Ngự Thuyết
Tôn Thất Ngự
(6/9/1935 Huế - ........)
Nhà văn
Tiểu sử
Ngự Thuyết tên thật là Tôn Thất Ngự. Sinh ngày 6 tháng 9 năm 1935 tại Huế.
Quê quán: Làng Nam Phổ, huyện Phú Vang, Thừa Thiên-Huế. Trưởng thành, sống ở Sài Gòn.
Quê quán: Làng Nam Phổ, huyện Phú Vang, Thừa Thiên-Huế. Trưởng thành, sống ở Sài Gòn.
Học tại Đà Lạt, Huế, Sài Gòn. Nhập ngũ theo lệnh động viên, dạy học tại Trường Sinh Ngữ Quân Đội, biệt phái làm việc cho Công Ty Dầu Hỏa Esso, Sài Gòn.
Dạy học tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm Sài Gòn và các Trung Tâm Sinh Ngữ khác.
Tù cải tạo sau biến cố 1975.
Ông Định cư tại Hoa Kỳ cuối năm 1990, và bắt đầu viết, cộng tác tứ đó với các tạp chí Văn Học, Văn, Thế Kỷ 21, Chủ Đề ... và các báo mạng Tiền Vệ, Diễn Đàn Thế Kỷ, Da Màu.
Ngự Thuyết
(Tôn Thất Ngự năm 14 tuổi)
Bài viết mới nhất
TÌNH YÊU MÙA ĐÔNG
Ngự Thuyết
“Kỳ này đi Seattle nghe anh.”
Ông nghĩ bụng cái cô này sẵn tiền muốn quăng qua cửa sổ chắc. Mới đi rất xa về phía Đông Nam của Mễ Tây Cơ, khu du lịch Cancún, nay lại đòi đi Tây Bắc nước Mỹ. Không biết mệt? Chưa đã? Rồi mình lại cũng phải mệt nhọc làm theo, đó là chưa kể phải tung tiền cho tương xứng. Phải tính toán chứ. Mới quen biết nhau, mới tìm hiểu nhau, mà cứ “bắt địa” người ta, sẽ sớm đổ vỡ. Thôi thì cứ bước đầu sòng phẳng thử xem. Ông nhớ câu, Vạn sự khởi đầu nan. Thế nghĩa là thế nào, ông nghĩ tiếp. Nghĩa là khi đã sống với nhau trong một thời gian cần thiết nào đó, thấy cô ta dễ dãi, thì mình sẽ hết sòng phẳng, sẽ xài tiền của người ta một cách vô tư, cô này giàu có mà, còn tiền của mình thì thủ kỹ, như “mọi giữ của”? Ông tự cảm thấy mình quá so đo hơn thiệt. Bần tiện. Lúc còn trẻ đâu có thế. Nay già sinh tật? Hay là vì mình không có con cái, không có người nối dõi, nên nhiều lúc bỗng nhiên lo sợ cho cái tuổi già bơ vơ? Và hình ảnh những người già cả không nơi nương tựa ở quê cũ sống trong khốn khổ, tủi hổ thỉnh thoảng vẫn ám ảnh. Trong những giấc mơ mệt nhọc, ông cũng gặp cái ám ảnh đó. Mệt mỏi, nhọc nhằn, chán nản, ngao ngán, phiền toái, ... những chữ tiêu cực đó độ rày hay xuất hiện.
Nhưng nghĩ lại, ở cái xứ này, “công dân thâm niên” - lối dùng chữ hoa mỹ khá mới mẻ để chỉ lớp người lớn tuổi - đã có nhà nước săn sóc. Thì tại sao cái lo âu cho tuổi già, cái tâm trạng bất an đó, cứ đeo theo mình. Ông thử tự quán chiếu lấy và đành phải kết luận rằng, ngoài những thứ ẩn ức không thể giải toả nổi, mình quả là thứ người lẩn thẩn, quá quan tâm, quá chăm lo, cho “cái tôi”. Tóm lại, khư khư mang vào thân những lo âu không đáng có. Hãy phóng khoáng lên, hãy bất cần đời, hãy liều lĩnh, một chút thôi, nhé, ông lẩm bẩm.
“Sao anh?” người đàn bà có vẻ sốt ruột. “Anh nói cái gì vậy? Chịu đi Seattle hay không, sao không thấy anh trả lời.”
Ông lạnh lùng đáp:
“Anh đã đi Seattle mấy lần rồi mà.” Thật ra ông không định nói thế.
“Nhưng anh rồi mà em chưa.” Người đàn bà tiếp lời, ngọt ngào, dịu dàng. “Với lại tiện dịp mình thăm hòn đảo đó luôn, San Juan phải không anh? Chóng ngoan đi anh, chiều em thêm một lần nữa đi anh. Nhe anh. Không em giận anh lắm đấy.”
Ô, đúng là những lời nói quen thuộc mình đã nghe nhiều lần. Nghe ở đâu và khi nào nhỉ? Ông cố nhớ. Phải rồi, hồi còn trẻ, ở những mối tình vặt; sau này ở những lối nói ngây thơ, nhí nhảnh, khuôn sáo trong những vở kịch trên đài phát thanh, TV; hay trong những cuốn tiểu thuyết diễm tình. Và ở những câu nói dối không cố ý. Ông đáp:
“Vâng, thì đi.”
Im lặng một chốc, ông nói tiếp, hơi gắt gỏng:
“Đi để chịu trận cái lạnh mùa đông trên đó.”
Thật ra, mùa đông nơi đang sống cũng khiến ông khó chịu lắm rồi. Ban ngày co ro, không muốn ra khỏi nhà, hoặc ra vườn, ban đêm nằm thao thức mãi chờ giấc ngủ không chịu đến, với tay tìm chiếc gối khác kê lên thử, thấy lạnh cả cái đầu. Ông nghĩ tới thời gian mới qua Mỹ bị đưa đến định cư tại Minnesota, trải qua một mùa đông khủng khiếp nhất trong đời. Nhưng ông cũng biết Seattle không lạnh như Minnesota.
*
Hôm sau, rời nhà lúc 3 giờ sáng tuy 8 giờ máy bay mới cất cánh. Là vì phải mất gần một tiếng lái xe mới đến phi trường. Rồi phải gởi xe tại bãi Parking gần sân bay, rồi đứng đó chờ shuttle bus đến đón, rồi tới phi cảng làm các thủ tục lấy vé, kiểm tra hành lý, khám xét, cổi áo ngoài, tháo đồng hồ, tháo nịt, đưa cao hai tay lên trời, dang rộng đôi chân, nhớ không mang tấc lủng vì phải cổi giày, vân vân và vân vân. Trước kia, khi chưa có khủng bố, thật là thời hoàng kim của du lịch. Mỗi lúc “máu giang hồ” sôi lên, hễ có dư chút tiền và có chút thì giờ, quyết định trong mấy phút, cho chút áo quần vào cái va ly nhỏ, gọi taxi, phóng lên phi trường, chọn nơi đi, mua vé, dông. Khỏe ru. Đã đi nhiều, ông không thấy háo hức, nôn nao nữa. Cảm thấy phiền phức hơn là vui vẻ. Chẳng qua để chiều lòng người đàn bà hiếu động này. Đàn bà khỏe thật. Phái khỏe không thuộc về đàn ông như người ta tưởng! Cái loại đàn ông lúc về già như mình.
“Vâng, thì đi,” ông buột miệng lặp lại. Ông sực nhớ người lớn tuổi thường hay nói lui nói tới điều mình đã nói, khiến người nghe sốt ruột. “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.” Thôi, nhớ đừng nói điều mình vừa nói xong, ông thầm bảo, vâng thì đi.
Nhưng đi đến nơi mình đã đến mấy lần thì cũng chả thú vị gì. Rồi ông tìm cách chống chế. Ừ, đi tới nơi cũ với một người đồng hành mới cũng có thể sẽ gặp những điều, điều gì nhỉ, điều khác lạ. Khác lạ là được rồi. Hơn nữa, càng già càng nên đi nhiều khi sức khỏe và túi tiền còn cho phép. Đi để đổi khung cảnh cũ. Ở mãi một nơi lâu ngày đâm chán. Phải xa nó để khi trở về sẽ có cái cảm giác êm ả khi gặp lại chốn cũ, dù cái chốn cũ đó chưa cũ lắm. Quả là mình chưa đủ thời gian để tạo nên sự gắn bó, thương yêu cái chốn cũ đó, chưa có kỷ niệm gì đáng kể, đáng nhớ. Chỉ là một chút quen thuộc hời hợt của nơi tạm dung. Láng giềng nhạt như nước ốc, gặp nhau “Say Hi, trả lời Ba”, chả hiểu mình nói gì. Đã mấy mươi năm sao vẫn mang tâm trạng đó - tạm dung. Vô tình và bội bạc đến như vậy? Thế bao giờ và nơi đâu mới là quê hương mới đầy yêu dấu để trở thành quê hương vĩnh cửu? Thật ra con người có quê hương vĩnh cửu hay không? Nơi vĩnh cửu, cõi vĩnh hằng phải chăng chỉ được tìm thấy trên những dòng phân ưu đăng trên mặt báo?
Bay lên Seattle. Khá xa, hơn 2 giờ bay. Sẽ không qua Canada như mấy lần trước. Nhưng cũng sẽ thuê xe tại phi trường Seattle, rồi lái xe quanh quẩn thăm lại thành phố đã thăm, ăn uống qua loa, kéo dài thì giờ, chờ chuyến phà 5 giờ chiều ở cuối con đường xuyên bang số 5. Con đường freeway số 5 này dài kinh khủng, chạy một lèo từ biên giới Mễ Tây Cơ đến biên giới Canada. Phà sẽ đưa đến một hòn đảo thuộc tiểu bang Washington, gần sát Canada. Vùng biển này có rất nhiều đảo, mấy chục hay mấy trăm hòn lớn, nhỏ, có tên, không tên, có người ở, không người ở. Sẽ đến đảo San Juan Island khá lớn cạnh các hòn đảo khác như Shaw Island, Orcas Island, Crane Island.
Người đàn bà vẫn không chịu bỏ cái tính khí nóng nảy, sốt ruột. Mới chạy lướt qua vài ba con đường lớn trong thành phố, mới ngồi uống chưa hết ly cà phê nóng trong một quán ăn ấm cúng nhìn trời lạnh buốt bên ngoài, đã giục ra xe chạy gấp cho yên tâm. Lỡ kẹt xe bất tử giữa đường, vì xe người ta đụng nhau cảnh sát ào tới chận đương làm biên bản, hay vì xe mình hỏng máy, có phải là “rách việc” không hả anh. Cô này vừa lo bò trắng răng, vừa ưa chen vào tiếng Việt Cộng? Cho nên khi tới bến phà nhìn đồng hồ, mới 4 giờ chiều. Còn cả một tiếng nữa, làm gì đây? Ông hỏi. Cô ta cười trừ.
Bầu trời bàng bạc một màu ảm đạm. Không mưa. Hay đúng hơn, chưa mưa, sắp mưa. Không thấy trời chuyển mưa. Ở quê hương cũ, trời chuyển mưa như gà chuyển đẻ, loại gà bụi, gà thả rông, chứ không phải gà kỹ nghệ. Mưa quê nhà nóng nảy, mưa ở đây lầm lì. Dự báo thời tiết cho biết sẽ có mưa trong vài ngày kể từ ngày mai. Sương mù dâng lên cao lẫn vào trong mây đục. Biển mập mờ dưới kia. Xa xa, bên trên những nhóm đảo nhỏ, những chấm đen li ti chuyển động chờn vờn như khói. Nhìn kỹ, không phải. Mà là chim. Hàng ngàn, hàng vạn con chim, bay, bay, bay. Bay qua về, tới lui, vươn lên cao, đâm xuống thấp, có khi dàn trải mỏng ra như tấm vải khổng lồ uốn lượn trong gió, có khi dồn lại thành hình quả cầu, hình trái dưa méo mó, biến dạng, có khi quay cuồng rối rít như đám bụi trong cơn lốc. Chúng bay nhanh khủng khiếp, làm loạn cả một góc trời. Khi xa quá, cao quá, cả đàn chim biến mất, rồi xuất hiện trong khoảnh khắc nơi góc trời khác.
Cố nhìn cũng không biết chúng là loại chim gì. Én, vịt trời, chim hồng, chim hộc? Kỳ lạ là bay lượn như thế nhưng chúng không chạm vào nhau, gãy đầu gãy cánh, rơi xuống biển. Hay có mà mình không nhìn thấy chăng? Phi cơ của loài người, về phương diện này, còn lâu mới theo kịp loài chim, ông thầm so sánh. Cứ thế cho đến khi trời tối dần, tầm thấy ngắn lại, mà chúng vẫn tiếp tục bay trong trời đen. Chẳng biết đến lúc nào chúng nó mới chịu ngừng cánh. Hình như có loài chim, ông không nhớ mình đã đọc ở báo nào, lấy không gian trên trời làm chỗ nghỉ. Thời gian đậu trên cành cây, trên mõm đá, hay trên mặt đất ngắn hơn thời gian bay trong không gian. Nói cách khác, đậu mệt mỏi thì bay để nghỉ ngơi.
“Chim nó làm gì đó anh?”
“Nó bay.”
“Nói thế mà cũng nói. Nhưng tại sao nó phải bay loạn cào cào như thế.”
“Thì nó bay chơi.”
“Anh chỉ ưa nói lấy được. Em hỏi thật, tại sao nó bay mải miết vậy?”
Ông trả lời cho xong chuyện:
“Nó luyện cánh. Mùa đông đang đến, luyện cánh để có thể bay xa.”
“Xa là đâu?”
“Bay tuốt về Nam Bán Cầu tránh lạnh.”
“Anh giàu tưởng tượng quá. Muốn trốn lạnh thì phải trốn lẹ lẹ đi chớ, lạnh lắm rồi. Ở đó mà tập với luyện.”
“Có thể em nói đúng, loại chim này chịu lạnh giỏi, đến giờ phút này mà vẫn còn luẩn quẩn nơi này. Bằng không, chúng đã phải bay đi hết vào cuối thu. Chỉ có mình là dân xứ nóng lại mò lên đây vào mùa này. Đúng là khùng.”
Người đàn bà cười gượng:
“Lạnh thì lên xe ngồi cho ấm.”
Đi được mấy bước, người đàn bà còn quay đầu nói vói:
“Nhưng anh vẫn chưa nói cho em biết tại sao chim nó bay.”
Nói xong, cô ta có vẻ bực bội quay ngoắt người đi nhanh đến chiếc xe thuê đang đậu nối đuôi những chiếc xe khác thành một hàng dọc dài song song với những dòng xe khác nữa. Có đến ba, bốn dòng xe nối đuôi nhau. Cả trăm chiếc xe nằm chờ phà trên bãi đậu mênh mông. Ông đứng yên tại chỗ, cố chịu lạnh, quay nhìn về phía biển đen dần. Ông thấy lòng trống trải như thể có một người nào đó tự nhiên xuất hiện cướp lấy cuộc đời của mình mang đi đâu mất. Ông nghĩ đến người vợ cũ.
5 giờ lên phà. Chiếc phà lớn như chiếc tàu thủy. Tầng dưới dành cho xe hơi, gần trăm chiếc, hầu hết là xe nhà, xe du lịch. Tầng dưới nữa không biết dùng để làm gì. Tầng trên cùng đèn sáng trưng, ấm áp nhờ máy sưởi, nhiều phòng thông nhau bằng những lối đi dài, nhiều khu bán thức ăn, thức uống, nhiều dãy bàn ghế, ghế dài, ghế dựa, ghế bành. Có khu chơi games cho trẻ con. Cái trần bên trên và cửa kính bao quanh đều trong suốt cho phép nhìn thấy khắp nơi - trời, biển, đảo. Phà chạy êm êm, tiếng động cơ khe khẽ, không để ý tưởng nó chưa rời bến. Trong bóng tối thấy lờ mờ hết đảo này đến đảo khác, như chỗ ẩn núp của ma quái, cướp biển, hải tặc. Ông lại nghĩ nếu đây là vùng biển Đông Nam Á hồi vượt biên.
Không khát, ông cũng kêu một lon bia lạnh, cầm trong tay. Muốn đi một mình, ông nói với người đàn bà:
“Lái xe nãy giờ chắc mệt. Em ngồi đây đi, anh đi quanh quẩn một chút.”
Ông lần mò xuống tầng dưới, tới đứng trước mũi chiếc phà đang chạy nhanh dần. Sau lưng ông là những hàng xe trống trơn, mọi người đều đã lên tầng trên tránh lạnh. Trời bắt đầu tối đen. Gió lạnh buốt đột ngột thấm qua tất cả các lần áo, luồn vào lồng ngực, vào bụng. Ông rùng mình, vội choàng thêm áo ấm vào. May có cầm theo.
Bỗng nhớ. Đứng yên một chốc bỗng tâm trí quay về quá khứ. Tự nhủ đừng nhớ. Để đầu óc có rộng chỗ dung chứa những thứ khác mới mẻ hơn, tươi mát hơn. Quên quá khứ đi. Và cũng đừng nghĩ đến tương lai. Hãy sống với hiện tại, thu thập cho nhanh những giây phút mong manh, cho nó vào hồn, vào tim, vào não, cho nó đâm chồi, mọc rễ, bám trụ. Vâng, hãy sống với hiện tại. Nhưng hiện tại là cái gì? Làm gì có hiện tại! Vừa chớp mắt, cái chớp mắt đã đi vào quá khứ. Và càng cố quên quá khứ, nó càng nhanh chóng hiện về như thách đố. Cứ để tự nhiên, đừng bó buộc, đừng ức chế, họa chăng có lúc quá khứ tự nó nằm yên chỗ khuất. Nhưng, ông đã biết, sớm muộn gì quá khứ cũng quấy động lại, khi rõ nét, khi mờ nhạt. Hay hãy cứ để quá khứ và hiện tại nhập vào nhau làm một. Cho cả tương lai nữa chen vào thành một gói có được không?
Có thể những người thành công là loại người dễ quên quá khứ chăng? Rồi quên luôn cả cha mẹ, cả vợ, cả bạn? Có cả loại thành công muốn biến thành con người của thế giới, của nhân loại, quên cả quê hương. Riêng cá nhân ông, thất bại và thất bại. Càng thất bại càng nhớ quá khứ. Trong phạm vi lớn lao hơn, phạm vi của cả nước, ông cũng thuộc về phe thất bại. Thua trận. Ông nhớ mang máng người xưa, Tàu thì phải, có viết trong một bài thơ, nhân thua trận về thăm làng cũ, con chim khốn quẫn vẫn muốn đậu cành xưa. Ông nhiều lần muốn về mà nghĩ lại nhất định không về. Nhưng không về không có nghĩa là muốn quên.
Những nhà luân lý, những nhà đạo đức, thường bảo hãy bỏ quá khứ lại ra đằng sau cho khuất mắt để khỏi bận tâm mà bước vào tương lai. Sống với hiện tại, với tương lai, mới đáng sống. Nhưng ông không thể và không muốn tuân theo lời khuyên bảo đó. Ông biết trốn chạy đi đâu cũng không thoát khỏi nó, thì tốt hơn hết là cho nó làm người đồng hành, khi rõ mặt, lúc giấu mặt. Ông tự thấy và tự nguyện làm người tù chung thân của quá khứ.
Thì chuyến phà này trên đất Mỹ làm sao mà không gợi nhớ những chuyến phà ngày xưa tại quê nhà. Phà qua Tiền Giang, Hậu Giang, hồi đó chưa có cầu bắc ngang. Rời quê hương miền Trung vào Miền Nam, ông luôn luôn có cái ham muốn là phải đặt chân phải lên khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh. Quê hương Miền Nam nghe sao ngọt ngào đến thế! Từ thuở nhỏ, học môn địa lý lớp ba, đã say sưa nhìn tấm bản đồ có Mũi Cà Mau, có châu thổ sông Cửu Long, có vùng Thất Sơn bảy núi... Một ngày nào đó lớn lên sẽ đi. Mơ những bến xe, những sân ga, những bến Bắc, bến phà, bến đò.
Trưởng thành, vào Nam, giấc mơ thành hiện thực. Những khi có phương tiện, thì y như rằng máu giang hồ vặt nổi lên. Ông tới những nơi khởi hành cho những chuyến đi xa. Đi quanh, dòm ngó, thụt lui, thụt tới. Cuối cùng, lần nào cũng thế, khi xe, khi thuyền sắp rời bến, vội vã mua vé lên đường. Ông không khỏi buồn cười nhớ thời còn ở Trung Học, phân vân đứng trước rạp chiếu bóng Tân Tân, nghe tiếng chuông báo lần thứ nhất vẫn chưa chịu mua vé vào cửa, vì nào là bài vở chưa làm xong, nào là tiền dành để ăn trưa sắp cạn, nhà xa buổi trưa ở lại lớp, nào là sợ làm phiền lòng bố mẹ có đứa con ham chơi, nhưng khi tiếng chuông thứ nhì réo gọi cho biết đã chiếu xong phần thời sự, quảng cáo, sắp qua phim chính, thì “ba chân bốn cẳng” chạy bay đến phòng bán vé.
Nhớ bắc Mỹ Thuận nhiều nhất. Xe hơi, hầu hết là xe đò từ Sài Gòn đi Vĩnh Long, Trà Vinh, Cao Lãnh, và xa hơn nữa như Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc, Rạch Giá, Chợ Mới, Cà Mau... và ngược lại. Chiếc phà chưa đến, xe chờ, đậu nối đuôi nhau thành hàng dài mấy trăm thước trên bến Bắc. Hành khách xuống xe vào quán bên đường hoặc đi dài dài trên bến tha hồ ăn uống. Thức ăn đủ thứ, nhớ nhất là những con chim quay, chim nướng, cá chiên, cá hấp, khô mực. Lại nhớ một cô gái miền Nam ở thành phố thấy con mực còn sống bơi trong cái thau nước lạ quá la lên cho mọi người nghe, Kìa, kìa, con khô mực tươi. Mùi nấu nướng bốc lên thơm cả một vùng. Tiếng rao hàng, tiếng gọi hàng rối rít. Trái cây thì xoài Cao Lãnh, cam Cái Bè, mận Mỹ Tho, khóm Long An, vân vân. Dường như tất cả trái cây Miền Nam đều có ở Bắc Mỹ Thuận. Còn uống? Thông thường là nước đá bào nén lại trong ly nhựa xịt vào mấy giọt xi - rô vàng, đỏ, tím mà con nít rất thích; người lớn thì cô ca, xa xị, chanh muối, nước dừa, hoặc chịu chơi đã có rượu đế cũng Long An, bia 33, la de Con Cọp, Trái Thơm từ Sài Gòn mang về. Sinh hoạt bến phà nhộn nhịp từ sáng tinh mơ cho tới chiều tối. Đợi phà ở Bắc Mỹ Thuận là trẩy hội.
Nhưng không phải cái bắc nào cũng vui. Không vui thì buồn. Bắc Vàm Cống chẳng hạn. Quán hàng lỏng chỏng xác xơ, hành khách lác đác, lặng câm. Sông không rộng, nước phù sa đục chảy nhanh, phà ít khách, ban đêm càng vắng. Nhớ tuổi trẻ hoang mang, nhớ mấy câu thơ của một thi sỹ có tiếng. Vâng, Tô Thùy Yên hồi đó cũng còn “tuổi xanh”:
Đêm qua bắc Vàm Cống
Mối sầu như nước dâng
...
Chiếc bắc xa dần bến
Đời xa dần tuổi xanh
Lại nhớ xa thêm. Nhớ Miền Trung nghèo. Nhớ cái bến đò ấy, buồn thiu, vắng teo. Nhớ hổi bé tí níu tay mẹ đi qua đò Ca Cút. Không có quán ăn, cũng không có gánh gánh bán quà, bán bánh. Chỉ một chiếc đò nhỏ cũ nát chở được năm ba người đậu chờ ở bờ bên này hay bờ bên kia của con sông – đưa khách “qua”sông, khách lên bờ, đò lại nằm chờ đưa khách khác “về” sông. Khách gặp may thì có sẵn đò tại bến, lỡ đò đậu chờ bên kia sông thì khách phải khum hai tay vào miệng làm loa gào to, Bơ đò Ca Cút, Bơ đò Ca Cút. Những hôm gió lớn từ Phá Tam Giang thổi giạt tiếng gọi đò, khách sẽ rút ra chiếc mõ gỗ hay mõ tre mang theo sẵn khua lên vài tràng. Tiếng mõ văng vẳng trong gió tiếng được tiếng mất, khá lâu mới tới tai o chèo đò.
Kỷ niệm ùa về như một liều thuốc an thần làm xoa dịu những cơn đau trong lòng. Nhưng bây giờ, tại sao lại phải chiều chuộng một người đàn bà xốc nổi, xa lạ, vô tình, để co ro đứng một mình nơi đây chịu lạnh. Thì còn tại sao nữa, một tiếng nói mơ hồ từ thăm thẳm trong đáy hồn âm ỉ như câu trả lời, nếu không phải tại vì ta có ý đồ dòm ngó túi tiền của người đồng hành? Mình trơ đến thế sao, ông vội gạt bỏ ý nghĩ ấy. Ông lẩm bẩm có lẽ không phải.
Một cơn gió mạnh. Sóng lớn, nước biển bắn vào sàn tàu. Ông thụt lùi mấy bước. Đêm như một khối đen và dày trùm lên mặt biển cũng đen ngòm nếu thỉnh thoảng không có ánh đèn le lói xa xa. Lạnh buốt. Dường như màu đêm đen càng làm cho trời lạnh thêm. Mùa Đông đã đến trên biển Bắc gần một tháng nay rồi, ông đoán. Cài thêm nút áo choàng trên cùng. Bậy quá, mình quên mang nón. Quên cả cái áo có gắn chiếc mũ đằng sau để che hai lỗ tai. Ông lầm bầm tai được che sẽ bớt lạnh nhiều, ông nhớ lần đi Tàu vào mùa Giáng Sinh được một người bạn khuyên như thế. Ông chợt nhận ra rằng mình bỗng dưng có thói quen nói một mình. Ông lại nhớ trong một cuốn sách nào đó ông đọc đã lâu, một ông già đánh cá ngoài biển xa ưa nói nhiều, nói to, cho chính mình nghe khi không có ai ở cạnh. Thế ra mình cũng già rồi. Có khi ông tưởng mình còn trẻ nhí nha nhí nhảnh, có khi ông cảm thấy mình già khọm xấu xa như con khỉ rầu rỉ trong sở thú.
“Nãy giờ tìm không thấy anh đâu cả. Té ra một mình xuống đây. Muốn trốn em hay muốn thi gan với cái lạnh hả?”
“Muốn cả hai.”
“Lại cái giọng đó. Không sợ em giận sao. Thôi, lên trên kia đi anh.”
Phá đám. Đúng là phá đám. Ông buồn cười sực nhớ đã lâu quá ông không hề nghe, không hề nói hai chữ phá đám. Nó đến với ông hồi còn ấu thơ, rồi nó đi biệt, nay thình lình nó trở lại. Phá đám, phá tổ chim, phá cái yên ổn của ngưới khác. Ông đang muốn đứng một mình nơi này thêm một chốc nữa, thì cô ta. Ông đang muốn nhớ thêm những mẫu chuyện lặt vặt khác. Ông đang muốn gặp lại ngày xưa. Những dịp như thế này, không muốn quá khứ cũng kéo về.
“Còn bao lâu tới nơi?” Ông hỏi, giọng khe khẽ, gắt gỏng.
“Đi mới nửa tiếng. Còn hơn một tiếng nữa. Lên trên kia nhe.”
“Không... Thì lên.”
“Hôm nay anh không vui?” “Ai bảo em thế?”
“Thấy cái mặt anh, em biết.”
“Em nói sai rồi. Trời tối đen thế kia, làm sao em thấy được mặt anh.”
“Anh sai thì có. Tối ngoài kia nhưng trong này có đèn. Mà trời lạnh quá, đừng lôi thôi nữa, lên trên kia đi, bịnh bây giờ. Anh ơi!”
Vài ba người già cả nằm dài trên những chiếc ghế trống vờ ngủ. Chắc mỏi lưng như mình đang mỏi lưng. Thử tưởng tượng có một người rừng từ trên một trong những hòn đảo hoang vắng kia nhìn theo chiếc phà này. Phải không, như một đám lửa khổng lồ trôi lừ lừ trong đêm đen thuở hồng hoang, như dòng phún thạch đỏ rực len lỏi qua những khe, truông, rừng, rú. Trông khiếp đảm. Đầu óc của ông bỗng dưng trống rỗng như cái lon bia đã uống cạn, cứ vô ý cầm mãi trên tay. Thì như có linh cảm, người đàn bà bảo:
“Đưa cái lon cho em bỏ sọt rác.”
Rồi phà cũng đến bến. Một thị trấn nhỏ xúm xít bên trên bến phà. Thị trấn tên là Friday Harbor mà cứ tưởng vào mỗi Thứ Sáu sẽ có tổ chức gì đặc biệt trên cái cảng này. Đèn đường, xe cộ, quán xá, người đi bộ trên các vỉa hè, các lề đường. Cảnh vật rất quen thuộc như từng gặp tại nhiều thị trấn nhỏ trên cái xứ mênh mông này. Lẽ dĩ nhiên không thể thấy xe gắn máy, xe đạp như ở quê cũ. Càng không thể thấy nhưng vẫn gợi nhớ những chiếc xe của thời xa xưa hơn nữa, thời mình còn bé, xe kéo. Cũng gọi là xe tay, hay xe cao su, theo lối nói người miền Bắc. Nhìn đồng hồ. Mới hơn 7 giờ tối.
“Ngoài biển tối hù, đây thì sáng trưng,” người đàn bà bỗng vui hẳn lên. “Trước tiên mình ghé vào một tiệm nào đó kiếm gì ăn đi anh. Hồi trưa em nóng ruột đi nên không kịp ăn cái gì cả. Bây giờ đói bụng muốn chết. Xong đi ngắm phố phường một chút. Về khách sạn chi vội, nhe anh.”
“Để anh xem nào.” Ông bấm iPhone tìm đường về khách sạn. “Từ đây đến Friday Harbor Suites không xa mấy. OK, muốn đi đâu thì đi.”
Qua một phố vắng, gặp mấy con nai chạy tung tăng trên một con đường hẻm. Ông ngẫm nghĩ lạ nhỉ, dân miền này không nuôi chó hay sao. Hay là nai và chó đã quen nhau, sống hòa bình với nhau.
“Anh dừng xe cho em coi nai đi. Kìa có một con nai to bự sư. Em thích nai lắm.”
“Thì dừng. Nhưng em đói bụng mà.”
“Coi nai rồi đi ăn ngay.”
Người góa phụ nói giọng Nam ngọt ngào, có nhan sắc, có tiền, đã đứng tuổi nhưng so với ông thì trẻ hơn nhiều. Lại vui tính, hiếu động, đồng thời cũng biết và chịu khó nấu ăn, và cũng chịu khó sắp xếp việc nhà, sạch sẽ, gọn gàng. Những tính khí trái ngược đó khiến ông quan tâm và tò mò tìm hiểu thêm. Và chỉ quen nhau một thời gian ngắn, họ chung sống. Ông nghiệm ra rằng độ rày ai gặp ông ban đầu cũng dễ bị cuốn hút, nhưng sau một thời gian họ chán.
Trước kia, từ ngày chia tay người vợ thứ nhất, ông buông thả, bừa bãi, sống thường trực trong khủng hoảng. Mỗi khi nghĩ lại thời gian đó, ông thấy lòng buồn vô hạn. Trông ông như người vô gia cư, dù ông có căn nhà khá tươm tất trong khu dân cư có mức sống gần trung lưu. Ngày ngày cơm hàng, cháo chợ, áo quần lôi thôi, lếch thếch, không nếp, không ủi. Căn nhà càng trống trải, lạnh lẽo. Hết giờ làm việc ông không về nhà ngay, lái xe quanh quẩn, ghé nơi này, nơi nọ, đói ăn, khát uống, giết thì giờ. Hễ gặp free way, bất cứ free way nào, ông thường nhập vào và đi thật xa. Chạy trên đó, tốc độ cao, không bị đèn lưu thông quấy rầy, đường êm, dài hun hút, miên man, bất tận, mang lại cho ông phần nào sự an tâm.
Rồi ông lấy người đàn bà thứ hai nhanh chóng, không hôn thú. Bỏ nhau cũng nhanh chóng và dễ dàng. Hai người xa nhau nhưng vẫn giữ được tình cảm tốt cho nhau. Thỉnh thoảng gọi điện thoại hỏi han nhau như bạn. Có điều ông lại lúng túng trong cuộc sống hàng ngày, và không thể nào quên được thời gian cũ sống với người vợ cũ.
Yêu nhau không phải để nhìn nhau mà cùng nhau nhìn về một hướng. Antoine de Saint Exupéry, một nhà văn người Pháp, nói thế, và câu nói được xem như danh ngôn. Ông không thích danh ngôn. Danh ngôn, ngạn ngữ, thường chỉ đúng một nửa, chỉ đúng trong hoàn cảnh nhất định nào đó thôi. Ông cho rằng yêu nhau, ái tình của người nam và người nữ, là chiếm đoạt nhau, sở hữu nhau, không thể “khơi khơi ngồi đó” mà nhìn về một hướng. Ái tình rất vị kỷ, nó không chấp nhận san sẻ cho ai cả. Nó khác tình cảm đối với cha mẹ, anh chị em, bạn bè. Nó, lẽ dĩ nhiên, không những chi phối sinh hoạt của hai người đang yêu nhau, mà còn có ảnh hưởng đối với tương lai của họ. Thế đối với quá khứ? Người ta bảo rằng quá khứ là cái gì không thể thay đổi được. Nhưng khi liên quan đến ái tình, nó khác. Nó thay đổi cả quá khứ.
Ông yêu người vợ thứ nhất. Bỗng một buổi chiều đi làm về sớm hơn mọi ngày, ông bắt gặp cô ta phản bội. Chuyện phải đến, ly dị. Đôi lúc ông cố nhìn lại quá khứ, nhìn lại “những ngày vui cũ” như tìm sự an ủi. Nhưng chính nó không còn nguyên vẹn. Nó thay đổi có lẽ không phải vì lòng ông thay đổi. Mà chính nó, chính những ngày vui ấy tự nhiên mang những dáng dấp khác. Nó bẽ bàng. Nó mất dần cái ngọt ngào, êm ái. Nó cay, đắng.
“Anh nghĩ gì mà thừ người ra thế?”
“Vậy sao? À, có gì đâu, nhớ vài ba chuyện cũ đó mà.”
“Chuyện gì vậy?”
“Những ngày vui.”
Người đàn bà cướp lời:
“Nói thế mà cũng nói. Vậy đi chơi với nhau như bây giờ ... không vui hả?”
“Thì vui.”
Người đàn có vẻ phật ý:
“Thì vui nghĩa là cái gì? Thôi, cầm dao, cầm nỉa lên. Ăn uống lẹ lẹ, rồi về khách sạn. Ngồi đây nhìn anh chán thấy mồ.”
Mùa Đông thường hay mưa vùng đảo này, có lẽ. Sáng hôm sau vẫn chưa thấy mưa như dự báo thời tiết. Trời có âm u hơn. Chạy quanh thăm hòn đảo cho biết, người đàn bà bảo. Thì đi. Ông không muốn lái xe, người đàn bà vui vẻ lên ngồi sau tay lái. Ông lơ đãng nhìn cảnh vật. Mùa Đông mà cây cỏ trên hòn đảo vẫn xanh tươi. Cũng na ná những miền quê khác của nước Mỹ, đường sá sạch sẽ, nhà cửa khang trang, thỉnh thoảng gặp những cánh đồng trống, vài ba bầy bò, bầy cừu chăm chỉ gặm cỏ. Chốc chốc có tiếng chim hót thành những tràng dài trong các lùm cây. Ôi chiều quê, chiều sao xiết êm đềm, một câu hát xa xưa vang vang trong hồn, trong trí, dù chiếc xe đang chạy quanh co trong một buổi sáng mùa đông nơi quê người.
Trước cổng một số trang trại thấy có bày bán trứng vịt: một cái rổ lót rơm trên đó có vài chục quả trứng vịt khá to, màu trắng, màu xanh, có bảng ghi giá trứng đặt nằm cạnh một thùng gỗ nhỏ và cao dùng để đựng tiền. Cao cho gió khỏi bay tiền, ông nghĩ, vì đảo thoáng gió. Không có người kiểm soát. Người mua tự động lấy trứng rồi quăng tiền vào thùng gỗ.
Lại đi nơi khác, lại gặp một khu vườn nhỏ nằm thoai thoải cạnh bờ biển, cuối vườn là ngọn hải đăng. Tại cổng vào vườn có treo bảng ghi giá vào cửa. $10.00. Cũng không có người soát vé. Hai người xuống xe vào vườn đi thăm thú các nơi. Người đàn bà vui như con chim khướu, hỏi han lắm chuyện, hỏi thiệt và hỏi vờ vĩnh. Ông trả lời cầm chừng. Ông nghĩ ông đâu phải là cái máy trả lời, nhiều lúc bí. Mươi phút sau, hai người trở lại xe thì gặp một chiếc xe hơi chạy đến đậu bên cạnh. Ba cô gái da trắng, mới lớn, tuổi sàn sàn nhau, nhảy ra xe. Dùng chữ nhảy là đúng, vì ba cô bé không mở những cánh cửa của chiếc xe mui trần. Bọn trẻ mỉm cười chào, rồi đứa nào đứa nấy vội mở ví rút tiền bỏ vào thùng đựng tiền đặt ngay trước cổng.
“Mỹ nó đàng hoàng quá,” ông nói.
“Em cũng có rút ví, nhưng không có tiền lẻ.”
“Anh thì có tiền lẻ nhưng không moi ra.”
“Anh khôn ghê.”
“Em nói cái gì vậy? Anh không khôn, cũng không dại. Chỉ lười.”
“Lười móc tiền ra khỏi ví? Vậy là khôn chớ.”
Ông cảm thấy chán nản, không muốn pha trò, tranh cãi. Ông thèm cái hồn nhiên, vui sống của cô ta. Vui thật hay vui giả, ông chưa biết chắc. Họ tiếp tục đi hướng về phía bắc hòn đảo, ghé thăm công viên English Camp National Historic Park. Một trụ cờ cao giữa sân, một lá cờ nước Anh thật lớn bay phất phới trong gió. Ông ngạc nhiên, mở bản đồ ra xem, thấy phía nam hòn đảo cũng có American Camp National Historic Park. Vậy phải chăng đã có thời hòn đảo này là vùng tranh chấp của Anh và Mỹ? Hai doanh trại này chắc chắn đã từng nổ súng đọ sức với nhau. Rồi cù cưa, không ai diệt được ai. Đành phải kẻ trấn bắc, người giữ nam, của cái hòn đảo bé con này? Ông ngẫm nghĩ. Về sau cách mạng Mỹ thành công, quân Anh phải rút đi hết. Nhưng tại sao vẫn còn lá cờ Anh? Nghĩa là mỗi sáng, mỗi chiều có người kéo cờ lên, hạ cờ xuống? Người đó là lính Anh, lính Mỹ, hay người dân thường?
Dù gì đi nữa, có một điều chắc chắn là hòn đảo này rất trân quý di tích lịch sử. Nhớ quá khứ chăng? Muốn sống mãi với kỷ niệm chăng? Thế là mình đã gặp người đồng điệu. Ô, không hẳn thế, ông nghĩ lại. Dân Mỹ trẻ trung, xem quá khứ là cái gì rất quý giá, cần phải bảo tồn trọn vẹn. Mất cái quá khứ đó là mất hết gốc, rễ, mất căn cước. Từ cái quá khứ ngắn ngủi ấy, họ hãnh diện và tích cực nhìn về tương lai. Còn ông, người thất bại, người thua trận, gậm nhắm quá khứ như con mọt gậm gỗ mục, thiếu không gian, thiếu không khí, nghẹn ngào, đau đớn, căm hờn. Hoặc nuối tiếc. Hoặc mơ một ngày về càng lúc càng xa vời vợi.
“Anh này, nước Mỹ hồi đó chắc còn trẻ lắm.”
“Hồi đó là hồi nào?”
“Hồi Anh đóng đồn mé bắc, Mỹ thì mé nam. Em nói thế chưa rõ sao mà anh còn muốn bắt bẻ? Từ hôm qua đến giờ anh làm sao ấy.”
Ông trả lời cho xong chuyện:
“Vâng, thì em đã nói rõ. Đúng, hồi đó Mỹ còn trẻ lắm.”
“Mới lập quốc được năm bảy năm là cùng chứ gì. Một nước Mỹ thơ ấu đánh đuổi hết quân Anh ra khỏi đất của mình sao nổi, phải không anh?”
“Phải.”
“Sau đó Mỹ mạnh lên, Anh phải co giò chạy?”
“Đúng.”
“Thôi, không thèm nói chuyện với anh nữa.”
Hai người lại lên xe. Người đàn bà tiếp tục cầm tay lái. Ông ngồi bên cạnh nhìn bâng quơ, cặp mắt không đậu vào một nơi nào, không trông thấy rõ cả con đường nhựa đen chạy quanh co đằng trước. Trên đảo này, hình như có nhiều con đường nhỏ, cong, khiến chiếc xe cứ thế quay mũi hoài. Đầu óc ông đang bận bịu vì chuyện ngày xưa có hai đoàn quân đối địch lại đồn trú trên một hòn đảo nhỏ. Tử thần luôn luôn hiện diện. Gươm giáo, súng ống, sẵn sàng vung lên, khạc đạn. Loài người hiếu chiến hơn tất cả mọi loài.
Không thể có hai con cọp dữ chung sống trong một cánh rừng. Huống là trên một hòn đảo nhỏ. Đó là người lớn ví von như thế. Hồi bé, mình nói khác. Ông nghĩ lan man đến những năm lên chín, lên mười. Tản cư về quê, nhà ở đầu xóm, mái ngói, nền lát gỗ, sân lát gạch. Gia đình có tiền hơn những người dân làng. Cuối xóm có thằng nhỏ tuổi sàn sàn với mình nhưng sai bảo được lũ trẻ con quanh đấy. Chỉ một thời gian ngắn, mình gặp nó.
Như con gà trống từ nơi khác đến, chạm trán với con gà địa phương, mình sớm hiểu được câu nói ”Chó cậy nhà, gà cậy vườn”. Tạm thời chịu lép vế dù mình to con hơn, và có lẽ cũng lớn tuối hơn. Rồi dần dần mình trở mặt, muốn lấn lướt. Không ngờ thằng kia xuống nước ngay, luôn luôn nhường nhịn. Một hôm bắt nó cõng, nó lắc đầu. La hét, nó cũng không chịu nghe, nhìn lại trân trân. Nhào tới ôm nó vật ngã xuống, nó té dễ dàng, vùng vằng chiếu lệ. Thuận tay, đánh lia lịa vào lưng nó, nó lì lợm chịu đau. Tức quá, co chân đạp vào mặt nó. Chắc hẳn nó thấm đòn. Nó thét lên một tiếng, quẫy mình như con cá bị bị mắc vào lưỡi câu, rồi níu đầu mình xuống kẹp giữa hai đầu gối, một tay bẻ ngược cánh tay mình ra đằng sau. Không ngờ nó khỏe và lanh lẹ đến thế. Đau quá, càng quậy, càng vùng, càng đau. Cuối cùng xin chịu thua. Nó buông tay, đứng dậy, phủi bụi trên đầu tóc, trên áo quần, mặt mày tươi cười, rạng rỡ.
Nhưng mình không cười nổi, lồm cồm bò dậy, bỏ đi, không về nhà ngay. Tới một chỗ vắng, nhìn quanh không thấy ai, gượng vươn vươn cái vai, lắc lắc cái cổ. Đau, chưa bao giờ đau đến thế. Từ đó, không thèm chơi với “lũ trẻ nhà quê” nữa.
Lớn thêm mấy tuổi, nhà dọn lên phố, bỏ làng, tránh vùng vùng chiến tranh xôi đậu. Vào Trung Học. Đòi học võ thêm, bố mẹ ngạc nhiên nhưng bằng lòng. Mỗi cuối tuần, đi tập Nhu Đạo. Một lần học miếng đòn mới, miếng đòn bị đối phương đè nằm dài trên sàn tìm cách vùng dậy. Huấn luyện viên dặn kỹ khi nào đau chịu không nổi, hoặc nghẹt thở, thì phải lấy bàn tay đập liên tiếp mấy cái xuống tấm thảm trên sàn nhà. Nhất định chịu đau chứ không chịu thua, không chịu làm theo lời dạy. Sau buổi tập, càng thấy đau hơn, phải đi bác sĩ. Cái cổ bị trật xương, nằm nhà thương mấy tháng. Bị ở lại lớp một năm. Phải bỏ ngang môn Nhu Đạo. Thế là chẳng bao giờ có thể trả được mối thù xưa dù mình chắc chắn không có ý định tìm cho ra thằng nhỏ ở làng quê để “thách đấu”.
“Có lẽ cái đảo này chẳng có gì khác hay ho nữa đâu. Bây giờ còn kịp chuyến phà. Hay ta về trả phòng, rồi trở lại Seattle cho sớm coi thử có cái gì vui hơn không. Nhe anh. Anh chiều em, nhe anh.”
“Thì trả phòng. Nhưng đã book hai hôm rồi mà.”
“Kệ. Bỏ.”
*
Không gian u ám. Cơn mưa sắp tới chăng? Bầu trời mông mênh xám một màu trùm kín mặt đất, mặt biển, chẳng khác gì cái vung khổng lồ úp lên kín bưng. Gió lạnh. Không giống như miền Đông Bắc nước Mỹ hay Canada gần đấy, vào độ cuối mùa thu, đầu mùa đông, nơi đây, Seattle, không có lá vàng óng ánh, lá đỏ rực rỡ, bao phủ khắp núi đồi. Trái lại thảng hoặc mới thấy xuất hiện những chùm lá màu vàng nhợt nhạt, yếu ớt, len lỏi trong đám lá xanh của thông, của bách, của tùng. Có lẽ sắp mưa đúng như dự báo thời tiết. Seattle được biết có mưa nhiều mà. Hay mình nhớ sai, hay đấy là trường hợp của Oregon? Nhớ một lần ghé Oregon thăm một người bạn thời Trung học dưới cơn mưa tầm tã kéo dài suốt ngày. Ông ở Cali hạn hán nhiều năm, hễ thấy mưa là thích thú.
Ngồi trên xe đang chạy chờ cơn mưa tới. Cửa kính xe vẫn được hạ xuống cho thoáng gió, cho vài giọt mưa thỉnh thoảng bay xéo vào.
Quên mang găng tay theo, xoa hai bàn tay vào nhau cho đỡ lạnh. Lại để người đàn bà lái xe. Cô ta tỏ ra thích lái xe, và hình như không biết lạnh là gì. Chạy trên đường Alaskan Way Viaduct dọc theo bờ biển qua khu Seattle’s Historic Waterfront. Sẽ ghé khu chợ Pike Place Market, cô ta muốn thế. Còn ông? Rời xe ông ngại, muốn ngồi mãi trên xe chạy đâu thì chạy cho đến khi xuống xe vào khách sạn nghỉ ngơi. Ông chỉ muốn lúc xe chạy, ông điều chỉnh cho ghế ngồi nằm dài xuống, nhưng cũng ngại cô nàng phật lòng. Thẳng góc với đường Alaskan Way Viaduct là những con đường dốc song song theo hướng Đông - Tây từ cao đổ xuống khu chợ nằm bên bờ nước. Có lẽ bờ biển. Downtown Seattle là thành phố của đồi, núi, và những con đường dốc, tuy không lên cao xuống thấp nhiều như ở San Francisco.
“Em tìm chỗ đậu xe nhé. Đi bộ cho giãn tay chân một chút. Mà sao anh im lặng thế. Hết chuyện nói rồi hả?”
“Nhưng em muốn anh nói gì?” ông cố làm ra vẻ quan tâm.
“Ô hay cái ông này!” người đàn bà quay đầu nhìn ra bên đường nói lầm bầm. “Tui muốn ông mới nói. Còn ông không tự nói được cái gì hả?”
“Thì nói. Kìa, có một chỗ đậu cạnh chiếc BMW kia kìa.”
Chốc chốc vài giọt mưa. Trời vẫn âm u. Thử xem nào. Phải đi bộ mươi bước mới gặp một hạt mưa nhỏ từ đâu xa rớt xuống chạm vào đầu, vào mặt, vào tay. Để ý lắm mới biết.
Cơn mưa kỳ cục. Sai rồi, không phải rồi, không phải cơn. Cơn thì ngắn thôi, như cơn giận, cơn đau, cơn ghen, rồi nó trầm trọng hơn, rồi leo thang, rồi giảm dần, rồi hết. Đằng này, như những xâu chuỗi dài bất tận, lây lất, hoang mang, đã mấy mươi năm, cứ tháng ba, tháng tư lo khai thuế và nhớ ngày nước mất, chỗ ở thay đổi liên miên, sực nhớ có đọc đâu đấy thấy tụi nó cũng thế, tụi bên châu Âu, dọn nhà đến, dọn nhà đi, bất chợt và vô cảm chẳng khác gì đến một thành phố xa vội vã tới lấy rồi đem trả chiếc xe thuê, việc làm lúc có lúc không như đèn đường chớp tắt, chạy đuổi theo “job” như loài thiêu thân lao vào lửa, con cái của bạn bè lớn lên mau, hết đám cưới này đến đám cưới khác xẩy ra hàng tháng thiếu đường lo không đủ tiền mua một món quà hay ký một chi phiếu, nay mong dự một đám cưới để có dịp chuyện trò với kẻ quen người biết là chuyện khó xẩy ra vì đám trẻ nay cũng sắp vào tuổi trung niên cả rồi, tụi bạn cùng lứa nhiều đứa vĩnh viễn ra đi, hoặc tình cờ gặp nhau ở đất lạ, tha hương ngộ cố tri, chưa kịp mừng rỡ hỏi han nhau đã nẩy ra ý nghĩ đây là lần gặp cuối cùng, có đứa ngại ngùng tâm sự chắc mình cũng sẽ không còn ở cõi đời này khi quê cũ vẫn cứ thế, nghĩa là sâu mọt vẫn tiếp tục đục ruỗng bức dư đồ, có lúc chán nản dừng xe lại đậu bên một bờ hồ nào đó buông tay lái nghỉ ngơi một chốc cũng đều gặp mấy bầy vịt thong dong lội nước, hoặc đứng co một chân trên kè đá rỉa lông cánh, lông đuôi, thanh thản một cách vô tình và tàn nhẫn, cuối thu nào bầu trời nhiều mây trắng lại cũng in đậm nét những chữ V đen của những đàn chim bay về Nam tránh rét, lâu lâu có con theo không nổi hay giở chứng bay lạc đàn, nhưng cũng có lúc vui vui khi có tiền mua chiếc xe mới để thầm trấn an rằng mình còn sống dai qua mặt được mấy đời xe, hoặc buồn buồn khi tình cờ lục lại những chiếc cà vạt cất kỹ mấy mùa chưa hề đụng tới nay vẫn còn mới tinh mà đã quá đát, cho không ai lấy, thắt vào không giống ai, sức khoẻ thì ngày một thụt lùi, tuổi già thì ngày một sấn tới ...
Rồi bỗng dưng thấy chột dạ, được voi đòi tiên đây chắc, sống trên một nước giàu có, tự do, tử tế, cái ăn, cái mặc, cái ở, cái thuốc men, cái cầu tiêu, cái đi chơi, mọi thứ đều thừa mứa, mà vẫn cứ phiền muộn, làm dáng đấy hẳn, hay quả thực tâm hồn không yên tĩnh, lòng dạ luôn bồn chồn, hay có ngon thì hãy thử trở về quê với những chùm khế ngọt, những chiếc cầu khỉ, những lũy tre quằn quại, những bãi biển chết, nước giọt nước mắm làm từ cá Formosa, những đám xe hổn loạn, bạt mạng, những ô nhiễm, và về với những kẻ cầm quyền, những đại gia có thiên tài ăn bẩn, đánh lừa, bóc lột ...
“Anh ơi, trời đang mưa đó phải không anh? ”
Tiếng nói của người đàn bà nghe thảng thốt như từ xa vọng lại, lôi kéo ông ra khỏi những suy nghĩ miên man.
Mưa như có như không cứ thế kéo dài từ trưa cho đến lúc đèn đường bật sáng. Đường sá tuy thế cũng dần dần ướt mỏng. Có mang theo áo mưa nhưng không cần mặc. Lạnh. Cái lạnh đeo đẳng không rời. Đi bộ dài dài trên các con đường – đường song song với Waterfront được đặt tên 1st Avenue, 2nd Avenue, 3rd Avenue ..., những con đường thẳng góc thì Pike Street, Union Street, University Street ..., tạo thành những ô vuông, ô chữ nhật. Buổi tối thấy mưa rõ hạt hơn tạt vào xe cộ đang chạy nhờ những chùm đèn xe chiếu sáng. Rồi mưa đổ xuống nhiều hơn chút ít. Những giọt mưa trông như những mũi tên nhỏ xíu, nhỏ hơn răng con lang, lang nha tiễn, lưa thưa bắn vào mũi xe, đèn xe, kính xe. Thành phố ban đêm loang loáng giọt mưa. Những người bộ hành đi rảo bước hơn trên các vỉa hè, các lề đường. Có người khoác hờ chiếc áo mưa mỏng, hoặc có những cô gái bước tung tăng váy ngắn, chân dài, giày gót cao, nhọn, che đầu bằng chiếc dù nhỏ như cái quạt mo mùa hè ở quê nhà.
Ở đây hầu hết là người da trắng, khác hẳn miền Nam Cali. Tại khu chợ - Public Market, Farmers Market, Market Theater - có những chàng mặc jeans, áo cụt tay lộ bắp thịt cuồn cuộn, phanh ngực, xăm mình, dáng dấp như con gà trống mới lớn, lại đứng sau quầy bán đồ trang sức chăm chỉ đưa những ngón tay không xinh xắn chút nào cả sắp lại vài cái bông tai, mấy xâu chuỗi ngọc, mươi chiếc vòng đeo cổ; có những nàng mặt mày trông như tài tử xi nê, váy đầm kín đáo, tóc vàng, tóc nâu, tóc đen, mắt bi chai, hai tay bận đan len, miệng tươi cười mời khách mua hoa, quả, trái cây. Tất cả, kẻ mua người bán, trông thoải mái, vui tươi, nhẹ nhàng. Nhìn họ, ông ngẫm nghĩ. Không chừng, trong một tương lai nào đó, dân nhập cư, dân tứ xứ, sẽ mang những mánh khóe đa đoan làm xáo trộn nếp sống vốn hiền hòa của nhiều thành phố nước Mỹ như thành phố êm đềm này.
“Vẫn còn mưa đó anh, anh biết không? Tức cười quá.”
“Tức cười chuyện gì?”
“Chuyện mưa chớ còn chuyện gì nữa. Trời mưa mà mình chẳng biết trời mưa dù đang đi ngoài trời. Lạ thiệt. Mưa tí hon, mưa ốc tiêu, baby mưa. Baby banana, baby corn, baby tomato. Thì nói ‘baby rain’ có được không anh?”
“Đây là xứ tự do, em muốn nói gì cứ nói.”
“Lãng xẹt.”
Ông cảm thấy mấy hôm nay lòng nguội lạnh, không muốn đối đáp, trò chuyện, với ai cả. Ông muốn được yên, được quẩn quanh với những ý nghĩ riêng tư của mình. Thỉnh thoảng cái tật khó thương đó trở lại với ông. Cô này xui, gặp lúc ông trở chứng. Cô ta tỏ vẻ bực mình là phải. Đã nhận lời cùng đi với nhau thì phải chịu khó tham gia cuộc vui với người đồng hành, ông thầm nhủ. Ông cố nặn ra một câu đối đáp:
“Có lẽ chỉ hôm nay trời mới mưa cái kiểu này.”
“Em không hiểu anh nói cái gì cả.”
“Nghĩa là mai mưa khác. Có giống như thế không?”
“Nghĩa là cái gì? Mà sao anh biết?”cô ngắt lời.
“Biết chứ. Mà không biết cũng chả sao.”
“Anh nói cái gì vậy?”
“Không biết thì đoán.”
“Thôi, không nói chuyện với anh nữa.”
Không nói chuyện nữa? Tốt thôi. Ông đang muốn được yên. Ông bỗng nhớ lại, nhớ chắc chắn Seattle mưa nhiều. Chứ không phải Oregon.
Nhưng có khi nào mưa ở đây giống như mưa ở quê nhà không nhỉ? Những cơn mưa đám mây kéo dài mươi phút, chỉ đủ làm ướt dăm mẫu ruộng đang khát nước, mấy chục nóc nhà tranh khô queo. Hay mưa bên kia sông mù mịt, bên này sông thì tạnh ráo. “Mưa bên kia sông, mưa nửa dòng nước”, thơ của ai nhớ mãi chẳng ra tác giả. Ông cảm thấy độ rày ông quên tên nhiều người, nhất là tên tác giả của các bài nhạc, bài thơ, tên của những người quen biết lâu ngày không gặp. Thường thì không quên hẳn, cố nhớ, sau năm bảy phút, hay sau cả ngày, tùy, bỗng sực nhớ lại, vui mừng tự nhủ thế là chưa bị Alzeimer. Hoặc mưa bụi bay trong gió trông giống dải lụa bạch mỏng và trong phất phơ, uốn éo. Và những lúc, lại nhớ, trời chuyển mưa như gà chuyển đẻ, sấm nổ, chớp xẹt, những cơn thịnh nộ của thiên lôi, của trời. Phải rồi, trời giận trời gầm. Sau đó mưa mới đổ xúống ào ào. Nhưng buồn nhất là những cơn mưa dầm kéo dài lê thê hết ngày này qua tháng khác trộn lẫn với tiếng ểnh ương, hồi nhỏ gọi là con ệnh oạng, ồm ồm, oàng oàng, oạp oạp, rền rĩ vang dội trong đêm khuya, trùm lên trên tất cả mọi cánh đồng ngập nước, những thửa ruộng nước bạc lội xuống lạnh thấu xương. Tiếng ểnh ương vọng đi rất xa, xa như nhớ. Lại thơ của ai? Nhớ, nhớ, nhớ lắm. Không phải nhớ tên tác giả câu thơ mà nhớ mưa dầm ở Huế, nhớ mấy câu thơ:
Mưa chi mưa mãi
Lòng nhớ nhung hoài
Nào biết nhớ thương ai
...
Cũng có khi nắng nhỏ chen lẫn trong mưa thưa. Nắng vàng nhạt hứng lấy những giọt nước nhiều màu sắc. Khá hiếm hoi. Trẻ con liển chạy túa ra khỏi nhà, nhảy nhót trong cái sân đất, hay ngoài con đường làng, vui mừng reo hò:
Trời vừa mưa vừa nắng
Hai ôn mụ mắng nhau
Ai mắng giỏi hơn ai, ai to mồm hơn ai? Thường là mụ. Ôn chỉ như “gà bở”, nắng của ôn dọi qua một chốc rồi thôi, nhường chỗ cho mụ một mình “dai như đỉa đói” kéo dài cơn mắng mỏ.
