LÂM TRIẾT
Tên thật : Nguyễn Tấn Triết
(15/12/1938 - 18/12/2018) Bình Định
Hưởng thọ 80 tuổi
Giáo sư, Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định - trước 1975
- Sanh ngày 15/12/1938 tại thôn Trung Lương, xã Bồng Sơn, quận Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Trung Việt)
- Học trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế (1957 - 1959), trường Cao đẳng Mỹ thuật (1959 - 1960)
- Đã dự các cuộc Triển lãm mùa Xuân Canh Tý (1960), mùa Xuân Tân Sửu (1961), mùa Xuân Nhâm Dần (1962)
- Họa sĩ Lâm Triết từng dạy mỹ thuật tại trường Tăng Bạt Hổ, thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, sau đó dạy ở Cao đẳng Mỹ thuật Huế, trường Phan Bội Châu, thị xã Phan Thiết, trường Cao đẳng Mỹ thuật và Mỹ thuật Gia Định.
Hưởng thọ 80 tuổi
Giáo sư, Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định - trước 1975
- Sanh ngày 15/12/1938 tại thôn Trung Lương, xã Bồng Sơn, quận Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Trung Việt)
- Học trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế (1957 - 1959), trường Cao đẳng Mỹ thuật (1959 - 1960)
- Đã dự các cuộc Triển lãm mùa Xuân Canh Tý (1960), mùa Xuân Tân Sửu (1961), mùa Xuân Nhâm Dần (1962)
- Họa sĩ Lâm Triết từng dạy mỹ thuật tại trường Tăng Bạt Hổ, thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, sau đó dạy ở Cao đẳng Mỹ thuật Huế, trường Phan Bội Châu, thị xã Phan Thiết, trường Cao đẳng Mỹ thuật và Mỹ thuật Gia Định.
Graduated:
Studied from the Hue Fine Art school and Saigon Fine Art school. Activity in field of Art:
1963: Biennale de Paris Vietnamese presentative at the lnternational Art Show, Paris, France.
1966: lnternationat art Festival, Saolo, Brazil.
1963-1974 (one man show): Vietnamese Cultural & lnformation Center. Art Show, Saigon.
1963, 1965, 1967, 1972: Alliance Francaise, Culturel Exchange Show”, Saigon.
1990 (group Vietnamese Artists): Van nghe Art Gallery, Saigon.
1991 (group Vn artists show): M.T. Art Gallery Saigon.
1991: Studio Gallery one man show saved from the silence 1, BURBANK, ca.
1992: Barakat Gallery Beverly Hills CA,
1992: Gallery Four Artist Show A Way To L.A Sunset Blvd, Hollywood, CA.
1992: Lam Son Co, Gallery Saigon, one man show “Land of the Meditation”
1993: Vietnamese Fine Art Assocciation Gallery, Saigon “From the Peace”.
1997: Central Art House 29 Hang Bai Hanoi “Saved from the Silence 2″, one man show in Orange Country California. And now,
2000: “The mouvement of Heaven and Earth”, M. T. Art Studio, new abstract oil paintings, 11B Thai Van Lung, HCM City, Vietnam.
Lecturer at the Tang Bat Ho School (Bong Son -1961) Phan boi Chau School (Phan thiet – 1962) Vo Truong Toan School (Sai Gon from 1962 to 1967) Hue Fine Art School (1968) Saigon Art Decorative College (1969 -1972).
1993: Vietnamese Fine Art Assocciation Gallery, Saigon “From the Peace”.
1997: Central Art House 29 Hang Bai Hanoi “Saved from the Silence 2″, one man show in Orange Country California. And now,
2000: “The mouvement of Heaven and Earth”, M. T. Art Studio, new abstract oil paintings, 11B Thai Van Lung, HCM City, Vietnam.
Lecturer at the Tang Bat Ho School (Bong Son -1961) Phan boi Chau School (Phan thiet – 1962) Vo Truong Toan School (Sai Gon from 1962 to 1967) Hue Fine Art School (1968) Saigon Art Decorative College (1969 -1972).
Award:
1960: Bronze Medal “National Award for Fine Art.
1962: Gold Medal” National Award.
The First Vietnamese Artist to be acknowledged by Art research of Ubrary Los-Angeles Country Museum of Art
“Tranh trừu tượng (Abstractionnisme) ở một khía cạnh nào đó rất gần với toán trừu tượng. Nó không hẳn nói về một cái gì cụ thể mà nói về tất cả. Khi áp lên nó một suy nghĩ một đối tựơng thì nếu logic trừu tượng đúng, sẽ dẫn đến kết quả hợp lý. Tranh của Lâm Triết có lẽ là những logic đúng nên đã làm nền cho những rung động của con tim và khối óc của những người thưởng thức. ....”
NGUYỄN MỘNG GIAO
GS.TS. Viện Khoa học công nghệ VN
Tranh Lâm Triết, xem... và tranh cãi
NGUYỄN TRỌNG HUẤN Tôi không được biết Lâm Triết những ngày anh tung hoành trong thế giới hội họa miền Nam trước 1975. Nghe nói, anh đoạt được giải này, giải nọ, đã định danh, định vị trong giới nghề nghiệp đông đảo của mình. Mặt bằng giao du của anh với những người cùng trường, cùng lứa trong và ngoài nước, đã khuất hoặc còn đến bây giờ, thấy có tên nhiều người tài hoa, nổi tiếng.
