Mà tình yêu chính là cảm xúc đơn sơ.

Thơ tình Vũ Hữu Định gây cảm xúc vì chỗ tha thiết mà tự nhiên ấy:

Anh đang sống thiếu một phần thân thể
sống thiếu em nên anh thở không đều
thèm ngực trần, môi ngọt với tay yêu
đã trói chặt hồn trăm năm lãng tử

đã quen đau nên thấy được mặn mà
của tội lỗi mà anh kêu hạnh phúc
ôi vết chém đã qua thời đau nhức
đâm da non để thành sẹo muôn đời
anh thở đều để sống em ơi (tr. 31)

Hơi thở rạo rực đã phả vào bài "Tiếng dội của sương chiều", 5 chữ nhẹ nhàng nhưng da diết, trong sáng mà hàm súc - một bài lý tưởng để phổ nhạc (câu này viết nhắn gửi Phạm Duy):

Anh nằm đâu, ngồi đây
ngó nước nguồn reo vỡ
nước nguồn chảy bao năm
đá núi mòn dấu nhớ
anh nằm đây, ngồi đây
một mình anh vẫn thở
mười năm trong trắc trở
anh thở khác ngày xưa
nghe dội tiếng rừng mưa
nghe vang lời suối nhớ

anh nằm nghe lay động
đau của những nhánh cành
anh ngồi trong lá xanh
trên những hồn lá chết
tay anh nắm tha thiết
những chiếc lá còn tươi
thả xuống suối mà chơi
trôi đi còn tiếng dội… (tr. 33)

Nguồn thơ róc rách tuôn tuôn tự nhiên, u uẩn trong veo, thắm tươi đau đáu, trầm lặng ngân vang. Một bài thơ tình hiện đại, rõ nét nếu ta so sánh với "Tình quê" đồng dạng của Hàn Mạc Tử, nửa thế kỷ trước. Đâu đó, trong Thân phận làm Người, André Malraux đã định nghĩa tình yêu là „cái phần mình thay đổi ở người kia“, nghe sâu sắc, nhưng trừu tượng. Vũ Hữu Định nói anh thở khác ngày xưa có cường điệu nhưng cụ thể, và xúc động. Thể ngũ ngôn ngắn hơi, ít để lại tác phẩm hay. Bài "Tiếng dội của sương chiều" là một tác phẩm toàn bích.

Cùng một hơi thở - hơi thơ ấy còn có bài "Rừng hương mật" đắm đuối. Cảm hứng tuôn tràn một mạch,ào ạt, sung mãn mà âm trầm, tao nhã. Thao thao tình cảm, thao thiết ưu tư:

Anh đang sống - đang thở đều rất lạ
Thở yêu em yêu đau đớn của đời
Anh cảm được phút của mùa đang đổi
Giây của sông dừng lại đợi chiều trôi
Ở đâu đó rừng của Thu ảm đạm
Uống chút hương hoa của suối mà say
Mây của nghìn năm mây vẫn là mây
Nhưng một buổi lạ như vừa mới có

Một ngày nào mặt trời kia rét lạnh
Máu đỏ trùng dương một lần chết cuối cùng
Giấc lạnh vang lời gió nhắn với rừng
Anh hối hả trở về mau cho kịp (tr. 82)

Nhịp thơ dập dồn, hình ảnh điệp điệp, ý tứ trùng trùng, tuôn tuôn từ một hồn ứ chứa bao nhiêu tình rừng thẳm. Do đó mà thơ tình Vũ Hữu Định ngày nay còn gây hào hứng.

Thơ tình, chứ không huê tình kiểu "áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc". Thơ tình xưa nay thường khệ nệ đèo thêm phần thuyết lý, dạy đời: thơ Pháp từ Ronsard đến Aragon, thơ Việt từ Nguyễn Trãi "đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng" đến Xuân Diệu "vội vàng lên với chứ". Thơ Vũ Hữu Định mang sắc phơi phới, hồn nhiên, đớn đau mà vẫn tin đời - có lẽ do niềm tin ở trời đất, mà anh diễn đạt rất mãnh liệt trong bài tứ tuyệt:

Sướng quá, nâng ly, khà một tiếng
Mừng rằng sắc núi vẫn màu xanh
Đám mây bay thấp ngang nhà cỏ
Hương rượu nồng hơn mọi thứ tình (tr. 6)

Tâm giới hào sảng trước sắc giới ưu ái như trong đoạn thơ trên, được định hình trong một thi giới bao la, biển rộng trời cao. Thơ Vũ Hữu Định ít có giới hạn chật hẹp, nếu Pleiku phố xá không xa thì cũng được nấn rộng bằng sương mùcây xanh, núi cao - và nhất là có em!