Vâng, không lẽ nói hết những chuyện lôi thôi, ngổn ngang, vớ vẩn đó cho người đàn bà hiếu động đó nghe? Cô ta có chịu nghe hay không, hay là sốt ruột, hay là than lãng xẹt, thôi anh ơi, nói chuyện khác cho vui đi anh. Và mình cũng đã kể lể hết mọi chuyện cho người đàn bà thứ nhất nghe rồi, lặp lại cho người khác nghe đâm ngượng. Mỗi khi nghĩ đến người vợ đầu tiên, lòng ông chùng xuống. Như thể lái xe trên đường gặp chướng ngại vật, lái quanh, tránh, rồi uể oải lái tiếp.
Nhỏ đã từng nếm mùi chiến tranh, chạy giặc. Lớn lên chiến tranh tiếp diễn theo một lối khác. Khi hiền lúc dữ ở ngoài mặt trận, ngoài tiền tuyến, còn ở hậu phương cuộc sống vẫn cứ đi con đường định mệnh của nó. Hết Trung Học, ông lên Đại Học. Nhưng hoang mang. Coi chuyện học là chuyện chẳng đặng đừng, không ham thích, không “dấn thân”. Đến trường, đến lớp, không bạn bè như thời Trung Học. Thầy thì như người xa lạ. Đi học mà như người bàng quan ngắm nhìn người ta lăng xăng bài vở, còn mình trong sâu xa hờ hửng. Hay tệ hơn, có khi đi đến trường mà mang tâm trạng của kẻ đi đến nhà tù.
Vừa xong Đại Học, đi lính. Bị thương, giải ngũ, tái ngũ. Cuối cùng, như một nhà văn quân đội viết, “Tháng Ba Gãy Súng”. Vào tù. Ra tù vượt biên. Lại bị bắt, lại tù. Cha mẹ lần lượt qua đời. Lại vượt biển nữa, thành công. Và sống trên mảnh đất giàu có, tự do. Thì thử làm lại cuộc đời. Sau nhiều toan tính, đắn đo, và cố gắng, ông lập gia đình khá trễ. Không ngờ tình yêu cũng đến dù muộn. Nhưng nó đến rồi nó đi, ngoài tầm tay.
“Anh chán tui rồi hả?” Người đàn bà bỗng nối lại đối thoại.
“Tại sao em nói vậy?”
“Tại sao, anh biết lấy.”
“Anh chẳng biết gì cả.”
Người đàn bà cay đắng:
“Đi bên nhau mà cứ như hai người xa lạ.”
Ông ngẩn người. Đúng, mình có lỗi. Người đàn bà cao giọng:
“Lẽ ra đừng đi đâu là hay hơn cả. Tui thật không ngờ anh như vậy.”
Biết trước rằng không nên nói điều không định nói, nhưng ông vẫn buột miệng:
“Em lôi thôi quá. Tôi chán cô lắm rồi.”
Cô ta giật mình, cúi đầu nhìn vào mũi giày, im lặng. Ông hối hận:
“Anh nói lỡ lời, em đừng để tâm.”
Ông nhìn lại cuộc đời mình từ bé, đến lớn, đến già. Thất bại nhiều, thành công ít. Như thế là bất hạnh chăng? Nhưng, hạnh phúc phúc là cái gì? Là niềm vui? Chưa hẳn. “Những ngày vui ”, như ông đã trải qua với người vợ đầu tiên, tự nó trở thành nỗi buồn. Thì những niềm vui khác cũng có cơ nguy tan tành như mây khói. Vậy hạnh phúc là gì? Là tìm thấy cái mình muốn tìm, có cái mình đáng có, hưởng được cái mình đáng hưởng? Là được hài lòng? Là tự do? Là đạt được sự yên ổn trong tâm hồn? Hay hạnh phúc là thành công, là may mắn? Nói lung tung như thế, dường như vẫn thiếu và dư. Nhưng thiếu cái gì, dư cái gì, ông không thấu rõ rạch ròi. Ông có cảm nghĩ rằng bạn bè của ông, thế hệ của ông, những thế hệ trước ông và sau ông, cả trăm năm nay, hay lâu hơn nữa, đều chịu chung một nỗi khổ: không tìm thấy hạnh phúc. Phải chăng hạnh phúc nó còn đòi hỏi sự tương tác, nó mang tính tập thể.
Tập thể là một cộng đồng, hay trong một phạm vi rộng hơn, một nước. Sẽ có hạnh phúc nếu tập thể đó sống tử tế với nhau, tôn trọng nhau, nâng đỡ nhau, chia sẻ với nhau niềm tự hào, sự vinh hiển. Chắc chắn đấy không phải là hoàn cảnh của người sống lưu vong như ông và bạn bè ông bây giờ, hay như đồng bào của ông hiện sống tại quê nhà. Phải chăng người ngày xưa vào những đời Lý, Trần, Lê đã có lúc sống trong hạnh phúc? Thế Nguyễn? Chém giết nhau cho lắm, chưa có thì giờ để hồi sức thì đám mây u ám từ Phương Tây đã bao trùm.
Mình ưa nghĩ chuyện bao đồng, viển vông. Một con ốc yếu đuối không mang nổi cái vỏ của nó còn muốn chiếu cố kẻ khác, ông ngẫm nghĩ. Hãy trở về với người đồng hành này. Ông đến cầm tay cô ta nói giả lả:
“Sao em không tiếp tục hỏi anh trời có đang mưa hay đã tạnh?”
Không trả lời câu hỏi ấy, cô ta nói nhỏ nhẹ:
“Anh đừng giận em nhé. Hồi nãy em nói cho có nói. Em không định nói thế đâu. Xin lỗi anh.”
Ông im lặng nhìn cô ta một chốc, sửng sốt. Ông định trả lời rằng anh mới là người có lỗi, xin em bỏ qua, anh không ngờ em chịu nhường nhịn đến thế, có lòng bao dung đến thế. Nhưng để đánh trống lãng, ông vội đáp:
“Thôi, đừng nói tới chuyện đó nữa. Ta hãy kiếm cái gì ăn nhé. Đói bụng quá.”
Sực nhớ, ông nói tiếp:
“Kìa, cửa hàng Clam Chowder, kia kìa”
Tai khu chợ có cửa hàng Pike Place Chowder bán món nghêu được quảng cáo “America’s # 1 most talked about Chowder. Bỗng nhiên ông muốn nói thật nhiều:
“Anh biết anh đói thì em cũng đói. Anh vui thì em cũng vui. Hai ta hai mà một. Bây giờ ta hãy làm đúng theo kế hoạch đã bàn với nhau hồi sáng nhé. Đến đây phải ăn Clam Chowder cho biết.”
Nói xong ông quay mình định bước tới nối đuôi một hàng dài thực khách đang đứng chờ. Người đàn bà vội vã đưa tay nhất định ngăn lại:
“Để em, để em.” Rồi cô bước đi nhanh.
Ông vẫn bước theo cô ta. Người đàn bà nói, giọng tha thiết:
“Em đứng nối đuôi được rồi. Cả hai đứng đây làm chi cho mệt. Mà phận em là phải lo cái ăn cái uống chứ. Anh đến kia ngồi đi cho khoẻ. Anh có thấy cái bàn đằng kia không?”
Cô đưa tay chỉ cái bàn tròn bằng sắt có bốn chiếc ghế sắt bao quanh đặt sát tường đầu một con hẻm nhỏ. Ông nói thì thầm lạnh muốn chết cóng lại ngồi ghế sắt ngoài trời, nóng muốn chảy mỡ thì hai chân bị xiềng nằm dài trong chòi mái tôn thấp gần sát đất. Và tự trách bất cứ cái gì xẩy ra bây giờ cũng tạo nên liên tưởng tới chuyện ngày xưa. Đúng, không chịu sống với hiện tại không thể có hạnh phúc.
Ông kín đáo nhìn người đàn bà đang quay lưng và khuất dần trong hàng người nối đuôi. Không thấy trọn vẹn, ông cố nhớ từng chi tiết một. Từ khi ở với nhau, ông chưa bao giờ làm thế. Nhan sắc chưa tàn phai dù nếp nhăn hiện mờ mờ trên cổ, nơi khóe mắt, trên trán. Mà nếp nhăn kín đáo có khi làm tăng thêm vẻ đẹp huyền bí, cái đẹp mong manh như của đoá hoa quỳnh lúc nửa êm về sáng. Son phấn hơi nhiều như dùng làm cái tấm khiên chống đỡ mũi tên, mũi giáo của thời gian. Rèm mi giả hơi dài, thường hay chớp chớp không được tự nhiên cho lắm. Mái tóc thường nhuộm đen chen những sợi màu nâu nhạt để dài xuống che một phần lưng và vai ôm lấy khuôn mặt hơi gầy khá xinh xắn, với cái “cằm kiêu hãnh”. Đặc biệt đôi mắt linh động còn có lửa, và giọng nói hơi điệu nghệ nhưng có âm vang. Chân mang giày khá cao, đứng chung trong hàng dài người nữ phương Tây, cũng không bị che lấp. Thân hình còn thon thả nhờ tập thể dục kỹ lưỡng và đều đặn. Thời còn trẻ, chắc chắn đẹp. Hơi hiếu động, hơi xốc nổi, ham vui, nhưng dễ thân, dễ mến.
Có lẽ cảm thấy bị quan sát, người đàn bà quay đầu lại nhìn nhanh và mỉm một nụ cười âm thầm, âu yếm. Ông bắt gặp một cái gì đó khác lạ. Ông thấy như có một tảng màu sắc mờ ảo nhưng êm ái bao bọc lấy khuôn mặt dịu dàng ấy, với đôi mắt ngạc nhiên, thảng thốt, lóe lên những tia sáng long lanh, ấm áp. Ông băn khoăn. Chỉ một thoáng chốc đó, ông cảm thấy người đàn bà đã biến thành một người hoàn toàn khác, một người đáng được sống trong hạnh phúc, đáng được gặp một người như ông lúc ban đầu. Vâng, ông chỉ mang cái dáng dấp hào hoa, tốt đẹp cùng với những cử chỉ thân ái, tín cẩn đối với người mới quen biết trong buổi sơ ngộ. Về sau, về lâu về dài, ông biết, người ta sẽ chán ông.
Một con chim cánh đen, mỏ xám và dài, đuôi dài, và đôi chân màu bạc cũng dài, nhỏ hơn con chim bồ câu, bay sà tới. Nó đậu ngay trước mặt ông. Ông chăm chăm nhìn nó. Nó nhìn lại, rụt rè. Không phải là chim sáo mỏ vàng, chân vàng như thường thấy ở thôn làng xa xôi nơi quê nhà, tuy hơi giống. Ai xui con sáo nó sang sông. Hay ai đem con sáo sang sông? Con chim này khá dạn dĩ, nhảy từng bước tới gần ông, nghiêng đầu hỏi han, nghe ngóng. Không có gì cho nó ăn, ông cúi mình xuống đưa bàn tay vẫy vẫy làm quen. Nó ngần ngại nhảy tới thêm mấy bước ngắn. Thấy chẳng có gì. Bay đi.
Ông nói nhỏ thành tiếng. Mình có định cặp với cô này đâu, cuối cùng vẫn cứ cặp. Mình đâu có định làm lại cuộc đời đã mỏi mệt, cuộc sống đã dư thừa. Càng cố loay hoay sắp xếp, càng thấy mỏi mệt thêm, dư thừa thêm. Thế mà vẫn cứ làm những điều không nên làm. Và điều đáng làm thì không làm. Vâng, cô ta không phải là loại người chờn vờn như cánh chuồn. Khi vui chuồn đậu, khi buồn chuồn bay, như trong câu ca dao. Càng không phải là tấm vải rẻo dùng để vá chiếc áo của mình đã rách bươm nhiều chỗ. Nếu cuộc đời là một vở kịch, cái vai mình đóng dù hay dù dở cũng đã đến hồi kết thúc. Mà dở nhiều hơn hay. Cô ta khác. Cô đáng sống trong hạnh phúc. Liệu mình có thể mang lại hạnh phúc cho ai không. Có biết hạnh phúc là cái gì hay không. Bỗng dưng ông thấy lòng lạnh lẽo như mùa đông đang đến.
2/2017
NHỚ BÙI BẢO TRÚC
(1944 - 2016)
Ngự Thuyết
Tôi được tin anh Bùi Bảo Trúc bị bệnh đã khá lâu. Gần đây, anh vẫn thực hiện mục Điểm Tin và Ngày Này Năm Xưa từ 10 giờ đến 10 giờ 30 mỗi buổi sáng, từ Thứ Hai đến Thứ Sáu mỗi tuần. Tuy nhiên thay vì tới Đài Little Sài Gòn, anh làm việc tại nhà, dùng điện thoại nhà liên lạc. Không những thế, chương trình của anh thường bị cắt hoặc gián đoạn, giọng nói của anh có phần yếu ớt, chứng tỏ rằng bệnh tình của anh không thuyên giảm.
Hôm Thứ Năm tuần vừa qua (15/12/2016) bà Võ Phiến và tôi đến thăm anh, không báo trước. Khi đến trước cửa nhà anh chúng tôi mới gọi điện thoại, được anh trả lời bằng cell phone rằng bạn anh đã chở anh đi Irvine. Tôi ngạc nhiên. Giọng nói của anh còn đầy sinh lực, khác hẳn khi anh nói qua Đài Phát Thanh. Tôi nói một cách thành thật, chứ không phải để trấn an: “Giọng nói của anh mạnh rồi. Thanh hơn sắc. Anh sẽ bình phục nay mai đấy. Tôi mừng lắm.”
Thế là chúng tôi đi thăm hụt, nhưng cũng thấy vui hẳn lên. Bà Phiến bàn thêm rằng anh Trúc đi chơi với bạn bè như vậy có nghĩa sức khoẻ anh đã ổn định. Ngày hôm sau, Thứ Sáu 16/12/2016, tôi canh đúng 10 giờ sáng mở máy nghe chương trình của anh xem thử anh nói năng ra sao. Hăng hái không, giọng sẽ tốt như hôm qua hay tốt hơn, yêu đời không, đùa cợt một cách ý nhị như mọi khi không.
Anh nói vài câu về một chuyện xẩy ra bên Ấn Độ, giọng nói hơi ngập ngừng, yếu ớt, khó khăn. Anh vốn nói trôi chảy, lôi cuốn. Rồi im lặng khá lâu. Rồi anh nói tiếp: “Tôi nghĩ rằng cái, cái, cái, cái, cái ...” Chữ “cái” được lặp đi lặp lại nhiều lần, và tắt hẳn. Nhạc được trổi lên thay cho phần trình bày của anh. Tôi sửng sốt. Đến tối, được tin anh qua đời.
Thật là lạ lùng! Thế là anh đã làm việc cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời mình. Tôi đoán anh đã cương quyết như vậy. Trong chương trình của anh, thỉnh thoảng anh nhắc đến và ca tụng Nguyễn Du. Nay anh noi theo lời thơ của Cụ: “Con tằm đến thác cũng còn vương tơ.”
*
Tôi thường vẫn đón nghe anh trên đài Little Sài Gòn. Khá nhiều bạn bè của tôi cũng thích nghe anh.
Trên nước Mỹ này, mỗi ngày có biết bao tin tức, đọc sao cho hết, nghe sao cho hết. Anh biết chọn lựa tin tức, và đưa ra những nhận xét thông minh, duyên dáng, thường là tinh quái, hóm hỉnh. Thì cũng là tin tức mà người ta đã biết, nhưng còn muốn thấy thêm giữa những dòng chữ, bên dưới những dòng chữ, còn có những gì. Anh cố gắng đáp ứng cái muốn đó. Anh cố sức soi rọi những điểm khuất bằng cái nhìn độc đáo, bằng những nhận xét mới mẻ. Anh ôn lại Ngày Này Năm Xưa cũng với tất cả cái thú vị của nó, và khiến nó linh động hẳn lên. Lại thêm kiến thức của anh rộng, trí nhớ của anh tốt. Những vốn liếng ấy giúp anh thực hiện chương trình một cách tự nhiên, ung dung, nhàn nhã, liên tục hết năm này qua tháng khác. Anh nói với khán thính giả mà như nói với một người bạn thân, giọng nói trầm ấm, lôi cuốn, nghe như “thì thầm bên gối.” Khán thính giả chăm chú theo dõi, vui buồn theo cái vui buồn của anh. Nhưng khi gặp chuyện bất bình, nhất là những chuyện trái tai gai mắt thường xẩy ra tại quê nhà, anh biến thành một con người khác, cay độc, dữ tợn. Tóm lại, anh là người thẳng thắn, bộc trực, dám làm, dám nói. Và là một người chống Cộng quyết liệt.
Anh đọc nhiều. Văn thơ đông tây kim cổ anh đều tỏ ra thấu hiểu. Về thơ hiện đại của Việt Nam, anh thường nhắc đến Đinh Hùng, Nguyên Sa, về văn thì Võ Phiến, Mai Thảo. Trí nhớ tốt, anh đọc thuộc lòng vanh vách những bài thơ hay, những đoạn thơ đặc biệt, rồi đưa ra những lời khen ngợi hay những nhận định xác đáng.
Đối với các lãnh vực khác như âm nhạc, hội họa Việt Nam cũng như ngoại quốc, anh cũng là người sành điệu. Những ai am hiểu và say mê nhạc ngoại quốc như anh thường không để ý mấy đến tân nhạc Việt Nam. Anh, trái lại. Nhạc tiền chiến, nhạc bây giờ, trải qua gần một thế kỷ, anh nắm rất vững về tác giả, về thể loại, về giai điệu, về lời ca. Anh lại còn đi sâu vào những chi tiết khác, chẳng hạn ca sĩ nào thích hợp với bài hát nào. Ví dụ bài Ngàn Thu Áo Tím của Hoàng Trọng nên nghe Thái Thanh hát, bài Cô Láng Giềng của Hoàng Quý nên nghe Trần Thái Hòa. Ca sĩ nào hát sai lời ca của tác giả, anh kiên nhẫn giải thích và sửa lại cho đúng.
Anh còn viết văn, làm thơ, dịch thuật. Những tập Thư Gởi Bạn Ta được người đọc mến chuộng. Thơ của anh đăng trên báo thời còn trẻ được tìm đọc lại.
Trong văn của anh, tính cách giễu cợt, tranh biện và chất lửa cần có của một ký mục gia, một cây bút phê bình văn học, và nhất là chính trị, hiện lên rõ nét. Anh có thời làm Phát Ngôn Viên của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Tuy thế, rải rác trong nhiều bài, nhất là trong thơ, người đọc nhận ra anh là người giàu tình cảm, trân quý kỷ niệm. Nhất định không về quê hương khi còn cộng sản, anh tìm về Tân Tây Lan nơi anh từng trải qua một phần của thời trai trẻ du học. Anh tìm lại ngôi trường xưa, những người quen nay đã tóc bạc da mồi, con đường cũ, góc phố, quán ăn, cái còn, cái mất, cái thay đổi. Lòng anh bồi hồi.
Huống chi là kỷ niệm ở quê nhà.
Hà Nội thời anh còn thơ ấu, mài đũng quần trên ghế nhà trường Tiểu Học, nhớ lớp học bé nhỏ thì ít mà nhớ cây me, cây sấu, cây hoa phượng, con ve mùa hè, và Hồ Tây xa xôi, thì nhiều. Di cư vào Nam, học Trung Học Chu Văn An, đã có trí khôn, biết bao nhiêu kỷ niệm theo anh suốt đời. Hàng xóm, láng giềng, thầy, bạn, cái giếng, kệ sách, thang gác gỗ ọp ẹp bước lên kêu răng rắc, góc phố, cây trứng cá nở hoa trắng, xe bò viên cạnh rạp xi nê, khô bò, nước mía ở các ngã tư, ngã sáu, đu đủ ướp đá bào, khóm miếng Tân An ..., và nhất là những hôm trốn học tay ôm sách, mộng ước đầy hồn, đi lang thang trên những lề đường cũ phủ lá me non, hay đạp xe đạp lượn lui lượn tới trước cổng trường con gái, hoặc chui vào những rạp chiếu bóng thường trực Lê Lợi, Vĩnh Lợi, Đại Đồng, miệng cạp bánh mì, mắt say sưa đuổi theo những chân trời xa lạ.
Hãy đọc một đoạn thơ của Bùi Bảo Trúc:
Hãy tưởng tượng lại đi trên đường cũ
Những lề đường đá lát lá me non
Thời trốn học lang thang trên vỉa phố
Sách trong tay, mộng ước chất đầy hồn
Tất cả đành bỏ lại sau lưng. Có lần anh nói khó có ngày để có thể tìm lại kỷ niệm cũ. Mình sẽ không còn ở cõi đời này mà đất nước vẫn cứ như thế chăng?
Anh yêu cuộc sống vô cùng, tha thiết với cuộc sống vô cùng. Anh cám ơn tất cả những gì đã mang lại cho anh niềm vui, hạnh phúc, hay ngay cả những tiện nghi hàng ngày. Anh cám ơn từ “Cái cối, cái chày” cho đến tô hủ tiếu, tô phở tái gầu nóng hổi, con gà Tây ngày Thanksgiving, mì gói ăn liền, ly rượu vang đỏ, chiếc cà vạt thanh lịch, chị bán cháo lòng, anh bánh mì Ba Lẹ, chiếc máy chữ, cái Internet, nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc, nhà họa, vân vân. Cám ơn cả mái tóc của anh đang ngã qua màu trắng nhưng anh nhất định không nhuộm, cám ơn cả con chim bay trên trời xa, nụ hoa nở gần đầu ngõ. Cũng may tuy gắn bó với cuộc sống này đến thế, anh vẫn rất can đảm, rất bình tĩnh, khi nghĩ đến cái chết.
Đang lúc đau ốm, anh thường nói lỡ có chết cũng vừa, chả có gì mà hối tiếc, mà sợ sệt. Tuy nhiên, theo tiêu chuẩn bây giờ, chết ở tuổi 72 như anh quả có sớm. Nay anh đã thanh thản ra đi. Cái buồn và sự hụt hẫng ở lại với những người thương yêu anh. Trong đó có tôi.
Theo lịch trình tang lễ, họ hàng, thân hữu sẽ viếng anh tại Peek Family vào ngày 30/12/2016. Tôi đi vắng trong vòng 10 ngày vào dịp đó. Tiện có bài viết ngắn tưởng nhớ anh, tôi xin ghi thêm vào đây lời cầu mong anh yên nghỉ nơi chốn vĩnh hằng.
22/12/2016
22/12/2016
Tác phẩm đã xuất bản:
1
Sóng Trôi
Sóng Trôi
NXB Thanh Văn, 1996
2
NXB Đồng Văn, 1998
3
NXB Văn Mới, 2002
4
NXB Văn Mới, 2003
5
NXB Văn, 2005
6
NXB Văn Mới, 2009
7
NXB Kim Thư 2013
Truyện ngắn được nhiều độc giã biết đến
ÁNH MẮT
Ngự Thuyết
Một buổi trưa. Nắng dữ dội, hừng hực, chói chang. Bụi đỏ cuốn lờ vờ theo bánh xe lăn của chiếc xe đò vừa chạy nhanh dần trên con đường vắng. Má và chị đã lên xe. Nó dim mắt nhìn theo. Con đường trong thoáng chốc đã nuốt hết cả chiếc xe đò, chẳng còn thấy tăm hơi. Lạ thiệt, khi mình ngồi trên xe thì xe nuốt đường, mình nhìn theo xe thì đường nuốt xe, nó ngẫm nghĩ. Nó cũng lấy làm lạ rằng hễ nó đi đâu cơn nắng và cái nóng như điên đi theo nó tới đó, và lại nắng hơn, nóng hơn. Không còn chỗ nào để trốn nắng nếu không muốn chui vào nhà. Mà bây giờ nó chỉ ưng đứng ngoài đường, biết đâu... Nhà lá, nhà lợp tôn, những cột đèn điện, những cây sua đũa trước ngõ, những cây đước dưới vàm, đều như chềt đứng. Cỏ cũng không mọc nổi, chỉ lòi những gốc đen cháy quăn quăn như trùn đùn cứt lên mặt đất cằn. Mà không phải, đất ướt mềm sau cơn mưa mới nổi lên cứt trùn, nó sực nhớ. Chẳng có ai ngoài đường trừ nó. Thế nào cũng có xe đò khác từ Sài Gòn chạy về, đậu lại ở ngã ba này để lên xuống khách, nó hy vọng, thì, nếu không ai thấy, nó sẽ nhảy tót lên xe chạy tuốt xuống Gò Công. Sức mấy dám làm, ba đâu để yên, nó lẩm bẩm.
Nắng lâu ngày. Mà mới xài hết có ba lu trữ nước mưa ở sau nhà bếp, còn lại tới năm lu nước đầy nữa. Thế mà ba lại biểu nội hôm nay nó phải ra mang thùng nhỏ ra sông xách nước đem về đổ cho đầy một lu. Sao không bắt mang về đổ cho đầy cả ba lu luôn thể? Để làm gì vậy cà, nước sông đâu uống được. Hay là để hành nó, cho nó khỏi trốn nhà đi chơi? Hay là để tưới mấy cây bông thọ? Nó mong nắng dữ hơn nữa, cho chết tiệt mấy cây bông mắc dịch. Còn cả một buổi chiều, từ từ rồi xách nước, đi chơi cái đã, đi ra ngã ba cái đã. Ủa, nó đang đứng tại ngã ba mà!
Chưa biết chơi gì, nó đứng tần ngần. Nhà nó gần đó. Hôm nay Chủ Nhật nó khỏi đi học, mà cũng không được theo má và chị đi Gò Công thăm dì Hai.
Má nó thương nó nhưng sao lại nhất định không cho nó đi Gò Công, chuyến đi mà nó trông chờ cả tháng nay. Còn ba? Chắc ghét nó lắm, cái thằng ngỗ nghịch, ham chơi, không biết nghe lời, đi học về là vất tập vở vào xó bàn chạy biến đâu mất đất, cuối tuẩn thì lêu lổng suốt ngày, có khi quên cả bữa ăn trưa. Nó mới bảy tuổi, đang học lớp tư thời Pháp thuộc trước năm 1945, nay là lớp hai.
Ba nó rất dữ và nghiêm khắc với nó. Nó bị ba đánh đòn hoài, thường đánh bằng cuốn lá dừa khô thay roi. Khi không có sẵn roi, bạt tai. Bị roi dừa vào đít đau lắm. Một lần trước khi nằm sấp xuống mặt giường lãnh đòn, nó lấy xấp lá chuối lén chuồi vô trong quần xà lỏn. Quất lên kêu cái bộp, ba biết ngay. Thì tiếp theo là trận đòn kinh hoàng. Bạt tai đỡ đau hơn, nhưng vết ngón tay in rõ vô mặt, má phải lấy nhúm muối pha chút nước lạnh đắp vô cho mau tan máu để nó tới lớp khỏi bị chúng bạn chê cười. Nó nhớ rằng chưa bao giờ ba nói một câu êm tai cho nó nghe. Toàn là những tiếng rầy la. Và hình như ba cũng không bao giờ cười với nó. Nó luôn luôn né tránh ba. Rõ ràng ba không thương nó, mà nó cũng không thương ba, chỉ sợ và oán giận.
Có lần nó nghe lén ba nói với má phải coi chừng thật kỹ cái thằng bướng bỉnh ngỗ nghịch này, bằng không lớn lên nó giống như bác nó. Nó có biết loáng thoáng về bác cũng nhờ làm bộ nằm ngủ khì khi ba má nói chuyện to nhỏ với nhau. Nghe tiếng được tiếng mất. Ông bà nội giàu, có nhiều vườn, ruộng. Bác xài quá đã, làm mất tiêu hết trơn tiền của, đồ đạc của ông bà. Đi trốn. Rồi đi lính đánh giặc bên Tây không về. Chết sống không ai biết. Cho nên ba nghèo, mà má cũng chịu lấy, mà ba phải có nghề chớ không được như bác. Thì ba liền đi dạy kèm ở mấy nhà bà con lối xóm. Sau trường thiếu thầy, ba được kêu dạy đỡ một thời gian. Má cầu ba được dạy lâu.
Má nói nó còn nhỏ, từ từ nó sửa đổi, nó sẽ không giống bác đâu. Ba gắt, má im. Nó chẳng hiểu gì mấy.
Má làm mọi việc trong nhà, làm thêm lạp xưởng bán. Lạp xưởng Cần Đước đặc biệt, to và dài gấp đôi lạp xưởng thường, và ngon, ai cũng thích. Làm không kịp bán. Tiền bán lạp xưởng nhiều hơn tiền lương ba dạy học, ba nói. Ba dạy tại trường tiểu học của quận. Học hết tiểu học, nếu ai còn muốn học tiếp phải đi Gò Công, nhà giàu thì đi Sài Gòn. Chị học lớp nhì nhất niên, trên nó hai lớp, sau chắc là được đi Gò Công ở nhà dì Hai học tiếp.
Nó thích bắn chim bằng ná giàn thun, bắt chước tụi nhỏ học trên lớp làm nguyên được cái ná. Nó khéo tay, ná của nó xịn hơn của tụi kia. Một hôm nó rình bắn chim bồ câu hàng xóm, trúng cái bịch, con chim nhìn nó rồi bay đi tỉnh bơ. Nhưng nó bắn chết được chim sẻ, chim sâu, chim chào mào. Và vài thứ chim khác nó không biết tên. Cũng thỉnh thoảng đi câu cá rô, câu tôm, câu ếch, bắt nhái. Vùng nó người ta ăn cả nhái xào gừng, tỏi, ăn ngang xương, bảo rằng ngon hơn ếch. Ngoài ra nó chẳng còn thú vui nào khác nếu nó không biết bịa đặt ra trò chơi cho chính mình. Mà tới trường thì chán. Má nó thường mắng con không chịu chăm học lớn lên đi làm lơ xe đò. Nghe vậy nó càng thích, làm lơ thì sướng quá, ngày nào cũng được đi xa, có thể đi Gò Công, đi Sài Gòn, nếu được làm lơ cho xe đò đường dài.
Hôm nọ nó dụ tụi nhỏ lội qua vàm sông nước lợ đi bắn chim, mò cua, bắt nhái suốt ngày. Ham chơi quên cả ngày giờ, chiều mới về, bị ba chặt ná, đánh đòn, lại còn bị má lần này chiều ý ba phạt không cho nó đi Gò Công.
Nó đứng ngơ ngẩn trước ngã ba nhìn con đường trải nhựa đen dưới cơn nắng cháy. Con đường như đang bốc khói trắng. Khi có gió thổi tạt tới càng thêm nóng, gió như gió từ lò lửa không bằng. Nó cổi phăng cái áo sơ mi cụt tay đang mặc, quấn quanh bụng, ở trần cho khỏe. Từ ngã ba đi thẳng, đi thật xa, đi bằng xe đò mới nổi, sẽ lên phà qua con sông thật bự, rồi tới nhà dì Hai. Nó biết vì nó đã được cho đi thăm dì dượng Hai mấy lần. Vui ơi là vui. Dì thương nó hơn chị. Nó chỉ có một bà dì, chị của má. Nếu tới ngã ba quẹo mặt, sẽ tới trường nó học, rồi tới Quận, tòa nhà lớn, có lính gác, có hàng rào chung quanh.
Buồn tình, nó ngồi trệt xuống đất vọc cát, rồi lượm mấy hòn đá sỏi nhỏ tròn dồn thành một đống, xuýt xoa, những hòn này bắn chim hết sẩy. Ô, nhưng ná bị chặt rồi! Nó đứng dậy bứt rứt, sẵn có mấy hòn đá trong tay, ném đại vào cột đèn điện gần đấy. “Đấy” hay “đó”? Cô giáo gốc Bắc thích chữ “đấy” hơn. Nó ưa nhái tiếng Bắc, nghe thiệt vui tai. Tiếng Trung thì nó chưa hề nghe. Có chi lạ là nó bắt chước liền. Hòn trúng, hòn trật, vang lên những tiếng kêu khô khốc, chán chê. Nhưng còn hơn đứng đó không biết làm gì. Nó luôn luôn nhúc nhích như con giòi, múa máy như con khỉ, chị nói. Không bao giờ ngồi yên được. Nó lượm thêm đá ném, ném, hết hòn nọ đến hòn kia. Mồ hôi bắt đầu tuôn ra ướt cái đầu tóc cụt, cái lưng trần cũng ướt. Bỗng một xe nhà binh chạy trờ tới, một thằng Tây lái. Tại sao thằng? Thấy người lớn kêu thằng, nó cũng kêu thằng. Còn Tàu thì là chú, tức là chú em như có lần nó nghe nói. Em út trong nhà mà.
Mắt nó loà trong nắng, đầu nó nóng muốn khùng. Chạy tới đây phá đám hả? Đã thế, ném xéo một phát dọa chơi. Không ngờ xe lao tới mau hứng ngay hòn đá. Nó giật mình. Chiếc xe thắng két, đậu lại. Nó hoảng hốt. Thằng lính Tây, lính hay sỹ quan, nó không biết cấp bậc, nhảy xuống xe. Nó thoáng thấy trên mặt thằng Tây có máu chảy. Nó bỏ đống đá chạy biến vô nhà.
Ba đang ngồi chấm bài trước một cái bàn nhỏ, thấy nó chạy ào vô, liền đứng phắc lên. Tên lính trẻ, cao lớn, bước vô theo. Nó chạy tuốt vào trong, núp sau cái vách lửng nhìn ra thấy hết. Ba cũng cao to dưới con mắt nó, nhưng so với thằng lính này, không thấm vào đâu. Mà hình như tự nhiên người ba thun lại, nhỏ hẳn đi, thiệt là lạ quá xá. Hai người đứng cách nhau không đầy hai mét ngó nhau. Ba mặt xanh lét, tay phải cầm cây viết mực đỏ hơi run run, tay trái vịn vào thành ghế. Nó ngạc nhiên vô cùng. Ba luôn luôn lạnh lùng, dữ dội, nó khiếp sợ đã đành mà chị, má, hay hàng xóm láng giềng ai nấy đều nể mặt. Nay ba sao vậy. Nó lờ mờ đoán có lẽ tại vì nó có lỗi mà ba phải xuống nước, xuống dốc đến như thế. Còn thằng lính bự kia súng bên hông, một tay thọc vào túi quần, tay kia chỉ vào vết trầy trên má. Ba đứng nín khe. Mà nó biết ba nói được tiếng Tây ro ro.
Bỗng thằng lính nói một hơi dài, nói như hét. Nó đứng sau vách nghe muốn té xỉu. Ba hơi giật mình. Mấy con chim sẻ đang nhảy cà tưng dưới mái hiên hoảng hốt bay vụt ra đường, con gà mẹ đang dẫn đàn con trước sân cục tác mấy tiếng rồi cả bầy chạy biến vào lùm rau thơm, rau càng cua, rau nhiếp cá ngoài vườn. Rồi tất cả trở lại im lặng trừ tiếng kêu tích tắc rõ mồn một của cái đồng hồ treo tường. Ba vẫn đứng yên một chỗ như bức tượng, người như càng choắt lại, không nhúc nhích, không mở miệng, không chớp mắt. Nó không biết cái im lặng đó kéo dài trong bao lâu, chỉ thấy là lâu lắm, và nó có linh cảm nếu mọi chuyện cứ im lìm như thế này trong một chút xíu nữa thôi thì tai họa khủng khiếp sẽ xẩy ra. Chắc chắn như thế.
Không hiểu sao, nó liền lê bước ra khỏi chỗ núp, run run đi tới phía thằng Tây, mắt nơm nớp nhìn ba. Bốn mắt gặp nhau, nó sợ chết khiếp, vội cụp mặt nhìn xuống đất nhưng cũng kịp thấy trong mắt ba vài tia sáng lạ thường khác hẳn mọi ngày. Thằng lính cúi xuống dang tay tát mạnh vào má trái của nó, rồi quạt ngược vào má phải. Bàn tay to như nải chuối, mỗi ngón tay là một trái chuối, nó nhớ hoài. Nó ngã ngửa, đầu nện xuống nền xi măng nghe cái bịch. Đánh xong thằng lính quay đầu ngó ba lần chót, rồi quay đít bước ra khỏi nhà nện gót giày đinh kêu cộp cộp. Chưa đầy nửa phút sau, có tiếng rồ máy ngoài đường. Tiếp theo là im lặng. Cái im lặng lần này còn dễ sợ hơn khi hồi nhiều.
Nó không thấy đau, không khóc, tay ôm đầu, lồm cồm bò dậy, đứng lên. Nhưng sợ hãi vô cùng. Đúng rồi, nó nghĩ ra, cái sợ mạnh hơn cái đau, lấn cái đau. Không phải sợ thằng lính, mà sợ ba. Mình vừa gây ra chuyện động trời như thế này chắc chắn ba sẽ có cách trừng trị đích đáng. Nó đứng yên một chỗ, nhìn xuống đất chịu trận. Tất cả lại im lặng. Đứng lâu quá muốn qụy chân, nó ngước mắt lên thấy ba đã ngồi xuống ghế từ đời nào, tay phải cầm cây viết mực đỏ. Nó không dám nhìn thêm. Nó đoán ba chờ má đi chợ về rồi ba má sẽ cùng nghĩ cách trừng phạt. Lần này chắc chắn má về phe ba. Mồ hôi nó chảy ra ướt đầu, ướt tóc, ướt rát hai má, ướt thân hình, ướt cả cái quần xà lỏn. Quần ướt mồ hôi hay són đái, nó đoán cả hai. Chỗ nào cũng ngứa ngáy quá hết chịu nổi, nhưng ngứa cái cổ nhất. Nó không dám đưa tay lên gải, lại nín thở len lén nhìn ba. Ba vẫn trong tay cây viết mực đỏ, mắt chăm chú nhìn xuống mặt bàn, ngồi thừ. Nó lần từng bước đi lui vô phòng trong, cố không gây tiếng động, ngồi nhẹ xuống giường, đưa tay gải cổ trước, rờ mặt sau. Bây giờ nó mới cảm thấy hai bên má đau buốt, cái đầu muốn long ra khỏi cổ. Ngồi lâu mỏi, nó nằm xuống ngủ thiếp lúc nào không hay.
Bỗng nổi lên tiếng la lớn con sao vậy, trời ơi là trời. Nó giật mình dụi mắt ngồi dậy đưa tay che mặt. Má đặt rổ đi chợ xuống đất, kéo nó ra phòng ngoài coi cho rõ, lại la lớn hơn. Thường má theo phe ba, sợ ba, im ru bà rù hoặc nói ít câu thôi khi thấy nó bị ba đánh. Bây giờ má gào lên sao đánh con dữ thần vậy anh ơi, con mình mà, sao đánh nó như đánh kẻ thù không bằng, hả anh. Đau xót cho tui quá. Ba vẫn ngổi yên trước bàn, cau mày khó chịu. Nó sợ quá. Rồi má vội xuống nhà bếp lấy muối lên thấm nước vào, mấy ngón tay run run đắp muối lên mặt nó, tránh hai con mắt và lỗ mũi. Vạch tóc đắp muối lên cả cái đầu u. Ông ơi, nói trong nước mắt, khổ cho con tui lắm, chắc phải đem nó đi nhà thương. Nó càng run bần bật. Mà con làm cái chi chi để bị đánh đập tàn nhẫn đến như vầy, hả con. Như mọi lần khác bị đòn, dù có lỗi hay không, huống là lần này, nó không nói lại, cãi lại với ba má một lời nào.
Hôm sau mặt nó sưng vù. Cái đầu u có tóc che ít bị thấy. Nó chờ đợi. Nó chờ đợi hình phạt. Hết ngày đầu tiên không thấy gì. Qua ngày sau cũng thế. Nó phải nghỉ học cả tuần lễ chờ cho cái mặt bớt sưng. Rồi tuần sau, tuần sau nữa cũng không thấy ba đả động tới chuyện đó. Lạ quá, nó không hiểu nổi. Thế là chìm xuồng? Thế là tai qua nạn khỏi? Má nó hỏi chuyện, chị nó cũng tò mò muốn biết, nhưng nó nín thinh. Nó có linh cảm rằng ba đã im thì nó phải im theo. Như vậy mới yên thân. Có điều gì đó thật “quái chiêu” mà nó chỉ cảm thấy lơ mơ trong đầu, không rõ đâu vào đâu. Thì phải tìm cách nghe lén. Má hỏi ba thêm mấy lần, ba gắt đừng hỏi nữa. Rồi ba bỏ đi ra khỏi cửa. Thế là hết, mọi thứ chìm xuồng thiệt rồi, tai qua nạn khỏi rồi, nó mừng rơn.
Từ đó ba đổi tính. Chợt vui, chợt buồn. Có lúc bồn chồn, đứng ngồi không yên, có lúc thừ người trên chiếc ghế dựa tay cầm cây viết mực đỏ đầu cúi gầm nhìn mặt bàn. Má rất buồn lòng vì cái bộ tịch lạ lạ của ba. Một lần má nói ngay trước mặt nó, biểu nó từ rày về sau đừng nghe lén nữa, xấu lắm, rằng cái thằng này quậy quá trời, anh trị cho nó một trận hôm đó cũng đáng đời nó rồi, mà nó chỉ đau mấy hôm, nay đã lành hẳn, lại biết lỗi bớt ngỗ nghịch. Thì việc gì anh buồn. Ba quát khổ lắm, xin đừng làm rộn nữa, má lầm bầm những gì trong miệng nó không thể đoán ra.
Nghe lén xấu? Thôi, không thèm làm vậy nữa là xong, nó tự nhủ.
Nó còn thấy ba có một thói quen mới. Ba thường cầm chặt trong tay cây viết mực đỏ đó cả những khi ba không chấm bài. Thì, như chớp nhoáng, hình ảnh thằng Tây to lớn hiện lên, đi ra, đi vô cái phòng khách phải cúi đầu cho khỏi bị cụng, thân hình che gần lấp hết cánh cửa, cái phòng tối sầm lại, và thế là nó vội nghĩ sang chuyện khác ngay, hoặc tìm chơi bất cứ cái trò gì có thể nghĩ ra để đuổi đi những đám mây mù muốn bám vào đầu, vào bụng. Đúng thế, nó cũng có nghĩ bằng bụng chớ không phải chỉ bằng đầu. Như thưa Thầy con nói lộn, trong bụng con đâu dám nghĩ vậy. Và có lúc người ta nói những câu con làm bộ chăm chỉ nghe nhưng trong bụng không hiểu gì cả. Và nó cũng có khi “nghĩ” bằng rờ. Và có thể bằng thứ khác nữa.
Nó rất có tài đẻ ra trò chơi cho chính nó. Tờ lịch treo tường vừa lột ra xếp thành tàu thủy, máy bay, xe tăng; tổ chim ròng rọc khều từ cành mận cao đem vô làm găng tay võ sĩ đánh bốc; tàu lá thốt nốt mới rụng sau vườn lấy đọt làm thanh gươm cong; tàu dừa khô giữ nguyên lá làm áo giáp lè kè; trái bưởi to vỏ dày lấy dao xẻ dọc vỏ bên ngoài thành nhiều khứa tét ra làm mũ trụ đội lên đầu; vân vân. Ngay cả tàu lá chuối má vừa cắt nó lấy ngay cái cuốn giữa cứa ngang lưng chừng nhiều nhát cách nhau hai lóng tay lật những khứa dựng lên rồi đưa bàn tay vuốt mạnh một phát từ trong ra ngoài kêu lên rẹt rẹt như tiếng súng liên thanh. Nó tức cười thấy đồ chơi của mình sao toàn là những thứ dùng để “ra trận” - hai chữ đó về sau nó mới hiểu. Coi bộ mình lớn lên sẽ bắt chước đi lính như thằng Tây đánh nó. Lính quyền lắm.
Từ hồi đổi tính, ba không gắt gỏng với nó, cũng không đánh nó. Chính nó cũng có thay đổi, bớt lêu lổng, chịu khó học hành đôi chút. Và hết ghét ba. Đúng ra, thương. Có phải vì không bị đánh, không bị la, mà thương? Chắc không phải chỉ vì thế mà thôi, nó biết. Thỉnh thoảng ba kín đáo nhìn nó, nó giả bộ ngó quanh, nhưng thấy. Ánh mắt của ba có chút ấm áp chứ không lạnh tanh như trước kia, và lạ quá, luôn luôn nặng trịch buồn và đau. Sao vậy hả ba?
Một hôm, trong bữa ăn tối vui vẻ, vui vẻ vì ba bỗng dưng ưa bắt chuyện với má chứ không lầm lì như hổm rày, và ngon lành vì có món khô cá sặt nướng trên lò than hồng xé ra ăn với dưa chuột giầm nước mắm tỏi pha đường chanh ớt mà ba rất thích, mà nó không thích, ba nhắp trước một tí rượu mạnh, không phải bia như thường lệ, rồi hỏi nó nhưng mắt chăm chú nhìn má:
“Mày có muốn, con có muốn, đi với ba không?”
“Đi đâu, ba?”
“Không cần biết.” Ba xoay xoay chung rượu trong lòng bàn tay. “Mày, à con cứ trả lời con có đi theo ba không cái đã.”
Má chen vào:
“Anh lạ chưa, phải nói đi đâu trước. Tui biết tỏng hết rồi. Anh tính cho nó đi dì Hai bù lần trước chớ gì?”
“Không phải.”
“Vậy đi đâu?” Má hỏi tiếp
“Đi bưng.”
“Đi bưng cái gì? Đi bưng là gì?” Má tươi cười tiếp lời.
“Bưng biền.”
“Cái anh này! Hết chuyện giỡn rồi hả?”
Nó chăm chú nghe, chị nó cũng ngạc nhiên nhìn ba. Ba bỗng nghiêm giọng, nói chậm rãi từng tiếng một:
“Anh không giỡn. Đã liên lạc với người ta.”
Má hơi giật mình, mặt má bỗng tái xanh, tay run run đặt chén cơm xuống bàn ăn. Ba làm như không thấy, quay qua nó nhắc lại câu hỏi:
“Sao? Con có muốn đi với ba không?”
Nó đáp như máy: “Dạ, dạ. Con đi với ba, con đi với ba.”
“Tốt lắm.” Ông đặt chung rượu xuống bàn, gắp miếng khô cá sặt cho vào chén để đó mà ngó chằm chằm, chứ không ăn liền như mọi khi. “Vậy là xong, ba chỉ cần biết có thế.”
Má bật khóc. Chị chẳng biết gì cũng thút thít theo. Má lấy mấy ngón tay chùi ngang nước mắt đang chảy dài, nói nghẹn giọng:
“Nhưng ... nhưng tự nhiên ... sao lại phải đi? Có chuyện gì vậy?”
“Có chớ.”
“Chuyện gì hả anh?” má rụt rè hỏi.
“Chuyện của đàn ông, bà không cần biết.”
“Anh nói lạ chưa! Cứ cho em nghe thử.”
Ông thở dài:
“Tui biết nói sao đây. Chính tui cũng không hiểu cho rõ ràng thì làm sao nói cho bà hiểu.”
“Nếu thế xin anh nghĩ lại. Nhà mình đang yên ổn, anh đi dạy, con đi học, em phụ. Em xin anh, em lạy anh...”
“Tôi đã quyết định dứt khoát,” ba bỗng nhiên cau có nói lớn. “Mọi chuyện đã xếp đặt đâu vào đấy. Đi vài ba năm thôi rồi sum họp lại.” Rồi ba nói như nói cho một mình ba nghe, “Ta sẽ thắng, sẽ thắng. Chắc chắn như thế.”
“Anh nói cái gì vậy?” má ngạc nhiên. “Hay là anh ...”
Ba ngắt lời ngay:
“Không, không có chuyện hay là hay không hay là cái gì cả. Thôi, đừng nói thêm nữa.”
“Ô kìa,” má quắc mắt, giọng nói cứng lên, “thì tui cũng có quyền trong cái nhà này chớ. Này, này anh để cho em ...”
Ba dịu giọng:
“Được rồi. Đây là chuyện của người lớn, khi khác nói tiếp.” Ba gắp miếng khô cá sặt. “Bây giờ má nó bưng chén lên đi chớ. Ăn cho xong bữa cái đã.”
Má không chịu bưng chén, càng khóc lóc thảm thiết:
“Mình chỉ có nó là thằng con trai. Anh nghĩ lại giùm cho em.”
Cuối cùng ba chiều ý má, không dắt nó theo, đi một mình. Nó không biết nên vui hay nên buồn, nhưng nó biết chắc nếu đi, nó sẽ nhớ má chịu không nổi đâu. Chưa đầy một năm sau, được tin ba bị nạn. Bị mang những tội, những danh từ mà lớn lên nó mới hiểu: “Phát biểu linh tinh, chưa chịu ‘đầu hàng giai cấp’, điều nghiên kỹ thấy động cơ thoát ly có chỗ đáng ngờ, và lại thuộc thành phần gia đình phản động, phản quốc.” Từ đó không còn tin tức gì của ba nữa. Ba chết rồi, chị bảo hàng xóm nói thế. Má không tin, đi coi bói hết thầy này đến bà khác như đi uống thuốc an thần. Và chờ ngày chờ đêm.
*
Hơn 30 năm sau. Một thiếu tá của Quân Lực Cộng Hoà đang vừa cùng đoàn tù bước ra khỏi “tàu há mồm” đi hàng một trên đất lạ. Đây là Hà Nội, hay Hải Phòng, hay Nam Định? Những người tù thì thầm bàn tán. Chắc không phải đâu. Phải là những nơi xa xôi, hẻo lánh. Tù đông, thành phố nào chứa nổi, nhốt vô rừng là thượng sách nhất, là đúng nhất. Thôi đi, biết thế nào là đúng là sai. Suốt mấy tháng nay, có ai nói trúng được chuyện gì đâu. Cái suy nghĩ của mình hoàn toàn khác với họ. Riêng ông không nói một lời.
Suốt mấy hôm đứng, ngồi, nằm, bò, cằn, lết, tiểu tiện, đại tiện trên khoang tàu chật như nêm, ông không tham gia vào những bàn luận thường là buồn chán, nhảm nhí, vô bổ. Có người cứ thắc mắc tương lai sẽ ra sao. Không thể biết được thì hỏi làm chi. Trong hoàn cảnh này tốt hơn hết là im lặng chịu đựng, chịu đựng những đói khát, ngột ngạt, nóng bức, hôi hám, bạc đãi. Và cả cái chết, khi nó đến, cũng đừng lấy làm lạ. Ông biết ông chịu đựng được tất cả, mà những người khác cũng thế. Sức người thường rất kiên cường trước nghịch cảnh.
Tương lai tối tăm mù mịt, hiện tại nhầy nhụa, quái quỷ. Còn quá khứ? Ông nhớ lời một vị thiền sư đại khái hãy bỏ lại quá khứ đằng sau lưng. Nếu làm được vậy, ông còn gì? Ông sẽ trở thành gỗ, đá? thực vật? Thôi, cứ để quá khứ xuất hiện. Nó đeo ông dai dẳng, khi tỉnh thức cũng như trong giấc ngủ, đột ngột, tình cờ, thất thường, chồng chất, chằng chịt. Hãy xem nó như một người đồng hành, nó sẽ giúp mình khỏi phải để ý đến chuyện bây giờ, khỏi phải nghĩ đến chuyện ngày mai. Khỏi phải dòm ngó cuộc đời. Đời sống bây giờ có lối đi riêng của nó, mình có được tham dự vào hay không? Giả dụ có muốn tham dự đi nữa, nó cũng đẩy mình ra ngoài rìa.
Nào, nào, thế thì hãy lui tới với nó, trò chuyện với nó, quá khứ và kỷ niệm.
Trận An Lộc, tiểu đoàn của ông, một tiểu đoàn anh hùng, đánh tan quân địch đông gấp nhiều lần. Hành quân trong rừng xong, bắn trúng một con chim ưng to lớn. Nó rơi từ ngọn cây cao xuống đất, một cây bàng mọc hoang, không chết. Bảo lính cột nó lại, kéo hai cánh soải dài ra che kín cả mũi xe bọc thép, cánh vẫn còn dư, còn thò hai đầu mút. Cứ thế xe sẽ chạy về hậu cứ như chim bay đẹp biết mấy với con đại bàng to chưa từng thấy. Nhưng kìa cái ánh mắt, ánh mắt của nó khi nó nhìn lại. Sáng quắc, không tỏ chút đau đớn, khiếp nhược, hay sợ hãi. Và lặng lẽ, cô đơn giữa đám người, đám sinh vật lạ, đi lui đi tới chỉ trỏ, trầm trồ. Bỗng ông xúc động, tự tay tháo gỡ con chim ra khỏi mũi xe. Thấy vết thương nó nặng quá khó sống nổi, cái đầu, cái mỏ uy nghi rướn lên được một chốc rồi gục xuống cái ức đầm đìa máu, rồi cố rướn lên, bắn cho nó phát súng ân huệ, bảo lính đào hố chôn bên gốc cây bàng. Lính xin rứt ra mấy cái lông cánh đem về chưng, đẹp quá, không cho. Từ đó thề không bắn chim ưng hoặc bất cứ chim gì khác. Trận Đức Cơ thua chạy dài, đói khát, hết đạn, đơn vị thương vong nặng, mình còn nguyên, thì huy chương, thì được về phép, giận dữ, đau đớn, say rượu trong quán nhậu đứng lên rút súng ra, mới thấy bên bàn đối địch có thằng em họ phục vụ trong một đơn vị khác. Hú hồn. Còn ở A Sao đột kích chớp nhoáng, địch chết nhiều bỏ chạy, không kịp mang theo thương binh. Trực thăng tải thương hạ cánh nhanh, cất cánh nhanh, để tránh khỏi bị lọt vào vòng vây, ra lệnh tải cả thương binh bộ đội đang nằm co quắp, rên rỉ lên máy bay, không phân biệt ai trước ai sau, ta hay địch. Và những ánh mắt ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Trận, lại trận... Thôi. Suốt cả thời trai tráng lao mình vào chinh chiến, nói sao cho hết các kỷ niệm về trận mạc. Hãy để dành đó.
Hãy thử nhìn lại những chuỗi biến cố, kỷ niệm khác. Hãy lật lại những trang sách khác của đời mình. “Giở lại trang sách đời”, câu đó đọc ở đâu nhỉ khi còn nuôi cái thú đọc sách, khi tuổi còn trẻ, tóc còn xanh, quê hương còn thanh bình.
Như một cuốn phim diễn ra trước mắt. Nền Đệ Nhất Cộng Hòa, trong mấy năm đầu, tuyệt vời. Thực dân Pháp đã phải ra đi. Tất cả địa danh, tên đường, tên cơ quan nhà nước bằng tiếng Pháp đều được đổi qua tiếng Việt. Quốc Hội Lập Hiến, Hiến Pháp, Quốc Hội Lập Pháp, ra đời. Nhân tài từ nhiều nơi ở nước ngoài trở về cùng nhân dân trong nước ra sức xây dựng Miền Nam thành một quốc gia độc lập, dân chủ vững mạnh được hầu hết các nước trên thế giới thừa nhận và lập bang giao. Từ Bến Hải đến Cà Mâu, sức sống bừng bừng trổi dậy. Mưa thuận gió hoà, lúa má đầy ruộng, đầy đồng, đầy kho, đầy vựa; cá tôm đầy ghe, đầy thuyền, đầy sông, đầy biển. Công nghiệp, thương nghiệp phát triển mạnh, Giáo Dục, Xã Hội, Văn Hóa đều thăng tiến. Ấm no, hạnh phúc nơi nơi.
Chị đã có chồng là sỹ quan lái trực thăng đóng ở Cần Thơ, mẹ ở với gia đình chị. Anh, “nó ngày xưa”, cũng đã trưởng thành, vừa vào Đại Học vừa làm việc thêm kiếm sống dễ dàng. Bạn bè nở rộ như hoa, được tăng cường thêm người Bắc di cư, người Trung vào Nam. Nhưng cuộc đời không “xuôi chèo mát mái”. Cộng Sản Miền Bắc không để yên cho Miền Nam xây dựng. Cuối thập niên 1950 Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam trực thuộc Miền Bắc ra đời và khởi đầu chinh chiến cùng những xáo trộn trên chính trường Miền Nam. Chưa xong Đại Học, theo lệnh động viên, anh nhập ngũ, hăng say lên đường ra tiền tuyến. Bạn của anh cũng có một số trốn lính, hoặc nếu không trốn được thì cố chạy chọt để được đưa đến những đơn vị không trực tiếp chiến đấu. Anh tự hỏi tại sao anh khác những người bạn ấy. Và anh có câu trả lời: niềm hăng say của anh một phần không nhỏ bắt nguồn từ những suy nghĩ về người cha của mình, về những nỗi khổ tâm ba đã trải qua mà hồi đó còn nhỏ anh không hiểu, và về cái chết ấy.
Đơn vị cuối cùng anh chỉ huy trước khi Miền Nam thất thủ là một tiểu đoàn trấn đóng tại Cao Nguyên Trung Phần, dạn dày chiến trận, lập nhiều chiến công vang dội.
Đang giữ vững từng ngọn đồi, từng khe núi, từng dòng sông, từng tuyến đường, bỗng phải bỏ tất cả rút lui trong hỗn loạn. Rồi một số đơn vị trưởng cấp quân đoàn, sư đoàn tháo chạy ra nước ngoài, một số tuẫn tiết, một số chiến đấu trong tuyệt vọng, thiếu đạn dược, thiếu vũ khí. Nhiều đơn vị quân đội bơ vơ như rắn không đầu. Tiếp đến, nước vỡ bờ. Miển Nam vươn lên thần tượng bỗng gục ngã; dây liên kết với Đồng Minh vĩ đại nhất, hùng mạnh nhất trên thế giới bỗng đứt đoạn. Khi được lệnh đầu hàng, cùng với nhiều người tuẫn tiết, hai vị Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV tự sát, anh rể ở Cần Thơ lái trực thăng cùng mẹ và chị bay ra Phú Quốc. Anh buông súng.
Cuốn phim khép lại bằng hình ảnh đoàn tù đi hàng một trên đất lạ.
Tóc đã hoa râm tuy ông chưa tới bốn mươi, gương mặt rắn rỏi, cương nghị trong bộ đồ tù nhầu nát, rách rưới. Đằng trước đoàn tù một quãng ngắn, một cán bộ ánh mắt đầy thù hận long lên như lửa, cầm loa hô to “Đồng bào hãy bày tỏ thái độ đối với bọn này, bọn ngụy quân, nguỵ quyền, bọn phản quốc, bọn chỉ thích ăn gan người, uống máu người.” Bên đường bỗng đâu lù lù một đống đá. “Đồng bào còn chờ gì nữa, hãy lên tiếng ngay, hãy hành động ngay, hãy nguyền rủa chúng nó, hãy ném đá vào đầu chúng nó.” Tiếng loa càng lúc càng xé không gian ra thành những mảnh vỡ, thôi thúc, gay gắt, đe dọa. Dăm ba người lượm đá ném. Chậm chạp, uể oải. Chả trúng trật đâu vào đâu.