Từ ngày về lại “CÕI AN BÌNH” (Tên cuộc trưng bày tại Tp HCM- 1993) quen thuộc, anh làm việc như một người nhịn đói lâu ngày, nay ăn trả bữa.
Đắm chìm trong thế giới của hoài niệm, của hồi ức, của suy tưởng, anh dàn trải lòng mình lên mặt vải. Những bức tranh anh như tiếng hú gọi đàn của con thú hoang lạc giữa rừng già cô quạnh, tha thiết đối thoại, trao gửi, giao lưu, với một nhân loại mà anh hằng yêu mến. Có phải vì vậy mà anh cô đơn? Cái cô đơn bản thể, hằng hữu nơi kẻ độc hành trong hành trình nghệ thuật.
Tiếp xúc, cảm nhận đầu tiên rất dễ nhận biết nơi anh là một thái độ sống chân thành, từ bản chất. Chân thành trong ứng xử với đời, với bản thân và trên hết chân thành với nghề, với “cuộc chơi một đời “mà anh đã tự mình ràng buộc.
Đắm chìm trong thế giới của hoài niệm, của hồi ức, của suy tưởng, anh dàn trải lòng mình lên mặt vải. Những bức tranh anh như tiếng hú gọi đàn của con thú hoang lạc giữa rừng già cô quạnh, tha thiết đối thoại, trao gửi, giao lưu, với một nhân loại mà anh hằng yêu mến. Có phải vì vậy mà anh cô đơn? Cái cô đơn bản thể, hằng hữu nơi kẻ độc hành trong hành trình nghệ thuật.
Tiếp xúc, cảm nhận đầu tiên rất dễ nhận biết nơi anh là một thái độ sống chân thành, từ bản chất. Chân thành trong ứng xử với đời, với bản thân và trên hết chân thành với nghề, với “cuộc chơi một đời “mà anh đã tự mình ràng buộc.
Cũng không biết từ đâu, anh chọn cho mình một hướng đi, một tiếp cận, một phương thức để bộc bạch tâm tư? Lâm Triết không vẽ cái mà mắt thường nhìn thấy. Hướng vào bên trong, anh diễn đạt cái thế giới mà mình chiêm nghiệm và cảm nhận.
Triền miên, đắm chìm, độc thoại trong cõi nội tâm, một nội tâm hoàn toàn tự do, đầy ắp suy tư và không thôi trăn trở. Để diễn đạt, Lâm Triết chọn cho mình một ngôn ngữ riêng. Tranh anh, không có người, không có vật, không có những thực thể được quan sát bằng thị giác.
Tháo tung những đường viền bố cục, vứt bỏ luật viễn cận khuôn sáo, không tuân thủ những quy tắc hình thể kinh điển, đối tượng trong tranh anh là thế giới ký ức, liên tưởng, của cảm nhận và lý giải.
Với anh, thế giới này “Hình như Đẹp”?! Một “Cái Đẹp” mê hoặc, quyến rũ! Đẹp đến mức không thể chịu được, không thể cầm lòng, không thể không nói ra, không thể không thông báo, truyền đạt tới đồng loại. “Cái Đẹp” trong tranh anh xét cho cùng vẻ như là cái đẹp của chữ “Thiện”, chữ “Tâm”? Hay một chữ “Tâm hướng Thiện”?
Hình như anh không hề có ý định miêu tả cách quan sát hình thể của một buổi chiều nắng tắt trên cánh đồng lúa vàng đang ngả mầu sẫm tím; cũng không định mô tả buổi sáng rực rỡ trong một bình minh xôn xao; cũng không là cái hấp lực mê hồn của một dòng suối trong róc rách len qua ghềnh đá xanh rêu nơi một khu rừng vắng. Mà là tất cả, mà như cùng lúc.
Lại nữa, hình như Lâm Triết muốn diễn đạt một cái gì cao hơn, rộng và hơn và sâu hơn mà anh đã và đang cảm nhận?
Về cái sắc xanh thao thiết của biển rộng trời cao anh từng chiêm bái trên những nẻo đường nhân loại mà anh đã đi qua? Hay cái làn sương mỏng tang giăng nơi đầu núi một sáng chớm thu đánh thức trong anh hoài niệm thiết tha về một không gian bên dòng sông nhỏ thủa ấu thơ nơi chốn quê nhà? Có phải cái màu đỏ son rực rỡ chói chang nơi những triền núi vùng Colorado vẫn ám ảnh trong anh cảm giác kinh ngạc đến bàng hoàng trước một thiên nhiên dữ dằn nơi miền tây nước Mỹ? Cái màu xanh huyền hoặc của biển cả miền Trung hoang vắng một chiều lãng đãng cuối đông hớp hồn lữ khách? Ấn tượng khó phai khi đứng ở đầu làng nhìn về hướng Tây nơi lớp lớp Trường Sơn bồng bềnh trong mây chuyển màu từng khoảnh khắc theo quỹ đạo của mặt trời? Hay sông Hương mơ màng những chiều sương khói mông lung phủ mờ mối tình đầu đời vương vấn nơi một nàng Tôn nữ?