Nơi Vũ Hữu Định tình yêu, tình bạn, tình quê, quyện vào niềm nhớ đất thương trời mêng mang mênh mang mênh mang.

*

Hình ảnh tạo tính nhất quán cho tập thơ, xuyên suốt, tiếp dẫn các bài thơ, tự rừng núi đến thôn quê, ao bèo, thửa ruộng, lũy tre, mái nhà, là con chim.

Một mặt chim là tri âm, chia sẻ tâm sự và ước mơ:
Có lẽ con chim rừng bữa nọ
Hát với anh là chia sẻ ngọn nguồn (tr. 74)

Chim là một ẩn dụ đa hiệu. Hình ảnh thị giác, nó là không gian gần mà xa, cảm nhận thính giác, tiếng chim là thời gian dội vào tim, có khi hẹn hò hoan lạc thủy chung:

Con chim bỏ đi có bận quay về
Cất tiếng hát chào niềm vui của gió (tr. 108)

Có khi nhắc thân phận hiện thực chơ vơ:
Con chim lạ lùng năm nọ của tôi ơi
Hóa mấy kiếp mà sao tôi vẫn vậy (tr. 110)

*

Thơ Vũ Hữu Định là điển hình cho thơ trữ tình hiện đại. Nó không gai góc, thách thức; ngược lại, nó kết thân, đằm thắm, quen thuộc. Lay động người đọc bằng tình cảm trong sáng và thiết tha, bằng nét tài hoa vô tội.

Đây là đoạn cuối trong bài thơ "Kiểm điểm", Vũ Hữu Định làm 1981, trước khi vĩnh biệt trần gian:

Ta đang nhớ thuở sông dài núi rộng
đường thênh thang của một gã giang hồ
ta đang thèm đi để học làm thơ
chờ ta đến xin nhớ phần rượu tặng (tr. 89)

Câu thơ tuyệt mệnh thu gọn không gian, cuộc đời, tâm tình, hoài bão văn chương và những khát vọng chưa nguôi của Vũ Hữu Định.

Trên chiếu rượu vui ít buồn nhiều hôm nay, bạn bè, trong và ngoài nước, luôn luôn giữ phần rượu tặng, cho Định.

Định ơi,

Orléans, ngày 25/2/2006

_______________
Nguồn: Thư Quán Bản Thảo, tập 23 tháng 4. 2006, chủ đề Tưởng nhớ Vũ Hữu Ðịnh, phổ biến trong vòng thân hữu, không bán. Ðịa chỉ: P.O Box 58 South Bound Brook, NJ 08880







Vũ Hữu Định, Một Chút Gì Để Nhớ
Nguyễn Manh Trinh

Có những bài thơ, tôi đọc của Vũ Hữu Ðịnh mà mường tượng ra những cảm giác của chính mình. Có những cảnh ngộ, đã trải qua trong đời sống, bây giờ, đọc trong thơ Vũ Hữu Ðịnh, như sống lại trong ký ức.

Như, bài thơ “Những ngày long đong”:

“trưa ngủ đậu - chiều đi - đêm đợi
mai lang thang, mốt biết về đâu
ngày với tháng cứ đùn như mối
tháng với ngày qua như một bãi mù ...

đi ra khỏi nơi anh tạm trú
đứng một nơi đâu không định trong lòng
ngã bảy xe người chia bảy ngã
có ngã nào đi riêng của anh đâu

đi ra khỏi nhà sơ quen tạm ngụ
một đêm đau lưng mắt mở trừng trừng
đi ra khỏi là ra đi với nhớ
để chiều về đâu? Ngơ ngác bâng khuâng...” 

Phải, tôi đọc thơ Vũ hữu Ðịnh để nhớ lại những ngày xa xưa thuở ấy. Lúc lang thang vơ vẩn ở Sài Gòn năm 1980 sau khi được thả về. Sau đó, tham gia tổ chức một chuyến vượt biển không thành ở Bến Tre và bị công an tỉnh lên tận Sài Gòn hỏi thăm. Túng cùng, khi chiều về đêm xuống đạp xe đi mà không biết mình đi đâu. Có lúc, như một nhân vật của kiếm hiệp Kim Dung mà than thở một mình. Than ơi, trời thì cao, đất thì rộng mà ta thì không chốn nương thân. Câu hỏi tối nay biết ngủ đỗ nơi đâu cứ hoài trong tâm trí. Mình có nhà có cửa mà sao phải lạc loài như người vất vưởng không nhà. Có bữa, mướn chiếu ngủ tạm ở bến xe, để nghe những người chung quanh chửi rủa thời thế, hay những cô gái giang hồ đêm khuya kể lể tâm sự bọt bèo mình. Tôi khám phá ra một điều ngủ đêm ở bến xe lại an toàn hơn bất cứ một nơi chốn nào khác. Nếu tạm trú tại nhà mấy người thân, thì chỉ một lần, bởi cả gia đình người thân ấy cũng sẽ hồi hộp chờ tiếng gõ cửa xét nhà kiểm tra hộ khẩu và cả đêm thức trắng trong lo sợ. Thôi thì đành tối tối, tới bến xe, ngủ lẫn lộn với những hành khách chờ xe đò hoặc những anh tài xế xe vận tải hay những chị buôn hàng chuyến, để chờ một chuyến đi sắp tới cho qua những ngày bị truy nã, săn đuổi...