Bỗng từ đằng trước, một đứa bé khoảng bảy, tám tuổi chạy ngược về phía đoàn tù, tay cầm hòn đá lớn. Khi chạy đến gần ông, nó vung tay ném mạnh, hòn đá trúng ngay vào mặt ông. Ông choáng váng trong vài giây, lấy tay ém vào vết thương, máu trào ra những kẽ ngón tay chảy xuống bàn tay, cổ tay. Người tù đi trước khựng lại, người tù đi sau nhảy chồm tới, hai người lính bộ đội lập tức chỉa súng, lên đạn. Ông cũng dừng lại một bước, rồi cất tay ra thử, máu vẫn còn chảy, đè ngón tay lại ém lên vết thương, bước dài thêm cho kịp đoàn tù đang đi. Đứa bé hoảng hốt chạy ngược trở lui đến ôm ngang hông một ông già độ bảy mươi tuổi đang đứng dưới một cây bàng cao, lá lác đác chuyển từ xanh qua vàng. Mùa Thu chưa đến. Có lẽ ông già là ông nội hay ông ngoại thằng nhỏ. Vâng, con đường phố này có những cây bàng cao đứng thành hàng dài. Chắc chúng đã được trồng cách đây cả trăm năm, chứ không phải như cây bàng mọc hoang trong rừng vắng để con chim ưng vô tình đậu trên ngọn cao và lãnh một viên đạn chí tử vào ngực. Ba bốn người đến vây quanh ông già và đứa bé, hỏi han.
Khi đi đến gần nhóm người vây quanh ấy, ông vô tình đưa mắt nhìn và gặp ngay đôi mắt của ông già. Ánh mắt buồn, đau, xót xa trên khuôn mặt gầy gò. Nếu còn sống, chắc cha ông cũng cùng tuổi với ông già này, ông chợt liên tưởng. Ông dừng cái nhìn rất nhanh vào ánh mắt đó một lần chót. Đoàn tù đã đi hết con đường có dãy bàng cao, và sắp rẽ qua một lối xóm vắng tanh, xơ xác. Văng vẳng trong gió tiếng loa xa. Có lẽ một đoàn tù khác đang đến, ông ngẫm nghĩ.
NGHE SÀI GÒN TRÔI ...
(Trích từ LƯU ĐÀY VÀ QUÊ NHÀ, thêm tựa đề)
Ngự Thuyết
Ông đứng tại một góc của khu bùng binh Phan Thanh Giản, Lý Thái Tổ, nay là Điện Biên Phủ, Lý Thái Tổ, nhìn những con đường đầy nghẹt xe và người. Đông nghịt, bụi bặm, dơ bẩn, và hỗn độn. Như ong vỡ tổ. Như đàn thú rừng đang bị đuổi theo sau bởi những con thú mạnh hơn. Như những cảnh trong những khúc phim chạy giặc. Mà cần gì phải phim với ảnh, chạy giặc thì có hiếm hoi gì trong xứ sở này. Những ngày cũ bỗng hiện rõ trong tâm trí, những tin tức về các trận đánh lớn như đang được loan báo: Quảng Trị, Mỹ Chánh, Phố Buồn Hiu, Đại Lộ Kinh Hoàng, rồi dần dần Lăng Cô, Hải Vân, rồi Cheo Reo, Phú Bổn. Và những năm tháng cuối cùng, Bình Long, An Lộc, rồi Long Khánh, Xuân Lộc, rồi những cứ điểm án ngữ cho thủ đô Sài Gòn. Vâng, cảnh chạy giặc đã diễn ra liên miên ở khắp nơi. Mới ngày nào, thế mà đã hơn một phần tư thế kỷ! Ông bàng hoàng.
Trời như bừng lên cơn nóng mới, nung nấu, hừng hực. Ông lại đi dọc trên vỉa hè dòm ngó các tên đường, các bảng hiệu, mắt hoa lên, mồ hôi tươm ra ướt từ lưng ướt lên vai, ướt đẫm chiếc áo sơ mi vừa mới thay. Đầu tóc của ông cũng dần dần ướt nhèm, mồ hôi trán đổ ra cay mắt. Thỉnh thoảng ông phải đứng lại gở gọng kính và rút chiếc khăn tay ra lau mắt kính, lau mặt, lau trán, chiếc khăn tay ở một góc có thêu hai cánh hoa hồng thật nhỏ cài lên nhau, một cái màu tím, một cái màu vàng. Thủy vừa tặng ông chiếc khăn tay đó "để anh nhớ mãi". Ông nghĩ đến cái khách sạn sang trọng và cô phụ tá quản lý duyên dáng, xinh đẹp, tình tứ. Mình đã đi rong hết cả tuổi thanh xuân, nay đã đến lúc mình nên dừng chân một nơi nào hay chưa, ông tự hỏi. Thấy lòng nguội lạnh. Mọi chuyện đều đã đến với ông quá trễ tràng.
Ông lầm lũi bước. Ông có cảm tưởng bị lạc vào một thành phố lạ. Khu Ngã Bảy này nhiều đường đã mang tên mới, Phan Thanh Giản biến thành Điện Biên Phủ, Lý Thái Tổ thì vẫn cứ Lý Thái Tổ; rồi nào là Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú ... những tên gọi nghe bỡ ngỡ và chát chúa. Như tiếng búa nện lên đe. Tóe lửa. Giữa búa và đe là gì? Là những miếng nhom, miếng thiếc, thỏi sắt, thỏi chì, méo dần, mỏng dần. Là da thịt máu xương nhầy nhụa. Là những linh hồn vất vưởng. Núi lửa ở đâu phun ra thế, những dòng nham thạch đỏ như máu chảy cuồn cuộn nuốt chửng đồi núi, trang trại, trâu bò, nhà cửa.
Ông đi mệt nhoài vẫn chưa thấy đường Nguyễn Chí Thanh đâu cả. Tên cũ của con đường này là gì? Minh Mạng chăng? Trần Hoàng Quân chăng? Và tên cũ của nhiều con đường khác là gì? Ông quên nhiều quá rồi. Cảnh cũng lạ. Ông đi như đi trong cơn mê. Mộng du. Hay trước mắt là những con đường hoàn toàn mới vừa được phóng ra. Còn những con đường cũ thì vẫn có đó, nhưng nằm ở một nơi nào không chịu cho ông nhìn thấy. Ôi, những con đường lẫn khuất, trốn chạy, những doanh trại tàng hình, những người lính già giấu mặt, những thương binh lê la, quằn quại, những nghĩa trang san bằng!
Và bức tượng nữa chứ, bức tượng người lính Cộng Hòa ôm súng ngồi trước nghĩa trang bên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa! Người ta nói nhiều điều về bức tượng đó ngay từ khi ông vừa đến được một trung tâm tỵ nạn ngoài Biển Đông hơn hai mươi năm về trước. Những buổi trưa nắng mênh mông có nhiều ma quái lảng vảng, những buổi chiều tranh tối tranh sáng có lắm oan hồn lang thang, những hôm trời mưa dầm dề như than như khóc, bức tượng cô đơn ngồi ôm súng mặt bỗng buồn rầu, mắt bỗng âm u, bỗng từ từ trở mình cúi đầu nhìn vết thương xé lồng ngực, máu rỉ thành dòng. "Kẻ hành nhân qua đó" đau lòng quá, qùy xuống sụp lạy, thì bức tượng liền tan ra thành sương khói, để lâu lâu lại một mình hiện về chốn cũ loay hoay ôm súng tìm kiếm chỗ ngồi.
Sao người tạc tượng nhẫn tâm đến thế, ông ngẫm nghĩ. Sao không tạc thành hai bức tượng ngồi kề bên nhau, cho có bạn đồng ngũ, khi buồn khi vui có người trò chuyện. Hoặc tạc thật nhiều tượng, cái này đổ nát còn cái khác, cái nọ bị giật sập còn cái kia. Ông nhớ có lần đi Trung Quốc xem hàng trăm, hàng ngàn bức tượng tạc hình chiến tướng, chiến binh, chiến mã, chiến xa bị chôn vùi xuống lòng đất cùng với một ông hoàng đế nổi tiếng tàn bạo mấy ngàn năm về trước. Ông lẩm bẩm Tần Thủy Hoàng tuy vậy vẫn có một chút tấm lòng với sĩ tốt.
Bỗng ầm ầm sấm sét, những tia chớp xé ngang bầu trời đen. Cơn mưa đổ xuống nhanh và nặng hạt. Mặt đường bốc khói mù. Ông đang rảo bước trên vỉa hè tìm đường tránh mưa thì một xe gắn máy từ xa chạy tới thắng két ngay trước mặt ông, chận ông lại. Người lái xe thò đầu ra khỏi chiếc áo mưa pông-sô trùm kín, nón lưỡi trai rằn ri ướt sũng nước nhỏ thành giọt chảy ròng ròng trên khuôn mặt hốc hác, xương xẩu. Cặp mắt nhìn ông lạnh như tiền:
"Nhảy lên xe ngay. Đi đâu tui chở đi. Lẹ lên!"
Như tiếng ra lệnh. Ừ thì lên, rồi mình bảo xe ôm này chạy đến đường Nguyễn Chí Thanh là xong, ông thầm nghĩ. Ông cúi đầu chui vào tấm áo mưa. Một thân hình mềm mại đã ngồi sẵn dưới tấm áo mưa pông-sô từ bao giờ, lưng đâu lưng với người lái xe. Ông giật mình. Rất nhanh nhẹn, hai cánh tay như hai con rắn quấn lấy ông, hai bàn tay mơn man, mùi nước hoa rẻ tiền xông lên. Chiếc xe gắn máy chạy lượn qua, lượn về, lảo đảo trên những vũng nước đọng như say rượu, nhiều lần chực ngã, rồi từ từ chạy êm. Nước mưa trên mặt đường bắn lên làm ướt nhèm đôi giày ông đang mang, chiếc quần ông đang mặc. Như trong đêm đen, ông không trông thấy gì cả, không thể đoán được bọn người này chạy trên những con đường nào, sẽ đưa ông đi đâu. Lỡ chúng nó dẫn ông vào một "ổ nhện", hay đưa đến một nơi vắng rồi trấn lột. Ông chột dạ, la to bảo người lái xe ôm cho ông xuống ngay. Thì một ngón tay nhỏ nhắn đặt nhẹ trên môi của ông, tiếng nói âm thầm rót vào tai ông, yên đi nào, bồ nhà mà, có gì đâu mà ầm ĩ, quê lắm, người ta cười cho. Bỗng người lái xe ôm hét to át cả tiếng mưa rơi:
"Đâu?"
"Đường Nguyễn Chí Thanh," ông vội đáp.
"Không," cô gái cướp lời. "Chỗ mọi ngày trên đường Vạn Hạnh."
Đường Sư Vạn Hạnh? Ông nghe quen quen. Ông vội la lên:
"Nhưng tôi cần đi gấp, tới đường Nguyễn Chí Thanh cho tôi."
Cô gái đáp ngay:
"Cứ tới Vạn Hạnh trước, rồi Nguyễn Chí Thanh sau. Gần lắm."
Ông đang lúng túng chưa biết nói gì thì chiếc xe đã từ từ đậu lại. Ông chui ra khỏi chiếc pông-sô, tiếp theo là người con gái. Cô bé nhỏ quá, gầy nhom, vẻ mặt nửa quê nửa tỉnh, không đẹp không xấu, quần áo xốc xếch, nước da trắng bệch, tóc ướt đẫm nước mưa. Nếu ông có con thì cô bé này đáng tuổi con út của ông. Ông nhìn quanh. Ngay bên lề đường, dưới cơn mưa, ông để ý thấy trước một căn nhà có treo bảng Phòng Ngủ núp sau cây phượng cành lá sum suê, xanh biếc. Cô gái nói một hơi:
"Trả tiền xe lẹ lên anh. Hay không trả cũng được, em trả sau. Rồi theo em vô ngay trong kia đi chớ đứng lớ ngớ ở đây coi chừng người quen anh trông thấy lại bảo anh bắt cóc em thì nguy cho anh đó."
Ông ngớ người ra tưởng cô bé đang nói chuyện với một người nào khác. Anh lái xe ôm nheo mắt nhìn cô gái rồi rú máy phóng xe nhanh.
Cô gái cười vô tư, cầm tay ông kéo ông đến trú mưa cạnh một cái sạp xập xệ có mái che. Có lẽ đây là cái sạp bán báo đã bỏ trống lâu ngày. Cô bé “anh em” ngọt xớt khiến ông cảm thấy ngượng. Ông ngẫm nghĩ “anh" sắp về già, "em" thì con nít, tuổi chanh cốm. Ô, lại hão huyền, làm gì có chanh có cốm, họa chăng là có mùi thuốc lá, có mùi nước hoa không thơm, có cần sa, ma túy, và có thể có cả hàng tỷ vi trùng bệnh liệt kháng trong người! Đứng xớ rớ ngoài đường bên một cô gái gầy gò, xanh xao, tả tơi, ông không khỏi nghĩ đến cô phụ tá quản lý khách sạn xinh đẹp trên đường Đồng Khởi mà ông vừa tán gẩu. Sự tương phản quá lớn, một thiên đàng, một địa ngục, cách xa nhau không quá vài ba cây số. Không biết phải bắt đầu câu chuyện như thế nào, ông hỏi đại:
"Cháu tên chi?"
"Cháu cái gì mà cháu! Đi với nhau như vầy mà cháu? Kêu em thì mỏi miệng lắm hả?"
"Thì em ... tên chi?"
"Châu Lệ Thường."
"Tên lạ và hay, như tên Tàu. Nhưng trông em Việt Nam chay. Này cháu, này em, cho biết tôi phải trả bao nhiêu tiền xe ôm. Tôi phải đi ngay. Làm ơn chỉ giùm tôi tới đường Nguyễn Chí Thanh."
"Khoan cái đã nào. Làm gì mà khẩn trương dữ vậy? Nhưng anh ranh quỷ lắm, em đúng là Việt Nam chứ không Trung Quốc đâu. Mà có được cái tên ấy cũng không phải dễ. Nghe mùi không?"
Thấy cô bé cố kéo dài câu chuyện, ông vừa buồn cười vừa nổi tính tò mò:
"Mùi mẫn lắm. Mà ‘không phải dễ’ nghĩa là sao? Phải ghi danh, phải đăng ký với cơ quan nhà nước mới dùng được cái tên đó?"
"Gì mà ghê vậy! Em tự đặt nó. Nói chơi đó, em mướn ngươì ta đặt tên cho em."
Thấy cô gái này cũng hay hay, ông gợi chuyện:
“Nhưng em từ vùng nào đến đây?"
"Đoán đi!"
"Chắc Cần Thơ hay Châu Đốc."
"Trật lất! Em dân Sài Gòn chớ bộ."
"Em mấy tuổi?"
"Ủa, hỏi làm chi mà kỹ vậy? Hết tên, rồi chỗ ở, rồi tuổi! Bộ anh làm nhà báo hả? Hay công an?"
Ông cũng tự thấy mình ngớ ngẩn. Từ ngày về thăm quê nhà đến giờ, ông bỗng sinh ra cái tật ưa tò mò hỏi han đủ chuyện. Chuyện gì ông cũng muốn thử, muốn nghe, muốn hiểu, muốn biết, muốn nhớ. Sống xa quê hương, nhiều khi ông cảm thấy mình không dính vào đâu cả, mình đi lông bông, mình thiếu một căn cước. Về thăm lại những nơi cũ, ông vẫn không gạt bỏ được tâm trạng đó. Có lúc còn thấy lạc lõng hơn. Cho nên ông cố tìm hiểu mọi chuyện mong rằng, biết đâu, từ đó mình có thể tìm thấy được điều mà mình muốn tìm. Điều gì vậy? Ông chưa có một ý niệm rõ ràng.
Bỗng cô bé quắc mắt nói to:
"Đàn ông các anh đều giống nhau. Tên nào gặp tui cũng ưa hỏi han, săn đón, làm như mết lắm, rồi đùng một cái, quên phứt ngon lành. Thôi, theo em vô trỏng ngay, không nên đứng đây lâu."
"Sợ công an hả?"
"Sợ cái khỉ mốc! Tụi nó đứng hà rầm đầy đường anh không thấy sao?"
"Công an đầy đường? Mặc thường phục? Có sao không em?"
Cô bé cười ngặt nghẽo:
"Công an nào mà công an! Em muốn nói tụi nó đó. Tụi nó giống như em đó mà. Toàn là đồng chí của em cả. Thôi theo em, vô lẹ đi."
Nói xong, cô bé quay ngoắt người định đi, ông nắm vai cô bé giữ lại, hỏi gặn thêm:
"Nhưng làm sao phân biệt cô nào là ... là như em, cô nào khác em? Anh muốn hỏi cô nào không phải là, là, đồng chí của em. Theo anh thấy thì ai cũng giống ai cả."
Cô bé tỏ vẻ sốt ruột, chu miệng nói to:
"Ủa, hỏi làm chi vậy? Lại muốn giở trò kén chọn, muốn tìm con khốn nạn nào khác? Bộ em không xứng với anh chắc. Anh già khú đế mà còn chê ỏng chê eo? Đ. chịu nổi cái ông già dịch này. Đi vô mau mau cha nội, hết cả ngày giờ của tui rồi. Mà liệu cái thần hồn đó. Anh mà đổi ý là em la làng ngay lập tức cho anh biết mặt."
Giọng nói của cô bé đỏng đảnh, trầm bổng, "làm đày làm láo", trong khi nét mặt non choẹt trông thật thà đến ngờ nghệch. Cố càng làm ra vẻ sỏi đời càng khiến ông không thể nào nín cười được.
Cô gái bỗng đấu dịu:
"Anh kiêu ngạo em hả? Thôi anh, đi vô trỏng cho xong xuôi một việc anh ơi! Em năn nỉ anh mà anh!"
"Không, anh không chọc quê em đâu. Muốn nói gì nữa thì em cứ nói, cứ mắng, cứ chửi, anh sẵn sàng nghe."
Quả thật ông thích nghe cô bé này nói. Ông thích nghe cả những câu chửi thề của cô. Biết đâu cô cũng chửi có bài có bản, chửi như tát nước vào mặt, chửi tắt cả bếp lửa, chửi như mất gà không bằng. Ông nhớ lại hồi bé ở quê có bà hàng xóm bị mất gà ngày nào cũng đi quanh xóm chửi bới từ chiều đến tối. Cứ thế liên tiếp năm ngày thì con gà không biết từ đâu lù lù chạy về. Nhưng không lẽ cứ giữ cô bé đứng đây nói chuyện mãi, ông buồn rầu bảo:
"Chú đưa ... à anh đưa em vài trăm ngàn nhé! Em trả cho anh xe ôm bao nhiêu thì trả, số còn lại em cất đi! Anh thương em lắm, anh nói thiệt. Nhưng anh có công chuyện phải đi ngay, không vô trỏng được đâu. Em chỉ cho anh tới đường Nguyễn Chí Thanh đi!"
Ông rút từ trong ví bốn tờ giấy 50.000 đồng. Cô gái giật mình, quay người, há mồm nhìn ông đăm đăm:
"Đường Nguyễn Chí Thanh hả? Thì cũng gần đây thôi. Ô, mà té ra anh! Anh cố ăn mặc lùi xùi để bẫy em. Nhưng em đã nghi rồi. Thế mà em lụt quá! Trời ơi là trời! Đã nghi mà không chịu nghi thêm một chút nữa. Nhưng cũng còn may. Anh Việt kiều có đúng không?"
Ông im lặng nhìn cô gái, ngượng nghịu, áy náy, có cảm tưởng như mình là kẻ ăn vụng vừa bị phát giác. Bỗng cô gái cúi mặt xuống nhìn bàn chân hơi thô mang giép Nhật đang dí xuống vũng nước đọng trên lề đường, mặt buồn thiu, rồi rơm rớm nước mắt, rồi khóc oà. Cô khóc thiệt, hai bàn tay úp vào mặt, thổn thức rung cả người. Mấy người bộ hành đang đứng núp mưa dưới mái hiên của dãy nhà gần đó trố mắt nhìn hai người. Ông lọng cọng không biết xử trí như thế nào. Cô khóc tấm tức một chốc, kéo vạt áo bà ba lau nước mắt, rồi lấy lại bình tĩnh, kể lể:
"Chú ơi, chú có biết là cháu khổ lắm không? Đúng như chú nói, cháu có phải là dân ở đây đâu. Cháu ở dưới quê, làng An Hữu gần bắc Mỹ Thuận. À mà hết bắc rồi, nay đã có cây cầu dài ghê lắm..."
"Vâng, trông cháu thiệt thà, chú đã đoán biết."
"Cháu đi theo mấy con bạn rủ rê lên đây làm ăn cho có tiền. Cứ tưởng như thế là hay, ngờ đâu. Bây giờ biết làm sao. Nhưng thế nào cháu cũng phải về quê, cháu nhớ tía, nhớ má muốn chết. Về quê thì lại không có việc làm, đi làm rẩy bậy bạ, cũng ... cũng xệ lắm chú ơi."
Ông vỗ nhẹ vào vai cô bé, tìm lời an ủi. Không biết nói thế nào cho phải, ông buột miệng nói như con vẹt:
"Cháu còn trẻ lắm, tương lai đầy hứa hẹn đang chờ đằng trước. Nhưng bây giờ tạm thời về quê sống cho đàng hoàng đi. Đó là giải pháp hay nhất!"
Cô bé không hề để tâm đến lời ông nói, tiếp tục kể lể:
"Tội nghiệp ông bà già cứ tưởng cháu đang làm thợ dệt cho công ty Đài Loan, đường Nơ Trang Long ở Bình Thạnh. Ngày nào cháu cũng mua vé số, cũng đánh đề, mà trời chưa chịu ngó tới cháu. Cháu thề có trời đất lần này là lần thứ nhất, không, lần ... thứ hai ... vì trời mưa, cháu quá giang cái thằng chết dịch đó ... thì gặp chú. Chú cũng ... vậy, phải không? Chú mới đi kiếm gái lần đầu chắc. Thấy chú thiếu kinh nghiệm.”
Ông mò tay vào hai túi quần sau móc thêm được một ít tiền Việt Nam.
"Không chú ơi. Cháu không muốn lấy tiền của chú đâu. Cháu còn muốn trả lại bốn tờ này nữa đó. Để cháu đưa chú tới đường, đường gì, ... Nguyễn Chí Thanh phải không. À mà chú tới đó làm chi vậy?"
Ông ngẩn người đáp nhanh:
"Chú tìm người ta."
"Ai?"
"Nói ra cháu cũng không biết đâu. Mà người ta không còn nữa."
Cô gái bật cười, vẻ mặt rạng rỡ :
"Chú nói nghe ngộ quá! Không còn ở đó nữa thì tới đó làm chi cho mất công. Thôi, chú ơi ... chú đi theo em đi. Mình kiếm cách hùn hạp ... Chú có của, em có..."
Ông lại cảm thấy hay hay, cười âm thầm trong lòng. Hình như lâu lắm ông mới cười thật tình, nói đùa:
"Anh em mình hùn hạp mở công ty sản xuất áo mưa pông-sô coi bộ hái ra tiền. Em định như thế chứ gì?"
"Anh đừng kiêu ngạo em nữa. Anh có của, còn em cũng quen ... biết nhiều nhiều..."
Ông đỡ lời:
"Được rồi. Chuyện đó sẽ tính sau. Nhưng bây giờ anh phải tới đó tìm đứa con gái của người ta. Người ta không còn nữa, người ta chết rồi. May mà đứa con gái thì còn sống. Nghe nói nó ở đảo trở về lại Việt Nam được mấy năm."
"Anh có địa chỉ không?"
"Có. Nhưng em chỉ cho anh tới đường Nguyễn chí Thanh là được rồi, đừng đi theo anh làm chi, bất tiện. Em thông cảm nhé. Nếu gần, anh đi bộ, chớ không rúc vô chiếc áo mưa pông- sô nào nữa đâu. Đây, thêm một ít tiền đây, em cầm lấy! Mai mốt anh đưa thêm nữa."
"Thiệt hả anh? Nhưng anh biết em ở đâu mà cho tiền? Ô mà em không lấy tiền của anh đâu. Miễn gặp anh là tốt rồi. Tự nhiên em thấy, có trời có đất làm chứng, em, em thấy thương anh ghê."
Ông trả lời một cách thành thật:
"Chắc chắn anh sẽ tìm gặp em. Bây giờ anh phải đi gấp, cho anh địa chỉ của em đi. Rồi chỉ đường Nguyễn Chí Thanh cho anh."
Cô gái nhìn ông đăm đăm, ngần ngừ một chốc, xong mỉm cười quay người chạy lúp xúp trong cơn mưa đã nhẹ hột, mấy lần cúi xuống sửa lại đôi giép Nhật trật quai, rồi chạy tiếp, hai bàn tay che lấy đầu. Cô chạy nhanh vào một căn phòng trong dãy nhà đằng trước, mang ra một mảnh giấy và cây bút chì, đặt lên khung thành của sạp báo ướt át, hí hoáy viết địa chỉ.
*
Y như cũ, y như những cơn mưa Sài Gòn mùa hè xa xưa. Đến nhanh, ào ạt, hối hả, rồi đi nhanh, rồi bay đi nơi khác. Bay về Phú Lâm, Bà Om, Bà Điểm, bay qua Lái Thiêu, Thủ Đức, Giồng Ông Tố, bay lui đến vùng Cát Lái, Nhà Bè, bay xuống Chợ Thiết, Chợ Đệm, bay dài dài đến Bình Điền, Bình Chánh ... Ông thả hồn bay theo cơn mưa loanh quanh thăm viếng những chốn cũ, những ngoại ô thân yêu. Hay chẳng bay đi đâu cả, hết mưa thì tạnh, có gì đâu mà bay bay mãi cho khổ cái thân! Ông lẩm bẩm một mình và nước mắt lại muốn trào ra. Trời đất vẫn thế, vẫn vô tình, vẫn khi nắng khi mưa, sau bao nhiêu năm đã trôi qua, sau bao nhiêu biến cố "long trời lỡ đất". Không! Trời không long, đất cũng không lỡ, chỉ có mình tóc không còn xanh, mắt không còn sáng, tim không còn sôi sục máu nóng. Chỉ có con người là dâu biển.
Sau cơn mưa, Sài Gòn dịu lại. Bầu trời sáng lên một chút, và một chút nắng chiếu nghiêng nghiêng trên mặt đường ướt át. Bụi bặm chưa kịp khô, chưa đủ nhẹ để bay lên đuổi theo những bánh xe quay nhanh. Rác rến, giấy rách, theo dòng nước mưa tấp nhiều hai bên đường hay trên mặt những cống rảnh. Vài cơn gió còn sót thổi nhẹ tới, nước mưa đọng trên cây rơi xuống lác đác. Vài ngọn lá rơi theo. Ông nhìn trời. Bầu trời phía tây phơn phớt hồng, nhạt, và trong. Ông nhớ lời chỉ dẫn của cô gái: qua khỏi đường Vĩnh Viễn, qua khỏi đường Hoà Hảo, rồi đi thêm một khúc ngắn "chút xíu" thôi là đến đường Nguyễn Chí Thanh. Ô, vậy có thể là mình đang đi về phía Ngã Sáu Chợ Lớn, về phía Đại Học Xá Minh Mạng của một thời. Những ngày lưu học "ở lậu" tại đó khi Miền Nam bừng bừng sức sống!
Ông nhìn đồng hồ tay. Này, mình phải bỏ cái tật chốc chốc lại nhìn đồng hồ, làm như luôn luôn chạy đua với thời gian.
Hãy cứ thong thả đi nào, hãy để cho Sài Gòn thấm vào hồn vào tim với biết bao thương nhớ, với biết bao nuối tiếc, nghe buổi chiều đang trôi trên dòng sông, trên bến cảng, nghe lá me xanh reo lao xao trong những hàng cây hai bên đường Lê Thánh Tôn, đường Gia Long, đường Nguyễn Du, nghe những chiếc hoa vàng cánh cứng như móng tay của những cây sao cao ngất bay cuống quýt trong không gian rồi cắm nhanh xuống mặt đường Nguyễn Kim, xuống sân Vận Động, xuống đường Minh Mạng, khi những quán cà phê, hủ tíu khói bốc thơm lừng cả vùng Chợ Cũ những ngày thanh bình ngắn ngủi, khi những quán phở Pasteur của người Bắc di cư rộn rịp xe đến xe đi, khi những xâu mía ghim, những gánh đu đủ, những trái dừa xiêm, những ly đá bào, làm mát cả cổ họng, cả lòng, cả dạ, khi mây lang thang trên bầu trời xa, khi nắng vu vơ trên vỉa hè gần, khi cơn gió vô tình in nổi lên những nét cong của em và vén cao tà áo lụa mỏng khiến cho bước chân ngại ngùng, bàn tay bỡ ngỡ, tình yêu thẹn thùng trong đôi mắt thơ ngây, trong mái tóc vương vấn, trong nụ hôn bâng khuâng.
Phải chăng mình đang sống trong giấc mộng! Phải chăng, phải không em, mình hãy cứ như ngày nào cùng mùa hè qua nhiều lần Sài Gòn vẫn còn đó, chúng mình vẫn có nhau, buổi chiều vẫn êm đềm trở về sau cơn mưa bay nhiều nơi trong thành phố, rồi ra ngoại ô, rồi hẹn hò tái ngộ. Để mọi chuyện lại tái diễn, để dòng nước cũ trở lại trôi dưới cầu.
TÌNH YÊU
(Trích từ Lưu Đày và Quê Nhà trong Tuyển Tập Ngự Thuyết, thêm nhan đề)
Ngự Thuyết
Phòng tiếp tân rộng thênh thang, máy điều hoà không khí êm êm. Trên trần - đèn chùm thủy tinh lộng lẫy, nhiều kiểu khác nhau, treo lủng lẳng. Quanh tường - hình ảnh những thắng cảnh nội địa và thế giới, những mỹ nhân quốc nội quốc ngoại mắt đắm đuối gợi tình, hoặc miệng cười để lộ hàm răng đều đặn cắn nhẹ vào chót lưỡi hồng, hoặc phô bày làn da trắng nõn, đen dòn, bùng quân, bánh mật. Và sàn nhà lát đá cẩm thạch hoa văn dịu dàng, mát mắt. Nhiều bộ xa lông da đen bóng lộn xếp đặt nhịp nhàng, cân đối.
Lại có nhiều khu bày bán nhiều mặt hàng. Nào đồ cổ, đồ ngà, đồ thủy tinh, đồ sứ, đồ đá, đồ sừng. Nào các sản phẩm thủ công nghiệp, các nhạc cụ cổ điển như đàn tranh, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, đàn gáo, đàn cò, đàn bầu, đàn tơ rưng. Rồi áo dài lụa tơ tằm thêu hoa, thêu chim, đặc biệt là chim phượng, khăn vành hoàng hậu màu vàng, khăn vành công nương màu xanh, đỏ, hổ phách, các loại áo tứ thân nay không còn ai dùng, chỉ thấy trên sân khấu, các loại y phục sặc sỡ màu sắc của người Mèo, mgười Dao, người Lô Lô, người Mán. Rồi ảnh lưu niệm, bản đồ, hình quảng cáo. Có cả những chồng nón lá bài thơ, nón Gò Găng, khăn đóng. Vân vân. Nhiều nhóm du khách người nước ngoài đứng nhìn trầm trồ, chỉ trỏ.
Khách Sạn bây giờ quả lắm chuyện, ông lẩm bẩm. Không những thế, còn kiêm cả Nhà Hàng bán đủ món ăn từ Việt Nam đến Thái Lan, Tàu; từ thức ăn Pháp, đến Ý, Ả Rập. Ông sực nhớ trong một phòng “rest room” của một khách sạn ở Las Vegas thấy có máy kéo cần: văn minh tiêu thụ đã hết sức chiều chuộng con người ngày nay, biết kết hợp một trong “tứ khoái” của thể chất với một trong “tứ khoái” của ăn chơi.
Ngồi ở một góc phòng, ông uể oải nhìn quanh, ngáp vặt. Giấc ngủ mê mệt đêm qua đầy mộng mị. Sáng dậy ông thấy cổ đắng nghét, mắt cay sè mở ra không nổi. Ông vật vờ ngủ tiếp. Nếu cô phụ tá quản lý khách sạn không gọi ông dậy, có lẽ ông sẽ nằm ngủ cho đến chiều, cho đến ngày hôm sau, không chừng.
Hôm qua đi Bến Tranh lần thứ hai, ông không gặp Thủy đã đành, mà những người thân, người quen của gia đình Thủy cũng không còn một ai. Cả ngôi nhà của ba Thủy ngày xưa cũng hoàn toàn khác lạ, giống như ngôi nhà từ đường của ông ở Huế, đã bị sửa đổi và do một cơ quan nhà nước quản lý. Hỏi thăm về ông Tính, ba của Thủy, không một ai biết. Cũng may ông còn giữ địa chỉ của cháu Thi, con gái của Thủy. Cứ tìm gặp đứa con gái ấy mình sẽ dần dà biết những chuyện khác, ông tự an ủi. Ông lo lắng không biết con bé Thi giống ai hơn. Giống mẹ hay giống tên hải tặc.
Sau chuyến đi đó, lúc trở về khách sạn, ông cảm thấy buồn lạ lùng, một thứ buồn chán dây dưa kéo dài. Tối hôm qua ông muốn tìm một cái gì khác lạ, làm một cái gì khác lạ, thử xem cái chán nản có vì thế mà tăng hay giảm. Tăng hay giảm đều tốt hơn cái tình trạng trì trệ hiện tại như thế này, ông tự nhủ.
Nghĩ mãi chả biết nên làm gì, ông đành phải đến quầy rượu gọi Rémy Martin uống nhâm nhi một mình. Mềm môi uống tiếp, uống nhiều. “Uống rượu tiêu sầu”, người xưa từng nói mà. Ông chốc chốc rót rượu vào ly, khỏi cần pha thêm nước soda cho giảm bớt nồng độ của rượu, nhưng cũng phải cho vài muỗng nước đá “tinh khiết” vào. Nước đá tinh khiết? Là cái gì? Lại có thứ nước đá không tinh khiết chăng, ông buồn cười.
Thoạt tiên cái mặt ông nóng lên rồi đỏ dần. Rồi đỏ gay như cua luộc, gân trán nổi lên như những con giun, nhìn vào gương ông ngờ ngợ tưởng một người nào khác đang muốn sửng cồ gây gổ với mình. Một chốc sau người ông như lên cơn sốt, ngứa ngáy, bực bội, trống ngực đánh muốn bể lồng ngực, lưỡi đớ ra lè nhè, tay chân bứt rứt quờ quạng, thân hình xiêu vẹo. Thế mà, càng về sau, lạ chưa, ngụm rượu từ từ biến chất, không còn cay gắt nữa, lại có vị ngọt dịu dàng, thơm tho. Nước cam lồ của nhà Phật liệu có ngon hơn không? Bàn tay ông bớt run khi cầm cái ly hắt hắt những giọt rượu vào cái miệng mở to để nó chạy vào tuốt trong cổ họng. Hết ly này đến ly khác. Cái mặt của ông đổi màu, không đỏ nữa, trái lại từ từ tái đi, xanh đi, cái tình trạng này mới xẩy ra lần đầu tiên cho ông. Sống lưng bỗng ớn lạnh, bụng cồn cào, cổ nôn nao, người bãi hoãi. Uống mấy ly rồi, không nhớ nổi, thôi, không uống nữa. Tay nhấc lên lấy ví tiền một cách khó khăn, một chân gác trên mặt ghế gần đấy muốn gãy làm hai. Ðôi mắt lờ đờ thấy người đứng bán ở quầy hàng mờ mờ, lung linh. Ông cố quay người mở miệng mỉm một nụ cười vô duyên để làm duyên với bất cứ một bợm rượu nào ngồi gần đấy nhưng cảm thấy hai cái môi cứng đơ, cổ nghẹt, lưỡi muốn thè ra cạ vào hàm răng dưới ngo ngoe.
Trả tiền xong, không buồn ngó tới mớ tiền thối lại, lấy hết sức bình sinh, ông níu thành lan can kéo thân hình nặng nề lê từng bước một đi lên lầu. Rồi tay vịn vào tường, chân oặt ẹo, mò đến được trước cửa phòng, ông đưa tay sờ soạn lỗ khóa, lập cập rút được chìa khóa từ túi quần sau, may quá mở được cửa. Và khi đã đóng sầm cánh cửa lại thì bao nhiêu sức đề kháng đều tiêu tan, ông gục xuống sàn nhà lúc nào không hay.
“Em vẫn để đồng hồ của anh reo lúc 6 giờ sáng như anh dặn,” cô Phụ Tá Quản Lý Khách Sạn nhìn ông một cách lo âu. “Ðến hơn 12 giờ trưa cửa phòng anh vẫn đóng ỉm im. Em chạy xuống phòng lễ tân không thấy chìa khóa phòng anh, nghĩ rằng anh đi chơi đâu đấy mà không cho em hay. Lại chạy lên phòng anh đánh liều mở cửa vào xem sao, thì thấy anh như thế đấy.”
Ông ngượng. Tuy vẫn còn chóng mặt và mệt rã rời, ông miễn cưỡng ngồi dậy tiếp chuyện với cô phụ tá:
“Cô nói gì tôi không hiểu, xin lỗi cô. Cô nói lại đi! Cái đầu của tôi nó mụ rồi. À, à ... cô bảo cô đi đâu rồi quay lên?”
“Em xuống phòng lễ tân ...”
“Ô, cô làm gì?” Ông ngắt lời, giọng nói còn lè nhè. “Cô muốn nói cô xuống phòng tiếp tân dưới kia có cái bảng treo chìa khóa?”
“Vâng, phòng ấy gọi là phòng lễ tân. Anh đang mệt, cái gối đây, nằm xuống đi anh. Em đi lấy khăn nóng cho anh nhé.”
Ông tỉnh người hẳn, định thần nhìn cô ta, ngẫm nghĩ. Cô này cũng khá xinh đẹp, duyên dáng, lại biết săn đón, chiều khách một cách thông minh. Mình hãy nói đùa thêm vài câu chơi:
“Khăn nóng thì không cần. Nhưng ... nhưng cô đã làm một việc sai trái.”
“Thế ư?” cô nhanh nhẹn đáp, tay vói lấy bình hoa. “Việc gì thế, anh nói đi.”
“Cô đã xâm nhập ... cô không tôn trọng cái tự do của tôi, cái riêng tư của tôi. Ðột nhập vào đây mà không có sự đồng ý của tôi. Tôi sẽ... sẽ xu cô.”
Ông thỉnh thoảng bị líu lưỡi.
“Sẽ làm sao?”
“Sẽ xu cô, nghĩa là sẽ đưa cô ra tòa.”
Cô cười duyên:
“Anh nỡ lòng nào? Eo ôi, em sợ quá!”
“Thế à? Cô sợ thật sao? Thế thì, lần này tha. Nhưng bù lại tôi bắt đền cô nhé. Cô phải ‘Bù anh một tháng trời gần ‘”
Thủy, tên của cô, tay đang cầm một đóa hoa hồng thật tươi, màu vàng, to cánh, còn đọng nước trông như những giọt sương, dịu dàng nói:
“Anh vẫn còn say, nói bậy! Ráng điều độ đi. Chứ anh mà cứ thế sẽ có ngày...”
“...?”
“...Có người uống rượu nhiều quá ...”
“Uống nhiều quá,” ông cướp lời, “sẽ có ngày chết ngắt chứ gì?”
“Chứ sao. Em làm tại khách sạn này mới hơn hai năm mà đã chứng kiến ba người chết vì say rượu. Từ sáng đến trưa không thấy mở cửa phòng, như anh vậy, tới lúc người ta thử vào xem thì ôi thôi. Khổ cho em quá, tối hôm qua nếu có em ở quầy rượu thì đâu đến nỗi!”
A, cái cô này nói nghe như người yêu nói với người yêu. Như Thủy của anh ngày xưa. Từ khi biết cô phụ tá cũng tên Thủy, ông tìm cách trò chuyện, mua tặng vài món quà, và đóng vai si tình. Hình như mình muốn yêu ai cũng được yêu lại, không nhiều thì ít. Mà mình càng vờ yêu, càng có kết qủa tốt. Nói dối bao giờ cũng thành công hơn nói thật. Nhưng cô này có thật yêu tôi chút nào không, có bao nhiêu phần trăm sự thật, hay cả hai ta đều vờ vĩnh, ông nghĩ bụng.
“Cám ơn cô đã có lòng chiếu cố.”
“Hôm nay anh khách khí quá!”
Cô quay người đi đến cạnh chiếc đôn sứ hình hai con voi phục trên đó có một lọ thủy tinh trong suốt cắm một đóa hồng còn tươi màu tím nhung. Dưới lọ hoa là tấm vải lót trắng tinh hình trái tim với những đường ren cầu kỳ. Thủy vừa nhanh nhẹn thay nước, thay hoa, vừa nói bằng một giọng ngọt ngào, ấm áp:
“Ðây không phải là công việc của em đâu, nhưng em muốn tự tay làm lấy cho anh, anh biết chứ. Hôm qua hoa hồng màu tím nhớ, hôm nay em thay cho anh hoa hồng màu vàng thương. Thật đấy, em không cải lương đâu. Em yêu hoa hồng lắm, thì chắc là anh cũng yêu. Nhưng bây giờ em phải đi đây một chốc. Ngồi chờ em nhé, em quay lại ngay.”
Ông nhìn theo Thủy. Ðó là một người đàn bà khoảng 40 tuổi, xinh đẹp. Ông chú ý ngay đến mái tóc ngắn màu nâu đậm hoe vàng một vài nơi, cắt tỉa thật khéo, thật tự nhiên, trông như lá cỏ dài nhọn mọc hoang. Ðôi mắt của cô to, đen, sâu, viền tô đậm, cặp lông mày sắc. Thủy hay mỉm cười nhưng là nụ cười lười biếng, lơ đễnh trên khuôn mặt thanh tú và hơi gầy. Dáng người cô dong dỏng cao, thường mặc những chiếc áo chẽn đến nách, phô bày hai cánh tay trần thuôn thả, nuột nà, lông măng mọc lơ thơ, và hai bàn tay ngón búp măng dài đeo mấy chiếc nhẫn kim cương. Cô nói giọng Bắc nghe êm đềm, du dương. Những câu nói vừa rồi cô nàng đã nói bao nhiêu lần rồi nhỉ, và cho bao nhiêu người nghe rồi nhỉ. Nói nhiều đến thuộc lòng chăng? Và lời nói thì có vẻ “tuồng” nhưng thái độ lại thành thật. Ðóng kịch giỏi? Thì cũng tốt thôi. Còn mình cứ nghe như thể mình là người đầu tiên được nghe.
Tưởng tượng thêm một chút nhé, như vừa được nghe Thủy của mình ngày xưa trò chuyện. Hồi đó em của anh nhỏ tuổi hơn cô này bây giờ nhiều, hồn nhiên, trong sáng, trìu mến. Mà anh cũng còn trẻ, chỉ hơn em năm tuổi. Em đẹp không? Anh không muốn đặt câu hỏi đó từ khi anh bắt đầu yêu em, và cũng không bao giờ bận tâm so sánh em với người này, người nọ. Chỉ biết rằng em choán ngập cả hồn anh. Ngày xưa em cũng thích hoa hồng, em cũng biết nói nhiều lời tình tứ yêu đương. Nó đi thẳng từ trái tim em ra và đi vào tim anh. Nó như tiếng gió, như vạt nắng, như hạt mưa, như giọt sương. Anh ơi, bất cứ hoa gì cắt từ ngoài vườn đem vào cắm trong phòng đều bớt đẹp đi, trừ hoa hồng. Hoa hồng phải được chưng trong phòng, một chùm cũng đẹp, một cái riêng rẻ càng đẹp hơn, anh đồng ý không? Ðồng ý hả anh? Nhưng đó không phải là ý kiến riêng của em đâu. Em đọc đâu đó trong sách. Thế mà em cứ nhớ nó mãi. Là vì ... là vì, khi chưa có anh, em cũng cảm thấy rằng hoa hồng mọc ngoài vườn trông lẻ loi, bơ vơ, ngơ ngác, như đang trông chờ một biến cố gì. Như em vậy đó, như em ở Bến Tranh, khi anh chưa tìm đến.
Ông bồi hồi.
Những năm chiến tranh kéo dài. Một số ngoại ô của quận lỵ, thị trấn nhỏ miền châu thổ sông Cửu Long thuộc vào vùng xôi đậu, nhất là về đêm. Ban ngày thỉnh thoảng cũng có tiếng súng, những toán quân lẻ tẻ bị phục kích, những đoàn quân xa bị gài mìn. Nhưng anh Khê, hồi đó còn trẻ lắm, cũng phải vào Bến Tranh một chuyến thử coi, anh nhủ thầm. Bến Tranh, một quận lỵ nhỏ bé nằm cách quốc lộ không xa lắm, giáp ranh với tỉnh Ðịnh Tường.
Ông Tính niềm nỡ mời:
“Chiều nay dạy học về anh ghé tôi chơi đi! Tôi ở Bến Tranh gần đây thôi. Ðể nhậu một bữa cho đã. Ðồ nhậu ê hề. Nè, cá lóc nướng bẹ chuối hoặc bôi bùn đất sét nướng trui. Mà anh biết cách ăn cá lóc chớ? Phải biết ăn đầu, ăn lòng mới ngon, nhất là bộ lòng. Người Nam chúng tôi gọi là ruột cá lóc. Quấn với bánh ướt, rau thơm rau sống, chấm nước mắm chanh đường ớt tỏi. Rồi ốc gạo xào tỏi xúc bánh tráng, rồi giò heo giả cầy, gà trống thiến xối mỡ. Ðặc biệt sẽ chiên thêm cho anh một con cá tai tượng đang nuôi trong chậu. Khách qúy mà.”
“Mới nghe anh nói thôi,” anh Khê vui vẻ đáp, “tôi đã thèm chảy nước miếng. Nhưng ...”
“Không nhưng nhị gì cả! Ghé tôi chơi đi! Toàn là các thứ cây nhà lá vườn cả mà. Đó là chiều nay. Hôm sau, cháo thịt trăn đặc biệt, mỡ trắng nổi lình bình thành những hình tròn như đồng xu nhỏ trên mặt cái nồi bự. Rồi lương xào lăng, ếch chiên bơ, gỏi thịt vịt. Nghe đã không? Còn uống thì rượu nếp than cũng nhà cất lấy. Không uống rượu hả? Thì tôi biểu đi mua lave.”
“Chiều nay ... Để tôi tính...”
“Không, tôi tính giùm cho, tôi tên là Tính mà. Ngày mai thứ bảy anh không bị kẹt cái gì ở Sài Gòn chớ? Ở lại với tôi tối nay nhậu một bữa thâu đêm, sáng dậy chèo xuồng đi thăm cù lao Rồng cho biết. Ở lại luôn Chủ Nhựt, dông xuống Cai Lậy, Cái Bè, Cái Thia chơi. Thứ hai hãy về Sài Gòn. Chắc chắn anh sẽ thích.”
Ông Tính là giám thị của một ngôi trường tư tại Mỹ Tho nơi anh Khê dạy môn toán mỗi tuần vào ngày thứ sáu. Trường học cách Bến Tranh khoảng mười mấy cây số. Anh dạy liền một hơi tám tiếng cho hai lớp đệ ngũ và đệ tứ, mỗi lớp bốn tiếng. Những ngày khác trong tuần anh đi dạy kèm thêm tại tư gia ở Sài Gòn và theo học tại một phân khoa đại học. Anh còn trẻ lắm, mới bước chân vào đời, nhỏ hơn ông Tính trên 20 tuổi. Không hiểu do một tình cờ nào ông Tính và anh vẫn gọi nhau là ‘anh’ và xưng ‘tôi’. Anh chưa có một liên hệ thân mật nào với ông Tính cho nên không khỏi ngạc nhiên trước lời mời sốt sắng đó. Tuy nhiên một phần vì tò mò muốn biết thêm nếp sống miền Nam mà anh đã bắt đầu yêu mến, và phần lớn do ở những món ăn nghe hấp dẫn quá, anh nhận lời.
Khăn bàn và vài thứ lặt vặt vừa được dọn lên, ông Tính đã gọi lớn:
“Thủy con! Lên đây ngồi ăn luôn thể.”
Cô gái mặc áo dài trắng, quần dài trắng, mái tóc rẽ nghiêng một bên, chân mang guốc cao gót, từ nhà dưới chậm rãi đi lên, nhìn thẳng đằng trước, tiến vào bàn. Không dám nhìn cô gái, nhưng anh vẫn thấy được cái bóng dáng yểu điệu đó. Dường như cô mang theo ánh sáng đến, và một chút hương mơ hồ, thầm kín. Anh nghĩ thầm trong bụng ở nhà ai lại ăn mặc kiểu cách như thế này, sao không quần dài đen áo bà ba có phải tự nhiên hơn không. Cô gái miền Nam này có lẽ đã bắt đầu bị lây cái lối khách sáo của miền Trung, miền Bắc, mỗi khi có khách đến nhà là phải ăn mặc như khi đi ra đường, anh tự nhủ. Mà mình không nhìn cô ta như thế có thất lễ không? Lỡ cô muốn chào mình lại tưởng mình cố lờ đi thì oan cho mình quá. Nhưng mình vẫn còn cái tật “nhát gái”chứ có dám coi thường ai đâu. Ừ mà cũng lạ, con gái yểu điệu, xinh đẹp, dịu dàng chứ có phải là chằn tinh chằn lửa đâu mà mình bối rối không dám nhìn, không dám bắt chuyện. Nhớ lại hồi ở trung học, mình còn nhút nhát hơn nhiều. Anh đang nghĩ ngợi lan man cố trấn tĩnh thì ông Tính lại nói oang oang:
“Xin giới thiệu với anh, đây là con gái lớn của tui. Thủy, chào thầy Khê đi. Thầy dạy cùng trường với ba. Thầy giỏi lắm đó con. Tuổi trẻ tài cao thứ thiệt đó con.”
Cô gái lúng túng nói lí nhí trong miệng những gì anh không nghe rõ, chỉ thoáng thấy cô hơi nghiêng đầu, gò má hình như phớt đỏ lên vì thẹn, đôi mắt nhìn xuống, mấy lọn tóc buông thõng che kín một bên mặt. Một người con gái vì anh mà thẹn, lạ chưa! Anh cảm thấy tự tin phần nào, và anh quay nhìn thẳng vào khuôn mặt thẹn thùng đó. Sau cái nhìn trộm thật nhanh, anh quay đầu nhìn vội ra ngoài sân. Trời đã tối nhưng có ánh trăng chiếu chênh chếch qua mấy tàu lá chuối to bảng, có con chó xù lông vàng nằm kê mỏ lên bậc thềm đôi mắt nhắm lim dim - không hiểu sao cảnh tượng đó anh biết rằng anh sẽ nhớ hoài trong đời. Anh ho khan vài tiếng, cảm thấy mang tai đỏ lên, tim đập loạn. Cô gái đẹp quá, không ngờ ông Tính lại có cô con gái đẹp như thế. Ông Tính tiếp lời:
“Má nó mất sớm cho nên nó dở lắm, không biết nấu nướng gì cả. Mấy món ăn này phải nhờ dì nó làm. Dì nó là em của mẹ nó chớ không phải là vợ kế của tôi đâu. Ngoài Trung có gọi là dì không, hay gọi là cô, là bác?”
“Cũng gọi là dì,” anh đáp lại thật nhỏ, nghe tiếng nói của mình mất tự nhiên.
“Tôi nói nhỏ cho anh nghe đây - ông chồm người qua cho gần anh hơn, nói ồm ồm - tôi cũng muốn như vậy, nghĩa là, nghĩa là ... mà dì nó chưa chịu cá cắn câu đó thôi. Ha ha! Dì nó ở Tân Hiệp, làm giùm xong mấy món rồi giả bộ có việc gấp nên đã dông tuốt mất rồi. Làm cho cao giá đó mà. Lần sau anh ghé đây nữa nghe, tôi sẽ giới thiệu dì của con Thủy cho anh quen biết thêm.”
Anh Khê bỗng thấy vui vui, có cảm tưởng như mình đã là một thành phần của gia đình ông Tính.
“Ba ... thiệt! Nhưng con cũng có làm món tráng miệng chớ bộ.”
Thủy nói nhỏ, đưa mắt nhìn những ngón tay mình đang vân vê một góc chiếc khăn bàn, những ngón tay dài, thon, trắng. Ðến lúc đó anh mới nghe rõ giọng nói của Thủy. Anh thầm nghĩ giọng nói nghe sao hay đến thế, êm ái, ngọt ngào, ấm áp đến thế. Nghe như tiếng hát, tiếng ru, tiếng gió. Trong lòng người ta tất nhiên phải có điều gì vui lắm mới nói lên được cái giọng ấy. Lại tiếng nói rỗn rãng của ông Tính:
“Anh Khê biết không, con Thủy ngó vậy mà còn con nít lắm. Cách đây mấy năm, hồi còn học đệ ngũ đệ tứ gì đó, nó giống như thằng con trai, thiếu đường muốn ở truồng tắm sông.”
Anh đỏ mặt. Cô gái cúi gầm đầu nhìn vào chén cơm của mình. Ông Tính không để ý gì đến cô gái, vừa gắp món ăn cho ông và cho anh, vừa tiếp tục câu chuyện một cách sôi nổi:
“Hà hà, cái này tức cười lắm ... Tôi phải cho anh biết mới được ... Trước đó nữa, nghĩa là hồi nó còn học đệ lục, nó mét tụi nó sáu bảy đứa rủ nhau ra ngoài vàm tắm truồng. Má nó chết sớm nên cái gì nó cũng học lại với tui. Đang nghỉ hè mà. Chúng nó núp trong một lùm cây bên bờ sông, một đứa mặc quần đen lội xuống nước, rồi cổi quần ném lên lùm cây cho đứa khác mặc. Và cứ thế từng đứa một đi xuống sông. Cả lũ mà chỉ bị ướt một cái quần. Tắm xong khi đi lên bờ cũng làm cái kiểu ấy. Tưởng là tài khôn lắm...”
Thủy nhìn bố năn nỉ:
“Thôi ba, thôi ba. Ðừng nói nữa!”
“... Thế mà cũng bị một thằng ranh quỷ đứng rình nhìn từ một lùm cây kế đó. May sao chú Tám hàng xóm đi qua bắt gặp ... giũa cho thằng quỷ đó một trận, thiếu đường cho nó mấy cù loi. Tụi con gái cũng bị chú giũa te tua. Chứ đâu có làm điệu, làm bộ như bây giờ, phải không Thủy? Học xong ở đây tôi đưa nó lên Sài Gòn. Nó loạng quạng thế mà thi vô được Gia Long. Học hành không biết ra sao nhưng đã tập tành nhiều chuyện rắc rối, nào áo dài, nào guốc cao gót, nào dù cánh dơi, nào khăn ren, nào bóp đầm, nào nhật ký viết bằng mực tím. Hết hè năm nay nó lên đệ nhất, láng cháng sang năm đã là cô tú rồi. Nhưng mà con gái học cho lắm làm được cái khỉ mốc gì cho tốn cơm, tốn gạo. Lo kiếm chồng đi là vừa nghen con!”
Lần này cô gái mặt đỏ như gấc, ngước mắt nhìn cha oán hận. Anh nghĩ rằng mình phải nói chen vào một câu gì đó cho cô gái đỡ ngượng, nhưng anh lại buột miệng - anh vẫn có cái tật ăn nói trật chìa, lãng xẹt:
“Bác nói thế chứ ... à anh, anh nói đùa cho vui vậy thôi, chứ con gái lớn như cô Thủy ai lại đi tắm truồng. Không biết xấu hổ sao!”
Thủy đứng phắc dậy nói lầm bầm gì đó với bố rồi quay ngoắt người đi một lèo xuống nhà dưới mặt nghiêm và lạnh như tiền không thèm ghé mắt nhìn anh một lần. Ông Tính cười xòa rồi gọi mãi Thủy cũng không chịu lên.
Mối tình của anh khởi đầu như thế.
Từ đó về sau, anh ghé nhà ông Tính thường xuyên hơn.
“Tuần sau ghé tui chơi nghe anh Khê.”
Ông Tính chỉ nói thế là anh biết có Thủy từ Sài Gòn về. Anh nhìn Thủy bạo dạn hơn, cô chớp mắt vờ như không biết. Dần dà, anh kín đáo hỏi thăm, và biết địa chỉ ký túc xá đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, dành cho nữ sinh nơi Thủy ở trọ. Rồi họ gặp nhau.
Họ yêu nhau sôi nổi, say sưa, cuống cuồng. Ðó là mối tình đầu của hai người? Không hẹn mà cả Thủy lẫn anh đều không thích mấy chữ “mối tình đầu”. Tại sao lại tình đầu? Nghĩa là sẽ có tình thứ hai, thứ ba? Không! Họ không hứa hẹn gì với nhau, nhưng trong mắt nhau, trong từng lời nói vu vơ của nhau, trong từng cử chỉ nhỏ nhặt của nhau, họ đều nhận thức một cách thật đơn sơ và cũng thật sâu xa rằng họ sinh ra để yêu nhau, để lấy nhau, để suốt đời trao cho nhau số phận của nhau. Nếu có cuộc sống luân hồi, họ sẽ cùng tái sinh vào kiếp sau, lại gặp nhau, lại yêu nhau, cứ thế trong hằng hà sa số kiếp. Ðó là ước nguyện tha thiết nhất của họ.
Họ chỉ muốn được yêu nhau, và cố quên tất cả mọi chuyện phiền phức khác, quên cả thực tế đang xẩy ra chung quanh. Họ oán ghét chiến tranh đang diễn ra dưới nhiều hình thức, họ không muốn nghe tiếng súng vọng tới, họ không muốn thấy những đoàn quân xa kéo đi, những đoàn xe cứu thương kéo về, họ không muốn quan tâm đến tình hình đang dầu sôi lửa bỏng của đất nước. Những chuyện đại sự đó, họ cho rằng nằm ngoài tầm tay của họ, và đã có người khác lo toan rồi. Ích kỷ? Vô trách nhiệm? Mặc kệ. Mà có thật vậy không, có vô trách nhiệm không? Tại sao họ không có quyền chọn lựa? Tại sao tình yêu lại không thể thoát ly ra khỏi mọi hệ lụy của cuộc sống, của những ràng buộc chồng chất và chằng chịt của xã hội? Tại sao tình yêu lại không thể bay bổng như đôi uyên ương trong huyền thoại, mãi mãi quấn quýt bên nhau trên trời cao đất rộng, không làm phiền ai và cũng không muốn bị ai quấy nhiễu? Và họ cũng không tin Miền Nam không khéo sẽ có ngày sụp đổ như một vài tiên đoán vu vơ trên báo chí, trên những trang bình luận thời cuộc, trên truyền thanh, truyền hình.
Thế mà chuyện đó đã xẩy ra. Trời đất quay cuồng, gió mưa u uất, miền Nam bỗng dưng không còn! Những tai họa ngoài tất cả mọi dự liệu đã đổ xuống trùm lên thân phận của một nửa dân tộc, và cũng có thể của cả dân tộc từ Nam đến Bắc. Riêng anh, thêm vào đó, anh đánh mất Thủy. Anh bỗng nhận ra rằng ước nguyện tha thiết nhất của anh, của Thủy, của thân phận con người bé mọn chẳng qua chỉ là sợi khói trong bão tố. Từ ngày biết được đích xác Thủy không còn nữa, anh sống trong khủng hoảng, nhiều khi như người mất trí, hết năm này qua năm khác. Tuổi đời cứ thế chồng chất, bao nhiêu năm đã trôi qua, bọn thanh thiếu niên gọi anh là chú, là bác, người lạ gọi anh là ông. Vâng, đã là một người đàn ông đứng tuổi rồi. Thế nhưng ông vẫn không thể nào quên được Thủy, không thể nào tìm được sự yên vui trong tâm hồn dù đã hơn một lần gần gũi với những người đàn bà khác. Mình là người bất thường, nhiều lúc ông tự hỏi.