Hình như không phải! Hình như không chỉ thế! Hình như anh đã vượt qua, đã thoát ra, không còn bị chi phối bởi những ràng buộc trong tương quan hình thể, đối tượng của con mắt và những cảm xúc riêng tư. Cái anh muốn thú nhận với công chúng là trong anh, nơi đáy sâu tiềm thức cõi nội tâm người nghệ sỹ, mọi thực thể, mọi động thái chốn nhân sinh đều chuyển vị sang ngôn ngữ của thế giới sắc màu với hệ từ vựng và ngữ pháp của riêng anh. Ở đấy có đủ vui, buồn, thổn thức, xôn xao, đau đớn và hạnh phúc, dằn vặt và suy tư, vỡ oà niềm hoan lạc và dường như vẫn lẩn quất đó đây cái mệnh đề muôn thuở: “Ai? Từ đâu đến vậy? Rồi sẽ về đâu?”. Và anh muốn nói với mọi người điều anh cảm nhận từ thế giới này rằng tất cả những điều ấy đang hằng hữu trong anh bằng bản hoà tấu của sắc màu, trong những giấc mơ lộng lẫy.
Ở đây, một chừng mực nhất định, hé lộ những trầm tích bất tự giác của văn hoá cội nguồn, của truyền thống phương Đông. Bỏ qua tính chính xác toán học, quên đi luật viễn cận kinh điển trường lớp và thói quen mổ xẻ, phân tích đối tượng của khoa giải phẫu thẩm mỹ để đề cao năng lực của suy tưởng, để chiêm nghiệm và đốn ngộ, để truyền đi thông điệp về khoảnh khắc và vĩnh hằng, rằng thế giới sao mà lộng lẫy, mênh mang, còn kiếp người thì trầm luân, ngắn ngủi?
Trong lời tự bạch, khi nói về cảm hứng sáng tác, Lâm Triết khẳng định:
“Anh đứng ngoài chính tri?!”. Điều đó là có thể. Nhưng anh không thể đứng ngoài cuộc đời. Chính trị không phải là tất cả, nhưng cũng là một phần của cuộc sống và dù muốn, dù không, khó mà thoát khỏi sự chi phối, tác động của nó, có khi chỉ là vô thức.
Trong khát vọng muốn vượt thoát ra ngoài, muốn bay lên thật cao, ném một cái nhìn xuống nơi trần thế, Lâm Triết không nhìn thấy thế giới này thuần khiết chỉ một màu xanh ngọc bích. Trong tranh anh, bên những mảng lớn mượt mà của má hồng thiếu nữ, của đồng quê lúa non, của rặng núi xa mờ hư ảo, còn có những mảng màu vụn vỡ, những xung đột khốc liệt, những bóng tối rạn nứt, rối rắm vv... Rất có thể khi cầm cọ trát màu lên mặt vải, người họa sỹ lòng tự nhủ lòng: “Ta tự do, hoàn toàn tự do, thoát ra ngoài mọi khuynh hướng, mọi ràng buộc!” Nghĩ thế và tưởng thế! Nhưng làm sao vượt thoát ra được khi ngũ quan vẫn còn hoạt động, khi vẫn lưu trú trong lòng xã hội. Xung đột ý thức hệ, chiến tranh ở Trung Đông, nghèo đói ở châu Phi, khủng bố lan tràn và ngay cả trong lòng nước Mỹ vv... và cũng chẳng phải tìm đâu xa, cơn vật vã để thoát khỏi bần hàn và tồn tại như một dân tộc có nhân phẩm của người Việt , cạnh những mảng sáng không thiếu gì mảng tối đang vây bọc chúng ta hàng ngày bằng những phi lý hữu căn hoặc vô căn.
Tác giả đang đứng trên mặt đất này, trên mặt một đại dương đầy sóng (chữ dùng của Thái Bá Vân - NV), chứ không phải đang bay trên một khoang tàu vũ trụ để chỉ thấy địa cầu là một hành tinh xanh lơ chầm chậm lướt trong không gian. Dù không có ý định, nhưng thực tế đó, kể cả thực tế chính trị, không thể không ánh xạ vào ý thức của tác giả và từ ý thức đi vào tác phẩm là một tất yếu mà tác giả không hề nhận biết.
Chính vì vậy mà tranh Lâm Triết đẹp, cái đẹp chín chắn của một người trưởng thành, nhưng cũng đầy những hoài nghi, vật vã để nhận thức cuộc sống, một cuộc sống hấp dẫn mà anh đang dấn thân với tất cả sự dè dặt, thận trọng của một người từng trải.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, Chủ nghĩa Trừu tượng (Abstractionnisme), cũng như nhiều trường phái hội hoạ khác như Cổ điển, Tân Cổ điển, Ấn tượng, Biểu hiện, Đađa, Dã Thú, Lập thể vv... kế tiếp, thay nhau trong đời sống nghệ thuật theo quy luật phủ định là hệ quả của đời sống triết học ở châu Âu, nảy sinh từ cuộc sống tư tưởng và văn hoá của xã hội đã sinh ra chúng. Vì lẽ đó, người nghệ sỹ khi du nhập nó vào đời sống Việt, có một sứ mệnh lớn lao và không kém phần gian khó là cần thâm nhập, đắm chìm vào nó, để rồi tiêu hoá và bản địa hoá nó. Nếu hiểu như vậy thì hành trình hội hoạ của Lâm Triết xem ra còn dài, rất dài.