Ðọc những câu thơ, tự nhiên sao bồi hồi. Nhớ lại, một thời gian qua, đã tới hai mươi mấy năm mà sao như trước mắt. Tôi thấy mình đạp xe lang thang giữa con phố đông người với mây đen ùn lên phía chân trời của thành phố Sài Gòn đang lên đèn. Tôi nghe lại những câu vọng cổ, than thở buồn hiu trong đêm mưa dầm rả rích khi mình cuộn tròn trong manh chiếu ở hiên nhà cạnh những người vô gia cư từ kinh tế mới trở về, lăn lóc, tang thương.

Ðọc những câu thơ sao thấm thía: 

“trong đám đông anh lại càng cô độc
bởi một nơi đâu cũng ăn tạm ở nhờ
sợ cả lời chia vui thành thật
bạn bè thì đông sao anh vẫn bơ vơ
buổi tối xe lam muộn màng ế khách
lại tới một nơi không hẹn không tìm

anh đi ngược lại con đường xe chạy
mỗi bước chân rời mỗi nhịp đau tim
thành phố lặng là khi nghìn tiếng động
không xô tan được khối lòng sầu
chân anh bước, mắt chỉ nhìn phía trước
tai nghe hoài một câu hỏi về đâu.”

Thời gian ấy, sao cố quên mà vẫn còn hằn nhớ. Cái tâm cảm của một người cô đơn trong cái xô bồ náo nhiệt của chỗ đông người lại càng làm tăng thêm cường độ nỗi buồn. Thời thế ấy, sao buốt xót. Kỷ niệm ấy sao ngậm ngùi. Cầm tập thơ Vũ Hữu Ðịnh trên tay, mặc dù chưa bao giờ gặp mặt và cũng không hề quen biết mà sao tôi có cảm giác vô cùng thân thuộc. Không biết có phải vì có lúc, mình cũng đồng cảm với cái tâm sự của một người lỡ vận “Ta đã hát khúc hát đời lỡ vận. Hát âm u trong đêm tối một mình.” Hình như, với thi sĩ tác giả “Còn một chút gì để nhớ”, đêm tối lúc nào cũng là cái phông thẳm sâu của kiếp người, của những bước chân đi không bao giờ đến đích.

Bài thơ về phố núi Pleiku của Vũ Hữu Ðịnh với nhạc Phạm Duy đã tạo một thành phố nhỏ nơi xó rừng thành một nơi chốn đầy huyền thoại, vừa lãng mạn vừa bi tráng. Ở đây, có những chuyện về Bà Chúa Rừng linh thiêng, có những mối tình y như tiểu thuyết của những người lính trận và những cô gái giang hồ. Thời chiến tranh cực độ, phố núi là nơi dưỡng quân của những chàng G.I. từ mặt trận biên giới trở về và cũng là nơi mà các nàng kiều nữ từ khắp nơi đổ về kiếm tiền.Và, cũng chính nơi đây, là nơi nghỉ phép của những chàng lính chiến từ biên trấn. Rượu, ăn chơi, nhảy nhót, cho quên sầu để rồi trở lại chiến trường, ở đó có những mối tình giang hồ nhưng cũng có những mối tình lãng mạn trong trắng.

Ở đó, cũng có con đường Trịnh Minh Thế rợp bóng cây dầu, cây sao, những giờ đi học hay tan học tung tăng những tà áo trắng nữ sinh trong cái mù sương buổi sáng hay nhạt nắng buổi chiều. Pleiku, “phố xá không xa nên phố tình thân. Ði dăm phút đã về chốn cũ...” Con đường Hoàng Diệu từ rạp Diệp Kính đến Bưu Ðiện, chỉ vài phút đi lên đi xuống để cho đời còn mơ còn mộng, còn thấy hạt nắng dễ thương, hạt mưa tuy buốt lạnh nhưng lại ấm lòng vì đôi mắt em. Dù nơi đây suốt năm là mùa đông tháng giá nhưng má đỏ môi hồng em làm ấm mùa xuân. Và: 

“xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc trên đồn biên giới
còn một chút gì để nhớ để thương.”