Ông chung sống với những người đàn bà ông không yêu, mau chán, mau thôi nhau. Hình bóng của Thủy vẫn đeo lấy ông như một ám ảnh không rời. Ông có một thói quen kỳ cục là khi gặp một người đàn bà nào mang tên Thủy, trạc tuổi của Thủy, không cần đẹp hay xấu, ông muốn làm quen ngay, muốn gần gũi ngay, và luôn luôn tìm thấy ở người đó có một vài nét của Thủy để yêu. Ông nhớ đã đọc ở đâu đó, của Shakespeare thì phải, rằng cái tên thì có gì là quan trọng. Ông nhớ lõm bõm vài câu: “What’s in a name? that which we call a rose/By any other name would smell as sweet.” Thế sao? Hoa hồng dù mang tên khác vẫn thơm tho như thường chăng? Nhưng riêng ông, cái tên Thủy luôn luôn gây ấn tượng mạnh, như một quá khứ lộn về, một ký ức trổi dậy, như tiếng chuông gọi hồn, như lời phù chú.
Lẽ dĩ nhiên cũng có người mang tên Thủy cự tuyệt ông, nhưng khi ông được chấp nhận, ông cũng chỉ ở với người ta trong một thời gian ngắn để cuối cùng nhận thấy rằng việc làm đó chẳng qua chỉ là gượng gạo để đánh lừa người, và tự đánh lừa. Thì lại phải xa nhau thôi.
“Anh nghĩ gì mà ngồi thừ người ra như thế? Anh đã khỏe hẳn rồi chứ, em lo quá. Này, sao anh không chịu khen em một tiếng xem nào?”
Ông đứng lên khỏi giường, đến ngồi trên chiếc ghế cạnh bàn, đối diện với cô phụ tá, cười đáp:
“Em hôm nay đẹp lắm!”
“Không phải! Em muốn nói khen tài em cắm hoa. Có đẹp không anh?”
Ông giả lả đáp:
“Ðẹp. Dĩ nhiên là đẹp,” rồi bồi thêm một câu nghe đã sáo mòn, “nhưng không đẹp bằng hoa biết nói.”
Thủy không giấu được nụ cười kiêu hãnh:
“Em đẹp? Anh khéo khen phò mã tốt áo. Cho phép em khoe khoan một chút nhé. Khi còn học ở Ðại Học Tổng Hợp khoa Ngoại Ngữ, em có thi Hoa Hậu Duyên Dáng Việt Nam, và đoạt giải Á hậu, nghĩa là giải nhì.”
“Thảo nào. Em xong Ðại Học rồi à? Hà Nội hay trong này?”
“Trong này chứ! Em từ Hà Nội vào thành phố vào quãng năm 80. Lúc đó em học năm cuối trung học.”
“Thế là anh đoán được tuổi của em rồi. Năm đó em khoảng 19, 20 là cùng. Cộng thêm, xem nào, năm nay 2002, tức là 22 năm nữa, vậy ... năm nay em ... 30 tuổi.”
Thủy nhún vai theo lối con gái Tây phương và lắc đầu nhè nhẹ làm cho đôi bông tai đu đưa trông thật vui mắt, trả lời:
“Tính cộng của anh thế là nhất! Thôi, ta hãy dẹp cái chuyện tuổi tác qua một bên, để em kể cái chuyện vui vui này. Hồi đó em học lớp 12 trường Nguyễn Trãi, anh biết trường Nguyễn Trãi chứ?”
“Biết. Anh cũng coi như là dân Sài Gòn trước 75, nên biết nhiều ngõ ngách của Sài Gòn lắm. Trường Nguyễn Trãi ở Khánh Hội chứ gì.”
“Vâng, đúng thế. Em muốn vào trường Nguyễn thị Minh Khai oai hơn, nhưng vào đó khó quá, phải vào Nguyễn Trải vậy. Một hôm, vào giờ nghỉ trưa, ông thày môn Văn phê học bạ - dường như ông ấy có đi học tập cải tạo mấy năm thì phải, thành phần gia đình liệt sĩ nên được cho dậy lại - thì em lân la đến xem ...”
Ông ngắt lời:
“Ông thầy nào mà lại cho học trò xem ông phê học bạ?”
Cô nhí nhảnh:
“Anh nói đúng, thày bảo đi chỗ khác chơi, nhưng em vốn là cô nữ sinh rắn mặt mà. Vả lại thày trông hiền khô, giọng nói nhỏ nhẹ, còn em thì lúc ấy... em cũng đã xinh lắm rồi đấy nhé. Cho nên em đáp em thích đứng đây xem thày làm việc cơ. Thày nhìn em im lặng ...”
Bỗng ông cảm thấy muốn đùa nghịch:
“Thế là ông thầy đó cũng hơi ...”
“Hơi thế nào?”
“Hơi dê.”
“Bậy nào.” Cô lại nhún vai. “Ðể em kể nốt. Tình cờ em thấy cuốn học bạ của em nằm ngay trên bàn của thày. Em đánh bạo cầm lên giở ra xem thày phê em ra sao. Em mới giở qua trang bìa, thày ... chặn ... tay em lại. Thì thôi vậy. Nhưng trước khi bỏ đi, em chỉ vào tấm ảnh của em trong cuốn học bạ và nói, thày thày, thày xem em đẹp như Ngụy phải không thày.”
Nói xong, Thủy cười rũ cả người. Ông tò mò:
“Rồi sao nữa?”
“Chả làm sao cả. Thấy ông ấy mở to mắt ngạc nhiên và khẽ quát ‘Hả?’ là em đã chạy vụt ra khỏi lớp.”
“Ông thầy đó dở quá, nếu gặp anh thì cái kết thúc đã khác.”
“Khác như thế nào?”
“Anh đóng kín các cửa lại không cho em chạy thoát đi đâu được, rồi rút roi ra tẩm cho em một trận tơi bời hoa lá.”
“Anh nói cái gì kỳ lạ vậy? Giáo dục hiện đại của ta không cho phép thày đánh học trò, nhất là khi cô học sinh ấy đã là một thiếu nữ như em. Mà roi đâu có sẵn để rút ra liền như thế được. A, cái anh quái quỷ này! Anh mà làm thày giáo thì có mà đốt trường! Thôi, em không thèm nói chuyện với anh nữa đâu.”
“Xin người đẹp bớt giận, anh xin rút lời nói đó lại. Với lại anh biết tính của anh như thế cho nên có bao giờ dám làm thầy giáo đâu. Anh chỉ muốn làm học trò của em thôi nhé. Cô giáo ơi, tôi thật có phúc ... được quen biết em.”
“Thế thì hỏng!”
“Lại hỏng! Sao vậy?”
Thủy lườm ông:
“Ai lại học trò gọi cô giáo là em?”
“Thế hả. Nhưng mà này, người đẹp lãng phí lắm. Cái hoa tím đang còn tươi như thế sao em đã vội vứt nó đi.”
“Nó còn tươi là nhờ máy lạnh chạy suốt ngày đêm. Tươi nhưng mất hết hương thơm rồi, phải thay hoa khác. Thử để nó ngoài trời xem, dưới bóng râm nhé, nó cũng héo ngay. Bên ngoài nóng như thiêu như đốt thế mà trong này mình đang hưởng bầu không khí của Sa Pa, của Bạch Mã, của Đà Lạt. Anh nhất trí chứ.”
“Rất đồng ý, rất nhất trí. Khách sạn này cũng thuộc hạng khá.”
Thủy mở to đôi mắt tỏ vẻ ngạc nhiên:
“Khá thôi à? Anh quên là anh đang ở khách sạn hạng sang sao. Khách sạn bốn sao của thành phố này chắc chắn là hơn năm sao ở khắp nơi trên thế giới.”
Ông hơi khó chịu:
“Sao em biết? Em đã xuất ngoại nhiều lần chắc?”
“Chưa, nhưng cần gì. Nghe kể lại, xem sách báo, học hỏi, là thừa biết. Không lẽ phải tự mình đấu sức với voi mới biết voi khỏe! Cứ học, học, học, là biết hết. Người ta khi sắp lìa đời mà cũng còn phải học nữa là! Anh biết ai nói câu đó không”
Ông cười:
“Thưa không, cô giáo ạ! Có lẽ vua Lê Lợi nói thế.”
“Anh nói gì vậy? Lênin chứ.”
“Ngoài Khoa Ngoại Ngữ, cô giáo còn theo học Trường Lý Luận Mác-Lênin chứ gì. Cô giáo giỏi quá. Nhưng còn điều này anh nghĩ rằng anh có thể đúng hơn em. Em bảo rằng mới hai năm mà em đã thấy có ba người chết vì rượu? Sai rồi! Có bao giờ người ta chết ngay vì rượu đâu. Họ chết vì em thì có. Cũng như anh vậy, sớm muộn gì anh cũng sẽ chết vì em.”
Thủy bỗng như một sợi dây đàn đang căng bị đứt giữa chừng, buông hai tay xuống để lên mặt bàn, buồn bã đáp:
“Anh nỡ coi thường em đến thế sao! Anh cho rằng đối với ai em cũng ... cũng dễ dàng lắm thì phải.”
Ông lúng túng. Thật ra trong cái đà đối đáp, ông muốn nói đùa thôi. Ông đáp lại bằng một giọng chân thành:
“Anh vui miệng nói bậy rồi, xin lỗi em trăm nghìn lần.”
Thủy vẫn còn hờn dỗi:
“Không dám ạ.”
“Vậy thì thưa cô giáo, em đã biết lỗi. Xin cô giáo tha lỗi cho em một lần này nữa thôi.”
Thủy bật cười:
“Biết lỗi như thế là đủ, ông học trò của tôi ạ. Ta qua đề tài khác nhé. Trước hết, để em bảo mang đồ ăn sáng... Ô mà đã quá trưa, không ăn sáng nữa, gọi món ăn trưa vậy.”
“Gọi hai phần để em cùng ăn với anh nhé,” ông vồn vã mời.
“Cũng được. Anh muốn dùng thứ gì nào? Thứ gì đây cũng có, xin anh dùng tạm. Rồi nay mai em còn có nhiều mục đặc biệt khác dành riêng cho anh. Anh gặp hên mà anh đâu biết. Khách sạn ta sắp tổ chức Lễ Hội Ẩm Thực Hoa Kỳ, An American Food Fare từ 24 tháng 6 đến 7 tháng 7. Anh còn ở đây lâu mà. Ðó là một lễ hội ẩm thực nổi bật và hoành tráng nhất trong năm. Em xin phép múa rìu qua mắt thợ, dịch ra tiếng Mỹ anh xem có đúng không: Absolutely the most spectacular food extravaganza of the year. Hãy đến để tận hưởng sự độc đáo của các món ăn hảo hạng trong một khung cảnh đầy tính cách Mỹ. Ðừng bỏ qua chuyến thám hiểm tuyệt vời này... tức là Come on over and experience the tastes and sights of America, an adventure not to be missed.”
Thủy nói một thôi không vấp váp. Ông cười ngất. Thủy làm bộ bẽn lẽn:
“Anh chế nhạo em hả? Em nói tiếng Anh có accent? Không đâu, đúng giọng British English đấy, chứ không phải American English như anh đâu. Này anh, đừng cười em nữa, thú thật với anh là em đọc lui đọc tới tờ quảng cáo nhiều lần nên thuộc lòng luôn đấy thôi. Ðùa với anh một chốc thế mà đã hơn hai giờ chiều rồi...”
Ông giật mình:
“Ðã trễ đến thế à? Chết, anh có việc cần phải làm ngay bây giờ. Thôi, thôi, xin lỗi em, anh không có thì giờ ...Ðể anh ăn uống qua loa gì dọc đường cũng được.”
“Em gọi là sẽ có ngay mà!”
Ông năn nỉ:
“Nhưng trễ lắm rồi, khỏi phiền em. Anh có chuyện rất quan trọng và gấp lắm, phải đi ngay. Muốn đến đường Nguyễn Chí Thanh thì phải đi làm sao? Có xa đây lắm không em?”
Cô phụ tá lắc đầu:
“Ông anh của tôi đổi ý như chong chóng. Vâng, cũng không gần đâu. Cứ đến Ngã Bẩy hỏi thì biết ngay. Ðể em gọi tắc xi cho anh đến ngã Bẩy. À mà ... anh đi tới đó làm gì vậy?”
Ông buột miệng:
“Ði tìm Thủy.”
Cô nở một nụ cười thật đẹp, đưa bàn tay cho ông cầm:
“Tìm em? Em đây này! Anh lơ đãng thế!”
Ông nhìn Thủy im lặng, chưa biết phải trả lời như thế nào. Thủy vội tiếp:
“Không, em hỏi thật đấy mà. Anh đi tìm ai?”
“Anh đi tìm người quen.”
Thủy cau mày:
“Em đoán già đoán non xem có đúng không nhé. Các ông Việt Kiều lộn xộn lắm, có vợ con đùm đề ở nước ngoài vẫn không quên đèo bòng thêm một vài bồ nhí tại quê nhà chứ gì. Mong rằng anh không thuộc hạng người đó. Nhưng anh tìm ai, cứ nói thật đi!”
Ông trả lời lặng lẽ:
“Anh đi tìm Thủy. Người đó cũng tên Thủy. Nói đúng ra, anh đi tìm đứa con gái của người ta. Còn người ta thì đã chết trên đường vượt biển rồi.”
Cô phụ tá quản lý hơi khựng người lại, quay đầu nhìn mông ra ngoài cửa sổ. Sau một phút ngập ngừng, cô mỉm cười và dịu dàng nói:
“Buổi chiều Sài Gòn tình tứ lắm đấy. Anh đi chơi vui nhé, chóng về, em chờ. Tối nay anh hãy kể chuyện cũ xẩy ra trên biển cho em nghe.”
Thơ
Đêm trước trận cuối
Nhớ TNT và Chiến Sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh
trong trận cuối tại Xuân Lộc
Anh ngó lên tháp canh
khi bóng đêm vừa đổ
phòng tuyến đứng lặng thinh
hoả châu rừng rực lửa.
Địch điệp điệp trùng trùng
hàng ngàn đàn kiến cỏ
giẫm nát hết ruộng đồng
ta không hề khiếp sợ.
Ngày mai trận sống mái
ngày mai ta phản công
máu sẽ đổ thành sông
xương chất lên thành núi.
Đứng lên anh ngó quanh
khuya lặng thinh nín thở
hoả châu rơi lả tả
bóng tối nhảy chập chờn
đêm ngã xuống biển mù
giao thông hào lẩn khuất.
Anh nhớ em của anh
của những ngày tan tác
từ khi miền Trung mất
em chạy loạn nơi nào?
anh đứng sau chiến hào
địch trùng trùng điệp điệp.
Em sinh trên đất Bắc
anh quê ở miền Trung
gặp nhau ta yêu nhau
như đã yêu từ trước.
Đã yêu từ nhiều kiếp
nguyện với đất với trời
thề cùng biển cùng non
tình trăm năm tạc dạ.
Lên đường anh vào Nam
xa quê hương khốn khổ
nhớ em và thương quê
ngày đêm anh ấp ủ
giấc mơ về chốn cũ
Có anh và có em
có dòng sông êm đềm
có cánh đồng mát rượi
có mẹ cha trông đợi
có đàn em đón mừng
có xóm dưới làng trên
có hàng cau khóm chuối
có ngôi nhà ngói mới.
Anh nhớ lời em nói
“Quê em xa nghìn trùng!
miền Bắc trong lao lung
làng em còn đâu nữa!
Quê anh là quê em
ta quê hương chia sẻ!
và anh là của em
là của em mãi nhé!
Hằng đêm em khấn nguyện
thôi thôi đừng giết nhau
anh mau về mau về
về anh về nguyên vẹn.”
Nhưng khi nào hết giặc?
Bao giờ là ngày về?
Tháng trước mất miền Trung
mong tin em quay quắt
nay giặc tràn xuống Nam
tin em càng bằn bặt.
Toàn những ngày chém giết
thịt đổ với xương rơi
binh lửa khắp nơi nơi
đất cháy đen vấy máu
chim rừng không chỗ đậu
đàn quạ lượn chờn vờn.
Ôi miền Trung đau thương
ôi Hàm Tân khốn đốn
ôi Tánh Linh, Xuyên Mộc
những cứ điểm địa đầu
của miền Nam thân yêu
lần lượt vào tay giặc.
Đây phòng tuyến Xuân Lộc
những ngày cuối Tháng Tư
ngó lên anh ngẩn ngơ
đứng ngồi không nguôi nhớ.
Mùa hè sôi sục máu
bão nổi mấy mùa thu
không bếp lửa mùa đông
mùa xuân không cánh én.
Bốn mùa mù mịt khói
em chờ anh bốn mùa.
Anh không có ngày về
Nay em đi biền biệt!
Ngày mai trận sống mái
máu xương sông và núi
giờ đây anh ngó quanh
đêm không trăng không sao
hoả châu rơi lã chã
trên những giao thông hào
hoả châu tuôn dòng lệ.
Bỗng nghe lời thì thầm
em của anh kể lể
trong tiếng gió canh thâu
trong lau lách vi vu
trong mờ mịt âm u
“Anh ơi anh ở đâu?
đến với em anh nhé!
anh ơi anh ở đâu?
kiếp này còn gặp nhau?”
Ngày mai ta phản công
giằng lại từng tấc đất
máu sẽ đổ thành sông
thây chất lên thành núi
Thây ta và xác địch
ôm nhau nằm co ro
tử thi lạnh cứng trơ
liệu có anh trong đó?
Có bao giờ em hỏi
tại sao lại giết nhau?
có bao giờ em quên
điều không ai muốn nhớ
Trong lớp người sắp chết
trong hàng ngàn đàn kiến
giẫm nát hết ruộng đồng
của miền Nam êm đềm
của miền Nam yêu dấu
của miền Nam đau đớn
có họ hàng của em
những người lính măng tơ
từ xa xôi xứ Bắc
con mắt còn ngơ ngác
vầng trán còn ngây thơ
trái tim còn vô tư
“Đi vào Nam giải phóng”.
Những khẩu hiệu quái gở
những lời lẽ đa đoan
những đổi trắng thay đen
những lọc lừa dối trá
những hành vi bạo ngược
những mưu mô quỷ quyệt
những kế sách hung tàn
nung nấu tuổi thanh xuân
đưa ngàn vạn sinh linh
vào sâu vòng oan nghiệt.
Ngày mai trận sống mái
giết nhau ta giết nhau!
chém ngươi gươm ta đau
bắn ngươi nòng súng buốt.
*
Đứng ngồi không nguôi nhớ
giấc mộng vàng đan dở
đàn kiến chạy lăng quăng
chiếc xe thồ thổ mộ
con ngựa gầy bước xiêu
mắt buồn không thôi ngó
xóm quê qua bến đá
lối nghẽn bánh xe lăn.
Đêm trắng giở từng trang
rừng lá đen tở mở
đưa những bàn tay vẫy
con gió kéo nhau vào
em đang ở nơi nao
héo hon miền đất lạ
viên đạn đồng cứng khô
bay ngang hồn băng giá.
Một mai binh lửa tàn
Em và anh qua đó.
Ngự Thuyết & Nguyễn Khắc Hoạch
Ngự Thuyết trên Da Màu
15.12.2014
29.09.2014
11.08.2013
02.02.2011
27.12.2010
02.08.2010
23.01.2010
14.09.2009
31.08.2009
10.08.2009
06.08.2009
08.05.2009
20.01.2009
Ngự Thuyết trên Tiền Vệ
Võ Phiến đã vĩnh viễn ra đi
(ký sự / tường thuật)
(ký sự / tường thuật)
[TƯỞNG NIỆM VÕ PHIẾN (1925-2015)] ... Thế là Võ Phiến đã vĩnh viễn ra đi, nhưng sự nghiệp văn chương ông để lại sẽ sống lâu dài với hậu thế, thì cũng xem ông như đang còn sống với ta – tôi lặp đi lặp lại câu nói đó nhiều lần. Cũng thế, có người bảo nhà văn chỉ sống với tác phẩm. Bỗng nhiên tôi thấy hụt hẫng khi chiếc quan tài từ từ được đưa vào lò thiêu. Và bỗng dưng trời đổ cơn mưa thật nhẹ. Mấy hạt mưa chạm khẽ vào mặt, vào tóc của những người đưa tiễn... (...)
Thu về, chuyện trò với thơ
(tiểu luận / nhận định)
(tiểu luận / nhận định)
... Thi ca Việt Nam biến chuyển nhiều từ trước đến giờ. Có người xem những dòng thơ đi trước họp lại làm thành những bệ phóng nhờ đó thơ hôm nay cùng với những thử nghiệm đầy gian nan sẽ có ngày đạt được thành quả rực rỡ hơn. Nhưng cũng có người cho rằng thơ truyền thống là những gông cùm cần phải đập tan thì thơ của ta mới có thể vươn lên ngang tầm thế giới. Đó là chọn lựa của những nhà phê bình thơ, những người làm thơ. Riêng giới độc giả thì tha hồ tìm kiếm cái hay, cái đẹp mà thưởng ngoạn... (...)
Nghe Sài Gòn trôi
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Phải chăng mình đang sống trong giấc mộng! Phải chăng, phải không em, mình hãy cứ như ngày nào cùng mùa hè qua nhiều lần Sài Gòn vẫn còn đó, chúng mình vẫn có nhau, buổi chiều vẫn êm đềm trở về sau cơn mưa bay nhiều nơi trong thành phố, rồi ra ngoại ô, rồi hẹn hò tái ngộ. Để mọi chuyện lại tái diễn, để dòng nước cũ trở lại trôi dưới cầu... (...)
Ánh mắt
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Bỗng từ đằng trước, một đứa bé khoảng bảy, tám tuổi chạy ngược về phía đoàn tù, tay cầm hòn đá lớn. Khi chạy đến gần ông, nó vung tay ném mạnh, hòn đá trúng ngay vào mặt ông. Ông choáng váng trong vài giây, lấy tay ém vào vết thương, máu trào ra những kẽ ngón tay chảy xuống bàn tay, cổ tay. Người tù đi trước khựng lại, người tù đi sau nhảy chồm tới, hai người lính bộ đội lập tức chĩa súng, lên đạn... (...)
30/4/1975
(ký sự / tường thuật)
(ký sự / tường thuật)
[1975-2015: BỐN MƯƠI NĂM, NHÌN LẠI] ... Bỗng mọi âm thanh, tiếng động, đều ngưng bặt. Cái im lặng đột ngột làm tôi tỉnh giấc trở mình mở mắt ngó dáo dác. Rồi tôi kín đáo nhìn. Hai chị em đang ngồi xệp trên sàn nhà đối diện nhau qua một chiếc va-ly, tần ngần. Bốn bàn tay đang cầm bốn góc lá cờ, nước mắt cả hai người ràn rụa. Tôi vờ ngủ tiếp nhưng cũng kịp nhìn thấy lá cờ sau đó được xếp làm hai, rồi làm bốn. Vợ tôi lấy ra hết các thứ trong chiếc va-li nằm trước mặt, rồi đặt lá cờ vào đáy va-li, xong cho các thứ vào lại... (...)
Thăm mộ ngài
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Nhiều năm trước ông đã bỏ nước mà đi. Ông nhớ một nhà văn người Đức, Bernhard Schlink thì phải, viết đại khái đào thoát không chỉ là bỏ đi mà còn đến một nơi nào đó. Nay ông lại trở về chốn cũ nhưng không phải để ở. Homecoming! Odysseus!... (...)
Thanh Tâm Tuyền, nhà thơ tiên phong
(tiểu luận / nhận định)
(tiểu luận / nhận định)
[HỘI THẢO VỀ VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975] ... Cho đến nay, nói như báo mạng Tiền Vệ khi ông vừa qua đời (22-3-2006), thơ Thanh Tâm Tuyền “vẫn còn là một nguồn cảm hứng lớn đối với nhiều nhà thơ có khát vọng đổi mới”. Trong thời kỳ cực thịnh của văn học Việt Nam, Thanh Tâm Tuyền vượt lên như một trong những đỉnh cao nhất. Có thể nói rằng Thanh Tâm Tuyền là một trong một số ít nhà thơ lớn nhất không phải chỉ riêng đối với Miền Nam mà cho cả nước... (...)
Mối tình đầu, hay thử nhìn lại “Đây thôn Vỹ” của Hàn Mặc Tử
(tiểu luận / nhận định)
(tiểu luận / nhận định)
Mối tình đầu? Đó là câu chuyện trữ tình, lãng mạn của một vài trăm năm về trước? Mà ngay vào thời kỳ ấy nó cũng chỉ áp dụng cho một số trường hợp. Là vì nếu có người tha thiết, trân trọng và ôm mãi trong lòng “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”, thì cũng có kẻ xem đấy như một kỷ niệm bé nhỏ, êm đềm, một biến cố trong vô vàn biến cố khác tất nhiên phải xẩy ra trong đời người... (...)
Đêm trước trận cuối
(thơ)
(thơ)
Anh ngó lên tháp canh / khi bóng đêm vừa đổ / phòng tuyến đứng lặng thinh / hoả châu rừng rực lửa. // Địch điệp điệp trùng trùng / hàng ngàn đàn kiến cỏ / giẫm nát hết ruộng đồng / ta không hề khiếp sợ...
Ngàn thông
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Con mắt nhìn mông lung, còn đâu mắt cừu nhìn xa, chiều mùa đông vùng Cambria, không thấy đằng sau những nhánh thông có những gì, có còn là khung trời xanh thăm thẳm, hay mây vờn như dải lụa, hay mây nổi vảy tê tê, hay mây vàng rực rỡ chuyển dần qua đỏ. Hay mây cuồn cuộn trời xưa đổ? Chỉ còn mây trắng một màu. Hình như câu nguyên vẹn của nó là “Bốn phương mây trắng một màu”... (...)
U Tình Lục, đứa con đầu lòng của Hồ Biểu Chánh
(tiểu luận / nhận định)
(tiểu luận / nhận định)
... Thế ra Hồ Biểu Chánh (1885-1958) đã khởi đầu sự nghiêp văn chương của mình bằng thơ — U Tình Lục được viết trước cuốn tiểu thuyết văn xuôi đầu tay Ai Làm Được xuất bản năm 1912. Tiếp theo đấy, trong gần nửa thế kỷ, ông cho in thêm một tập thơ, và trên 60 tiểu thuyết... (...)
Khăn tương tư
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
Nhớ — thương nhớ — là một trong những bản tính đặc thù của con người. Và của cả một số động vật khác nữa. Chẳng hạn kẻ tha hương lữ thứ nhớ quê nhà, người chinh phụ nhớ chồng, cô gái nhớ người tình. Mà nỗi nhớ nó có cứ đeo đẳng trong lòng người suốt ngày suốt buổi? Có lẽ nào như thế. Vậy khi nào thì nhớ?... (...)
Thu vàng
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Nhưng có phải mùa thu chỉ muốn về với rừng phong, rừng ngô đồng mênh mông, bát ngát? Hoặc chỉ ở những nơi ấy mùa thu mới chịu phô bày dung nhan làm ngơ ngẩn cả thế gian? Không hẳn thế. Cái to lớn không nhất thiết gây xúc cảm hơn cái nhỏ bé. Tảng đá không nhất thiết đắt giá hơn viên ngọc... (...)
Tố Phong
(tư liệu / biên khảo)
(tư liệu / biên khảo)
... Người phụ trách ở Nhà Thương cho biết một hôm ông theo xe lãnh thực phẩm ra thành phố Biên Hoà, ông thuộc vào loại “điên hiền” nên thỉnh thoảng được theo xe để làm những công việc lặt vặt, thì ông trốn mất. Vài ba ngày sau, Bệnh Viện nhận được tin ông đã nằm chết bên lề đường gần rạp chiếu bóng Biên Hùng, kiến lửa bu đầy người... (...)
Vô xứ [kỳ 2]
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Trên đồi cao, trên trời cao, trong gió, trong mây vang lừng tiếng nhạc thúc quân. Dưới dòng nước, dưới dòng suối, dưới dòng sông rần rật tiếng sóng giục giã lên đường. Chất men lạ lùng ấy không phải chỉ làm say lòng những bậc đàn anh, những bậc cha mẹ, mà cũng làm mê mẩn tâm hồn của bọn con nít ngây thơ. Thời gian say sưa ấy chỉ kéo dài được mấy năm... (...)
Vô xứ [kỳ 1]
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
Biển mênh mông. Không bờ bến, không một hòn đảo, không một mỏm đá, không một bãi san hô. Chỉ có nước và sóng. Trên mặt sóng trôi giạt một con thuyền nhỏ, quá nhỏ. Như con sâu cái kiến trên sa mạc hoang. Nhưng kiến bò từng đàn, quẩn quanh đâu đấy, rồi quay về tổ không xa mấy. Con thuyền thì một mình, trôi giạt mãi... (...)
Đảm nhận vai trò lịch sử...
(tiểu luận / nhận định)
(tiểu luận / nhận định)
[10 NĂM TIỀN VỆ] ... Tiền Vệ với một Ban Biên Tập chuyên nghiệp, với số cộng tác viên hùng hậu, và với hai người chủ biên đa năng, đa hiệu, và đầy tâm huyết, sẽ xứng đáng đảm nhận vai trò lịch sử của nó...(...)
Người thơ ấy
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Nhà thơ sục sạo tìm kiếm. Tìm cái gì? Lý tưởng? Lẽ sống? Tìm ra được chưa, hay dù phiêu lưu đến đâu cũng không thoát khỏi cái nhà tù với dãy tường câm chuyển động đuổi theo vây hãm: Phiêu lưu mãi là một nhà tù / Dãy tường câm chuyển động / Trên một triền vực sâu... (...)
Bọn người lao đao [kỳ 3]
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Tôi ráng đi gần đến sự thật bằng cách hư cấu thêm. Thật ra khi kể lại một câu chuyện, ai mà không hư cấu, không ít thì nhiều. Bởi thế tôi không thể chịu nổi những thứ mà người ta đã bỏ bao nhiêu công sức để tạo nên như viết một cuốn truyện, dựng một cuốn phim, lại kèm theo cái quảng cáo ngây thơ ‘truyện này, phim này là sự thật, hoàn toàn không phải là sản phẩm của hư cấu’... (...)
Bọn người lao đao [kỳ 2]
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Chúng ta thua trận phải lìa bỏ quê hương đã đành, thế mà vẫn còn may mắn đấy. Những người bị kẹt lại mới khốn đốn. Những người khốn đốn ấy, và cả dân tộc, hiện đang sống dưới một chế độ độc tài, tham ô, dã man, tàn bạo. Một thiểu số cầm quyền dựa vào những lý thuyết ngoại lai vớ vẩn, lỗi thời để thay đổi cuộc sống đến tận gốc, thẳng tay đàn áp những ai có ý khiến khác. Còn đối với ngoại bang thì khiếp nhược, đưa đất nước dần dần đến bờ vực thẳm... (...)
Bọn người lao đao [kỳ 1]
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
“Sao hồi đó ở đây buồn quá hả chú...” Người đàn bà ngập ngừng. Cô còn trẻ. Cô ngồi trên một chiếc ghế đá nhìn xuống thung lũng, bên cạnh là một người đàn ông đứng tuổi. Buổi trưa cao nguyên nắng mênh mông. Gió lớn. Thông reo gần như gào thét, nhưng cũng có lúc nghe như tiếng suối chảy, hoặc thoang thoảng như tiếng sáo trúc. Trời nhiều mây... (...)
Những ngày Ấn Độ [IV]
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... “Những ngày trời trong, nắng tốt, đứng trên đỉnh Nagarkot, ta có thể thấy được đỉnh Everest nhỏ như ngón tay,” tôi nhớ câu nói ấy. Hôm nay ngày trắng đục nhờ nhờ, xin gởi lời chào Everest trong mơ ước của tôi nhé. Nhưng này, Everest là ngọn núi cao nhất, và cũng là một đứa con trong lòng mẹ Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ mà tôi đang đứng lặng người nhìn ngắm với tất cả ngưỡng mộ lẫn kinh hoàng... (...)
Những ngày Ấn Độ [III]
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Thế còn tiếng tụng kinh của ta? Thật đa dạng, phong phú, tùy theo bài kinh. Nhưng nói chung, rất buồn. Người miền Bắc tụng kinh nghe có khi vui, ít thôi. Tiếng tụng kinh miền Trung, miền Nam thường rất bi thiết. Miền Trung thì có âm hưởng nhạc Chàm u sầu, miền Nam thì khiến tôi liên tưởng đến những bài ca vọng cổ ai oán. Có lẽ nước ta chịu quá nhiều tai ương trong suốt dòng lịch sử mấy ngàn năm nên có hiện tượng ấy ngay trong cả giọng tụng niệm chăng?... (...)
Về phim Hè Muộn
(đối thoại)
(đối thoại)
[ĐIỆN ẢNH] ... Đúng như trong “Về Vĩnh Châu”, tôi chỉ nhớ rất lơ mơ về phim Hè Muộn. Chỉ nhớ pha “đá banh” và cái ấn tượng buồn buồn mà cuốn phim đã để lại rất lâu trong tôi. Cám ơn anh đã nhắc lại cho tôi...
Về Vĩnh Châu
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Chữ vô cảm nay được sử dụng rất nhiều. Là vì con người bây giờ càng ngày càng ù lì như sỏi đá. Mấy tháng trước đây báo chí ở nhiều nơi trên thế giới loan tin và cực lực lên án một sự việc rất quái đản xẩy ra tại một thành phố ở Trung Quốc. Một em bé gái bị một xe tải cán lên người đến hai lần, bị thương nặng, sau đó chết. Nhiều người đi đường đã chứng kiến cảnh tượng ấy, ngoảnh mặt, tiếp tục đi. Vô cảm đến thế là cùng... (...)
Vua Duy Tân và bài thơ còn lại
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Cho đến bây giờ, bài thơ cũ ấy vẫn để lại dấu ấn mạnh nơi tôi: Trang nghiêm, hào hùng, dũng cảm, và đầy xúc động. Như lời của người tôi trung bất lực nói với đấng minh quân thế cùng lực tận; như lời của người đồng chí nói với người đồng chí, của một người bạn với một người bạn, của người tình với người tình. Đó là những tình cảm, những tâm trạng rất đa dạng đan quyện vào nhau. Tôn kính, chăm chút, âu yếm, đau đớn, than van, sầu khổ. Hơn nữa, bài thơ tuy ngắn nhưng đã đưa người đọc đến những vùng không gian mênh mông, thời gian thăm thẳm, cùng với tính cách sử thi của nó. Cho nên nó mang dáng dấp của một bản anh hùng ca trữ tình, trầm buồn... (...)
Những ngày Ấn Độ [II]
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Ở một nước lạ lùng, trong đêm tối mịt mùng, nghe được tiếng chuông ấy, tiếng tụng kinh ấy, từ ngôi chùa Việt Nam ấy, quả là một niềm hạnh phúc lớn. Tôi quay nhìn vợ tôi muốn chia sẻ nỗi vui mừng. Cô ta không để ý đến tôi, lim dim mắt tụng kinh theo... (...)
Những ngày Ấn Độ [I]
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Bỗng có tiếng chuông ngân nga. Càng về chiều chim từ đâu bay về Đại Tháp càng nhiều, vô số kể, kêu ríu rít một hồi lâu cho đến khi trời tối hẳn. Xa hơn, những người hành hương từng đoàn dài được hướng dẫn bởi những nhà sư áo vàng, hoặc áo đỏ thẫm, hoặc áo chàm, hoặc áo trắng, đổ về. Xa hơn nữa, nơi này đàn lạc đà đi hàng một trông giống như một vệt màu nâu nhạt... (...)
Taj Mahal
(tiểu luận / nhận định)
(tiểu luận / nhận định)
... Lặng nhìn cái vòm cao lồng lộng giữa đêm trăng tháng ba đầu mùa xuân còn khá lạnh, trời sao lác đác, mờ mịt, xa xa những hàng cây đen, những ánh đèn leo lét không đủ sức xuyên thủng lớp sương mù không biết đã dâng lên từ lúc nào, dần dần tôi thấy Taj Mahal như đang rung động. Nó đang biến hình. Nó không còn là giọt nước mắt như lời thơ của Tagore nữa. Nó biến thành cái bầu vú, và đỉnh cao là núm vú... (...)
Quãng đường khuya
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Một người cao lớn đứng trên xe hai tay vịn vào khung cửa xe cho vững, rồi co một chân đạp vào mặt một người biểu tình đang bị bốn người khác đứng cạnh xe nắm chặt lấy hai tay hai chân tạo thành cái võng người đu đưa. Chẳng khác gì cảnh tượng một con thú bị sập bẫy, bốn chân bị kéo banh ra bốn phía, để cho một tên đồ tể tiện bề đưa lưỡi dao rạch ngang bụng. Đấy là cách hành xử của một chính quyền đàng hoàng đối với người biểu tình chống xâm lăng chăng?... (...)
Một thoáng Chicago
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... Ngồi trên xe lửa đang tiến về Los Angeles, tôi nhớ đĩa cơm gà ở ga Quảng Ngãi đồng thời với gà rô-ti trên đường Saint Michel và cùng với gà ở Chicago tại tiệm Chicken Rotisserie mà tôi chưa được ăn. Tôi cũng mong trở thành hoạ sĩ để vẽ Hồ Michigan lồng lên trên vịnh Cam Ranh. Rồi vẽ luôn cơn gió Lào thổi qua Lao Bảo thổi về Quảng Trị quyện lấy những cơn gió của The Windy City... (...)
Cây Ớt Chim Két
(truyện / tuỳ bút)
(truyện / tuỳ bút)
... “... Năm nay là năm con mèo, mà con mèo phải trèo lên cao, quý vị phải mua hột xoàn, mua xoàn sẽ mau giàu, từ đây cuộc sống hết lao đao. Thưa quý vị, mua xoàn năm ly trở lên được biếu thêm một xoàn ba ly...” ... (...)
Nghĩ về Võ Phiến
(tiểu luận / nhận định)
(tiểu luận / nhận định)
... Nhà điêu khắc người Pháp, Auguste Rodin, vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 được người đời cho rằng có hai bàn tay phù thuỷ, đụng phải vật gì, cục đất, hòn đá, khúc cây, là rút ra được ngay cái bí ẩn sâu kín và đẹp đẽ của nó, là nắm bắt ngay cái thần thái của nó, để tạo nên những tác phẩm bất hủ. Võ Phiến cũng không khác. Những gì quanh ta dù lớn, dù nhỏ, hoặc có vẻ ù lì, tầm thường, khó nhận diện, qua cái nhìn đầy khám phá của Võ Phiến, sẽ có ngay một linh hồn, một sức sống. Đó là ngoại cảnh. Ông lại không ngừng đi dò tìm thăm thẳm vào nội tâm con người... (...)
Truyện vừa
DÀI THẾ KỶ
Hồi còn cắp sách đến trường, những năm cuối tiểu học và đầu trung học, tôi mê đọc vô cùng. Mê đọc chứ không phải mê đọc sách - chữ "đọc sách" nghe quá trịnh trọng và lớn lao so với mớ tuổi bé con của tôi. Thời đó đã có chiến tranh, sách vở thiếu thốn, vồ được cuốn nào là ngốn ngấu cuốn ấy, không phân biệt, không chọn lựa. Những cuốn sách cũ của ông chú có nhiều cuốn mất khúc đầu thì đọc khúc đuôi, mất khúc đuôi thì đọc khúc đầu, mất cả đầu đuôi thì đọc khúc giữa. Trang mất trang còn cũng không sao, đọc tuốt. Y như sau này những năm tháng đầu tiên trong tù cải tạo ngày nào cũng bị nhồi nhét lý thuyết với chủ nghĩa lỗi thời, rỗng tuếch, thế là nhặt được một miếng giấy gói muối, gói mắm, hay những mảnh giấy ố vàng rách rưới nhỏ bằng vài ngón tay - xin lỗi - tức là giấy "vệ sinh" sau khi dùng đi cầu đã khô, hễ có vài hàng chữ cũ là phủi phủi rồi banh ra đọc một cách say sưa. Hàng chữ cũ? Vâng, tức là từ những tờ báo, những trang sách "Ngụy" bị xé rời làm giấy gói đồ, làm bao bì v.v..., trạm chót là làm giấy “vệ sinh”. Về sau, Cách Mạng biết được điều đó cho nên những thứ giấy ấy cũng không kiếm đâu cho ra. Thế là những người tù chúng tôi không còn cái hạnh phúc đọc những chữ “thối" ấy nữa.
Trở lại chuyện hồi bé, tôi đọc những gì nhỉ? Nào La Bính Hoa ngày nào cũng đi ăn xin về nuôi mẹ già, nhờ thế sau gặp được ân sư mà trở thành tay kiếm sĩ vô địch; nào Hồng Gia Nữ Hiệp võ công đầy mình và đẹp như tiên lại "thầm yêu trộm nhớ" chàng Bách Tường Vân; nào Nhà Sư Thọt ôm kín một cuộc đời bí ẩn một đêm bị bức bách đành phải vượt hàng rào đánh mất chiếc ba-toong, và từ chiếc ba-toong ấy Kỳ Phát tìm ra án mạng; nào chú tiểu Lan, Hồn Bướm Mơ Tiên, trong bộ nâu sồng "dịu dàng bẽn lẽn" ngồi thẫn thờ một mình trong vườn sắn cao quá đầu người nghe tiếng chim gù mà nhớ anh chàng Ngọc đã bỏ về Hà Nội; nào Trọng Khang, Trường Đời, nét mặt "phong trần" có một bè gỗ lớn bị nước lũ cuốn mất bèn đi đánh bạc để gỡ gạc lại xui xẻo thua nhẵn cả túi tiền, làm lại cuộc đời bằng hai bàn tay trắng v.v... Ðó là văn xuôi, tiểu thuyết.
Còn thơ thì may thay một đứa học cùng lớp có cuốn Thi Nhân Việt Nam đã nhàu nát của Hoài Thanh, thế là những đứa khác trong đó có tôi năn nỉ mượn rồi chuyền tay nhau chép lại gần trọn cả cuốn thơ vào những tập giấy học trò, rồi đọc lui đọc tới đến thuộc lòng những bài mình thích. Lời bình bay bướm, hay ho, và đầy khám phá của Hoài Thanh, Hoài Chân cùng những bài thơ trong cuốn sách sao mà có sức lôi cuốn tôi hồi đó đến thế!
Nhưng dù văn hay thơ đều nói đến những tình huống kỳ lạ, bay bổng, tha hồ đưa trí tưởng tượng của tôi đi lang thang thật xa, để khi nhìn lại cuộc sống thường ngày của mình, thấy nó gò bó, nghèo nàn, và chật hẹp quá chừng. Càng đọc lung tung, càng mơ ước viển vông, càng thất vọng. Rồi bắt chước buồn cái buồn của các thi sĩ - Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
Một lần gặp được mấy câu thơ của Tế Hanh:
Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Ðón chuyến tàu đi, đến những ga
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa
...
Hồi đó tôi cho những câu thơ ấy hay tuyệt, và nhất là nó đã vẽ ra cái khung cảnh gần gũi nằm trong tầm tay của mình.
Số là như thế này. Một buổi sáng nghỉ học, thằng bé 12,13 tuổi là tôi đạp xe đạp ra ga xe lửa Huế để thử tìm cái cảm giác được mô tả trong bài thơ. Xe lửa tới, rồi xe lửa đi, hành khách lên, rồi hành khách xuống, mà thằng bé chỉ có cảm giác hụt hẫng mà thôi. Nó chẳng kiếm đâu cho ra một thứ gì thơ mộng hoặc buồn khổ cả. Lòng trống rỗng. Nó ngơ ngáo, ngượng nghịu ngó quanh. Người ta tò mò nhìn nó. Nó chột dạ. Rồi mặt nó đỏ lên như ăn vụng bị bắt gặp. Nó định bụng đứng lì thêm một chốc nữa thôi, để làm gì nó cũng không biết, nhưng rủi thay, người lính gác từ xa đi tới vẻ mặt đầy nghi ngờ, có lẽ nghĩ nó là kẻ gian, cho nên nó vội nhảy lên xe đạp đạp một mạch không quay đầu nhìn lại nhưng cái lưng nó vẫn cảm thấy nhột nhạt vì những cái nhìn đuổi theo chế giễu. Nó chắc mẩm rằng mọi người đều chú ý đến cái cử chỉ “quái chiêu” của nó. Từ đó, ngoài những lần đi đâu bằng hỏa xa, nó không còn dại dột mò tới những nhà ga để mộng mơ.
Bây giờ sống trên đất Mỹ này nhiều dịp đến những phi trường, những sân ga, hoặc những bến xe đi xuyên bang, có khi nhớ lại bài thơ ấy của Tế Hanh, lòng chỉ thấy gợn lên một chút cảm giác mơ hồ như mặt nước ao tù phẳng lỳ bỗng chạm phải bởi một chiếc lá tre khô vừa rơi xuống. Một vòng tròn cảm xúc rất nhỏ lan ra thành vài ba vòng tròn đồng tâm rồi biến đi nhanh trước khi chiếc lá nằm yên trên mặt nước. Và cái bến xe buýt này, bến xe lửa này, cũng đã trở nên khô khan, mệt nhọc, buồn nản như bản thân của tôi khi cánh tay vẫy vẫy của Trang xa dần, rồi bị che khuất sau mấy toà nhà trơ khất.
*
Người đàn bà nhìn tôi hỏi:
“Xin lỗi ông, mấy giờ rồi thưa ông?”
Tôi đeo kính vào. Người đàn bà vội xua tay:
“Thôi khỏi phiền ông. Kia kìa, cái đồng hồ treo tường ở cuối hành lang. Nào, xem nào, 10 giờ thiếu 10. Chết tôi rồi! Xe tôi khởi hành 9 giờ. Chết tôi rồi!”
Tôi kín đáo quan sát người đàn bà. Thiếu phụ khoảng tuổi 40, thân hình cân đối, mặt có nét buồn nhưng thanh tú, giọng nói ấm áp, nụ cười tươi luôn luôn ở cửa miệng. Tóm lại đẹp và có duyên. Chỉ có đôi mắt là tối sầm. Tôi không hề thấy nụ cười tươi sáng đi theo với cặp mắt tối tăm. Cũng ít thấy người nào miệng thì cười mà mắt dửng dưng như người đàn bà này. Tôi trấn an:
“Không sao đâu cô. Có nơi mỗi ngày có hai chuyến xe. Trễ chuyến thứ nhất thì đi chuyến thứ nhì. Vậy cô đi đâu? Ðể tôi xem thử có chuyến buổi chiều cho cô không nào.”
Thiếu phụ nhìn tôi, thoáng một chút bỡ ngỡ nhưng nỗi lo lắng vẫn hiện rõ trên đôi mắt:
“Tôi đi Green River. Lần đầu tiên tôi đi xa một mình, tiếng Anh tiếng u tôi không biết. Phiền ông hỏi hộ cho tôi xem có chuyến buổi chiều không ông nhé. Hôm nay mà không đi được, tôi sẽ không biết xoay xở ra làm sao cả. Khổ qúa! Ông giúp hộ tôi nhé, thưa ông.”
Tôi khẽ gật đầu và đến quầy bán vé đứng nối đuôi chờ. Hành khách đông đảo, phần lớn nói tiếng Tây Ban Nha. Tôi phải chờ đến hơn 15 phút mới sắp đến phiên mình được tiếp. Tôi vừa quay người lại đã thấy thiếu phụ đứng ngay sau lưng tôi, nét lo lắng hiện rõ trên đôi mắt đen và u ám. Thiếu phụ ấp úng:
"Ông Mễ bán vé đó nói tiếng Mễ phải không ông? Ông biết tiếng Mễ hay không? Làm sao bây giờ!"
"Không sao cả. Thấy cái mặt cuả tôi là họ chuyển qua nói tiếng Anh ngay. Tiếc là họ không nói được tiếng Việt. Những người làm việc ở đây nói thạo cả tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha."
Tôi quay qua hỏi người bán vé, được biết không có chuyến xe đi Green River. Rời khỏi quầy bán vé, tôi ái ngại nhìn người đàn bà và cho cô ta biết điều đó. Thiếu phụ vội vã tiếp lời:
"Khổ thân tôi quá! Lúc nẫy tôi không chịu nói cho rõ ràng, thưa ông. Xin lỗi ông. Tôi cũng biết rằng không có xe đi Green River, nhưng người nhà có dặn cứ đến Salt Lake City rồi xe nhà sẽ đến đón về. Vậy phiền ông một lần nữa nhé. Nhờ ông hỏi xem còn chuyến đi Salt Lake City vào buổi chiều hay không. Làm phiền ông nhiều quá, tôi vô cùng áy náy, thưa ông."
A, cái cô này ăn nói lễ phép một cách quá đáng, nhưng bù lại, giọng nói nghe hay quá, khiến tôi cũng muốn bắt chuyện để được nghe thêm. Tôi vốn thích nghe giọng nói của phái nữ.
Salt Lake City tôi có đến một lần. Ðó là thành phố thủ phủ của tiểu bang Utah, nằm gần cái hồ rộng mênh mông, hơn 500 ngàn mẫu tây, cao hơn một cây số so với mực nước biển, nước hồ mặn chát, mặn gấp ba, gấp bốn lần nước biển, mặn đến nổi cá không sinh sống nổi. Chỉ có một loại tôm vỏ cứng nhỏ tí tẹo, màu đỏ hồng, nhỏ bằng đầu cây tăm xỉa răng và dài cũng chỉ bằng một lóng tay thôi, là có thể tồn tại nơi đó. Nhờ có loại tôm ấy mà bầu trời của vùng hồ nước mặn và những thành phố lân cận sinh động hẳn lên vào mùa xuân và mùa thu. Tôi nói cái chi tiết đó, người đàn bà trố mắt nhìn có lẽ nghĩ tôi có tính ưa đùa cợt:
"Tôm sống dưới nước mà làm vui cho bầu trời! Sao có chuyện lạ thế, thưa ông."
"Nhưng tôi chưa nói hết mà. Vâng, những loài chim di điểu ở miền bắc nước Mỹ, ở Canada, ở gần miền Bắc cực, từ mùa thu đã lo bay về nam tránh cái rét của mùa đông trên đó. Bay xa lắm, hàng ngàn dặm, hàng chục ngàn con, thường ghé lại vùng hồ ấy cho đôi cánh được nghỉ ngơi năm bảy tiếng đồng hồ. Rồi bay tiếp. Trước khi dừng cánh, chúng sà xuống mặt hồ săn đuổi những con tôm bé nhỏ đó đang lặn lội nhởn nhơ, gọi là kiếm chút thức ăn độ đường. Ðến mùa xuân ấm áp năm sau lại bay về tổ cũ -- vâng có nhiều con chim bay về đúng tổ cũ của nó – lại ghé xuống mặt hồ. Cả một vùng sinh động hẳn lên. Năm nào cũng thế, từ xa xưa cho đến bây giờ".
Nói xong, tôi cười thầm. Thế ra mình đã bị lây cái lối nói kiểu cách của thiếu phụ. Con gái Bắc kiểu cách một cách thật duyên dáng, mình đâu bắt chước nổi!
Cái thành phố Salt Lake City khá lớn này hẳn nhiên được vài ba chuyến xe buýt xuyên bang phục vụ mỗi ngày, tôi nghĩ thế, nhưng tôi cũng đến người bán vé hỏi lại cho chắc. Ðúng thế, có hai chuyến xe buýt Grey Hound đi từ Santa Ana đến Salt Lake City, một sáng một chiều. Thật ra, hai chuyến đó đi từ cực nam của Cali, thành phố San Diego, rồi ghé lấy thêm khách từ Santa Ana. Lỡ mua vé sáng chỉ việc đóng thêm tiền phạt mười phần trăm để đi chuyến chiều. Ðược biết như thế, thiếu phụ mừng rối rít:
"Thật là may mắn cho tôi! Nhất là may mắn đã gặp được ông nơi đây. Nếu không, tôi chết mất."
Giọng Bắc du dương, người đàn bà lại cười nói một cách hồn nhiên, khiến tôi thấy vui vui. Tôi gợi chuyện:
“Mà này cô, Green River? Nghe hay quá. Green Field, Cánh Ðồng Xanh, thì tôi biết, đó là tên một bài hát nổi tiếng một thời. Nhưng thị trấn ấy tên Green River? Hẳn là có một dòng sông xanh trôi qua? Cô khéo chọn chỗ ở nhỉ?”
Thiếu phụ mở to mắt nhìn tôi:
“Tôi có kén chọn gì đâu! Nếu tôi được quyền chọn, chắc chắn tôi sẽ xin định cư miền nam Cali. Ông mới là người khéo chọn!”
Tôi ậm à:
"Thế sao? Sao cô biết? Mà tôi chọn nơi nào nhỉ?"
“Tôi đoán ông người vùng này. Ở đây ấm áp, vui quá, nhiều người mình quá, ông nhỉ? Ði trên các đường phố Nam Cali mà cứ ngỡ đang đi bát phố Sài Gòn những chiều cuối tuần. Ông có cảm thấy như thế không, thưa ông.”
“Tôi cũng chỉ là người tị nạn mới đến định cư nơi đây thôi ... cho nên cô bảo tôi người vùng này e không đúng lắm. Nhưng thật ra ở đâu quen đấy, vui buồn còn tùy. Này cô, ta hãy trở lại câu tôi hỏi cô lúc nãy nhé. Vùng cô ở chắc có con sông xanh, Green River?"
Người đàn bà chau mày:
“Ông nói làm tôi phải cố nhớ lại xem dòng sông ấy có xanh hay không. Và con sông vùng tôi ở có phải là sông Green River hay không, tôi cũng không biết nữa. Ðường sá, xóm giềng, trường học, vườn hoa, chợ búa, tôi còn không biết tên huống là tên một dòng sông. Nhưng hình như con sông nào cũng thế thôi, lúc đầy lúc vơi, lúc vui lúc buồn, lúc trong lúc đục. Làm gì có con sông xanh mãi!”
Tôi định nói có chứ, sông Hương đấy, nhưng nghĩ không phải lúc để tranh luận dài dòng. Mà cũng không hẳn đúng. Sông Hương mùa lụt nước bạc trắng chứ đâu còn trong, “Nước lạnh như đồng, khổ lắm chồng tui”. Hai ba người đàn bà Mễ Tây Cơ hay Nam Mỹ con cái đùm đề ì à ì ạch khiêng những cái túi nặng nề đến để ngay trước mặt chúng tôi rồi quày quả chạy tới quầy bán vé. Tôi đề nghị:
“Ði chuyến buổi chiều, bốn giờ chiều, nên cô còn nhiều thì giờ lắm. Hay là ta hãy dời hành lý đến hàng ghế cuối ngồi cho rộng rãi, yên tĩnh? Lúc nào ở quầy bán vé thấy bớt người ta hãy trở lại đổi vé cô nhé.”
Thiếu phụ vui vẻ gật đầu. Tôi khệ nệ, khập khiễng, chân tôi bị tật, xách giùm một cái túi của thiếu phụ, còn thiếu phụ thì tay xách cái bị nhỏ lẳng lặng theo sau. Ðến hàng ghế cuối, trước khi đặt túi xách xuống đất, tôi đứng chờ xem thiếu phụ muốn ngồi băng nào. Bắt gặp thiếu phụ cười lặng lẽ, đôi mắt là lạ như có pha chút giễu cợt. Tôi thầm nghĩ có lẽ cô này thấy mình đi khập khiễng mà còn ra tay hào hiệp nịnh đầm xách giùm cái túi khá nặng. Thiếu phụ đổi sắc mặt, vội nói:
“Cám ơn ông. Ông còn phải trở lui mang hành lý của ông đến đây nữa chứ. Ông mải lo giúp tôi lại quên cả hành lý của ông rồi!”
Tôi cười, đáp:
“Tôi không có hành lý. Sáng nay tôi đi tiễn đưa. Xe chạy rồi. Người ta đã đi rồi. Tôi định ngồi đây nghỉ ngơi một chốc thì ... gặp cô.”
Thiếu phụ cúi mặt cười tủm tỉm:
“À ra thế. Thế mà tôi cứ tưởng ... tôi cứ nghĩ ông cũng sắp đi xuyên bang ... như tôi. Vâng, đúng thế, sau khi tiễn đưa, ta nên ngồi nán lại một chốc.”
"Ðể làm gì vậy?"
Thiếu phụ nở một nụ cười duyên:
"Ðể giữ một chút dư vang."
Lúc còn nhỏ, chưa xong trung học đệ nhất cấp, tôi đã yêu. Tôi giấu kín chuyện lòng của mình, không dám san sẻ với ai một lời kể cả người tôi yêu. Trẻ con mà bày đặt yêu với thương, nghe chướng tai quá! Nhưng tôi cứ yêu, biết làm sao được. Một mùa hè, tôi đến nhà em học. Em? Bây giờ nhớ lại, hồi đó tôi đâu dám gọi em là em. Anh cả của em đi học xa, Sài Gòn Hà Nội gì đó, người anh thứ hai học trên tôi nhiều lớp, mở lớp dạy kèm môn toán và tiếng Pháp. Em thỉnh thỏang ghé tạt qua lớp học mang nước trà cho anh của em, có khi mang đến nào đào tiên, nào ổi, nào khế ngọt, nào dâu vừa mới hái ngoài vườn đem vào cho đám học sinh háu ăn háu đói là chúng tôi. Chưa bao giờ tôi nghe em nói một lời; em chỉ nhìn chúng tôi, con mắt to, sáng long lanh, nhìn mà có lẽ không thấy ai, nhìn chung chung chứ không nhìn hẳn vào một ngươi nào. Và cuối cùng cười chung với mọi người để giã từ, nụ cười không phát ra thành tiếng, chúm chím như đóa hoa hồng mới nụ trên khuôn mặt trắng xanh, gầy gầy, xinh đẹp quá.
Vâng, nước da em trắng xanh, có lẽ em biết thế, cho nên em thường mặc chiếc quần dài đen, áo bà ba đen ngắn tay, làm nổi lên khuôn mặt và hai cánh tay trần. Em rất đơn sơ những năm đói khổ, loạn lạc ấy. Em của màu đen và màu trắng. Tóc đen mượt, mắt đen nhánh, quần áo đen dịu dàng, chỉ để lộ khuôn mặt trắng và hai cánh tay trần như hai cành non. Và hàm răng nữa chứ, những chiếc răng trắng như hạt bắp nếp sắp đều đặn cạnh nhau. Vào lớp học em mang vào tất cả ánh sáng của trời đất bên ngoài. Rồi em quay người lặng lẽ đi không nói một lời. Phòng học bỗng hoang vắng. Trong lòng lũ bạn học trẻ con của tôi có nhen nhúm một thứ tình cảm nào đối với cô bé hay không, có lẽ không, nhưng riêng tôi thì khác hẳn. Lòng tôi cứ vấn vương mãi. Rồi một hôm tôi như người bị hút hồn khi em vô tình hay cố ý nhìn tôi và chỉ cho tôi một trái ổi có dấu chim mổ mà em bảo thế là ngọt lắm. Ðúng thế, em chỉ nhìn tôi thôi, tôi thầm nhắc đi nhắc lại. Từ đó tôi không thể nào tập trung tâm trí vào bài vở, nhưng cũng không bao giờ vắng mặt một buổi học nào. Mùa hè cứ thế trôi qua như giấc mơ.