Hội hoạ thuần khiết, khi đạt đến đỉnh cũng gần như một thứ “Đạo”, như “Cung đạo”, “Kiếm đạo”, “Trà đạo”, “Hoa đạo” vv... Bên cạnh việc làm chủ kỹ năng thực hành, người vẽ phải đạt đến trạng thái vô ngã, trạng thái satori (giác ngộ), nằm phía bên kia ranh giới của tự ngã, quên đi cọ vẽ, khung tranh, quên đi ngay chính bản thân mình, để chỉ còn lại một ý niệm duy nhất, “Ý niệm về Cái Đẹp”, cũng như cung thủ phải gạt ra ngoài những ý thức về phương tiện, công cụ, để hoá thân vào đích bắn.
Người hoạ sỹ khi đạt tới trình độ của vô thức, đạt đến mức của “Cái rỗng không” thì ý tưởng sáng tác có thể loé sáng chỉ trong một “sátna” đốn ngộ - bằng trực giác - để mở ra một chân trời mới, “chân trời của sáng tạo”. Chính vì vậy, người hoạ sỹ không thể giấu mình.
Hội họa đích thực nói riêng và nghệ thuật nói chung không có chỗ cho thói quen làm dáng, mà là tấm gương trung thực nhất phản chiếu toàn bộ bí mật nội tâm, là bức thông điệp quan trọng gửi đến người xem. Vì vậy, nghệ thuật nghiệt ngã đòi hỏi người nghệ sỹ bộc lộ tới tận cùng toàn bộ những rung động sâu kín của tâm hồn, không một mảy may dối trá.
Lâm Triết không bao giờ đặt tên cho những bức tranh. Tác giả hoàn toàn tự do trong cảm thức và diễn đạt, còn người xem cũng hoàn toàn tự do trong tiếp nhận. Cuộc giao lưu, sự đồng cảm, không chỉ căn cứ vào những tín hiệu mà người vẽ muốn truyền đạt, thông báo, mà còn căn cứ vào kinh nghiệm, ký ức của bản thân người xem. Từ một bức tranh cụ thể, người xem có thể cảm nhận khác nhau - thậm chí hoàn toàn khác - dựa vào kinh nghiệm cá nhân rút ra từ vốn sống của chính mình. Người vẽ và người xem đều tự do. Nếu một yếu tố nào đó có khả năng tác động - và chi phối - thì có lẽ chính là tâm trạng, thậm chí trạng thái tinh thần và thể chất cá nhân vào thời điểm tiếp xúc tác phẩm.
Như vậy là cùng một bức tranh, cảm nhận có thể đổi thay, đối với từng người, thậm chí từng lúc. Phải chăng như là sự hoán vị của “Tĩnh” và “Động”, “Tĩnh” là những rung động mà tác giả định hình trên tranh, còn “Động” là trạng thái tâm thức, thuộc người xem. “Động “ Tĩnh” lúc này không còn là việc của thị giác, mà thuộc về “Tâm cảm”. “Tâm tĩnh” thì như mặt hồ lặng sóng, phản chiếu mây trời, “Tâm động” thì như mặt nước xôn xao, thế giới vụn vỡ. Xác suất tâm giao tùy thuộc “Cơ duyên”. Cái Duyên ở đây là cái duyên Bá Nha - Tử Kỳ. Tri âm - tri kỷ.
Sắc màu trong tranh Lâm Triết lặng lẽ mà như có tiếng chim hót, suối reo, có tiếng thét gào của bão tố lướt qua rừng già, và cả tiếng cười trong như pha lê ngọc nữ bên gối mềm một đêm thu ẩm ướt. Và để cảm nhận, buộc lòng phải làm quen với ngôn ngữ đặc thù của loại hình nghệ thuật mà mình thâm nhập.
Tranh Lâm Triết gần với những tác phẩm âm nhạc không lời. Những hoà sắc lúc dữ dội, gầm rú, khi êm ả mượt mà, không hình thể hoặc biến mất hình thể để dựng nên một hình tượng, tạo nên một cảm xúc tổng hoà, như những hoà âm dịu dàng trong một bản Sonate vẽ ánh trăng khuya đến những hợp âm dữ dội của những nhạc sỹ tài ba viết về bão tố. Tranh Lâm Triết là một Symphonie diễn tấu với một dàn khí nhạc đồ sộ, không giống những ca khúc có sự trợ giúp của ca từ.
Hành trình nghệ thuật và hành trình cuộc sống vốn là một cặp song hành tiệm cận. Còn kẻ thù của nghệ thuật không ai khác hơn là sự lặp lại nhàm chán, kể cả lặp sự thành công của chính mình. Có lẽ vì vậy mà trong hành trình lịch sử, nghệ thuật tạo hình nói chung và hội họa nói riêng đã từng dấn thân vào biết bao cuộc phiêu lưu kỳ thú. Các thứ chủ nghĩa, mang đuôi “isme” thay nhau ra đời, cáo chung, phát kiến, rồi để tiếp tục phát kiến, cáo chung. Cứ mỗi lần như vậy, nghệ thuật lại tự nâng mình lên, dấn thân vào những thử nghiệm mới thông qua thẩm định của cuộc sống đã đổi thay, đã được nâng cao, để rồi đi tiếp. Cuộc rượt đuổi ấy giống như cuộc chơi của Sơn tinh - Thủy tinh, qua đó, cả cuộc sống, cả nghệ thuật đều phải khẳng định một tầm cao mới và đứng trước một yêu cầu luân hồi nghiệt ngã: “Phủ nhận và Sáng tạo”, không ngừng tự làm mới mình. Chính vì vậy mà cuộc sống này luôn đổi thay, sống động, phong phú, và... thật vui.