Rời phố núi, để hát bài Biên trấn ca. Thơ, là tiếng hú vọng lên thinh không về đến quê nhà. Thơ, là tia nhìn tha thiết xuyên qua rừng qua núi, về một nơi chốn nào sắt se kỷ niệm. Thơ, những vần thơ làm xao xuyến không gian. 

“...Chiều có ta đứng mãi
Ðịnh hướng phương trời quê
Chim bay về biển Bắc
Gió bạc hồn sơn khê
Ba năm đồn biên trấn
Hai mươi năm giang hồ
Chuyện kể hoài bữa rượu
Thuốc chẳng tàn cơn mê
Ðồn cheo leo đón gió
Bốn mùa phên mây che
Ðất trời đây một cõi
Nhốt đời chưa cho về...”

Có người nói thơ Vũ hữu Ðịnh ít có bóng dáng chiến tranh. Nếu có, chỉ là những nét thoảng mờ không rõ nét. Nhưng, trong suy nghĩ riêng mình, tôi lại thấy bất cứ bài thơ nào của ông cũng đều thấp thoáng hình ảnh của một thời đại chinh chiến. Cái tâm tư bất an, cái nỗi niềm thời bom đạn, những huyễn mộng và đau xót hòa chung, bàng bạc trong ngôn từ, của một thời đại mà bất hạnh thành quen thuộc và hạnh phúc lại hiếm hoi.

Bài “Trên đoạn đường quê em,” như một lời phẫn nộ:

Lửa rực đỏ treo trăm đường sinh tử
Trong đêm cay, đêm địa ngục hãi hùng
Mẹ thét tìm con tóc dài điên dại
Xiêu vẹo giữa đường chết đuổi sau lưng

Lửa đã cháy đường ra quê em
Lửa đã cháy một đoạn lòng của mẹ
Ôi cái chết có còn chăng lý lẽ
Có lý lẽ nào đã giết anh em

Ðường ra quê em trăm ngàn cay đắng
Lửa hạ đạn gào trăm tiếng kêu la
Những dòng máu vô tình vô tội
Ðã chảy lên nhau thành suối chan hòa

Lửa Quảng Trị lửa rượt về Mỹ Chánh
Rải những thây người gục giữa đồng khô
Những dòng máu đã thấm tràn mạch đất
Có làm tương lai con cháu huy hoàng?”

Ghét chém giết, nhưng vẫn phải tham dự chiến tranh, ôi tấm lòng tuổi trẻ sao sắt se buồn: 

“trên non may có tình bằng hữu
tuổi trẻ đau chung một khúc ca
ôm nhau thức với vầng trăng lạnh
vượt lá tìm sao định hướng nhà

có những ngày đi trong núi thẳm
tuổi trẻ nhìn nhau nhớ xóm thương làng
thở chung một tiếng nghe sầu cháy
tâm sự chuyền nhau điếu thuốc quan san

Cám ơn điêu đứng rừng sinh tử
Cạm bẫy người giăng để giết người
Tuổi trẻ gần nhau trong gió lửa
Giữ giùm nhau những tiếng chim cười.”

Có lẽ những bài thơ hay nhất của Vũ Hữu Ðịnh, theo tôi, là những bài thơ viết về thời lang thang giang hồ của ông. Có khi ông luận chuyện đời, một chút triết lý, một chút cám cảnh thương thân. Có khi, ông phác họa lại tình cảnh mình, đối chiếu giữa cái có và cái không, cái chân thực và cái giả ngụy: 

“ ... bạn bè bảo ta thằng giả trá
thằng làm thơ “tẩu hỏa nhập ma”
ta chỉ biết cười trong im lặng
có một lời nào ta nói chưa ra

hôm xưa ta vốn thằng hay nói
chuyện văn chương giống chuyện đàn bà
chuyện anh em chết ngày đôi đứa
nói mãi không cùng chẳng tận xót xa
có lúc cay môi mềm tiếng rượu.”

Thi sĩ tự họa chân dung, của một lời thê thiết bỏ nhau, của những lúc hất bỏ đi những gì thơm hương những gì mơ mộng nhất: 

“bỏ người ta vẽ chân dung
bỏ người ta thấy trùng trùng cõi xa
bỏ ta
ta vẽ đời ta
bỏ nhau ta vẽ ngựa già ngủ im

bỏ ngày xưa
bỏ trái tim
ta lang bạt tự kiếm tìm xót đau

bỏ đời rồi bỏ đời nhau
bỏ trăng chết lạnh bỏ sầu khói sương
bỏ rừng tuổi lá thơm hương
bỏ sông để gió làm buồn sóng chao
bỏ người tôi bỏ đời nhau.

Ðiệp khúc “bỏ người, bỏ đời, bỏ ta, bỏ rừng, bỏ trăng, bỏ sông,” như những lời than oán, như những tiếng gọi về. Buồn, một nỗi đau tận cùng, nhưng, sao trong ngôn ngữ, có phảng phất một chút gì chịu đựng, như số phận đời đã phải cam chịu, đã phải buông xuôi...