Hết hè, mọi người nao nức trở lại trường cũ lòng không chút vướng bận hình ảnh của em. Nhưng riêng tôi, cứ mỗi buổi chiều đi học về, tôi kiếm một cái cớ nào đó để đi qua nhà em. Mình đi đến xóm em xem thử cái tổ chim ròng rọc nằm vắt vẻo trên cây tre lá ngà cao nhất có còn đó không. Xem mấy đoá hoa dâm bụt lấp ló trong hàng dậu trước nhà em hôm qua còn búp nay đã nở chưa. Xem con đường xóm hôm nay có vắng teo như mọi hôm hay không; may qúa, lối xóm cuả em bao giờ cũng vắng người đi. Tôi khỏi sợ ai bắt gặp. Xem thử từ trong ngôi nhà cổ kính ấy có ai đi ra không. Ít khi thấy em ra khỏi nhà.
Cứ thế tôi đi lên đi xuống lối xóm đó nhiều lần mỗi chiều, nghe tiếng chó sủa nối đuôi nhau từ nhà này qua nhà khác theo bước chân của tôi, nghe quả tim mình xôn xao, bồi hồi. Họa hoằn lắm mới được gặp em một lần. Thế mà khi gặp, tôi làm ra vẻ lơ đễnh, thờ ơ. Tình cờ đi qua đây. Nhìn em cười ngượng ngập, không biết nói gì, không dám nói gì. Em ngạc nhiên, có pha chút vui mừng thì phải, cười lại, hai con mắt trong veo, đen nhánh nhìn theo tôi khi tôi nói lúm úm vài lời và vội đi nhanh. Chừng đó thôi, nụ cười và cái nhìn. Tôi về nhà ngẩn ngơ suốt buổi tối hôm đó và nhiều ngày sau, và bắt đầu biết buồn là gì. Tôi thầm nghĩ phải chăng tình yêu có nghĩa là buồn, là khổ?
Một loạt bảy tám người đẩy cửa kính đi vào, kẻ ba lô, người kéo theo va-li có bánh xe lăn. Thiếu phụ thì thầm hỏi:
“Người Mễ ở đây đông qúa hả ông?”
“Ðúng thế. Vùng Ca - li này ngày xưa của Mễ Tây Cơ, sau bán cho Mỹ. Hay Mỹ chiếm từ Tây Bang Nha nhỉ, tôi không rõ. Nhưng không phải tất cả mấy người đó đều là người Mễ cả đâu, tôi đoán thế. Họ có thể là người gốc Trung Mỹ, Nam Mỹ, hoặc ở các hải đảo quanh đây. Có điều họ đều nói tiếng Tây Ban Nha. Hình như chỉ có người Ba Tây nói tiếng Bồ Ðào Nha.”
“Thế thưa ông làm sao phân biệt được ai là Mễ, ai là Á Căn Ðình chẳng hạn?”
“Tôi cũng chịu thua cô ạ. Ngược lại họ cũng không thể biết ai là Việt Nam mình, ai là Tàu, Nhật, Ðại Hàn hoặc Thái Lan chẳng hạn.”
Thiếu phụ cười:
“Thế thì hòa vốn.”
Trước khi từ giã thiếu phụ, tôi nghĩ mình phải nói thêm vài lời:
“Từ đây đến Green River, đến Salt Lake City, cũng mất hết sáu tiếng phải không cô?”
“Thưa ông, phải đến tám chín tiếng.”
“Bốn giờ chiều nay khởi hành,” tôi lẩm nhẩm tính, “thì, thì hơn 12 giờ đêm mới đến Salt Lake City. Có xe đón cô vào lúc khuya khoắt ấy hay không để còn phải đưa cô về Green River chứ? Một mình cô, đêm khuya, thân gái...”
Thiếu phụ ngắt lời, nét hóm hỉnh hiện lên đôi mắt:
“Nếu không có xe đến đón tôi lúc giữa khuya thì sao thưa ông? Ông sẽ đưa tôi về nhà nhé!”
“Chắc chắn là thế!” tôi nói đùa.
Giọng nói thiếu phụ bỗng đầy vẻ giễu cợt và hằn học:
“Cám ơn ông đã mở lòng từ bi chiếu cố đến tôi. Các ông bao giờ cũng thế, rất hào hiệp với phái yếu. Hễ thấy người đàn bà nào lọt con mắt thì ... giở trò ngay!”
Cái bà này lạ chưa, tôi tự nhủ. Tự nhiên sửng cồ! Muốn gây sự đó chắc? Bỗng thiếu phụ reo lên:
“Ông xem kia kìa, có đến hai chiếc xe buýt đang từ từ chạy vào bãi đậu cùng một lúc. Cầu trời một chiếc sẽ đi Salt Lake City. Nếu thế tôi khỏi phải chờ đến chiều ông nhỉ. Tôi nóng ruột quá!”
Tôi quay nhìn ra ngoài bãi đậu xe. Trời bỗng âm u. Gió lên. Hàng cây chạy dọc theo con đường cái bị gió đẩy, cành và ngọn ngả nghiêng về một phía. Lá rụng lác đác xuống bãi đậu rồi bị gió đùn về một phía con đường cái ngoài xa. Một chút bụi bay. Tôi nhớ đến những con đường bụi cuốn mù mịt ở quê cũ mỗi lần có cơn gió lốc. Xứ này ít bụi. Hai chiếc xe lầm lũi bò vào trông giống như hai con sâu róm khổng lồ. Thiếu phụ kín đáo nhìn tôi. Tôi im lặng, cố tỏ ra mình không khó chịu vì câu nhận xét vừa rồi của thiếu phụ. Như đoán ra điều ấy, thiếu phụ dịu giọng:
“Xin lỗi ông, lúc nẫy tôi nói gì với ông thế? Tôi nói đùa một chút ấy mà. Nói xong tôi quên ngay. Nếu tôi có lỡ lời, xin ông bỏ qua nhé. Ðôi khi tôi giống như người khùng vậy, xin ông đừng chấp mà tội nghiệp tôi lắm. Em gái tôi vẫn nói rằng tôi thỉnh thoảng lên cơn.”
Giọng nói của thiếu phụ nhịp nhàng, uyển chuyển như tiếng hát. Tôi yêu giọng miền Bắc, nhất là giọng nữ, thời tôi còn trẻ. Bây giờ tình cảm đó thỉnh thoảng cũng dấy lên trong tôi một cách đột ngột. Như hôm nay nơi bến xe này. Mà giọng nữ thì ở miền nào nghe cũng dễ thương! Miền quê tôi nghe thủ thỉ, miền Nam nghe ngọt ngào.
Tôi nghĩ đến giọng Hà Nội “tiểu tư sản” ngày xưa. Giọng nói đó còn không, cái giọng êm đềm của những nhân vật lãng mạn trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, những Mai, Lan, Loan, Thu, Tuyết ... một buổi trưa mùa đông có chút nắng hiếm hoi trên thành phố cao nguyên đẹp và lạnh, một mình vui chân đi mải miết trên con đường đầy lá thông khô ven những cánh rừng thưa nắng xuyên qua cành lá, trời tuy nắng mà khí núi bốc lên vẫn gây gây lạnh, bỗng cơn mưa đột ngột tới, nhìn quanh, may quá, sau trái đồi nhỏ cỏ xanh mát con mắt, thấp thoáng mái ngói nâu, vội chạy đến, trú mưa dưới mái hiên của một ngôi biệt thự kiểu Tây ngày xưa còn sót lại, mưa nặng hạt dần, gió tạt nước mưa làm ướt tóc và hai vai chiếc áo len dày, cứ thế này sẽ bị ướt như chuột lột, thì cánh cửa bỗng hé mở, người con gái xinh đẹp xuất hiện, hơi một chút ngần ngại "xin ông cứ vào trong này ạ ... không khéo mưa ướt ông hết ... mời ông ngồi tạm ...", tiếng nói nhẹ như hơi gió vừa dứt và cánh cửa vừa khép lại thì cô chủ cũng đi mất hút vào phòng bên cạnh, nhà vắng, đôi giày ướt sũng làm dơ sàn lát gỗ bóng lộn, ngồi nhìn vẩn vơ, trên tường có tranh Chùa Một Cột hương khói, Hồ Hoàn Kiếm liễu rủ, Chợ Ðồng Xuân tấp nập, và tấm hình bán thân trông thật hiên ngang trong khung kính của một sỹ quan Cộng Hòa trong quân phục cấp tá, hẳn là chồng, hay là anh, có lẽ anh thì đúng hơn vì thiếu nữ còn trẻ quá, bỗng có tiếng dương cầm văng vẳng, bài Songe d'Été của một nhạc sĩ người Pháp mình không nhớ tên, đang mùa đông lạnh mơ mùa hạ cũ, hẳn là chủ nhân đang đàn dở thì biết có người đứng trú mưa ngoài hiên, mưa đến nhanh rồi không khéo lại đi nhanh như những cơn mưa hiếm hoi mùa đông, mong cơn mưa kéo dài, mong nghe thêm vài ba bản nhạc nữa, hình như tiếng đàn lẻ, có khi ngập ngừng, có khi buông thõng, trong một ngôi nhà lặng thinh mà thính giả là chỉ có một người ở phòng ngoài đang lắng nghe, vẫn ngầm mang một sức cuốn hút lạ kỳ, mà cơn mưa có vẻ như sắp tạnh rồi, và tiếng đàn cũng theo tiếng mưa rơi ngoài kia trải mỏng ra chầm chậm rồi ngưng bặt, rồi khuôn mặt hồi nãy lại xuất hiện, lần này có dịp nhìn kỹ hơn, đẹp, đẹp, đẹp, bên ngoài chỉ còn tiếng gió lướt trên con đường vắng và tiếng thông reo vi vu, tần ngần nuối tiếc đứng dậy, tiếng nói bỗng ngân lên nghe như "những hạt châu rơi trên mâm ngọc", nghe như những lời quyến luyến của hai người yêu nhau sắp chia tay, câu nói đơn sơ, khách khí, và vô lý, vì mưa đã tạnh từ hồi nào rồi: "Xin ông đợi cho tạnh mưa rồi hẵng đi".
Tôi nhìn thiếu phụ cố tìm xem có nét gì giống nhau giữa người đàn bà này và cô gái đánh đàn ngày xưa. Nhưng tôi không thể nào nhớ được khuôn mặt của cô gái thì lấy gì mà so sánh. Tôi bật cười thành tiếng và quên hẳn cơn "sửng cồ" của thiếu phụ. Tôi nối tiếp câu chuyện:
“Cô nói chuyện nghe vui lắm. Có gì đâu mà cô bảo lỡ lời. Phải nói một cách thẳng thắn như cô mới dễ kết thân với nhau chứ! Này cô, hai chiếc xe đó thuộc hãng khác. Cô phải đáp xe Grey Hound chuyến bốn giờ chiều đi Salt Lake City.”
“Nhưng nhiều xe như thế kia thì làm sao biết được xe nào là xe của mình. Lại không biết tiếng nữa! Khổ thân cho tôi qúa! Lần này là lần đầu tiên tôi đi xa một mình trên đất Mỹ lạ lùng này, ông ạ.”
“Cô yên chí. Tôi sẽ chỉ dẫn rõ ràng cho cô.”
Tôi dặn dò rất kỹ về giờ giấc, bến xe đến, bến xe đi, nhưng thiếu phụ vẫn băn khoăn:
“Trăm sự nhờ ông. Thật ra tôi cũng đã từng một thân một mình chạy loạn. Mới đây chứ có phải lâu la gì đâu. Chắc ông còn nhớ những ngày ta bỏ Tây Nguyên chạy về vùng duyên hải Quy Nhơn, Nha Trang. Thật là kinh hoàng. Chạy đến Cheo Reo thì tôi không thấy chồng con tôi đâu cả. Tôi mới biết thế nào là cái cảnh thân gái dặm trường. Bây giờ nghĩ đến chuyện đó tôi vẫn thấy bàng hoàng. Nay tôi cũng lại một thân một mình nơi xứ lạ quê người đấy ông.”
Tôi an ủi:
“Trước khác bây giờ khác. Vả lại mình đang ở trên đất Mỹ yên ổn, giàu có, thanh bình. Ðâu còn chạy giặc như ngày xưa mà cô ngại.”
Thiếu phụ rơm rớm nước mắt:
"Giàu có và yên ổn là với ai kia, tôi không hề được dự phần trong đó. Mọi chuyện đối với tôi như mới xẩy ra ngày hôm qua, như đang xẩy ra trước mắt. Ðâu đâu cũng thế cả thưa ông, bên nhà cũng như bên này, tôi luôn luôn là người đang chạy loạn.”
Vâng, loạn lạc liên miên không biết ngày nào mới chấm dứt. Cuộc chiến âm ỉ như than hồng dưới lớp tro hễ gặp gió là bùng lên thành ngọn. Làng quê tôi biến thành vùng xôi đậu dù cách thành phố không xa mấy, chỉ khoảng bốn, năm cây số. Cuối hè năm sau tôi lên thành phố ở trọ để có thể yên ổn học hành. Nhiều khi nhớ em quay quắt, dù đường sá thiếu an ninh, tôi vẫn thường tìm cách về làng để mong được gặp em, để mong nhìn lại màu đen và màu trắng ấy - ‘nụ cười trắng và đôi mắt đen’. Nụ cười mời gọi, đôi mắt quấn quýt mà em vẫn dành riêng cho tôi, phải không em? Nhưng không hẹn làm sao gặp được!
Gần ngày Tết tôi lại về làng, đánh bạo đến nhà em, lấy cớ hỏi thăm tin tức một thằng bạn cùng học lớp hè tại nhà em cách đây hai năm. Em bảo em đâu biết người ấy là ai nhưng vẫn nói chuyện với tôi một cách hết sức dịu dàng và hình như em không giấu được nỗi vui trong lòng. Tôi thì như người bị hút hồn, nghe em nói mà có hiểu được gì, chỉ nhớ lời cuối cùng em nói trước khi chia tay: “Nghe nói anh học giỏi, em ... em ... Sao không thấy anh về chơi. Phố xá đông vui cho nên anh quên nhà quê rồi. Anh ... anh quên em rồi. Biết có còn gặp nữa không, hả anh?”
Chữ "em" tôi đã nói và nghe cả ngàn lần, nhưng khi cái tiếng nói êm ái đó được Trang, tên của em, dùng để xưng hô với tôi, tôi nghe lạ hẳn. Nó vang dội mãi trong tôi như lời bùa chú trong chuyện thần tiên! Thế là tôi đã hiểu tình cảm của em đối với tôi. “Anh sẽ về thăm em thường xuyên nhé, tuần nào cũng về!” tôi nói thầm câu ấy với tôi nhiều lần. Mấy ngày sau đó, tình cờ trong câu chuyện với Tấn, bạn học cùng lớp và là người anh họ của em, tôi được biết thêm nhiều về em. Bố làm tri huyện rồi tri phủ tản cư về quê bị Việt Minh giết cùng với hai người chú, em phải tạm nghỉ học một năm, phụ mẹ lo việc nội trợ và chăm sóc ngôi nhà từ đường, để cho hai người anh có thì giờ tiếp tục đèn sách. Tuần vừa qua tất cả gia đình em dọn vào Nam sau khi người anh cả học xong và xin được việc làm đàng hoàng. Tôi sửng sốt. Em và tôi chưa nói gì nhiều với nhau, tôi chưa hiểu hết ý em nói mà cũng không dám hỏi cho cặn kẽ. Tôi ngơ ngẩn như người mất hồn. Năm học ấy tôi không đủ điểm lên lớp, phải thi lại sau ba tháng nghỉ hè.
Thiếu phụ đưa bàn tay che mồm ho khe khẽ. Cũng đủ cho tôi thảng thốt quay về với thực tại. Tôi nhìn quanh. Thiếu phụ dịu dàng nói:
“Thưa ông, hình như ông đang ... đang ... Tôi lại vô ý. Nhưng, xin lỗi ông, grây ... grây ...”
“Grey Hound”
“Vâng, grây hao là cái gì?”
Tôi cau mày đáp:
“Tên hãng xe bus.”
“Vâng?”
“Grey Hound là tên hãng xe xuyên bang có vẽ hình con chó ngao tai to và cụp, chân dài, bụng thon, gầy đét. Giống chó săn nổi tiếng. Loại xe này phải ghé nhiều nơi để rước thêm khách nên nó đến sớm hay trễ vài mươi phút là chuyện thường. Cô còn khối thì giờ. Nhưng khoảng 4 giờ chiều mới có chuyến thứ nhì. Quá nửa đêm cô mới đến Salt Lake City. Liệu vào giờ đó người nhà có biết để đến đón cô không? Có thể họ nghĩ rằng cô đi chuyến chín giờ sáng.”
Thiếu phụ thở dài:
“Thưa ông tôi có nghĩ đến điều đó. Nửa đêm em gái tôi không dám lái xe đâu. Không nói giấu gì ông, chúng tôi qua Mỹ chưa được bao lâu, gặp chuyện gì cũng sợ. Em tôi nhỏ hơn tôi đến 10 tuổi, mới có bằng lái xe. Còn tôi, tôi ... coi như đã hết thời, đã già quá rồi, học lái xe làm gì thêm phí công phí của. Với lại có xe đâu mà lái. Tôi định bụng như thế này, khi xe đến Salt Lake City, tôi sẽ ngồi chờ ở đó cho tới sáng rồi gọi phôn về cho con em. Có phải không ông, cái thời của tôi đã qua rồi!”
Tôi thầm nghĩ những người đẹp vừa bước qua khỏi tuổi xuân ai cũng vờ nói mình đã già, đã hết thời, đã hết duyên, nói xong hồi hộp chờ lời cải chính của người nghe. Ðã thế mình phải khen nịnh một câu cho người ta vừa lòng. Rồi đi, chấm dứt cuộc gặp gỡ này.
“Xinh đẹp như cô sao lại bảo thế!”
Nói xong tôi đứng dậy chào từ biệt. Thiếu phụ hơi giật mình, đứng dậy và nói lí nhí những gì tôi không nghe rõ. Bên ngoài trời bỗng gió lớn mang cơn mưa từ xa tới. Thiếu phụ lặng lẽ ngồi xuống ghế. Tôi đứng lóng ngóng một chốc rồi cũng ngồi xuống cạnh thiếu phụ. Những người đang đứng ở hàng hiên chờ xe đến đều lục tục khiêng hành lý trở vào bên trong nhà tránh mưa ướt. Một thanh niên Mỹ gầy, cao, da trắng, tóc vàng búi tó, mặc quần knickers dài vừa ngang đầu gối, tay cầm cây đàn ghi-ta, vai mang ba lô, theo sau là một cô gái Mỹ da đen khá xinh trong bộ jeans màu mỡ gà, vai cũng mang ba lô, cả hai ướt nước mưa, đến ngồi ngay trên chiếc ghế băng trước mặt chúng tôi. Anh chàng thanh niên vui vẻ chào hỏi, tôi chào lại. Thiếu phụ lúng túng.
“Họ chào xã giao đó mà,” tôi nói.
Thiếu phụ nhìn lại hai người và nở một nụ cười thật tươi. Cô da đen nhanh nhẩu nói một tràng dài. Tôi giải thích với cô da đen rằng người đàn bà bạn tôi không nói được tiếng Anh. Gió lộng lên từng cơn, mưa càng lúc càng lớn. Tôi xích lại ngồi gần thiếu phụ hơn để có thể nghe cô ta nói, thế mà tiếng nói nghe như thì thầm vì mưa gió ngoài kia vang dội.
"Mưa lớn như thế này không khéo ngập hết đường sá. Xe làm sao chạy được, thưa ông?"
"Không sao đâu, cô yên tâm. Vùng này mưa ít lắm. Rầm rộ một chốc rồi tạnh ngay. Mà này cô, ở Green River có nhiều người Việt Nam mình chứ?”
“Thưa ông, ít người mình lắm và buồn lắm. Cho nên tôi mới qua đây theo lời một người quen để liệu xem có nên dọn nhà một lần nữa hay không. Nhớ hồi mới đến Green River, tôi chẳng khác gì con thú bị thương. Hoảng hốt, và sợ sệt đủ chuyện. Ban ngày tôi không dám ra khỏi nhà một mình, ban đêm khóa kỹ cửa rồi còn lấy bàn, ghế, giường, tủ chặn cửa lại. Tệ hơn nữa, dù đang ở ngay trong nhà ngày cũng như đêm khi em tôi đi vắng, tôi cũng sợ sệt đủ thứ. Nhất là khi vào phòng tắm đóng kín cửa, gài chốt bên trong, tắm xong đứng trước cửa hồi hộp mãi. Giá có cái lỗ nhỏ như nơi cánh cửa lớn để dòm ra xem sao. Tôi luôn luôn có cảm giác đang bị rình rập, biết đâu nó đang chờ sẵn ngoài đó. Ông có biết nó là ai hay không?"
"Ai vậy cô?"
"Là ... khó nói quá. Hình như ở đất Mỹ này có nhiều thứ bệnh rất lạ. Bệnh bắt cóc trẻ con, bắt người lớn, bệnh hành hung, bệnh chặt người ta ra thành từng mảnh cho vào bịch ny lông mang đi. Còn tôi thì tôi mang bệnh sợ, ông ạ.”
Cái nhìn của tôi ngừng lại trên cặp mắt của thiếu phụ. Tôi không tìm thấy trong đó nét giễu cợt như trước. Ðôi mắt đen tối sầm lại và hằn lên những nét đau khổ. Tôi không biết tên người đối thoại, cô ta cũng không hỏi tên tôi, nhưng cả hai chúng tôi qua vài lần nhìn nhau, khỏi cần nói, đều thỏa thuận ngầm rằng không nên hỏi tên nhau. Như vậy tiện hơn. Trong chốc lát đường ai nấy đi, không bao giờ gặp lại, thì biết tên nhau làm gì. Có người còn bày chuyện xoắn xuýt xin địa chỉ, tìm một mảnh giấy vụn nguệch ngoạc ghi chép rồi nhét đại vào túi hành lý để không bao giờ thấy lại nó! Tình cờ gặp nhau, nói chuyện dăm ba câu trong lúc chờ lên đường, tại bến xe, bến tàu, bến cảng, hoặc phi trường, rồi mỗi người một ngả, thế mà nhiều người lại ưa tâm sư, y như cô này chẳng hạn, tôi tự nhủ. Nhưng có lẽ như vậy cũng có cái hay của nó, những lời tâm sự với người lạ mặt sẽ biến thành “mây khói”, sẽ không còn để lại dấu tích gì, không vướng bận, không đè nặng lòng ai cả. Thì cứ buông thả tâm sự ra cho nhẹ lòng nhẹ dạ. Tôi nhìn thiếu phụ với chút xót xa:
“Không, sợ hãi không phải là bệnh đâu. Ai cũng vậy, ban đầu nơi xứ lạ quê người, ai cũng cảm thấy sợ sệt, ngại ngùng. Ở lâu ngày sẽ quen.”
Người đàn bà ngập ngừng:
“Thật vậy không ông? Tôi cũng mong như thế. Nhưng tôi biết tôi không thể quen được. Họa chăng con nhỏ em của tôi còn có thể hội nhập được phần nào. Ngoài cái sợ ra, tôi luôn luôn có cảm giác mình...mình như hạt muối bỏ biển, sẽ tan biến nhanh trên đất nước bao la này. Cho nên thế nào tôi cũng tìm cách về sống vùng Cali, rồi có chết đi nữa, cũng gần gũi người cùng quê. Nhưng em gái của tôi cứ ngăn cản tôi hoài.”
Tiếng nói của thiếu phụ bỗng dưng đầy nước mắt:
“Chị bỏ em đi em có chịu không? Chỉ còn hai chị em mình nơi xứ lạ quê người mà mình cứ đòi bỏ đi, cứ đòi sống xa nhau! Khổ thân cho em của chị. Chị đoảng quá em ơi!”
Người đàn bà dường như quên hẳn tôi đang ngồi bên cạnh, ôm mặt thổn thức. Tôi lặng lẽ đứng dậy đến quầy bán báo làm bộ dán mắt vào những trang bìa in hình các người mẫu, các ngôi sao thể thao, nhưng lòng thì bùi ngùi nghĩ đến Trang. Vâng, Trang của anh, của cả một thời thơ mộng. Em ngồi một mình cạnh cửa sổ xe lửa nghiêng người ra đưa tay vẫy vẫy, xe chạy nhanh dần, mớ tóc bay bay. Ðôi mắt là lạ và nụ cười buồn buồn của em vẫn cứ như còn dính lên trên những bức tường, những mái nhà, những chòm cây khi con tàu đã chạy khuất tầm mắt.
Từ ngày em đi, tôi tìm cách kết thân với Tấn để theo dõi tin tức về em, được biết em đã được đi học lại. Tôi gởi lời thăm em qua Tấn, và thỉnh thoảng cũng được em nhờ Tấn chuyển lời thăm tôi. Thế thôi, nhưng cũng đủ làm cho tôi sung sướng vô cùng. Tôi vẫn chưa dám viết thư cho em. Xong tú tài, tôi vào Sài Gòn học tiếp. Việc làm đầu tiên là kiếm lý do để có thể đến gặp em tại nhà người anh của em, thì được biết em đã đi Phi Luật Tân theo học lớp Hồng Thập Tự quốc tế.
Xa gia đình, xa cha mẹ, tôi tập làm người lớn. Tôi như con chim sổ lồng muốn sãi cánh bay xa trong bầu trời mênh mông, lạ lùng. Dần dần học đòi uống rượu, đánh bạc, nhảy đầm, và gái. Lẽ dĩ nhiên không phải bạn gái đàng hoàng mà là gái điếm, gái nhảy, hoặc các nữ ca sĩ hạng ba mà nghề chính không phải là ca hát. Cuộc sống của tôi càng ngày càng bừa bãi thế nhưng tôi cũng học xong đại học. Nhiều lúc quên hẳn em, nhiều lúc nhớ em quay quắt kèm theo những ăn năn hối tiếc, tiếc thương tuổi trẻ, tuổi thơ ngây qua nhanh. Nhưng thường thì mỗi khi hình ảnh của em hiện lên, tôi cảm thấy lòng bồi hồi như khi tình cờ đọc lại câu thơ tình mà mình say mê hồi còn thơ dại. Những bài thơ tình đẹp và buồn. Và tôi tưởng rằng tình cảm của tôi đối với em sẽ phai dần như sợi mây mỏng tan biến trên bầu trời xanh, và em sẽ đi dần ra khỏi trí nhớ của tôi lúc nào không hay. Nhưng tôi đã tưởng lầm. Ngày trở về nước, gặp tôi, em không cầm được nước mắt vì sung sướng. Còn tôi thì thảng thốt như một người vừa trải qua những cơn mộng dữ để trở lại với cuộc sống êm đềm, yên ổn. Người anh của em có vẻ hài lòng về sự “quen biết” của hai đứa mình, mời tôi đến nhà chơi mấy lần trước khi tôi bị gọi vào Thủ Ðức nhập ngũ cùng với hàng trăm ngàn thanh niên khác. Mình vẫn chưa được gặp riêng nhau! Ra trường với cấp bậc chuẩn úy, không vây cánh, thế lực tôi bị gởi đi những đơn vị tiền tuyến.
Một chiếc xe bus khác bò vào dưới cơn mưa nặng hạt, mãi đến gần tôi mới thấy rõ, và đậu ngay bên cạnh hàng hiên ướt át. Hành khách lục tục xuống xe, chạy vội vào phòng trong. “Quái, hôm nay sao mưa lâu thế! Như mưa giầm tháng bảy trên một tiền đồn ngoài biên giới,” tôi nghe tiếng nói của tôi dội lên trong đầu. Tôi quay trở lại với thiếu phụ, định nói vài lời giả lả cốt để đánh tan cái không khí buồn thảm mà thiếu phụ đã gây nên, mà tôi không muốn dây dưa vào. Khuôn mặt ít son phấn đó còn lấm tấm những giọt nước mắt đã khô. Tôi lẩm bẩm:
“Vâng rất xa. Ðơn vị rất xa, rất xa Sài Gòn ..."
"Thế ư thưa ông," thiếu phụ dịu dàng nói. "Mà ông định nói chuyện gì vậy?"
Tôi gượng đáp:
"Vâng ... Ðúng thế, hai chị em sống xa nhau thế nào được.”
Mưa vẫn không ngớt. Hàng cây và những tòa nhà cao không xa lắm cũng dần dần bị xóa nhòa. Lác đác ánh đèn xe hơi nhòe nhoẹt không đâm thủng nổi màn mưa, tạo thành những vùng ánh sáng mờ mờ di động. Thiếu phụ nhìn xa ngoài mưa, lại quên hẳn tôi, nói thì thào cho mình nghe:
“Mưa lớn quá! Như cơn mưa Sài Gòn hôm ấy ... nước ngập bến xe Nguyễn Cư Trinh ... ngập luôn khu Cao Bá Nhạ. Xe tắc-xi chết máy, nước lên đến cửa kính xe ... từ rạp Ðại Nam trở về. Xem xi –nê lần cuối giã từ Sài Gòn... trước khi theo anh lên Vùng Hai... mà bé thì mới hơn một tuổi ngủ say trên vai anh từ lúc mới vào phim ...”
Thiếu phụ bỗng như sực tỉnh, chau mày quay nhìn tôi ngượng ngập:
“Tôi... tôi... xin lỗi ông, tôi sợ không chừng chuyến xe chiều sẽ bị hủy bỏ. Mưa lớn quá! Biết tính làm sao đây. Ði hay ở? Ở hay đi ?”
Tôi nhìn thiếu phụ ái ngại:
“Mưa ở đây ào ào một chốc thôi rồi tạnh. Quái lạ, hôm nay mưa khá lâu đấy, nhưng không sao, không lâu như bên nhà đâu. Với lại đường sá bên này tốt lắm, không bị mưa lũ làm sụt đất... Có lẽ đến trưa là hết mưa... Chúc cô chiều nay lên đường bình an. Tôi đi.”
Thiếu phụ nhìn tôi ngơ ngác:
“Mưa thế này mà ông vội đi sao!"
Tôi cũng nhận thấy thế. Không mang theo áo mưa hoặc dù thì từ ngôi nhà này chạy ra xe thế nào cũng bị ướt mèm. Thiếu phụ nói thêm:
"Hay ông cứ đợi cho tạnh mưa rồi hẵng đi!”
Giọng nói ngân nga níu kéo. Ðôi mắt gần như van lơn. Tôi bàng hoàng. Lại khuôn mặt đẹp và câu nói nhẹ như gió thoảng trong ngôi nhà vắng miền cao nguyên có tiếng đàn lẻ! Tôi lại ngồi xuống bên cạnh thiếu phụ, mang cái ảo giác đây chính là cô gái ngày xưa của thành phố ấy mùa đông lạnh căm căm dù có một chút nắng vừa hửng lên trên con đường mòn phủ đầy lá thông khô, nắng chiếu xuyên qua những cây thông cổ thụ cao ngất, cành lá sạch bóng đu đưa lóe lên những hình sao reo vi vu trong gió sau cơn mưa trưa ngắn ngủi. Vâng, biết đâu. Chuyện gì mà không thể xẩy ra trong đất nước đầy biến động ấy. Tôi định hỏi có phải trước kia cô có ở Ðà Lạt một dạo, nhưng thôi, hỏi làm gì?
Mưa vẫn rơi đều đều ngoài kia.
Trong những đơn vị tác chiến mà tôi được chuyển đến, tôi gặp nhiều chuyện mới lạ. Dần dần giữa tôi và bạn bè trong đơn vị nẩy nở một thứ tình cảm càng ngày càng thắm thiết mà người ta gọi là tình đồng đội. Chúng tôi thương yêu nhau, yêu màu áo và huy hiệu của đơn vị, yêu đời lính. Và từ đó, yêu tổ quốc hơn. Vâng, phải chia nhau từng mẩu thuốc lá lẻ khi vừa qua khỏi cơn thập tử nhất sinh, từng giọt nước còn sót lại trong bi- đông khi cổ họng khô cháy, từng vụn lương khô khi bụng đói cồn cào; phải vực nhau dậy, khiêng nhau đi dưới những lằn đạn khi đồng đội gục ngã; phải đắp điếm cho nhau khi có người nằm xuống; phải kề vai bên nhau ghì tay súng bảo vệ từng tấc đất; phải đổ mồ hôi và nước mắt và máu lên những luống cày, những bông lúa, những ngọn cỏ, những sườn đồi, những đầm lầy và rừng núi, những ven sông, những bãi biển, những góc phố, những doanh trại, những công sự phòng ngự ... mới biết thế nào là tình chiến hữu, là niềm tự hào của đơn vị, là lòng yêu nước.
Trong một trận đánh ác liệt ở An Lộc mùa hè năm 1972, tôi bị thương nặng, may được trực thăng vận kịp thời đưa về điều trị tại bệnh viện Cộng Hòa ở Gò Vấp, ngoại ô của thủ đô. Tôi nằm ở đó một thời gian ngắn thì em đến.
Em đã chuyển qua học Y Khoa, hiện là sinh viên ngoại trú, xin được đến bệnh viện Cộng Hòa thực tập khi biết tin tức của tôi. Ngày nào em cũng ghé đến thăm và săn sóc tôi ít nhất một lần. Tôi nằm dài trân trân nhìn lên đôi mắt to đen nhánh, có khi thoáng buồn và nụ cười tươi có hàm răng xinh xinh như những hạt bắp nếp được sắp nằm kế bên nhau đều đặn. Em thường cắn môi để giấu nụ cười khi tôi thộn mặt nhìn em. Nhưng làm sao em giấu được cặp mắt chứa chan biết bao tình ý của em. Những ngày nằm bệnh viện là thời gian hạnh phúc nhất của đời tôi. Tôi bình phục dần.
Hôm tôi xuất viện, em đến đón. Tôi nhớ rõ hôm đó máy bay trực thăng chở thương binh tới tấp bay về. Lại đánh nhau lớn ở nhiều mặt trận cùng một lúc. Tiếng cánh quạt ù ù, xành xạch át tất cả mọi tiếng động khác, hàng cây ngoài hàng rào nghiêng ngả, vật vã, lá rụng xác xơ, đám cỏ tranh bên trong hàng rào kẽm gai nằm rạp sát đất. Thì em đẩy cửa bước vào. Chiếc nón vải trắng nho nhỏ nằm lệch trên mái tóc uốn thành từng lọn, cái áo choàng trắng làm nổi lên những nét tròn lẳng của thân hình em, một mùi hương lẫn lộn phấn son, nước hoa và da thịt phảng phất, tất cả cùng một lúc tràn ngập căn phòng. Hơn cả ngày xưa em mang ánh sáng của ngôi vườn cây ăn trái vào phòng học! Tôi quên khép cửa lại ôm chầm lấy em hôn đắm đuối. Em run rẩy như ngọn lá trước gió, xấp hồ sơ trong tay của em rơi xuống sàn nhà.
Rồi tôi đưa em đi, không biết đi đâu, đi loanh quanh khắp phố phường. Còn yếu, hai chân tôi rã rời. Không lẽ cứ đi mãi, đi mãi? Tôi đưa em vào một nơi mà tôi nghĩ rằng em và tôi có thể nghỉ chân trong chốc lát, có thể âu yếm nhau tự do hơn, kín đáo hơn là ở ngoài công viên hay trên đường vắng. Tôi đưa em vào một phòng ngủ. Tôi không ngờ nó tồi tàn, bẩn thỉu, hôi hám đến thế. Trước đây tôi thỉnh thoảng ghé chơi nơi này, nay nó xuống cấp quá, thay đổi hẳn. Em và tôi vừa bước vào, thì bà chủ làm như đã quen biết tôi lâu ngày – thật ra tôi không quen biết bà này -- đon đả níu kéo tôi và hỏi han rối rít, "Cậu sao lâu ngày không ghé chơi. Ô, mà cậu lại kiếm đâu ra cô em thơm phức như thế."
Em chau mày, răng cắn môi thành vết hằn tái nhạt, rồi nước mắt bỗng từ từ ứa ra làm ướt đẫm cả khuôn mặt. Tôi hoảng hốt. Tôi vội vàng cầm tay em dẫn đi ra khỏi phòng mặc bà chủ chứa tru tréo. Em đi bên tôi im lặng như chiếc bóng, rồi đòi về. Tôi không biết giải thích làm sao. Trước khi chia tay, em nói:
"Em sắp thi tốt nghiệp, sẽ bận lắm. Không biết có kiếm được chút thì giờ đến thăm anh hay không. Em cũng sẽ không viết thư cho anh nữa ... thi xong hẵng hay. Và cũng xin anh đừng viết cho em. Anh nhớ giùm cho!"
Tôi viết nhiều thư cho em rồi xé bỏ rồi lại viết. Tôi muốn giải thích. Mà giải thích thế nào cho ổn? Rằng tôi không có ý xấu? Rằng tôi vẫn yêu em một cách trong sáng, xin em đừng hiểu lầm? Rằng sau nhiều tháng nằm dưỡng bệnh, đầu óc mệt mỏi lú lẩn, làm những chuyện không định làm. Rằng tôi không còn như xưa, đã quen cái lối võ biền ẩu tả, nhưng trong sâu xa, đối với riêng em, tôi vẫn luôn luôn quý trọng. Rằng tôi chưa có nơi cư ngụ dứt khoát, chưa biết về nhà nào, tình cờ đưa em đi ngang qua đây ghé lại nghỉ chân chốc lát rồi lại đi! Rằng tôi không có tiền để đưa em vào nơi sang trọng. Không có câu nào nghe lọt lỗ tai. Làm sao gởi những lá thư như thế cho em được.
Thời hạn dưỡng thương của tôi chưa chấm dứt nhưng tôi vẫn phải trở về đơn vị vì tình hình chiến sự sôi động. Nhớ em điên cuồng, và hối tiếc, và giận người, giận mình, lòng nặng trĩu. Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, càng ngày càng đi đến chỗ bi thảm cho miền Nam trong khi tôi không thể nào kiếm được vài ba ngày phép để tìm gặp em, để có thể đối mặt với em giải thích cho cặn kẽ. Tôi nghĩ đến cuộc tình của tôi và em đã đổ vỡ một cách thật trớ trêu, thật tức tưởi, trong cái đổ vỡ lớn lao và trớ trêu gấp bao nhiêu lần của quê hương đất nước vào cuối tháng tư ấy. Hàng ngũ của chúng tôi rã rời, kẻ chết, người trốn, người tù, người mất tích, người vượt biển. Tôi bị thương nặng, bị bắt nhốt, không có thuốc men, không được săn sóc, không chết là may. Trong đầu tôi còn mang mảnh đạn, một cánh tay không co duỗi được, chân đi khập khiễng, mang tật suốt đời. Còn em? Tôi đi tìm hoài, nhờ bạn bè hỏi giùm, vẫn không có được một tin tức gì. Em chạy về đâu trong những ngày tan hoang đó?
“Ừ nhỉ, mưa thế này đi đâu được?" tôi nói cho có nói. "Cô biết không, tôi đang nghĩ đến một bài học trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư hồi còn bé. Cái cảnh tiễn đưa, kẻ ở người đi. Tôi nhớ cả hình vẽ minh họa: bờ sông có lũy tre, có mấy người đứng đưa tay vẫy, đứa bé được bồng nách cũng vẫy tay. Ðằng xa là chiếc thuyền buồm. Tôi không nhớ hết cả bài đó, chỉ nhớ câu cuối, 'Ôi!cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!' Ngày xưa người ta tiễn đưa nơi bến đò. Bây giờ tôi tiễn chân trên sân ga xe lửa.”
Thiếu phụ có vẻ nghĩ ngợi:
“Thảo nào ông không có hành lý. Lúc nẫy ông đã nói thế nhưng tôi nghĩ khác. Tôi cứ tưởng... Nhưng thưa ông, có lẽ ông phải nói bây giờ ông tiễn đưa trên bến xe ô-tô mới đúng chứ. Ðây đâu phải ga tầu hỏa. Và hình như ông vừa tiễn đưa người em nhỏ, cho nên ... cảnh biệt ly cũng sao mà buồn vậy!”
Ngẫm nghĩ một chốc, thiếu phụ nói tiếp:
“Cho tôi nói đùa thêm một chút nữa nhé, vì tôi bỗng nhớ một bài hát.”
Rồi thiếu phụ nói theo lời ca của một bài hát mà tôi cũng biết:
Tôi có người em nhỏ
Xinh xinh đôi hàng mi
Môi hồng vừa đương độ
Ðã biết sầu biệt ly ...
Vẫn thế, tiếng nói của thiếu phụ nghe thật êm đềm. Tôi đáp:
“Cần gì hát. Nghe cô nói đã thấy hay quá rồi.”
“Ông quá khen.”
“Ở đây cũng có bến xe lửa đấy chứ. Amtrak là công ty xe lửa lớn nhất nước Mỹ. Tòa nhà lớn lao này mé bên này dành cho các hãng xe bus xuyên bang, mé bên kia nhìn ra con đường lớn dành cho hỏa xa. Chốc nữa tạnh mưa tôi sẽ đưa cô qua bên đó xem cho biết.”
Ðôi mắt đen của thiếu phụ lóe lên một tia tinh nghịch. Người đàn bà này kỳ quặc thật, tôi thầm nhủ. Mới rầu rĩ đó, bây giờ đã nhí nha nhí nhảnh. Ðúng là có cơn.
“Tôi lại xin đường đột nói thêm một điều nữa nhé. Phải nói như thế này thì mới đúng hoàn toàn – Ông vừa tiễn đưa cô bạn gái, chứ không phải cô em gái nhỏ đâu nhé. Ðúng hay không thưa ông?”
Trong một bữa tiệc cưới tôi gặp lại Trang. Trang ngồi cạnh một người đàn ông đứng tuổi, cỡ tuổi tôi, trông quen quen. Cả hai người quay mặt nhìn về phía sân khấu. Chắc là chồng của Trang chứ còn ai vào đó! Trang ngồi cách tôi khoảng bốn bàn, đang chăm chú nghe người điều khiển chương trình hùng hồn trước máy vi âm. Tôi đến trễ, đến vừa lúc bữa tiệc sắp bắt đầu. Tôi cố tình đến trễ hơn hai tiếng. Tôi không muốn ngồi chờ quá lâu nơi chiếc bàn tròn dành cho mười người mà mình không quen ai cả. Vừa bước vào phòng tiệc, tôi nhận ra Trang ngay. Trang đẹp lạ lùng. Chiếc áo dài màu nguyệt bạch có thêu mấy ngọn lá trúc xanh xanh nơi tà áo ôm lấy thân hình mảnh mai, cân đối, chiếc khăn voan quàng cổ màu tím nhạt vắt hờ trên vai, mái tóc vẫn thế, mọi thứ chập chờn trong trí nhớ của ngày nào trong một căn phòng khá sạch sẽ, thơm mùi thuốc, vang dậy tiếng máy bay trực thăng ngoài kia nơi bãi đáp của bệnh viện Cộng Hòa. Và khuôn mặt hơi tái xanh ít son phấn thỉnh thoảng quay sang nhìn chồng cho tôi thấy lại đôi mắt đen và to sau riềm mi cong, đôi lông mày không tô đậm uốn vòng nhẹ nhàng, phơn phớt, cái mũi thon thon, xinh xinh, và miệng mỉm cười để lộ hàm răng hạt bắp. Thời gian có khi không tàn phá nổi nhan sắc của một số giai nhân kim cổ, trong đó có Trang của anh!
“Tiếp theo đây chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu với qúy vị hai người hạnh phúc nhất đêm nay, lộng lẫy nhất đêm nay, xinh đẹp nhất đêm nay. Và đêm hôm nay cũng là ngày lành tháng tốt nhất trong năm, quý vị đồng ý không nào.”
Vài tiếng vỗ tay lác đác.
“Xin qúy vị cho một tràng pháo tay thật lớn ... Thưa qúy vị đây, đây, thưa qúy vị, cô dâu và chú rể ... cô dâu và chú rể đang từ từ tiến lên sân khấu - người điều khiển chương trình bỗng gào lên thất thanh - thưa qúy vị, xin qúy vị cho một tràng pháo tay thật lớn ... lớn hơn nữa nào, lớn hơn nữa ...”
Tiếng trống, tiếng kèn, và tiếng gào của người điều khiển chương trình vang dội chát chúa.
Cô dâu mặc chiếc áo dài lụa trắng có thêu hình con chim phượng, quần cũng lụa trắng dài chấm gót, choàng bên ngoài bằng chiếc áo gấm thêu màu hồng, đầu chít khăn vành vàng, chân mang hài nạm cườm. Chú rể mặc bộ lễ phục màu đen, cổ thắt nơ đen, mang giày đen đánh bóng loáng, đầu trần chải mướt. Cô dâu đặt bàn tay trên cánh tay chú rể, hai người mặt mày rạng rỡ, nụ cười luôn nở trên môi. Hẳn là có tập dượt trước, đi chầm chậm theo khúc mở đầu trong bài Bridal March của Wargner vừa được ban nhạc tấu lên.
Quan khách người thì đứng dậy vỗ tay, kẻ thì ngồi giật pháo cho nổ vang. Tôi ngồi yên chăm chăm nhìn về phía Trang, lòng trống trải. Tôi không biết tôi vui hay buồn, mừng hay giận. Tôi chỉ biết tôi thường làm điều tôi không định làm rồi sau đó nghĩ lại thấy tiếc nuối, bực dọc. Sao mình lại ngu muội đưa em vào phòng ngủ dơ dáy như thế! Sao không đưa em vào rạp chiếu bóng, cũng kín đáo vậy, cũng có thể hôn nhau tự do. Gặp em là tôi quýnh quáng, trừ một lần, phải không em. Lần đó, bên ngoài tiếng máy trực thăng, tiếng cánh quạt quay, gầm lên như bão nổi, chiếc này vừa bay đi tiếng gầm chưa kịp lắng thì chiếc khác đã ào ào đáp xuống, thôi thúc, dồn dập, hàng cây nghiêng ngả, cỏ tranh nằm rạp, lòng anh cũng nổi song. Anh ôm em hôn ngấu nghiến lúc em vừa bước vào phòng thăm anh tại bệnh viện Cộng Hòa. Em trong tay anh run rẩy như chiếc lá trong gió táp! Giấy tờ trên tay em rơi lả tả xuống nền nhà.
Cô dâu chú rể lên đến sân khấu vừa quay người hướng về quan khách thì Trang, như có con mắt sau lưng, quay lại nhìn tôi và nhận ra ngay. Trang giật mình đứng dậy rồi vội vã kéo người chồng đi theo đến bàn tôi:
“Trời ơi, anh! Ðây là anh Hưng, và đây là anh Thạch mà em vẫn thường nhắc đến.”
Tôi đứng dậy bắt tay chồng của Trang. Hưng đề nghị ngay:
“Bàn tôi còn một chỗ trống. Hay là thế này, xin qúy vị bàn này cho phép nhé, anh Thạch qua ngồi bàn tôi đi, nói chuyện cho vui. Lâu quá mới gặp lại anh, chúng tôi hết sức vui mừng.”
Tôi bắt tay hai người ngồi hai bên tôi, rồi chào mọi người quanh bàn và đứng dậy đi theo vợ chồng Trang.
“Anh Thạch này," Trang không giấu nổi hồi hộp, "anh nhận ra anh Hưng không? Anh Hưng trước kia là bác sĩ tại bệnh viện Cộng Hòa có đến chữa bệnh cho anh đó...”
Thảo nào tôi thấy quen quen. Vào thời gian ấy, đôi khi Hưng đến khám bệnh cho tôi có Trang đi kèm.
“... Anh biết không, sau khi anh xuất viện, em mong thư anh quá. Em chờ mãi mà chẳng bao giờ được thư của anh. Sao vậy anh? Tiếp liền theo đó là những ngày đánh nhau ghê khiếp, em không biết anh ở nơi nào, đơn vị nào. Cuối cùng em theo anh của em di tản qua Mỹ đợt đầu tiên cuối tháng tư 75. Tưởng rằng sẽ không bao giờ gặp lại anh. Thật không ngờ! Quả là trái đất tròn. Ô mình còn biết bao nhiêu chuyện để nói với nhau. Ðể em tính xem.”
Em chờ thư tôi! Nhưng tôi đâu dám gởi. Em bảo tôi đừng bao giờ gởi thư cho em mà, anh nhớ cho mà. Quả thật tôi quá ngu xuẩn. Em nói trong lúc mất bình tĩnh sao tôi lại cứ bám riết vào lời nói lẩy đó. Tôi cứ nghĩ tôi là thứ mặt dạn mày dày, nham nhở, lì lợm đối với phụ nữ, nhưng với ai kia, chứ trước em tôi đâm ra ngại ngùng. Tôi nhớ một lần đọc một bài thơ hay trong đó có câu:
“Chuyện lòng dài thế kỷ
Chỉ dám một lần thư...” [1]
Hồi còn trẻ tôi nghĩ rằng nhà thơ ấy quá nhút nhát trước tình yêu, nay tôi mới thấy rằng có những hoàn cảnh mà người ngoại cuộc không thể nào thấu hiểu nổi. Tôi chẳng biết nói năng làm sao, ngẩn ngơ như người mất hồn. Hưng vừa gắp món ăn cho Trang vừa nhìn tôi ân cần nói:
“Anh bị đau chân? Có lẽ bị thấp khớp?”
Ðúng là thằng cha này có con mắt cú vọ. Mình mới đi mấy bước mà hắn đã nhận ra, tôi thầm nhủ.
“Không, không phải thấp khớp. Bị thương nặng hồi 75 mà không có thuốc chữa, chân tôi đã thành tật.” Tôi trả lời.
Cơn giận bỗng dưng ập tới. Tôi chau mày khó chịu. Giận người? Giận mình? Tôi định nói tiếp rằng tôi bị hư một cánh tay nữa, rằng trong đầu tôi còn một mảnh đạn chưa dám đem đi mổ để lấy ra, lấy nó ra sợ lấy luôn tính mạng của tôi, theo lời bác sĩ, rằng tôi đang hưởng phụ cấp tàn phế, rằng tôi đã chán hết thảy mọi thứ trên cõi đời này. Tôi chỉ muốn nói một lần cho xong chuyện, khỏi ai hỏi han lôi thôi về sau.
Hưng cười xòa:
“Ăn thua gì! Chì như anh tật một chân nhằm nhò gì!”
Hưng ngồi giữa tôi và Trang. Trang chăm chú nghe tôi nói nhưng có lẽ tiếng được tiếng mất. Như những đám cưới khác, ban nhạc quá ồn ào. Nói chuyện với nhau khó khăn, ăn cũng mất ngon.
“Anh qua đây với gia đình?” Hưng tiếp tục câu chuyện.
Tôi trả lời dấm dẳng:
“Không, một mình. Một mình từ bao lâu rồi, từ hồi còn lành lặn, nghĩa là chưa có thương tật gì. Chứ bây giờ còn nước mẹ gì nữa mà gia với đình đề huề như anh! Tôi share phòng với người bạn ở Bolsa.”
Nói xong tôi mới thấy mình vô lý và thô bạo. Ai có tra hỏi đâu mà phân bua, mà cằn nhằn! Hưng quay lại nói chuyện với vợ một hồi. Cuối cùng hai người đổi chỗ ngồi cho nhau, Trang ngồi giữa tôi và chồng, vui vẻ nói:
“Em tính như thế này, tiệc xong anh về nhà em chơi. Em ở nhà anh Cảnh, nhà lớn lắm. Anh Hưng cũng đã đồng ý như thế...”
Tôi gạt ngay:
“Cám ơn anh chị. Tôi bận. Xin để khi khác.”
Trang nhìn tôi cười ngặt nghẽo chảy cả nước mắt:
“Ủa! Anh chị nào vậy hả anh Thạch? Em từ New York bay qua đây dự đám cưới đứa cháu, con gái lớn của anh Cảnh. Gặp anh Hưng ở đây, được sắp ngồi cùng bàn, may lại được gặp anh, em mừng qúa!”
Tôi nghe. Bàng hoàng sửng sốt.
Trang ngập ngừng một hồi lâu, đôi mắt lắng sâu xuống, răng cắn môi, vẫn hàm răng đẹp ngày xưa, vẫn khuôn mặt thanh tú nuớc da trắng xanh nổi bật lên giữa suối tóc đen mượt mà, cuối cùng nói:
“Anh chị Cảnh có ý định rủ em và mời anh Hưng đi chơi Yosemite mấy ngày để thưởng thức tuyết. Mà tuyết thì có gì lạ đối với em đâu. Miền đông bắc nơi em đang ở năm nào chẳng có tuyết! Em đã nhận lời anh Cảnh nhưng có lẽ em ... em phải nghĩ lại. Có lẽ em phải nhân dịp này thực hiện cho được giấc mộng của em là đi xe lửa từ tây qua đông xuyên ngang nước Mỹ. Tha hồ đi qua bao nhiêu là tiểu bang, tha hồ ngắm cảnh."
Quay qua Hưng, Trang tiếp:
“Em đổi ý như chong chóng, anh đừng cười nhé. Chốc nữa em sẽ nói lại với anh Cảnh ... ngày mai em trở về New York. Ðã lỡ xin mấy ngày phép, em sẽ tận dụng. Thay vì về bằng máy bay, em sẽ đi xe lửa."
Món tôm hùm vừa dọn lên thì ban nhạc ồn ào cũng tạm ngừng. Mọi người thở dài nhẹ nhõm. Người điều khiển chương trình vẫn chưa tha, lại lên máy vi âm trổ tài ăn nói:
“Kính thưa qúy vị, theo truyền thống tốt đẹp lâu đời của ông cha ta để lại, cô dâu chú rể phải có bổn phận đi đến từng bàn để cám ơn qúy vị đã bỏ thì giờ qúy báu đến đây làm cho buổi lễ hôm nay thêm phần cao qúy và đầy ý nghĩa. Và đồng thời cô dâu chú rể và hai họ cũng xin được cùng qúy vị chụp tại mỗi bàn một tấm hình lưu niệm đời đời của buổi tiệc cưới vô cùng long trọng này, vô cùng tuyệt vời này, trên cả tuyệt vời này, thưa quý vị!”
Hưng cười cười và hạ giọng nói với tôi, khỏi phải nói to lên như nãy giờ khi bị ban nhạc quấy rầy:
“Anh qua Mỹ một mình, tôi cũng một mình qua Mỹ. Trong thời gian tôi đi tù, vợ con tôi vượt biên và mất tích. Chờ mãi không thấy tin tức, chắc không một ai còn sống sót."
Tôi nói vài lời chia buồn. Hưng nói tiếp:
"Thế mà tính đến nay cũng đã hơn mười năm. Thời gian đi vùn vụt. Anh thấy tôi có nên bước một bước nữa hay không? Ở một mình cũng buồn mà đèo bòng thêm - anh liếc nhìn Trang, hạ giọng xuống - thì ... chắc gì được như ý."
Trang ngắt lời:
“Hai anh thì thầm chuyện gì vậy, tôi nghe được cả đấy. Lâu ngày mới gặp nhau tha hồ nhắc lại chuyện cũ nhé. Nhưng bây giờ hãy bàn chuyện trước mắt cái đã. Các anh vẫn thường than phiền tiệc tùng ở đất Mỹ mất ngon vì các anh không uống rượu được. Em thấy tội nghiệp cho hai anh quá, nhất là anh Thạch xưa nay vẫn uống rượu như hũ chìm. Nghe nói bây giờ theo luật mới có hơi rượu mà lái xe là sẽ bị thu bằng lái ngay. Có khi bị cho vào tù. Có phải vậy hay không hai anh?”
Hưng đáp nhanh:
“Cô Trang nói đúng. Cô không thấy sao, anh Thạch và tôi đâu dám đụng đến cái chai rượu. Chán thật. Mà cả bàn mình cũng không ai dám mó tới. Vô lý, vô lý.”
Trang bỗng reo lên:
“Hai anh khỏi lo, cứ tha hồ uống, em có cách. Chốc nữa em làm tài xế lái xe đưa hai anh về nhà. Xe các anh cứ để đây qua đêm, khoá lại, mai đến lấy rồi lái thẳng ra ga xe lửa tiễn đưa em luôn thể. Ðồng ý nhé!”
Ðúng như tôi dự đoán, trời quang đãng dần rồi tạnh hẳn vào lúc giữa trưa. Tôi nghĩ rằng câu chuyện giữa tôi và thiếu phụ đã quá dài, và tôi không còn lý do gì để nấn ná thêm nữa. Mà lạ thật, người đàn bà này tuồng như có một sức lôi cuốn ngầm nào đó khiến tôi đi không đành. Nỗi bi thương trên đôi mắt tối tăm, trên khuôn mặt chợt buồn, chợt vui? Sắc đẹp dữ dội sắp tàn phai? Cái lối nói lúc thông minh, lúc dịu dàng, lúc cười cợt, lúc chua chát, lúc lên cơn? Và giọng nói êm ái, thân thiết, như đã quen nhau từ lâu?
Thế là bốn giờ chiều nay người đàn bà này sẽ một mình đáp xe bus lên đường đi về hướng đông, cũng như sáng hôm nay, cũng về hướng đông, Trang ngồi một mình cạnh cửa sổ toa xe thò đầu ra nhìn lui mãi, cánh tay vói ra ngoài cửa xe vẫy vẫy không ngừng. Hưng rối rít vẫy tay đáp lại trong khi tôi đứng ngẩn ngơ như đang chứng kiến một cái gì hết sức quý giá càng lúc càng khuất xa tầm tay với. Giờ này Trang đã đến đâu? Xe lửa có đưa Trang đi ngang qua Green River, Salt Lake City trước khi thẳng đường qua Nữu Ước? Có thể nào tôi gặp lại Trang hay không? Lần gặp nhau ngắn ngủi này phải chăng là lần cuối cùng? Là vĩnh biệt? Tôi bỗng thấy nhói nơi tim và bỗng dưng nhớ bệnh viện Cộng Hòa da diết. Nhớ tiếng máy bay trực thăng gào thét. Nhớ căn phòng thơm mùi thuốc lẫn mùi môi son thoang thoảng. Nhớ xấp hồ sơ trên tay em rơi xuống sàn nhà. Và nhớ nụ hôn.
Trước khi lên toa xe lửa Trang nói với tôi và Hưng:
“Khi nào rảnh rổi, thế nào hai anh cũng phải qua em chơi nhé. Anh Hưng thì đã biết chút ít về việc học hành của em rồi, nhưng em cũng phải cho anh Thạch hay rằng hiện em đang thực tập tại một bệnh viện ở New York. Nửa năm nữa là xong nợ.”
“Cô Trang giỏi qúa," tôi tiếp lời. "Qua New York học bác sĩ để ... để cái bằng được thêm giá trị chứ gì. Trước khi hành nghề, cô đã cẩn thận gây dựng tiếng tăm dần dần."