Thoát ra khỏi ràng buộc của hình thể, của quy ước lỗi thời, nghệ thuật trở nên tự do, phóng khoáng, nhiều khả năng hơn để diễn đạt từ những rung động tế vi sâu thẳm trong tâm hồn của mỗi con người, đến những chấn động lớn lao có tầm vóc xã hội, nhân loại. Mà trong phạm trù này, mỗi con người đã là một vũ trụ rồi.
Lâm Triết không đặt tên cho từng bức tranh, anh đặt tên cho từng cuộc trưng bày, những lần giao tiếp.
Hành trình “VƯƠN LÊN TỪ THẦM LẶNG” (Bourbank - California - 1991) đánh dấu cuộc đào thoát của anh sau 15 năm lưu lạc xứ người, đánh mất quê hương, đánh mất cảm xúc, đánh mất chính mình, đến “CÕI TRẦM TƯ” (Tp HCM - 1992) như một vật vã để tìm lại bản thân. Còn phải băng qua “SAU CƠN GIÔNG” (Vaala - California - 1993) để tìm lại một quê hương tưởng chừng thất lạc.
“TỪ CÕI AN BÌNH” (Tp HCM- 1993 - California - 1993) tên một phòng tranh anh trưng bày ở Tp Hồ Chí Minh năm 1993 được công chúng đón nhận, nhưng cách chọn tên đã bị một số người, kể cả bạn bè cùng giới phản ứng dữ dội lúc anh trưng bày ở Cali (Hoa kỳ) khi không đồng tình với cuộc lựa chọn của anh!
“LẮNG ĐỌNG” (Hà Nội -1997) là tên cuộc ra mắt đầu tiên của anh trước công chúng thủ đô.
Cuộc triển lãm lần ấy không xin được giấp phép vào phút chót(!?). Anh dựng tranh nơi chân tường cạnh những lẵng hoa chào mừng bạn bè lỡ mua. Trong sổ ghi cảm tưởng, một người bạn, G.S Tương Lai, một nhà xã hội học viết:
“Tôi nghĩ rằng “LẮNG ĐỌNG” sẽ đọng lại sâu trong lòng Hà Nội vốn rất giàu văn hoá và trân trọng những tấm lòng.
Người tử tế của Hà Nội biết rằng Lâm Triết sẽ còn có dịp đến với người Hà Nội sâu lắng hơn.” TL - 14.4/1997
Dương Tường, một người bạn, hoạt động trong nhiều lĩnh vực văn học- nghệ thuật ở thủ đô ghi trong sổ cảm tưởng:
“Lại một phòng tranh không mở cửa! Song để lại cho bạn bè Hà Nội một cái gì để nhớ, như cái tên “LẮNG ĐỌNG” của nó.
Thay vì tác giả xin lỗi khách mời vì không khai mạc được, những người giới elite Hà Nội phải xin lỗi Lâm Triết vì sự kiện đáng tiếc này.
Âu cũng là một kỳ ngộ. DT
Còn Thái Bá Vân, một cây bút phê bình - nghiên cứu nghệ thuật hàng đầu của Hà Nội viết:
“LẮNG ĐỌNG” nhưng mà rạo rực, xôn xao.
Chúng ta đâu có đứng trên mặt đất, chúng ta đang đứng trên mặt đại dương đấy chứ, và gió bão dội vào người nghệ sỹ nhiều hơn cả.
Thế mà lắng đọng, thế mà âm thầm.
Tôi xem tranh Lâm Triết dựng ở chân tường Hà Nội, chứ không phải treo trên cao.
Tôi hiểu thêm thế nào là thân phận. Hà Nội, 14/4/1997
T.B.V
Sau những chấn động ấy, tưởng như anh sẽ “Gác bút - Rửa tay”? Nhưng không! Gần mười năm sau, một lần nữa Lâm Triết lại tái sinh “TỪ GIỌNG HÁT EM” (Tp HCM - 2006) vào TUỔI BẢY MƯƠI.
Triển lãm lần này của “Ông già Triết” tìm được sự đồng cảm từ nhiều phía.
Một nhà Khoa học, một GS.TS ngành vật lý nguyên tử ghi vào sổ cảm tưởng:
“Tranh trừu tượng ở một khía cạnh nào đó rất gần với toán trừu tượng. Nó không hẳn nói về một cái gì cụ thể mà nói về tất cả. Khi áp lên nó một suy nghĩ một đối tựơng thì nếu logic trừu tượng đúng, sẽ dẫn đến kết quả hợp lý. Tranh của Lâm Triết có lẽ là những logic đúng nên đã làm nền cho những rung động của con tim và khối óc của những người thưởng thức. ....”
NGUYỄN MỘNG GIAO
GS.TS. Viện Khoa học công nghệ VN
Và những dòng ghi vội vã nguệch ngoạc sau đây:
“Hôm nay cháu rất vui mừng khi được sở hữu một bức tranh của chú Lâm Triết. Khi xem tranh của chú, cháu cảm thấy tâm hồn chú rất trẻ, lãng mạn, bao la, còn phần cháu cảm thấy bay bổng khi xem tranh của chú. Cháu kính chúc chú Lâm Triết vui khoẻ, trẻ và sáng tác mãi”. Tp HCM 15/9/2006.