Tình yêu, có lúc là những cơn mộng, của giây phút kiếm tìm nhưng chẳng bao giờ gặp gỡ trong đời. Vũ Hữu Ðịnh làm thơ tình, giữa thiên nhiên hiền hòa nhưng sao trong lòng như đã chớm một niềm đau, bàng bạc: 

“vẫn nằm mộng thấy bàn tay em vẫy
nên chi anh đi ngơ ngẩn kiếm tìm
có buổi chiều ngồi ngó mãi ra sông
có buổi tối qua những đường quen cũ
có đêm thức ngó lá dừa buông rủ
những lá dừa kia đã có linh hồn...

Làm thơ về Huế, để nhớ lại những đứa bạn thời xưa. Nói với bạn, mà sao như nghe nói với quê cha đất tổ nỗi niềm của mình, của những người con làng phải xa rồi lại trở về, chịu những cảnh khó khăn của một thời đại đầy đổi thay bất trắc. Thơ gửi Trần Dzạ Lữ, gửi theo một cảm xúc buồn về đất nước quê hương: 

“...tôi có nhiều người bạn Huế
thường nói với nhau về Huế của mình
xa thì thương ở gần dễ giận
đi xa Huế dẫu đời lận đận

nhưng còn Thành Nội trong tim
nhưng còn hình ảnh núi Ngự sông Hương
cái huyền thoại nghe buồn dễ sợ

Duận ơi! Cuộc sống có bao giờ dễ thở
ai có bạc chi mình cứ níu xóm làng
tau vẫn nhớ hoài năm tháng lang thang
mày cứ nhắc làng quê Nam Phổ Hạ...”
em ơi!...”

Chết lúc bốn mươi, có lẽ cuộc đời người làm thơ ngắn ngủi. Phần rượu tặng của đời chàng có lẽ là những giọt đắng tân toan. Chàng ra đi khi đất nước trong những ngày cực kỳ khó khăn, khi chế độ với chính sách kinh tế chỉ huy, ngăn sông cấm chợ, triệt hạ tư sản lôi xã hội xuống cấp tột cùng. Vũ Hữu Ðịnh qua đời vào đầu năm 1981 tại An Hải, Ðà Nẵng. Ông từ trần vì say rượu té từ trên lầu xuống, một cái chết mà theo nhiều người kể lại thì còn nhiều nghi vấn.

Ðọc thơ Vũ hữu Ðịnh, thấy nỗi ngậm ngùi. Và lại càng thấy công việc in lại tập di cảo “Thơ Vũ Hữu Ðịnh” của các anh Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn là một việc nên làm.

Nó chẳng những là một nén hương tưởng niệm mà còn làm sống lại một thời kỳ văn học thật nhiều trăn trở thật nhiều thời đại tính mà những người lãnh đạo trong chế độ đương thời muốn xóa bỏ và triệt hủy.

Nguyễn Mạnh Trinh









Còn chút gì để nhớ
Thái Thanh







Tháng Giêng Nhớ Vũ Hữu Định

(Trần Trung Sáng)

Vũ Hữu Định tên thật là Lê Quang Trung sinh năm Nhâm Ngọ, 1942, người gốc Huế, nhưng định cư ở Đà Nẵng lâu năm. Trước 1975, anh làm thơ rất nhiều, song đợi đến khi Phạm Duy phổ nhạc bài thơ “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” và qua tiếng hát vượt thời gian của Thái Thanh, mới thực sự chắp đôi cánh tuyệt vời cho ý thơ anh bay bổng.

Gần 30 năm trước (1981), vào một đêm trăng tháng Giêng (16/1 âm lịch) tuyệt đẹp, Vũ Hữu Định qua đời sau một cuộc vui tại cùng bạn bè bên bờ sông Hàn, Đà Nẵng.

1. “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” là tên một bài thơ của Vũ Hữu Định, viết về thành phố Pleiku, khi anh ghé đến thăm người bạn gái nhỏ vào năm 1970. Bài thơ in lần đầu cùng năm trên tuần báo Khởi Hành (do nhà thơ Viên Linh phụ trách), và trở nên phổ biến rộng rãi, được nhiều người hết sức yêu chuộng, sau khi nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc.