“Không phải đâu anh," Trang vui vẻ đáp. "Mình qua đây chậm trễ mong được làm nghề cũ đã là may rồi, khoan tính đến chuyện tiếng với tăm làm gì. Trước kia em ở bên này với anh Cảnh để tiện đi học lấy bằng tương đương. Em đã thi đậu xong mấy phần đầu nhưng còn phải học thêm và thực tập thêm cho đủ số tín chỉ cần thiết. Muốn dễ đậu chỉ có cách đi xa... "Tôi ngắt lời:"Cô Trang nói nghe lạ quá, tôi chẳng hiểu gì cả." "Nghĩa là lấy bằng bác sĩ tại UCLA của California khó lắm. Phải đi đến học và thực tập tại những bệnh viện tồi tàn, hẻo lánh, ở các ngoại ô xa lắc của New York chẳng hạn, những nơi không ai thèm tới, nơi bệnh nhân đa số là người nghèo, người da đen, như thế mới dễ đậu. Kệ nó, miễn cho xong cái bằng. Hai anh liên lạc với em đều đều nhé. Viết thư cho em - Trang kín đáo nhìn tôi - dài ngắn gì cũng được, đừng gọi điện thoại. Hai anh đừng bắt em chờ thư nhé!”
Trang muốn mình gởi thư? Trang ý tứ lắm! Vâng, thư mới nói được hết những gì mình muốn nói. Mà nói gì đây? Anh yêu em, anh chờ tin tức của em mãi mà không được từ ngày anh rời bệnh viện Cộng Hoà và gặp em lần cuối cùng đó. Quả thật mình nghĩ nhiều đến Trang, trong lòng khổ sở, mà không kiếm được ngày phép để tìm Trang. Rồi biến cố dồn dập, rồi bị thương nặng ... Mình phải kể lể, tả oán cho thật lâm ly mong Trang mủi lòng, họa chăng mình mới có thể hạ được địch thủ là cái thằng bác sĩ kỳ đà cản mũi này. Em không còn trẻ, anh sắp già, cả hai đều trải qua bao nhiêu lao đao chìm nổi, nay may gặp lại nhau có lẽ nên cho nhau những ngày còn lại của cuộc đời? Nhưng em còn có tương lai rực rỡ trước mặt, trong khi anh ...
Giọng cười của thiếu phụ đưa tôi về thực tại:
“Ông đang nghĩ gì mà thừ người ra như thế thưa ông?”
Tôi chống chế:
“Tôi nghĩ rằng trời sắp tạnh hẳn rồi, có lẽ tôi sắp phải từ giã cô.”
Thiếu phụ chau mày, mắt tối sầm:
“Thế mà tôi cứ nghĩ là ông ... Nhưng, trước khi ông đi, tôi có thể nhờ ông giúp hộ cho một việc nữa, được không ạ. Như ông đã biết, tôi mù tịt tiếng Anh. Tôi mạn phép mời ông tới cửa hàng đằng kia, chỗ có bán thức ăn gì đó. Họ bán gì vậy, thưa ông ... rồi mình ăn trưa. Tôi cũng không biết gọi món ăn, chưa bao giờ vào một quán ăn Mỹ hay Mễ nào cả. Trễ xe phải đến sáng ngày mai mới tới nhà, không có một chút gì lót lòng chịu sao nổi, thưa ông.”
Tôi đứng dậy nói với thiếu phụ:
“Cô cứ ngồi đây trông hành lý. Tôi đi mua cho cô ngay. Rồi tôi còn phải đi gấp... Họ bán gì nào? Tôi mua Sandwich, Hamburger, và Potato Chip nhé? Và vài chai nước lọc nữa chứ.”
Bỗng nhiên người đàn bà cúi gập người xuống, úp mặt vào hai bàn tay, đôi vai rung rung. Tiếng nức nở bị dồn nén. Hai hành khách ngồi ghế đối diện với chúng tôi cúi mặt. Rồi cô gái da đen ngẩng đầu nhìn tôi săm soi, khó chịu. Anh chàng tóc vàng kín đáo hơn mỉm cười chào tôi rồi kéo cô bạn gái đi đến tiệm ăn của nhà ga. Tôi cũng khó chịu không kém, đứng yên nhìn người đàn bà lạ lùng này. Sau một hồi, thiếu phụ buông tiếng thở dài, ngửng mặt nhìn tôi, nước mắt còn ràn rụa:
“Tôi làm phiền ông quá, xin lỗi ông. Có lẽ tôi khỏi nhờ ông mua thức ăn. Nhưng ông có thể ngồi nán thêm một chút nữa hay không để tôi có thể nói thêm đôi lời. Tôi khổ tâm lắm! Tôi không muốn về với em gái tôi nữa. Ở đó thêm một thời gian tôi sẽ chết mất. Chắc ông không tin?"
"..."
"Vâng, tôi sẽ kể hết mọi chuyện cho ông nghe. Mà cũng lạ thật, gặp ông có bao lâu đâu thế mà tôi nghĩ rằng tôi có thể tâm sự với ông. Tôi có thể nói hết mọi chuyện cho ông nghe không chút ngại ngùng ... thì lòng dạ tôi sẽ được thanh thản một phần nào. Và biết đâu ông cũng có thể cho tôi vài lời khuyên nhủ.”
Tôi lẳng lặng ngồi xuống.
“Tôi thương em tôi lắm. Chồng con tôi đã chết hết, trong đời này tôi chỉ còn có em tôi. Nó nhỏ tuổi hơn tôi nhiều, nó coi tôi như mẹ. Thế mà tôi đành phải xa nó. Tôi qua Cali tìm nhà người bạn cũ xin tá túc một thời gian, nếu được thì ở luôn. Nhưng có nhiều điều bất tiện quá!’
“Không sao đâu cô. Dần dần mọi chuyện đều đâu vào đấy. Mọi khó khăn sẽ tự nhiên trôi qua, trôi qua đi mất hết.”
Thiếu phụ dường như không nghe tôi nói gì, tiếp lời:
“Ở bên nhà, người ta trải lòng với nhau mà sống, còn bên này ai cũng thủ kỹ, ai cũng sợ chuyện bất trắc có thể xẩy đến, ai cũng sẵn sàng tử tế với nhau dăm ba lần rồi thôi, rồi thun cổ lại kín bưng trong cái mai con rùa của mình. Có phải không ông? Thậm chí có người quen cũ vừa mới gặp tôi liền vội vã kéo tôi vào quán ăn ép tôi ăn một món nào đó như để trả cho xong món nợ quỷ thần. Rồi hối hả bỏ đi quên hỏi tôi hiện giờ ở đâu, làm gì sống ... Không kiếm được chỗ ở bên này, tôi đành phải nhờ người ta mua vé cho tôi lộn về bên đấy."
Phòng đợi bỗng xôn xao kẻ vào người ra. Lại xe đến, xe đi. Thiếu phụ ngừng nói, dáo dác nhìn ra ngoài bãi xe đậu. Một gia đình người Mễ Tây Cơ, hay người Trung Mỹ, Nam Mỹ, gồm sáu bảy người già, trẻ, lớn, bé đến gần chỗ chúng tôi ngồi đặt những xách hành lý cồng kềnh, ướt át, xuống choáng cả lối đi giữa hai hàng ghế. Họ là những người nghèo nàn, như chúng tôi, ăn mặc nhếch nhác, tóc tai bù xù, da sạm nắng, nói năng ồm ồm như chỗ không người. Lũ trẻ thì chạy quấn quýt nô đùa thoải mái. Tôi để ý rằng rất ít người Mỹ da trắng sử dụng phương tiện chuyên chở này. Tôi bỗng nhớ Trang sáng hôm nay, xinh đẹp, dịu dàng, sang trọng, trông như một nàng tiên lạc bước vào cõi trần ai trong đó đang có tôi mệt nhọc, chán nản, và có người đàn bà buồn vui thất thường này, và có những người Mễ vô tư, hồn nhiên.
Tôi tưởng phải nên nói một lời an ủi chung chung:
"Cô cũng đừng nên lo buồn thái quá. Gia đình nào cũng có chuyện bất như ý. Rồi thời gian sẽ là ông thầy thuốc chữa mọi thứ bệnh, mọi nỗi khổ của con người."
Thiếu phụ quắc mắt nhìn tôi, gằn giọng:
"Nhưng ông biết gì về chuyện gia đình của tôi mà bàn ngang như thế. Ô, ô, tôi xin lỗi ông. Tôi lại ... xin ông đừng chấp."
Thiếu phụ ngồi im một chốc, như để trấn tĩnh, rồi tiếp:
"Có lẽ tôi phải đem việc nhà của tôi kể hết cho ông nghe ông mới biết được tôi lâm vào hoàn cảnh khó xử đến dường nào. Tôi khổ tâm lắm thưa ông, nói ra thật xấu hỗ. Tôi sợ một ngày nào đó em tôi biết hết mọi chuyện, nó sẽ đau đớn vô cùng, và tôi cũng không sống nổi."
Người đàn bà lại thổn thức, nước mắt ràn rụa làm lem lớp phấn mỏng trên khuôn mặt đau khổ. Tôi đứng dậy loay hoay kiếm từ trong túi quần một miếng khăn giấy nhàu nhò đưa cho thiếu phụ. Người đàn bà cầm lấy, chặm chặm lên trên đôi mắt chớp chớp, và nói tiếp:
"Tôi không ngờ thằng chồng nó khốn nạn đến thế. Thằng đó mất việc làm, em tôi phải đi làm hai việc, ban ngày đi may, ban đêm phụ bếp cho một tiệm ăn Tàu. Tôi ở nhà một mình ... Tôi không chống cự nổi nó. Tôi không dám thưa cảnh sát, mà cũng không biết làm sao mà thưa. Mà dù có nhờ người nào đi thưa giùm, làm to chuyện, thì người khổ nhất vẫn là em tôi và tôi. Nhưng cứ để yên như thế này thì cũng có ngày đến tai em tôi. Cho nên tôi phải đi, phải rời khỏi ngôi nhà đó! Tôi còn có cách nào khác nữa đâu thưa ông. Ông là người ngoại cuộc, ông sẽ thấy rõ vấn đề hơn, xin ông cho tôi một lời khuyên nhủ. Tôi sẽ làm theo ý kiến của ông ngay.”
Thật là trớ trêu! Tôi mà khuyên nhủ được ai! Chuyện của mình còn rối nùi, còn hơi sức đâu xía vào chuyện người khác. Tôi đang băn khoăn mãi vì câu chuyện giữa tôi và Trang. Làm thế nào bây giờ. Một là mình cố nặn óc ra viết một bức thư thật dài, thật lâm ly mong sao khi đọc Trang sẽ xúc động mạnh. Rồi mình trở lại với Trang làm lại cuộc đời. Làm lại cuộc đời trước khi xế bóng? Liệu có được không? Hai là nói thẳng với Trang rằng mình bị thương nặng đến mang tật suốt đời, và khổ nhất là mảnh đạn còn nằm trong đầu ... sẽ là một gánh nặng kinh khủng cho Trang. Thế là ... có lẽ Trang sẽ chọn Hưng. Nồi nào úp vung ấy, xứng đôi vừa lứa. Ba là cứ để cho mọi chuyện tự nó giải quyết lấy, tới đâu hay đấy. Chọn giải pháp nào đây? Có lẽ phải nhờ người đàn bà này giúp ý kiến chăng, tôi cay đắng tự nhủ.
Nén tiếng thở dài, tôi chán nản nói:
“Chuyện buồn thì ai cũng có. Mỗi người buồn mỗi cách, chẳng ai giống ai. Không chừng hoàn cảnh của tôi còn bế tắc hơn nhiều. Tôi cũng đang khổ tâm lắm cô ơi. Tốt hơn hết là đường ai nấy đi, việc ai nấy lo. Nằm trong chăn mới biết chăn có rận. Không nên chĩa mũi vào việc của người khác.”
Nói xong tôi mới tự thấy mình lố bịch quá. Vẫn cái lối nói vớ vẩn cố hữu. Thiếu phụ đã bớt thổn thức, trố mắt nhìn tôi lộ vẻ thương cảm:
“Thì ra ông cũng đang có chuyện buồn! Tôi đã đoán biết như thế ngay từ lúc tôi mới gặp mặt ông. Trông ông ... trông ông làm sao ấy ..."
Tôi hơi ngạc nhiên vì nhận xét đó.
"... cho nên khi tôi hỏi ông, về chuyện gì nhỉ, à mấy giờ rồi phải không thưa ông, chẳng qua là tôi muốn bắt chuyện với ông đó thôi, để có thể ..."
"Thế à?" tôi ngắt lời và bỗng cảm thấy bực bội. "Thế có nghĩa là nãy giờ cô ... cô bịa chuyện, cô đóng kịch cho tôi xem?"
Người đàn bà sửng sốt, thu mình lại, lắp bắp nói:
"Ô, ô, xin lỗi ông. Nhưng tôi nói chưa hết ý ... Chứ thật ra tôi đâu tệ đến nỗi bịa chuyện để đùa cợt với ông. Tôi xin lỗi ông một lần nữa vậy."
Nói xong thiếu phụ cúi gầm mặt, đôi rèm mi dài chớp chớp nhè nhẹ, nhan sắc đang tàn phai sáng lên một chút như ánh đèn đường buổi chiều mùa hạ vừa được bật lên dù trời còn sáng trưng. Tôi lúng túng.
Chiếc xe bus Grey Hound đang tiến vào, trên kính trước xe có treo bản San Diego - Los Angeles. Tôi nhìn đồng hồ, mới hơn 12 giờ trưa. Chuyến đi Salt Lake City phải 4 giờ chiều mới khởi hành tại đây, có lẽ cũng từ San Diego đến. Phòng chờ và bãi đậu xe lại nhốn nháo năm, mười phút. Vài người đang chơi trò chơi điện tử cạnh quầy bán vé vội rảo bước đi ra ngoài để đón thân nhân đưa lên xe nhà và lái đi mất hút. Vài ba hành khách đang nằm ngủ trên chiếc ghế băng ngồi nhổm dậy nhìn ngơ ngác rồi nằm xuống ngủ tiếp. Một số hành khách mới đến lại sắp hàng dài trước quầy bán vé đứng chờ người bán vé vừa đi ăn "lunch". Tôi đến quán ăn nhà ga mua mấy món ăn và hai chai nước lọc. Trở về thấy thiếu phụ vẫn ngồi chỗ cũ, mặt buồn rười rượi. Tôi không biết xử trí ra sao, đành ngồi bên cạnh thiếu phụ, im lặng. Thiếu phụ mở lời trước, và nói một hơi như thể sợ tôi ngắt lời:
"Nẫy giờ ngồi một mình tôi có dịp suy nghĩ kỹ rồi. Xin ông giúp tôi một lần nữa nhé thưa ông. Tôi quá đường đột, nhưng xin ông làm ơn, làm ơn thì làm ơn cho trót. Là ... là tôi không dám về bên đó nữa. Tôi sợ thằng em rể ấy lắm. Xin ông xem thử có thể chỉ cho tôi một chỗ share phòng rẻ tiền gần khu người Việt Nam mình ở để tôi sống tạm bên này một thời gian. Tôi sẽ kiếm việc đi làm ngay, bất cứ việc gì. Tôi biết thêu, biết ren, biết đan. Tôi cũng may vá giỏi. Tôi cũng biết nấu ăn. Hoặc giữ trẻ, đánh đàn cho chúng nó nghe, hoặc giặt giũ, hoặc quét sân, chùi nhà, lượm rác. Hoặc chặt cá, chặt thịt ngoài chợ. Hoặc chăm sóc ông già bà cả. Viêï gì tôi cũng làm được. Dần dà tôi sẽ tính chuyện gặp lại em tôi sau.”
*
Tôi đưa Thu, tên người đàn bà gặp ở bến xe, về ở tạm nơi căn phòng chật hẹp của tôi khu phố Bolsa. Rồi sẽ tính sau. Cứ thế ngày này qua ngày khác, chúng tôi sống bên nhau, trong khi đó tôi luôn luôn nghĩ đến Trang. Tôi viết cho Trang một lá thư ngắn ngủi, nhạt nhẽo, và giấu kín chuyện tôi và Thu. Trang trả lời ngay, giọng thư có chút hờn trách. Trong lá thư gần đây nhất, Trang cho biết Hưng sẽ qua New York chơi. Và “anh có định qua đây chơi hay không, em đang chờ anh đây nhé. Xin anh cho em biết gấp!” Tôi phân vân mãi. Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa trả lời Trang một cách dứt khoát.
Sau đó tôi nhờ người quen kiếm được cho Thu một việc làm tại hãng sản xuất sáo mành mành bằng nhựa với đồng lương tối thiểu. Thu mừng rỡ một cách tội nghiệp, vì dù sao đó là một việc làm đều đặn, ổn định, có giờ giấc đàng hoàng, cứ hai tuần lại có một chi phiếu của hãng gởi về. Ðồng lương tối thiểu, 5 đô-la một giờ, nhưng đối với Thu là cả một món tiền ngoài mơ ước. Thu đi Mỹ theo diện em bảo lãnh nên không được hưởng phụ cấp xã hội. Tôi cũng tìm được một căn phòng nhỏ cho Thu thuê với giá thật rẻ. Nhưng Thu không chịu dọn đi nơi khác. Tôi không nỡ và không muốn mời Thu đi. Từ đó chúng tôi sống với nhau. Thu rất ý tứ và dịu dàng. Thỉnh thoảng muốn gợi ý về câu chuyện riêng của tôi, chuyện lòng của cả một đời, nhưng khi thấy tôi im lặng, Thu nói lãng qua chuyện khác ngay.
Một hôm sau bữa tiệc cưới con trai người bạn chiến hữu ngày xưa, tôi mang về một chai rượu Martell còn thừa hơn ba phần tư. Như thường lệ, chả ai dám uống nhiều. Có lẽ tôi phải nói thêm rằng tôi luôn luôn đi ăn cưới một mình, không mang Thu theo. Và tôi cũng chỉ giới thiệu Thu với vài người bạn thân của tôi mà thôi. Tội nghiệp, Thu không dám, hoặc không thèm, tỏ ý bất mãn. Tại sao tôi cư xử với Thu như thế nhỉ? Tại vì tôi sợ câu chuyện này mà phổ biến ra sẽ có ngày đến tai Trang? Nhưng tôi có mong gặp lại Trang của tôi nữa đâu mà phải đề phòng cẩn thận như thế. Hả trời! Hay là tôi vẫn nuôi chút hy vọng?
Tôi và Thu tôi sống bên nhau một cách tạm bợ. Tôi nghĩ rằng nếu Thu tìm được cuộc sống ổn định hơn, có lẽ nàng sẽ xa tôi và tôi cũng sẽ đồng ý, không chút oán trách. Vâng, Thu dù sao cũng còn có chút tương lai, chứ đâu phải như tôi. Tuy nhiên trong lúc còn sống bên nhau, Thu cư xử với tôi thật chu đáo. Cô nấu ăn ngon, nhà cửa dọn dẹp ngăn nắp, áo quần của tôi Thu giặt giũ, ủi, xếp gọn gàng. Bàn tay phụ nữ thật kỳ diệu!
“Ăn cưới vui không anh? Lại mang rượu về! Ðể em xem nào ... có con cá chép thật tươi ngày mai em làm món gỏi mà anh ưa thích. Tha hồ nhậu với anh Chấn đấy nhé."
Tôi cao hứng:
“Nó đang tươi rói thì phải ăn ngay, chờ đến ngày mai làm gì cho phí của. Em làm đồ nhắm ngay bây giờ đi, rồi em nhậu với anh.”
“Nhưng anh vừa ăn cưới xong?”
“Có sao đâu. Bây giờ anh nhậu với em chứ có phải ăn đâu.”
“Ủa, ăn và nhậu khác nhau sao? Thu cười cười hỏi.
Chưa bao giờ nhậu với Thu, tôi không biết Thu có uống được rượu hay không. Nhưng lo gì, cứ ép là cô này chiều ý mình ngay. Thu luôn luôn ngoan ngoãn vâng lời. Vả lại trong tiệc cưới tôi chỉ mới uống một tí Martell. Là vì đâu có Trang, để Trang của tôi, để em của anh, đẹp đẽ, quý phái, như nàng tiên chưa gãy cánh lọt xuống trần ai khổ lụy, lái xe đưa anh về nhà, để em bảo anh ngồi ghế trước kề bên em, để em tranh thủ hỏi anh thật nhiều chuyện cho thỏa lòng tò mò, em nói thế nhưng thật ra đó là cho thoả lòng mong nhớ. Anh Hưng chịu khó ngồi ghế sau nhé, hay là anh Hưng có muốn thì hai anh cứ oánh tù tì đi cho công bằng -- tiếng nói trong veo, quen thuộc và thân yêu từ thời thơ ấu của em nghe như lời ru của quê hương, của dòng sông, của vườn cau, vườn chuối, vườn cây có nhiều trái chín mùa hè, của sương, của gió, của mưa, của nắng, của suối, của mây, của ... của mẹ. Ngồi uống rượu với Thu mà tôi nhớ Trang muốn rơi nước mắt.
Thế là lần đầu tiên tôi và Thu cùng uống rượu đối ẩm thân mật với nhau tại nhà. Rót ra hai ly, cho đầy soda vào vàng sóng sánh, cụng ly kêu cái keng, đàng hoàng. Thu chỉ cố nhấm nháp chút ít để chiều tôi, uống mãi mà không hết phần mình. Uống xong một ngụm nhỏ, nàng thun vai, nhăn mũi, chau mày. Hai má cũng đỏ hồng lên, trông thật ngộ. Còn tôi, hết ly này đến ly khác. Anh, thôi anh đừng uống nữa, mà anh phải ăn vài miếng cho nhả rượu đi chứ. Không, không sao đâu em, lâu lắm mới được say bên em một lần.
Hơn ba phần tư chai rượu mạnh đó dần dần không còn một giọt. Tôi nói chuyện huyên thuyên không chút giữ gìn. Rượu vào lời ra, chắc là Thu nghĩ như thế. Ðược thể, Thu xa xôi gợi lại câu chuyện cũ mong tôi "thành thật khai báo" mọi thứ. Tôi cũng mượn hơi rượu nói lè nhè mặc Thu muốn hiểu thế nào thì hiểu:
“À, người đẹp mà anh tiễn đưa ở bến xe lửa, ờ, ờ, ở 'ga tầu hỏa' đó hả. Em nói đúng, đâu phải em gái của anh, phải nói đó là cô bạn gái của anh như em đã đoán. Ðàn bà đoán có bao giờ sai đâu! Em biết không, đàn ông bọn anh ai cũng thế cả, cá mè một lứa, ai mà không muốn ôm ấp trong tim hình bóng một người tình tưởng tượng. Tưởng tượng thôi nhé! Nhưng anh khác, anh không cần phải tưởng tượng hay mơ mộng lôi thôi, là vì ... là vì anh đã có Thu của anh đây.”
Thiếu phụ ngồi yên lắng nghe, thỉnh thoảng cười nhẹ, khuyến khích.
“Thu, ôi mùa thu của đời anh! Chứ chưa phải là mùa đông! Ðời anh đã cuối đông chưa em? Nè, nè, mới gặp em, trái tim của anh đã muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Ðừng! Ðừng vội phản đối, đó là sự thật đấy. Bằng chứng là nhờ đó mà ngay bây giờ anh và em đang ngồi bù khú bên nhau như thế này. Hả? Cái gì đó nữa? Ngoài em anh còn yêu ai nữa chăng? Không còn ai nữa ... Thật đấy ... Ừ thì còn, còn lu bù, nhưng rồi có lẽ cũng chẳng đi đến đâu, phải không em. Chỉ có em anh không bao giờ quên. Gặp nhau rồi xa nhau rồi gặp nhau rồi xa nhau, biết bao nhiêu lần! Số kiếp mình đã buộc vào nhau từ hồi còn tấm bé, phải không em. Thế mà ... Anh say, nói bậy. Thế sao? Chỉ gặp em một lần ngoài bến xe đò thôi à? Em khỏi cần nhắc anh cũng nhớ rõ, em tay vẫy vẫy, vâng, em sẽ đi về thành phố có con sông xanh, một mình, đêm khuya. Tội nghiệp em quá...”
Thu không tỏ vẻ sốt ruột, kiên nhẫn ngồi chờ tôi nói ba hoa, rồi chậm rãi nói:
"Anh ơi, em muốn nghe anh nói thật mà anh cứ làm bộ say đánh trống lãng. Nhưng có điều này thì đã rõ, anh như con bướm muốn bay hết cái hoa này tới cái hoa khác. Còn em là đàn bà, em không muốn thế. Em khổ đã nhiều, cầu mong được ổn định, được yên thân."
Tôi bần thần nhìn Thu, cầm lấy cái chai không dốc ngược lên chơi, còn thèm hả, say hả, rồi đặt nó xuống mép bàn, nó ngã, suýt lăn xuống đất, chụp lại được, cầm lên làm bộ uống, rồi chìa ra mời Thu. Thu vội cầm lấy chai, lặng lẽ đặt nó dưới gầm bàn, và nhìn tôi bằng đôi mắt là lạ mà tôi không thể nào hiểu nổi. Oán trách? Thương hại? Khinh bỉ? Hay yêu? Tôi có cảm giác như tôi đang đi trên trực thăng, sắp đáp xuống, chao qua chao về, có tiếng đạn bay vèo vèo, cỏ tranh ngã rạp về một phía, mà đầu óc thì chứa đầy mưa phùn, đầy sương mù, đầy hơi rượu. Ngày mai nhé, sau cơn say, anh sẽ viết thư cho Trang.
[1] Thơ Tuệ Quang
ĐÀ LẠT
Ngự Thuyết
Thương nhớ Ôn
Tôi sẽ đi, thôi Đà Lạt nhé!
Dấu chân son, mắt biếc, nhớ thương.
Môi hồng héo nụ em hờn dỗi
Tà áo tìm tôi trong gió ngoan ...
NT.
I
Một câu ca, một bài hát, trong một hoàn cảnh nào đó, có khi gieo vào tôi những ấn tượng rất mạnh và tạo nên những liên tưởng rất chủ quan. Thơ cũng thế. Bài Silent Night (Đêm Thánh Vô Cùng) thường được hát vào dịp lễ Giáng Sinh là một thí dụ. Mỗi khi nghe bài hát đó, tôi nghĩ ngay đến Đà Lạt, một Đà Lạt tang tóc trong đó ngôi nhà thờ Con Gà đứng co ro, lạnh lẽo, không đèn sao, không cờ đuôi nheo nửa trắng nửa vàng, không có cả những bài thánh ca "tiếng kinh muôn lời" trong đêm Giáng Sinh.
Có lẽ tôi phải nói rõ thêm một chút về trường hợp này. Một buổi chiều cuối năm trời lành lạnh sau cơn mưa hiếm hoi trên một cánh rừng thuộc tỉnh Tây Ninh, quần cụt, áo cánh may bằng bao cát và tóc tai ướt mem, đói, run, và mệt, ngồi gập ghềnh trên cán cuốc gác ngang qua hai vồng khoai lang vừa mới cắm hom để nghỉ giải lao mười phút, tôi bỗng nghe tiếng huýt sáo miệng bài Silent Night. Tôi sững sờ. Suốt mấy năm trời ở trong rừng, tai toàn nghe những âm thanh thịnh nộ, hoặc những điệu tuyên truyền nhạt nhẽo, rẻ tiền, nay tiếng nhạc êm ái của ngày cũ bỗng trổi lên. Điệu nhạc đang dìu dặt, bỗng một giọng nói gầm gừ, gắt gỏng gào to: "Anh kia! Lại nhạc vàng! Lại nhạc vàng hử!"
Tôi quay nhìn. Vài ba người tù của một đội khác đang được nghỉ ngơi gần đó cũng quay nhìn. Người huýt sáo miệng cao, gầy, đeo kính cận thị dày cộm. Tiếng sáo đứt ngang. Anh ta cũng đang ngồi trên một cán cuốc gác ngang, sau lưng là mấy hàng cây sắn lâu ngày hạn hán thân khúc khuỷu đầy mắc bạc trắng, lá vàng nhiều hơn lá xanh, trông giống như những lá cờ đuôi nheo tí hon. Anh giật mình đứng thẳng người lên rồi lính quýnh cúi xuống cầm cuốc định đi lảng nơi khác. Cái kính cận thị chỉ còn một gọng tuột khỏi vành tai của anh rớt xuống vũng bùn. Anh một tay giụi mắt, tay kia quơ quơ mò tìm. Bỗng anh ối lên một tiếng, bàn chân anh đã đạp lên một cái gì đó. Cặp mắt anh dại hẳn đi, mái tóc cũn cỡn lam nham không đi đôi với khuôn mặt khôi ngô, thông minh. Anh nhìn quanh ngơ ngác, rồi ngồi phịch xuống đất duỗi thẳng hai chân, nước bùn đỏ ối làm ướt đẫm cái quần xà-loõng, mấy sợi lông trên hai cẳng chân khẳng kheo nổi lên lờ vờ. Anh đưa hai bàn tay sờ soạn dưới vũng nước bùn. Cuối cùng anh lôi lên được cái kính cận một gọng nay chỉ còn lại một tròng đã bị nứt rạn, tròng kia sút mất. Ngay lúc đó tiếng người quản giáo của đội tôi gọi thật to, "Khẩn trương! Khẩn trương tập họp!" Anh chàng đó và tôi đứng dậy, vác cuốc bước đi cùng với những ngươì tù khác.
Khi đã ra tù, cứ mỗi cuối mùa đông có dịp nghe lại điệu nhạc cũ ấy, lần nào cũng vậy, tôi nghĩ ngay đến anh chàng cận thị mất kính trong vườn sắn lá vàng nhiều hơn lá xanh, và không hiểu vì sao, ngôi nhà thờ Đà Lạt lại hiện rõ lên cùng một lúc, ủ rũ, ngơ ngác sau những hàng thông già. Bài hát thì nghe chìm chìm, rầu rầu, cái nhịp mạnh trong điệu luân vũ xưa kia đệm cho những bước nhịp nhàng trên sàn khiêu vũ nay trở thành tiếng dội nhói vào tim. Bài thánh ca quen thuộc vẫn như xưa chăng, không buồn hơn, không vui hơn, Đà Lạt muôn vàn thương nhớ vẫn thơ mộng chăng? Chỉ có lòng tôi đổi khác? Không, không phải chỉ có thế, tôi biết chắc như vậy.
Cũng thế, ấn tượng tạo nên bởi câu thơ mạnh không kém, có thể còn mạnh hơn, trong tôi. Mấy câu thơ sau đây của Thanh Tâm Tuyền muốn nói đến miền đất nào trên quê hương, tôi không biết, nhưng mỗi khi đọc lên, tôi nhớ Đà Lạt quay quắt:
"Nắng hớn hở nắng trong veo như mắt
Mỉm cười xa, phố thấp vẫy chàng."
hoặc:
"Cây biếc lục. Trời tím than. Núi sửng.
Phố tuôn vàng huyên náo dưới triền sâu."
Đà Lạt! Đà lạt! Tôi gọi thầm Đà Lạt không biết bao nhiêu lần để vơi bớt nỗi nhớ. Hay để nhớ thêm!
II
Tôi không sinh ra tại Đà Lạt, nhưng thời thơ ấu của tôi đã trải qua trên thành phố cao nguyên này. Đường sá, địa danh hồi đó hầu hết đều mang tên bằng tiếng Pháp, chẳng hạn đường Rue d'Annam, đường Maréchal Foch, đường La Rose, hồ Lac des Soupirs, trường Petit Lycée, trường Yersin, rừng Bois d'Amour, nhà thờ Saint Domaine de Marie, khách sạn Sans Soucis, rạp chiếu bóng Lang Biang v.v...Lẽ dĩ nhiên những tên vừa nói sau này tôi mới biết, còn hồi bé, trừ cái tên của ngôi trường mà tôi đã đến học được mấy năm là trường École Primaire de Dalat, những danh xưng khác bằng tiếng Pháp tôi chỉ nhớ lạng quạng. Sân Bờ-Noa (Saint Benoit) nghe nói hình như ở đâu xa tít, xa hơn cả nhà ga thì phải, khách sạn Ba-Láp (Palace) nghe nói Tây Đầm mới được tới ở, chị Thu bảo đã đi thăm Ba-Le (Palais Impérial) đẹp lộng lẫy. Nhưng những thứ đó tôi không để ý đến.
Chú bé loắt choắt đã có những bận tâm khác. Từ thuở lên ba cho đến khi gần mười tuổi, sau này nhớ lại, hình như chú chỉ quan tâm đến những chuyện sau đây.
Trước hết là chuyện học hành. Chuyện này không thể nào bỏ qua được vì bố rất nghiêm nhặt, luôn luôn lo lắng cho nó nên người. Nó không bao giờ quên được những kỷ niệm của ngày khai trường đầu tiên trong đời. Buổi sáng hôm ấy, lá ngoài đường không rụng nhiều và trên không cũng không có những đám mây bàng bạc, nó líu ríu đi theo chân bố, mặc cái áo xuyến đen dài, quần trắng dài, đầu đội nón cối, chân mang guốc gỗ, hay giày xăng-đan, nó không nhớ rõ, tay ôm cái cặp da to tướng do người cậu họ cho cách đó mấy hôm, trong đó có một tập vở mới tinh, bìa sau có in bản cửu chương và hình cái thước đo "đúp đề-xi-mét " (double décimètre), một lọ mực tím đậy nút chặt cứng, một cây bút mực ngòi hình lá tre, quản bút bằng gỗ quá lớn đối với những ngón tay nhỏ xíu của nó, một cây bút chì đen và một cây bút chì cu-lơ (couleur) một đầu xanh, một đầu đỏ, đã được mẹ gọt nhọn sẵn, một cục tẩy có hai phần dán dính cứng lấy nhau, phần màu đỏ để tẩy chì, phần màu xám để tẩy mực, và một tấm bảng đá màu đen một mặt kẽ ô vuông, mặt kia trơn, buộc vào góc bảng đá là chiếc giẻ lau nhỏ bằng bàn tay. Đặc biệt, ở đáy một ngăn nhỏ của chiếc cặp là hai cục kẹo có cán cầm, có giấy trong bọc lại.
Nó nhớ mãi buổi sáng sớm hôm ấy. Phố xá vắng và lạnh. Nắng đã lên. Biết nó phải đi học, những đứa bạn cùng dãy phố thò đầu ra khỏi cửa sổ nhìn theo. Lại có ba bốn đứa chịu khó dậy sớm rủ nhau đứng thành một hàng nơi có nắng dọi xuyên kẽ hở của hai ngôi nhà lầu. Chúng đứng chờ nơi đó để có nắng sưởi ấm và đồng thời để vẫy tay ghẹo nó. Nó cảm thấy tủi thân. Bọn kia là những đứa cùng lứa tuổi nó nhưng không bị bắt đi học. Nó không thể nào hiểu tại sao trời lại sinh ra trường học để nhốt tuổi thơ dại của nó lại.
Về sau nó được cô giáo cho biết ngày đi học đầu tiên đáng nhớ lắm, nhớ là vì ngày khai trường luôn luôn có nhiều kỷ niệm đẹp đẽ vô cùng ... lúc đó bầu trời mới chuyển động vào thu, lá vàng đi trong đám cây run rẩy,...cảnh vật buồn buồn một chút nhưng đẹp hơn bao giờ cả, có chú bé vừa đi vừa nhảy cà tưng như con chim sẻ...Nhưng nó lại nghĩ rằng đó là chú bé ở đâu đâu chứ không phải nó. Cái cặp to tướng ôm chưa quen tay rớt tuột xuống đường mấy lần làm bố cau mày, cái nón đội trên đầu rộng rinh và nặng như đá đeo chốc chốc sụp mũi xuống che kín mắt, hoặc xoay ngang trông kỳ cục, khiến bố phải vừa đi vừa chỉnh cho hoài, cái áo xuyến mới khua rọt rẹt khó chịu. Đó là ngày đầu tiên.
Còn những ngày kế tiếp thì sao? Những buổi sáng trời lạnh quá nếu không có cặp mắt còn lạnh hơn của bố nhìn trừng trừng nó đã nhỏng nhẻo với mẹ đòi "nghỉ học một buổi thôi". Cho nên kết quả là nó đi học đều đặn. Nhưng hoặc là vì bài vở nhiều quá, tiếng Việt, tiếng Tây, và có cả một giờ chữ Hán mỗi tuần nữa; hoặc là vì nó tối dạ; hoặc là vì nó nhỏ xíu trong lớp học gồm hầu hết các anh các chị lớn sầm sầm, có người hơn nó đến chín mười tuổi; hoặc là vì tất cả những lý do nó vừa nêu lên gộp lại, kết quả là chuyện đi học của nó trở thành một hình phạt trong thời thơ ấu.
Hình như nó không học được gì mấy. Nó làm được vài phép toán cọng trừ; nó phải viết chữ cho ngay ngắn, rõ ràng, chữ nào ra chữ nấy, chữ u phải khác chữ n, số 4 không được viết giống số 6, khó quá; phải viết ám tả đừng quá mười lỗi, vẽ bản đồ rồi tô màu làm sao cho phân biệt được nước này với nước khác, đừng để màu vàng của nước mình lem qua màu nâu của Cao Mên hoặc màu xanh của biển Nam Hải; và cuối cùng là phải giữ tập vở cho thẳng thớm, tươm tất, các góc trang giấy không được cuốn lại như lỗ tai chó. Học hành sao khổ thế! Chỉ có một trường hợp ngoại lệ, nó thích cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư và cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư. Những bài học và hình vẽ trong đó luôn luôn đưa trí tưởng tượng của nó đi mông lung và và gieo vào lòng nó những tình cảm êm đềm.
Một lần, cô Lộc gọi chú bé lên bảng:
“Trò N.! Bản đồ Âu Châu lần này coi cũng được được. Nhưng có đúng trò vẽ và tô màu lấy hay không? Hay là trò nhờ người khác?”
Nó trả lời lí nhí những gì mà chính nó cũng không hiểu.
“Trò phải nói thiệt. Nói láo cô cho zéro. Trò nhờ ai vẽ?”
Nó càng lúng túng, sợ hãi, nước mắt muốn chảy. Thấy tội nghiệp, chị Phụng, người học trò lớn tuổi, nói giúp:
“Dạ thưa cô, trò N. không nhờ ai vẽ giùm cả. Trò Lan vẽ xong chê xấu liệng vô sọt rác, trò N. lượm đem đi nộp cô, thưa cô.”
Một lần khác, cô bắt viết vài dòng tả cây lúa. Nó nộp giấy trắng bị zéro, bị cô la rầy. Cô hỏi tại sao trò làm biếng không chịu "tập làm văn", nhưng nó có bao giờ thấy cây lúa đâu! Một lần khác nữa, nó chép bài từ bảng đen vào tập vở gần xong thì hết trang giấy. Lật qua trang mới, thấy sạch sẽ và thơm tho, mà chỉ còn có mấy dòng là hết bài, cho nên nó ráng nắn nót viết cho đẹp. Nếu bài còn dài phải viết nhiều, thế nào nó cũng viết nguyệch ngoạc như gà bới. Về nhà bố xem lại vở, giận dữ:
“Cái thằng này hư đốn! Lại nhờ người khác chép bài hả? N.!”
Nó ngạc nhiên không hiểu đâu vào đâu. Bố mắng tiếp:
“Bài vở phải tự chép lấy. Lần sau mà còn làm biếng sẽ ăn roi. Nghe chưa?”
Nó nhìn bố không tìm được lời giải thích. Nó vốn "mũ mít", ai nói đến nó là nó trít miệng. Hơn nữa quả thật lần đầu tiên nó viết được mấy hàng chữ trông đẹp đẽ. Những trang trước chữ nó viết trông như con trùn bò, chị nó bảo như thế. Nó lại lí nhí trả lời bố những gì chính nó cũng không hiểu.
“Hả? Lại còn muốn nói gì nữa? Có nghe lời bố dặn không?”
“Dạ. Con nghe.”
Đại khái chú bé học hành như thế, nhưng không hiểu sao năm nào nó cũng được lên lớp. Có lẽ nó được vớt.
Đến lớp ba, nó bắt đầu lơ mơ cảm thấy vài điều vui vui trong việc học, nhưng lúc đó nó phải xa Đà Lạt. Đó là chuyện về sau.
Học đường cũng có mấy thứ khác đáng nhớ. Chẳng hạn vào giờ thủ công, học trò được phép ra khỏi lớp, tới hai hàng cây keo giữa sân trường gỡ những cục nhựa đọng trên thân cây vo tròn lại bằng hòn bi chai đem vào lớp làm keo dán, tốt và sạch hơn hồ chị nó nấu từ bột gạo. Siêng thì đi kiếm cái "nắp keng" cho chút nước vào hòa với cục keo, làm biếng thì chỉ cần thè lưỡi liếm cục keo cho ướt ướt là dán được ngay. Làm xong bài thủ công đôi khi hai cái môi của nó dính trít, mấy ngón tay dày cộm lên, cả keo là keo. Sung sướng nhất là đến giờ tập thể thao được "lên gò” phía sau trường. “Lên gò!” Lòng nao nức, tay chân ngứa ngáy. Đó là một một ngọn đồi nhỏ và thấp thiết trí mấy dụng cụ dùng để tập thể thao, một giải đất cát để tập nhảy cao, nhảy dài, một cuộn dây dừa to để “leo dây” và chơi trò "kéo co". Và hấp dẫn hơn cả là cái cầu tập thể dục. Cầu là một thanh gỗ chiều dài khoảng sáu thước, bề ngang khoảng hơn một gang tay, bắc ngang trên hai cây cột cao khoảng bốn thước, bên dưới cầu lủng lẳng hai cái xích đu. Đi lên từ một phía của cầu có cái thang nghiêng, nhưng một khi qua được bên kia cầu, phải ôm cây cột tròn tuột xuống. Ai muốn đi qua cầu phải được anh moniteur nắm tay dẫn đi. Con nít đi một mình không quen, ngợp, té, cho nên bị cấm. Nó bị phạt quỳ mấy lần vì lén đi qua cầu một mình để nhìn xuống mái trường ngói nâu nối đuôi nhau có lá thông khô phủ từng vạt, có những tổ chim sẻ, chim én nhỏ xíu.
Nhưng đáng nhớ hơn cả vẫn là Đà Lạt của những ngày nghỉ học. Những ngày đó chú bé như con chim sổ lồng.
*
Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, như được học tại lớp? Không, các mùa của chú bé khác hẳn. Khi gió ẩm ướt, trời thỉnh thoảng gầm gừ, mây xám có hôm kéo về đầy trời, và nghe sướng tai làm sao, những tiếng reng réc đầu tiên rụt rè, lẻ tẻ, thân yêu, quen thuộc phát ra từ một vài kẽ đá, gốc cỏ, bụi cây, cột đèn đường v.v... nó vui mừng biết rằng mùa đá dế lại về.
Có những tuần lễ trời trong, gió cao, nắng ấm, ấy là mùa thả diều. Nó còn bé tí, không biết làm diều. Bắt chước người ta nó làm đại, cũng khung tre, cũng phất giấy mỏng, cũng hai cái đuôi diều dài như nhau làm bằng những dung giấy hẹp dán nối lên nhau, và cũng đi theo tụi nhỏ khác mang diều tới thả nơi khoảnh đất rộng trống gió cuối đường Rue d'Annam. Nhưng diều của nó không biết bay dù nhiều lần nó bắt chước cầm diều chạy một đoạn ngắn và buông dây ra từ từ, thì chiếc diều đâm sầm xuống đất. Đó cũng là nơi tụi nhỏ tụ tập chơi nhiều trò nhất.
Từ khoảnh đất đó nhìn thẳng phía trước xuống lòng thung lũng, nó thấy được con đường cong cong hai bên phố xá thưa thớt mà người ta gọi là đường Cầu Quẹo. Nhìn xa hơn nữa, trên sườn chênh chếch từ lòng thung lũng đi lên, tầm mắt nó chạm phải những hàng thông chạy dài theo một con đường vắng. Nó đã theo bố đi trên con đường đó mấy lần nhưng nó không biết tên đường. Về sau nó biết đó là đường Pasteur, sau đổi thành đường Hai Bà Trưng. Nhích lên một chút nữa là những dãy nhà tường trắng, mái đỏ trông rất ma quái, dễ sợ. Bọn trẻ cùng khu phố thường bảo nhau đó là vùng nhà thương, nhà xác, nhà mồ, lẽ dĩ nhiên có nhiều ma. Thỉnh thoảng bọn chúng nghe tiếng kèn lính từ một phía núi nào đó vọng đến, lại kháo nhau rằng Tây sai những toán lính tới vùng nhà xác thổi kèn để đuổi ma qủy. Ngay phía trước khu thả diều trên một đỉnh đồi là nhà thờ Tin Lành mới xây xong. Bên mặt nhà thờ, trên một đỉnh đồi khác, một ngôi chùa cũng đang được xây nửa chừng. Sau này đó là chùa Linh Sơn. Còn phía ngược lại là phố xá, là cái chợ có cái tháp cao còi hụ vào lúc đúng ngọ trên đó có chạm hình nổi “Mọi Cà Răng Căng Tai", đàn ông răng cà sát nớu, đóng khố, tay cầm xà gạc, đàn bà mặc váy, ở trần, trái tai đeo “thứ gì không biết” căng tròn lên to đùng.
Vào dịp nghỉ hè của thầy Khoái, ông thầy giáo trẻ tuổi ở trọ tại nhà của nó, thỉnh thoảng thầy lấy xe đạp chở nó xuống hồ Đà Lạt câu "cá trắng". Nó nghĩ thầm mùa câu cá lại về, chứ không phải mùa hè. Nó được giao phó việc cầm lon trùn và xách chiếc giỏ mây đựng cá. Không bao giờ nó đủ kiên nhẫn ngồi lâu với thầy. Câu một con cá sao mà khổ thế, ngồi chờ mãi. Thế mà thầy vẫn tỉnh bơ. Nó đòi về hoài làm thầy bực mình dọa lần sau không cho nó đi câu nữa. Thật ra nó đâu muốn đi câu cá, nó chỉ muốn được thầy chở xe đạp chạy qua những đoạn đường dài, nhất là khi xuống dốc chiếc xe đạp lao như bay như biến. Đà Lạt có nhiều dốc mà!
Mùa gì nữa? Còn nhiều mùa lắm, chán chơi trò này đổi qua trò khác cũng được kể như sang mùa. Chẳng hạn sau mấy tuần đá banh xoay qua đánh bi đánh đáo, thế là mùa đánh bi đánh đáo bắt đầu. Nó không biết tại sao mùa bắn chim đang vui bỗng nhảy qua mùa đá kiện. Mọi đứa trẻ không ai bảo ai đều chuyển mùa. Có lẽ có một đứa chơi mau chán thứ gì đó nên đổi môn, tụi khác “nhắm mắt” làm theo.
Đá kiện thì chắc đứa trẻ nào cũng biết. Hai "đồng xu nửa" có lỗ đặt chồng lên nhau, một rẻo vải nhỏ luồn qua lỗ thắt lại thành kiện. Rồi chia phe nhau đá, đá tay đôi tay ba tay bốn gọi là "đá kiện giao", đứa nào đá hụt là thua, bị loại; hoặc đá một mình tính điểm, ai tới trước 50 điểm chẳng hạn là thắng cuộc. Có hai kiểu đá: “đá bàn” bằng lòng bàn chân, “đá chó”, bằng mu bàn chân. Đứa thua phải cõng đứa thắng đi quanh vài vòng, hoặc bị "ăn đột", nghĩa là bị đứa thắng dùng nắm tay nện vào vai, vào lưng, nhiều ít tùy giao hẹn trước, nhưng nặng nhẹ là do lòng tốt của đứa thắng. Thường thì nhẹ vì tuy là con nít, tụi nó cũng biết dễ gì mình thắng mãi, nếu cứ lên gân nện đứa thua, lỡ tới phiên mình thua, lãnh đủ. Có lúc nó bị nện đau đến méo mặt. Đến khi nó thắng, trước khi ra tay trả thù, nó đọc lên một câu "thiệu" mà tụi con nít vẫn nói trong những dịp như vậy, "Dễ người dễ ta, khó người khó ta".
Đá banh thích hơn đá kiện nhiều. Banh càng to càng thích. Tụi nó thường chỉ đá banh ta-nít (tennis) đã trụi hết lông xin được của ai đó không biết, đá chân không, đá trên sân trường, trên vỉa hè, trên góc phố vắng người đi, ngoài cổng chùa v.v...Đông thì mỗi phe dăm ba đứa, ít thì mỗi phe một đứa, có hoặc không có trọng tài cũng không sao, lấy sách vở, hoặc guốc giép, hoặc cục đá cục gạch, hoặc bất cứ cái gì vớ được, chất thành hai tụ nhỏ cách nhau để làm gôn. Đấu một chốc phải đo lại gôn, bằng không cái gôn "tự nhiên" hẹp lại lúc nào không ai hay. Chiều cao của gôn được xác định bằng cú nhảy cao thẳng người hai tay đưa lên trời của thằng giữ gôn. Nếu muốn ăn gian, lúc banh bắn vào gôn không lấy gì làm cao lắm mà thằng giữ gôn vẫn bắt không được, thì chỉ có việc đứng chùn người lại một chút, hai cánh tay dạng ngang thay vì đưa thẳng lên trời, thế là banh được coi như đã vượt quá sà ngang tưởng tượng.
Một hôm, thằng "Ông Anh" ở cùng phố cho tụi nó biết đã tìm được một chỗ đá banh mới trên một ngọn đồi phẳng nơi đó nay mai sẽ dựng lên một ngôi trường học. Sau này đó là trường nữ trung học Quang Trung, rồi đổi tên thành trường Bùi thị Xuân. Chỗ đá banh đó rộng lắm, tha hồ đá thẳng cẳng, mỗi phe phải có ít nhất là bốn năm đứa, chưa kể hai thằng giữ gôn. Muốn được "ông anh" kêu đi chơi, nó phải mang theo một trái banh lớn để đá trên sân rộng, không được xài banh ta-nít. Nó không hiểu tại sao ông anh không đặt điều kiện như vậy đối với tụi nhỏ khác. Có lẽ vì nó nhỏ nhất trong bọn chăng? Nó năn nỉ mẹ mua cho một quả banh cao-su to có khứa trông giống trái "ba-lông" của người lớn chơi dưới "xẹc" (Cercle sportif). Gọi là "dưới xẹc" vì xẹc nằm trên vùng đất thấp bên cạnh bờ hồ, nay có tên là Hồ Xuân Hương. Mẹ bằng lòng với điều kiện nó đừng làm bể, làm mất trái banh. Nó đi theo "Ông anh", ôm quả banh vào lòng đầy cả hai cánh tay, sung sướng. Đem banh lên đồi chia phe đá với nhau một hồi mệt toát cả mồ hôi, thì ạc-bít (arbitre) cho nghỉ đờ-mi-tăng (mi-temps). Bỗng có một người lớn lạ mặt đạp xe đạp từ ngoài đường nhựa tạt vào xem tụi nó chơi. Nó không thể đoán ra tuổi của người lớn, 20 tuổi hoặc 30 tuổi đều là lớn như nhau, và đều đáng kính, đáng sợ. Người lớn bảo thằng "Ông anh":
“Ê! Đưa trái banh tao coi.”
Đối với tụi nó, "ông anh" quyền uy là thế, nhưng trước người lớn, thằng này hết sức ngoan ngoãn hai tay mang banh đến.
“Tụi mày tiền đâu mua trái banh này?”
“Dạ, không phải của tụi tui. Của thằng N.”
“Thằng N. là thằng nào?”
"Ông anh" chỉ nó. Người lớn ra lệnh:
“Ê, tớí đây mau!”
Nó riu ríu tới. Người lớn véo tai nó rồi xoay xoay trái banh trong tay hai ba vòng, ngắm nghía, lại quay nhìn nó, rồi đứng dậy thủng thẳng đi đến cuối bãi, cầm trái banh tung nhẹ lên trước mặt cho vừa tầm rồi lấy sức đá mạnh quả banh xuống thung lũng dưới xa. Xong đâu đấy người lớn cười khoái trá, leo lên xe đạp đạp một lèo mất dạng. Tụi nó nhìn nhau ngơ ngác. Một chốc sau "ông anh" ra lệnh bò xuống thung lũng tìm banh. Cây cỏ cao và rậm, lại sợ rắn, sợ chó, sợ banh đã lọt qua phía bên kia hàng rào của khu vườn trồng cà phê của "thằng Tây", cuối cùng tụi nó bỏ cuộc. Buổi chiều về nhà trễ sợ mẹ hỏi banh đâu. Mẹ không hỏi liền nhưng mấy ngày sau mẹ có hỏi, nó tìm cách nói quanh, cho người này mượn, cho người kia mượn, giấu giếm chuyện mất banh được cả tháng trời. Thế là hết mùa đá banh. Từ đó, hễ gặp người lớn lạ mặt, nó né né, gờm gờm.
*
Nhưng mùa gì cũng không bằng mùa đá dế. Mùa dế đến, theo chân dế, theo tiếng dế gáy thiết tha, giục giã, nó đi nhiều nơi. Đi tới cuối đường Cầu Quẹo, đi lên Cây Số Bốn, Cây Số Sáu, đi xuống dốc Nhà Làng, đi qua xóm Nhà Bò, đi lại phía Nhà Đèn, đi lên đồi Cù, đi xuống cầu Ông Đạo, đi về cầu bà Cửu Huờn v.v... Có khi đi thật xa, gần tới Bơ-tí Lít-xê (Petit Lycée). Nhiều hôm vào thứ năm, chủ nhật, hồi đó là những ngày nghỉ học, dậy thật sớm, nắng vừa lên trời còn lạnh, tụi nó đã rủ nhau đi bắt dế. Đi trễ bọn khác bắt hết dế sao.
Muốn bắt được nhiều dế cứ việc đến các vườn la-ghim (légumes) của các ấp Hà Đông, ấp Nghệ Tịnh gần Mả Thánh. Dế vùng này to, mập, chậm, đá dở. Tụi nhỏ cho rằng những con dế làm hang trong đất xốp, đất dùng để trồng trọt, ăn toàn “đồ bổ”, cô giáo nói la-ghim bổ lắm, là loại dế bở, đá vài phút te cò chạy. Ăn cực đá hay hơn. Còn loại dế thấy ánh đèn đường ban đêm bay sà tới lại càng tệ, bắt đem về nuôi thêm chật hộp. Thà bắt dế chó nhốt chơi vài ngày rồi dụt đi còn hơn. Dế chó nhỏ con, có vạch màu vàng hình chữ V trên đầu, không biết đá, tiếng gáy nghe như tiếng rên dài dài từng chuỗi, không nhịp nhàng từng hồi ngắn như dế than, dế lửa.
Phải tìm cho được những con dế ở các hang thật sâu đào xuyên qua rể cây lớn, hoặc xuyên qua hốc đá. Hang càng khó đào, dế càng đá hay. Tụi nó không có cuốc, xẻng, mỗi đứa chỉ đem theo một khúc cây ngắn, vót nhọn, dùng để đào hang, mấy cái hộp quẹt hoặc lon sữa bò dùng đựng dế. Đào thật cẩn thận, bằng không đâm chết dế. Có hang sâu quá đào không nổi, tụi nó hè nhau đi kiếm vũng nước, dòng suối, lấy nước đổ vào hang cho dế ngộp phải trồi đầu lên. Một gia đình dế nộp mạng "đầu hàng" theo thứ tự như sau: dế con bò lên trước, rồi đến dế mái, dế mẹ. Có nhiều con dế mẹ vì một con dế trống đầu đàn có nhiều vợ, sinh ra nhiều đàn con. Sau một lúc lâu mới đến phiên con dế trống, chịu ngộp giỏi nhất, nhưng cuối cùng cũng phải bò lên. Cánh nó dợn sóng, hai chấm vàng tươi ở gốc cánh nằm kế cái đầu tròn vo hiện lên rực rỡ dưới ánh mặt trời. Lúc này thì cặp râu dài của con dế đã ướt mèm dính bùn, mấy cái chân trước bước lê lết, mệt nhọc, hai cái chân sau duỗi thẳng. Đó là con dế trống đầu đàn. Nó lấy lại sức rất mau. Chỉ mấy phút sau nếu tụi nhỏ không kịp bắt nó nhốt vào hộp, nó phóng đi cái vèo mất tiêu. Khi tìm không ra vũng nước, tụi nhỏ họp nhau đái vào hang. Một đứa đái không đủ nước! Có khi chúng mạo hiểm phá hang rắn để bắt dế. Dế ở chung với rắn con nào con nấy dài thòong, dế mà dài như thế tức là bị lai với rắn chăng, tụi nhỏ nghĩ như thế, đá hay lắm, nhưng tiếng gáy dở ẹc, là vì cánh của loại dế này thường bị rách hoặc lũng lỗ. Nó gáy lên nghe thua vịt đực kêu.
Kinh nghiệm của tụi nhỏ cho thấy rằng dế than “đen thùi lui như cục than" thúc giỏi, thúc có nghĩa là đẩy, nhờ có cặp giò sau rất cứng, trong khi dế lửa “đỏ hồng như ngọn lửa” nghiến đau nhờ có cái càng rất mạnh. Nó nghiệm ra điều đó chưa chắc đúng, sau này nó sẽ có bằng cớ. Nhưng dế than phải thật đen, dế lửa phải thật đỏ. Loại dế lai màu nâu nâu đá không hay. Tụi nhỏ được cho biết, ai là người đầu tiên nói điều đó nhỉ, dế than dế lửa lấy nhau đẻ ra dế nâu.
Con dế là người bạn thân yêu của tuổi thơ ấu. Lần đầu gặp nhau, nó là kẻ đi ruồng bắt, con dế là kẻ trốn tránh, nhưng một khi đã sống chung với nhau một thời gian ngắn độ vài giờ, dế và nó thương yêu nhau, quấn quýt bên nhau. Nó lấy cái hộp thật tốt, hộp đựng bánh bích-quy chẳng hạn, cho đất vào, moi sẵn hang cho dế chui vô, trồng một ít cỏ thật xanh, kiếm rể cỏ non cho dế ăn, thay vì cho ăn hạt cơm hoặc cọng giá, những thứ đó chỉ làm cho dế mập phì, chậm chạp.
Rồi nó bỏ ra rất nhiều công sức để làm cái “nhử” Đó là một cục "dầu hắc" nhựa đen vo tròn to bằng đầu con dế gắn vào một đầu cây nhang dài khoảng nửa gang tay, đầu kia làm cán, rồi xin chị một sợi tóc gấp làm đôi cột vào cục nhựa cho thật khéo, thật thẳng, giả làm cặp râu dế. Thế là xong cái nhử. Hai ngón tay cầm cán nhử xe xe cho tóc của đầu nhử ngoáy vào dế. Những thằng lười và ác chỉ việc ngứt đầu một con dế dở, có sẵn râu, rồi lấy cây nhang đâm vào làm cán thành một cái nhử gọn gàng. Nhưng loại nhử này bết lắm, đầu dế không dính chặt vào đầu nhang, xài năm bảy lần là sút. Những thằng lười và ác đó nhiều lúc thấy dế dở bị ngoáy mãi mà không chịu hăng lên, bèn cầm hai con lên dí càng vào nhau cho chúng nó cạp nhau cho đến chết.
Nhưng dầu hắc đâu mà có? Rất dễ kiếm. Chỉ việc lấy mũi dao nạy vài cục nhựa trải đường lên đem về hơ lửa là xong ngay. Còn tóc phải năn nỉ xin chị, tóc nó cụt ngủn, không làm râu được. Đừng lấy ngón tay hoặc cái que lùa dế xáp vào nhau, dế đâm hoảng bỏ chạy. Cũng đừng xách mép dế lên rồi thổi vào bụng dế cho nó nhột, nó đập cánh rồi nó "hăng" lên; lỡ đứt mép, con dế rớt xuống cái bịch, hoảng, bỏ chạy. Những đứa "ba trợn" nắm cặp râu dế xách con dế lên quay tròn cho dế chóng mặt nổi khùng lên đá. Cũng không được. Râu bị cong queo hoặc bị đứt, con dế không râu kể như mù, bò loạng quạng, ngẩn ngơ như người mất vía.