Tác giả của những dòng cảm tưởng trên để lại một chữ ký lằng ngoằng, không rõ tên, là chủ nhân một tiệm hớt tóc nhỏ, đã tần ngần hai ngày trước một quyết định: “Cháu thích bức tranh này lắm nhưng cháu không có tiền, tranh chú đến 3000$ lận, mà cháu chỉ có 500$, cháu muốn mua về treo để cho khách của cháu đến cắt tóc cũng được ngắm tranh của chú!”.
Có lời khen nào xúc động và cao sang hơn lời khen trên đây dành cho một hoạ sỹ?
Và tất nhiên tác giả bán liền. Người bán và người mua, cả hai đều rưng rưng(!)
Sau năm mươi năm đắm chìm trong thế giới màu sắc, và mười lăm năm lưu lạc, người hoạ sỹ già đang có trong tay một gia tài nghệ thuật đồ sộ.
Nhưng cái còn đồ sộ hơn, qúy giá hơn là anh vẫn đang sở hữu một năng lực sáng tạo tràn trề, lai láng sức xuân.
TP. Hồ Chí Minh, giữa mùa Thu 2006
N.T.H
(nguồn: TCSH số 215 - 01 - 2007)
Triển lãm hội họa Từ giọng hát em của họa sĩ Việt kiều Lâm Triết
Ngày 8.9.2006, Hội Mỹ thuật TP.HCM đã khai mạc cuộc triển lãm hội họa của họa sĩ Việt kiều Lâm Triết tại Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM (số 97A Phó Đức Chính, Q.1, TP.HCM). Họa sĩ Lâm Triết sinh tại Bồng Sơn – Bình Định, nguyên giáo sư trường Cao đẳng Mỹ thuật và Trang trí Gia Định - Sài Gòn từ năm 1969. Sau năm 1975, ông định cư tại Los Angeles, bang California - Hoa Kỳ. Ông đã có nhiều cuộc triển lãm tranh ở trong nước và quốc tế. Ông đã nhận huy chương vàng quốc gia năm 1962 với bức tranh Ngựa, và là họa sĩ VN đầu tiên được ghi tên vào thư viện của Viện Bảo tàng Nghệ thuật Los Angeles năm 1991. Phòng triển lãm “Từ giọng hát em” giới thiệu 50 bức tranh trừu tượng tiêu biểu, được chọn từ hàng trăm bức tranh sáng tác từ năm 1992 đến năm 2006 tại VN. Quê hương và tình yêu là nguồn sáng tác chủ đạo của họa sĩ Lâm Triết. Đây là lần triển lãm thứ 5 sau các cuộc triển lãm: Cõi trầm tư, Từ cõi an bình, Lắng đọng và Sau cơn giông. Tranh của họa sĩ Lâm Triết không hình thể, không tên, được kết hợp theo một qui luật rất riêng về màu sắc, đường nét, bố cục. Phòng tranh thu hút đông người xem và kéo dài đến ngày 15.9.2006.
THANH HÀ
Nguồn:
Phỏng vấn của tạp chí Bách Khoa số 132 ngày 1-7-1962:
LÂM-TRIẾT
Tên thật: Nguyễn-Tấn-Triết.
Sanh ngày 15-12-1938 (theo khai sanh, thì 1937) tại thôn Trung-Lương, xã Bồng-Sơn, quận Hoài-Nhơn, tỉnh Bình-Định (Trung-Việt).
Học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế (1957-59), trường Cao-đẳng Mỹ-thuật Quốc gia (1959-60).
Đã dự các cuộc Triển lãm mùa Xuân canh-tí (1960), mùa Xuân tân-sửu (1961), mùa Xuân Nhâm-dần (1962).
Họa phẩm “Bến tàu” được nha Mỹ thuật học vụ chọn gởi dự cuộc Triển lãm Văn hóa Việt-Nam tại Mỹ-quốc (1960).
Họa phẩm “Lưới” cũng được nha Mỹ-thuật học vụ chọn gởi dự cuộc Triển lãm lưỡng niên của viện Mỹ thuật cận đại Pháp tổ chức ở Paris (1961).
- Triển-lãm tại phòng Triển lãm Đô-thành (16-5 - 14-5-1962).
Đã được:
- huy chương Đồng Triển lãm mùa xuân năm 1960 với hoạ phẩm “Triều lên”
- huy chương vàng Triển lãm mùa Xuân năm 1962 với họa phẩm “Ngựa”
Họa sĩ chỉ còn rảnh có buổi trưa (chiều sẽ bận rộn với việc thu dọn phòng Triển lãm, rồi lên đường về Trung) nên tôi hẹn đến quấy rầy anh lúc 13 giờ rưỡi.
Khu Tân-Định, một con đường hiền, một ngõ uốn quanh và nhà anh trọ ở gần khoảng giữa. Im lặng hoàn toàn và cũng nóng bức lan tràn, nên khi tôi bước vô nhà, thấy anh đang ở trần toan choàng áo rộng, là tôi vội khoát tay, rồi tự tiện cởi áo sơ mi ra, chỉ có cái may-dô mỏng che nửa mình trên, giống như hai bạn thân anh ở đó, “hai cánh tay của anh” trong cuộc tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên. Rồi bốn chúng tôi xuống nhà bếp, quây quần chung quanh cái bàn ăn tròn mà chuyện trò thân mật.