Trước đó, mặc dù đã làm thơ khá nhiều, nhưng hầu như cái tên Vũ Hữu Định chưa được ai biết đến, bởi thơ của anh chưa từng góp mặt trên những diễn đàn văn nghệ tầm cở của miền Nam như Văn, Bách Khoa, Văn Học… (theo Ðinh Trầm Ca :”Bút hiệu đầu tiên của Vũ Hữu Ðịnh là Hàn Phong Lệ, làm thơ vào những năm 60. Tôi đã thấy cái tên này trên những tờ báo không có “tầm cở” cho lắm”). Đáng lưu ý, cũng thời điểm này, qua việc phổ nhạc một số bài thơ, tình cờ Phạm Duy đã giới thiệu với công chúng nhiều tác giả chưa từng được biết tên : Linh Phương (với Kỷ vật cho em), Nguyễn Tiến Cung ( với Rừng U Minh ta không thấy em), Vũ Hữu Định (với Còn một chút gì để nhớ)… Phạm Duy cho biết, ông đã từng tìm gặp Vũ Hữu Định ở Pleiku trong một chuyến đi tìm cảm hứng và nhất là tìm hiểu tâm trạng những nhà thơ trẻ, đại đa số khi ấy đang đi lính hay đang trốn lính. Khi chọn và phổ nhạc bài thơ của Vũ Hữu Định, ông không thêm bớt một chữ nào. Ông đã giữ nguyên vẹn cấu trúc cũng như vận tiết của bài thơ, chỉ dùng một thanh âm có bán cung của dân ca Jarai hay Bahmar để gợi cái không khí cao nguyên và một chuyển giọng ở đoạn cuối để cho bài ca có thêm màu sắc.

Tuy nhiên, trong trường hợp này, phải thừa nhận, Vũ Hữu Định đã nhanh chóng chớp thời cơ, khẳng định tên tuổi của mình qua hàng loạt bài thơ xuất sắc, khí phách, ngang tàng trên văn đàn.

Vũ Hữu Định cũng tạo ấn tượng với giới văn nghệ miền Nam bằng chuyến giang hồ cùng nhạc sĩ Trần Quang Lộc khi vào Sài gòn làm đình đám tại Hội quán cây tre của ca sĩ Khánh Ly để giới thiệu thơ anh và nhạc Trần Quang Lộc. Thời gian Vũ Hữu Định lang bạt tại Sài gòn, nhà thơ Du Tử Lê kể lại: “Lúc này là thời gian Nguyễn Tất Nhiên (tác giả nhiều bài thơ cũng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc nổi tiếng như Thà như giọt mưa, Em hiền như ma xơ…) tha người về nhà tôi nhiều nhất. Trong số những người Nhiên tha về đó, có Vũ Hữu Định. Nhiên cười toe bảo, Vũ hữu Định đấy anh. Em Pleiku má đỏ môi hồng đó anh… Lúc này ca khúc Còn Chút Gì Để Nhớ của Phạm Duy đang trở thành phổ thông. Tôi nghĩ, phải thành thật ghi nhận rằng, trước khi có ca khúc Còn Chút Gì Để Nhớ, gần như không ai biết tới Vũ Hữu Định. (Phải vì thơ anh ít xuất hiện trên mặt báo?)

Du Tử Lê cũng nói rõ: “Điều tôi thích nhất nơi Vũ Hữu Định, là Định không bao giờ thảo luận văn chương với tôi. Định cũng rất họa hoằn bắt tôi phải nghe thơ của Định. (điểm này, Vũ Hữu Định hoàn toàn trái ngược với Nguyễn Tất Nhiên.) Định cũng không mầu mè, không lên gân, không tác điệu cho ra vẻ của một người làm thơ. Cần gì, Định nói thẳng thành lời, chẳng quanh co rào đón. Bên trong cái dáng vẻ cục mịch, hơi ngơ ngác, Vũ Hữu Định, trong ghi nhận của tôi còn là một người rất ý tứ…”.

2. Sinh thời, vốn trải chịu một cuộc đời đầy đắng cay, lận đận, có lẽ vì vậy, mà thơ của Vũ Hữu Định thường mang tâm trạng u hoài, ta thán về một kiếp người lỡ vận :“Ta đã hát khúc hát đời lỡ vận. Hát âm u trong đêm tối một mình.” Hình như, với nhà thơ , dưới mỗi bước chân đi luôn dự báo ngày tháng héo hon của kiếp người:

“Một ngày gió tạnh bên vườn cỏ hoang
Ta nhìn con sâu đo đoạn đời buồn
Em có biết dưới lá mòn hạnh phúc
Trên chân sâu từng ngày tháng héo hon”

Tuy nhiên, đặc sắc hơn cả là những bài thơ Vũ Hữu Định viết về rượu và chuyện giang hồ. Hầu như phần lớn nội dung các sáng tác của anh đều quanh quẩn ở hai chủ đề này. Chẳng hạn về rượu, đáng nhớ nhất là các đoạn:

“Một ngày rượu uống sao không mềm môi
Một ngày nhớ nhau gió xé mây trời
Cỏ cây cũng gục trong sầu ngất
Một ngày quạnh hiu chết chậm trong đời”
(Ngày quạnh hiu)