Phải dùng nhử để chọc tức con dế, dụ con dế đuổi theo. Chẳng hạn con dế đang nằm trong cái hang nhỏ trong hộp bích quy, lấy nhử ngoáy ngoáy thế nào cho hai đầu sợi tóc chạm nhẹ vào nó, thế là nó sẽ vừa gáy vừa đuổi theo nhử. Đừng ngoáy mạnh quá, gặp dế nhát gan là hỏng, nó sợ bỏ chạy luôn. Hoặc là khi con dế đang đứng ở một góc hộp, nhử vào đuôi nó nó sẽ xoay người lại ngay, há rộng cái càng sẵn sàng "xáp trận".
Thằng bé cứ thế nhìn con dế một cách say sưa. Ngồi một mình chơi với con dế cả tiếng đồng hồ, chốc chốc lấy nhử ngoáy để lại được thấy con dế hăng máu lên, mở rộng hai càng trông như hai lưỡi mác, hai cánh phồng lên cọ sát vào nhau phát ra tiếng gáy reng reng trong khi thân hình rùng rùng chồm chồm như ngọn lửa đang bốc, hay như chiếc khăn voan màu đen nhỏ xíu no gió, nếu là dế than, rùng rùng chồm chồm theo điệu nhún của cặp giò sau thật cao và thật dài. Trông oai ghê! Và đẹp hơn tất cả mọi thứ trên cõi đời này. Con dế ý chừng biết thằng bé đang ngây dại nhìn càng cao hứng chạy quanh trong lòng chiếc hộp sắt sục sạo tìm kiếm xem thử có một tên dế nào khác dám mò vào “giang sơn đất nước này”.
Lẽ dĩ nhiên mỗi chiếc hộp là của riêng của một con dế trống. Nhốt chung những con dế với nhau, chúng đá loạn xạ vài trận rồi sẽ làm quen với nhau, tử tế với nhau, thế là hết đá. Cũng không cho dế mái vào ở chung, nó “phá đám”, làm hư con dế trống. Dế nhất được ở trong hộp bích quy, dế nhì hộp bằng bìa cứng, dế ba, dế tư đựng trong lon sữa bò hoặc hộp quẹt cũng được. Mỗi khi đi học về thằng bé mang dế đi đá với dế hàng xóm. Ít khi nó mang dế nhất ra đá với những con dế bậy bạ. Đá bừa bãi dế sẽ "hết hăng". Muốn dế đá hay, phải biết để dành “sức khỏe” và “sức hăng” của dế. Ai bày cho nó mánh lới đó hè, nó quên mất.
Năm nó lên bảy, nó không bao giờ quên năm đó, đầu mùa mưa, từ ngôi nhà đang ở trên đường Rue d'Annam nó đi theo cậu lên Cây Số Sáu thăm ngôi nhà tranh bố vừa mới cất xong, ngôi nhà thứ nhì của bố mẹ. Đi bộ xa, dưới bầu trời trăng trắng, đục đục, mưa lâm râm, đường đất đỏ lầy lội, đôi dép của nó bị tuột hoài cậu phải xách giùm. Chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa là đến nơi, cái mặt đang xụ của nó bỗng sáng rực lên khi nó nghe tiếng dế. Chỉ một con dế đang gáy mà thôi, tiếng gáy reng reng, ròn rã, vang dội cả một vùng. Có đứa bảo dế trống gáy như thế để dụ dế mái tới. Sai! Tiếng gáy dụ dế mái tới nghe khác hẳn, không đều đều nỉ non như khi dế kêu trong giấc ngủ ngày hoặc ngủ đêm, không oai hùng rỗn rãng như khi dế khoái chí vì chuyện gì đó nhất là sau khi thắng trận. Trái lại dụ dế mái tới thì nghe chắc chắc, chập chập, chọt chọt như khi ngươì ta chắc lưỡi làm thân với con chó lạ.
Nó biết rằng vùng này không chỉ có con dế ấy mà thôi. Những con dế khác sợ tiếng gáy đó nên đều nín khe, không dám hó hé. Nó lắng nghe, tìm quanh một hồi, thì biết được con dế nằm trong hang bên dưới một tảng đá lớn cạnh cây thông già đứng ngay gần lối ra vào cái sân trước mặt nhà. Nó ráng sức vầng tảng đá đi nơi khác, không nổi. Thấy nó loay hoay mãi, cậu ra tay. Cậu vào nhà xách cái cuốc chỉa ba đào một đường rảnh nhỏ quanh tảng đá. Chỉ thoáng một cái cậu đã nạy được tảng đá lên, một cái hang sâu hiện ra. Tiếng gáy đã ngưng từ lúc nhác cuốc đầu tiên bổ xuống, nhưng nó biết con dế vẫn còn nằm dưới hang. Cậu định đào tiếp, nó bảo để nó làm, nó sợ cậu vô ý cuốc trúng con dế. Nó ngồi chồm hỗm, ì ạch xoay người quanh cái hang nhiều lần, cúi đầu mắt dí vào hang tìm kiếm. Hang sâu, chẳng thấy được gì. Nó ngồi ngay người lại, định đi kiếm nước đổ vào hang, bỗng nghe vù một tiếng: con dế từ trong hang phóng mạnh ra chạm ngay vào bụng nó. Nó giật mình đưa tay vào bụng đỡ thì may thay cái vạt áo trước của nó vướng vào tay trùm lên con dế. Nó không mang theo hộp, nó đâu định đi bắt dế, thế là hai bàn tay của nó bụm vạt áo thật kỹ. Cứ thế, tay giữ vạt áo cho đến khi cậu coi xong nhà cửa trở về ngôi nhà dưới phố, nó vừa đi theo cậu vừa vui sướng trong lòng. Nó biết rằng đây là một con dế trống thứ xịn.
Đó là con dế lửa đỏ rực, cánh dợn sóng lằn sâu, hai chấm nhỏ ở gốc cánh vàng tươi, thân hình dài bằng nhưng bề ngang lớn hơn ngón tay trỏ của nó, hai sợi râu dài hơn cả thân hình, nguyên vẹn, đều đặn, có lúc trông như hai thanh kiếm tuốt trần vung vẩy, có lúc trông như hai cái lông đuôi chim trĩ đính trên chiếc mão của ông tướng hát bội, cái đầu to, tròn, lồi lên hai con mắt như hai hột cườm đen, và sáu cái chân cũng đen nhánh, những cọng gai nhỏ, những răng cưa, những móc câu trên chân còn mới tinh khôi, nhọn hoắt, cặp giò sau bặm xị, dài thoòng, xếp lại thành góc rất nhọn chứ không phải duỗi ra bè bè như những con dế oãi. Nó nuôi con dế ấy trong chiếc hộp sắt chứa đầy đủ đất, cỏ non, và một cái hang cạn làm mồi cho con dế đào tiếp.
Hôm sau, nó nhử con dế lửa xịn ấy vào một cái hộp các-tông trống trơn làm đấu trường - hộp bích quy bằng sắt không xài được, đáy nó cứng và trơn không có chỗ cho gai chân dế bám, dế dễ bị trượt khi bị “thúc” - cho đá thử với con dế ba của thằng hàng xóm. Con dế lửa của nó chỉ cần chỉa hai cái râu chiếu vào đầu con dế kia, con kia đã khiếp sợ bỏ chạy. Đá với con dế nhì cũng chỉ cần một cú "thúc" là thắng. Đúng vậy, dế lửa hay thúc vẫn giỏi, cần gì phải dế than mới thúc!
Cuối cùng thằng hàng xóm phải đem dế nhất ra, một con dế than đen thui, bự sư, to hơn con dế lửa của nó, hung hăng vô lối, chưa đá, chưa thắng đã chạy lui chạy tới, xoay người qua trái, qua phải, gáy ỏm tỏi. Con dế nhất đó cũng biết đem tiếng gáy và cặp râu ra dọa nạt con dế lửa của nó, nhưng chẳng "ăn thua" gì. Sau khi phồng cánh lên gáy reng reng và đấu nhau bằng cặp râu như Zorro đấu kiếm, vâng, nó đã được coi phim Zorro tại rạp Lang Biang, hai con dế mới kéo giạt hai cặp râu dài ra hai bên cho đỡ vướng, và há rộng càng đo xem ai khủng khiếp hơn ai. Nhiều con nhát gan, vừa đo càng xong là quay người co giò chạy re. Cặp dế này khác, đo càng xong, từ từ xáp trận. Con dế lửa của nó mạnh qúa, lấy càng, lấy đôi chân sau làm trụ đẩy mạnh con kia lùi một quãng dài đến cuối chiếc hộp rồi ép vào thành hộp. Con kia bị kẹt, thân hình cong vòng như con tôm, may sao, sau một hồi vùng vẫy, nó bật người ra khỏi cặp càng siết chặt của con dế lửa và văng mình ra xa. Nó không chịu nổi cái nghiến ghê gớm của con dế lửa, quả có thế. Con dế lửa đứng yên một chỗ rùng mình lui lui tới tới, phồng đôi cánh đỏ rực gáy dòn, rồi xoay mình hai ba vòng mà không hề bị chóng mặt hay lảo đảo, rồi nhập cặp râu lại cho giống đôi song kiếm chiếu thẳng vung về phía trước, xong xuôi đâu đấy khua chân chạy rần rần quanh chiếc hộp tìm kiếm quân thù. Không có một ông tướng cải lương hay hát bội nào trên sân khấu "diệu võ dương oai" đẹp bằng con dế lửa của nó. Lẽ dĩ nhiên những chữ "diệu võ dương oai", "đôi song kiếm", sau này nó mới biết; ngoài ra hồi đó nó chưa coi Phùng Há hay Bích Thuận đóng vai Lã Bố nên không chắc mình so sánh có đúng hay không.
Con dế than kia quả không phải đồ bỏ, dù đang đứng khờ khờ, lạc lõng giữa lòng chiếc hộp. Nếu còn tỉnh táo nó không bao giờ đứng vớ vẩn giữa lòng cái hộp như thế, trái lại luôn luôn đứng xuôi người sát thành hộp hoặc ngay tại góc hộp. Bỗng nó sực tỉnh trước tiếng gáy của con dế lửa. Nó lập tức sửa cách đứng cho có thế, hai càng mở ra rồi khép lại đến mấy lần chừng như đang phân vân nói năng lẩm bẩm một mình, hoặc tính toán điều gì, hay cũng có thể nó muốn gò lại cặp càng bị sai khớp trước khi xáp trận. Cuối cùng nó há càng ra thật to, rồi hạ càng xuống sát đáy hộp, lừ lừ tiến tới phía con dế lửa. Có khi càng nhọn vướng vào đáy hộp làm cho cái đầu của nó giật giật. Thằng nhỏ hồi hộp. Tụi nhỏ kia đang châu đầu quanh cái hộp bỗng nhao nhao, coi kìa, coi kìa, nó bị thương, con dế than bị thương, cái giò sau bên trái xuội lơ kéo lê trên đáy hộp. Nhưng con dế lì lợm đó vẫn lừ lừ bò tới. Con dế ấy đi "bộ hạ", nguy hiểm lắm đó. Những con dế lắc xắc ra trận mà cứ ngớp ngớp cái đầu lên cao khỏi mặt hộp thì chỉ bị một cái thúc của con kia cũng đủ văng lộn mèo. Con dế bị thương vẫn bộ hạ lừ lừ tiến.
Thằng nhỏ hàng xóm bỗng la lên, thôi, thôi, huề, không thèm đá nữa đâu, rồi thò tay vào chiếc hộp định bắt con dế của nó ra. Nó và bọn trẻ ngồi xem cũng hét, không được, không được, đừng ăn gian, bắt nó ra là chịu thua. Cho nên trận chiến lại tiếp diễn. Lần này lẹ, chưa đá đã xong. Sau khi cho giạt hai cặp râu ra hai phía, hai cặp càng mở rộng so lại, chuẩn bị xáp trận, con dế than bị thương đột ngột quay đầu bỏ chạy. Con dế lửa rượt theo. Thằng bé hàng xóm vội vàng đưa cái nhử cản đường con dế lửa, bằng không con dế nhất của thằng hàng xóm có thể "tử trận". Vâng, tử trận, không biết đã nghe ai, chúng nó đều hiểu nghĩa hai chữ đó.
Chú bé qúy con dế vô cùng, qúy hơn tất cả những gì nó có. Quý hơn sách vở nhà trường, trái banh, cái ná bắn chim, con diều giấy, mấy hòn bi chai, con vụ v.v... Quý hơn cả con Ba Tô sau này. Trời Đà Lạt buổi sáng lạnh, thằng bé chỉ muốn nằm hoài trong chăn ấm, thế mà từ khi có con dế lửa, nó chịu khó dậy sớm một chút để trước khi đi học, lúc nào cũng thế, nó dành mấy phút mở hộp dế lửa ra ngắm nghía một hồi rồi lấy nhử ngoáy vài cái, tức thì con dế từ trong hang nhỏ chui ra, vung hai thanh kiếm râu, há càng, gáy ròn rã như nói vài lời tạm biệt, rồi chui vào hang. Đi học về, vừa vứt cái cặp lên góc bàn, nó đến ngay hộp dế lửa mở ra coi, rồi ngoáy ngoáy, sung sướng. Nó khéo tay, hiểu được ý dế, khéo cư xử, dần dần nhử được con dế lửa bò lên bàn tay trái của nó. Thế là bàn tay trái nhỏ xíu để ngửa trên đó con dế đỏ như cục than hồng an tâm bước tới bước lui, không đủ chỗ bước ngang, bàn tay phải của thằng nhỏ cầm nhử chốc chốc ngoáy.
Thằng bé đi khắp khu phố với con dế trên bàn tay, tìm địch thủ, những hôm nghỉ học. Bọn nhỏ khác nhìn theo thèm thuồng. Mỗi khi có người lớn để ý đến, nó lịt lịt lẫn tránh, rồi chạy về nhà cho dế vào hộp cất kỹ. Nó nhớ trái banh bị đá mất.
Bố một hôm rầy nó:
“Cái thằng N., con dế cưng của con ban đêm gáy to quá. Không ai ngủ được!”
Đó là bố nói, riêng nó, tiếng gáy nghe trong trẻo và êm ái hơn tiếng chuông đồng trên bàn thờ Phật, đưa nó vào giấc ngủ lúc nào không hay, đưa nó đi đến những giấc mơ đẹp. Nó mơ con dế lửa sẽ ở suốt đời với nó như đôi bạn thân, dần dần trước sự cưng chiều và hiểu biết của nó, con dế sẽ thương nó hơn nữa, như nó đã thương con dế vậy, bảo đừng gáy là không gáy để bố khỏi la, bảo lên bàn tay là từ cái hang nhỏ trong hộp bích quy bò ra rồi bò lên bàn tay liền, không cần phải ngoáy, phải nhử, lỡ gặp người lớn, chưa kịp bảo là nhảy tọt vào túi áo của nó ngay. Nhưng nó rất sợ cái đầu, cái cổ, cái mỏ quá lẹ của con gà trống. Có một lần nó đem một hộp dế để cạnh lồng gà định ngoáy ngoáy cho con dế gáy xem thử con gà có hoảng không. Phặp một cái, con dế lai đó đã nằm quay đơ trong mỏ con gà trống. Cho nên nó không bao giờ dám đem con dế lửa tới gần lồng gà, dù nó cũng khoái ngắm nghía gà.
Mẹ nó đưa ý kiến:
“Để mẹ đem hộp dế ra để sau hè là yên chuyện. Đỡ ồn nhà.”
Nó không chịu. Lỡ bị ăn cắp. Lỡ gặp kiến đùn. Cuối cùng mẹ nó để hộp dế lên trên gác lửng gần mái nhà. Tiếng gáy nghe xa hơn.
Một hôm khác bố gọi nó đến:
“N.! Con chơi dế sa đà. Bỏ cả học hành.”
Vì con dế, nó cố gắng để ý đến bài vở hơn để khỏi bị la là bỏ cả học hành. Nó cảm thấy học hành có "tấn tới" nhiều, chỉ tiếc rằng cô Lộc và bố chưa nhận ra cái giỏi kín đáo ấy của nó.
Một buổi chiều đi học về, như mọi khi, nó bắc ghế trèo lên gác lửng lấy hộp dế xuống, lòng hân hoan sắp gặp lại người bạn thân. Mở hộp ra, nó lấy nhử ngoáy vào miệng hang. Con dế hôm nay lì, nó ngẫm nghĩ, chưa chịu thò đầu ra. Nó ngoáy ngoáy tiếp, thọc cái nhử vào sâu hơn. Vẫn im hơi. Tim nó đập mạnh. Nhử một hồi lâu vẫn không ăn thua. Nó muốn khóc. Con dế đã chết? Nó lấy mũi dao cẩn thận nạy ra từng cục đất nhỏ ở miệng hang. Dần dần phá hết cái hang vẫn không thấy tăm hơi con dế. Nó khóc oà, chạy xuống nhà bếp. Mẹ đang làm cơm tối.
“Mẹ, mẹ. Con dế của con đâu?”
“Chắc nó bay rồi.”
Nó khóc to:
“Không, không, không phải.”
Bố từ nhà trên nghe ồn đi xuống. Mẹ thở dài. Bố nhìn nó, nó cúi mặt. Bố nghiêm giọng:
“N., chuyện chi đó nữa?”
Mẹ đỡ lời:
“Con dế của con nó bay rồi.”
Nó ấm ức:
“Không, nó không bay. Dế hay không bay. Dế dở ngoài cột đèn đường mới ưng bay.”
Bố bật cười. Ít khi bố cười:
“Thì nó không bay. Nó nhảy, nó phóng đi mất.”
Thằng bé nấc lên một tiếng, tránh cái nhìn của bố, nước mắt chảy xuống ròng ròng. Bố gắt:
“Cái thằng này...”
Bỗng, thật bất ngờ, bố dịu giọng:
“Bố không ưng con chơi dế đâu. Chiếm hết cả ngày giờ của con. Nhưng, thôi được, mất con này đi bắt con khác. Kiếm không ra con đỏ đỏ như vậy thì cứ việc ra ngoài chợ mua, thiếu giống gì cái thứ đó. Đây, bố cho mấy xu...Ra chợ mua con khác về chơi, nhưng chơi bớt bớt đi nghe! Để ngày giờ học hành.”
Nó cố nén tiếng nấc mà nén không nổi. Sức mấy có con dế nào bằng con dế đó. Nước mắt càng ràn rụa, mũi chảy thò lò. Nó đưa cánh tay định quẹt mũi, sực nhớ, khựng lại. Mẹ vội lấy khăn lau mũi cho nó. Nó cảm thấy lòng căm ghét dâng lên. Ghét ai đây? Ghét bố hay ghét mẹ? Hình như nó ghét mẹ nhiều hơn. Ghét mẹ dễ. Ghét mẹ mấy ngày cũng không sao. Bố thì khác.
Mùa dế rồi cũng qua đi, và chú bé không bao giờ tìm được chú dế lửa thân yêu. Nó ủ rũ nhiều ngày, nhiều tháng. Mãi về sau khi nó đã lớn khôn nhiều, con dế lửa mất đi vẫn để lại trong lòng nó một vết thương chưa thành sẹo, một nhớ tiếc không nguôi.
*
Những con dế than, dế lửa quả là những hình ảnh hết sức rực rỡ nổi lên trên khung cảnh quá êm đềm của Đà Lạt thời thơ ấu. Đà Lạt thơ ấu! Đúng thế, thời thơ ấu của chính Đà Lạt và cũng là thời thơ ấu của nó. Đà Lạt còn nhiều thứ khác nữa, như nó đã nói và nó sắp nói thêm, và lần nói thêm này nó xin được tóm tắt, “nó sợ làm nhàm tai người khác.”
Những con vụ bay vèo vèo trên các lề đường. Con vụ được đẽo từ sọot chỉ máy may, đẽo đi một vành thôi, một cây đinh giày "săng-đá" đóng vào chân vụ. Quay vụ. Khi con vụ sắp hết đà quay, dùng cây roi cán là chiếc đũa, phần dưới là sợi dây vải, quất mạnh vào vụ, phải biết cách quất, thế là con vụ lại quay xoắn tít, lại tiếp tục bay. Cũng trên những lề đường đó, tụi nhỏ chúng nó tụm năm tụm ba lấy đất sét hòa với nước nhồi nặn thành những cái cốc đáy mỏng nhưng thành dày, và vừa nặn xong, cốc đang còn ướt dẻo, trở úp miệng cốc nện mạnh xuống đất, tạo nên tiếng nổ chát chúa. Đó là trò chơi "đốt pháo đất sét". Đất sét còn thừa chúng trộn muối vào nặn thành những hòn bi tròn lùi vào bếp tro hồng mai đem ra chơi, chơi bi đất sét tự làm lấy vui hơn bi chai mẹ mua. Hoặc nặn ống điếu, gắn cọng đu đủ tía làm cần, bắt chước ống điếu của "mọi cà răng căng tai". Có đứa nghịch ngợm ăn cắp thuốc lá thiệt nhét vào điếu đất sét hút. Ho sặc sụa. Trên nhiều đường phố, hồi đó ít xe cộ, ít người, tụi nhỏ tay cầm cán là chiếc đũa hoặc khúc cây ngắn, vừa chạy theo vừa đánh vào vành bánh xe đạp, hoặc vành thúng vành rổ, giữ sao cho nó lăn hoài.
Có lúc đang vui chơi bỗng thấy voi, thế là bọn chúng bỏ cả cuộc chơi để đi xem voi. Lâu lâu, chuyện này rất hiếm, thấy con voi đứng lại giữa đường iả một đống to tướng. Tụi nhỏ cho là gặp được điều may lớn. Mấy đứa lì lợm liền chạy đến giật lông đuôi voi. Voi đau quay người lại gầm lên, mọi trên bành voi la hét rùm beng, tụi nhỏ chạy té re. Nghe nói dùng lông đuôi voi xỉa răng, răng hết sâu. Đó là những con voi của người thượng đem dâng cho nhà vua trên đường đi qua khu phố của chú bé. Chúng chạy theo voi nửa đường rồi quay về tiếc rẻ, nhưng không đứa nào dám mạo hiểm chạy theo voi lên tận "ba-le" (Palais impérial, dinh vua Bảo Đại). Thằng bé lại càng không dám. Ham đi lêu lổng xa quá lỡ quên đường về sao! Chính bản thân của nó đã một lần khổ sở vì chuyện đó.
Một chủ nhật, như mọi chủ nhật khác, chị nó đi "bà xơ" cùng với tất cả học trò con gái khác trong lớp dù có "theo đạo" hay không. Đó là chuyện bắt buộc. "Theo đạo” có nghĩa là theo đạo Thiên Chúa, và "đi bà xơ" là đi đến một ngôi nhà thờ nào đó để được các bà xơ (soeurs) dạy bảo nhiều thứ như thêu thùa, nấu ăn, trồng rau, trồng hoa, ca hát, các môn thể thao, các bài giảng trong Kinh Thánh v.v... Học trò con trai thì đi “lu-vờ-tô” (louveteau, sói con). Học trò con gái khoảng ba mươi đứa sắp hàng hai đi bộ từ nhà trường qua nhiều dãy phố để đến nhà thờ. Sáng hôm ấy, chưa biết sẽ chơi món nào, nó bỗng nẩy ra cái ý chạy theo đuôi đoàn học trò con gái, có chị nó trong đó, xem họ làm gì. Lẽ dĩ nhiên nó chạy theo xa xa đằng sau, khỏi bị ai để ý. Đoàn học trò ra khỏi cổng trường quẹo trái đi một quãng ngắn trên con đường nhỏ lát đá, rồi quẹo phải đi trên con đường nhựa tiến về phía ngôi chợ to lớn của thành phố, tháp ngôi chợ có chạm hình mọi cà răng căng tai, rồi lại quẹo trái xuống một con đường vừa rất dốc vừa cong queo hai bên là các dãy phố để đến khu Cầu Quẹo. Những nơi này nó đều biết. Đoàn người tiếp tục đi, lách theo một con đường mòn nhỏ, băng ngang qua một khu vườn trồng la-ghim, tiến đến một con suối. Một chiếc cầu gỗ cong cong bắc ngang qua dòng nước chảy khá mạnh. Cầu nhỏ, bọn con gái phải từng đứa một đi qua. Nó đứng chờ khuất sau hàng cây "bông trắng" xanh tươi. Nó thầm nhủ hôm nào mình sẽ trở lại đây chặt cây bông trắng đem về làm nạng ná bắn chim. Nạng bông trắng không bền bằng nạng cành ổi nhưng cân đối và dễ uốn. Khi mọi người đã qua hết cầu, sắp hàng hai trở lại, tiếp tục đi khá xa, nó chạy nhanh qua cầu rồi lẽo đẽo đi theo.
Nó bắt đầu chột dạ. Liệu chốc nữa có nhớ đường về hay không? Cảnh vật chung quanh lạ lùng, ghê ghê. Đoàn người đi băng ngang một con đường cái trải đá, lại theo một con đường mòn hai bên cây cối rậm rạp, lên một con dốc khá cao để đến một con đường cái khác chắn ngang. Về sau lớn lên, nó biết đó là đường Thi Sách gần cư xá Đờ-Cu (Cité Decoux). Rồi họ rẽ sang phải. Nó đi đằng sau xa, lòng hồi hộp, ngớp ngớp nhìn theo đoàn người rồi vô tình nhìn chệch qua phía trái. Sau mấy rặng thông rậm rì, xanh ngắt, là những tòa nhà ngang dọc tường trắng xóa, mái ngói đỏ loét, không một bóng người, hiện lên chấp chới trong ánh nắng sớm. Nó thấy cái dáng lạ lạ, quen quen. Bỗng nó rụng rời. Đúng là nhà thương và nhà xác mà tụi nhỏ thường thì thầm nhắc đến. Nó quay người định chạy lui nhưng sợ lạc đường. Nó không dám nhìn qua phía trái nữa, cúi gầm đầu đi theo đoàn con gái. Đi thêm một quãng đường, họ rẽ sang trái, đi vào cổng một khu nhà thờ rộng lớn. Sau này nó biết đó là khu nhà thờ Saint Domaine de Marie. Nó cũng len lén đi vào cổng. Đoàn con gái cứ thế đi xuống tận dưới thung lũng vui chơi, múa hát, học hành cạnh một ngôi nhà thật dài có mái che nhưng không có vách, giống như cái prề-ô (préau), còn nó đứng lấp ló sau các gốc cây. Nó chờ mãi. Sao chị lâu về thế. Trời bỗng tối sầm, rồi mưa. Bọn con gái đi vào nhà. Nó tìm cách ẩn mưa dưới những cành cây lớn. Trận mưa không lâu nhưng nó cũng bị ướt như chuột lột và lạnh run. Nó khóc tấm tức. Sao mãi chị vẫn không chịu về. Nó đói meo. Cuối cùng, chắc là đã chiều rồi, mọi người sắp hàng hai ra về, nó lại chạy theo đằng sau xa, lòng lo lắng nghĩ đến trận đòn đang chờ nó. Chắc chắn bố không thể nào tha thứ cho nó cái tội đi lêu lổng suốt ngày. Từ đó nó không bao giờ dám đi đâu xa một mình.
Nhưng coi voi vẫn không thú bằng coi "mọi về". Lâu lâu, nó không nhớ trong bao bao lâu, người Thượng không biết từ những ngọn núi nào kéo nhau về rần rần. Một đoàn người thật dài đi tỉnh bơ ngay trên đường cái chứ khỏi cần phải đi trên lề đường để tránh xe kéo, xe ngựa, hoặc xe hơi. Hồi đó ít xe hơi lắm. Đoàn người đông hơn toán con gái "đi bà xơ" nhiều, già trẻ lớn bé đều có đủ, đúng là mọi "cà răng căng tai", răng cà sún sát nớu, trái tai đàn bà con gái căng to bằng miếng gỗ dẹp tròn lớn bằng miệng ly uống nước, lủng la lủng lẳng. Lại có cả heo, chó, gà mang theo, ốm nhom. Đàn ông chỉ đóng chiếc khố, da của họ trông dày cộm và đen thui, lưng mang gùi, tay cầm roi mây, xà gạc. Tụi nhỏ bảo nhau trong rừng cây cối rậm rạp không thể nào đi được một bước nếu không dùng xà gạc dọn đường, còn roi mây là để đánh cọp. Cọp không biết đau nhưng sợ tiếng gió phát ra từ cái roi, "ông anh" bảo thế. Đàn bà thì ở trần, mặc váy đen vằn trắng, cũng mang gùi hoặc mang em bé sau lưng. Oai hơn cả vẫn là những người lè kè trên vai chiếc nỏ, để ló ra sau gùi cái ống tre đựng tên nhọn. Tụi nhỏ lại bàn bạc rằng nỏ và tên để săn voi, tức là con thú rừng to nhất, mạnh nhất, khôn nhất và dữ nhất, khác hẳn những con voi tuy cũng mạnh nhưng rất hiền của nhà vua. Mũi tên tuy nhỏ nhưng rất "lợi hại", rất độc, trúng voi voi chết, vì được ngâm trong "nước miếng buổi sáng" để lâu ngày. Cô giáo bảo nước miếng buổi sáng độc lắm, mỗi sáng phải đánh răng để tẩy độc đi.
Tụi nhỏ trố mắt nhìn đoàn mọi đi qua cho hết rồi đi theo xem thử họ sẽ đi đâu. Thì ra mọi đi chợ. Họ bán heo, gà, bắp, kê, mật ong, thịt rừng, móng cọp, nanh heo rừng v.v...và mua gạo, muối. Họ biết xài tiền nhưng không biết đếm. Chẳng hạn họ bán ba cắc một con gà thì họ nói con gà này giá một cắc, một cắc, một cắc, vừa nói vừa chìa một ngón tay thôi, chìa ra làm ba lần. Họ không chịu bán chó. Xong họ ngồi chiếm hết những bậc tam cấp của chợ, mỗi người lấy từ trong gùi một cái đãy dài làm bằng lát cuốn tròn đựng cơm nguội và mắm, lắc lắc đổ ra bàn tay vắc lại thành cục cho vào miệng ăn ngon lành. Ăn xong, họ đến những vòi nước máy công cọng kê miệng uống, rồi lấy ống điếu cần thật dài mồi lửa hút thuốc. Có người mua chai nước ngọt uống một ngụm, rồi tới vòi nước máy châm thêm cho đầy đưa cho người khác uống, người đó cũng uống một ngụm lại đi lấy nước máy châm thêm, cứ thế uống mãi không hết một chai. Không đầy một tiếng sau đó họ đã lục tục kéo nhau đi cùng những con chó ốm nhom. Bọn nhỏ đi theo. Chúng nó rất lấy làm lạ khi thấy đoàn mọi không trở về con đường cũ. Hình như họ đã bỏ rừng cũ, định đi đến một vùng núi rừng huyền bí nào khác nữa. Bọn chúng chỉ đi theo vài chặng đường rồi đành đứng lại nhìn theo tiếc ngẩn ngơ. Quay trở về chúng tha hồ vẽ ra trong đầu không biết bao nhiêu là cảnh rừng rú núi non âm u ghê gớm.
Những ngày sau đó, mỗi lần nhớ đoàn mọi, tụi nhỏ lại đi lên mấy cái gò cây cỏ mọc hoang rậm rạp cầm ná cao su làm bộ đuổi theo heo rừng tưởng tượng, gặp chim sâu nhỏ xíu bằng ngón chân cái là cùng nhau chỉa ná bắn, trúng, không biết ai bắn trúng, tranh nhau nhổ lông, xẻ bụng kiếm lửa nướng lên chia nhau ăn, đứa cái cánh, đứa cái đùi, đứa cái đầu, đứa cái lưng, nhai ngang xương, không bỏ một chút nào. Ăn xong đi kiếm trái mác mác làm món tráng miệng, bóp nhẹ đủ bể làm hai làm ba kêu rốp rốp để lòi cái ruột màu tím gồm một lớp hột trong trong như hột é ngâm nước, ngọt, chua, hăng hăng mùi rừng. Có khi hái được những trái mâm xôi đỏ thắm nằm từng cụm trong đám lá nhám xanh dày cộm to bản. Hoa dại thơm mọc rất nhiều, và cũng có nhiều bướm cánh đủ màu rực rỡ, nhưng chúng nó thích cỏ gà hơn. Trên gò cỏ gà tươi tốt, bặm xị, chúng tha hồ nhổ từng nạm thắt thành nút đá nhau. Chơi trên gò chán lại kéo nhau lên một con dốc gần nhà bưu điện trèo lên mấy cây to mọc hai bên đường hái những trái màu trắng ngà nhỏ như đầu ngón tay mà người ta gọi là trái xa lị, ăn thấy vừa ngọt, vừa chua, vừa chát. Xong rủ nhau đến trước mặt nhà của cái thằng ở cuối phố bẻ đọt hoa hồng bụ bẫm tướt lớp vỏ xanh bên ngoài, ăn cái thân non mềm mại ngọt lợ lợ. Hoặc đến nhà một thằng khác có mở quán bán đường đen coi ong ruồi bay rà rà trên mặt cửa kính thỉnh thoảng nhểu ra giọt mật. Tụi nhỏ ngồi chờ ong bay qua khung cửa kính khác, rồi tranh nhau thò ngón tay quẹt mật ong cho vào mồm mút.
Ăn gì cũng thấy ngon, nhưng cái ao ước tha thiết nhất vẫn là cơm nguội với mắm cá mòi đựng trong cái đãy làm bằng lát lấy ra vắt trong nắm tay cho vào miệng nhai ngon lành. Phải chi mình là mọi để được ăn như thế!
III
Đà Lạt và tuổi thơ ấu của nó cứ thế trôi qua cho đến một ngày đầu mùa mưa, đầu mùa đá dế, năm 1945. Thật ra những năm tháng trước đó cũng có một số biến động mà nó chẳng hiểu đâu vào đâu. Chẳng hạn bỗng dưng xuất hiện những đoàn quân Nhật trông dữ dằn, nói năng toàn cái giọng nạt nộ. Bọn Tây trước kia dữ không kém, nhưng đến lúc đó lại đổi tính, "hiền từ ra phết", chữ của mẹ. Rồi "đùng một cái", cũng chữ của mẹ nó, Nhật làm sếp, Tây biến đi đâu mất cả, và nó được nghỉ học mấy ngày. Rồi một buổi sáng chủ nhật nó xin phép bố cho lên chơi với thằng bạn học ở trên Cây Số Bốn. Nó lên đó bắt dế. Mấy mùa dế đã qua mà nó không tài nào kiếm cho ra một con dế thật hay. Nó ngồi bệt xuống đất nhớ con dế lửa thân yêu ngày nào. Bỗng nhiên nó thấy chị người làm từ xa hớt hơ hớt hải chạy tới kêu nó về nhà gấp. Nó đứng dậy theo về lòng bồn chồn lo lắng. Rồi từ lo lắng đến hết ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Trên nhiều con đường, đường cái, đường đất, đường mòn, đường dốc, dưới thung lũng, trên sườn đồi...đổ về thành phố, lũ lượt những đoàn người đi hàng một, tay cầm dao, rựa, xà beng, gậy. Có cả mọi cầm nỏ trông oai nhất. Hai bên đường, trước cửa mọi nhà, bày ra những thúng cơm vắt, thịt kho, muối mè. Vài người ghé tạt vớ nắm cơm, miếng thịt rồi vội chạy theo cho kịp đoàn người. Về đến nhà nó cũng thấy cơm vắt, thịt kho mẹ nó bày ra trước cửa từ hồi nào. Sau đó nó được biết ta đem quân đi vây Nhật ở Nhà Đèn. Phải có lương thực đầy đủ để đi “đánh giặc”. Đánh nhau hai ngày thì phải, ta chết mất mấy người; Nhật bên trong Nhà Đèn chết nhiều hơn, người ta bảo thế, nhưng vẫn cứ lì lợm không chịu trả Nhà Đèn cho ta.
Nó không biết cuộc chiến về sau kết thúc như thế nào, chỉ thấy bố và vài người bạn thân thường nhỏ to chuyện trò một cách bí mật. Nó rất tò mò muốn biết có chuyện gì, mon men đến gần nghe lóm thì bị bố đuổi "đi nơi khác chơi!" Thế mà có một lần nó nghe được lõm bõm vài câu:
"Hết tuần lễ vàng tới tuần lễ bạc, sắp kiệt quệ rồi. Anh còn chịu nổi nữa không?"
"Không chịu nổi cũng phải ráng chịu, ai sao mình vậy."
"Lại còn cái chuyện này, tại sao không gọi ông ấy là ông Minh mà gọi là cụ Hồ. Nghe nói ông ấy chưa già mấy mà. Trẻ hơn ông anh của tôi đó anh!"
Nghe được chừng đó nó lại bị đuổi đi nơi khác chơi.
Sau đó có lệnh tạm đóng cửa trường. Bố mẹ lo âu “xoắn vó”. Gia đình nó "lên đường chạy giặc”. Bố mẹ chị và nó cùng với tất cả những gì có thể mang theo đều được chất đầy một chiếc xe ngựa tháo chạy. Một dây thừng buộc vào cổ một con ngựa khác theo sau để luân phiên tiếp sức cho con ngựa kéo đằng trước chạy trên những con đường rất dài. Nó bé dại ngu ngơ - bạn học cùng lớp đều lớn hơn nó ít nhất vài tuổi cũng thường bảo nó ngu - chẳng hiểu tại sao khi không lại bỏ nhà mà đi. Hình như người ta sắp đánh nhau thì mình phải chạy đi nơi khác mà người lớn gọi là tản cư. Thế là được nghỉ học một thời gian, tốt quá. Có lâu bằng nghỉ hè hay không, nó băn khoăn. Chiếc xe rời bỏ ngôi nhà, giã từ Đà Lạt lúc trời chưa sáng, hướng về phía Trại Mát, Cầu Đất. Bố mẹ khác hẳn mọi ngày, ít nói, không vui, chị thì cũng có vẻ muốn im lặng, chú đánh xe lầm lì, chỉ một mình nó sung sướng.
Nhưng vui sướng hơn cả nó là con Ba Tô, một "nhân vật" rất quan trọng đối với nó, có thể một phần nào thay thế cho con dế lửa đã “bay” đi đâu mất mấy năm rồi. Đó là con chó mới lớn, có bộ lông láng lẩy, phần lông hướng lên trời thì đen, hướng xuống đất thì vàng, nghĩa là lưng đen, bụng vàng, mỏ cũng dài, hơi nhọn, hai tai cũng nhọn và dài và đứng thẳng, mà cái lưỡi cũng dài luôn có chấm chấm mấy cái bớt đen, bốn chân thì khỏi nói, dài hơn cả cặp giò của nó, thân hình và cái đuôi lại cũng dài dài, và rất đặc biệt là đuôi nó thẳng ro chứ không cuốn tròn như đuôi con chó vàng hàng xóm - những chi tiết ấy khắc sâu vào trí nhớ bé thơ của nó.
Lúc mới gia nhập vào gia đình nó, con Ba Tô bé như con heo con, được nó bồng đi chơi quanh vùng. Nhưng con chó khôn lớn nhanh hơn nó nhiều, chỉ một thời gian ngắn, ngắn là bao ngắn nó không nhớ, đã biến thành con ngựa cho nó cưỡi trên lưng. Con ngựa không yên cương, không biết ăn cỏ, mà chàng kỵ sỹ thì không đeo cung, không mang gươm, nằm dài trên lưng ngựa má áp sát vào lớp lông cổ mịn màng nghe mùi là lạ, hôi hôi, thơm thơm, hai tay ôm chặt lấy cổ ngựa, hai chân quắp cứng vào bụng ngựa. Thế mà ngựa vẫn có thể chạy được mươi bước. Kỵ sĩ tí hon và con ngựa Ba Tô quấn quýt nhau, chơi đùa nhau.
Thường lệ thì hễ cả nhà đi đâu, bố đều khóa trái hai cánh cửa lớn, con Ba Tô ngoan ngoãn ở lại giữ nhà. Sáng hôm tản cư con Ba Tô trở chứng. Nó chạy ra vỉa hè sủa dăm ba tiếng, rồi chạy vào nhà ngửi chân người này, hít tay người nọ, liếm mặt nó, rồi chạy ra ngoài hè sủa tiếp. Cứ thế mấy chục lần. Mà sủa khơi khơi thế thôi, chứ có người nào đến đứng lảng vảng trước cửa nhà mình rình rập dòm ngó đâu. Cuối cùng khi đồ đạt đã chất lên xe xong, bố định đóng cửa khóa lại, con Ba Tô nhất định không chịu chạy vào nhà nữa. Thằng bé hiểu ngay nói với bố Ba Tô cũng muốn "tản cư". Bố như sực nhớ ra bảo thế là phải lắm, bố quên khuấy đi mất, phải cho Ba Tô đi theo với chứ. Nó muốn cho con Ba Tô lên xe, nhưng bố lừ mắt. Mẹ nói nhỏ vào tai nó, không được mô con, người ta con thấy đó còn phải gánh gồng chạy bộ, mình chở chó coi mô được. Nó không đồng ý nhưng đành tạm chịu thua cái đã.
Chiếc xe ngựa quá nặng nề, cồng kềnh, có thêm “con ngựa xơ cua” chạy theo sau. Trong xe hết chỗ thì treo lủng lẳng hai hông xe đủ thứ hăm bà lằng. Xe không thể chạy nhanh, cho nên Ba Tô không những đuổi theo dễ dàng mà còn thừa sức tung tăng chạy rẽ ra nơi này nơi khác dòm dòm ngó ngó, ngửi ngửi khịt khịt, rồi co một cẳng sau lên đái tỉnh bơ. Thấy Ba Tô lần đầu tiên được đi xa nhà chạy nhảy loạn xạ, thằng bé đâm lo, năn nỉ:
"Bố ơi, ngừng xe lại bắt con Ba Tô lên để con ôm nghe bố. Con sợ nó chạy mất."
Bố hơi gắt:
"Không mất đâu. Chó không bao giờ lạc đường. Cứ để nó chạy theo như rứa là được rồi."
Thằng bé không dám nói thêm. Nó không hiểu tại sao con Ba Tô đái nhiều quá thế. Hở một chút là đái một chút. Chút ít thôi. Đái vào cột đèn đường, vào gốc cây. Có khi đái cả vào thềm nhà, tường nhà người ta, bị người ta đuổi, co giò chạy tiếp. Nó hỏi, bố bảo Ba Tô đi đường xa thì đái rắc. Nếu là trước kia, nó còn hỏi nhiều, chẳng hạn đái rắc nghĩa là gì, tại sao bây giờ nẫy ra cái kiểu đái mới mẻ ấy, chứ thường ở nhà lâu lắm con chó mới đái một trận dài. Thằng bé thường dẫn con chó đi ỉa đi đái nên biết rõ điều ấy hơn ai cả. Nhưng buổi sáng hôm đó bố mẹ, và cả người đánh xe ngựa đều khó hiểu, có vẻ như không ưa nó nói lý láu huyên thuyên, nó đành câm miệng. Ngồi lắc lắc, giật giật trên xe thật đã, lại được nhìn cảnh lạ đường xa, nhưng mắt nó không quên chăm chú dõi theo từng điệu bộ của Ba Tô mà lòng vừa lo âu vừa vui sướng lây.
Một lần khi xe chạy ngang qua một tòa nhà lớn, sau này nó biết đó là Nhà Ga Đà Lạt, rồi trèo ì ạch lên một trái đồi nhỏ thông xanh trùm đến ngọn, rồi đổ nhanh xuống một thung lũng cây cỏ um tùm, nó không thấy tăm hơi của Ba Tô đâu cả. Nó đứng lên ngồi xuống không yên trên chiếc gối dày cộm mẹ dành riêng cho nó, mắt thì bắt đầu cay sè, môi run run. Chị nó liếc thấy bực mình bảo nó đừng mu khóc, đừng són nước đái ra đó, dị lắm. Thì may quá, Ba Tô vụt phóng ra từ một lùm cây, miệng đang ngoạm một con gì đó, chắc là con chuột bự, hay con thỏ rừng, hay con chồn. Chỉ loáng một cái, con Ba Tô đuổi kịp xe, lại còn dư sức chạy qua mặt một đoạn, rồi đứng lại ngoảnh đầu, vẫy đuôi, chờ. Trên những con đường lạ hoắc, Ba Tô cứ thế khi có khi không, khi còn khi mất, chơi trò cút bắt với nó. Quả thế, mỗi khi con chó xuất hiện, mắt chó và mắt nó luôn luôn gặp nhau. Vui quá! Nhiều lần Ba Tô mất dạng khá lâu, nó quýnh lên, bố lại nhắc con Ba Tô ham đuổi chim đuổi chồn, không sao hết.
Đi hơn nửa ngày xe dừng ngựa đổi, con ngựa chạy theo sau được cho ra đằng trước, và ngược lại. Cơm nắm, muối mè, tôm kho, thịt kho được mẹ mang bày ra ăn. Ngựa cũng được tháo dây cương cho gặm cỏ ven đường. Mọi người ăn uống vội vã cho qua bữa. Bố tuy lặng lẽ nhưng không giấu được nét lo âu, mẹ trông như một tảng nước mắt sắp vỡ òa, chị không lớn tuổi hơn nó nhiều nhưng vẫn giữ bình thản, chú đánh xe vẫn lầm lì như hồi sáng. Riêng nó nhiều lúc hoảng hốt thấy rõ. Hoảng hốt không phải vì chạy giặc, mà vì không thấy Ba Tô đâu cả. Người ta còn đi lạc nữa là. Nó từng bị lạc đường đến nửa ngày khi đi bắt dế trên Cây Số Sáu hè năm ngoái. Huống là chó, nó nghĩ thầm.
Cả nhà, tuy không ai nói ra, đều có ý chờ Ba Tô. Chờ lâu quá không thấy. Nắng đã chiếu nghiêng nghiêng, buổi chiều chưa tới, mà núi rừng bắt đầu lạnh. Sương từ mặt đất dâng lên làm khó thấy những ngọn đồi gần. Đồi xa thì chịu thua, chìm nghỉm trong mù. Núi cũng vậy, vì núi còn xa hơn nữa. Vài ba chiếc xe ngựa tản cư chở đầy người và đồ đạt chạy trên cùng con đường đã qua mặt chiếc xe chở gia đình nó.
“Coi tề, ai nấy đều hớt hơ hớt hải như con gà mở cửa mả. Mấy người trên những chiếc xe ngựa kia cũng như trên xe mình, trừ chú bé ra”, chú đánh xe thì thầm vào tai nó nói thế.
Chẳng hiểu gì cả, nhưng đoán đó là lời khen, nó càng thích chí. Bỗng nó thấy từ xa một người gánh một gánh tới. Đó là người đàn bà gầy gò trong chiếc áo len màu nâu cũ rích có nhiều lỗ thủng, đi chân đất, oằn lưng dưới cái đòn gánh cong như vòng cung, một đầu gánh gồm nồi đất, bịch gạo, mấy củ khoai, mấy trái chuối, áo, quần, mền, chiếu, và những thứ khác mà nó không biết là cái gì, đầu kia, trong cái thúng lớn, hai đứa bé nhỏ hơn nó nhiều ngồi đâu lưng vào nhau, lem luốc, khóc nhè, mũi thò lò thụt vô lòi ra như hai con sâu rọm. Người đàn bà lần từng bước đi ngang qua, tay trái đè lên phần trước của chiếc đòn gánh cong vòng, tay phải vói ra đằng sau níu chiếc gióng lên. Hai cái thúng quá nặng, đu đưa, khiến người đàn bà đi cà giựt, cà giựt. Mấy chị người làm đêm đêm sắp hàng hứng nước nơi cái vòi máy nước công cộng gần nhà nó, nó nhớ, gánh hai thùng nước đầy mà vẫn đi một cách nhẹ nhàng, nhịp nhàng. Vậy thì cái gánh của người đàn bà này chắc nặng hơn nhiều, nó đoán. Chú đánh xe ngựa bỗng dưng hết lầm lì, ngứa miệng la to:
"Mới ra khỏi nhà hả? Bỏ bớt đồ đi, đừng ham hố."
Người đàn bà làm như không nghe, tiếp tục bước. Chú đánh xe tự nhiên cười lãng xẹt:
"Có bỏ bớt đồ tui cũng không thèm lượm đâu mà sợ. Chị thấy đó, xe tui đã đầy ứ rồi. Tui biết trước sau cũng phải bỏ bớt đồ lại. Bỏ trước khun hơn bỏ sau."
Người đàn bà quay đầu nhìn. Chú đánh xe nhe răng cười nham nhở:
"Tui dám cá giỏi lắm là lết lên nửa cái dốc đằng kia chị bỏ lại hết. Con cũng bỏ luôn cho mà coi."
Chú đánh xe vừa nói dứt, người đàn bà đột ngột đứng lại, hạ đôi thúng, quăng mạnh cái đòn gánh qua một bên, ngồi bệt xuống đất, quắt mắt nhìn chú một cách dữ dội. Rồi cúi đầu ôm mặt. Hình như khóc. Hai đứa con nít có lẽ bị thốn đít vì cái thúng đụng đất mạnh quá, khóc ré lên như vừa bị ai nhéo. Chú đánh xe đến thế mà cũng chưa chịu tha:
"Quay về nhà cho rồi. Tui nói thiệt, không ai thèm ngó tới chị đâu mà sợ."
Tự nhiên mẹ đưa tay ôm lấy ngực, rồi nước mắt chảy ướt hai bên má, khóc không ra tiếng. Nó ngơ ngác nhìn mẹ. Bố bảo mẹ mau nước mắt. Nó thì đoán bệnh khóc là bệnh hay lây, bệnh đái cũng vậy, tụi nhỏ thường bảo nhau thế, "bệnh đái là bệnh hay lây - thấy thằng khác đái mình bày chim ra". Thấy hai đứa con nít khóc, mẹ khóc lây chứ gì. Bố thở dài bảo tất cả lên đường. Nó vội nhắc cho bố biết con Ba Tô chưa chạy theo kịp mà. Bố nghiêm mặt. Thế là nó riu ríu trèo lên xe, cố cầm nước mắt, sợ chị chọc quê, sợ bố bạt tai. Mẹ nó buồn bã nhìn nó, đứng về phe nó, nó biết, nhưng không hiểu sao mẹ vẫn im lặng không chịu nói giúp cho nó một tiếng. Biết đâu có mẹ nói bố sẽ bằng lòng chờ con Ba Tô. Nó nghĩ thầm hễ có rừng núi là có ma quỷ, rắn rít, cọp, voi, đười ươi, và nhất là sư tử, mạnh và dữ hơn chó nhiều. Ở trường cô giáo dạy sư tử là chúa sơn lâm. Chứ đâu phải chỉ có hươu, nai, chồn, thỏ. Thôi, thế là rồi đời con Ba Tô. Nó bắt đầu cảm thấy tản cư không vui như nó tưởng.
Xe chạy lóc cóc mãi cũng tới được Cầu Đất. Dừng lại nghỉ. Đồ đạc được chuyển từ xe ngựa vào một ngôi nhà chật ních. Gia đình nó ở lại đó một hôm, hôm sau chuyển đồ đạc lên xe vận tãi, bỏ lại xe ngựa, chạy tiếp. Qua khỏi Dran, Krong pha, Tuộc Chàm (Tour Cham - Tháp Chàm), đến Phan Rang lại nghỉ.
Bố mẹ và cả chị trông hốc hác, phờ phạc, và mệt nhoài vì những đống hành lý, chỉ có nó con nít không làm gì được, mà cũng không được đứng xớ rớ vướng tay vướng chân ngươì ta. Nó bị bỏ quên, đi thơ thẩn một mình suốt buổi. Có khi buồn quá, nó chạy tuốt ra bờ sông ngồi vọc cát. Cát trắng đâu mà nhiều thế, khác hẳn ở bờ hồ Đà Lạt, gió cũng nhiều. Gió thổi cát vào mắt xót. Nó chảy nước mắt vì cát và vì khóc. Và nắng gắt làm rát da mặt, da lưng.
Ở Phan Rang được mấy ngày, lại lên xe tãi đi đến thành Diên Khánh gần Nha Trang. Chú thím họ sinh sống tại vùng này ngỏ lời mời gia đình nó ở lại trong bao lâu cũng được, khi nào yên yên sẽ tính chuyện trở về Đà Lạt. Nhà rộng, vườn dừa um tùm, tiếng quết chả dòn dã suốt ngày, chú thím làm chả lụa bán, mấy con heo trong chuồng ụt ịt luôn miệng nghe lạ và vui tai, gà, vịt thì từng đàn, lại thêm mấy con ngỗng to đẹp trắng phau phau ngúc ngắc cái cổ dài ò à ò è dọa nó. Nó bớt hoang mang, nó bớt buồn. Nhưng bố từ chối lời mời của chú, nói rằng chỉ ở lại ít hôm rồi về Huế.
Ủa, Huế sao? Thế là bỏ Đà Lạt đi luôn? Tại sao thế? Tại sao về Huế? Cái xứ Huế ghê gớm, huyền bí đó, nó có biết, hiện lên như một đám mây mù rất xa trong trí nhớ của nó - những chuyến về Huế ăn Tết, ăn giỗ, đám ma, đám cưới, về thăm ngoại, đi bằng xe lửa, đến ga Tháp Chàm đổi xe, vào lúc giữa khuya, những người đàn bà Hời mặc áo dài trắng, chít khăn đen, đầu đội những chiếc vò cao nghều nghệu, đi lui đi tới dọc theo đường rầy trông giống ma.
Chú bảo đang đánh nhau lớn ở Nha Trang, không thể theo đường quốc lộ để ra Huế được. Thỉnh thoảng nó nghe tiếng nổ như trời gầm từ xa vọng lại, nghĩa là có đánh nhau lớn như chú nói? Mình đánh Nhật như hồi đánh Nhà Đèn Đà Lạt? Hay mình đánh ai? Hay ai đánh mình? Mà sao lại đánh nhau kỳ cục thế? Gia đình nó và biết bao nhiêu người khác chạy tán loạn vì người ta đánh nhau. Mà sao lại đánh nhau dai vậy, sao không đánh nhau vài ngày rồi thôi như hồi ở Đà Lạt. Ầm! Ầm! Ầm! Ghê khiếp quá! Bố bảo đó là tiếng súng đại bác. Nó thầm nghĩ trúng đạn đại bác là “tử trận.”
Một buổi chiều, nó thấy nhiều xe tải chở đầy những người lính trẻ tuổi gầy còm, tay ôm súng, đầu đội nón ca-lô bằng vải hoặc bằng giấy, mặt mày lầm lì, nước da xanh xao, đôi mắt xa xôi, hơi buồn buồn thì phải, từ đâu ghé đến thành Diên Khánh đậu lại choáng hết mấy khúc đường. Các anh lính nhảy xuống xe ngồi bệt xuống đất duỗi thẳng cẳng, lưng dựa vào phên tre, tường vôi của những căn nhà dân cư quanh vùng, súng gác trên chân, lấy cơm vắt, bánh tráng, bánh tét, bánh ú từ trong những gói bằng lá chuối ra ăn. Có anh quên ăn ngồi ngủ gà ngủ gật. Chỉ trong giây lát, đoàn xe lại rồ máy ầm ĩ, rồi những tiếng còi “tu huýt” rít lên nghe muốn xốp phổi. Các anh lính trẻ lại ôm súng nhảy vội lên xe. Anh nào nhảy lên không nổi thì đã có những anh đứng trên xe lôi lên lẹ làng. Đoàn xe chạy về phía có tiếng súng đại bác đang vọng lại từng hồi ghê khiếp. Họ liều mạng đến thế à? Lỡ đạn đại bác bay đến trúng họ? Lỡ “tử trận” như con dế bị cắn lòi ruột? Nó sợ. Nó hoang mang. Nó cảm thấy thương xót đoàn quân đó quá. Nó ngẩn ngơ nhìn theo cho đến khi chiếc xe cuối cùng của đoàn xe chạy khuất sau hàng dừa đứng đu đưa ở một khúc đường quanh, chạy xông vào những tiếng đại bác ầm ... ầm ...ầm, tung lại đằng sau những đám bụi mù mịt.
Chú nói muốn ra ngoài nớ thì phải đi bọc đường rừng, nghĩa là phải đi ngược chiều với đoàn quân đổ về phía Nha Trang, rồi sẽ đến ga Lương Sơn nằm nép bên bờ biển. Đi bằng cách đó may ra còn xe lửa đi tiếp ra Tuy Hòa, Quy Nhơn ...
Ngày hôm sau gia đình nó lại lên đường, thuê người gánh gồng hành lý đi bộ ra Lương Sơn theo lối đường rừng. Nó lẽo đẽo chạy theo muốn hụt hơi.
Đến ga Lương Sơn có xe lửa. Ban ngày đoàn tàu nằm dài nghỉ dưỡng sức trên con đường rầy vắng. Hành khách đông, đông quá, đều được lệnh tìm chỗ trốn dưới các lùm cây rậm hoặc hang, hố quanh đó. Đêm đến mọi người lại được cho trở về các toa, chen chúc nhau, chồng chất lên nhau. Và đoàn tàu lò mò chạy tiếp. Nghĩa là ban ngày sáng sủa thì nghỉ, ban đêm tối tăm thì đi, nó thấy thật là ngược đời. Sau nó mới biết làm như thế để tránh máy bay thả bom. Lúc đó nó càng nhận ra rằng tản cư không sung sướng chút nào cả. Trái lại là khác.
Nỗi khổ theo ngày tháng tăng thêm hoài như không bao giờ dứt, bắt đầu từ chiếc cầu thật dài bắc ngang qua sông Đà Rằng thuộc tỉnh Tuy Hòa. Chiếc cầu kinh hoàng! Chiếc cầu dài vô tận! Trong đêm tối đen, không đèn đóm, không còi tàu, cửa đóng kín bưng, mọi người không ai dám hó hé một tiếng, đoàn tàu nín thở chạy qua cầu. Đông nghẹt cả người và đủ thứ hành lý, đồ đạc, đoàn tàu quá tải như không lết nổi, máy móc như đều rủ liệt, rù rù lăn bánh trên chiếc cầu rung rinh. Thì ra một khúc cầu bị bom thả sập mấy hôm trước, được nối tạm, không biết có chịu nổi sức nặng của đoàn tàu hay không. Lỡ cầu sập, chắc là mọi người đều chết, trong đó không chừng cũng có bố mẹ và cả nó nữa. Nó bắt đầu thấy sợ. Mọi người cũng sợ, không ai bảo ai đều chắp tay lầm rầm khấn vái. Nó cũng bắt chước chắp hai bàn tay lại. Nhưng đó là chuyện nó chưa muốn nói đến nhiều.