Giọng anh âm ấm, cử chỉ anh điềm đạm.
- Tôi học hai năm đầu ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế. Tôi vẽ theo lời thầy dạy, phương pháp của nhà trường, chẳng nói thì anh cũng biết đó là đường lối Tân cổ điển. Tôi bắt đầu chán phải đi từng bước theo con đường mòn vạch sẵn, và tôi xin vào trường Cao đẳng Mỹ thuật quốc gia ở Gia Định học tiếp, mặc dầu ở Huế, tôi là một trong những sinh viên được chú ý nhất vì đã tỏ ra siêng năng, chăm chỉ. Xin vào Sàigòn học, tôi muốn đổi bầu không khí lờ đờ của chốn Thần Kinh, lòng hằng mong sẽ được học những gì mới, lạ. Nhưng tôi thất vọng.
- Anh thất vọng, nhưng anh có trách ai không?
Người họa sĩ trai trẻ này đưa tay đập mạnh một con muỗi chích sau lưng rồi cười, buồn bã:
- Trách ai bây giờ, anh? Chương trình dạy đã sẵn thế, các thầy dạy theo chương trình, thì mình chỉ có biết trách mình thôi.
- Anh đã qua mấy giai đoạn mới đến giai đoạn bây giờ?
- Thật ra thì tôi không nuôi sẵn ý định mình sẽ đi theo lối này, rồi theo lối nọ. Tôi chỉ thấy lối mình đeo đuổi tới một lúc nào đó, không còn hợp với mình, thì đi tìm lối khác đúng với sự đòi hỏi, sự khao khát của mình rồi sau có dịp kiểm điểm lại, mới thấy mình đã qua những chặng đường đó.
- Anh có thể cho biết...
- Tôi khởi đầu vẽ theo Ấn tượng, rồi bắt qua Dã thú để đi đến Biểu tượng, và giờ thì là bước vào Trừu tượng.
- Thế anh thụ giáo ai trong giai đoạn mới này?
– Không có thụ giáo ai hết, anh ạ. Nhưng tôi xem nhiều loại tranh theo phái này, tranh của Picasso, của Miro, của Nhật, của Trung Hoa... và đọc những sách nói về môn này. Hiện tôi đang tìm kiếm trong cái Trừu tượng, không biết tôi sẽ ở trong giai đoạn đặc biệt này trong bao lâu, hay là tôi sắp ngoặt sang con đường khác.
- Tranh anh triển lãm, theo ca-ta-lô, sáu mươi chín bức, chẳng hay anh bán được mấy bức?
- Có bốn, anh à. Và những người mua đó là những người ngoại quốc.
- Nghĩa là công chúng xem tranh trong nước không hiểu được tranh anh?
- Không hiểu và cũng không thích nữa. Có lẽ nói chưa hiểu và chưa thích thì đúng hơn. Có nhiều người hỏi tôi: “Anh vẽ cái này, tượng trưng cho cái gì? Anh vẽ như thế ni, là muốn nói cái chi?" Làm tôi phát cáu, có lần phải gắt: "Tôi quên không biết lúc vẽ tôi muốn tưởng tượng cái gì muốn nói cái cái chi. Giờ thì anh muốn nó nói cái gì, tượng trưng cái chi cũng được.”
- Thế thì, theo anh, tranh Trừu tượng không thể giảng giải?
- Có thể giảng giải được chớ. Nhưng mà khó nói. Vả lại, người xem tranh phải thấu hiểu - không nhiều thì cũng ít - lịch sử Hội họa, từ Cổ điển đến Trừu tượng, phải làm bạn với sách nói về Vẽ, với tranh khá nhiều, để dễ cảm thông với họa sĩ. Được thế, nhìn vào tranh, người xem sẽ có cảm giác vui hay buồn, hoặc buồn vui lẫn lộn. Ta có thể nhìn bức tranh với cặp mắt khác với họa sĩ, và hiểu khác nữa. Họa sĩ có thể vẽ tượng trưng con cá, ta cho đó là con rắn, cũng chẳng sao.
— Vậy khi vẽ, anh có theo một kỹ thuật nào chớ?
- Cái kỹ thuật, do mình học lấy đã đành, và cũng do sự làm việc, sự tìm kiếm của riêng mình trong giai đoạn trước nữa. Tại sao tôi cho màu trắng ở chỗ này, mà lại cho màu đen ở chỗ kia? Tại vì cho màu khác, thì tôi thấy khó chịu, thấy xốn xang con mắt. Tôi mà biết được mình phải dùng màu gì, dùng đường nét gì, bỏ chi tiết này, lấy chi tiết kia trong một bức tranh, là nhờ ở trực giác.
- Trực giác?
- Phải, trực giác, anh à. Mà trực giác ta bén nhậy, là nhờ ta đã giáo dục nó từ khi bắt đầu học vẽ cho đến ngày nay.
- Giảng giải tranh Trừu tượng là điều gần như kỵ đối với họa sĩ, nhưng anh thử giảng sơ qua cho tôi nghe về bức tranh “Tĩnh vật” này mà anh cho là anh ưng ý nhất.
- Tôi vẽ một bình hoa trên mặt bàn tròn, một cây đèn, những mảnh giấy và dụng cụ văn phòng. Cốt ý tôi là muốn tìm cái lạ, trong bố cục, trong màu sắc và trong đường nét. Thú thật với anh là trong bức tranh này, tôi không gửi gắm gì cả. Phông: đen, màu tôi dùng rất ít, có thể phân biệt được các màu sau đây: nâu, hồng, xanh nhẹ. Tôi thấy sự giản dị trong đường nét và trong màu sắc. Xin nói với anh là bức tranh này, tôi thích nhất phần tôi, nhưng không được người xem tán thưởng.
- Trên đây là loại “Tĩnh vật”, còn loại phong cảnh, anh thích bức nào?
- Bức “Hồ Đà Lạt”. Năm rồi, tôi ở Đà-Lạt một thời gian. Tâm trạng tôi lúc đó buồn. Chiều chiều, tôi thích đi dạo quanh hồ. Cảnh núi rừng quanh đây cho tôi màu xanh. Rồi trời xanh, những chòm cây xanh chiếu xuống mặt hồ. Màu xanh do đó là màu chánh. Rồi đến màu hồng, chiều tà, hồng hồng ánh đèn điện bật lên, màu hồng. Tôi vẽ vừa xong thì trời chạng vạng: mặt trời vừa lặn, đèn cũng vừa bật lên. Cảnh này, tôi phải đi qua nhiều lần, rồi mới vẽ sau. Vẽ cảnh, thường tôi không ghi chú gì, cũng không phác họa chi cả. Tôi thâu nó vào hồn tôi, rồi khi nó đậu hẳn là về nhà, tôi vẽ.
- Thế anh vẽ xong bức tranh này trong bao lâu?
- Thời gian tập trung ý nghĩ lại để vẽ có đến mấy tháng. Tôi muốn nói nhiều trong này lắm, nhưng rồi cũng phải gặp cái cảnh “Muốn nói thì nhiều, mà nói được chẳng bao nhiêu!”
- Còn vẽ tranh người?
- “Thiếu nữ nhà quê” là bức tôi thích. Tôi cho phông màu nâu, một màu quê mùa. Thiếu nữ nơi dân dã này rất ngây thơ. Nàng bẻ hoa một cách tự nhiên, không như các cô gái thị thành bẻ hoa để làm dáng. Tôi muốn diễn cái đẹp của sự hồn nhiên.
- Anh bước vào cái thế giới Trừu tượng, hẳn cũng có lý do...
- Đó là lý do: lối này nói được những cảm xúc bên trong của tôi nhiều hơn các lối khác. Và tôi cắm đầu đi mãi con đường này, mặc dầu thiếu phương đến. Được có cái là những tác phẩm giờ đây không làm tôi mau chán như xưa kia.
- Anh có dự định gì gần đây?
– Tôi định tháng chín tới đây, trình bày tranh và tượng ở Pháp văn Đồng minh hội.
- Có cả tượng nữa à?
- Có cả tượng. Tôi đang tạc tượng người và tạc tĩnh vật. Tạc trong đá Non Nước, đá này tạc tượng tốt vô cùng. Để chừng ấy anh đi xem sẽ thấy.
- Dự định là thế, còn hy vọng?
Mắt người trai có vẻ hiền lành ấy bỗng tròn và sáng lên.
- Hy vọng độc nhất của tôi là được đi ra ngoại quốc, rõ ràng hơn là được đi sang Pháp và Ý, quê hương của Tự-do và của Nghệ thuật. Để thấy cho đã mắt, để học hỏi cho tới nơi. Chớ ở trong nước thì dầu bền chí, nhẫn nại đến mức nào cũng đâm ra chán nản. Anh hỏi tôi về hiện tình Hội họa nước nhà à? Âm u lắm, anh ơi! Anh muốn một bằng chứng. Văn chương, giải nhất được 80.000$. Hội họa giải nhất chỉ có huy chương bằng Vàng. Triển lãm Hội họa mùa Xuân năm ngoái, huy chương bằng vàng hẳn hoi, nghèo đem bán cũng được ít ngàn. Năm nay, huy chương bằng Vàng xi, mà cũng chưa được lãnh. Năm ngoái, có cuộc phát giải long trọng, có mời đại diện các cơ quan văn hóa cùng báo chí. Năm nay, mùa hạ sắp hết mà vẫn êm ru. Cho nên tuy tôi giờ say mê vẽ, nhưng nếu sau này con tôi mà cầm tới cọ thì, a lê, trăm roi cái đã. Anh hỏi lúc vẽ có người yêu với người bạn bên cạnh, thích “cái nào” hơn? Người yêu thì kích thích nhiều, nhưng dễ làm mình bực tức, có một người bạn biết cái hay cái dở của mình, thẳng thắn phê bình thì thích hơn. Anh hỏi khi sáng tác, tôi thích gì? Có bầu không khí lành lạnh, có cà phê nóng, có thuốc thơm, có nhạc êm êm và thỉnh thoảng có tách trà trong sương sớm. Còn giờ, trưa thiêu đốt, mời anh cạn ly nước lọc này để cùng bọn trẻ chúng tôi nuốt cho trôi, đố anh trôi cái gì..
– Thì còn cái gì hơn là cái huy chương Vàng… xi... chưa lãnh!
NGUYỄN-NGU-Í viết lại
Bách Khoa số 132 ngày 1-7-1962
Họa sĩ Nghiêu Đề & Lâm Triết
Phan Nguyên & Lâm Triết
1993
Phan Nguyên & Lâm Triết
1993
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.