Hoặc:

“Lý Hạ xưa say bằng huyễn mộng
Ta nay say bằng rượu pha cồn
Cảm đau thân thế người trong sử
Rượu đắng cay mà sao thấy ngon”
(Đêm Mưa Thiếu Rượu Nhớ Lý Hạ)

Về chuyện giang hồ, đoạn thơ dưới đây được nhiều người biết hơn cả:

“Chiều dựng. Mùa đông mây xám ngắt.
Núi cao trời thấp có ta về.
Giang hồ đâu có ai phong ấn.
Mà nghĩ từ quan trở lại quê”
(Chẳng Hay)

3. Trước 1975, mặc dù đời sống áo cơm của gia đình Vũ Hữu Định rất khó khăn, nhưng với bạn bè, anh luôn hết mực trải lòng. Hầu như lúc nào chung quanh anh, cũng có dăm ba người bạn với những cuộc rượu tưng bừng. Song, gần gũi, chia sẻ và khích lệ Vũ Hữu Định nhiều nhất trong đời sống lẫn thơ ca là Trần Dzạ Lữ. Chính vì vậy, anh có những vần thơ tặng Trần Dzạ Lữ đầy cảm xúc, đậm tình bằng hữu:

“…tôi có nhiều người bạn Huế
thường nói với nhau về Huế của mình
xa thì thương ở gần dễ giận
đi xa Huế dẫu đời lận đận

nhưng còn Thành Nội trong tim
nhưng còn hình ảnh núi Ngự sông Hương
cái huyền thoại nghe buồn dễ sợ …

(đọc những câu thơ này, cũng làm liên tưởng đến mối tâm giao của anh với những người bạn khác(gốc Huế) tại Đà Nẵng vào lúc này như: Hồ Đắc Ngọc( hoạ sĩ), Hoàng Đăng Nhuận ( hoạ sĩ)…)

Tô Như Châu (1935-2000), tác giả bài thơ “Có phải em mùa thu Hà Nội”( Trần Quang Lộc phổ nhạc năm 1972) cũng là một trong những người bạn có thời gian dài gắn bó với Vũ Hữu Định (sau 75 hai anh cùng làm nhân viên điện lực, cùng có mặt trong cuộc rượu cuối cùng của VHĐ). Trong bài thơ Tô Như Châu có đoạn:”Thôi thì có em đời ta hy vọng/Thôi thì có em sương khói môi mềm” gợi lên điều gì đó rất gần với “May mà có em đời còn dễ thương” của anh Định. Ngược lại, “Còn chút gì để nhớ” của Vũ Hữu Định cũng dễ làm nhắc nhớ đến “Một chút cho tình yêu” – tựa đề tập thơ của Đinh Trầm Ca rất nổi tiếng vào thời điểm này. Dù vậy, tôi không có ý so sánh các tác giả đã có ảnh hưởng nhau, nhưng chắc rằng, mối tri âm bằng hữu đã để lại ít nhiều dấu ấn trong tác phẩm của họ.

Vào khoảng năm 1996, một số thân hữu của nhà thơ Vũ Hữu Định đã góp tay, góp tài chánh để thực hiện tập thơ “Còn Chút Gì để Nhớ” do nhà xuất bản Trẻ tại thành phố HCM ấn hành. Tuy nhiên, đến nay, nhiều người cho rằng vẫn còn nhiều bản thảo của anh lưu lạc trên bạn bè chưa tập hợp đầy đủ./.









CÒN CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ - SỐ PHẬN CỦA TÁC PHẨM

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG 


Những năm 1971-1972, có lẽ bài hát Còn chút gì để nhớ của Phạm Duy là một trong những bài được yêu cầu nhiều nhất trong “Chương trình nhạc yêu cầu” trên đài Phát thanh Sài Gòn.
Lúc đó, tác giả của bài thơ - nhà thơ Vũ Hữu Định - vừa qua tuổi 30, anh đang… trốn lính ở Sài Gòn và lang bạt ở Lâm Đồng, Bảo Lộc, Pleiku…

Từ trong bóng tối với nhiều bút danh như Hàn Giang Tử, Vũ Hữu Định…, chàng trai gốc An Cựu nhưng nói giọng Quảng Lê Quang Trung không nghĩ mình được nhạc sĩ tài ba Phạm Duy để ý. Với bút danh Vũ Hữu Định, anh bắt đầu xuất hiện trên tạp chí Bách Khoa của Lê Ngộ Châu, tuần báo văn nghệ Khởi Hành của Viên Linh… Bài Còn chút gì để nhớ đăng trên Khởi Hành và được nhà văn Võ Phiến chép vào sổ tay.

Sau này, khi chúng tôi gặp lại ông ở Nha Trang trong chương trình Duyên dáng Việt Nam 16, trong buổi ăn tối, Phạm Duy kể, ông đến chơi nhà Võ Phiến nhưng bạn đi vắng. Lân la chờ bạn trong phòng viết, thấy cuốn sổ tay bỏ ngỏ, ông giở vài trang đọc và bắt gặp bài thơ. “Lúc đó, tôi chưa biết anh Định là ai nhưng nhịp điệu và ngôn ngữ bài thơ làm tôi nảy ra ý định phổ nhạc. Cả năm sau, Vũ Hữu Định đến thăm tôi thì tôi mới biết anh ấy còn rất trẻ, hiền lành…
Sau này ở Mỹ, tôi biết anh đã mất vì tai nạn trong một cơn say. Tôi ra Đà Nẵng và Hội An 2 lần, nhưng bộn bề công việc, lại không biết gia đình anh còn ở ngoài đó nên không đến thăm được. Thật đáng tiếc!”.

Năm 1972, Vũ Hữu Định sống cùng phòng trọ sinh viên chúng tôi, khi thì ở đường Lê Văn Duyệt, lúc sang khu ổ chuột Phú Nhuận. Anh bắt đầu “ra công khai” sau khi nhờ một bạn thơ làm được cái giấy hoãn quân dịch “vì lý do gia cảnh”.

Định kể: Đó là từ tiền nhuận bút do chính nhạc sĩ Phạm Duy trả cho anh. Không rõ bao nhiêu nhưng ngoài cái “bùa hộ mạng” hoãn quân dịch, anh còn phóng túng đãi rượu anh em được mấy bữa! Đầu năm 1973, bị phát hiện giấy hoãn quân dịch… dỏm, Định phải trốn, rồi quay về Đà Nẵng trong dịp Tết năm đó.

Với Còn chút gì để nhớ, nhạc sĩ Phạm Duy đã thổi vào tâm hồn nhà thơ tài hoa bạc mệnh Vũ Hữu Định một chất xúc tác, một xung động khiến thơ anh từ đó về sau bay bổng.
Riêng trong năm 1972, tuần nào anh cũng có thơ đăng, có khi cả chùm đến chục bài, trên tạp chí Văn, Thời Tập, Bách Khoa và cả tờ Tuổi Ngọc hay nhật báo Sóng Thần của nhà văn Trùng Dương… Tôi tham dự nhiều đám cưới với Vũ Hữu Định và lúc nào anh cũng được yêu cầu hát bài Còn chút gì để nhớ… 10 năm sau ngày Định mất, thân hữu, bạn thơ, dù ở Việt Nam hay ở Mỹ, đã góp tiền in thơ cho Định và cả hai tập đều lấy tên bài Còn chút gì để nhớ làm tựa sách.
Nhạc sĩ Phạm Duy hầu như không thay đổi gì nhiều trong ca từ của bài hát, đặc biệt những khổ thơ đắc ý nhất của Định:

…Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp
thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em đời còn dễ thương…
Phố núi cao phố núi trời gần
Phố xá không xa nên phố
tình thân
Đi dăm phút đã về lối cũ
Một buổi chiều nao lòng bỗng
bâng khuâng…
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm
mùa đông
Nên mắt em ướt và tóc em ướt
Nên em mềm như mây
chiều trong…

Trong hàng trăm bài thơ phổ nhạc của Phạm Duy, có hai nhà thơ trẻ lúc đó là Nguyễn Tất Nhiên và Vũ Hữu Định, nhưng Định chỉ có một bài duy nhất. Điều này có lẽ do thời cuộc và xa cách, bởi thơ Định có nhiều bài mà theo nhà phê bình Đặng Tiến, như bài Tiếng dội của sương chiều, nếu được Phạm Duy phổ nhạc, chắc sẽ là một ca khúc vượt thời gian:

Anh nằm đây, ngồi đây
ngó nước nguồn reo vỡ
nước nguồn chảy bao năm
đá núi mòn dấu nhớ
Anh nằm nghe lay động
đau của những nhánh cành
anh ngồi trong lá xanh
trên những hồn lá chết
tay anh nắm tha thiết
những chiếc lá còn tươi
thả xuống suối mà chơi
trôi đi còn tiếng dội…

Hôm gặp nhạc sĩ Phạm Duy ở Nha Trang, tôi đọc bài thơ này với ông và con trai là nhạc sĩ Duy Cường cùng lời nhắn gửi của Đặng Tiến. Cả hai cha con nhạc sĩ nghe xong đều há hốc kinh ngạc và chép vào sổ tay…

Nhưng có lẽ, mỗi tác phẩm nghệ thuật đều có số phận riêng của nó khi Phạm Duy không còn nữa…

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG 









Trở về



MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.