*
Gia đình nó trải qua nhiều gian lao cuối cùng cũng tới được chốn quê hương mà nó dần dần cảm nhận một phần nào những nét đẹp lạ lùng, và thần bí của cố đô, của đền đài miếu mạo rêu phong, u uẩn, của sông núi trông như những bức tranh thủy mặc. Một thành phố khốn đốn nhưng trang trọng và sang cả nằm co cụm như một ốc đảo bao vây bởi những làng quê xôi đậu ngập chìm trong khói lửa không bao giờ dứt. Nhưng hồi ấy nó chỉ biết đó là nơi nó được sinh ra, nơi trên giấy khai sinh ghi là chánh quán của nó, tầm mắt nó chỉ thấy được bàn thờ ông bà tổ tiên âm u hương khói, mồ mả lạnh lẽo đầy cỏ cú, cỏ may, sim dại nằm ven những chân đồi, chân núi. Và thấy rõ hơn hết là hình bóng của bà nội tóc bạc phơ, móng tay dài ngoằn cong queo, người héo quắt như thân chuối khô, sống "một mình chóc ngóc" trong ngôi nhà từ đường cũ nát, những tháng năm loạn lạc, đói kém, con cháu mỗi người đi một ngả. Bà nội giỏi chữ Hán, thỉnh thoảng đọc mấy câu thơ lạ. Và lạ hơn nữa bà nói bà đã quen sống với rắn, những con rắn lồng đục thủng những mắt ống tre để đuổi chuột, thỉnh thoảng buông mình từ sà nhà xuống lưng chừng gian nhà quạnh hiu, vắng teo, đu đưa cái đầu bóng loáng cùng cặp mắt thôi miên, nhìn bà.
Gia đình nó từ Đà Lạt tản cư về, bà nội vui hẳn lên. Nhưng ngày vui ngắn. Chẳng bao lâu gia đình nó, lần này thêm bà nội, lại kéo nhau chạy ra hướng bắc tản cư đến những làng quê thuộc tỉnh Quảng Trị khi mặt trận ở Huế vỡ. Nó nhớ mang máng vài nơi mà gia đình nó đã chạy tới như Ngô Xá, Mai Xá. Tiếp theo, thảm họa xẩy đến với gia đình nó. Cuối cùng nó lại hồi cư trở về quê hương chánh quán tang tóc, nghèo khó, chứ không phải về thành phố của những ngày thơ ấu. Bà nội sống còn sau lần chạy giặc ấy hồi cư về ngôi nhà từ đường cũ nay càng tiều tụy hơn, rắn lồng lui tới càng nhiều hơn. Những khi không thấy ai, bà tưởng thế chứ thực ra nhiều lúc nó tình cờ đứng quanh quẩn đâu đấy, bà lẩm bẩm, "rắn lồng lộn lạo thủy tinh lờ mờ". Bà nói gì vậy, lớn lên nó cũng chẳng hiểu. Khi học xong ở Huế, nó lại ra đi. Bà ở lại một mình rồi qua đời.
IV
Mười năm sau tôi trở lại Đà Lạt. Tôi đi từ Huế. Có người cho rằng sau một thời gian dài trở về nơi đã sống từ thuở thơ ấu ta thường thất vọng. Tầm nhìn xa hơn, hiểu biết rộng hơn, kinh nghiệm sống nhiều hơn sẽ làm mất mát đi rất nhiều điều mà ta trông chờ nơi quê cũ. Những nhận xét ấy liệu có áp dụng được vào trường hợp của tôi hay không?
Chiếc máy bay Bristol hai động cơ đáp xuống phi trường Liên Khương, hồi tôi còn bé tên của nó là Liên Khàng, vào buổi trưa có nắng, gió, và lạnh. Tôi bồi hồi xúc động. Tôi cảm nhận ra ngay rằng Đà Lạt muôn vàn thương nhớ bây giờ vẫn giữ được một cách rất kín đáo những nét hoang sơ ngày xưa, đồng thời đang tỏa ra biết bao nhiêu hương sắc, âm thanh, hình dáng mới. Thật ra tôi của những năm tháng ngu ngơ ngày xưa làm sao nhận ra được khuôn mặt lung linh, huyền ảo của thành phố cao nguyên này. Đà Lạt ngày xưa của tôi chỉ là thành phố của những mùa vui chơi hồn nhiên, thơ dại với hoa cỏ, núi rừng, của con dế lửa gáy vang lừng một buổi sáng mưa lâm râm, của con chó Ba Tô những ngày đầu tản cư hoang mang.
Chiếc xe hơi của hãng Hàng Không Việt Nam đưa tôi từ phi trường về trung tâm thành phố vượt qua những cánh rừng thông ngút ngàn, những thung lũng cũng thông xanh trùng trùng điệp điệp, vượt qua con đèo dài ngoằn ngoèo cũng thông và thông tràn ngập.
Tôi đi xuyên qua màu xanh phơn phớt của những cành thông non chìa tay ra làm thành vòm trên cao vẫy gọi, màu xanh thắm của những hàng thông mọc hai bên đường hân hoan đón mừng, màu xanh thẫm dần của những lớp thông chen chúc đằng sau xa nô nức chen nhau chờ đợi, hết lớp này đến lớp khác, những màu xanh đậm nhạt khác nhau chồng lên nhau, quyện vào nhau, dàn trải ra thật xa và thật sâu đến tận cuối tầm mắt. Tôi cảm thấy tôi biến thành gió mang theo hương thơm của hoa rừng cỏ nội, của những lớp vỏ thông khô, nhựa thông nâu, phấn thông vàng. Tôi cảm thấy tôi biến thành nốt nhạc hòa điệu trong những đợt âm thanh vi vu. Tiếng gì đó nhỉ? Vâng, tôi nhớ ra rồi - tiếng thông reo.
Hàng vạn, hàng triệu cây thông vừa mới chạy dồn về đây chen nhau đứng sẵn trước cửa ngõ Đà Lạt nghênh tiếp người trở về.
Xe đưa tôi đi dưới những ngọn nắng êm êm, những ngọn gió mát rười rượi, những vạc sương lác đác phủ mờ mờ trên nhiều chặng đường. Tôi đi sâu vào bầu không gian càng lên cao càng tinh khiết hơn, càng tỏa ra cái lạnh se se, xao xuyến đến bùi ngùi. Nước mắt rưng rưng. Nếu không có hành khách đi cùng xe, tôi khóc. Đi hết con đường đèo, thông thưa dần. Qua khỏi một ngọn dốc nữa, kìa, thành phố của tuổi thơ đây rồi, quen thuộc như đã thấy trong nhiều giấc mơ, những mái ngói đỏ tươi, những mái ngói nâu sẫm, những khung tường nhiều màu, những hàng cây xanh mướt, những cụm thông trên những đồi cỏ tròn như bát úp tụm năm tụm ba thủ thỉ chuyện trò, những hàng rào làm bằng nẹp gỗ mỏng sơn trắng thật thấp, thật dài và thật sơ sài chạy tung tăng lượn vòng vèo, những con dốc thoai thoải đổ êm êm xuống các khu vườn trồng khoai tây, cà chua, xà lách, bắp sú, đậu hòa lan. Và kia kìa, soi bóng cây trên đồi, soi mây trời buổi xế chiều, soi cái tháp chuông cuả ngôi nhà thờ trên cao có hình con gà, là mặt hồ nước trong xanh, sóng lăn tăn.
Tôi trở lại Đà Lạt vào mùa hè 1955. Mười năm về trước, tôi nhỏ xíu, mà thành phố cũng nhỏ như tôi. Nay đã khác rồi, cả hai đều khác, Đà Lạt và tôi.
Đà lạt đang lớn lên, đang trở thành một thiếu nữ khuê các vừa qua cơn đau nhẹ. Đó là thành phố ít bị khói lửa tàn phá nhất trong chiến tranh tuy dăm ba vết thương vẫn còn lưu lại. Đẹp quá, thanh tân quá, trong trẻo quá. Nước da còn hơi tái xanh, khuôn mặt hơi gầy chưa kịp phấn son, đôi mắt hơi lơ đãng còn vương chút mệt mỏi, còn đọng chút đau đớn, mái tóc mượt như tơ còn lẫn dăm sợi rối buông uể oải xuống vầng trán phảng phất chút sầu muộn.
Tôi ngoan cố, tôi nhất định không đánh điện tín báo trước cho mẹ và chị đón tôi ở phi trường. Tôi muốn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác cho tôi và cho người tôi thương yêu. Xe tắc-xi đưa tôi đến một căn nhà tiều tụy nằm bên con suối nhỏ, suối này chảy ra thác Cam Ly, mẹ tóc bạc phơ, nước mắt ràn rụa, người của mẹ bé lại, con thì lớn lên nhiều quá, nhìn nhau bỡ ngỡ một giây, ôm chầm nghẹn ngào, nhưng chị ở đâu, chị đan len ngoài phố, để mẹ đi "xoắc" một cái mua mấy thứ con ăn, và kêu chị bỏ buổi làm việc về với con.
Tôi đi trên các viả hè Đà Lạt lòng bồi hồi nhận ra nhiều nét vừa quen vừa lạ, khiến cho tôi cảm thấy vừa gần gũi, vừa bỡ ngỡ. Rồi thời thơ ấu sống dậy - một buổi sáng mùa hè êm ả mưa nhẹ như sương vang lừng tiếng gáy của con dế lửa; một buổi sáng mùa thu lạnh lẽo lóc cóc chiếc xe ngựa chạy trên con đường dài đánh lạc con chó Ba Tô của tôi, đánh mất luôn tuổi nhỏ.
Đường và địa danh đã mang tên Việt Nam, chẳng hạn đường Hàm Nghi thay vì Rue d'Annam, đường Duy Tân thay vì Maréchal Foch, đường Hai Bà Trưng thay vì Pasteur, đường Phan đình Phùng trước chỉ quen gọi tên là đường Cầu Quẹo, hoặc những địa danh như cư xá Chi Lăng thay thế tên Cité Saint Benoit, hồ Than Thở thay Lac des Soupirs, rừng Aí Ân thay cho Bois d'Amour, trường Hùng Vương trước kia là trường Yersin v.v...Đà Lạt khoác chiếc áo mới, Đà Lạt bừng bừng sức sống. Cũng như Nha Trang, Đà Lạt là thành phố trẻ, trẻ hơn, và cũng như Nha Trang thành phố biển mang rất nhiều dáng dấp của Huế, thành phố núi Đà Lạt thiên nhiên có khác, nhưng tâm tình là Huế. Huế, Đà lạt, Nha Trang là ba chị em thân thiết. Lẽ dĩ nhiên cũng có những người từ Sài Gòn, Đà Nẵng v.v...đến cư ngụ, sinh hoạt; hoặc những người Tàu mở quán ăn, tiệm thuốc bắc; hoặc một số phong cách mới rất tây phương và rất có ảnh hưởng; và đặc biệt là sau khi đất nước chia đôi năm 1954 một số người từ Bắc di cư vào mang theo nếp sống thanh nhã; ngoài những trường hợp vừa nói, đại đa số người Đà Lạt đều có liên hệ xa gần với Huế từ huyết thống, tính tình, tập tục, giọng nói, cho đến món ăn, cách phục sức, cách trang hoàng nhà cửa.
Tôi tìm đến ngôi nhà cũ trên đường Rue d' Annam. Ngôi nhà không còn, vỉa hè còn. Tôi nhận ra vị trí cũ của ngôi nhà, nay là cái nền xi măng nứt nẻ loang lỗ cỏ dại trên đó một cái chòi nhỏ lợp tôn được cất lên lôi thôi dùng làm chỗ chứa vỏ ruột bánh xe hơi phế thải, những ống sắt cong queo, những miếng thiếc thừa, những lon dầu nhớt vung vãi, những thùng đựng đủ loại bù lon, đinh, dây chì, dây kẽm, và vài ba chiếc ghế gỗ nhỏ thấp chủn nằm bên cạnh cái lò bếp dựng bằng ba viên gạch mẻ trên đó đặt một cái nồi đất không có vung, ám khói. Bếp lửa đã tắt, nồi đã cạn nước, trong đó mấy củ khoai luộc cháy đen. Chòi vắng, không thấy ai ở đấy.
Mười năm về trước nơi khoảnh đất hoang vắng này là một gia đình còn nguyên vẹn, mỗi chiều về vang lên tiếng nói tiếng cười, tiếng giã hành tỏi, mùi xào nấu, và ánh lửa bập bùng từ lò bếp in nhiều hình bóng lên vách tường.
Đứng trên nền nhà cũ, tôi nhìn quanh. Một số nhà láng giềng ngày xưa mọc lên cao hơn, tươm tất hơn. Chẳng qua là vì gia đình tôi đi tản cư xa quá rồi đi luôn trong khi nhiều gia đình khác cũng tản cư nhưng đến Phan Rang, hay Tháp Chàm, hay Nha Trang quay trở lại. Chỗ tôi đứng không phải là cao điểm của thành phố nhưng tôi cũng nhìn thấy được nhiều. Phía triền đất cao, những đồi thông xanh ngắt chen lẫn dăm ba thân cây cháy đen và mấy cái gò cỏ dại mọc đầy, kế đến là nhà thờ Tin Lành một góc vòm bị trụt lỡ in hình thuôn thuôn lên trên nền trời cao không một gợn mây, tiếp theo là chùa Linh Sơn mờ mờ ảo ảo sau những hàng cây trông như tranh vẽ cảnh bồng lai; phía thung lũng, dưới phố xa, phơi mình dưới nắng mai trong và lạnh, là đường Cầu Quẹo văng vẳng vọng lại tiếng người nói, tiếng xe chạy; bên kia thung lũng, đường Hai Bà Trưng uốn éo khi ẩn khi hiện như một con sông đang trôi; và phía bên trên nữa là khu Nhà Thương, đường Thi Sách, và vùng Saint Domaine de Marie tưởng như nằm gọn trong vườn Địa Đàng. Tôi đảo mắt tìm Nhà Thờ Con Gà, cầu Ông Đạo, và cái hồ thường bị sương mù phủ lên một lớp dày. Không thấy. Nhà cửa, cây cối, đồi non che khuất.
Tôi đi lên Cây Số Sáu. Ngôi nhà ngày xưa mà bố vừa cất xong còn in rõ trong trí nhớ, nền nhà nằm bên mé thấp của con đường nhỏ trải đá, mé bên kia của con đường là triền đất chạy lên vùng cao mọc đầy thông. Ngay cả cái mái nhà cũng không cao ngang với mặt đường, vách làm bằng thân cây thông dài và thẳng xẻ làm đôi còn nguyên vỏ sù sì đóng chồng mí lên nhau. Trước mặt nhà là một cái sân nhỏ có lối đi rải đá cuội nối với con đường cái trên kia; sau lưng nhà, mảnh vườn khá rộng đổ xuống cái thung lũng thật sâu; phần trên của vườn, ngoài một số rau xanh, là khoai lang vỏ màu trắng, củ nhỏ, dài như củ cà-rốt, nấu chín bẻ làm đôi hiện lên lớp bột khoai trông sáng óng ánh ăn ngọt lịm; phần dưới của vườn trồng cà phê, hồi đó cây chưa lớn mọc chen chúc thành một đám xanh um. Hình như cà phê chưa trổ ra được lứa trái đầu tiên thì gia đình tôi đã tản cư. "Mảnh vườn dốc" chưa khai phá xong, dăm bảy cây thông bị cưa sát gốc nằm ngổn ngang. Biên giới của vườn là những cọc cắm chưa thành hình cái hàng rào.
Tôi nhận ra hai con đường nhỏ tụm nhau lại ở cuối Cây Số Bốn rồi chạy thêm một quãng nữa để chuyển qua Cây Số Sáu. Thế Cây Số Năm nằm ở nơi nào, quả tôi không biết. Tôi đi quanh tìm kiếm một hồi lâu. Con đường cái còn đó, con đường chạy trên kia cao hơn mái nhà, cây thông già dưới gốc có con dế lửa ngày xưa gáy vang lừng còn đó. Tiếng gáy bỗng dưng ròn rã vang dội trong tôi ngay lúc này. Cái thung lũng cũng còn đó, không sâu thẳm như tôi nghĩ. Tầm mắt của tôi bây giờ lớn hơn ngày xưa, nên tôi nhìn xa ra thấy bên kia thung lũng cánh rừng thưa cây che khuất từng đoạn của một con đường nhỏ đất đỏ chạy uốn éo. Hồi bé tôi cho rằng cuối thung lũng là hết, nghĩa là chỉ có rừng rồi núi. Núi là giới hạn cuối cùng. Không có "bên kia núi”. Nhưng tôi không thể nào tìm ra nền nhà cũ, nói gì đến ngôi nhà tranh vách làm bằng thân cây thông còn nguyên vỏ.
Tôi vừa mới lớn lên thì cụ hàng xóm nghèo khó trước kia ở cạnh nhà tôi đã già lắm. Tóc bạc, má nhăn, miệng móm, răng còn vài chiếc lung lay trệu trạo nhai trầu. Tiếng nói của cụ do đó khò khè, ngắt quãng, khó nghe. Cụ là một trong số người ít ỏi không đi tản cư, ở lại một mình ... mà ... mà chịu trận chớ cháu ... tới mô thì tới ... tra rồi ... có chết cũng ... cũng vừa. Tôi nhận ra cụ, nhưng cụ nhìn tôi ngẫm nghĩ. Tôi phải "khai báo" dông dài. Khi nhận ra tôi, cụ giữ tôi lại suốt buổi chiều kể lể đủ mọi thứ chuyện. Đến đoạn nói tới con chó của tôi, cụ thở dài. Đôi mắt hom hem, lờ đờ bỗng nhiên bừng lên một vài tia sáng mơ hồ.
Những ngôi nhà mà chủ đã đi tản cư bỏ trống thì mấy ngày sau cửa ngõ bị đập phá, đồ đạt bị lấy sạch, trừ nhà của gia đình tôi. Nhờ con chó. Nhưng rồi cũng tiêu tan hết, cụ nói. Một ngày sau khi gia đình tôi đi, cụ thấy con chó về. Nó chạy theo chắc không kịp, hay bị người ta chận đuổi nên chạy lui, đó cháu. Tôi không thể tưởng tượng được rằng nó đã chạy xa đến thế mà có thể tìm lại đường về, nhưng cụ bảo chó tìm về nhà giỏi lắm, đi mô nó cũng làm dấu. Tôi sực nhớ thế là đúng rồi, nó "đái rắc" suốt dọc con đường đi. Đêm hôm đó nghe rẹt rẹt ngoài cửa nhà tôi, cụ cứ tưởng bọn hôi của tới phá phách, cướp bóc. Cụ sợ quá, nằm yên, nín khe. Sáng hôm sau cụ mới biết thì ra con chó đã cào cửa cả đêm. Không vào nhà được, con chó nằm mẹp suốt ngày trên vỉa hè ngay trước cửa, gầm gừ khi thấy ai đi ngang qua gần. Suốt mấy ngày nó không ăn không uống, không đi đâu cả, cứ nằm hoài trước nhà, lông lá bù xù, cái bụng xép ve, cặp mắt buồn thiu. Thấy tội nghiệp, xóm giềng muốn đem nó về nuôi nhưng mỗi lần ai tới, nó nổi dữ lên, phùng mang trợn mắt, mà cá mới có cái mang chớ bác, ừ thì rứa đó, để tui nói tiếp, làm ai cũng ớn xương sống.
Bà cụ dù thiếu thốn, vẫn mỗi buổi tối trước khi đi ngủ sớt ra bớt một chút cơm nguội, cơm cháy cho vào miếng lá chuối đem để trước nhà cụ rồi đóng cửa lại đứng nép bên trong nghe ngóng. Chỉ một chốc sau, con chó đánh hơi được, đến ăn sạch bách. Nhưng nếu cứ thế cũng kẹt cho cụ, người không đủ ăn, của đâu cho chó mãi. Con Ba Tô khôn lắm. Từ hôm được cho ăn, tui để đồ ăn trước cửa nhà tui chớ có mời mọc chi mô, nhưng nó biết tui cho nó, thoáng thấy tui nó vẫy đuôi một cách uể oải, nhưng hễ tui đến gần, nó lại gầm gừ. Cụ nghĩ trước sau gì nó cũng sẽ ngoan ngoãn, lúc ấy cụ sẽ dụ nó về nhà nuôi thêm ít hôm rồi mang đi bán. Cơm và vô lỗ miệng không đủ, có mô nuôi chó. Nó đẹp quá, thế nào cũng có người mua, cụ biết chắc như thế.
Nhưng mọi chuyện không xẩy ra suôn sẻ như cụ muốn. Sau đó khoảng một tuần lễ, đêm mô cũng rứa, lúc ai nấy đã ngủ ngon, con chó nó mới tru. Thoạt đầu là vài ba tiếng sủa trong cổ họng, ngập ngừng, như dò đường, như rà mìn. Rồi tru to lên dần dần. Rồi cau có, gắt gỏng, giận dữ. Chỉ chưa đầy nửa giờ sau, những tiếng sủa rời rạc ban đầu nối lại thành những chuỗi tru dài liên tục, càng lúc càng dài như bất tận, khi trầm khi bổng, khi to khi nhỏ, khi rì rầm cằn nhằn nhức nhối, khi hét tướng lên như điên tới nơi. Tiếng tru nghe ai oán quá cứ thế tuôn ra từ cái mỏ dài nhọn hoắt chỉa thẳng lên trời. Nếu cứ thế, con Ba Tô biến thành chó dại mất. Mọi người trong khu phố vừa bực bội, vừa thương hại con chó mất chủ.
Những ngày ấy Đà Lạt là thành phố gần như bỏ ngỏ, lực lượng giữ gìn an ninh trật tự chưa kịp tái lập, bọn hôi của tha hồ hoành hành, chó dại, chó hoang, chó vô chủ, chó đói tha hồ chạy rông ngoài đường phố. Con chó của cháu, hắn tên chi hè, dạ, con Ba Tô, khác những con chó kia, ban ngày thì cố thủ nơi vỉa hè trước ngôi nhà cũ, ban đêm thì tru tiếp. Biết cụ có chăm sóc con chó, nhiều người hàng xóm bảo cụ nên tìm cách bắt trói nó lại, họ sẽ giúp một tay, lấy dây cột chặt cái mỏ của nó, thế là hết tru, để người ta ngủ cho yên giấc chớ. Bà cụ thấy cũng có lý, nhưng cứ hẹn rày hẹn mai. Cụ biết rằng cấm nó tru một cách tức tưởi như rứa nó chết mất. Để nó tru thêm ít bữa cho hả hơi, rồi sẽ tính.
Gần nửa tháng sau, một buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, đường phố không đèn đóm bắt đầu nhá nhem tối, bà cụ định bước vào nhà thắp ngọn đèn dầu thì trông thấy ba tên đàn ông trông chẳng hiền lành chút nào không biết từ đâu nghênh ngang đến, một tên cầm cái xà beng, hai tên kia trong tay mỗi tên một thanh củi, và hai ba cái bao bố rách. Bà cụ lo bấn xác, nhưng cố lấy giọng bình tĩnh nhỏ nhẹ hỏi:
"Mấy chú tới đây có việc chi rứa hả mấy chú?"
Chúng gắt:
"Việc chi kệ người ta, hỏi vô duyên."
Ai vô duyên hả cháu? Khi không tới đất của người ta, sắp sửa cướp, sắp sửa làm chuyện bậy bạ, lại dám nhiếc người ta vô duyên! Đúng là thứ đồ cứt một về sau khu mà miệng thì cứ bô bô thúi mô rứa, mô thúi rứa. Cái tội đổ hô nớ trời không dung, đất không tha, tre trên rừng không đủ để viết, nước dưới biển không đủ để rửa. Người ta hay nói rứa phải không, bác không nhớ hết.
Nói xong chúng nó hầm hè tiến đến gần con chó, tên nào tên nấy mặt đanh lại hung ác. Bà cụ muốn kêu cứu hàng xóm, nhưng sợ hãi đến líu lưỡi không nói ra được một tiếng nào. Vả lại trong thâm tâm bà cụ cũng biết rằng có kêu lên cũng vô ích, thời buổi này ai lo việc nấy còn không xong, hơi sức mô xía vô việc làm của bọn dao búa. Con Ba Tô vẫn lì lợm không chịu bỏ chạy, đi chầm chậm lùi sát vào cánh cửa lớn, gầm gừ dọa nạt. Nhưng ba tên ấy là thứ người da dày lắm, da mặt càng dày hơn, không sợ chó cắn, không sợ người ta rủa, vẫn cứ lừ lừ tiến. Con chó phải lùi xa dần cánh cửa, cụp tai, trợn mắt, nhe răng, sùi bọt mép. Trông nó như con thú dữ trong rừng. Chúng bèn chia lực lượng ra, như chiến đấu ngoài mặt trận, hai tên cầm hai thanh củi thủ thế canh giữ con Ba Tô, tên còn lại cầm xà beng quay lui về phía cánh cửa.
Bà cụ thở dài như trút bớt gánh nặng trong lòng, thầm nghĩ rằng có lẽ bọn này không đến đây giết chó để ăn thịt, chúng chỉ muốn lấy đồ đạt trong nhà mà thôi. Cái xà beng nhanh chóng nạy bật cánh cửa ra kêu rẹt một tiếng lớn. Nhanh như chớp, bất chấp hai tên đang cản đường, con chó phóng mình đến ngoạm ngay vào cườm tay tên phá cửa. Cả ba tên xúm lại đánh đập con Ba Tô nghe thình thịch, hừ hự. Con Ba Tô một mình không có đồng minh, không có vũ khí, mà lạ quá, nó chịu đòn giỏi lắm, không sủa, không gào, không rên, chỉ vùng vẫy nhảy nhót táp tên này, cắn tên nọ, và lãnh những trận mưa đòn. Sau một hồi, chiếc xà beng nện trúng ngay vào đầu con chó phát ra một tiếng như tiếng nứt nẻ. Ba Tô giật bắn lên như quả bóng, rồi rơi bịch xuống đất nằm nghiêng bốn chân duỗi dài, thân hình ốm tong teo bầm dập co giật, mồm chảy máu thành dòng, nước mắt ứa ra đục ngầu. Trước khi nằm bất động, nó vươn mỏ tru lên mấy tiếng đứt quãng, ngăn ngắn, khe khẽ, yếu ớt. Rồi im bặt.
Bà già òa khóc chồm tới ôm xác Ba Tô vào lòng. Một cái đẩy mạnh, bà lăn quay. Chúng vội vàng dộng xác Ba Tô vào một bao bố, có lẽ để mang về xẻ thịt ra chia nhau ăn, bà nghĩ thế. Rồi chúng tiếp tục nạy cửa.
Con chó nghĩ gì khi nó thí cả mạng sống chống cự bọn người hôi của ấy? Nó quý ngôi nhà đến thế sao, quý nơi nó từng sống và đã trở thành một phần của cuộc đời nó, cho nên nó không muốn người khác đến xâm lăng? Hay nó nghĩ đến chúng tôi trước, muốn giữ ngôi nhà để nay mai chúng tôi sẽ trở về đó sum họp với nó? Hay nó đã tuyệt vọng, mất chủ cho nên ngôi nhà biến thành nơi bám víu cuối cùng, phải cố giữ? Hay cái bản năng trung thành của nó là thế, rất đơn giản, ấy là cái bổn phận bảo vệ đến cùng tài sản của chủ cũ? Là gì chăng nữa tôi không biết, không thể đọc đúng ý nghĩ của nó, chỉ có điều chắc chắn rằng nếu nó không bị đánh lạc, nó sẽ "lên đường tản cư" theo chúng tôi đến chân trời góc biển, từ núi đổ xuống đồng bằng, qua cầu Đà Rằng, ra Huế, rồi lại tản cư tiếp, rồi hồi cư, vân vân và vân vân. Chúng tôi đâu nó đó.
Có lẽ tôi phải mở một dấu ngoặc kể lể một chút về hoàn cảnh gia đình tôi. Sau khi chạy giặc về Huế, rồi từ Huế lại tản cư thêm hai lần nữa ra hướng Quảng Trị, gia đình tôi tan nát. Bố qua đời, mẹ và chị phải đi lần hồi nhiều chặng mới trở lại được Đà Lạt rất muộn màng, bán nhà, bán đất, thuê một căn phòng nhỏ để ở, đan len và buôn bán lặt vặt tại chợ Đà Lạt, chờ tôi học "thành tài". Tôi ở lại Huế với người cô, mười năm sau mới trở lại Đà Lạt. Tại sao phải chờ đến mười năm? Không tiền mua vé máy bay đi một chuyến thăm mẹ, mà không chịu “mở miệng” xin tiền của mẹ, hoặc của cô, tại sao? Đó là do lòng tự ái, tự trọng, hay do tính nhút nhát không dám làm phiền người khác? Hay vì học chưa xong ở Huế thì không được tự cho phép đi đi đâu xa, dù đi thăm mẹ? Sau một mùa hè ở Đà Lạt, tôi vào Sài Gòn vừa đi học vừa đi kiếm sống.
Đà Lạt, những năm tôi quay lại, bừng bừng vươn lên như Thánh Gióng trong thần thoại. Trường học mọc lên nhiều nơi. Vào giờ đến trường và tan trường ta có thể gặp trên bất cứ con đường nào nam nữ học sinh, sinh viên ăn mặc thật đẹp, đặc biệt là các nữ sinh má ửng hồng không do son phấn một tay ôm cặp sách, tay kia giữ vành nón, đi thành hàng dài qua những khu phố dốc tấp nập. Rồi nào là Viện Đại Học, trường Cao Học Chính Trị Kinh Doanh, Lò Nguyên Tử, trường Võ bị Quốc Gia, trường Chỉ Huy và Tham Mưu, Nha Địa Dư, Viện Pasteur v.v...
Những buổi sáng cuối tuần, ngoài số rất nhiều du khách từ các nơi khác đến, người Việt cũng như người nước ngoài, là những sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia trong bộ lễ phục trang nhã đi song song nghiêm chỉnh bên cạnh người yêu. Không nắm tay nhau, không ôm eo ếch của nhau, tuân hành quân phong quân kỷ. Họ vào những quán cà phê thơm ngào ngạt trên đường Hàm Nghi, vào những tiệm phở ấm cúng, phở Tùng, phở Ngọc Lan, phở Ga, phở Đắc Tín..., những tiệm cơm tây sang trọng như tiệm Mékong hoặc Chic Shanghai tại khu Hòa Bình, những quán bún bò Huế, cháo lòng, bánh nậm, bánh canh khói từ nồi nước lèo tuôn ra nghi ngút ngay mặt sau của ngôi chợ chính, hay ở cuối dốc đường Duy Tân; họ xuống Dốc Nhà Làng ngồi trên những bậc tam cấp bằng đá sạch bóng, ăn bánh xèo bánh khoái; họ đến mua hoặc ngắm hoa, quả, đủ loại, muôn màu muôn vẻ, thơm ngào ngạt, ngay trước mặt chợ; họ đi vòng các cửa hiệu quanh chợ mua đồ lưu niệm như tên, nỏ, và các thứ vũ khí cuả người Thượng, những móng cọp, nanh heo rừng bịt bạc, phèn la bằng đồng, tù và bằng sừng trâu, những chuỗi hột cườm nhỏ li ti nhiều màu, những tấm ảnh chụp những ngọn thác, những đàn voi, những người đàn bà Thượng mặc váy rằn, ở trần v.v... Còn dư thì giờ, họ vào những quán kem mọc cheo leo bên sườn dốc cạnh những con đường xuống hồ Xuân Hương, hoặc đi thẳng đến nhà thủy tạ ngay bên bờ hồ uống cà phê, hút thuốc lá, nhìn ngắm thiên nhiên phơi phới khoe mình. Toàn là cảnh đẹp.
Đó là chỉ nói đến một vài nét sinh hoạt xúm xít tại trung tâm thành phố trong một buổi sáng cuối tuần. Xa hơn là vô vàn thắng cảnh nổi tiếng, các tụ điểm giải trí, vườn hoa, chùa chiền, nhà thờ, rồi ghềnh, thác, đồi, non, thung lũng, núi rừng. Nơi nào cũng êm đềm, cũng thơ mộng.
*
Tôi nghĩ đến câu nói "Mới đầu ở ngoài sân, sau lần vô bếp". Câu nói này thường có ý xấu mô tả cái tính lì lợm, sàm sỡ, dành sân lấn đất, "được đằng chân lân đằng đầu" của những kẻ lòng tham không đáy. Câu đó có thể áp dụng vào trường hợp của tôi.
Có dịp là tôi đến nhà anh Quang trên đường Hai Bà Trưng rủ anh đánh vũ cầu tại cái sân xi măng rất rộng trước nhà, hay đánh bóng bàn trong một căn phòng kế phòng khách. Tôi không thích vũ cầu, bóng bàn thì cũng “đại khái”, và hình như anh ấy không ưa hai trò chơi này. Chẳng qua để dãn gân cốt một chút rồi tôi theo anh vào phòng khách kiên nhẫn ngồi nghe anh say sưa nói đến những dự án mở nông trại vùng Tùng Nghĩa, Fim-Nôm, xây nhà, xây đập, đào giếng, nuôi bò, dựng chùa. Anh vẽ đẹp và có khiếu về kiến trúc, trang hoàng. Tôi nhớ hồi còn bé tôi có theo bố đến ngôi nhà này mấy lần, hai gia đình quen biết nhau lâu, và hình như lúc đó Liên, em gái của Quang, chưa ra đời.
Hôm đó, một ngày mùa đông quá lạnh, phòng khách rộng lớn trông rộng thêm ra. Tôi ngong ngóng nhìn qua cửa kính trong khi Quang mải miết trình bày một dự định mới. Tôi lơ đãng nhìn đồng hồ treo tường. Tôi biết nếu tôi cứ thỉnh thoảng nhìn đồng hồ đeo tay sẽ bị hiểu rằng tôi không muốn ngồi lại lâu hơn nữa. Đã hơn năm giờ chiều, học trò đi học đã về, trời mùa đông chóng tối. Học trò đi học đã về rồi mà, ý nghĩ đó luẩn quẩn mãi trong đầu. Tôi lẩn thẩn nhớ câu mắng yêu của mẹ hồi tôi còn bé: "Học trò đi học đã về/ Cơm canh chưa chín lại trề môi ra." Không khéo...Bỗng bóng của Liên lướt nhanh qua cửa sổ, tay ôm cặp, chiếc quần lụa trắng uyển chuyển, chiếc áo dài màu tím nhạt khép nép, chiếc áo len đen xẻ giữa chỉ cài nút cổ, chiếc khăn quàng màu hồng quấn hờ bên bờ vai, và khuôn mặt xinh đẹp hơi cúi nhìn xuống đất có lẽ vì biết có tôi trong phòng đang nhìn theo. Tất cả những hình ảnh đó hiện lên nhanh. Chỉ một thoáng thôi, Liên đã bước nhanh vào nhà bếp. Cánh cửa khép kín!
Quang tiếp tục câu chuyện:
“Anh N. đồng ý không nào, ngôi nhà sẽ nhìn dòng suối chảy ngang trước mặt. Cái gò ngo này đứng án ngữ đằng sau, đây, đây là gò ngo, anh thấy chưa. Đúng phép phong thủy. Ngo là thông đó. Bên trái là con đường nhỏ chạy ra đường cái, bên phải sẽ đào một cái giếng...này này anh có nghe tôi nói không đó? Anh nói sao? Đúng vậy cái giếng nước. Đã có suối vẫn phải đào giếng, anh biết tại sao không?”
Tôi trả lời như cái máy:
“Vâng, tôi biết chứ. Mà tại sao hả anh?”
“Hả? Là vì...anh biết tại sao không? Nhưng anh có nghe tôi nói gì không đó?”
“...”
Quang chắc lưỡi:
“Thôi, để tôi nói cho nghe. Vào mùa khô con suối nhỏ này có khi cạn nước, hoặc là vào mùa lá rụng nhiều, khô, thối, nước suối bị ô nhiễm...”
Tôi lơ đãng góp ý:
“Đồng ý với anh, nước suối tinh khiết.”
“Ủa, anh nói gì vậy?”
Nói xong Quang quay nhìn tôi. Bỗng anh cười khà một tiếng rồi gọi to:
“Liên! Liên làm gì dưới đó? Có anh N. đến chơi. Hôm nay lạnh quá, pha chút trà uống cho ấm bụng nghe Liên.”
Anh vui vẻ nói tiếp với tôi:
“Lại có cả bắp non nữa. Nướng lên thoa mỡ hành ăn được lắm. Vừa ăn bắp nướng, vừa rỉ rả nói chuyện, vui hơn. Hôm qua đi La Ba về tôi mua được một bao bắp non mới hái ngoài vườn.”
“La Ba?”
“Anh chưa biết La Ba hả? Hôm nào mình xuống đó chơi. La Ba cách đây khoảng bốn chục cây số, đi về hướng phi trường Liên Khàng, rồi quẹo phải độ vài chục cây số. Ngoài bắp ra, chuối La Ba ngon tuyệt. Sau vườn mình cũng có giống chuối La Ba, nhưng đất ở đây không hợp cho lắm, nên chuối không ngon bằng. Trên đường về mình sẽ quẹo qua ngả Ba Lọn cho anh biết thêm chỗ mới. Anh biết không, Đà Lạt không có mít, vậy mà cứ xuống đèo Ba Lọn là tha hồ ăn mít chín cây. Nhưng không có mít vào mùa này đâu. Liên! Liên! Xong bình trà, em lấy bắp đem nướng nghe. Nướng xong đem lên đây ngay, trời lạnh mau nguội. Bắp nướng phải ăn lúc đang nóng hôi hổi mới ngọt, mới mềm, mới ngon. Để nguội trời đây lạnh nó cứng lại như đá.”
Lòng tôi như mở hội. Tôi hỏi một câu gọi là:
“Nhưng sao lại La Ba? Tiếng Thượng hả anh? Cũng như hai chữ Đà Lạt gốc từ tiếng bộ lạc.”
“Có lẽ không phải. Có lẽ đó là tiếng Pháp. Có lẽ khi lần đầu tiên sắp đến vùng này, tụi Tây chỉ chỏ cái thung lũng xanh tươi đằng kia kìa, dưới kia kìa, là-bas. Người mình xài luôn chữ đó như địa danh. Như cái tên Nha Trang nghe thật êm tai vậy. Anh biết không, Tây ngày xưa nó gọi vùng có nhiều nhà trắng đó là nha trang, mình nghe xuôi tai nên chịu luôn.”
Tôi không quan tâm đến giải thích của anh ta, buột miệng:
“Hay là...Hay là thế này anh Quang. Mình xuống nhà bếp phụ cô Liên một tay...cùng nhau nướng bắp cho mau.”
Quang cười xòa.
Tôi đã để ý đến Liên ngay từ khi mới gặp lần đầu, rồi bồn chồn mong gặp lại, rồi thương nhớ, và cuối cùng tình yêu của tôi và Liên được xác nhận một cách thật đơn giản trong cái nhà bếp thân mật có bếp lửa ấm cúng nổ lách tách, bằng những trái bắp nướng thoa mỡ hành thơm ngào ngạt, bằng những ly nước trà nóng hổi và mấy câu mời nhỏ nhẹ, bẽn lẽn, ngoài kia trời sắp tối, đêm mùa đông đến sớm và lạnh hơn mấy hôm trước, có tiếng gió vèo trên những ngọn cây, bằng cái nhìn kín đáo dò xét của Quang, bằng những câu trả lời thỏ thẻ, ngập ngừng của Liên, và bằng nỗi sung sướng dâng lên trong lòng tôi.
Từ đó chúng tôi có dịp đi nhiều nơi. Đi qua những phố đông. Những quán ăn bình dân, những nhà hàng sang trọng; các món chè quanh rạp hát Ngọc Hiệp; gánh phở Ngọc Lan ở cuối bến xe đò với rất nhiều hành củ ngâm dấm, tủy, gân gối, và cả tiếng gào thét của ông chủ luôn miệng la mắng “thằng con chết dịch bưng phở chậm như rùa”; những món Huế thơm tho, đậm đà, cay xé lưỡi sau góc chợ; ly sữa đậu nành bốc khói cạnh những xe mì thánh mì sợi gần trường tiểu học ngày xưa; gói đậu phụng rang ấm tay thơm dòn đầu đường Duy Tân khi đèn đường vừa bật sáng, khi buổi tối êm đềm lại về. Và ly cà phê đen nóng, điếu thuốc lá Bastos xanh, nhà thủy tạ, chập chờn đôi mắt của Liên xao động như lớp sóng lăn tăn trên mặt hồ qua làn khói thuốc. Rồi...rồi mình đi hồ Than Thở nghe anh, nghe thông reo, qua hồ Chi Lăng nữa, chỉ cách đó mấy ngọn đồi nhỏ, xem có còn tám ngôi nhà kỳ cục nhô ra ngoài mặt nước hay không, công chúa Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn, đó anh. Những ngôi nhà xinh đẹp ấy đổ nát dần không được ai săn sóc uổng quá. Còn nơi nào nữa không em? Còn nhiều chứ, chẳng hạn trời nắng tốt đi sâu vào làng Thượng, con đường độc đạo, cây to gốc đầy rêu đứng sát nhau làm thành hàng rào hai bên, nghe thác Cam Ly đổ ào ào sau lưng. Thác Cam Ly hả em? Anh biết thác Cam Ly từ hồi anh còn bé tí. To lớn, khủng khiếp! Không phải, không phải đâu anh. Hồi nhỏ anh tưởng là to chứ thật ra nó nhỏ lắm. Nó nhỏ nhất, được cái nó ở gần thành phố. Hôm nào mình đi Pongour nằm sâu trong rừng, nước chảy lớn, hoang vu, hùng vĩ lắm đó anh. Hoặc trèo lên nguồn thứ sáu, thứ bảy của Đa-tân-la, trước kia gọi là Dantania, đẹp lắm đó anh. Và còn còn nữa, anh em mình sẽ đi thăm hết, nghe anh. Vâng anh nghe, anh nghe không sót một lời, nghe như mật rót vào tai "đó em".
Em biết nhiều quá, còn anh thì mù tịt. Nhưng anh cũng cứ đưa em đi nhiều nơi nhé, đi đâu, đi trên những con đường nhỏ phủ đầy lá thông khô, những đồi cỏ xanh in rõ màu sắc của những chiếc áo len màu đỏ, màu vàng của Liên, những cánh rừng hoang chưa có đường mòn, cỏ gai vướng chân, cành cây chắn lối làm rối bù hai mái tóc, làm sây sát da thịt; đi trong sương mù của những buổi sáng sớm thành phố còn thiêm thiếp ngủ, vắng teo, lặng câm, và lạnh cóng để có cảm giác rằng Đà Lạt là của riêng của hai đứa, để thấy bụi sương đọng nhiều trên hai hàng lông mi dài, để nghe hơi ấm của hai bàn tay và tiếng đập nhẹ của hai trái tim, tiếng chân bước chầm chậm, nho nhỏ, mơ hồ như tiếng vang vọng ở một góc nào ngoài dĩ vãng.
Hoặc là gặp hôm trời mưa chẳng đi đâu cả, ngồi bên nhau, nhìn nước mưa chảy giọt ngắn giọt dài trên kính cửa sổ lầu hai, nhìn bong bóng nước dưới kia nổi lên rồi vỡ, ngắm giàn su cạnh nhà bếp cành lá xanh tươi phơi phới, nụ non nhú ra thật nhiều trông như hàng trăm đầu ngón tay đang trỏ, và ngắm cây ngọc lan cổ thụ trước ngỏ chuẩn bị đâm hoa thơm ngát cho cả một vùng. Rồi cùng chờ mưa tạnh, chờ xem mấy con chim từ đâu bay đến đậu trên những ngọn cây vả, cây mimosa rồi sà xuống nhảy nhót trong khóm hồng chìa cành sát vào kính cửa sổ. Mấy con chim vô tình tung tăng ngoài kia cửa kính chỉ cách khuôn mặt êm ả của em vài gang tay.
“Lần sau anh lên vào dịp Nô-en nghe. Rồi ở lại đến Tết tây. Đẹp lắm. Và lên vào dịp Tết ta nữa, nghe anh!”
“Vâng, Nô-en hoặc Tết ta.”
“Không phải. Nô-en và Tết ta . Cả hai.”
“Đâu được. Thì giờ của anh đâu có nhiều thế.”
“Ngày lễ mà. Bộ anh bận việc cả vào những ngày lễ sao? Ráng lên đi anh. Tết tây rồi Tết ta, mỗi cái Tết có cái hay riêng của nó.”
“Không.”
“Năm này lên cả hai, năm sau một cũng được.”
“Không, nhất định không.”
“Em giận anh rồi đó.”
“Thì lên.”
Đà Lạt tháng 12 nắng trong veo, trời xanh ngắt và lạnh. Lạnh hơn tất cả những ngày tháng khác trong năm. Buổi sáng buổi chiều đầy sương mù trên những đường đi ven các ngọn đồi mé sau trung tâm thành phố dẫn đến khu Đại Học mà chúng tôi thường tay trong tay đi bên nhau. Đường đi mau hết, lại quay ngược về phía hồ. Sương mù nhiều hôm che kín mặt hồ một lớp dày như mây, phủ luôn những trái đồi bao quanh, lan xuống cầu Ông Đạo, tràn qua khu ấp Ánh Sáng, kéo lên vùng khách sạn Palace. Đến chín mười giờ sương tan, nắng lên nhuộm hồng ngàn vạn cánh hoa anh đào bên những con đường từ khu Hòa Bình chạy xuống khu chợ, rồi từ đó chạy lên nhà Bưu Điện, rồi rẽ phải chạy lên vùng Biệt Điện của nhà vua, hoặc rẽ trái xuôi về khu Chi Lăng, vùng hồ Than Thở, ấp Thái Phiên, trường Võ Bị...Anh đào rung rung trong gió, rải rác trên những vùng rộng lớn, hoặc xúm xít nhau thành từng cụm, trên các đường đi, trên sườn đồi, dưới thung lũng, trong những khu vườn rộng ở giữa là những ngôi biệt thự tráng lệ. Ban đêm trời buốt giá. Càng gần lễ Giáng Sinh trời càng lạnh. Đêm Nô-en đường phố đông nghẹt con chiên cũng như người ngoại đạo trong những chiếc aó choàng ấm lũ lượt đi đến những ngôi nhà thờ đèn sao rực rỡ, ngập tràn ánh sáng.
Rồi Tết ta đến. Tết ở Đà Lạt cảnh vật có khác, khí hậu có khác, nhưng mang rất nhiều hình ảnh của Tết ở Huế. Đêm ba mươi phố xá vắng teo, nhà nhà cửa đóng ỉm im, bên trong đèn sáng trưng, trên bàn thờ trầm hương nghi ngút, hoa quả, thức ăn, đồ cúng sắp đầy. Tại góc sân sau, nằm trên lò lửa dựng bằng ba viên gạch lớn và chụm bằng những thanh củi thông to còn nguyên cả vỏ cây sù sì kêu lách tách, là nồi bánh chưng, bánh tét "sắp chín tới nơi", bao vây bởi mấy em bé ngồi quanh nôn nao chờ vớt mấy cái bánh lẻ nhỏ xíu, mấy cái bánh ú, để được ăn trước mọi người. Đến nửa đêm pháo giao thừa vang rền khắp nơi, khói pháo không bay được lên cao, quyện vào đám sương mù đang phủ đầy mặt đất. Lễ vật cúng giao thừa được bày ra trước sân rước mùa xuân vào. Sáng mồng một Tết, trời lạnh, xác pháo phủ đầy trước mỗi nhà, rải rác khắp mọi nẻo đường, trên đó đã có những cô bé, cậu bé nóng ruột chạy ra khỏi nhà khoe aó quần mới. Phố đông dần, những con đường dẫn đến các vùng mộ, các ngôi chùa, tấp nập người đi. Sinh họat càng lúc càng bừng dậy, đây tiếng trống múa lân giục giã, kia pháo nổ chát chúa, dưới thung lũng lễ hội mùa xuân, trên phố cao những sòng bài công cọng...
*
Miền Nam sụp đổ. Cũng như đại đa số thanh niên thời đó, tôi vào tù. Sau mấy năm ở trong rừng, tôi được trả lại một phần tự do dành cho loại công dân ở mức thang thấp nhất trong một xã hội “rất hạnh phúc”, “rất tự do”, “rất độc lập”, “rất dân chủ”, và “rất bình đẳng”, trong đó, nói như một nhà văn người Anh, có một số người “bình đẳng hơn” một số người khác. Dù sao, dù còn thêm hai năm bị quản chế không được đi xa nơi cư trú, tôi cũng có thể đi ra khỏi thành phố Sài Gòn. Đi chui.
Trước tiên tôi thử đi xuống Vũng Tàu tương đối gần. Nếu trót lọt, tôi sẽ đi Đà Lạt. Vũng Tàu bớt phần nhộn nhịp. Nhưng cũng những cây dù to bảng nhiều màu đứng thành hàng dài trên bãi cát, cũng ruột bánh xe hơi bơm sẵn làm phao cho thuê chất thành từng chồng cao, cũng những gánh hàng ăn vây quanh du khách ngồi trên những chiếc ghế vải bố, những gánh cua, ghẹ, nghêu, sò, hột vịt lộn, đậu phụng nấu, đậu hủ, đu đủ, mãn cầu. Cũng mùi ai ải, mùi gió mặn, mùi tôm cá. Cũng biển xanh, cát trắng, nắng vàng. Tôi đứng lặng nhìn. Cuộc đời cứ thế bình thản trôi đi mãi hay sao sau bao nhiêu cơn biến động vừa qua? Và biết đâu, nay mai Vũng Tàu còn náo nhiệt hơn. Tôi lần từng bước xuống làn nước ấm. Vài đợt sóng lớn đánh mạnh vào tôi, tôi để mặc cho nước biển bắn vào miệng nuốt ực mặn chát. Vài ba cặp thanh niên thiếu nữ đùa giỡn cười nói la hét vang lừng trên bãi cát gần đó. Tôi bỡ ngỡ. Bỗng dưng tôi thấy mất hết cả mọi cái háo hức mà tôi mang theo từ lúc khởi hành, quay lên bãi cát, tìm chỗ có bóng mát nằm dài chờ thật lâu chuyến xe đưa trở lại Sài gòn.
Tôi nghĩ đến chuyến đi Đà Lạt sắp tới. Tôi tự hỏi lòng liệu cái thành phố muôn vàn nhớ thương ấy, thành phố của thời thơ ấu, của tuổi hoa niên, của tình yêu, của thơ mộng, sẽ có một diện mạo nào, một cung cách gì? Tự hỏi để làm cái gì vậy, phải chăng để tự dối lòng, vì trong sâu xa tôi thừa biết chuyến trở về thành phố miền núi lần này sẽ mang đến cho tôi không ít buồn khổ.
Đà Lạt, Huế, Sài Gòn, Lục Tỉnh ... đâu phải của riêng tôi, nhưng ngày xưa tôi có cái cảm giác đó, cái cảm giác mình là một thành phần của quê hương đất nước, một ông chủ nhỏ bé bên cạnh hàng triệu người chủ khác, dù tôi chưa tậu nổi một cái nhà riêng để ở. Còn bây giờ, khác. Mọi chuyện đều nghịch lý, đảo lộn, đổ vỡ.
V
Tôi có việc đi đến quận Fresno, California, cách nơi tôi ở hơn bốn giờ lái xe. Vùng này có nhiều người tỵ nạn Đông Nam Á, đông nhất là người Lào, người Miên và một số người Việt Nam. Tôi có dịp thăm một nông trại do người Miên làm chủ. Nông trại được cơ giới hóa, có máy bơm nước, máy điện, máy kéo, máy cày. Ngoài những cây ăn trái như cam, táo, nho, hồng dòn, hồng mềm v.v..., còn có rất nhiều loại rau quả rất quen thuộc với tôi như mướp ngọt, mướp đắng, bầu, bí, ớt, sả, dưa leo, cà tím. Một số người tỵ nạn gốc Nga đến đó mua thật nhiều cà tím chất đầy xe. Có lẽ đấy là “món ăn quê hương” của họ. Mọi thứ đều xanh tươi, ngon mắt, nhìn mãi không thấy chán. Bỗng tôi cảm thấy có thiếu món gì đây. Khoai lang? Không phải. Sắn, cải ngồng chăng? Hay mướp đắng? Cũng không phải. Tôi nhớ ra rồi, thiếu những giàn su su, khi con non những trái xanh nhu nhú như những ngón tay chỉ trỏ, những trái lớn hơn có gai ở cuối trái, gọt vỏ để nguyên trái hầm với đuôi bò và rau cần, đậu xanh, khoai tây, cà rốt, hành củ và một số rau mùi khác, rồi rắc kha khá hạt tiêu vào, ăn trong những buổi tối bên ngoài trời lạnh mưa lâu. Mà ăn ở đâu nhỉ? Tôi lại nhớ ra. Đà Lạt! Đà Lạt muôn vàn nhớ thương! Tôi mua những rau quả ấy mỗi thứ một ít, cho vào đầy một hộp giấy to, chất vào xe rồi trả tiền, nhưng ông chủ người Miên nhất định biếu không, nói tiếng Anh bập bẹ: "Anh và tôi kể như người đồng hương. Cao Miên, Lào và Việt Nam là ba nước láng giềng mà." Tôi chỉ còn biết cám ơn.
Tôi cầm tay lái trước, bạn tôi ngồi bên cạnh tha hồ ngắm cánh đồng bằng phẳng và rộng mênh mông kéo dài từ Fresno đến thung lũng Bakersfield. Qua khỏi ngọn đèo rất dài để vào quận Los Angeles tôi buồn ngủ quá chừng. Nếu tôi cố lái tiếp không khéo gây tai nạn. Tôi ngừng xe lại nép sát lề đường trao tay lái cho bạn tôi. Khi xe ngừng hẳn, cơn buồn ngủ cũng giảm bớt đi nhiều. Tôi nhìn bâng quơ xuống triền núi, rồi nhìn xa ra một chút xuống thung lũng dưới kia. Kìa, ô kìa, một thị trấn nhỏ phơi mình dưới bầu trời bao la nhìn lại tôi, những mái ngói đỏ ửng lên, những chòm thông xanh quấn quýt nhau, ríu rít nhau trong nắng, "Nắng hớn hở nắng trong veo như mắt..." Tôi xúc động mạnh.
Bạn tôi bảo tôi đổi chỗ ngồi để bạn tôi lái. Chiếc xe lại rời lề đường nhập vào xa lộ tăng dần tốc độ. Tôi điều chỉnh ghế ngồi, ngả mình. Bạn tôi nói, ừ, vậy đó, ngủ một giấc cho khỏe người. Tôi lim dim mắt nhìn lên bầu trời cao trước mặt, chờ giấc ngủ tới. Nhưng tôi không ngủ được. Bỗng dưng Đà Lạt hiện lên. Mé này là Đồi Cù, là mặt hồ gương, là nhà thờ Con Gà; mé kia là con đường sương mù Liên và tôi đi qua nhiều lần, một bên đồi thông xanh biếc, bên kia là triền đất đổ xuống thung lũng trồng nhiều loại rau cải, là khu Đại Học, là chùa Linh Sơn; mé nọ là Cây Số Bốn, Cây Số Sáu, là ngôi nhà tranh mái thấp hơn mặt đường, có con dế lửa gáy vang lừng tuổi thơ trong một buổi sáng lặng câm trời mưa lâm râm, và con đường dài những ngày tản cư con Ba Tô chạy theo chiếc xe ngựa lóc cóc mà lại còn ham đuổi chim đuổi thỏ; rồi chệch qua một chút là đường Hai Bà Trưng hai bên nhiều thông, có mấy khúc cong, có một đoạn dốc đổ xuống đường Hoàng Diệu, và có ngôi nhà thân yêu trong đó cái phòng khách đôi khi trông trống trải, lành lạnh, nhưng cái nhà bếp và bếp lửa thì êm đềm, ấm áp vô cùng. Tôi lại buồn ngủ. Giá tôi được ngủ ngồi trên chiếc ghế dựa đặt cạnh bếp lửa ấy lơ mơ nghe tiếng than nổ lách tách, tiếng gió rít từng hồi ngoài kia. Chiếc xe chạy nhanh thêm trên xa lộ êm, thẳng và rộng mang cho tôi cái cảm giác bềnh bồng, và kia kìa, tôi lại thấy rõ chứ không phải tôi đang mơ, đúng lại là cái thành phố đó nữa rồi, phía trên cao, trên không trung, trên trời, Đà Lạt chờn vờn bay bay cùng với phố phường, suối ngàn, hồ thác, rừng thông, đồi non, và sương mù./
Ngự Thuyết, Ông bà Võ Phiến, Nguyễn Tường Thiết, Phạm Phú Minh, Trần Huy Bích.
Vài Nhận định về Ngự Thuyết
Anh tìm ra được một kỹ thuật mạnh, mới, độc đáo. Kỹ thuật rất thích hợp với nội dung đề tài. Đã mấy năm nay tôi chưa gặp được truyện nào, của ai, đọc thích bằn
g. Tiếc là từ lúc Dấu Chân II ra đời tới nay chưa thấy ai phát huy đúng mức (trên các báo chí) ...
g. Tiếc là từ lúc Dấu Chân II ra đời tới nay chưa thấy ai phát huy đúng mức (trên các báo chí) ...
Anh, tuổi đã cao, đã nghỉ hưu, mà cái viết còn phong độ ngon lành quá. Viết cứ phơi phới, phon phon. Thấy mà ham!
(Võ Phiến)
Đối với Ngự Thuyết, nội dung và hình thức là một thể nhất quán bao trùm mọi đề tài, trong đó tâm thức lưu đày được trình bày khá nhiều dưới những dạng khác nhau.
Nếu Bùi Giáng không thể nào tìm ra được cố quận, thì con người, nói như thầy Khổng, chỉ đi quẩn quanh trong một cuộc lữ hành bất tận. Đây là tư duy nòng cốt của Ngự Thuyết. Đây không phải là những tư duy triết học khô cứng kiểu Mircea Eliade. Nó là một hiện thực làm cho Ngự Thuyết băn khoăn và còn “vang vọng lâu dài vào hồn, vào tim của những thế hệ mai sau”. Tôi tin rằng Ngự Thuyết sẽ là một nhà văn lớn nếu ông tự giải quyết được cho mình những bức xúc mà Lưu Đày và Quê Nhà đang giày vò tâm tư ông.
(Lê Hữu Mục )
Tận cùng thống khổ thì văn chương là tấm ván cứu rỗi chẳng khác gì tôn giáo. Do đó mới có nhà văn Ngự Thuyết. Văn của anh là đời sống của những người bất hạnh quanh anh, qua đôi mắt quan sát và ghi nhận của riêng anh ...
Chính thế giới nhân vật của Ngự Thuyết đã làm cho tôi hoang mang, và dư âm của cảm giác ấy cứ đeo đẳng mãi không rời ...
Riêng tôi, những truyện tôi thích nhất trong các tác phẩm của anh đều là những truyện rắc rối, phức tạp, đôi khi dài dòng …
Ngự Thuyết viết công phu. Có người còn nghĩ Ngự Thuyết viết phức tạp …Ông không theo những vết bánh xe văn học cũ, mà tự tìm một bút pháp riêng cho mình. Mỗi tác phẩm là một thí nghiệm, một tìm tòi, một khám phá về cách viết …
(Mai Kim Ngọc)
Ông đi rất gần cuộc sống và hơi thở của thời đại …
Các miêu tả bề mặt của ông sẽ thoáng cho thấy cái thế giới sóng ngầm dữ dội và phức tạp bên dưới …
( Phạm Phú Minh)
Hiện sống và làm việc tại Hoa Kỳ
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua