Phạm Duy
Phạm Duy Cẩn
Phạm Duy Cẩn
(Sinh ngày 5/10/1921 - Mất lúc 14g30 ngày 27/01/2013)
Hưởng thọ 92 tuổi
Hưởng thọ 92 tuổi
Nhạc Sĩ
Phạm Duy sinh tại Hà Nội, tên thật là Phạm Duy Cẩn.
Ông là nhạc sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc, là một trong những nhạc sĩ lớn của nền tân nhạc Việt Nam với số lượng tác phẩm đa dạng, nhiều thể loại và đồ sộ nhất từ trước tới nay. Phạm Duy đã có hơn một nghìn ca khúc được người đời biết đến và quá nửa đã trở thành quen thuộc với người Việt Nam trong và ngoài nước, ở khắp năm châu.
Ông còn là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu âm nhạc giá trị và nguyên là Giáo sư nhạc ngữ tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn.
Năm 1975 ông đã cùng gia đình sang định cư tại Hoa Kỳ.
Ba mươi năm sau ông trở về sống và an dưỡng những ngày cuối đời tại Việt Nam.
Ông mất lúc 14g30 ngày 27 tháng giêng năm 2013 tại bệnh viện 115 vì tuổi già sức yếu, trong vòng tay của người thân và bạn bè.
Ông là nhạc sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc, là một trong những nhạc sĩ lớn của nền tân nhạc Việt Nam với số lượng tác phẩm đa dạng, nhiều thể loại và đồ sộ nhất từ trước tới nay. Phạm Duy đã có hơn một nghìn ca khúc được người đời biết đến và quá nửa đã trở thành quen thuộc với người Việt Nam trong và ngoài nước, ở khắp năm châu.
Ông còn là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu âm nhạc giá trị và nguyên là Giáo sư nhạc ngữ tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn.
Năm 1975 ông đã cùng gia đình sang định cư tại Hoa Kỳ.
Ba mươi năm sau ông trở về sống và an dưỡng những ngày cuối đời tại Việt Nam.
Ông mất lúc 14g30 ngày 27 tháng giêng năm 2013 tại bệnh viện 115 vì tuổi già sức yếu, trong vòng tay của người thân và bạn bè.
Hưởng thọ 92 tuổi.
câu trả lời phỏng vấn của ông trên Báo Thanh Niên vào tháng 6.2012:
“Tôi nghĩ, tôi chết cũng như sống thôi, vì gia tài để lại của tôi nhiều lắm. Một trăm năm nữa, nếu người ta vẫn hát bài Tình ca với câu Tôi yêu tiếng nước tôi, 999 bài còn lại, người ta quên cũng được”.
Nhạc Sĩ Phạm Duy: Tâm nguyện cuối đời
Việt Nam, Việt Nam, nghe tự vào đời
Việt Nam, hai câu nói
Bên vành nôi: Việt Nam, nước tôi
Việt Nam, Việt Nam, tên gọi là người
Việt Nam, hai câu nói
Sau cùng khi lìa đời
Việt Nam đây miền xinh tươi
Việt Nam đem vào sông núi
Tự Do, Công Bình, Bác Ái muôn đời
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt Nam trên đường tương lai
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyền tranh đấu cho đời
Tình Yêu đây là khí giới
Tình Thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người
Việt Nam! Việt Nam!
Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam! Việt Nam!
Việt Nam muôn đời!
Tiểu Sử
Phạm Duy (5 tháng 10 năm 1921 - 27 tháng 1 năm 2013), tên thật Phạm Duy Cẩn là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu nhạc người Việt Nam. Ông được coi như một trong những nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. Nhạc của ông thường kết hợp những yếu tố của âm nhạc cổ truyền Việt Nam với các trào lưu, phong cách mới, tạo nên nhiều tác phẩm có tính đột phá, giàu ảnh hưởng đối với các nhạc sĩ thuộc nhiều thế hệ. Ngoài sáng tác và biểu diễn, ông còn có những công trình khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị. Ông từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Với hơn 70 năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước, ông được coi là cây đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam. Tuy vậy bên cạnh đó, các quan điểm nhìn nhận về ông cũng khác biệt, chủ yếu là do các vấn đề chính trị.
Khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trong gánh hát Đức Huy với vai trò phó quản lí và ca sĩ hát lưu động. Từng tham gia Kháng chiến chống Pháp một thời gian trước khi vào miền Nam để tiếp tục tự do hoạt động âm nhạc. Phạm Duy là một tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực dành cho cả âm nhạc và chính trị, và những hoạt động này còn tiếp diễn sau giai đoạn 1975, khi ông di tản sang Hoa Kỳ. Vì lý do chính trị, nhạc của ông bị cấm hoàn toàn tại miền Bắc Việt Nam sau 1954, và toàn Việt Nam sau 1975.
Năm 2005, sau nhiều lần về thăm quê hương, ông chính thức trở về Việt Nam sống và từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến lại. Tính cho tới tháng 1 năm 2014, có 244 ca khúc được cấp phép lưu hành (trong số đó có 53 ca khúc ngoại quốc do ông đặt lời Việt), trong số khoảng một ngàn sáng tác của ông.
Khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trong gánh hát Đức Huy với vai trò phó quản lí và ca sĩ hát lưu động. Từng tham gia Kháng chiến chống Pháp một thời gian trước khi vào miền Nam để tiếp tục tự do hoạt động âm nhạc. Phạm Duy là một tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực dành cho cả âm nhạc và chính trị, và những hoạt động này còn tiếp diễn sau giai đoạn 1975, khi ông di tản sang Hoa Kỳ. Vì lý do chính trị, nhạc của ông bị cấm hoàn toàn tại miền Bắc Việt Nam sau 1954, và toàn Việt Nam sau 1975.
Năm 2005, sau nhiều lần về thăm quê hương, ông chính thức trở về Việt Nam sống và từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến lại. Tính cho tới tháng 1 năm 2014, có 244 ca khúc được cấp phép lưu hành (trong số đó có 53 ca khúc ngoại quốc do ông đặt lời Việt), trong số khoảng một ngàn sáng tác của ông.
Phạm Duy Cẩn lúc nhỏ.
Phạm Duy, hai chữ đó là tên gọi, kỳ lạ thay, cũng là huyền thoại ngay trong thời gian có Duy góp mặt.
Tạ Tỵ
Người nhạc sỹ có khối lượng tác phẩm đồ sộ và giá trị nhất Việt Nam đến ngàn đời còn lưu lại với sử xanh.
Tô Hải
Phạm Duy là con người muốn sống tự do, không muốn sống theo quy luật, lề lối một cách áp đặt, bó buộc. Trên đường chánh trị thì không có đảng phái. Về mặt tín ngưỡng thì không nghiêng về phía tôn giáo nào. Duy sống theo con người của Duy, một con người tự do tự tại, phóng túng và ngang tàng, nhưng cũng “thẳng” và “thật” đối với chính cuộc sống của mình.
Trần Văn Khê
Ông nhạc sĩ này khi vui buồn, khi ca ngợi tâng bốc khi chê bai, chửi bới trong đời thường, đều không phải là thực. Tất cả đều là hư chiêu. Nhạc của ông mới là chân lý. Thính giả của ông mới là đối tượng.
Giao Chỉ
Phạm Duy Cẩn sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 (5 tháng 9 năm Tân Dậu) tại số 40 Rue Takou (nay là Phố Hàng Cót), Hà Nội, trong một gia đình văn nghiệp. Cha ông là Phạm Duy Tốn thường được coi như là nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới đầu thế kỷ 20. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine.
Lúc nhỏ, ông là cậu bé hiếu động, tính tình "văng mạng, bất cần đời", tuy vậy lại thích diễn kịch, làm trò, và mê nhạc. Ông biết dùng guitar, mandolin để chơi nhạc Tây Âu, bên cạnh đó còn tiếp thu các nhạc điệu dân ca miền Bắc, hay những bài ca Huế như Nam Ai, Nam Bình, Tứ Đại Cảnh… Ngoài nền văn hóa mang tính nhân bản của Pháp, ông còn được tiếp xúc với văn hóa cổ truyền, qua các tác phẩm của cha Phạm Duy Tốn, hay cuốn "Tục ngữ phong dao" của người anh họ Nguyễn Văn Ngọc.
Về học hành chính quy, Phạm Duy chỉ có bốn năm tiểu học và một năm trung học, nhưng những bài học trong các sách Quốc văn giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, đã in đậm trong tâm hồn ông trước khi bước vào xã hội, hình thành cho ông một quan niệm về "đức độ của con người Việt Nam" mà ông nhấn mạnh là "con người ở nông thôn", chứ không phải ở thành thị. Ông học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học Tiểu học tại trường Hàng Vôi. Tính ông nghịch ngợm, học không giỏi, thường hay bị phạt. Đến năm 13 tuổi (1934), vào được lớp nhất, ông mới học giỏi dần, trở thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp.
Năm 1936, ông vào học trường Thăng Long, một trường trọng điểm của thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có các nhân vật nổi tiếng như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Tuyên, Phan Anh, Khuất Duy Tiến. Trong đám bạn cùng lớp có người sau này trở thành nhà thơ như Quang Dũng. Một năm học trung học giúp ông hấp thụ thêm những cái hay cái đẹp của nền văn chương Pháp, của Victor Hugo, André Chenier, Alfred de Vigny, Bernadin de Saint Pierrre...
Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông theo học dự thính hội họa tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học thầy Tô Ngọc Vân, cùng lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... Tuy nhiên ông sớm nhận ra mình không có niềm đam mê thật sự đối với hội họa. Ông cũng trải qua nhiều công việc khác như phụ gánh xiếc, thợ sửa radio, coi sóc trang trại... tại nhiều tỉnh thành, nhưng đều bỏ nghề và dời chỗ ở sau một thời gian ngắn. Tuy rằng không có nghề nào lâu dài, nhưng việc sống ở nhiều nơi, trải qua nhiều hoàn cảnh sống khác nhau cũng là những chất liệu quan trọng giúp ích cho sự nghiệp âm nhạc sau này. Cùng với giai đoạn lang thang vô định này, ông cũng dần nhận ra niềm đam mê âm nhạc của mình. Phạm Duy tự mày mò học nhạc cổ điển, rồi tập sáng tác. Trong cuộc đời của mình, ông chưa từng học chính quy một trường lớp âm nhạc nào.
Năm 1941, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông... và nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết trong đời sống lẫn trong âm nhạc. Thời kỳ này, ngoài việc cùng Văn Cao la cà các chốn ăn chơi, thì ông cũng giúp đỡ cho Văn Cao trong việc soạn nhạc, cùng Văn Cao sáng tác các tác phẩm Bến xuân, Suối mơ.
Năm 1942, ông khởi nghiệp sáng tác nhạc với tác phẩm hoàn chỉnh đầu tay là "Cô hái mơ", phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong thời kỳ phong trào Tân nhạc bắt đầu nở rộ.
Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp, ông cùng hai kép trong gánh hát Đức Huy bị bắt vào tù khi đang lưu diễn ở Cà Mau. Cũng năm này ông theo kháng chiến, trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó.
Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng tại chiến khu Việt Bắc, người chủ trì của hôn lễ này là tướng Nguyễn Sơn.
Năm 1951, do không phục Việt Minh, ông bỏ về Hà Nội. Sau khi sinh con đầu lòng Duy Quang, ông đưa gia đình di cư vào Nam, sinh sống tại Sài Gòn. Cuối năm 1951, bị một số nhạc sĩ ghen tị tố cáo là có quan hệ với Việt Minh, ông cùng với Lê Thương và Trần Văn Trạch bị bắt giam ở khám Catinat, Sài Gòn trong 120 ngày. Năm 1953, ông qua Pháp học dự thính hai năm về âm nhạc, tại đây ông quen với Trần Văn Khê, người sau này trở thành giáo sư. Hai năm sau, ông về Việt Nam thì đất nước đã chia cắt sau hiệp định Genève. Từ đó ông ở miền Nam tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long cùng với Thái Thanh, Hoài Nam, Hoài Bắc, Hoài Trung tại phòng trà Đêm màu hồng. Thời gian này ông cũng có những hoạt động trong ngành sân khấu và thông tin đại chúng, như viết nhạc kịch, viết nhạc cho phim và cộng tác với đài Phát thanh.
Năm 1956, xảy ra vụ ngoại tình giữa ông và người vợ của em vợ, vụ việc trở thành một đề tài gây xôn xao trên các báo chí Sài Gòn và cả Hà Nội. Đây là một "mối tình cấm", "cả gan" luôn làm ông "buồn rầu khi phải nhắc lại" vì đã làm buồn lòng người vợ, người em vợ, và vì biết rằng những đổ vỡ kia không thể hàn gắn được". Sau vụ tai tiếng trên, ông không còn hợp tác với ban hợp ca Thăng Long nữa. Trong lúc tinh thần suy sụp, ông đi vào một mối tình đặc biệt với Alice, con gái của Helen - tình nhân cũ của ông. Đây là mối tình "giữa hai tâm hồn", "không đụng chạm thể xác", được xây dựng trong 10 năm và chính là nguồn cảm hứng lớn để ông viết nên nhiều tác phẩm nhạc tình giá trị, như Chỉ chừng đó thôi, Thương tình ca....
Gia đình ông chuyển đến căn nhà nhỏ ở cư xá Chu Mạnh Trinh ở ngã tư Phú Nhuận, nơi có nhiều gia đình nghệ sĩ tới ở, như gia đình Nguyễn Mạnh Côn, Năm Châu, Duyên Anh, Hồ Anh, Anh Ngọc, Trần Ngọc, Hoàng Nguyên, Minh Trang, Kim Tước. Không còn hợp tác với ban Thăng Long, Phạm Duy vào làm việc ở Trung tâm Điện ảnh. Thời gian này ông hay lui tới quán Chùa (La Pagode), gặp gỡ Vũ Khắc Khoan, Cung Trầm Tưởng, Võ Đức Diên, Mặc Thu, Tạ Tỵ, Lê Ngộ Châu... Ông được Võ Đức Diên và các bạn bè giúp đỡ đi một chuyến từ Sài Gòn ra vĩ tuyến 17 để hoàn thành nốt trường ca Con đường cái quan.
Thập niên 1960, sau khi Việt Nam Cộng Hoà được nhiều quốc gia thân Mỹ công nhận, cùng với các bạn nghệ sĩ khác, Phạm Duy được cử đi Philippin, Nhật Bản, Thái Lan để giới thiệu văn nghệ Việt Nam. Và với ít nhiều kinh nghiệm bang giao, ông thường có mặt trong những buổi đón tiếp các phái đoàn văn nghệ nước ngoài, như đoàn vũ trống của Hàn Quốc, đoàn Moral Rearmement của Mỹ... Nhờ đó ông có dịp trao đổi tài liệu âm nhạc với các văn nghệ sĩ nước ngoài.
Năm 1965, ông tham gia phong trào Du ca với Nguyễn Đức Quang, Giang Châu, Ngô Mạnh Thu... đi nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam để phổ biến các ca khúc nói lên thân phận của tuổi trẻ thời đó.
Năm 1966, ông được văn phòng Giáo dục Văn hóa của Bộ ngoại giao Mỹ mời sang nước này, tại đây ông được mời tham quan các đài truyền hình, nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ The Beers Family, Petersburg. Ông được đài Channel 13 với Steve Addiss và Bill Crofut, mời tham gia chương trình dân ca của Pete Seeger, nhạc sĩ phản chiến số một của Hoa Kỳ. Bốn năm sau ông lại qua Hoa Kỳ lần nữa để làm cố vấn cho Bộ thông tin Hoa Kỳ để "giải độc dư luận Mỹ". Tại đây ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ Lai, và phản ứng của ông là ca khúc ''Kể chuyện đi xa''. Ông cũng hát nhiều ca khúc phản chiến tại các show truyền hình, sân khấu ở Mỹ.
Cuối thập niên 1960, ban nhạc gia đình "The Dreamers" của các con ông ra đời, ông cùng ban này đi biểu diễn tại các phòng trà, nhà hàng Sài Gòn. Đây cũng là thời gian băng Cassette thịnh hành, giúp ông có được nhiều khoản thu nhập từ tiền tác quyền, trở nên giàu có.
Từ 1970 tới 1975, với nhiều diễn biến lớn diễn ra tại Việt Nam, đời sống cũng như công việc của ông cũng có nhiều bất ổn. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, đài phát thanh của mặt trận giải phóng miền Nam cho đăng tuyên bố tử hình vắng mặt Phạm Duy và hai người khác vì thái độ chống cộng. Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, trước việc quân Việt Nam dân chủ cộng hòa vào miền Nam, Phạm Duy quyết định đưa gia đình di tản ra nước ngoài. Ngày 28 tháng 4, ông và vợ, hai con gái được máy bay của Mỹ đem đi .
Trải qua nhiều khó khăn của hành trình di tản, ông và gia đình cũng ổn định, cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California. Thời kỳ này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ chức cũng như tham gia các đêm nhạc về mình.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, ông quyết định thực hiện những chuyến về thăm quê hương sau 25 năm xa cách.
Tháng 5 năm 2005, ông chính thức trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang, Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, lần đầu tiên kể từ năm 1975, 9 bài hát của ông được cấp phép phổ biến. Thời kỳ này ông vẫn hoạt động âm nhạc, tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm sút, nhiều bệnh được phát hiện ra.
Ngày 27 tháng 1 năm 2013, sau một thời gian nằm viện, ông qua đời, một tháng sau cái chết của con cả ông là ca sĩ Duy Quang. Tang lễ của ông được tổ chức tại nhà riêng và đã được đem chôn tại Công viên Nghĩa trang Bình Dương vào ngày 3 tháng 2 năm 2013.
Gia đình ông chuyển đến căn nhà nhỏ ở cư xá Chu Mạnh Trinh ở ngã tư Phú Nhuận, nơi có nhiều gia đình nghệ sĩ tới ở, như gia đình Nguyễn Mạnh Côn, Năm Châu, Duyên Anh, Hồ Anh, Anh Ngọc, Trần Ngọc, Hoàng Nguyên, Minh Trang, Kim Tước. Không còn hợp tác với ban Thăng Long, Phạm Duy vào làm việc ở Trung tâm Điện ảnh. Thời gian này ông hay lui tới quán Chùa (La Pagode), gặp gỡ Vũ Khắc Khoan, Cung Trầm Tưởng, Võ Đức Diên, Mặc Thu, Tạ Tỵ, Lê Ngộ Châu... Ông được Võ Đức Diên và các bạn bè giúp đỡ đi một chuyến từ Sài Gòn ra vĩ tuyến 17 để hoàn thành nốt trường ca Con đường cái quan.
Thập niên 1960, sau khi Việt Nam Cộng Hoà được nhiều quốc gia thân Mỹ công nhận, cùng với các bạn nghệ sĩ khác, Phạm Duy được cử đi Philippin, Nhật Bản, Thái Lan để giới thiệu văn nghệ Việt Nam. Và với ít nhiều kinh nghiệm bang giao, ông thường có mặt trong những buổi đón tiếp các phái đoàn văn nghệ nước ngoài, như đoàn vũ trống của Hàn Quốc, đoàn Moral Rearmement của Mỹ... Nhờ đó ông có dịp trao đổi tài liệu âm nhạc với các văn nghệ sĩ nước ngoài.
Năm 1965, ông tham gia phong trào Du ca với Nguyễn Đức Quang, Giang Châu, Ngô Mạnh Thu... đi nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam để phổ biến các ca khúc nói lên thân phận của tuổi trẻ thời đó.
Năm 1966, ông được văn phòng Giáo dục Văn hóa của Bộ ngoại giao Mỹ mời sang nước này, tại đây ông được mời tham quan các đài truyền hình, nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ The Beers Family, Petersburg. Ông được đài Channel 13 với Steve Addiss và Bill Crofut, mời tham gia chương trình dân ca của Pete Seeger, nhạc sĩ phản chiến số một của Hoa Kỳ. Bốn năm sau ông lại qua Hoa Kỳ lần nữa để làm cố vấn cho Bộ thông tin Hoa Kỳ để "giải độc dư luận Mỹ". Tại đây ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ Lai, và phản ứng của ông là ca khúc ''Kể chuyện đi xa''. Ông cũng hát nhiều ca khúc phản chiến tại các show truyền hình, sân khấu ở Mỹ.
Cuối thập niên 1960, ban nhạc gia đình "The Dreamers" của các con ông ra đời, ông cùng ban này đi biểu diễn tại các phòng trà, nhà hàng Sài Gòn. Đây cũng là thời gian băng Cassette thịnh hành, giúp ông có được nhiều khoản thu nhập từ tiền tác quyền, trở nên giàu có.
Từ 1970 tới 1975, với nhiều diễn biến lớn diễn ra tại Việt Nam, đời sống cũng như công việc của ông cũng có nhiều bất ổn. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, đài phát thanh của mặt trận giải phóng miền Nam cho đăng tuyên bố tử hình vắng mặt Phạm Duy và hai người khác vì thái độ chống cộng. Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, trước việc quân Việt Nam dân chủ cộng hòa vào miền Nam, Phạm Duy quyết định đưa gia đình di tản ra nước ngoài. Ngày 28 tháng 4, ông và vợ, hai con gái được máy bay của Mỹ đem đi .
Trải qua nhiều khó khăn của hành trình di tản, ông và gia đình cũng ổn định, cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California. Thời kỳ này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ chức cũng như tham gia các đêm nhạc về mình.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, ông quyết định thực hiện những chuyến về thăm quê hương sau 25 năm xa cách.
Tháng 5 năm 2005, ông chính thức trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang, Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, lần đầu tiên kể từ năm 1975, 9 bài hát của ông được cấp phép phổ biến. Thời kỳ này ông vẫn hoạt động âm nhạc, tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm sút, nhiều bệnh được phát hiện ra.
Ngày 27 tháng 1 năm 2013, sau một thời gian nằm viện, ông qua đời, một tháng sau cái chết của con cả ông là ca sĩ Duy Quang. Tang lễ của ông được tổ chức tại nhà riêng và đã được đem chôn tại Công viên Nghĩa trang Bình Dương vào ngày 3 tháng 2 năm 2013.
Gia đình
Gia đình Phạm Duy có nhiều người nổi tiếng trong lãnh vực nghệ thuật, ngoài người cha Phạm Duy Tốn và anh trai Phạm Duy Khiêm là những nhà văn có tiếng, còn có anh thứ Phạm Duy Nhượng cũng là một nhạc sĩ, tác giả ca khúc Tà áo Văn Quân. Một người anh họ của ông là học giả Nguyễn Văn Ngọc, tác giả cuốn Tục ngữ phong dao. Học giả Trần Trọng Kim từng nhận ông làm con nuôi.
Đến khi lập gia đình, ngoài vợ ông là ca sĩ Thái Hằng, còn có em vợ là danh ca Thái Thanh, anh vợ là các nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nghệ sỹ Phạm Đình Sỹ, ca sĩ Phạm Đình Viêm tức Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Các con ông được ông hướng dẫn theo nghiệp nhạc, đều có thành công trong lĩnh vực của mình: con trai cả là ca sĩ Duy Quang, rồi đến nhạc sĩ hòa âm Duy Cường, con gái là các ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo.
Ngoài ra có thể kể đến các ca sĩ Tuấn Ngọc, chồng của Thái Thảo, tức con rể Phạm Duy; các cháu gái như ca sĩ Ý Lan, con gái của Thái Thanh, và Mai Hương, con gái Phạm Đình Sỹ.
Đến khi lập gia đình, ngoài vợ ông là ca sĩ Thái Hằng, còn có em vợ là danh ca Thái Thanh, anh vợ là các nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nghệ sỹ Phạm Đình Sỹ, ca sĩ Phạm Đình Viêm tức Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Các con ông được ông hướng dẫn theo nghiệp nhạc, đều có thành công trong lĩnh vực của mình: con trai cả là ca sĩ Duy Quang, rồi đến nhạc sĩ hòa âm Duy Cường, con gái là các ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo.
Ngoài ra có thể kể đến các ca sĩ Tuấn Ngọc, chồng của Thái Thảo, tức con rể Phạm Duy; các cháu gái như ca sĩ Ý Lan, con gái của Thái Thanh, và Mai Hương, con gái Phạm Đình Sỹ.
Sự nghiệp
'Tôi là một người hát rong, sung sướng được làm người hát rong của thế kỷ."
Phạm Duy.
Phạm Duy.
Có lẽ Phạm Duy là một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải cách với một giọng hoàn toàn Việt Nam.
Nguyễn Văn Cổn
Một người nhạc sĩ có đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó.
Trần Văn Khê
Nguyễn Văn Cổn
Một người nhạc sĩ có đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó.
Trần Văn Khê
Ca sĩ
Phạm Duy bắt đầu sự nghiệp âm nhạc với vai trò ca sĩ hát Tân nhạc trong gánh hát Cải lương Đức Huy - Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi nhiều miền trên đất nước, giúp ông mở mang tầm mắt, ngoài ra khiến ông trở thành một nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Với giọng hát điêu luyện, đậm chất Việt của mình, ông đã đưa tên tuổi các nhạc sĩ như Đặng Thế Phong, Văn Cao đi khắp đất nước Việt Nam. Trong bài báo Tài Tử Phạm Duy để giới thiệu ca sĩ Phạm Duy, đăng trên tờ Revue Radio Indochine số 47, ra ngày Tết dương lịch năm 1944, Nguyễn Văn Cổn đã khắc họa: "..Người thiếu niên này với gương mặt gầy ốm, một cặp mắt hiền từ và mơ màng sau cặp kính trắng, với cách cử chỉ khoan thai và nhã nhặn, đó là Phạm Duy(...) Có lẽ trong tiếng hát của Phạm Duy, chúng ta thấy một cái gì hơi xa xăm, buồn tủi, phải chăng đời của nghệ sĩ như đầy những sự nhớ nhung, thương tiếc, đợi chờ, mà tiếng hát Phạm Duy là tiếng lòng thổn thức (...) Mỗi lần Phạm Duy lên ca hát tại Đài Vô Tuyến là mỗi lần các thính giả xa gần đều lặng yên để thụ hưởng những sự dịu dàng trong trẻo, như thanh điệu êm ái (...) Bài Buồn Tàn Thu mà Phạm Duy hát lên có lẽ ai cũng nhận thấy sự cảm động của một tâm hồn mong mỏi người xa xôi (...) đưa cái bài Buồn Tàn Thu tới những tâm hồn mong mỏi (...) ...Nhưng nói về nghệ thuật, thì có lẽ Phạm Duy là một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải cách với một giọng hoàn toàn Việt Nam, có nhiều tài tử cứ tưởng lầm rằng họ ca hát những âm nhạc mới, tức là phải có một giọng Âu Mỹ, thật là sai lầm (...) Phạm Duy lại còn là một nghệ sĩ rất có lương tâm nhà nghề trước khi hát, trước khi biểu diễn, Phạm Duy rất chăm chú tập dượt những bài hát (...)"
Với giai đoạn này, nhạc sĩ Văn Cao gọi Phạm Duy là "kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi khắp chốn". Ông từng hát riêng cho vua Bảo Đại nghe trong một chuyến lưu diễn ở Phan Rang. Khi đã theo kháng chiến, với cây đàn guitar, Phạm Duy tiếp tục đem giọng hát của mình phục vụ anh em chiến sĩ, mà theo Tạ Tỵ, tiếng hát Phạm Duy lúc này "mang một âm hưởng khác, một nội dung khác, ở đó, Duy không còn là kẻ đứng ngoài hát cho người khác nghe, mà nó chính là tiếng thét oai hùng của một thế hệ thanh niên đã ý thức được vai trò của mình trong lịch sử".
Thời gian khi đã vào nghề sáng tác, Phạm Duy cũng duy trì công việc ca hát của mình, một cách không đều đặn. Tiếng hát của ông từng được phát trên các đài truyền thanh, truyền hình lớn trên Nam Việt cũng như thế giới. Ông đi hát rong cùng James Durst, Pete Seeger trong các chương trình giao lưu văn hóa Việt Mỹ, hay các chương trình nhạc phản chiến, phong trào du ca. Bên cạnh đó, Phạm Duy còn tự thâu âm những băng nhạc Tục ca, Tâm ca, Vỉa hè ca, Ngục ca và trong giai đoạn đầu lưu vong ở Hải ngoại, là hát rong trong nhóm nhạc Gia đình Phạm Duy, cùng với Thái Hằng, Thái Hiền.
Với giai đoạn này, nhạc sĩ Văn Cao gọi Phạm Duy là "kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi khắp chốn". Ông từng hát riêng cho vua Bảo Đại nghe trong một chuyến lưu diễn ở Phan Rang. Khi đã theo kháng chiến, với cây đàn guitar, Phạm Duy tiếp tục đem giọng hát của mình phục vụ anh em chiến sĩ, mà theo Tạ Tỵ, tiếng hát Phạm Duy lúc này "mang một âm hưởng khác, một nội dung khác, ở đó, Duy không còn là kẻ đứng ngoài hát cho người khác nghe, mà nó chính là tiếng thét oai hùng của một thế hệ thanh niên đã ý thức được vai trò của mình trong lịch sử".
Thời gian khi đã vào nghề sáng tác, Phạm Duy cũng duy trì công việc ca hát của mình, một cách không đều đặn. Tiếng hát của ông từng được phát trên các đài truyền thanh, truyền hình lớn trên Nam Việt cũng như thế giới. Ông đi hát rong cùng James Durst, Pete Seeger trong các chương trình giao lưu văn hóa Việt Mỹ, hay các chương trình nhạc phản chiến, phong trào du ca. Bên cạnh đó, Phạm Duy còn tự thâu âm những băng nhạc Tục ca, Tâm ca, Vỉa hè ca, Ngục ca và trong giai đoạn đầu lưu vong ở Hải ngoại, là hát rong trong nhóm nhạc Gia đình Phạm Duy, cùng với Thái Hằng, Thái Hiền.
Sáng tác
Tuy là một ca sĩ có được nhiều thành công đặc biệt, nhưng sự nghiệp chính và quan trọng nhất của Phạm Duy là sáng tác, bắt đầu từ ca khúc Cô hái mơ, nếu không tính các ca khúc nghịch ngợm, truyền miệng, hay các ca khúc đặt lời cho nhạc ngoại quốc từ thuở thiếu niên.
Thời kỳ tiền chiến
“ Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!... ”
— Câu mở đầu của bài Tình ca, ca khúc nổi tiếng nhất của Phạm Duy viết trong giai đoạn trước 1954.
“ Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!... ”
— Câu mở đầu của bài Tình ca, ca khúc nổi tiếng nhất của Phạm Duy viết trong giai đoạn trước 1954.
Ca khúc đầu tay của Phạm Duy là Cô hái mơ, một ca khúc phổ từ thơ Nguyễn Bính. Tới năm 1944, ông cho ra đời bài Gươm tráng sĩ, một ca khúc gắn với sự tích hồ Hoàn Kiếm, và là ca khúc đầu tiên được ông viết cả lời lẫn nhạc.
Bản nhạc Ngày trở về, ca khúc này được Phạm Duy viết năm 1954 khi ông lên đường đi Pháp du học.
Thời kháng chiến Nam bộ (1945–1946) ông chơi thân với Văn Cao, ngoài việc cùng ra vào chốn ăn chơi, ông và Văn Cao còn giúp nhau trong phương diện sáng tác; Ông cùng Văn Cao cũng cùng nhau làm những ca khúc như Bến xuân, Suối mơ. Thời gian đầu của sự nghiệp, ở trong vùng kháng chiến, ông sáng tác nhiều ở thể loại hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu... Bên cạnh đó là những bài nhạc tình lãng mạn đầu tay: Cô hái mơ, Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya....
Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc mang âm hưởng dân ca, mà theo ông: "Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị... Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa", từ đó cho ra đời thể loại mà ông gọi là "Dân ca mới", Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều... Những bài này được ông sáng tác dựa trên 2 tiêu chí:
Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn.
Về nội dung, nhạc Phạm Duy ở giai đoạn kháng chiến chủ yếu là những bài nhạc hùng, nhạc vui, thường mang tính chất lạc quan: Gánh lúa, Đường ra biên ải..., hay ca ngợi kháng chiến, ca ngợi công lao của Hồ Chí Minh như Bên ni bên tê, Ngọn trào quay súng, Đường về quê. Từ năm 1948, ông bắt đầu khai thác thêm đề tài mặt trái của cuộc kháng chiến, đó là sự bi, sự khổ. Đề tài này là chủ đề chính trong những ca khúc: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru..., mang những câu chuyện, hình ảnh của chốn thôn quê và nỗi thống khổ của người dân quê trong thời chiến.
Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc mang âm hưởng dân ca, mà theo ông: "Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị... Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa", từ đó cho ra đời thể loại mà ông gọi là "Dân ca mới", Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều... Những bài này được ông sáng tác dựa trên 2 tiêu chí:
Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn.
Về nội dung, nhạc Phạm Duy ở giai đoạn kháng chiến chủ yếu là những bài nhạc hùng, nhạc vui, thường mang tính chất lạc quan: Gánh lúa, Đường ra biên ải..., hay ca ngợi kháng chiến, ca ngợi công lao của Hồ Chí Minh như Bên ni bên tê, Ngọn trào quay súng, Đường về quê. Từ năm 1948, ông bắt đầu khai thác thêm đề tài mặt trái của cuộc kháng chiến, đó là sự bi, sự khổ. Đề tài này là chủ đề chính trong những ca khúc: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru..., mang những câu chuyện, hình ảnh của chốn thôn quê và nỗi thống khổ của người dân quê trong thời chiến.
Tình ca
Thái Thanh trình bày một đoạn bài Tình ca, một bản được xếp vào loại "Tình ca quê hương" của Phạm Duy, được sáng tác dựa trên sự phối hợp nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau.
Đường chiều lá rụng
Trích đoạn Đường chiều lá rụng qua tiếng hát Thái Thanh, ví dụ cho loại nhạc được Phạm Duy xếp loại "siêu thực" và có tiết tấu phức tạp, khó hát, mang nhiều tính chất của nhạc cổ điển Tây phương.
Những bài hát này tuy được quần chúng yêu thích và phổ biến rộng rãi, nhưng do nói về sự bi, sự khổ và có chất "lãng mạn tiểu tư sản" mà Phạm Duy bắt đầu bị sự chỉ trích của cấp trên thời kháng chiến. Sau nhiều lần bị khiển trách, ông quyết định về thành. Trong 2 năm sửa soạn về thành rồi về Sài Gòn định cư (1951-1952), ông không sáng tác gì ngoài việc phổ câu ca dao thành bài dân ca là Nụ tầm xuân, và phổ bài thơ Tiếng sáo thiên thai của Thế Lữ thành một bản tango, để đáp ứng nhu cầu hát đôi của chị em Thái Thanh, Thái Hằng.
Năm 1952, Tình hoài hương ra đời tại Sài Gòn, khởi xướng cho khuynh hướng sáng tác "Tình ca quê hương": "Sau khi nói lên vinh quang và nhọc nhằn của dân tộc với nhạc kháng chiến, bây giờ tôi đi vào tình tự quê hương.." Ca khúc tiếp theo là Tình ca; hai bài này được nhân dân yêu thích và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương.
Phạm Duy tiếp nối thể loại "Tình ca quê hương" bằng một thể loại mà ông gọi là "Tình tự dân tộc", bắt đầu từ năm 1954, với bộ ba Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, được xây dựng bằng nhạc thuật dân ca trước đây, những bài này phổ biến tại miền Nam và theo Phạm Duy: "nó được các lớp nhạc sĩ trẻ như Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh tức Nhật Trường... hưởng ứng để soạn ra những bài mà họ gọi là dân ca mambo bolero".
Giai đoạn này ông vẫn tiếp tục với các bài dân ca mới: Đố ai, Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo... Bên cạnh đó là Thuyền viễn xứ, Viễn du, Hẹn hò nói về sự chia lìa quê hương, chia lìa đôi lứa trong những ngày đất nước Việt Nam sắp sửa chia đôi bởi hiệp định Geneva. Ngoài ra còn có những ca khúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì...
Năm 1952, Tình hoài hương ra đời tại Sài Gòn, khởi xướng cho khuynh hướng sáng tác "Tình ca quê hương": "Sau khi nói lên vinh quang và nhọc nhằn của dân tộc với nhạc kháng chiến, bây giờ tôi đi vào tình tự quê hương.." Ca khúc tiếp theo là Tình ca; hai bài này được nhân dân yêu thích và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương.
Phạm Duy tiếp nối thể loại "Tình ca quê hương" bằng một thể loại mà ông gọi là "Tình tự dân tộc", bắt đầu từ năm 1954, với bộ ba Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, được xây dựng bằng nhạc thuật dân ca trước đây, những bài này phổ biến tại miền Nam và theo Phạm Duy: "nó được các lớp nhạc sĩ trẻ như Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh tức Nhật Trường... hưởng ứng để soạn ra những bài mà họ gọi là dân ca mambo bolero".
Giai đoạn này ông vẫn tiếp tục với các bài dân ca mới: Đố ai, Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo... Bên cạnh đó là Thuyền viễn xứ, Viễn du, Hẹn hò nói về sự chia lìa quê hương, chia lìa đôi lứa trong những ngày đất nước Việt Nam sắp sửa chia đôi bởi hiệp định Geneva. Ngoài ra còn có những ca khúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì...
Thời chia cắt đất nước
“ Nước đi là nước không về
Chia đôi dòng nước chia lìa dòng sông... ”
— Mở đầu ca khúc Những dòng sông chia rẽ, thuộc trường ca Mẹ Việt Nam.
"Phạm Duy bàng bạc trong đời sống âm nhạc miền Nam."
"Khi người ta cố giữ giọt nước mắt trong lòng hay để nó lăn dài trên má; khi người ta cười nụ nhỏ hay cất tiếng hát to; khi người ta quỵ ngã hay lúc hăng hái dấn bước trên đường; người ta đều có cho mình một câu hát của Phạm Duy."
Nguyễn Đình Toàn
Từ sau hiệp định Genève cho đến năm 1975, do hoàn cảnh chính trị, sự nghiệp của Phạm Duy chủ yếu phát triển ở miền Nam Việt Nam. Đây là giai đoạn rực rỡ, quan trọng và có ảnh hưởng lớn trong sự nghiệp của ông, với sự đi sâu vào các chủ đề tình cảm, tâm tư, bên cạnh đó là các đề tài mới mẻ cũng như những ca khúc có vấn vương tới chính trị.
Trong thời gian du học Pháp (1952-1954), ông thai nghén bản trường ca đầu tiên của mình, với ý phản đối hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Sau khi du học, ông về Việt Nam tiếp tục sáng tác, ngoài một số bài mang âm hưởng dân ca, ông tiếp tục đi sâu vào nhạc tình yêu đôi lứa, qua nhiều cung bậc hạnh phúc, đau khổ, nhớ thương: Đừng xa nhau, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Thương tình ca, Kiếp nào có yêu nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Còn gì nữa đâu... Và từ đó đi sâu hơn vào việc khai thác những trạng thái tâm tưởng, với những bài hát nói về "Tình yêu - Sự đau khổ - Cái chết", ba điều quan trọng nhất lúc đó của ông, những ca khúc quan trọng của giai đoạn này có thể kể đến Nước mắt rơi, Đường chiều lá rụng, Tạ ơn đời, Một bàn tay.
Trong thời kỳ đất nước đã chia đôi, Phạm Duy với sự nổi tiếng của mình, không tránh khỏi chịu ảnh hưởng từ các vấn đề chính trị. Năm 1956, ông soạn bài Chào mừng Việt Nam để ca ngợi chế độ mới, ông gọi việc làm này là vì "bổn phận công dân". Sau đó bắt đầu những tác phẩm phục vụ cho Vụ Văn hóa, như ca kịch Chim lồng (1955), nội dung ca ngợi tự do và lên án sự ràng buộc, ám chỉ sự khác nhau của hai chế độ đang tồn tại trên đất nước Việt Nam.
Thời kỳ này, ngoài những khúc tình ca, tâm tưởng hay những bài hát liên quan tới chính trị nói chung, ông còn tạo ra các chủ đề độc đáo về tâm linh - tâm tưởng như "Đạo ca", "Tâm ca", về xã hội như "Tục ca", "Vỉa hè ca", Tâm phẫn ca, về tuổi thơ như "Bé ca"... Đa phần nhận được sự đón nhận của công chúng, tuy nhiên cũng có những thể loại gây nhiều tranh cãi vì dùng ngôn ngữ quá bình dân như "Vỉa hè ca" hay dung tục, như "Tục ca".
Năm 1963, ông khởi sự sáng tác bản trường ca Mẹ Việt Nam, đây là trường ca thứ hai sau Con đường cái quan hoàn tất trước đó vài năm. Đây được coi như hai tác phẩm lớn và thành công không chỉ trong tác phẩm của ông, mà còn trong nền âm nhạc Việt.
Năm 1973, lúc Phong trào Nhạc trẻ lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật. Bản Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết. Thập niên 1970 với sự tham gia văn nghệ của các con Duy Quang, Thái Hiền, ông có thêm những tình ca nhẹ nhàng lãng mạn thích hợp với tuổi thanh niên, sinh viên như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi, Thà như giọt mưa.... Ngoài việc tự sáng tác nhạc và lời, ông cũng không quên phổ thơ người khác thành những tác phẩm được đông đảo người yêu mến, như những bài Ngày xưa Hoàng thị, Đưa em tìm động hoa vàng, tập nhạc "Đạo ca" (phổ thơ Phạm Thiên Thư), Thà như giọt mưa, cô Bắc kỳ nho nhỏ, Em hiền như Ma-soeur (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên), Tiễn em, Mùa thu Paris (phổ thơ Cung Trầm Tưởng)...Và bên cạnh đó, ông còn đặt lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, đó là những bài nhạc mới của "phong trào nhạc trẻ", hay những bản nhạc xưa hơn, và cả nhạc bán cổ điển. Nhiều ca khúc do ông đặt lời được coi là thành công như Dạ khúc (Stanchen của Schubert), Mơ mòng (Dreaming của Schumann), Khi xưa ta bé (Bangbang)...
Một thể loại cũng mang lại thành công cho ông trong giai đoạn chiến tranh nước Việt, đó là những ca khúc nói về tâm tư của người dân, người lính trong cuộc chiến tranh Việt Nam như Kỷ vật cho em, Khi tôi về, Tình khúc trên chiến trường tồi tệ, những ca khúc mang tính phản chiến như Giọt mưa trên lá, Chuyện hai người lính, Thầm gọi tên nhau, Tưởng như còn người yêu. Ông cũng tham gia Phong trào du ca Việt Nam với nhiều ca khúc nổi bật như Việt Nam Việt Nam, Trả lại tôi tuổi trẻ, Du ca mùa xuân, và xuất bản với phong trào này tập nhạc Hoan ca bao gồm các thể loại: Bình ca, Nữ ca, Đồng dao.
Trong thời gian du học Pháp (1952-1954), ông thai nghén bản trường ca đầu tiên của mình, với ý phản đối hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Sau khi du học, ông về Việt Nam tiếp tục sáng tác, ngoài một số bài mang âm hưởng dân ca, ông tiếp tục đi sâu vào nhạc tình yêu đôi lứa, qua nhiều cung bậc hạnh phúc, đau khổ, nhớ thương: Đừng xa nhau, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Thương tình ca, Kiếp nào có yêu nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Còn gì nữa đâu... Và từ đó đi sâu hơn vào việc khai thác những trạng thái tâm tưởng, với những bài hát nói về "Tình yêu - Sự đau khổ - Cái chết", ba điều quan trọng nhất lúc đó của ông, những ca khúc quan trọng của giai đoạn này có thể kể đến Nước mắt rơi, Đường chiều lá rụng, Tạ ơn đời, Một bàn tay.
Trong thời kỳ đất nước đã chia đôi, Phạm Duy với sự nổi tiếng của mình, không tránh khỏi chịu ảnh hưởng từ các vấn đề chính trị. Năm 1956, ông soạn bài Chào mừng Việt Nam để ca ngợi chế độ mới, ông gọi việc làm này là vì "bổn phận công dân". Sau đó bắt đầu những tác phẩm phục vụ cho Vụ Văn hóa, như ca kịch Chim lồng (1955), nội dung ca ngợi tự do và lên án sự ràng buộc, ám chỉ sự khác nhau của hai chế độ đang tồn tại trên đất nước Việt Nam.
Thời kỳ này, ngoài những khúc tình ca, tâm tưởng hay những bài hát liên quan tới chính trị nói chung, ông còn tạo ra các chủ đề độc đáo về tâm linh - tâm tưởng như "Đạo ca", "Tâm ca", về xã hội như "Tục ca", "Vỉa hè ca", Tâm phẫn ca, về tuổi thơ như "Bé ca"... Đa phần nhận được sự đón nhận của công chúng, tuy nhiên cũng có những thể loại gây nhiều tranh cãi vì dùng ngôn ngữ quá bình dân như "Vỉa hè ca" hay dung tục, như "Tục ca".
Năm 1963, ông khởi sự sáng tác bản trường ca Mẹ Việt Nam, đây là trường ca thứ hai sau Con đường cái quan hoàn tất trước đó vài năm. Đây được coi như hai tác phẩm lớn và thành công không chỉ trong tác phẩm của ông, mà còn trong nền âm nhạc Việt.
Năm 1973, lúc Phong trào Nhạc trẻ lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật. Bản Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết. Thập niên 1970 với sự tham gia văn nghệ của các con Duy Quang, Thái Hiền, ông có thêm những tình ca nhẹ nhàng lãng mạn thích hợp với tuổi thanh niên, sinh viên như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi, Thà như giọt mưa.... Ngoài việc tự sáng tác nhạc và lời, ông cũng không quên phổ thơ người khác thành những tác phẩm được đông đảo người yêu mến, như những bài Ngày xưa Hoàng thị, Đưa em tìm động hoa vàng, tập nhạc "Đạo ca" (phổ thơ Phạm Thiên Thư), Thà như giọt mưa, cô Bắc kỳ nho nhỏ, Em hiền như Ma-soeur (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên), Tiễn em, Mùa thu Paris (phổ thơ Cung Trầm Tưởng)...Và bên cạnh đó, ông còn đặt lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, đó là những bài nhạc mới của "phong trào nhạc trẻ", hay những bản nhạc xưa hơn, và cả nhạc bán cổ điển. Nhiều ca khúc do ông đặt lời được coi là thành công như Dạ khúc (Stanchen của Schubert), Mơ mòng (Dreaming của Schumann), Khi xưa ta bé (Bangbang)...
Một thể loại cũng mang lại thành công cho ông trong giai đoạn chiến tranh nước Việt, đó là những ca khúc nói về tâm tư của người dân, người lính trong cuộc chiến tranh Việt Nam như Kỷ vật cho em, Khi tôi về, Tình khúc trên chiến trường tồi tệ, những ca khúc mang tính phản chiến như Giọt mưa trên lá, Chuyện hai người lính, Thầm gọi tên nhau, Tưởng như còn người yêu. Ông cũng tham gia Phong trào du ca Việt Nam với nhiều ca khúc nổi bật như Việt Nam Việt Nam, Trả lại tôi tuổi trẻ, Du ca mùa xuân, và xuất bản với phong trào này tập nhạc Hoan ca bao gồm các thể loại: Bình ca, Nữ ca, Đồng dao.
Thời kỳ ở hải ngoại
“ Tôi sinh ra để hát về nước tôi! Nước tôi đâu rồi? ”
“ Tôi sinh ra để hát về nước tôi! Nước tôi đâu rồi? ”
— Phạm Duy, trả lời phỏng vấn về vấn đề tỵ nạn Đông Dương.
Phạm Duy rời Việt Nam vào ngày 27 tháng 4 năm 1975 qua đường vượt biên. Trong 30 năm xa quê hương, sự nghiệp âm nhạc của ông vẫn tiếp tục phát triển qua nhiều đề tài, thể loại mới, tuy rằng lúc này nhạc của ông bị cấm ở Việt Nam, chỉ phổ biến trong cộng đồng nhỏ ở hải ngoại. Giai đoạn đầu, có một thời gian ông cùng các con và ca sĩ Khánh Ly đi hát tại các trại tị nạn cho người Việt lưu vong. Bên cạnh đó là in sang các băng nhạc, soạn sách dạy nhạc để kiếm tiền. Sau khi đủ vốn liếng và tự tin, ông rủ Steve Addiss, Bill Crofut, James Durst...đi hát rong tại các quán cà phê, trường Đại học, câu lạc bộ ở các thành phố Mỹ. Sau đó ông thành lập gánh hát Gia đình Phạm Duy (The Pham Duy family singers), bắt đầu mở các chương trình ca nhạc cũng như nhận lời mời đi diễn tại các sự kiện âm nhạc.
Phạm Duy cũng bắt đầu giai đoạn sáng tác mới của mình từ những ngày đầu ở Mỹ. Tác phẩm gần như xuyên suốt thời kỳ này, là tổ khúc Bầy chim bỏ xứ, thai nghén từ năm 1975 và hoàn tất năm 1990, gồm 18 khúc nhạc dài ngắn, ẩn dụ về hình ảnh của những người Việt phải rời bỏ đất nước và hy vọng vào tương lai đoàn tụ, qua hành trình ra đi và trở về của đàn chim.
Những sáng tác của Phạm Duy trong thời kỳ đầu ở hải ngoại có thể chia làm hai đề tài chính:
Nói về hành trình tìm kiếm tự do ở hải ngoại, với Tỵ nạn ca. Gồm những ca khúc viết về tình cảnh, tâm trạng của người Việt lưu vong: Nguyên vẹn hình hài, Ta trốn Cộng hay ta chống Cộng, Có phải tôi là người quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh, Hát trên đường tạm dung, Người Việt cao quý, Ta là gió muôn phương, Dấu chân trên tuyết, Quê hương còn đó,... đề tài Thuyền nhân: Hát Trên Đường Vượt Biển, tâm tư nguyện vọng của người xa xứ: Lấp biển vá trời,Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh, Lời Người Thiếu Phụ Việt Nam, Giải Thoát Cho Em, Trả Lại Chồng Tôi, Như là lòng tôi,...
Về sự mất tự do ở trong nước, với Ngục ca, phổ từ tập thơ Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện: Hát Cho Người Ở Lại, Giấc Mơ Khủng Khiếp, Hoa Địa Ngục, Từ Vượn Lên Người Từ Người Xuống Vượn, Đảng Đầy Tôi, Ngày 19 Tháng 5, Xưa Lý Bạch, Những Thiếu Nhi Điển Hình Chế Độ... có nội dung đả kích, lên án mạnh mẽ chế độ cộng sản tại Việt Nam.
Năm 1982, theo ông, "đã có một sự kiện làm cho tâm hồn tôi lắng xuống", đó là việc được đọc tập thơ chuyền tay của thi sĩ Hoàng Cầm từ Việt Nam. Từ đó ông cho ra đời Hoàng Cầm ca gồm những bài phổ từ thơ Hoàng Cầm. Hoàng Cầm ca cũng nhen nhóm một giai đoạn mới trong nhạc của ông ở hải ngoại, đó là việc từ giã dần những ca khúc mang tính chất đau thương cho người viễn xứ hay đả kích chế độ tại Việt Nam.
Đến năm 1988, việc cộng sản suy yếu trong chiến tranh lạnh và "vì cuộc di cư của người Việt Nam đã tới một giai đoạn mới", Phạm Duy bèn tính tới việc sáng tác nhạc cho năm 2000, "Chọn đề tài này, tôi không còn chạy theo cái nhất thời mà đi tìm cái vĩnh cửu. Dù rằng trước đây những xu hướng trở về nội tâm cũng đã ló ra trong những bài hát soạn cho ngoại vật. Từ nay trở đi, đối với tôi, có lẽ tôi phải bỏ quên các loại nhạc tình cảm và nhạc xã hội để đi tới nhạc tâm linh". Thời kỳ này có các tác phẩm chính: Trường ca Hàn Mặc Tử (cuối năm 1993), là loại "nhạc siêu thực" phổ từ những bài thơ của Hàn Mặc Tử. Thiền ca, với phụ đề Hát Trên Đường Về ra đời để "hi vọng mọi người Việt Nam trở về với ba đạo gốc". Và Rong ca, gồm 10 bài: Là cuộc "thong dong đi trên con đường dẫn tới những năm 2000", với những tâm sự của người tình già (Người tình già trên đầu non), với ý nguyện hóa giải quá khứ (Ngụ ngôn mùa xuân), chôn chặt quá khứ trong Mộ phần thế kỷ, hứa hẹn trở về trong Hẹn em năm 2000, đặt những vấn đề cho thế kỷ mới (Mẹ năm 2000), và cái nhìn lạc quan hơn vào đời sống: Nắng chiều rực rỡ. Theo Phạm Duy, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chính là người giúp ông phổ biến Rong ca tại Việt Nam, qua một băng cassette xách tay.
Ngoài những đề tài chính trên, Phạm Duy cũng không quên soạn những bản nhạc về tình yêu đôi lứa như Nghìn năm vẫn chưa quên, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà... Ông cũng bắt đầu soạn Hương ca và Minh họa Kiều, những tác phẩm sẽ được hoàn thành sau khi ông trở về Việt Nam.
Phạm Duy cũng bắt đầu giai đoạn sáng tác mới của mình từ những ngày đầu ở Mỹ. Tác phẩm gần như xuyên suốt thời kỳ này, là tổ khúc Bầy chim bỏ xứ, thai nghén từ năm 1975 và hoàn tất năm 1990, gồm 18 khúc nhạc dài ngắn, ẩn dụ về hình ảnh của những người Việt phải rời bỏ đất nước và hy vọng vào tương lai đoàn tụ, qua hành trình ra đi và trở về của đàn chim.
Những sáng tác của Phạm Duy trong thời kỳ đầu ở hải ngoại có thể chia làm hai đề tài chính:
Nói về hành trình tìm kiếm tự do ở hải ngoại, với Tỵ nạn ca. Gồm những ca khúc viết về tình cảnh, tâm trạng của người Việt lưu vong: Nguyên vẹn hình hài, Ta trốn Cộng hay ta chống Cộng, Có phải tôi là người quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh, Hát trên đường tạm dung, Người Việt cao quý, Ta là gió muôn phương, Dấu chân trên tuyết, Quê hương còn đó,... đề tài Thuyền nhân: Hát Trên Đường Vượt Biển, tâm tư nguyện vọng của người xa xứ: Lấp biển vá trời,Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh, Lời Người Thiếu Phụ Việt Nam, Giải Thoát Cho Em, Trả Lại Chồng Tôi, Như là lòng tôi,...
Về sự mất tự do ở trong nước, với Ngục ca, phổ từ tập thơ Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện: Hát Cho Người Ở Lại, Giấc Mơ Khủng Khiếp, Hoa Địa Ngục, Từ Vượn Lên Người Từ Người Xuống Vượn, Đảng Đầy Tôi, Ngày 19 Tháng 5, Xưa Lý Bạch, Những Thiếu Nhi Điển Hình Chế Độ... có nội dung đả kích, lên án mạnh mẽ chế độ cộng sản tại Việt Nam.
Năm 1982, theo ông, "đã có một sự kiện làm cho tâm hồn tôi lắng xuống", đó là việc được đọc tập thơ chuyền tay của thi sĩ Hoàng Cầm từ Việt Nam. Từ đó ông cho ra đời Hoàng Cầm ca gồm những bài phổ từ thơ Hoàng Cầm. Hoàng Cầm ca cũng nhen nhóm một giai đoạn mới trong nhạc của ông ở hải ngoại, đó là việc từ giã dần những ca khúc mang tính chất đau thương cho người viễn xứ hay đả kích chế độ tại Việt Nam.
Đến năm 1988, việc cộng sản suy yếu trong chiến tranh lạnh và "vì cuộc di cư của người Việt Nam đã tới một giai đoạn mới", Phạm Duy bèn tính tới việc sáng tác nhạc cho năm 2000, "Chọn đề tài này, tôi không còn chạy theo cái nhất thời mà đi tìm cái vĩnh cửu. Dù rằng trước đây những xu hướng trở về nội tâm cũng đã ló ra trong những bài hát soạn cho ngoại vật. Từ nay trở đi, đối với tôi, có lẽ tôi phải bỏ quên các loại nhạc tình cảm và nhạc xã hội để đi tới nhạc tâm linh". Thời kỳ này có các tác phẩm chính: Trường ca Hàn Mặc Tử (cuối năm 1993), là loại "nhạc siêu thực" phổ từ những bài thơ của Hàn Mặc Tử. Thiền ca, với phụ đề Hát Trên Đường Về ra đời để "hi vọng mọi người Việt Nam trở về với ba đạo gốc". Và Rong ca, gồm 10 bài: Là cuộc "thong dong đi trên con đường dẫn tới những năm 2000", với những tâm sự của người tình già (Người tình già trên đầu non), với ý nguyện hóa giải quá khứ (Ngụ ngôn mùa xuân), chôn chặt quá khứ trong Mộ phần thế kỷ, hứa hẹn trở về trong Hẹn em năm 2000, đặt những vấn đề cho thế kỷ mới (Mẹ năm 2000), và cái nhìn lạc quan hơn vào đời sống: Nắng chiều rực rỡ. Theo Phạm Duy, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chính là người giúp ông phổ biến Rong ca tại Việt Nam, qua một băng cassette xách tay.
Ngoài những đề tài chính trên, Phạm Duy cũng không quên soạn những bản nhạc về tình yêu đôi lứa như Nghìn năm vẫn chưa quên, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà... Ông cũng bắt đầu soạn Hương ca và Minh họa Kiều, những tác phẩm sẽ được hoàn thành sau khi ông trở về Việt Nam.
Trở về Việt Nam
“ Việt Nam, hai tiếng nói sau cùng khi lìa đời! ”
— Lời ca khúc Việt Nam Việt Nam.
“ Việt Nam, hai tiếng nói sau cùng khi lìa đời! ”
— Lời ca khúc Việt Nam Việt Nam.
Nhạc sĩ Phạm Duy đang biểu diễn tại một quán nước
Sau nhiều lần về thăm quê hương. Phạm Duy chính thức trở về định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm 2005, với sự cho phép của chính phủ Việt Nam. Sự kiện này được truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc biệt. Báo chí Việt Nam nhận xét đó là "nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa xứ", "niềm vui thống nhất lòng người", còn Phạm Duy nói cuộc trở về này là "lá rụng về cội". Bên cạnh đó, sự kiện này còn gặp phải sự phản đối của một số người Việt hải ngoại, vì họ cho rằng ông đã về phe cộng sản.
Công ty Phương Nam cũng nhân dịp này, đã đứng ra mua bản quyền toàn bộ nhạc phẩm của Phạm Duy trong vòng 10 năm với giá hơn 400 nghìn đôla .
Năm 2006, Phạm Duy tổ chức đêm nhạc mang tên "Ngày trở về" tại nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh, đêm nhạc tổ chức quy mô hoành tráng, được công chúng đón nhận nhiệt liệt. Một số nhân vật đã phản đối sự đón nhận này, trong đó có nhà báo Nguyễn Lưu với bài "Không thể tung hô" đăng trên báo Đầu tư[. Tuy nhiên bài viết của Nguyễn Lưu vấp phải sự phản đối của nhiều độc giả, bị cho là mắc nhiều "sai lầm ngây ngô", và những "lỗ hổng kiến thức chết người". Công ty Phương Nam cũng phản hồi bài viết này bằng một bài báo, trong đó nội dung phần lớn để cải chính những kiến thức sai lầm trong bài của Nguyễn Lưu. Sau đó báo Đầu tư đã thông báo chấm dứt tranh luận về vấn đề này.
Nhiều đêm nhạc Phạm Duy khác với quy mô lớn tiếp tục diễn ra: Con đường tình ta đi, Ngày trở về tại nhiều tỉnh miền Trung, những đêm giới thiệu Minh họa Kiều tại miền Bắc.. Tháng 3 năm 2009, đêm "Ngày trở về" đã tổ chức thành công ở nhà hát lớn, Hà Nội, nơi ông sinh ra, "Xong buổi diễn, tôi mới thực sự là người về hưu" - ông phát biểu. Ngày 18 tháng 8 năm 2011 ban liên lạc họ Phạm tại Tp Hồ Chí Minh và công ty TNHH họ Phạm Phương Nam tổ chức đêm nhạc Họ Phạm với chủ đề: "Mọi trái tim - một tấm lòng" cũng mời ông và nhạc sỹ Phạm Tuyên tới dự.
Bị cấm đoán, xét duyệt
Nhạc Phạm Duy từng phổ biến rộng rãi khắp đất nước Việt Nam trong những năm 1942-1954 và được sự đón nhận rất lớn của quần chúng và cả chính quyền miền Bắc. Nhưng từ khi ông tỏ ra bất phục với chính quyền cách mạng, đã có nhiều nhìn nhận khắt khe về ông dẫn đến việc cấm hát, cấm nói về Phạm Duy - nhạc Phạm Duy từ sau năm 1954 tại miền Bắc, và việc ông vượt biên sang Mỹ đã khiến nhà nước Việt Nam đưa ông vào danh sách hai người bị cấm toàn bộ về nhân thân trên toàn nước Việt Nam từ sau 1975. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, đài phát thanh giải phóng đọc tuyên bố "tử hình vắng mặt" ba người trong đó có Phạm Duy, vì thái độ chống cộng của ông.
Tại Bắc Việt Nam trước 1975
Theo hồi ký của Phạm Duy thì lệnh cấm nhạc của ông bắt đầu từ bài Bên cầu biên giới, ra đời năm 1947; bài này bị chỉ trích là có thứ tình cảm ủy mị buồn bã, làm nản lòng người. Sau khi được Nguyễn Xuân Khoát thông báo lệnh cấm, Phạm Duy rời bỏ cách mạng về miền Nam.
Ban đầu tại các diễn đàn văn nghệ còn có những cuộc bàn cãi về việc cho hay không cho hát nhạc Phạm Duy, nhưng về sau thì cấm hoàn toàn. Từ đó, nhạc Phạm Duy bị liệt vào hạng phản động, tên tuổi của ông bị đem ra phê phán. Ông cũng bị nghi ngờ có liên hệ với CIA.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận là người hưởng ứng nhiệt tình việc này, ông đặc biệt tỏ ra coi thường âm nhạc của Phạm Duy. Trong các bài viết năm 1958 và 1969, Đỗ Nhuận gọi việc sinh viên miền Bắc phổ biến bài Tìm nhau của Phạm Duy là "rải tuyên truyền", Đỗ Nhuận gọi bài đó là "dâm ô".
Tại Việt Nam từ 1975 đến 2005
Sau ngày thống nhất đất nước, Trần Văn Khê từ Pháp có về hỏi Tố Hữu về vụ Phạm Duy, Tố Hữu nói: "Bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi", nghĩa là vẫn nên phổ biến sau khi bỏ hết những bài sáng tác thời chiến tranh Việt Nam. Nhưng rồi nhạc Phạm Duy vẫn bị cấm trên cả nước, ngoài ra bàn luận về Phạm Duy cũng bị cấm. Ông cùng với Hoàng Thi Thơ là hai nhạc sĩ đặc biệt nhất bị cấm về nhân thân.
Tuy vậy, khoảng 30 năm, vẫn thấy vài người viết về Phạm Duy. Trong cuốn Những bài viết tiến bộ công khai trên báo chí Sài Gòn từ 1954 – 1975 có cho đăng lại một phần trích đoạn của cuốn Phạm Duy đă chết như thế nào. Hay như thi sĩ Chế Lan Viên cũng nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên "Hồi Ký" đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986: "Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, Mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh."
Bài viết của Chế Lan Viên kết thúc bằng đoạn: "Vâng chỉ có trường hợp anh Phạm Duy là…là không cần cội vậy thôi. Chứ hình như hầu hết, lá rụng đều về cội cả và mọc lên thành cội nữa."
Nhà báo Nguyễn Phúc Long trong bài "Công và tội" đăng trên báo Đoàn kết, số 393 ra tháng 7 năm 1987, có nhắc đến Phạm Duy, sau một loạt tên tuổi mà ông cho là "phản bội", nhưng vẫn có công cho văn hoá nước nhà như Trần Ích Tắc, Lê Trắc, Phạm Thái, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Khiêm, Võ Phiến và nhóm Tự Lực Văn Đoàn: "Trong lĩnh vực ca nhạc, Phạm Duy, "con người của phản bội", bị nhân dân ta khinh bỉ cũng đă có cái may mắn là để lại cho chúng ta một số bài hát giàu tính dân ca và trữ tình nhất là những bài được ông ta sáng tác trong thời kỳ đi theo kháng chiến – 1946 - 1949."
Đến năm 1994, báo chí Việt Nam mới có một bài thiện ý với Phạm Duy. Đó là bài thơ "Về thôi" mà nhà văn Lưu Trọng Văn, con trai nhà thơ Lưu Trọng Lư, gửi lên tờ Tuổi trẻ chủ nhật, có đề chữ "Tặng P.D." bên cạnh. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đă phổ nhạc bài này. Rồi sau đó chính Phạm Duy cũng phổ nhạc với tên "Trăm năm bến cũ". Theo Phạm Duy, đây là bài thơ làm ông nghĩ nhiều tới việc về thăm Việt Nam, mà năm 2001 ông đă thực hiện.
Trong khoảng thời gian nhạc Phạm Duy bị cấm này vẫn có những ca sĩ trình diễn nhạc Phạm Duy và thậm chí cho ra bản thu âm, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến Lê Dung, người được coi là diva lớn nhất trong nước. Lê Dung đã cho thu âm một số bài hát nổi tiếng của Phạm Duy như Nghìn trùng xa cách, Mộ khúc... và bà đã cho phát hành trong các album Kỷ niệm vàng son, Dạ khúc của bà. Điều này đã khiến bà gặp rắc rối không ít với chính quyền. Sau 2005
Từ sau 2005, Phạm Duy trở về Việt Nam và các nhạc phẩm của ông được phổ biến lại dần từng đợt một dưới hình thức xin cho. Tính cho tới khi ông mất, chỉ khoảng 100 ca khúc, tức 1/10 lượng sáng tác được nhà nước cho phép phổ biến, điều này khiến những người yêu nhạc của ông cảm thấy tiếc nuối cho một nghệ sĩ tài năng nhưng liên đới nhiều đến chính trị. Ông từng đích thân gửi thư cho chủ tịch Trương Tấn Sang sau khi gặp vợ chồng chủ tịch nước ở Hà Nội trong chương trình 'Xuân Quê Hương', với nội dung mong muốn ""tất cả các tác phẩm âm nhạc [của Phạm Duy]...từ thời tiền Kháng chiến...đến nay được cho phép biểu diễn trên quê hương" trừ các tác phẩm "Chính quyền thấy không phù hợp". Phổ biến nhạc Phạm Duy cũng là điều được nhiều nhân vật ở nhiều giới lên tiếng ủng hộ, trong đó có sử gia Dương Trung Quốc, ca sĩ Ánh Tuyết, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, giáo sư tiến sĩ âm nhạc Trần Văn Khê.
Công ty Phương Nam cũng nhân dịp này, đã đứng ra mua bản quyền toàn bộ nhạc phẩm của Phạm Duy trong vòng 10 năm với giá hơn 400 nghìn đôla .
Năm 2006, Phạm Duy tổ chức đêm nhạc mang tên "Ngày trở về" tại nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh, đêm nhạc tổ chức quy mô hoành tráng, được công chúng đón nhận nhiệt liệt. Một số nhân vật đã phản đối sự đón nhận này, trong đó có nhà báo Nguyễn Lưu với bài "Không thể tung hô" đăng trên báo Đầu tư[. Tuy nhiên bài viết của Nguyễn Lưu vấp phải sự phản đối của nhiều độc giả, bị cho là mắc nhiều "sai lầm ngây ngô", và những "lỗ hổng kiến thức chết người". Công ty Phương Nam cũng phản hồi bài viết này bằng một bài báo, trong đó nội dung phần lớn để cải chính những kiến thức sai lầm trong bài của Nguyễn Lưu. Sau đó báo Đầu tư đã thông báo chấm dứt tranh luận về vấn đề này.
Nhiều đêm nhạc Phạm Duy khác với quy mô lớn tiếp tục diễn ra: Con đường tình ta đi, Ngày trở về tại nhiều tỉnh miền Trung, những đêm giới thiệu Minh họa Kiều tại miền Bắc.. Tháng 3 năm 2009, đêm "Ngày trở về" đã tổ chức thành công ở nhà hát lớn, Hà Nội, nơi ông sinh ra, "Xong buổi diễn, tôi mới thực sự là người về hưu" - ông phát biểu. Ngày 18 tháng 8 năm 2011 ban liên lạc họ Phạm tại Tp Hồ Chí Minh và công ty TNHH họ Phạm Phương Nam tổ chức đêm nhạc Họ Phạm với chủ đề: "Mọi trái tim - một tấm lòng" cũng mời ông và nhạc sỹ Phạm Tuyên tới dự.
Bị cấm đoán, xét duyệt
Nhạc Phạm Duy từng phổ biến rộng rãi khắp đất nước Việt Nam trong những năm 1942-1954 và được sự đón nhận rất lớn của quần chúng và cả chính quyền miền Bắc. Nhưng từ khi ông tỏ ra bất phục với chính quyền cách mạng, đã có nhiều nhìn nhận khắt khe về ông dẫn đến việc cấm hát, cấm nói về Phạm Duy - nhạc Phạm Duy từ sau năm 1954 tại miền Bắc, và việc ông vượt biên sang Mỹ đã khiến nhà nước Việt Nam đưa ông vào danh sách hai người bị cấm toàn bộ về nhân thân trên toàn nước Việt Nam từ sau 1975. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, đài phát thanh giải phóng đọc tuyên bố "tử hình vắng mặt" ba người trong đó có Phạm Duy, vì thái độ chống cộng của ông.
Tại Bắc Việt Nam trước 1975
Theo hồi ký của Phạm Duy thì lệnh cấm nhạc của ông bắt đầu từ bài Bên cầu biên giới, ra đời năm 1947; bài này bị chỉ trích là có thứ tình cảm ủy mị buồn bã, làm nản lòng người. Sau khi được Nguyễn Xuân Khoát thông báo lệnh cấm, Phạm Duy rời bỏ cách mạng về miền Nam.
Ban đầu tại các diễn đàn văn nghệ còn có những cuộc bàn cãi về việc cho hay không cho hát nhạc Phạm Duy, nhưng về sau thì cấm hoàn toàn. Từ đó, nhạc Phạm Duy bị liệt vào hạng phản động, tên tuổi của ông bị đem ra phê phán. Ông cũng bị nghi ngờ có liên hệ với CIA.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận là người hưởng ứng nhiệt tình việc này, ông đặc biệt tỏ ra coi thường âm nhạc của Phạm Duy. Trong các bài viết năm 1958 và 1969, Đỗ Nhuận gọi việc sinh viên miền Bắc phổ biến bài Tìm nhau của Phạm Duy là "rải tuyên truyền", Đỗ Nhuận gọi bài đó là "dâm ô".
Tại Việt Nam từ 1975 đến 2005
Sau ngày thống nhất đất nước, Trần Văn Khê từ Pháp có về hỏi Tố Hữu về vụ Phạm Duy, Tố Hữu nói: "Bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi", nghĩa là vẫn nên phổ biến sau khi bỏ hết những bài sáng tác thời chiến tranh Việt Nam. Nhưng rồi nhạc Phạm Duy vẫn bị cấm trên cả nước, ngoài ra bàn luận về Phạm Duy cũng bị cấm. Ông cùng với Hoàng Thi Thơ là hai nhạc sĩ đặc biệt nhất bị cấm về nhân thân.
Tuy vậy, khoảng 30 năm, vẫn thấy vài người viết về Phạm Duy. Trong cuốn Những bài viết tiến bộ công khai trên báo chí Sài Gòn từ 1954 – 1975 có cho đăng lại một phần trích đoạn của cuốn Phạm Duy đă chết như thế nào. Hay như thi sĩ Chế Lan Viên cũng nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên "Hồi Ký" đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986: "Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, Mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh."
Bài viết của Chế Lan Viên kết thúc bằng đoạn: "Vâng chỉ có trường hợp anh Phạm Duy là…là không cần cội vậy thôi. Chứ hình như hầu hết, lá rụng đều về cội cả và mọc lên thành cội nữa."
Nhà báo Nguyễn Phúc Long trong bài "Công và tội" đăng trên báo Đoàn kết, số 393 ra tháng 7 năm 1987, có nhắc đến Phạm Duy, sau một loạt tên tuổi mà ông cho là "phản bội", nhưng vẫn có công cho văn hoá nước nhà như Trần Ích Tắc, Lê Trắc, Phạm Thái, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Khiêm, Võ Phiến và nhóm Tự Lực Văn Đoàn: "Trong lĩnh vực ca nhạc, Phạm Duy, "con người của phản bội", bị nhân dân ta khinh bỉ cũng đă có cái may mắn là để lại cho chúng ta một số bài hát giàu tính dân ca và trữ tình nhất là những bài được ông ta sáng tác trong thời kỳ đi theo kháng chiến – 1946 - 1949."
Đến năm 1994, báo chí Việt Nam mới có một bài thiện ý với Phạm Duy. Đó là bài thơ "Về thôi" mà nhà văn Lưu Trọng Văn, con trai nhà thơ Lưu Trọng Lư, gửi lên tờ Tuổi trẻ chủ nhật, có đề chữ "Tặng P.D." bên cạnh. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đă phổ nhạc bài này. Rồi sau đó chính Phạm Duy cũng phổ nhạc với tên "Trăm năm bến cũ". Theo Phạm Duy, đây là bài thơ làm ông nghĩ nhiều tới việc về thăm Việt Nam, mà năm 2001 ông đă thực hiện.
Trong khoảng thời gian nhạc Phạm Duy bị cấm này vẫn có những ca sĩ trình diễn nhạc Phạm Duy và thậm chí cho ra bản thu âm, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến Lê Dung, người được coi là diva lớn nhất trong nước. Lê Dung đã cho thu âm một số bài hát nổi tiếng của Phạm Duy như Nghìn trùng xa cách, Mộ khúc... và bà đã cho phát hành trong các album Kỷ niệm vàng son, Dạ khúc của bà. Điều này đã khiến bà gặp rắc rối không ít với chính quyền. Sau 2005
Từ sau 2005, Phạm Duy trở về Việt Nam và các nhạc phẩm của ông được phổ biến lại dần từng đợt một dưới hình thức xin cho. Tính cho tới khi ông mất, chỉ khoảng 100 ca khúc, tức 1/10 lượng sáng tác được nhà nước cho phép phổ biến, điều này khiến những người yêu nhạc của ông cảm thấy tiếc nuối cho một nghệ sĩ tài năng nhưng liên đới nhiều đến chính trị. Ông từng đích thân gửi thư cho chủ tịch Trương Tấn Sang sau khi gặp vợ chồng chủ tịch nước ở Hà Nội trong chương trình 'Xuân Quê Hương', với nội dung mong muốn ""tất cả các tác phẩm âm nhạc [của Phạm Duy]...từ thời tiền Kháng chiến...đến nay được cho phép biểu diễn trên quê hương" trừ các tác phẩm "Chính quyền thấy không phù hợp". Phổ biến nhạc Phạm Duy cũng là điều được nhiều nhân vật ở nhiều giới lên tiếng ủng hộ, trong đó có sử gia Dương Trung Quốc, ca sĩ Ánh Tuyết, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, giáo sư tiến sĩ âm nhạc Trần Văn Khê.
Phân loại tác phẩm
Bài chi tiết: Nhạc Phạm Duy
Bài chi tiết: Nhạc Phạm Duy
Các sáng tác của Phạm Duy có thể chia ra làm nhiều loại:
Nhạc kháng chiến: Sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ngoài những tác phẩm ca ngợi kháng chiến như Xuất quân, Nhạc tuổi xanh, Gươm tráng sĩ, Bên ni bên tê..., còn lại là những bài nói lên tâm trạng cũng như chia sẻ những đau thương mất mát của người dân đằng sau cuộc chiến: Bà mẹ Gio Linh, Mười hai lời ru, Chiến sĩ vô danh....
Nhạc quê hương, tự tình dân tộc: Một phần quan trọng trong sự nghiệp của ông, gồm những bài ca ngợi, tự tình với quê hương đất nước và dân tộc. Nhiều bài hát mang những hình ảnh rất quen thuộc với miền đồng quê Việt Nam: con trâu, đồng lúa, cái cày, cô gánh lúa... Nhiều bài rất quen thuộc với người Việt: Tình ca, Về miền Trung, Tình hoài hương, Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê...
Nhạc tình đôi lứa: Tình yêu là một đề tài lớn trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy. Nhạc tình đôi lứa có khối lượng nhiều nhất trong kho nhạc đồ sộ của ông, có thể kể những bài được giới trẻ trong nam ngoài bắc hát như Hẹn hò, Cỏ hồng, Ngày đó chúng mình, Cây đàn bỏ quên, Phượng yêu, Kiếp nào có yêu nhau, Đừng xa nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Tôi còn yêu tôi cứ yêu, Trả lại em yêu, Giết người trong mộng...
Nhạc tâm tư: Ngoài viết về tình yêu trai gái, tình yêu quê hương, thì những sự suy tưởng cao siêu hay nhớ nhung buồn nản vẩn vơ cũng được Phạm Duy ghi lại thành nhạc, có thể kể đến Đường chiều lá rụng, Bên cầu biên giới, Chiều về trên sông, Dạ lai hương, Viễn du... Hay những bài nói lên tâm trạng phẫn uất trước nội chiến, cảm khái trước thế thời như: Huyền sử ca một người mang tên Quốc.
Trường ca: Những tác phẩm lớn khiến ông có một địa vị chắc chắn trong nền tân nhạc Việt Nam: Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam, Hàn Mạc Tử, sau này là Minh họa Kiều, bản trường ca dài nhất và hoàn thành lâu nhất của ông.
Rong ca: Gồm 10 bài sáng tác năm 1988: Người tình già trên đầu non, Hẹn em năm 2000, Mẹ năm 2000, Mộ phần thế kỷ, Ngụ ngôn mùa Xuân, Nắng chiều rực rỡ, Bài hát nghìn thu, Trăng già, Ngựa hồng, Rong khúc.
Đạo ca: Gồm 10 bài, phổ thơ của Phạm Thiên Thư vào thập niên 1970: Pháp thân, Đại nguyện, Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng, Quán thế âm, Một cành mai, Lời ru bú mớm nâng niu, Qua suối mây hồng, Giọt chuông cam lộ, Chắp tay hoa, Tâm xuân.
Thiền ca: Gồm 10 bài, sáng tác vào thập niên 1980: Thinh không, Võng, Thế thôi, Không tên, Xuân, Chiều, Người tình, Răn, Thiên đàng địa ngục, Nhân quả.
Tâm ca: Gồm 10 bài, thở than về những xáo trộn trong cuộc sống người dân miền Nam thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam sụp đổ: Tôi ước mơ (thơ Thích Nhất Hạnh), Để lại cho em (thơ Nguyễn Đắc Xuân), Tiếng hát to, Ngồi gần nhau, Giọt mưa trên lá, Một cành củi khô, Kẻ thù ta (ý thơ Nhất Hạnh), Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi. Ngoài ra còn nhiều bài khác cũng theo hướng Tâm ca như Những gì sẽ đem theo về cõi chết, Tôi còn yêu tôi cứ yêu.
Tâm phẫn ca: Sáng tác sau Tết Mậu Thân: Tôi không phải gỗ đá, Nhân danh (thơ Tâm Hằng), Bi hài kịch (thơ Thái Luân), Đi vào quê hương (thơ Hoa Đất Nắng), Người lính trẻ, Bà mẹ phù sa... Ngoài ra còn một số bài sáng tác cho phong trào du ca.
Tục ca, vỉa hè ca: Gồm những bài ca mang tính chất xã hội, có hình thức bình dân (Vỉa hè ca) hay dung tục (Tục ca), nội dung nói lên các vấn đề chính trị, xã hội và đời sống lúc bấy giờ.
Bên cạnh những thể loại kể trên, còn có Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ, Tị nạn ca nói về tâm trạng và sự khó nhọc của người ly hương; Hoàng Cầm ca phổ những bài thơ của thi sĩ Hoàng Cầm; Hương ca sáng tác khi ông về ở Việt Nam, và tập cuối cùng là Dị khúc, bao gồm 10 ca khúc phổ thơ của thi sĩ Bích Khê.
Trường ca
Trường ca là một thể loại quan trọng trong sự nghiệp Phạm Duy, và cũng để nhấn mạnh vai trò của ông trong nền âm nhạc Việt Nam vốn không có nhiều trường ca thành công. Bản trường ca đầu tiên của ông là Con đường cái quan, viết từ năm 1954 tới 1960, cùng với Mẹ Việt Nam liền sau đó, là hai tác phẩm được quan tâm lớn và coi là thành công nhất cho tới nay. Trường ca dài nhất và cũng được ông thực hiện lâu nhất là Minh họa Kiều, chỉ mới hoàn thành và xuất bản gần đây và chưa có nhiều nhà nghiên cứu nói về nó.
"Con đường cái quan"
Những dòng nhạc đầu tiên của trường ca này được ông sáng tác năm 1954 tại Paris, ngay khi Hiệp định Genève vừa ký kết để phản đối sự chia cắt đất nước. Phần còn lại được soạn sau đó 6 năm, hoàn tất năm 1960. Cho đến nay đây vẫn là trường ca thành công nhất của Phạm Duy.
Nội dung trường ca nói về một cuộc du hành từ miền Bắc Việt Nam, qua miền Trung Việt Nam, đến miền Nam Việt Nam của một người du khách, trên con đường cái quan, hay là "con đường đất nước nối liền lòng dân". Chuyến đi ấy bắt đầu từ Ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, từ ngày lập quốc cho đến ngày hoàn thành, đi trong lịch sử nhưng cũng là trong lòng người dân để nối liền đất nước, nối liền lòng dân, mà đi tới đâu người lữ khách cũng được dân chúng miền đó đón chào.
Theo nhiều người, trường ca "Con đường cái quan" đã chứng tỏ có thể đem yếu tố nhạc Việt Nam truyền thống kết hợp với nhạc giao hưởng phong cách Tây phương mà không làm mất tính cách Việt. Trường ca được phát sóng rất nhiều lần trên Đài Phát thanh Sài Gòn với giọng Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân để trở những giai điệu quen thuộc nhất của Việt Nam. Nhiều sinh viên ở nhiều nơi đã dựng tác phẩm này thành một hoạt cảnh. Sau này, khi nhạc Phạm Duy đã bị cấm tại Việt Nam, đài truyền hình Bình Dương vẫn thường mở một vài đoạn hoà tấu ngắn trong trường ca lúc chuyển tiếp chương trình.
Nội dung trường ca nói về một cuộc du hành từ miền Bắc Việt Nam, qua miền Trung Việt Nam, đến miền Nam Việt Nam của một người du khách, trên con đường cái quan, hay là "con đường đất nước nối liền lòng dân". Chuyến đi ấy bắt đầu từ Ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, từ ngày lập quốc cho đến ngày hoàn thành, đi trong lịch sử nhưng cũng là trong lòng người dân để nối liền đất nước, nối liền lòng dân, mà đi tới đâu người lữ khách cũng được dân chúng miền đó đón chào.
Theo nhiều người, trường ca "Con đường cái quan" đã chứng tỏ có thể đem yếu tố nhạc Việt Nam truyền thống kết hợp với nhạc giao hưởng phong cách Tây phương mà không làm mất tính cách Việt. Trường ca được phát sóng rất nhiều lần trên Đài Phát thanh Sài Gòn với giọng Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân để trở những giai điệu quen thuộc nhất của Việt Nam. Nhiều sinh viên ở nhiều nơi đã dựng tác phẩm này thành một hoạt cảnh. Sau này, khi nhạc Phạm Duy đã bị cấm tại Việt Nam, đài truyền hình Bình Dương vẫn thường mở một vài đoạn hoà tấu ngắn trong trường ca lúc chuyển tiếp chương trình.
"Mẹ Việt Nam"
Tác phẩm này rực rỡ không kém trường ca Con đường cái quan. Mẹ Việt Nam soạn năm 1964 và hoàn thành trong năm đó, ca tụng hình ảnh người mẹ tổ quốc hay những bà mẹ điển hình trong lịch sử.
Trường ca gồm 4 phần: Đất mẹ, Núi mẹ, Sông mẹ và Biển mẹ, tượng trưng cho các giai đoạn của bà mẹ: từ tươi trẻ màu mỡ đến kiên cường sắt đá rồi thì rộng lượng bao dung. Khi sáng tạo hình ảnh người mẹ trong trường ca này, tác giả có ý đi tìm "mẫu số chung" của dân tộc. Tác phẩm này có phong cách dân ca với giọng khoan hò và điệu ru con mà giai điệu và lời, theo Georges Étienne Gauthier trong cuốn Một người Gia Nã Đại với nhạc Phạm Duy, đã đạt tới trình độ "toàn thiện".
Về sự phổ biến, trường ca "Mẹ Việt Nam" có lẽ không được rộng rãi như "Con đường cái quan", nhưng vẫn rất được nhiều người yêu thích qua những giọng của Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân.
Trường ca gồm 4 phần: Đất mẹ, Núi mẹ, Sông mẹ và Biển mẹ, tượng trưng cho các giai đoạn của bà mẹ: từ tươi trẻ màu mỡ đến kiên cường sắt đá rồi thì rộng lượng bao dung. Khi sáng tạo hình ảnh người mẹ trong trường ca này, tác giả có ý đi tìm "mẫu số chung" của dân tộc. Tác phẩm này có phong cách dân ca với giọng khoan hò và điệu ru con mà giai điệu và lời, theo Georges Étienne Gauthier trong cuốn Một người Gia Nã Đại với nhạc Phạm Duy, đã đạt tới trình độ "toàn thiện".
Về sự phổ biến, trường ca "Mẹ Việt Nam" có lẽ không được rộng rãi như "Con đường cái quan", nhưng vẫn rất được nhiều người yêu thích qua những giọng của Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân.
"Hàn Mạc Tử"
Trường ca này được sáng tác bên Mỹ vào năm 1994, dựa vào 9 bài thơ của Hàn Mạc Tử. Trường ca gồm ba phần: Tình quê, Trăng sao và Ave Maria, mà tác giả đã cố ý diễn tả tâm trạng của Hàn Mạc Tử qua giai điệu của mình. Do sáng tác bên Mỹ và chỉ hát bên Mỹ, cộng với giai điệu mang nhiều phong cách Tây phương nên trường ca này không phổ biến tại Việt Nam bằng hai trường ca trên, tuy vậy vẫn được xem là thành công với giọng hát Tuấn Ngọc, Thái Hiền, Duy Quang, Thái Thảo.
"Bầy chim bỏ xứ"
Theo Phạm Duy, "Con đường cái quan" mang tính chất tả thực, "Mẹ Việt Nam" mang tính chất tượng trưng, "Hàn Mạc Tử" mang tính chất siêu hình, thì "Bầy chim bỏ xứ" mang tính chất ẩn dụ.
Trường ca này có thể cho là một thành công của Phạm Duy, dù chỉ ở hải ngoại. Khởi soạn năm 1975, hoàn tất năm 1985, thu thanh năm 1990, với các giọng ca Kim Tước, Vũ Anh, tác phẩm này gồm 16 đoản khúc (có thể là 16 bài hát riêng) nói về một bầy chim, mà mỗi con chim ẩn dụ cho một hạng người, một số phận khác nhau... mà chính nhất là chim quyên, lấy cảm hứng từ tích Thục Đế. Chim quyên rời bỏ thôn Đoài, trải qua bao nhiêu việc, bao nhiêu lần hoá thân, rồi chết nơi xứ người, nhưng từ đống tro tàn ấy, chim quyên lại tái sinh để về lại thôn Đoài.
"Minh họa Kiều" Bài chi tiết: Minh họa Kiều
Như tên của nó, tác phẩm này có ý minh họa lại truyện Kiều của Nguyễn Du, để thể hiện lòng kính trọng của tác giả với nhà đại thi hào. Đây là tác phẩm rất dài vì gom gần hết những lời thơ trong Truyện Kiều. "Minh họa Kiều" chia ra làm bốn phần, bốn giai đoạn của Thuý Kiều: phần một Kiều gặp Đạm Tiên, biết được số phận long đong của mình; phần hai Kiều gặp Kim Trọng, tình yêu nảy nở nhưng biết là không trọn vẹn; phần ba là giai đoạn khổ nhục của Thuý Kiều; phần bốn Kiều gặp Từ Hải, phần này tác giả chưa soạn xong.
Theo Phạm Duy, đây là tác phẩm ông bỏ công nhiều nhất (sáng tác những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21). Tác phẩm được thể hiện đầu tiên với giọng Duy Quang, Tuấn Ngọc, Thái Hiền, Ái Vân, Thanh Ngoan, Thái Thảo, Anh Dũng,...
Tháng 3 năm 2009, ông cho biết đã hoàn thành Minh họa Kiều, ông có nhiều buổi diễn thuyết tại Hà Nội về đề tài này.
Phổ nhạc, đặt lời
Không ai phổ thơ hay bằng Phạm Duy. Bài thơ nào qua tay ông là nổi tiếng. Một nhà ảo thuật về phổ thơ.
Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn
Phạm Duy được xem là một trong số ít nhạc sĩ Việt Nam giỏi về nghệ thuật phổ nhạc vào thơ và đặt lời cho ca khúc nước ngoài và nhạc bán cổ điển.
Những tác phẩm thơ phổ nhạc thành công nhất của ông có thể kể đến "Ngậm ngùi" (thơ Huy Cận - nhà thơ Huy Cận từng gửi lời cảm ơn ông về việc giúp bài thơ này nổi tiếng); "Ngày xưa Hoàng Thị" (thơ Phạm Thiên Thư); "Áo anh sứt chỉ đường tà" (trích Màu tím hoa sim của Hữu Loan); "Tiễn em" (thơ Cung Trầm Tưởng); "Tỳ bà" (thơ Bích Khê); "Vần thơ sầu rụng", "Tiếng thu" (thơ Lưu Trọng Lư); "Tình cầm" (thơ Hoàng Cầm); "Em hiền như Masoeur", "Thà như giọt mưa", "Hai năm tình lận đận" (thơ Nguyễn Tất Nhiên)...
Nhiều ca khúc nước ngoài nhờ ông đặt lời Việt mà trở nên phổ biến ở Việt Nam, như "Em đẹp nhất đêm nay" (La plus belle pour aller danser), "Khi xưa ta bé" (Bang bang), "Tình cho không" (L'amour c'est pour rien), "Tuyết rơi" (Tomber la neige), "Tiếng cười trong đêm" (La nuit), "Những mùa nắng đẹp" (Seasons in The Sun), "Chuyện tình" (Where Do I Begin - nhạc phim Love Story của Andy Williams),... Ngoài ra ông còn đặt lời cho dân ca và nhạc khiêu vũ - như "Vũ nữ thân gầy" (La Cumparsita), "Caminito" - của nhiều nước trên thế giới.
Tiếp đến là những tác phẩm nhạc bán cổ điển, vốn là loại nhạc khó hoà nhập, thì ông cùng với tiếng hát Thái Thanh đã dễ dàng đưa đến số đông dân chúng: "Dạ khúc" (Nächtliches Ständchen của Franz Schubert), "Dòng sông xanh" (An der schönen blauen Donau op. 314 của Johann Strauss II), "Mối tình xa xưa" (bài số 15 trong "16 bài waltz cho piano" hay Célèbre Valse của Johannes Brahms)...
Ca sĩ thể hiện
Người được coi là thành công nhất với nhạc Phạm Duy cho đến nay là Thái Thanh. Thái Thanh hát nhạc Phạm Duy từ những ngày đầu ông sáng tác, bà đã biểu diễn và ghi âm hàng trăm bài. Từ những ca khúc cho quê hương như Tình ca, Nhớ người thương binh, Người về, Về miền Trung, Quê nghèo, Tình hoài hương,..., những bài có âm điệu phức tạp như Đường chiều lá rụng, Chiều về trên sông... đến tình ca đôi lứa như Ngày xưa Hoàng Thị, Nghìn trùng xa cách, Kiếp nào có yêu nhau, Trả lại em yêu, Đừng xa nhau... giọng hát của bà, với phong cách hàn lâm trên chất liệu dân ca, rất phù hợp với loại tân nhạc xây dựng trên hơi thở nhạc dân tộc của Phạm Duy. Nhạc Phạm Duy - giọng Thái Thanh đã là sự kết hợp tiêu biểu nhất của tân nhạc Việt Nam suốt nhiều thập kỷ.
Sau Thái Thanh, phải nói đến ca sĩ Duy Quang, con trai Phạm Duy và cũng là một trong những người trình bày nhiều ca khúc của Phạm Duy nhất. Duy Quang bắt đầu nổi tiếng từ những ca khúc dành cho sinh viên, phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên. Thời gian sau biến cố 1975, ông tiếp tục hát những ca khúc về tình yêu, thân phận, tâm linh, và cả nhạc mang yếu tố chính trị. Đến khi Thái Thanh ngưng hoạt động, Duy Quang là người đã tiếp tục dòng nhạc Phạm Duy với vai trò trụ cột của những đêm nhạc Phạm Duy, và cũng là giọng hát chính của các đĩa hát Ngục ca, Thiền ca, Kiều ca.
Ngoài hai danh ca trên, còn nhiều ca sĩ thể hiện thành công cũng như gặt hái tên tuổi từ dòng nhạc Phạm Duy như Duy Khánh với những bài đậm màu dân ca: Nhớ người thương binh, Bà mẹ phù sa, Về miền Trung, Con đường cái quan, mẹ Việt Nam, Ngày trở về... Danh ca Anh Ngọc với những bản nhạc tiền chiến, nhạc chiến tranh cũng như tình ca đôi lứa trong các chương trình thu phát trên đaì Sài Gòn, đặc biệt ông cũng là người đầu tiên trình bày bản nhạc Tình ca đến với công chúng. Nữ danh ca Khánh Ly cũng có rất nhiều ca khúc Phạm Duy thành công như Xuân Thì, Khối tình Trương Chi, Còn gì nữa đâu, 54-75, Bên Ni Bên Nớ...; Lệ Thu thì có Thuyền viễn xứ, Ngậm ngùi, Nước mắt mùa thu, Mộ khúc... gần như đóng đinh với tên tuổi của bà. Tuấn Ngọc là giọng hát lớn của giai đoạn sau 1975 cũng kịp để lại dấu ấn lớn trong dòng nhạc Phạm Duy với Tiễn em, Hẹn hò, Kiếp nào có yêu nhau, Nắng chiều rực rỡ, Trăng sao rớt rụng.... Julie với Mùa thu chết, Yêu Tinh Tình Nữ, Huyền thoại trên một vùng biển; Elvis Phương với Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, Kỷ Vật Cho Em, Tâm Sự Gửi Về Đâu, Tình Hờ, Yêu Em Vào Cõi Chết, Con Quỳ Lạy Chúa, Còn Chút Gì Để Nhớ, Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang; Khánh Hà với Nghìn Trùng Xa Cách, Nha Trang Ngày Về, Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Thái Hiền thì nổi danh khoảng thập niên 1970 với những bài nhạc Phạm Duy sáng tác cho "tuổi ô mai" và sau 1975 với rất nhiều bản thu cho những ca khúc Phạm Duy ít người hát. Hà Thanh với Hoa xuân. Thanh Thúy với Phố buồn. Kim Tước, Quỳnh Giao, Mai Hương, hát những bài nhạc bán cổ điển được giới thưởng ngoạn đánh giá cao. Danh ca Lê Dung trong nước, tuy rằng hoạt động trong giai đoạn nhạc Phạm Duy bị cấm nhưng cũng đã cho ra đời "chui" một vài bản nhạc tình của Phạm Duy như Mộ khúc, Nghìn trùng xa cách và được đánh giá tốt. Gần đây có các ca sĩ Ngọc Anh với Giết Người Trong Mộng, Bích Liên, Mộng Thủy,... thường hát những ca khúc Phạm Duy ở hải ngoại.
Sau khi nhạc Phạm Duy được phép hát ở Việt Nam, thì những ca sĩ trẻ trong nước như Mỹ Linh, Quang Linh, Nguyên Thảo, Quang Dũng, Đức Tuấn...là những người thường có mặt trong những đêm nhạc Phạm Duy cũng như thâu âm nhạc Phạm Duy.
Ca sĩ thể hiện
Người được coi là thành công nhất với nhạc Phạm Duy cho đến nay là Thái Thanh. Thái Thanh hát nhạc Phạm Duy từ những ngày đầu ông sáng tác, bà đã biểu diễn và ghi âm hàng trăm bài. Từ những ca khúc cho quê hương như Tình ca, Nhớ người thương binh, Người về, Về miền Trung, Quê nghèo, Tình hoài hương,..., những bài có âm điệu phức tạp như Đường chiều lá rụng, Chiều về trên sông... đến tình ca đôi lứa như Ngày xưa Hoàng Thị, Nghìn trùng xa cách, Kiếp nào có yêu nhau, Trả lại em yêu, Đừng xa nhau... giọng hát của bà, với phong cách hàn lâm trên chất liệu dân ca, rất phù hợp với loại tân nhạc xây dựng trên hơi thở nhạc dân tộc của Phạm Duy. Nhạc Phạm Duy - giọng Thái Thanh đã là sự kết hợp tiêu biểu nhất của tân nhạc Việt Nam suốt nhiều thập kỷ.
Sau Thái Thanh, phải nói đến ca sĩ Duy Quang, con trai Phạm Duy và cũng là một trong những người trình bày nhiều ca khúc của Phạm Duy nhất. Duy Quang bắt đầu nổi tiếng từ những ca khúc dành cho sinh viên, phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên. Thời gian sau biến cố 1975, ông tiếp tục hát những ca khúc về tình yêu, thân phận, tâm linh, và cả nhạc mang yếu tố chính trị. Đến khi Thái Thanh ngưng hoạt động, Duy Quang là người đã tiếp tục dòng nhạc Phạm Duy với vai trò trụ cột của những đêm nhạc Phạm Duy, và cũng là giọng hát chính của các đĩa hát Ngục ca, Thiền ca, Kiều ca.
Ngoài hai danh ca trên, còn nhiều ca sĩ thể hiện thành công cũng như gặt hái tên tuổi từ dòng nhạc Phạm Duy như Duy Khánh với những bài đậm màu dân ca: Nhớ người thương binh, Bà mẹ phù sa, Về miền Trung, Con đường cái quan, mẹ Việt Nam, Ngày trở về... Danh ca Anh Ngọc với những bản nhạc tiền chiến, nhạc chiến tranh cũng như tình ca đôi lứa trong các chương trình thu phát trên đaì Sài Gòn, đặc biệt ông cũng là người đầu tiên trình bày bản nhạc Tình ca đến với công chúng. Nữ danh ca Khánh Ly cũng có rất nhiều ca khúc Phạm Duy thành công như Xuân Thì, Khối tình Trương Chi, Còn gì nữa đâu, 54-75, Bên Ni Bên Nớ...; Lệ Thu thì có Thuyền viễn xứ, Ngậm ngùi, Nước mắt mùa thu, Mộ khúc... gần như đóng đinh với tên tuổi của bà. Tuấn Ngọc là giọng hát lớn của giai đoạn sau 1975 cũng kịp để lại dấu ấn lớn trong dòng nhạc Phạm Duy với Tiễn em, Hẹn hò, Kiếp nào có yêu nhau, Nắng chiều rực rỡ, Trăng sao rớt rụng.... Julie với Mùa thu chết, Yêu Tinh Tình Nữ, Huyền thoại trên một vùng biển; Elvis Phương với Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, Kỷ Vật Cho Em, Tâm Sự Gửi Về Đâu, Tình Hờ, Yêu Em Vào Cõi Chết, Con Quỳ Lạy Chúa, Còn Chút Gì Để Nhớ, Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang; Khánh Hà với Nghìn Trùng Xa Cách, Nha Trang Ngày Về, Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Thái Hiền thì nổi danh khoảng thập niên 1970 với những bài nhạc Phạm Duy sáng tác cho "tuổi ô mai" và sau 1975 với rất nhiều bản thu cho những ca khúc Phạm Duy ít người hát. Hà Thanh với Hoa xuân. Thanh Thúy với Phố buồn. Kim Tước, Quỳnh Giao, Mai Hương, hát những bài nhạc bán cổ điển được giới thưởng ngoạn đánh giá cao. Danh ca Lê Dung trong nước, tuy rằng hoạt động trong giai đoạn nhạc Phạm Duy bị cấm nhưng cũng đã cho ra đời "chui" một vài bản nhạc tình của Phạm Duy như Mộ khúc, Nghìn trùng xa cách và được đánh giá tốt. Gần đây có các ca sĩ Ngọc Anh với Giết Người Trong Mộng, Bích Liên, Mộng Thủy,... thường hát những ca khúc Phạm Duy ở hải ngoại.
Sau khi nhạc Phạm Duy được phép hát ở Việt Nam, thì những ca sĩ trẻ trong nước như Mỹ Linh, Quang Linh, Nguyên Thảo, Quang Dũng, Đức Tuấn...là những người thường có mặt trong những đêm nhạc Phạm Duy cũng như thâu âm nhạc Phạm Duy.
Nhận xét
“ Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ nàỵ. ”
— Lê Uyên Phương“ Phạm Duy bàng bạc trong đời sống âm nhạc miền Nam. ”
—Trinh Công Sơn
“ Nhạc sỹ có biệt tài soạn lời ca rất thơ ”
— Nguyễn Đức Sơn
“ Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ. ”
— Nguyễn Văn Tý
“ Người ta ở đời thường muốn sống theo kiểu tiên hoặc kiểu thần. Sống kiểu tiên là ngao du, thỏa chí mình, không quan tâm đến sự đánh giá của thiên hạ. Sống kiểu thần thì muốn xông pha làm nên công trạng hiển hách. Phạm Duy là mẫu người thứ hai. ”
— Phạm Thiên Thư
“ Đối với tôi, Phạm Duy là một người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ "nhạc sĩ"). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất "Phạm Duy", nhưng cái riêng đó không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam.
Duy đã làm những cuộc phiêu lưu "chiêu hồn nhạc" hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và phong phú vô cùng! Duy "chiêu" được "hồn" ông thần Nhạc và thành công trong nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng "mê" lối "chiêu hồn" của Duy rồi chăng? Thành công - đối với Duy mà nói - không phải chỉ sớm nở tối tàn, mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật. Có những thể loại nhạc đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau "chịu" đi theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc... cũng làm lay động con tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian. ”
— Trần Văn Khê
“ Ngôn ngữ ông giàu có đến độ, bên cạnh những chữ ông đã dùng, người ta tưởng chừng như còn dăm bẩy chữ nữa ông chưa xài tới. ”
— Nguyễn Đình Toàn
“ Người nhạc sỹ đã làm bản thân tôi, từ một anh lính làm nhạc “tếu” (để vui đùa giữa núi rừng hoang vu) cho “qua ngày đoạn tháng” bằng những giai điệu, tiết tấu, nhịp điệu, phong cách biểu diễn cóp nhặt từ Bing Crosby, Bop Hope… bỗng “tỉnh” ra sau một đêm tọa đàm văn nghệ ở Hiệu Bộ Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn 2 (Hà Cháy, Thanh Chương, Nghệ An) là nhạc Việt không phải là những thứ “Swing, Blues, Samba, Rumba, Cha-cha-cha ghép lời Việt”… Và từ đó tôi đã cố gắng để tìm đến những giai điệu, điệu thức, hòa thanh và ngôn ngữ âm nhạc không theo kiểu tiếp nối T, S, D, T chẳng chạy đi đâu thoát như trước nữa…Và tôi đã trở thành một “người làm nhạc cho lính”. Chỉ có cái khác, khác căn bản là lũ chúng tôi trở thành “nhạc sỹ…cách mạng”. Còn anh thì…Không! ”
— Tô Hải
“ Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ... Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi Viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương. ”
— Nguyên Sa
“ Sở dĩ cái tiếng Việt Nam có thể gợi nơi tôi một chút ý tưởng hoà bình và đẹp đẽ, nhân ái và từ thiện, sở dĩ trải qua nhiều tháng nhiều năm, tôi đã có thể yêu mến nước Việt Nam ít ra cũng như yêu mến chính nước tôi, sở dĩ như thế trước hết và trên hết là chính nhờ Phạm Duy và một số nghệ sĩ Việt Nam khác. ”
— Georges-Étienne Gauthier
Danh mục tác phẩm
Nhạc phẩm
Để xem đầy đủ danh sách các sáng tác của Phạm Duy:
Nhạc Phạm Duy.
Để xem đầy đủ danh sách các sáng tác của Phạm Duy:
Nhạc Phạm Duy.
Áo anh sứt chỉ đường tà
Bà mẹ Gio Linh
Bà mẹ phù sa
Bên cầu biên giới
Bên ni bên nớ
Bến xuân (viết chung với Văn Cao)
Bao giờ biết tương tư
Cây đàn bỏ quên
Chiêu Quân Cống Hồ (ý thơ Nguyễn Du)
Chiều về trên sông
Con đường cái quan
Con đường vui (viết chung với Lê Vy)
Chuyện tình buồn
Chỉ chừng đó thôi
Còn chút gì để nhớ
Dạ lai hương
Đạo ca
Đường chiều lá rụng
Đưa em tìm động hoa vàng
Đừng xa nhau
Đường Lạng Sơn
Giọt mưa trên lá
Giải thoát cho em
Giết người trong mộng
Giờ thì em yêu
Giọt chuông cam lộ
Gọi em là đóa hoa sầu
Hạ hồng
Hán sở tranh hùng (ý thơ Nguyễn Du)
Hẹn hò
Kỷ vật cho em
Kỷ niệm
Minh Họa Kiều
Mộ khúc
Mẹ Việt Nam
Nếu một mai em sẽ qua đời
Nha Trang ngày về
Nhớ bạn tri âm (viết chung với Phạm Đình Chương)
Ngày xưa Hoàng Thị
Ngày đó chúng mình
Ngày em hai mươi tuổi
Ngày sẽ tới
Ngày tháng hạ
Ngày trở về
Ngày xưa
Nghìn năm vẫn chưa quên
Nghìn thu
Ngồi gần nhau
Ngọn trào quay súng
Ngụ ngôn mùa đông
Ngựa hồng
Người lính bên tê
Người lính trẻ
Người tình
Người tình già trên đầu non
Người về
Người việt cao quý
Ngậm ngùi
Ngày đó chúng mình
Nhạc tuổi xanh
Phố buồn
Quê nghèo
Rong ca
Ta yêu em lầm lỡ
Tâm ca
Thiền ca
Thông điệp mùa xuân
Thương ca chiến trường
Thương tình ca
Tình ca
Tình hoài hương
Tiếng thu
Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ
Trường ca Con đường cái quan (từ Miền Bắc, qua Miền Trung, vào Miền Nam)
Trường ca Hàn Mặc Tử
Trường ca Mẹ Việt Nam
Tục ca
Về miền Trung
Vần thơ sầu rụng
Quán bên đường
Quán Thế Âm
Răn
Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà
Rong khúc
Ru con
Suối mơ (viết chung với Văn Cao)
Thu ca điệu ru đơn
Thu chiến trường
Thương ai nhớ ai
Thương tình ca
Thuyền viễn xứ
Tiễn em
Tiếng bước trên đường khuya
Tiếng hát to
Tiếng hát trên sông
Tiếng hát trên sông Lô
Tiếng hò miền Nam
Tiếng sáo Thiên Thai
Tiếng thời xưa
Trả lại em yêu
Tư mã phượng cầu (ý thơ Nguyễn Du)
Viễn du
Vết thù trên lưng ngựa hoang (viết chung với Ngọc Chánh)
Việt Nam, Việt Nam
Xin em giữ dùm anh
Xin tình yêu Giáng sinh
Xuân
Xuân ca
Xuân hành
Xuân hiền
Xuân thì
Xuất quân
Yêu em vào cõi chết
Yêu là chết ở trong lòng
Tập nhạc đã in
Tập ca khúc Phạm Duy thuộc hai thời kỳ: Bên trái là tập Ngày đó chúng mình yêu nhau, do Hiện đại xuất bản 1971, Bên phải: Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, Phương Nam xuất bản 2007
Những điệu hát bình dân, Nhà xuất bản Đất Mới - Thanh Hoá, 1950.
Tình ca, tự xuất bản - Sài Gòn, 1969.
Một mẹ trăm con, Bộ Thông tin - Sài Gòn, 1962.
Trường Ca Con đường cái quan, Tập san Sáng dội miền Nam - Sài Gòn, 1960 và Quảng Hoá - Sài Gòn, 1970.
Mười Bài Tâm Ca, Lá Bối - Sài Gòn, 1965.
Ngày đó chúng mình yêu nhau - An Tiêm - Sài Gòn, 1968.
Gìn vàng Giữ ngọc, Sài Gòn, 1971
Nghìn trùng xa cách, An Tiêm - Sài Gòn, 1968.
Hát vào đời, An Tiêm - Sài Gòn, 1969.
Vòng tay thế giới, Quảng Hóa - Sài Gòn, 1969.
Giết người trong mộng, Trí Dũng - Sài Gòn, 1970.
Ca khúc cho ngày mai, Quảng Hóa - Sài Gòn, 1970.
Cho nhau riêng nhau một đời, Khai Phóng - Sài Gòn, 1970.
Giọt lệ cho tình ta, Chân Mây - Sài Gòn, 1970.
Mười bảy tình ca bất tử Thương Yêu - Sài Gòn, 1971.
Đạo ca, Văn học sử - Sài Gòn, 1971.
Nhi đồng ca, Cục Tâm lý chiến - Sài Gòn,1971.
Kỷ vật chúng ta, Gìn vàng Giữ ngọc - Sài Gòn, 1971.
Thương ca chiến trường, Gìn vàng Giữ ngọc - Sài Gòn, 1971.
Chiến ca mùa hè, Tiên Rồng - Sài Gòn, 1972.
Con đường tình ta đi, Gìn vàng Giữ ngọc - Sài Gòn, 1973.
Tuyển tập nhạc tiền chiến (trong đó có nhạc Phạm Duy), Kẻ Sĩ - Sài Gòn, 1968.
Tuyển tập 20 năm nhạc tình (trong đó có nhạc Phạm Duy), Khai Phóng - Sài Gòn, 1970.
Hoàng cầm ca, Hội văn hoá Việt Nam tại Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, 1984.
Thấm thoát mười năm, Hội văn hoá Việt Nam tại Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, 1984
Tủ sách Cành Nam và Tạp chí Xác Định - Hoa Kỳ, 1985.
Mười bài rong ca, PDC Productions, thành phố Midway, Hoa Kỳ, 1988
Mười bài tâm ca, PDC Productions, thành phố Midway, Hoa Kỳ, 1990
Bầy chim bỏ xứ cành vàng - Westminster, CA Hoa Kỳ, 1990
Một đời để yêu (30 tình khúc), Nam Á - Paris, Pháp, 1989
Vườn thơ cánh nhạc (30 bài thơ phổ nhạc), Nam Á - Paris, Pháp 1989
Tình si (30 tình khúc), Nam Á - Paris, Pháp, 1992
Tình ca quê hương (30 bài ca quê hương), Nam Á - Paris, Pháp, 1992
Lịch sử trong tim (30 bài ca kháng chiến), Nam Á - Paris, Pháp, 1992
Hát trên đường về (Đạo ca, Rong ca, Thiền ca), Nam Á - Paris, Pháp, 1992
Niềm vui còn đó (Bé ca, Nữ ca, Bình ca), Hồng Lĩnh - Westminster, CA, Hoa Kỳ, 1994
Tạ ơn đời, Hồng Lĩnh - Westminster, CA, Hoa Kỳ 1994 (Có thêm ngoại ngữ)
Trường ca Mẹ Việt Nam (Việt-Anh-Pháp), Phủ Đặc ủy Chiêu hồi - Sài Gòn, 1960 và Lá Bối, 1967
Trường ca Mẹ Việt Nam (Việt-Pháp), Nam Á, Paris, Pháp, 1985
Dân ca - Folk Songs (Việt-Anh), USIS - Sài Gòn, 1968.
Hoan ca (Việt-Anh) - Du Ca - Sài Gòn, 1973.
Hát trên đường tị nạn (Việt-Anh) - Đông Phương - Santa Ana, CA, Hoa Kỳ, 1979.
Mười bài ngục ca (Việt-Anh) - Nguyễn Hữu Hiệu - Arlington, VA, Hoa Kỳ, 1980.
Hai mươi bài ngục ca (Việt-Anh) Hội Văn hóa Bắc Mỹ - Arlington, VA, Hoa Kỳ, 1980.
Ngục ca (Việt-Anh-Pháp), Quê Mẹ - Paris, 1982. PDC Productions - thành phố Midway, CA, Hoa Kỳ, 1989
Dân ca - Folk song - Chant populaire (Việt, Anh, Pháp), PDC Musical Productions - thành phố Midway, California, Hoa Kỳ, 1980.
Trường ca Con đường cái quan (Anh-Việt), PDC Musical Productions, thành phố Midway, CA, Hoa Kỳ, 1980
Sách giáo khoa, sử liệu
Lược khảo về dân nhạc Việt Nam. Sài Gòn: Hiện Đại, 1970. Xuân Thu tái bản, Hoa Kỳ, 1991.
Music of Viet Nam. Carbondale, IL, Hoa Kỳ: S.I.U, 1975.
Tự học guitare (3 tập). Midway City, CA, Hoa Kỳ: Phạm Duy Enterprises, 1976.
Hồi ký (3 tập). Midway City, CA, Hoa Kỳ: PDC Productions, 1989, 1990, 1991.
Ngàn lời ca. Midway City, CA, Hoa Kỳ: PDC Productions, 1987, 88.
Đường về dân ca. Los Alamitos, CA, Hoa Kỳ: Xuân Thu, 1990.
"Nửa thế kỷ tân nhạc" (bài báo), Nguyệt san Văn Học, Hoa Kỳ.
"Những năm đầu của tân nhạc" (bài báo), Tập san Hợp Lưu - CA, Hoa Kỳ, 1994.
Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đầu - PNC, Việt Nam, 2005.
Viết về Phạm Duy
Nhạc
Trong bài hát "Sài Gòn niềm nhớ không tên" của nhà thơ Nguyễn Đình Toàn có đoạn: Sài Gòn ơi! Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhau Nhớ Phạm Duy với tình ca sầu Mắt lệ rơi khóc thuở ban đầu Còn gì đâu...
Sách
Một người Gia Nã Đại và nhạc Phạm Duy, Georges-Étienne Gauthier
Phạm Duy - Còn đó nỗi buồn, Tạ Tỵ
Phạm Duy đã chết như thế nào, Nguyễn Trọng Văn
Con đường tình sử Việt Nam qua hai thế hệ: Phạm Duy - Trịnh Công Sơn, tác giả Hà Anh Tuấn
Nửa thế kỷ Phạm Duy, Xuân Vũ
Hồi ký Phạm Duy, Phạm Duy
Hành trình Phạm Duy qua dòng lịch sử, Jason Gibbs
Tính dân tộc trong âm nhạc Phạm Duy và tình bạn Duy - Khê, Trần Văn Khê Tiểu luận, báo chí
Phạm Duy, đại lực sĩ; Phạm Duy với ngàn lời ca - Nguyên Sa
Văn Cao - Phạm Duy: Trần Gian Và Tiên Cảnh - Thụy Khuê
His Music Links The Generations - Los Angeles Times
Phạm Duy Thể Nghiệm Việt Nhạc - Latina Musica Contemporanea Del Mundo
Nghệ thuật phổ thơ vào nhạc - Phạm Quang Tuấn
Viết về Phạm Duy - Nguyễn Đình Toàn
Con đường cái quan - Georges-Étienne Gauthier
Phạm Duy, Vietnam's Music Man - Ngọc Bích
Văn Cao - Phạm Duy: Hai con người, một mối tình - Phạm Thế Định
Phạm Duy và tiếng hát quê hương - Giao Chỉ
Phạm Duy và tôi - Ngô Đồng
Phạm Duy, Con én đưa thoi - Cổ Ngư
Phạm Duy - Nhạc sỹ vượt thời gian - Nguyễn Ngọc Sơn
Tính hiện thực trong ca từ của Phạm Duy - Trần Hữu Thục
Phạm Duy người nghệ sĩ tự do - Đỗ Xuân Kiên
Chú thích & tham khảo
^ a ă â Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời: Chủ nhật buồn, Tuổi trẻ online
^ a ă Xót xa tiễn đưa những cây đại thụ âm nhạc Việt Kienthuc.net.vn
^ Nghe nhạc đầu xuân với Phạm Duy: Mẹ trong tâm thức Việt
^ Dương Thụ: sự xuất hiện của Phạm Duy là một tất nhiên
^ Nghệ sĩ Việt ngậm ngùi tiếc nhớ Phạm Duy
^ Phạm Tuyên nói về Phạm Duy - BBC
^ a ă Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời BBC
^ Những kỷ niệm với Phạm Duy - Báo Đại Đoàn Kết
^ Có nên cho tranh luận về Phạm Duy không?
^ Phạm Duy mơ về 'một ngày như thế' BBC Tiếng Việt
^ 'VN hai câu nói sau cùng khi lìa đời' Bùi Văn Phú, BBC
^ Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Tỵ, Văn sử học 1971 - Lời nhập
^ Trong bài viết 'PHẠM DUY, NGƯỜI NGHỆ SỸ SƯỚNG NHẤT TRÊN ĐỜI'
^ Đến khi trăm tuổi còn ngồi bên nhau
^ Phạm Duy, lời người ra đi - danchimviet.info
^ a ă â b Phạm Duy. “Hồi ký Phạm Duy - Một đời nhìn lại: Hồi ký I - Thời thơ ấu - Vào đời”. Bản gốc (PDF) lưu trữ 28/1/2013. Truy cập 28/1/2013. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archivedate=, |accessdate= (trợ giúp)
^ Vĩnh biệt NS Phạm Duy: Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu vtc.vn
^ a ă â b c d đ e Học và hành
^ Hồi ký Phạm Duy II - chương I
^ Hồi ký 2, chương 2
^ Phạm Duy, a Tân Nhạc Composer
^ Hồi ký Phạm Duy, tập III, chương 7
^ a ă â b Hồi ký Phạm Duy, tập III, chương 8
^ a ă â b c Hồi ký Phạm Duy, tập III, chương 10
^ Hồi ký Phạm Duy tập III, chương 15
^ a ă Hồi ký tập III, chương 16
^ a ă Hai người còn lại là Du Tử Lê và Mai Thảo
^ Hồi ký tập III, chương 25
^ Tuấn Khanh - Những thổ lộ chưa công bố của nhạc sĩ Phạm Duy
^ Bài báo Tài Tử Phạm Duy của Nguyễn văn Cổn, Revue Radio Indochine số 47, 1/1/1944
^ Phạm Duy còn đó nỗi buồn - Tạ Tỵ - Văn Sử Học 1971, trang 62
^ Bước đầu - Phạm Duy tổng quát
^ BBC phỏng vấn Phạm Duy, phần 1
^ a ă Dân Ca Mới: Phần 1
^ Dân ca mới 2 - Phạm Duy tổng quát
^ a ă â b Tình tự với quê hương dân tộc Phạm Duy tổng quát
^ Lên đường Viễn du - Viễn Xứ - Viễn mơ - Phạm Duy tổng quát
^ a ă Bài trả lời phỏng vấn Hoàng Hưng trên Kiến thức ngày nay số Xuân 1994
^ a ă Nguyễn Đình Toàn Viết Về Phạm Duy Tuyển tập các bài viết về Phạm Duy trong suốt 50 năm qua: Nguyễn Đình Toàn Viết Về Phạm Duy
^ Nhạc tình sau 10 năm ngủ kỹ - Phạm Duy tổng quát
^ a ă Tình yêu - sự đau khổ - cái chết - Phạm Duy tổng quát
^ a ă Bổn phận công dân - Phạm Duy tổng quát
^ Phạm Duy giữa tục ca và thiền ca
^ a ă Hồi ký tập 4, chương 2
^ a ă â Hồi ký tập 4, chương 4
^ Phạm Duy và bầy chim bỏ xứ
^ a ă â Hồi ký tập 4, chương 13
^ a ă Hồi ký tập 4, chương 14
^ a ă â b Hồi ký tập 4, chương 20
^ BBC Phỏng vấn Phạm Duy phần 2
^ Nói về ca khúc và thơ phổ nhạc- Trang web của Hội Nhạc sĩ Việt Nam
^ a ă â Phạm Duy được phép về Việt Nam sinh sống - Tiền phong
^ a ă Lương Bích Ngọc. “Đất mẹ đón Phạm Duy từ xa trở về”. Theo Vietnamnet. Bản gốc lưu trữ 18 Tháng năm 2005, 15:03 GMT+7. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archivedate= (trợ giúp)
^ Phạm Duy về đến Việt Nam - BBC tiếng Việt
^ Nhạc sĩ Phạm Duy-Lá rụng về cội, VOV
^ Nhạc sĩ Phạm Duy: Lá có rụng về cội? Hồng Thái, 7:21, 29/03/2005, antgct.cand.com.vn
^ Cty Phương Nam khai thác nhạc Phạm Duy trong 10 năm, giá gần nửa triệu đô la - Nguyễn Quang Minh, vietweekly
^ NS Phạm Duy đụng sự công kích đầu tiên ở trong nước-vietweekly
^ Phản hồi của độc giả - Thanh niên online
^ Có nên cho tranh luận về Phạm Duy không? - tuanpham.org
^ Phản hồi xung quanh bài viết về nhạc sĩ Phạm Duy - nguoivienxu.vietnamnet.vn
^ Phản ứng của Phương Nam- Thanh niên online
^ Nhạc sĩ Phạm Duy trở về Hà Nội - bbc
^ Jason Gibbs - Nhạc vàng hóa vàng, Talawas
^ Xem bài "Hồi ký" của Chế Lan Viên đăng trên tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 5 năm 1986
^ “Phạm Duy: "Đời nghệ sĩ là khóc cười cùng vận mệnh dân tộc"” (Thông cáo báo chí). Nguyễn Hoàng Linh - Đoan Trang. 28/01/2009 17:29 GMT+7. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp) "Đời nghệ sĩ..." bài báo có 44 phản hồi của độc giả
^ a ă â Phạm Duy mơ về "một ngày như thế" - BBC
^ Hoàng Hưng phỏng vấn Trịnh Công Sơn về âm nhạc miền Nam, Tạp chí Âm nhạc số 3-4-5/1994
^ Trong bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ
^ L. L. Lan
^ Phạm Duy, người bạn, người anh, người thầy của tôi - Nguyễn Văn Tý
^ Phạm Thiên Thư nhớ Phạm Duy
^ ĐẾN KHI TRĂM TUỔI CÒN NGỒI BÊN NHAU...
^ Phạm Duy, người nhạc sĩ sướng nhất trên đời - Tô Hải
^ Phạm Duy, đại lực sĩ - Nguyên Sa
^ Trong cuốn Một người Gia Nã Đại và nhạc Phạm Duy
Phạm Duy, Hồi ký
Georges-Étienne Gauthier, Một người Gia Nã Đại và nhạc Phạm Duy, Võ Phiến dịch, báo Bách Khoa (Sài Gòn), 1970-1972
Tạ Tỵ, Phạm Duy - còn đó nỗi buồn
Xuân Vũ, Nửa thế kỷ Phạm Duy, 22 chương, 1994
Xem thêm
Nhạc Phạm Duy
Liên kết ngoài
Website chính thức
Trang web Phạm Duy
Một Bàn Tay và những ca khúc Phạm Duy qua tiếng hát Hà Thanh
Tiểu sử - Biography
Sưu tập về Phạm Duy trên Amnhac.fm
Phạm Duy trên Nhacso.net
Bàn về kỹ thuật viết nhạc trong vài ca khúc Phạm Duy của Phạm Quang Tuấn, 11/2003.
Tác giả Phạm Duy - Trên trang web của những người hâm mộ ca sĩ Ngọc Lan.
Nhạc Sĩ Phạm Duy trên trang Phố Xưa
Interview with Pham Duy, 1982 | Phỏng vấn với Phạm Duy, 1982 (tiếng Anh)
Phạm Duy, đại lực sĩ 29/9/2007, Bài viết của Nguyên Sa. Trích trong cuốn "Nghệ Sĩ Việt Nam ở Hải Ngoại"
Tản Mạn về nhạc phẩm "Nắng Chiều Rực Rỡ" của Phạm Duy - Bài viết của Lê Uyên Phương
Nhân xem trường ca "Con đường cái quan" của Phạm Duy - Bài viết của giáo sư Trần Văn Khê, 1965. Cập nhật trên Hội nhạc sĩ Việt Nam 17/1/2011
Nhạc sĩ Phạm Duy: 'Tôi chưa bao giờ ra đi' 23/02/06 07:32 GMT+7, Đ.D. VnExpress
Phạm Duy vẫn gây tranh cãi BBC tiếng Việt, 13 tháng 3 2006 bản lưu 30/8/2006
Phạm Duy: Tôi đang rất yên bình và yên tâm sống, Thanh Chung trên VietNamNet ngày 18 tháng 2 năm 2007
Bố già và tôi Bài viết của nhạc sĩ Ngọc Bích 23/4/2002
Nhạc sĩ Phạm Duy: Ngày xưa tôi là đứa con hư..., Việt Nam Net ngày 27 tháng 3 năm 2009
TRẦN MẠNH HẢO VIẾT VỀ NHẠC SĨ PHẠM DUY :
PHẠM DUY CÒN ĐÓ MUÔN ĐỜI
“Thơ hay có thể bị vua bắt
Trăng nhé nghìn đêm bạc tiếng gà”
(Trích bài thơ “LÝ BẠCH” của Trần Mạnh Hảo)
Chúng tôi (TMH) xin mượn tên cuốn sách: “Phạm Duy” còn đó nỗi buồn” của họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ làm tiêu đề cho bài viết về nhạc sĩ Phạm Duy của mình.
Phạm Duy - (từng là ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng nhất của nền tân nhạc Việt Nam, từng là giáo sư dạy trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn, một nhà nghiên cứu âm nhạc xuất sắc, một nhà văn, nhà báo có phong cách riêng khi viết báo, viết hồi ký) - kể từ bài hát đầu tiên phổ thơ Nguyễn Bính, bài “Cô hái mơ” viết năm 1942 đến nay, đã có hàng mấy trăm bài hát (có người còn cho ông đã viết đến con số trên dưới 1000 bài?) làm xúc động lòng người Việt Nam suốt hơn 70 năm nay. Phạm Duy không chỉ là một hiện tượng âm nhạc vắt qua hai thế kỷ; hơn nữa, ông còn là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng văn hóa, một hiện tượng lịch sử, cần phải có nhiều nhà Phạm Duy học mai sau nghiên cứu về ông.
Thuở nhỏ, thời kháng chiến chống Pháp, kẻ viết bài này từng nghe bà mẹ mình - một người hát thánh ca trong ban Ca vịnh nhà thờ - từng dùng nhạc Phạm Duy ru con. Những lời ca, giai điệu Phạm Duy đã thấm vào hồn tôi từ thơ bé qua tiếng hát ru của mẹ như bài “Nương chiều”:
“Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai, trâu bò về giục mõ xa xôi, ơi chiều…Chiều ơi, áo chàm về quảy lúa trên vai, in hình vào sườn núi chơi với, ới chiều…”
Bài “Nhạc tuổi xanh”:
…“Đường ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ cày…Diệt xong quân Pháp kia cười vang ta hát câu tự do…”
Thỉnh thoảng, khi buồn vui, mẹ tôi lại khe khẽ hát mấy bài Phạm Duy viết trong kháng chiến chống Pháp, ví như : “Cây đàn bỏ quên”, “Khối tình Trương Chi”, “Bên cầu biên giới”, “Tiếng đàn tôi”, “ Mười hai lời ru”…
Những bài hát của Phạm Duy, của Văn Cao (trước 1945) của mẹ tôi được chép trên giấy học trò; có khi là những bản chép nguyên cả khuôn nhạc in bột trên giấy bản nhầu nát; có khi, bố tôi (một người hát nhạc nhà thờ trong ban Ca vịnh biết chơi đàn và biết xướng âm bản nhạc) phải dùng hộp bao diêm làm dụng cụ kẻ nhạc, đặng chép lại bản nhạc cho rõ ràng giúp mẹ tôi…
Cải cách ruộng đất, gia đình tôi bị quy lên địa chủ, các bản nhạc chép tay kia của Phạm Duy, Văn Cao… đều bị mất. Nhưng mẹ tôi thi thoảng buồn, lại ngồi một mình khe khẽ hát nhạc Phạm Duy, Văn Cao, Đỗ Nhuận... Những bản nhạc tuyệt vời của Phạm Duy, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Yên, Văn Chung, Doãn Mẫn, Canh Thân, Đoàn Chuẩn, Việt Lang, Hoàng Qúy, Tô Vũ, Hoàng Giác…bị quy là nhạc vàng, nhạc phản động, đồi trụy, bị cấm.
Tôi thường sang nhà người bà con hàng xóm, cùng với ông em họ (lớn tuổi hơn tôi) tên là chú Bá, ghé tai vào cái radio hiệu Siêng Mao nghe đài Sài Gòn phát nhạc vàng thời tiền chiến, mặt lấm la lấm lét như hai tên ăn trộm…Một hôm chú Bá vừa đi đường vừa nghêu ngao bài “Nhớ Chiến khu” của Đỗ Nhuận (thực ra bài này chính là bài nhạc cách mạng, nhưng âm giai buồn buồn da diết giọng nhạc vàng của “Suối mơ”, “Bến Xuân”…) nên Bá bị công an xã bắt, quy lên hát nhạc vàng của bọn Mỹ Diệm phát ra từ cái radio phản động…Chiếc radio Siêng Mao của Bá bị công an xã tịch thu…
Từ đó, suốt tuổi thơ, tôi không còn được nghe những giai điệu tiền chiến bất hủ kia nữa. Cho mãi tới sau này, khi ở trong rừng miền Nam, trở thành một nhà báo và mua được cái radio bé tí, tôi lại tiếp tục được nghe (lén) nhạc Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương, Cung Tiến…dưới hầm hào bom đạn…
Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp hoàn hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở, âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đã tái chiếm tâm hồn tôi; và hình như tôi, đã tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới đang kết án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của Sài Gòn còn sót lại sau đại họa đốt sách của chế độ mới đã xâm lược đầu óc tôi, giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo” đến giờ chưa chịu thả ra…
May mắn thay, đầu tháng 5/1975, anh Trịnh Công Sơn đã cho tôi và Trần Nhật Thu mượn cái máy nghe nhạc cũ kỹ mà anh không còn dùng tới. Suốt mấy tháng trời, các kiệt tác âm nhạc của bên thua trận như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, các bài hát tuyệt vời của Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Phạm Thế Mỹ, Tuấn Khanh, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Y Vân, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương, Trần Trịnh, Phạm Mạnh Cương, Trường Sa, Anh Bằng, Khánh Băng, Nguyễn Ánh 9, Nguyễn Trung Cang, Lê Trọng Nguyễn, Hoàng Nguyên, Văn Giảng, Đan Thọ, Vũ Đức Sao Biển, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Đức Quang…qua tiếng hát của các danh ca : Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Hà Thanh, Thanh Lan, Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Khoa, Elvis Phương… đã bắt sống tâm hồn tôi làm tù binh, cùng với thơ Nguyên Sa, thơ Nhã Ca, văn Võ Phiến, Mai Thảo, Phan Nhật Nam, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam…nhốt thế giới tinh thần tôi vào trang sách, vào khuôn nhạc khóa sol năm dòng kẻ của họ và “lưu đày” tâm hồn tôi lại mãi với những bài ca đích thực con người…
Tôi yêu các nhạc sĩ có một bài hát bất hủ để đời, ví như: “Xuân và tuổi trẻ” (La Hối phổ thơ Thế Lữ), “Cô láng giềng” của Hoàng Qúy, “Em đến thăm anh một chiều mưa” của Tô Vũ, “Biệt ly” của Doãn Mẫn, “Giáo đường im bóng” của Nguyễn Thiện Tơ, “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương, “Nắng chiều” của Lê Trọng Nguyễn, “Ai lên xứ hoa đào” của Hoàng Nguyên, “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng
Nguyên, “Chiều tím” của Đan Thọ, “Ai về sông Tương” của Văn Giảng, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương, “Sang ngang” của Đỗ Lễ, “Thương nhau ngày mưa” của Nguyễn Trung Cang, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “Tôi đưa em sang sông” của Nhật Ngân và Y Vũ…
Huống hồ, với thiên tài Phạm Duy đã có hàng mấy chục bài hát bất hủ để đời, trong đó có đến vài chục bài thuộc hàng kiệt tác, thì tôi càng kính phục ông hơn, yêu mến ông biết là chừng nào. Chính vì vậy, ngay từ khi chưa biết chữ, nghe mẹ tôi hát nhạc Phạm Duy, đôi tai tôi đã bị ông này lấy mất, để rồi ông thả tâm hồn tôi suốt hơn sáu mươi năm nay lang thang cùng nỗi “khóc cười theo vận nước nổi trôi” của Phạm tiên sinh.
Chúng tôi xin phép kể ra các ca khúc tuyệt vời và rất hay của nhạc sĩ Phạm Duy mà cá nhân tôi yêu thích, đã góp phần làm thay đổi cuộc đời tôi:
“Nương chiều”, “Tình ca”, "Nhạc tuổi xanh", “Bên cầu biên giới”, “Ngậm ngùi”, “Áo anh sứt chỉ đường tà”, Ngày trở về, Mùa thu chết, Thuyền viễn xứ, Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Bà mẹ quê, Cây đàn bỏ quên, Nghìn trùng xa cách, Việt nam Việt nam, Bên ni bên nớ, Còn chút gì để nhớ, Nha trang ngày về, Đưa em tìm động hoa vàng, Kỷ niệm, Ngày xưa Hoàng thị, Giọt mưa trên lá, Tình hoài hương, Tiếng đàn tôi, Đố ai, Tiếng sáo thiên thai, Nụ tầm xuân, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, Cành hoa trắng, Cô gái Bắc kỳ nho nhỏ, Thương tình ca, Thà như giọt mưa, Cỏ hồng, Người về, Đường em đi, Chuyện tình buồn, Nhớ người thương binh, Con đường tình ta đi, Ông trăng xuống chơi, Chiến sĩ vô danh, Tuổi ngọc, Phượng yêu, Còn gì nữa đâu, Thương ai nhớ ai, Gọi em là đóa hoa sầu, Em đi lễ chùa này, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Kiếp nào có yêu nhau, Yêu là chết ở trong lòng, Khối tình Trương Chi, Tóc mai sợi vắn sợi dài, Nước mắt mùa thu, Chiều về trên sông, Tôi đang mơ giấc mộng dài, Hẹn hò, Nước mắt rơi, Kỷ vật cho em, Tiễn em, Trả lại em yêu, Chủ nhật buồn, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Ta yêu em lầm lỡ, Giết người trong mộng, Bao giờ biết tương tư, Em hiền như Masoeur, Đừng nhìn nhau nữa em ơi, Nước non ngàn dặm ra đi, Ai đi trên dặm đường trường, Gió đưa cành trúc la đà, Con đường cái quan ….
Những kiệt tác ca, tuyệt tình ca trên gồm đủ thể loại ca nhạc như cách mạng ca, sơn hà ca, quê hương ca, tình ái ca, tâm tư ca, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca, tâm phẫn ca, tục ca, vỉa hè ca, thiên địa ca, vô thường ca, hư vô ca, nhật nguyệt ca, vũ trụ ca, sầu mộng ca, hoan lạc ca, Phật ca, Chúa ca, quỷ ca, Càn khôn ca, Ta bà ca, Lão Trang ca, Thần tiên ca, sinh diệt ca, liêu trai ca, mộ địa ca, hú hồn ca, yêu tinh ca, du mục ca, tang bồng ca, ma xó ca, ngật ngưỡng ca, túy lúy ca, siêu hình ca, vô ngôn ca…
Phạm Duy còn có đóng góp lớn là món NGOẠI CA, tức công việc chuyển ngữ cho các kiệt tác âm nhạc nước ngoài vào thị hiếu âm nhạc Việt Nam mà khi hát lên, nhiều người vẫn cho là ca khúc Phạm Duy…
Những tuyệt tác ngoại quốc được Phạm Duy chuyển ngữ và chỉnh sửa, phỏng lời, hoặc nắn lại nốt nhạc cho hợp tai người Việt Nam gồm : Ave Maria, Mối tình xa xưa, Dòng sông xanh, Khúc hát thanh xuân, Chiều tà, Dạ khúc, Trở về mái nhà xưa, Mơ màng, Ánh đèn màu, Vũ nữ thân gầy, Tình vui, Chuyện tình, Em đẹp nhất đêm nay, Cánh buồm xa xưa, Giàn thiên lý đã xa, Vai áo màu xanh, Hận tình trong mưa, Nắng thu, Bài ca ngợi tình yêu, Emmanuelle, Himalaya, Hờn ghen, Khi xưa ta bé, Không cần nói anh yêu, Khúc hát thanh xuân, Lại gần hôn em, Nắng xuân, Ngày tân hôn, Người yêu nếu ra đi, Biết ra sao ngày sau, Tình yêu ôi tình yêu, Vĩnh biệt người tình, Vĩnh biệt tình ta….
Thật không thể nào tin được, một ông Phạm Duy bằng xương bằng thịt lại có thể viết được ngần ấy bài tuyệt tình ca hay đến thế, mê hoặc hồn người Việt Nam đến thế. Có cảm giác chỉ một mình Phạm Duy đã là cả một thời đại tân nhạc Việt Nam. Có cảm giác trong người ông Phạm Duy còn giấu ẩn cả trăm nghìn người khác; hoặc trong thân xác ông còn giấu cả trăm nghìn bộ óc khác, trăm nghìn trái tim khác; trong hồn ông còn giấu trăm nghìn hồn khác; trong đôi tai ông còn giấu trăm nghìn đôi tai khác. Cho nên ông mới đủ sức làm ra một gia tài âm nhạc vô cùng đồ sộ, với một chất lượng không thể nào tưởng tượng ra được, rằng đây là sản phẩm của chỉ một con người?
Khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy bước vào tuổi 93 đang lâm trọng bệnh, tôi ngồi trong nhà, một mình tha thẩn ngoài sân nghe lại một cách hệ thống mấy chục album nhạc Phạm Duy trên Internet suốt cả nửa tháng trời mà lấy làm vô cùng thán phục ông. Hình như ông Phạm Duy chính là lò sản xuất ma xó vào loại lớn nhất thế giới? Trong mỗi bài hát, chừng như Phạm Duy đều gài vào năm dòng kẻ nhạc khóa sol của ông một con ma xó, hầu hớp hồn người nghe?
Tôi đồ rằng tâm hồn ông Phạm Duy có chứa một cái dạ dày (tất nhiên là dạ dày tinh thần) to bằng cả bầu trời? Quái kiệt giời sai xuống trần gian có tên là Phạm Duy có cái dạ dày tâm hồn biết tiêu hóa muôn muôn sự vật, từ sự vật thể chất đến sự vật tinh thần, rồi biến chúng thành giai điệu, thành lời ca. Không có cái gì chúng ta nhìn thấy, cảm thấy, mơ thấy, sờ thấy, ngửi thấy, nghe thấy, mơ thấy mà không có trong âm nhạc Phạm Duy. Từ góc sân nhà nơi ta lẫm chẫm tập đi, tập nhìn, tập nghe, tập khóc, tập cười, tập bú mớm, tập ăn, tập uống, tập làm người, thảy thảy đều có trong âm nhạc Phạm Duy.
Con sâu cái kiến, con giun, con dế, con chuồn chuồn, con chim, con cá, con kênh, con sông, con bê, con nghé, con mèo, con chó, con lợn , con gà, con voi, con vịt, con đom đóm, con người…đều hốt nhiên tìm đến năm dòng kẻ nhạc, năm đại lộ Phạm Duy mà leo, mà bò, đi lại, chạy, chảy, bay, bơi trong âm nhạc Phạm Duy…Cái cây, cái cối, cái chày, cái thằng con nít, cái nồi, cái niêu, cái chum, cái vại, cái nhà, cái xe, cái mâm, cái chết, cái sống, cái hư vô, cái thực tại, cái vô thường, cái hữu hạn, cái vô vi, cái sinh diệt, cái ác, cái thiện, cái tốt, cái xấu, cái sai, cái đúng, cái đẹp, cái thoáng chốc, cái muôn đời, cái đểu, cái chân, cái mê, cái tỉnh, cái giả, cái buồn, cái vui, cái bất tử, cái siêu hình, cái yoni (cái l…) cái Linga (cái c…), cái vợ, cái con, cái váy, cái khăn, cái nón, cái mồm, cái tay, cái chân, cái tóc, cái lông, cái dại, cái khôn, cái mùi, cái mát, cái tai, cái âm dương, cái phồn thực, cái mất, cái còn…đều được cái dạ dày âm nhạc khủng long của Phạm Duy tiêu hóa mà biến thành muôn vàn âm giai, muôn vàn làn điệu, muôn vàn lời ca ma ám, ám lấy hồn người?
Phạm Duy, ông có phải là thượng đế của âm giai, phù thủy của khóa sol, ma xó của bảy thanh âm: đồ rê mi pha sol la xi, thần linh của tiết tấu, quỷ sứ của nhịp điệu, con ma của ngôn từ…hay không mà hàng trăm bản nhạc của ông không hề bị hội chứng đều đều, lặp lại (monotone) trêu chọc, phá đám?
Phạm Duy, có phải ngay từ trong bụng mẹ, máu Sông Hồng đã ngấm vào máu ông, hồn cốt Thăng Long trong ca dao, dân ca, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Trãi, thơ thiền Lý Trần cùng với heo may Hồ Gươm, mưa phùn Hồ Tây, gió bấc Kinh Bắc, hương cốm mùa thu chim ngói Mễ Trì, thoang thoảng hương hoa các làng hoa Ngọc hà, Nghi tàm, Nhật tân, Quảng bá ngát hơi xuân…đã làm nên máu thịt hồn ông? Nên đất ấy, hồ ấy, thu ấy, khí thiêng ấy, chim ấy, thơ văn ấy, gió bấc ấy, hương hoa ấy, làn điệu chèo ấy, quan họ ấy… đã mượn hồn ông mà hát lên cõi u u đất trời, hát lên nỗi lòng con người buồn vui khóc cười xứ Bắc?
Từ tấm bé, qua gia đình, cha mẹ, qua khí trời bàng bạc thu Hà thành, qua sách vở nhà trường, qua nỗi mơ hồ thiên địa, Phạm Duy đã tắm mình trong tâm hồn dân tộc. Từ năm 1947, ông đã có một định hướng nghệ thuật hết sức đúng đắn : để cả cuộc đời nghiên cứu dân ca, ca dao, tiếp thu tinh hoa âm nhạc dân tộc, phát triển và nâng cao chúng để kết hợp với nhạc Tây phương vừa du nhập vào nước ta qua nhạc nhà thờ, qua các bản giao hưởng cổ điển trong đĩa nhạc, các ca khúc Pháp, Ý… tân thời hát trong tiệm nhảy, quán café được thanh niên trí thức Hà thành học đòi bắt chước…
Có thể nói, Phạm Duy là nhạc sĩ đầu tiên đã nghiên cứu âm nhạc dân tộc một cách hệ thống, rốt ráo, đã học tập, tiếp thu tinh hoa cha ông trong nhạc ngũ cung, nâng cao lên để kết hợp với trào lưu “âm nhạc cải cách” (musicque renovée) thời 1938-1945 mà thành phong cách phi phong cách (một phong cách đa phong cách không dừng lại ở một air nhạc nào) có tên là phong cách Phạm Duy, khiến người nghe nhạc ông không hề cảm thấy sự nhàm chán …
Phạm Duy, ông không phải là tháp Bayon bốn mặt của đền đài Angkor Thom, Angkor Wat xứ Chùa Tháp. Nhưng ông chính là tháp Bayon muôn mặt của dòng tân nhạc Việt Nam suốt 70 năm qua. Gương mặt tâm hồn ông, gương mặt âm nhạc ông quả là muôn mặt: mặt dịu hiền, mặt thiết tha êm đềm êm ái, mặt tinh khiết, mặt tươi như mặt thiếu phụ đêm xuân yêu chồng, mặt cau có đau khổ như mặt gã trai thất tình, mặt quằn quại, mặt vò xé tang thương, mặt mê ly khoái lạc, mặt dúm dó nhàu nát, mặt thất thần, mặt điêu linh, mặt lênh đênh phiêu bạt, mặt thất sắc vô hồn, mặt hoen rỉ tối tăm, mặt hư vô hư ảnh, mặt nết đa đoan trang, mặt đĩ thõa, mặt giập nát, mặt sáng bừng như trăng, mặt hoa da phấn, mặt ngây ngô, mặt tiếu lâm, mặt hồng diện đa dâm thủy, mặt nạ người, mặt yêu tinh, mặt nạ dòng vớ được giai tơ, mặt hoài nghi khôn xiết, mặt thăm thẳm vực sâu, mặt buồn đêm ngơ ngác…Tất cả muôn mặt đó họp chợ lại thành gương mặt Phạm Duy - một mình làm cả một nền âm nhạc…He he he he…
Đi tận cùng tâm hồn dân tộc, Phạm Duy đã gặp tinh hoa thế giới và trở thành hiện đại bằng sự sáng tạo mang chất thiên tài của mình.
Xin quý bạn đọc nghe vài người khác nói về nhạc sĩ Phạm Duy:
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý: “Trong ‘gia tài’ của Phạm Duy, có những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên những triết lý sâu sắc. Chẳng hạn như ‘Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười’… Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ”. (Trong bài viết Phạm Duy, người bạn, người anh, người thầy của tôi).
Nhạc sĩ Lê Uyên Phương: “Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ này” (Trích bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ)
Thi sĩ Nguyên Sa: ‘Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ... Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi, viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương”.
***
Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5/10/1921 tại Hà Nội trong một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...
Cuộc đời của ông ngoài việc ca hát, sáng tác nhạc còn có giai đoạn thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, và cùng chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay Cô hái mơ. Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều.
Bạn muốn biết thêm về tiểu sử nhạc sĩ Phạm Duy, chỉ cần vào trang tìm kiếm www.google.com đánh hai từ Phạm Duy là từ điển mạng (Wikipedia) sẽ cung cấp đủ cho bạn. Cũng như vậy, bạn vào trang tìm kiếm trên, đánh từ khóa: Album nhạc Phạm Duy là có thể nghe được ngót trăm Album nhạc của ông người trời họ Phạm…
Ngày 14/8/1999 tại nhà riêng, thị trấn Midway City, miền Nam California, danh ca Thái Hằng, hiền thê của nhạc sĩ Phạm Duy đã từ trần, hưởng thọ 72 tuổi (1927-1999), bỏ lại trên trần gian một người chồng tưởng nghiêng trời lệch đất, tưởng như một con khủng long âm nhạc lừng lững trần ai, bỗng giờ đây bị nỗi cô đơn khủng khiếp đến rợn người úp chụp lên đầu như trời sập. Chính từ nỗi cô đơn đến tuyệt vọng vì sự ra đi của người bạn đời mà ý định “cóc chết ba năm quay đầu về núi”, tức về hẳn Việt Nam sống nơi Phạm Duy hình thành. Sau một lần về nước thử xem một ông già từng chống cộng, nay chỉ thích chống gậy (!) coi cộng sản có còn thích bắt nhốt mình hay nữa không như hồi năm 1975? Nói dại, nếu hồi ấy ông không lẹ chân di tản, lỡ kẹt lại, Phạm Duy có thể phải ở tù cho tới chết. Năm 2005 Phạm Duy về nước sống thật, quyết định ở luôn quê hương cho đến khi ông xanh gọi về với tổ tiên.
Lập tức Phạm Duy bị một số báo chí hải ngoại cực đoan (chống cộng bằng chính phương pháp chụp mũ chính trị kiểu cộng sản) ném đá tơi bời hoa lá. Họ dùng tất cả sự tục tằn, thô bỉ, thậm chí dùng cả cứt đái của toàn nhân loại đổ chụp lên đầu một ông già thân cô thế cô, một mình hồi hương về cố quốc để sống nốt những ngày tàn và để chết. Họ gọi ông bằng thằng, bằng mày, bằng chó ghẻ, bằng quân nọ, quân kia. Họ cho ông ăn tất cả món dơ bẩn nhất trần đời. Rằng, làm như tất cả tội lỗi của cộng sản đều do Phạm Duy gây ra. Rằng, làm như Phạm Duy chính là thằng già đã mang tà thuyết về làm hại dân tộc, đất nước vậy …
Phạm Duy vốn là một tay chơi, một bố già đanh đá có hạng, một người nếu cần cũng mồm loa mép giải như ai, cũng anh chị Cầu Muối như ai, cũng có thể chơi cả đòn đầu đường xó chợ dao búa (dao búa kiểu chữ nghĩa, dao búa tượng trưng) xem có chết ai nào, có mà còn khuya mới bắt nạt được bố nhá! Phạm Duy một mình lủi thủi, túc tắc “bút chiến” với một trăm ông chống cộng đều chống nhau kia bằng chiến trường Internet. Trong cuộc chiến muôn chống lại một này, chữ nghĩa trên màn hình vi tính của hai bên đều a-la-sô xung phong ồ ạt, để lại từng đống xác chữ chết như ngả rạ trên chiến trường ảo điện báo.
Phạm Duy dùng chiếc que bông phèng cà rỡn chọc vào tổ ong vò vẽ hải ngoại: này các con giời kia, các con đã mấy chục năm nghe nhạc chùa của bố không phải trả tiền, nay còn tính ăn thịt bố chỉ còn xương bọc da nữa hay sao? Rằng, bố làm nhạc khi toàn ngồi trên bệ xí nhà vệ sinh đấy, nhạc của bố đôi khi cũng bốc mùi tí ti, sao các con chỉ cảm thấy thơm điếc mũi thế hả? (Chuyện này thì thiên tài Alb. Einstein đã từng tuyên bố: tôi nghĩ ra thuyết tương đối khi ngồi trong toilet đấy!). Thế là đám kẻ thù của “thằng già lơ láo về hàng cộng sản” liền nhảy dựng lên kêu gọi, rằng ai có tro dùng tro, ai có trấu dùng trấu, ai có phân dùng phân, phen này quyết ném vào mặt thằng “dê già”, thằng “loạn luân” “ăn chè Nhà Bè” năm xưa toàn bộ tinh thần căm thù không đội trời chung của người quốc gia chân chính ha ha ha …
Họ thi nhau bịa chuyện bôi nhọ Phạm Duy, bới móc đời tư của ông rồi chửi rủa bằng những từ ngữ bẩn thỉu nhất, hè nhau quy chụp chính trị một ông già cô đơn muốn về quê cha đất tổ để chết. Riết rồi Phạm Duy cũng mệt, hơi đếch đâu mà cãi nhau với đám bùng nhùng ba bứa ấy? Nè, bố mượn phép thắng lợi tinh thần của chú AQ Lỗ Tấn mà tạm phán rằng: các “toa” chửi “moa” cũng như đang chửi bố các “toa” mà thôi…
Những người đồng hương tị nạn ném đá vào Phạm Duy qua biển Thái Bình Dương chung quy cũng chả làm cóc gì được ông, lại còn có khi bị khí chất đanh đá cá cày đáo để chua ngoa của “vũ khí mất gà” nơi ông chơi lại tóe khói chứ chẳng chơi. Nhưng khi những người anh em bên kia giới tuyến nơi cố quốc cũng nhạc sĩ như ai, cũng trí thức trí ngủ như ai thi nhau ném đá vào ông thì ông đành thở dài, im lặng chịu đau, giả mù, giả câm giả điếc để ngồi nghe nỗi đời nhiễu nhương ra đòn thù ghen ghét tài năng.
Ấy là vào năm 2005, sau khi về nước, Phạm Duy được công ty văn hóa tư nhân Phương Nam mua đứt bản quyền trọn đời âm nhạc, trả cho ông một số tiền thù lao kha khá là một căn nhà khang trang để ở và những đêm ca nhạc rầm rộ. Công ty Phương Nam độc quyền bán vé kinh doanh những đêm nhạc Phạm Duy, lời ăn lỗ chịu, tuyệt nhiên không có sự bù lỗ của nhà nước như khi các ông nhạc sĩ quốc doanh làm đêm nhạc dối già.
Công chúng náo nức đi nghe nhạc Phạm Duy đông chật các nhà hát, thậm chí không đủ vé bán, có người còn phải mua vé lậu, vé chui đắt gấp hai ba lần giá vé chính thức. Phạm Duy bị “vây giữa tình yêu” bởi lòng yêu mến của công chúng nơi cố quận với ông đã bị dồn nén mấy chục năm trời nay chợt bùng vỡ. Ông bị dìm đến có cơ ngạt thở trong những tràng pháo tay nổ rền như dàn sơn pháo đại hợp xướng Tân Tây lan chơi liên tù tì thời chiến tranh Việt Mỹ.
Thói đời, ma cũ bắt nạt ma mới, đám nhạc sĩ cây đa cây đề trong Hội nhạc sĩ Việt Nam thấy NGÀY TRỞ VỀ của Phạm Duy được công chúng đón rước rất huy hoàng, hoành tráng, có vẻ giống như dân Pháp xưa đón Nã Phá Luân chiến thắng từ châu Phi trở về… bèn nóng mặt, ghét cay ghét đắng mà hè nhau ném đá vào Phạm Duy, toàn những cục đá vu cáo chính trị to bằng nắm tay, có vẻ muốn khích nhà cầm quyền cấm tiệt nhạc Phạm Duy, hay giam lỏng ông cho nhạc cách mạng của các ông nhạc sĩ bất tài lên ngôi…
Mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy tại quốc nội, nhạc sĩ kiêm nhà báo Nguyễn Lưu (con trai nhân sĩ Nguyễn Xiển 1907-1997, từng là tổng thư ký đảng xã hội Việt Nam, phó chủ tịch ban thường vụ quốc hội Việt Nam) viết trên báo “Đầu tư” ngày 13-3-2006 bài: “Không thể tung hô” như sau:
“Tôi muốn nói đến trường hợp của nhạc sĩ Phạm Duy, người mới được xưng tụng sau đêm nhạc "Ngày trở về" (diễn ra tại Nhà hát Hòa Bình, TP.HCM). Một người bạn, nhà văn Chu Lai đã tỏ ra tâm đắc với ý tưởng này và cho biết, Tạp chí Thế giới mới số mới nhất có đăng một bài viết, với nội dung gói gọn: "Một người từng bỏ kháng chiến theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lại theo Ngô Đình Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Và tại đó, đã viết hàng loạt bài kêu gọi chống Cộng, với giọng điệu “sặc mùi” hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về! Hà cớ gì phải tung hô, xưng tụng đến như thế!".
Cũng trên bài báo này, nhạc sĩ Nguyễn Lưu quy chụp chính trị nhạc sĩ Phạm Duy bằng đòn vu khống chính trị bịa đặt trắng trợn như sau:
"Đỉnh cao" sự nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là bài Mùa thu chết. Ở đó, tác giả đã công khai tư tưởng chống Cộng của mình. Ông ta đã từ bỏ tình yêu với Tổ quốc bằng một bút pháp thật sâu cay, đểu giả và ít ai quên cái mùa thu trong ca khúc ấy chính là Cách mạng mùa thu, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. (Bài báo Không thể tung hô của tác giả Nguyễn Lưu đăng trên Báo Đầu tư ngày 13.3.2006)
Xin nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu coi lại xuất xứ bài hát này của nhạc sĩ Phạm Duy: “Mùa thu chết” rất nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy là phổ thơ của thi hào Pháp Apollinaire (1880-1918) . Bài thơ của Apollinaire chỉ có 5 câu, mang tựa đề L'Adieu (Vĩnh biệt), nguyên văn:
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Tạm dịch:
Ta ngắt một cành thạch thảo
Em hãy nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta không còn được nhìn nhau nữa trên đời
Mùi thời gian đẫm hương thạch thảo
Em hãy nhớ rằng ta vẫn chờ em
Căn cứ trên giấy trắng mực đen vừa dẫn trên, Nguyễn Lưu cần phải viết thêm một bài lên án chính tác giả bài thơ là thi hào Apollinaire - người đã mất từ năm 1918 – chính là người đã “chống cộng” vì dám bảo Mùa thu cách mạng tháng tám 1945 ĐÃ CHẾT, chứ nào phải Phạm Duy…Chưa từng thấy sự xuyên tạc văn bản nào trắng trợn và hèn hạ, dốt nát hơn sự xuyên tạc của ông Nguyễn Lưu với bài thơ phổ nhạc “Mùa thu chết” này…
Nguyễn Lưu còn kéo thêm các nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, nhạc sĩ Tân Huyền vào băng nhóm ném đá Phạm Duy chỉ vì trò ghen tức, đố kị người tài năng hơn mình, khi thấy quần chúng bày tỏ lòng yêu thích nhạc Phạm Duy một cách cuồng nhiệt trong đêm nhạc “Ngày trở về” như đã nêu trên.
Ngay sau bài mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy của Hội nhạc sĩ Việt Nam do nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu làm tiên phong, đã đến lượt quân đỏ xuất tướng bằng bài viết “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói” của Khánh Thi trên tờ “An ninh thế giới” số tháng 4-2009 của Trung tướng công an Hữu Ước. Nhà báo Khánh Thy ghi lại sự phản ứng rất tức giận của ba nhạc sĩ cây đa cây đề trong nước, xin trích vài đoạn sau:
Nhạc sỹ - NSND Trọng Bằng – nguyên tổng thư ký (tức chủ tịch) Hội nhạc sĩ Việt Nam
Tôi có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng hơi là lạ, không quen.
Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta.
Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc.
NS Phạm Tuyên
Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc ở trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng.
Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam.
Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những người đã đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.
NS Hồng Đăng
Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương trình của Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất nhiều người phàn nàn là tác phẩm của Phạm Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề cao đến mức y như là nhân vật số một của âm nhạc Việt Nam hiện nay, và là người nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là vô lý, như thế không đúng, huống gì lại xem như người có công lớn (?!).
So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích.
Trong lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy từ Đỗ Nhuận, Văn Cao, Lê Yên, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, và còn rất nhiều người khác đã gắn bó với những ngày gian khổ, thiếu thốn cùng cực của đất nước chỉ để góp một chút gì của mình cho cuộc chiến tranh vệ quốc.
Từ ngày anh đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của chúng ta đã khác trước nhiều lắm. Từ một đội ngũ thưa thớt thời của anh, giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một cách xứng đáng, có hiểu biết, có tìm tòi, khác xa thời anh bỏ khu III, khu IV mà đi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu một tý cũng chẳng sao, (thói thường mà)! Nhưng những người hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một tí, để khách quan hơn, công bằng hơn. Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm.
Khánh Thy
Nguồn: An ninh thế giới
Thiết nghĩ, những phát biểu, những phản ứng đầy ghen tức, đố kỵ rất cảm tính, thiếu lý tính của ba nhạc sĩ trên sau đêm nhạc rất huy hoàng của nhạc sĩ Phạm Duy diễn ra trong nhà hát lớn Hà Nội cuối tháng 3/2009, sẽ mãi mãi là vết nhọ trên gương mặt âm nhạc của ba vị này, không cách gì gột sạch.
Điều tôi băn khoăn là sao nhạc sĩ Phạm Tuyên (con út cụ thượng Phạm Quỳnh, người từng bị Việt Minh thủ tiêu sau Cách mạng tháng tám 1945) một người điềm đạm, chín chắn, một trí thức con dòng cháu giống, danh gia vọng tộc, sao lại đi phát ngôn những lời ghen ăn tức ở, ganh tài lộ liễu hơi bị tầm thường với nhạc sĩ Phạm Duy thế? Xưa nay, tôi từng quý mến anh Phạm Tuyên (người đã phổ nhạc bài thơ thiếu nhi “Mèo đi guốc” của tôi, cũng như nhạc sĩ Nguyễn Lưu, người cũng đã từng phổ nhạc bài thơ Kôn Tum của tôi tức TMH)
Chính ra, nhạc sĩ Phạm Tuyên - người có nhiều nét tương đồng hoàn cảnh với nhạc sĩ Phạm Duy, hơn ai hết phải biết cảm thông với vị nhạc sĩ “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” do các trào lưu chính trị xô đẩy suốt mấy chục năm này, sao lại đi ném đá vào người có số phận éo le như mình thế? Phạm Tuyên đi theo cách mạng bằng mặc cảm tự ti đầy mình, nhục nhã vô hạn với một lý lịch xấu nhất nước: con đại phản động (Phạm Quỳnh) bị cách mạng xử bắn, đã phải nhún nhường làm thân phận con sâu cái kiến, đấm ngực ăn năn tội bằng các bài hát “yêu đảng vượt chỉ tiêu trên giao” suốt mấy chục năm mới được vào đảng…Nhưng thôi, chúng tôi không nói nữa, vì anh Phạm Tuyên còn cả nghĩ hơn tôi nhiều…
Văn hào nước Áo gốc Do Thái Stefan Zweig (1881-1942), người đã cùng với vợ là bà Lotte tháng 2 năm 1942 tại Rio de Janeiro, đã làm cuộc tự tử chính trị, bằng cách hai ông bà tự nguyện chết trên ghế điện trong tâm trạng cô đơn tuyệt vọng, để phản đối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vô nhân đạo do Hítle gây ra, đã từng có câu nói nổi tiếng: “Thân phận con người trong thế kỷ hai mươi là thân phận con người chính trị”.
Ở Việt Nam, ngót 70 năm qua, không chỉ nhạc sĩ Phạm Duy mà đến con kiến cũng phải mang thân phận chính trị. Từng con người Việt Nam mang thân phận bao cát treo lủng lẳng để các tay boxe chính trị thi nhau đấm như mưa trong các cuộc tập dượt đấu quyền anh cách mạng, quyền anh chiến tranh…
Phạm Duy mang thân phận bao cát treo lủng lẳng trước những cú đấm tập dượt trời giáng của các tay quyền anh chính trị từ cả hai phía đỏ và xanh, khiến ông bị xô dạt từ bờ chính trị này sang bờ chính trị khác mà không sao chủ động…
Các nhà “bới móc học” từng cho xem tấm ảnh Phạm Duy mặc bộ đồ bà ba đen của một chiêu hồi viên đứng trên nền nhạc “Giọt mưa trên lá” để công bố tin chấn động thế giới rằng, tay “tắc kè chính trị” này từng chống cộng khét tiếng đấy à nha…
Có thể trong cuộc đời riêng, vì hoàn cảnh sống đưa đẩy tới chân tường, bắt buộc Phạm Duy phải bị chính trị hóa, nhưng âm nhạc của ông, tuyệt đại đa số các bài hát hay nhất không hề bị chính trị hóa. Có thể ông đã phải mặc bộ đồ bà ba đen của viên chức trong bộ chiêu hồi, nhưng bài hát “Giọt mưa trên lá” của ông là một kiệt tác âm nhạc không hề phục vụ chính trị, rất khác các bài hát của mấy nhạc sĩ vừa ném đá ông trong chế độ miền Bắc, luôn luôn lấy âm nhạc phục vụ chính trị làm mục đích…
Âm nhạc Phạm Duy đạt được giá trị muôn đời vì đã vượt lên trên các đối kháng chính trị nhất thời. Ấy là cái khác nhau một trời một vực giữa Phạm Duy và Phạm Tuyên vậy.
Nếu cứ lấy lăng kính đạo đức, lăng kính chính trị để soi lên cuộc đời các ông to bà lớn của cả hai phía quân xanh quân đỏ, chúng ta đều chỉ nhìn thấy những âm bản thê thảm mà thôi. Lấy lăng kính chính trị, lăng kính đạo đức ra soi mói cuộc đời riêng của Phạm Duy, rồi phủ nhận sự đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam bằng âm nhạc yêu nước, yêu con người, yêu nhân loại hết cỡ của ông, như hai phía của cực đoan chính trị vừa hùa nhau ném đá ông kể trên, thiết nghĩ là một việc làm thiếu lương thiện.
Trong bộ sách hồi ký đồ sộ của mình, Phạm Duy cũng thừa nhận ông có tài, có tật, ông cũng như ai tham sân si, cũng ăn chơi hút sách cờ bạc…trai gái; nhưng không có rượu chè bê tha à nha. Vụ “ăn chè nhà Bè” là vụ báo chí chơi xỏ ông, bịa đặt thêm mắm thêm muối để đưa tin rẻ tiền cốt bán báo. Chẳng nhẽ, ông không có quyền mời ca sĩ Khánh Ngọc (một bên là dâu, một bên là rể của đại gia đình họ Phạm) đi quán café để bàn chuyện chuyên môn giữa nhạc sĩ và ca sĩ hay sao?
Những người ném đá Phạm Duy thường cho ông là người mục hạ vô nhân, khinh người, khinh đồng nghiệp hơn mẻ. Trong hồi ký của mình, Phạm tiên sinh đã nhiều lần cám ơn các nhạc sĩ đã mở đầu nền tân nhạc Việt từ Nguyễn Văn Tuyên đến Đặng Thế Phong. Có cơ hội là ông tìm cách ca ngợi đồng nghiệp. Trong bài hát “Yêu tinh tình nữ” có câu hát nguyên văn như sau: “Yêu tinh tình nữ thường hát cho tôi nghe bài ca tiền chiến của Đặng Thế Phong hay Văn Cao tuyệt vời”.
Phạm Duy viết về Văn Cao trong hồi ký:
"Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngă vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng."
Trong hồi ký Thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy, ông viết:
“Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Văn Cao luôn luôn là một người khai phá và là cha đẻ của loại Trường Ca” (Cali, 1989, tr.121)
Con tàu đất nước hôm nay dường như đang mất thắng, có cơ đâm vào chân tường diệt vong bởi nạn nội xâm và giặc ngoại xâm đe dọa, nơi đời sống tâm hồn dân tộc đang bị tha hóa cực độ, gần như các giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc thời Thơ Mới, thời văn chương Tự lực văn đoàn đang có cơ sụp đổ, thì việc xuất hiện lại những bài hát đầy nhân bản của Phạm Duy trong nền nhạc Việt hôm nay, hình như đang cho chúng ta cái cơ hội mong manh để hi vọng.
Phạm Duy, tượng đài lớn nhất của nền tân nhạc Việt Nam đang cùng các tượng đài Văn Cao, Trịnh Công Sơn …sừng sững dưới vòm trời văn học nghệ thuật dân tộc, cùng các tượng đài thi ca xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…sẽ mãi mãi trường tồn tới muôn vàn mai hậu .,.
Sài Gòn ngày 07-01-2013
Trần Mạnh Hảo
Tiếng Sáo Thiên Thai
Phạm Duy, Thái Hằng, Duy Quang
Bà Mẹ Quê
Nghìn Trùng Xa Cách
Phạm Duy: Những bộc bạch cuối đời
Nhà thơ Phạm Thiên Thư nói về Phạm Duy:
"Trôi theo" dòng đời lặng lẽ
Thưa ông, từ trước đến nay người ta đã nói nhiều về mối liên hệ nghệ thuật giữa ông với nhạc sĩ Phạm Duy rồi, giờ đây trong giờ phút nhạc sĩ Phạm Duy vừa qua đời, chúng tôi muốn hỏi ông một lần nữa về những bài thơ của ông đã được nhạc sĩ Phạm Duy “chắp cánh” để bay vào thế giới âm nhạc ra sao?
Tôi với nhạc sĩ Phạm Duy gặp nhau từ hơn 40 năm trước qua nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh. Anh Quỳnh lớn tuổi hơn anh Duy và anh Duy rất quý anh Quỳnh. Một hôm, anh Quỳnh nói với tôi là anh rất thích những bài thơ có thiền vị của tôi và muốn tôi gặp anh Phạm Duy để anh ấy phổ nhạc những sáng tác của tôi. Tôi rất cám ơn và vui mừng trước điều anh Đức Quỳnh mong muốn, nhưng nghĩ lại cũng hơi khó vì anh Phạm Duy trước đó chỉ phổ nhạc những bài thơ lãng mạn, mộng mơ, không biết anh có thích những bài thơ ngoài đời nhưng về đạo của tôi không. Đến một bữa, thật bất ngờ, anh Phạm Duy nói với anh Quỳnh rằng những bài về đạo của tôi nghe rất gần với đời nên anh đã phổ một loạt 10 bài đạo ca vào năm 1971. Trước khi anh Phạm Duy phổ nhạc, anh đã nhiều lần hỏi tôi thế nào là đạo ca? Tôi đã trả lời “đạo” là con đường dẫn đến giải thoát, còn “ca” là con đường nghiệp dĩ mà anh Duy đã chọn...
Tôi với nhạc sĩ Phạm Duy gặp nhau từ hơn 40 năm trước qua nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh. Anh Quỳnh lớn tuổi hơn anh Duy và anh Duy rất quý anh Quỳnh. Một hôm, anh Quỳnh nói với tôi là anh rất thích những bài thơ có thiền vị của tôi và muốn tôi gặp anh Phạm Duy để anh ấy phổ nhạc những sáng tác của tôi. Tôi rất cám ơn và vui mừng trước điều anh Đức Quỳnh mong muốn, nhưng nghĩ lại cũng hơi khó vì anh Phạm Duy trước đó chỉ phổ nhạc những bài thơ lãng mạn, mộng mơ, không biết anh có thích những bài thơ ngoài đời nhưng về đạo của tôi không. Đến một bữa, thật bất ngờ, anh Phạm Duy nói với anh Quỳnh rằng những bài về đạo của tôi nghe rất gần với đời nên anh đã phổ một loạt 10 bài đạo ca vào năm 1971. Trước khi anh Phạm Duy phổ nhạc, anh đã nhiều lần hỏi tôi thế nào là đạo ca? Tôi đã trả lời “đạo” là con đường dẫn đến giải thoát, còn “ca” là con đường nghiệp dĩ mà anh Duy đã chọn...
Nhạc sĩ Phạm Duy và nhà thơ Phạm Thiên Thư
Ảnh: Nguyên Trương
Vậy các bài đạo ca ấy là cầu nối tâm hồn giữa ông và nhạc sĩ Phạm Duy buổi đầu gặp gỡ phải không?
Vâng, mà lạ lắm. Trước khi đưa anh Duy xem các bài thi đạo nói trên, anh Duy cứ đến gặp tôi hoài, đòi phải đưa cho sơm sớm. Lúc ấy các bài trên chưa hoàn tất, tôi phải nằm đêm cầu nguyện Bồ tát Quan Thế Âm xin được viết hoàn chỉnh để anh Duy phổ nhạc, tôi cầu nguyện chân thành và một đêm nằm mơ thấy một vị Bồ tát cầm bông hoa sen trắng đến bên tôi, thức dậy tôi hoàn chỉnh luôn 10 bài đạo ca chuyển đến anh Phạm Duy. Anh Duy rất ngạc nhiên vì thấy những bài đạo ca ấy đưa đến một cách nhanh chóng như thế. Không lâu sau đến lượt tôi ngạc nhiên, không thể hiểu vì sao một nhạc sĩ sáng tác tình ca như anh Phạm Duy lại phổ 10 bài đạo ca tuyệt vời đến thế.
Vâng, mà lạ lắm. Trước khi đưa anh Duy xem các bài thi đạo nói trên, anh Duy cứ đến gặp tôi hoài, đòi phải đưa cho sơm sớm. Lúc ấy các bài trên chưa hoàn tất, tôi phải nằm đêm cầu nguyện Bồ tát Quan Thế Âm xin được viết hoàn chỉnh để anh Duy phổ nhạc, tôi cầu nguyện chân thành và một đêm nằm mơ thấy một vị Bồ tát cầm bông hoa sen trắng đến bên tôi, thức dậy tôi hoàn chỉnh luôn 10 bài đạo ca chuyển đến anh Phạm Duy. Anh Duy rất ngạc nhiên vì thấy những bài đạo ca ấy đưa đến một cách nhanh chóng như thế. Không lâu sau đến lượt tôi ngạc nhiên, không thể hiểu vì sao một nhạc sĩ sáng tác tình ca như anh Phạm Duy lại phổ 10 bài đạo ca tuyệt vời đến thế.
Theo ông nói như trên, vậy mối duyên nghệ thuật giữa ông và nhạc sĩ Phạm Duy bắt đầu từ những bài đạo ca chứ đâu phải những bài tình ca?
Không chỉ những bài đạo ca ấy, mà sau ngày đạo ca ra đời tôi tiếp tục viết và thi hóa Kinh Hiền với 12.000 câu. Lúc bấy giờ Phạm Duy cũng muốn nhạc hóa tập Kinh Hiền của tôi. Một bữa, khi tôi đang ở chùa Vạn Thọ, thì con của anh Duy là Duy Cường đi xe đạp đến nói với tôi là thầy Giác Đức đã chịu đứng ra bảo trợ để in tập thi hóa Kinh Hiền. Phạm Duy là người tác động để một số sáng tác có chủ đề tâm linh của tôi được ra đời.
Ai cũng biết nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhiều bài thơ nhẹ nhàng, lãng mạn của ông nữa chứ.
Dĩ nhiên rồi. Tính ra anh Duy đã phổ của tôi 15 bài như Ngày xưa Hoàng thị, Đưa em tìm động hoa vàng, Gọi em là đóa hoa sầu, Em lễ chùa này, Huyền thoại tên một vùng biển, Loài chim bỏ xứ... Anh Duy thường hay đến nhà tôi ở Phú Nhuận gần đường xe lửa chạy qua để mỗi sáng uống cà phê và nói chuyện trời mây. Tôi giới thiệu với anh thêm một số văn nghệ sĩ nữa, trong đó có nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên mà sau này anh Duy có phổ thơ của Nhiên. Có lần tôi đưa anh Duy đến một vùng rừng vắng vẻ từa tựa như cảnh chùa Hội Sơn bên một dòng sông nhỏ, ở đây anh Duy ngồi lặng thinh mơ màng có đến cả tiếng đồng hồ, rồi gọi “thầy” - anh Duy thường gọi tôi bằng “thầy” thân mật - tôi ngẩng lên nghe, thì anh nói một câu lững lờ như lời của một bản nhạc anh đã viết: Đời lạnh lùng trôi theo dòng nước... Tôi không muốn hiểu anh muốn nói gì, cũng không muốn hỏi anh ý nghĩa của điều anh nói hôm ấy, tôi chỉ im lặng cho đến bây giờ khi vĩnh biệt anh, tôi chợt nhận ra rằng anh đã “trôi theo” dòng đời lặng lẽ, và tôi cũng vậy. Những lời này xin được thay một nén hương gửi đến anh Duy muôn vàn nhung nhớ...
Dĩ nhiên rồi. Tính ra anh Duy đã phổ của tôi 15 bài như Ngày xưa Hoàng thị, Đưa em tìm động hoa vàng, Gọi em là đóa hoa sầu, Em lễ chùa này, Huyền thoại tên một vùng biển, Loài chim bỏ xứ... Anh Duy thường hay đến nhà tôi ở Phú Nhuận gần đường xe lửa chạy qua để mỗi sáng uống cà phê và nói chuyện trời mây. Tôi giới thiệu với anh thêm một số văn nghệ sĩ nữa, trong đó có nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên mà sau này anh Duy có phổ thơ của Nhiên. Có lần tôi đưa anh Duy đến một vùng rừng vắng vẻ từa tựa như cảnh chùa Hội Sơn bên một dòng sông nhỏ, ở đây anh Duy ngồi lặng thinh mơ màng có đến cả tiếng đồng hồ, rồi gọi “thầy” - anh Duy thường gọi tôi bằng “thầy” thân mật - tôi ngẩng lên nghe, thì anh nói một câu lững lờ như lời của một bản nhạc anh đã viết: Đời lạnh lùng trôi theo dòng nước... Tôi không muốn hiểu anh muốn nói gì, cũng không muốn hỏi anh ý nghĩa của điều anh nói hôm ấy, tôi chỉ im lặng cho đến bây giờ khi vĩnh biệt anh, tôi chợt nhận ra rằng anh đã “trôi theo” dòng đời lặng lẽ, và tôi cũng vậy. Những lời này xin được thay một nén hương gửi đến anh Duy muôn vàn nhung nhớ...
Hồng Hạc
Tờ Văn Học số mới ra có loan một tin nhỏ làm tôi thấy buồn thấm thía: tháng Bảy vừa qua cuốn Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay của Tạ Tỵ đã được tái bản trong nước, nhưng có chương viết về Phạm Duy lại bị bỏ hẳn ra ngoài sách. Trước khi in sách này và xoá chương kia, những người xuất bản chắc cũng đọc khá kỹ và đắn đo khá nhiều, vậy mà cuốn sách sau cùng vẫn bị thu hồi ... Tôi thấy tội nghiệp cho những người đã cố xoá tên Phạm Duy trong ký ức chung của dân chúng, ở ngoài này, mình không phải làm những việc khổ tâm đó. Chúng ta vẫn nghe, vẫn hát và vẫn yêu thích những tác phẩm có giá trị của Văn Cao hay Tô Vũ, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát, hay Trần Hoàn, Phan Huỳnh Điểu...
Những cảm nghĩ mông lung về âm nhạc, về thời thế, về người nghệ sĩ và lòng tri ân của giới thưởng ngoạn đã khiến tôi trở về với bài viết đầu tiên của mình trên Văn Học, cách đây đúng 10 năm. Bài viết về Phạm Duy, nhân dịp sinh nhật 65 của ông. Thấm thoát vậy mà đã 10 năm, nghĩ đến Phạm Duy và tuổi hạc của ông, tôi thấy lòng chùng xuống....
Phạm Duy viết nhạc cho mọi người, mọi thời, ở vào nhiều cảnh ngộ khác nhau. Hơn nửa thế kỷ viết nhạc trong một giai đoạn nhiễu nhương nhất của đất nước, hình như ông đã có mặt ở mọi nơi và mở rộng lòng mình đón nhận những cảm xúc hay bi thương của chúng ta để ghi lại thành thơ, thành nhạc, thành "ngàn lời ca" như ông nói, cho chúng ta hát và nghe. Nửa thế kỷ đó mà không có Phạm Duy, tân nhạc Việt Nam đã không phát triển như ngày hôm nay. Yêu thích ông hay không là tùy mỗi người, chứ trên những nẻo đường âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ này mà chối bỏ Phạm Duy thì cũng như men theo ngõ ngách để tránh núi, rồi cũng đâm vào núi thôi. Nhại lời Jean-Paul Sartre, bạn tôi nói Phạm Duy là incontoumable!
Đó cũng là nhận xét của những người nghe nhạc, và chúng ta... đông lắm! Cái ký ức tập thể này khó có thể xóa được ngày nào còn có người nghe và hát nhạc Việt trên mặt địa cầu.
Tôi nhớ đến một cuốn phim đã xưa về cuộc đời của Rimsky Korsakov, nhà soạn nhạc người Nga ở cuối thế kỷ trước. Truyện phim được hư cấu khá nhiều, nhưng không vì vậy mà kém thú vị. Thú vị nhất là một đoạn đối thoại giữa anh lính thủy Korsakov và thượng cấp. Anh ta gân cổ tranh luận rằng mình sẽ làm nước Nga nổi danh hoàn vũ, còn hơn những chiến công của các bậc vương tôn khanh tướng. Rằng anh sẽ bỏ mộng hải hồ và nhung y để làm cái việc động trời đó. Rằng anh sẽ viết nhạc, sẽ thành nhà soạn nhạc. Đó là cống hiến của anh cho tổ quốc và dân tộc Nga. Tôi nghĩ rằng từ bài "Cành hoa trắng" để giã từ kháng chiến năm 1950, Phạm Duy đã tiếp tục cống hiến cho chúng ta nhiều điều cao đẹp khác mà không phải là máu xương đồng loại.
Tôi xin gửi cảm nghĩ trên tới ông, nhân dịp sinh nhật thứ 75 của Phạm Duy, ngày 5 tháng 10 tới.
Nghìn Năm Vẫn Chưa Quên
Quỳnh Giao
Những cảm nghĩ mông lung về âm nhạc, về thời thế, về người nghệ sĩ và lòng tri ân của giới thưởng ngoạn đã khiến tôi trở về với bài viết đầu tiên của mình trên Văn Học, cách đây đúng 10 năm. Bài viết về Phạm Duy, nhân dịp sinh nhật 65 của ông. Thấm thoát vậy mà đã 10 năm, nghĩ đến Phạm Duy và tuổi hạc của ông, tôi thấy lòng chùng xuống....
Phạm Duy viết nhạc cho mọi người, mọi thời, ở vào nhiều cảnh ngộ khác nhau. Hơn nửa thế kỷ viết nhạc trong một giai đoạn nhiễu nhương nhất của đất nước, hình như ông đã có mặt ở mọi nơi và mở rộng lòng mình đón nhận những cảm xúc hay bi thương của chúng ta để ghi lại thành thơ, thành nhạc, thành "ngàn lời ca" như ông nói, cho chúng ta hát và nghe. Nửa thế kỷ đó mà không có Phạm Duy, tân nhạc Việt Nam đã không phát triển như ngày hôm nay. Yêu thích ông hay không là tùy mỗi người, chứ trên những nẻo đường âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ này mà chối bỏ Phạm Duy thì cũng như men theo ngõ ngách để tránh núi, rồi cũng đâm vào núi thôi. Nhại lời Jean-Paul Sartre, bạn tôi nói Phạm Duy là incontoumable!
Đó cũng là nhận xét của những người nghe nhạc, và chúng ta... đông lắm! Cái ký ức tập thể này khó có thể xóa được ngày nào còn có người nghe và hát nhạc Việt trên mặt địa cầu.
Tôi nhớ đến một cuốn phim đã xưa về cuộc đời của Rimsky Korsakov, nhà soạn nhạc người Nga ở cuối thế kỷ trước. Truyện phim được hư cấu khá nhiều, nhưng không vì vậy mà kém thú vị. Thú vị nhất là một đoạn đối thoại giữa anh lính thủy Korsakov và thượng cấp. Anh ta gân cổ tranh luận rằng mình sẽ làm nước Nga nổi danh hoàn vũ, còn hơn những chiến công của các bậc vương tôn khanh tướng. Rằng anh sẽ bỏ mộng hải hồ và nhung y để làm cái việc động trời đó. Rằng anh sẽ viết nhạc, sẽ thành nhà soạn nhạc. Đó là cống hiến của anh cho tổ quốc và dân tộc Nga. Tôi nghĩ rằng từ bài "Cành hoa trắng" để giã từ kháng chiến năm 1950, Phạm Duy đã tiếp tục cống hiến cho chúng ta nhiều điều cao đẹp khác mà không phải là máu xương đồng loại.
Tôi xin gửi cảm nghĩ trên tới ông, nhân dịp sinh nhật thứ 75 của Phạm Duy, ngày 5 tháng 10 tới.
*
Là người trình bày các ca khúc, tôi may mắn được học nhạc và đi hát từ khi còn ở cái tuổi “mê trời mây tía, không nghe mẹ gọi về", và được gặp hầu hết những nhạc sĩ tài hoa của chúng ta trong mấy chục năm liền. Vì còn bé và bé nhất trong đài phát thanh, tôi gọi các “đồng nghiệp" bằng cô, chú, ngoại trừ có chị Mai Hương, và tôi cũng được nuông chiều nhất. Được hát cùng các nhạc sĩ Vũ Thành, Phạm Đình Chương, hay Phạm Duy, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Hoàng Trọng, Ngọc Bích, Nguyễn Hiền, Đan Thọ, v.v... tới nay tình cảm của tôi với những nghệ sĩ lão thành trên vẫn nguyên vẹn. Người khó tính nhất và tôi kính trọng nhất nay đã mất, chính là Vũ Thành. Người dễ tính nhất và cũng được nhiều người nói tới nhất, chính là Phạm Duy.
Hát nhạc Vũ Thành - hay bất cứ ai khác - mà sai từ lời ca tới âm điệu hay cách ngân, cách láy, cách ngắt nhịp, là khổ với nhạc trưởng Vũ Thành. Trong đài phát thanh, ai cũng phải nể sợ ông và các ca nhạc sĩ ít khi lơ là bê trễ trong tập dượt. Ngược lại, Phạm Duy rất xuề xoà dễ tính, ông không mấy phật ý khi có người hát sai điều ông viết, nhiều người uốn và vuốt tới méo cả lời ca. Ông chỉ cho rằng họ chưa hiểu điều ông viết mà thôi. Tôi rất cảm động khi có lần ông tâm sự, rằng có người hát nhạc của mình thì cũng đủ vui rồi. Ở một ai khác, có ít tác phẩm hoặc chưa nổi tiếng, điều này có thể thông cảm được. Ở Phạm Duy, đây là điểm thật đáng quý, đáng yêu, nhất là khi ông lại rất khó tính với chính mình.
Phạm Duy ở ngoài đời, theo cảm nghĩ của tôi, là người hiểu biết sâu sắc, nói chuyện có duyên và ân cần nhất trong xử thế mà cũng chuyên nghiệp và chu đáo trong địa hạt âm nhạc của ông. Có một lần, lâu lắm rồi, tôi còn nhớ ông thuyết trình hai giờ liền bằng Pháp ngữ tại Trung Tâm Văn Hoá Pháp tại Sàigòn, khiến cử tọa thán phục vì sự uyên bác và tài hùng biện của ông. Sau này trong đời lưu vong và bao lần dừng chân tại miền Đông Hoa Kỳ, ông không dựa vào tình cảm của bạn hữu hay người thưởng ngoạn rất đông bên đó mà khệnh khạng phiền hà bất cứ ai trong mọi việc di chuyển hay ăn uống của mình. Ông dậy sớm, mở bản đồ tìm lấy xe buýt đi lo việc riêng và ngăn nắp trong từng việc nhỏ để khỏi làm rộn người khác. Chiều xuống, ông về rất đúng hẹn và cũng lặng lẽ tự lo lấy cho mình, để đi tiếp nơi khác.
Phạm Duy viết nhạc như trời biển, ăn nói bạt mạng như cuồng sĩ và đam mê như mãi mãi thanh xuân, điều đó ai cũng biết và tôi cũng nghe nói tới. Nhưng ít ai ngờ là bên trong, ông sống ngăn nắp và chu đáo như một kế toán viên cần cù. Giờ đây, khi Phạm Duy học điện toán và sử dụng multimedia để giới thiệu và lưu trữ những tác phẩm âm nhạc của đất nước, tôi không ngạc nhiên. Phạm Duy đi rất nhiều, sống rất nhiều, nhưng luôn tự lo liệu cho mình và học hỏi không ngừng.
Mấy lần tôi đi thu nhạc với Duy Cường, ông cuốc bộ từ nhà tới phòng thâu Tomlinson chờ nghe. Ông lặng thinh một góc để khỏi phiền cậu con khó tính trong cách hoà âm và khó tính cả với ông bố to như trái núi.
Không có chỗ ngồi thì ông ngả lưng trên thảm, nghe thu âm mà không hề "xen lấn nội bộ". Cho tới khi xong ông mới có một vài câu phê, thường thì chắc nịch và đúng phóc. Nghe tôi hát ‘‘Nương chiều" lần mới đây, ông nói một câu làm ta phải giật mình. “Mãi tới nay mới có người hát đúng đoạn staccato đó của chú”. Rồi cùng Duy Minh lững thững ra về...
Cái vẻ thơ thới của Phạm Duy khi nghe nhạc làm tôi hiểu vì sao ông viết hay. Phạm Duy trân quý âm nhạc hơn là ta có thể mường tượng ra. Tôi để ý thấy rằng khi nghe nhạc, bao nhiêu sự tinh quái hay cuồng loạn của ông như tan biến cả, ông hồn nhiên như trẻ thơ. Tôi cũng nghiệm thấy rằng những người sống nhiều, khi luống tuổi thường có dáng chững chạc đáng kính khác hẳn cái nếp cuồng nhiệt sôi động thời trước. Phạm Duy không vậy, ông trẻ lại, và vẫn trẻ mãi, có lẽ vì âm nhạc và nhờ âm nhạc.
Mối tình của ông với âm nhạc là một đam mê lớn lao nhất.
Dăm eo sèo nhân thế,
Chưa phai lòng say mê,
Với đôi ba lần gian dối
Đời vẫn ban cho ngọt bùi!
Lời "tự thú" của Phạm Duy trong bài “Tạ Ơn Đời", nếu có hát thành "nhạc vẫn ban cho ngọt bùi" vẫn là hoàn toàn đúng.
*
Viết về nhạc Phạm Duy thì đã có nhiều người, và sẽ còn có nhiều người. Chúng ta chịu ơn Phạm Duy rất nhiều trong cuộc sống thường nhật khi muốn tìm tới những điều cao đẹp nhờ âm nhạc. Tôi chỉ xin ghi lại đây cảm nghĩ của những người đầu tiên chịu ơn ông, đó là những người hát nhạc Phạm Duy (một cách chuyên nghiệp, chứ ai trong chúng ta không có lúc hát Phạm Duy). Là một ca sĩ trình bày các ca khúc của đất nước từ nhiều thập niên, tôi cho rằng Phạm Duy là người khai phá đích thực, trong ý nghĩa là từ khi có ông xuất hiện trong từng thể loại hoặc từng đề tài, tân nhạc Việt Nam đã có đổi khác. Sau Phạm Duy, người ta không viết như trước nữa.
Tôi muốn riêng nhắc tới thể loại dân ca và đề tài tình yêu trong nhạc Phạm Duy.
Đối với các ca sĩ, nhạc Phạm Duy bắt đầu chinh phục người nghe là từ những bài dân ca và những bài ca lên đường vào thời đó. Công lao và sự khai phá đầu tiên của Phạm Duy là dân ca và nỗi hứng khởi ban đầu cho việc mở đường đó chính là kháng chiến ca. Những bản hùng ca đầu tiên của ông dễ hát và dễ hợp ca nhờ những nhịp mạnh rải thật đều và nhờ lời ca lôi cuốn vì gợi lên nhiều hình ảnh bi tráng lẫm liệt. Mặt kia, những bản dân ca cải biên có lời nên thơ và dễ nhớ vì khởi đi từ lục bát hay lục bát biến thể quen thuộc và vì nhạc có những nốt láy dễ hát thật tự nhiên.
Phạm Duy dùng kỹ thuật chuyển hệ để mở rộng âm giai ngũ cung nguyên thuỷ của dân ca và khi tân nhạc đang ở vào thời dọ dẫm tìm kiếm, ông đưa lối nhạc cải cách đó về với kho tàng phong phú cùa dân ca cổ điển. Ông nối liền truyền thống với hiện đại, thôn quê tới thị thành nhờ những ca khúc đầu tiên của ông, sáng tác cách đây hơn 50 năm.
Phạm Duy đã đi vào cõi nhạc không ký âm của dân tộc và đem dân ca ra khỏi thôn quê truyền đi khắp nước, đồng thời đưa nhạc cải cách từ thành phố về tới thôn quê. Từ Phạm Duy dân ca có lời có nhạc, ghi chép và truyền tụng được, giúp mọi người thấm sâu hơn những cảm xúc tình tứ lãng mạn của dân dã lầm than. Từ Phạm Duy, dân ca và kháng chiến ca đã quyện thành lời kêu gọi hùng hồn cảm động, khiến nhiều lớp người cùng đứng lên vì non sông. Những tác phẩm tiêu biểu nhất của mười mấy bài dân ca kháng chiến này là "Nhớ người thương binh", "Mùa Đông chiến sĩ" hoặc “Tiếng hát trên sông Lô" ông viết trên núi rừng Việt Bắc năm 1947 và các bài “Quê nghèo", “Bà mẹ Gio Linh" hay "Về miền Trung" ông viết trên đoạn đường Trị Thiên vào các năm 48-49. Tình bạn của ông với Văn Cao bắt đầu từ đó. Nhưng hơn hẳn Văn Cao đã chôn chân tại chỗ và sống với dư âm cùng nuối tiếc, ông tiếp tục mở đường rộng lớn cho tân nhạc của chúng ta tới ngày nay. Ba trường ca “Con đường cái quan”, "Mẹ Việt Nam” và “Bầy chim bỏ xứ" là biểu tượng cho cuộc hành trình không ngơi nghỉ đó trong hồn nước và lòng dân của ông.
*
Về nhạc tình của Phạm Duy, có lẽ chúng ta cần cả một cuốn sách.
Phạm Duy viết rất nhiều tình ca, có những bài ai cũng thuộc cũng hát được mà cũng có bài kén người hát. Thí dụ như thật giản dị thì có “Đêm Xuân” tương đối dễ hát, từ nốt thấp nhất là La tới cao nhất là Re, và có bài như “Đường chiều lá rụng", chạy 16 nốt từ Fa dièse lên Fa dièse qua hai octaves và kén người hát ở tiêu chuẩn tối thiểu là âm vực của giọng hát, chưa nói tới những đòi hỏi khác. Nhưng, khó nhất cho chúng ta là khi phải tuyển chọn chừng mười bản tình khúc hay nhất của ông. Tôi thấy khó là vì mình không biết chọn bài gì, bỏ bài gì, bài nào bỏ cũng thấy tiếc! Khó hơn cả là những bài có nội dung hoà nhập giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu thiên nhiên, và những tình cảm cao thượng, kể cả sự siêu thoát của kiếp người.
Những người thích nét nhạc nhẹ nhàng êm ả và ý tứ dịu dàng có thể yêu những mối tình câm lặng ấp úng trong những bài như "Cô hái mơ" (ca khúc đầu tay của ông năm 1942 từ thơ Nguyễn Bính), "Cây đàn bỏ quên", "Khối tình Trương Chi", "Bên cầu biên giới” và cả bài "Cành hoa trắng". Những người yêu sự lãng mạn thanh cao và có giọng trong sáng thì có thể thích hát "Đêm Xuân", “Ngày đó chúng mình”, "Thương tình ca". Nồng nàn bi thiết và ưa thích diễn tả khi hát thì ta có thể thích "Tình kỹ nữ", “Kiếp nào có yêu nhau", “Còn gì nữa đâu" hay “Đừng xa nhau", "Cỏ hồng". Có nội dung cao cả và tình cảm thiết tha hơn, nên cũng đòi hỏi giọng hát nhiều "não tính” hơn thì có những bài như “Mộng du”, "Tìm nhau", “Cho nhau", hay cả "Nghìn trùng xa cách”. Với những bài trên, tình yêu trong nhạc Phạm Duy như bắt đầu đi vào hướng cao thượng hơn tình yêu đôi lứa thông thường. Đồng thời, tình yêu và thiên nhiên còn hoà lẫn thần tình trong những bài mà sự rạo rực của thời tiết và lòng người như đã thành một, đó là đặc tính của “Xuân thì", "Hoa Xuân”, "Xuân nồng", "Dạ lai hương". Nhạc tình của Phạm Duy có nét siêu thoát của trí tuệ khi cất lên giữa lằn ranh của tình yêu và đời sống, nỗi chết và sự phục sinh. Tôi thiển nghĩ những bài "Nước mắt rơi" hay “Tạ ơn đời", "Chiều về trên sông" và “Đường chiều lá rụng” kén người hát không chỉ ở kỹ thuật âm nhạc mà còn ở nội dung là vì vậy.
Nhạc tình Phạm Duy ngự trị trên một vùng rộng lớn như vậy nên ai cũng có thể yêu nhạc và hát nhạc của ông, tùy từng trình độ và trạng thái tâm lý vào mỗi thời. Từ tuổi ô mai mười ba tới tuổi sinh viên tan trường về, và sau này nữa, khi lòng mình đã trầm lắng về nhân thế, thanh thản với cuộc đời, chúng ta đều tìm thấy niềm ước mơ hay kỷ niệm và sự vỗ về ở tình khúc Phạm Duy.
*
Điểm độc đáo nhất của Phạm Duy là ông yêu đời, yêu người mà viết rất hay về cái chết. Đó là một biểu hiện của một trí tuệ cao. Tình yêu và cái chết, như chúng ta hay triết lý vẩn vơ, là những trạng thái chỉ mình mình biết mà khó diễn tả được cho người khác. Ở Phạm Duy, trong ‘'Lữ hành", “Mộng du" hay "Đường chiều lá rụng" chẳng hạn, ông truyền đạt được tới chúng ta những cảm xúc lạ kỳ đó. Tôi nói tới trí tuệ hay não tính vì không tìm ra những chữ rõ ràng hơn để mô tả trạng thái hoà nhập của siêu nhiên vào trong thiên nhiên và tình cảm. Phạm Duy viết nhiều câu thần tình về trạng thái trên mà không cầu kỳ lập dị kiểu siêu thực rẻ tiền. Chẳng hạn như yêu nhau đến chết, hay lắm, gay cấn lắm, hứa hẹn lắm. Nhưng, sau đó rồi sao?
Chiều chưa thôi trìu mến, lá chưa buông chết chìm.
Hồn ta như vụt biến, bay vờn trong đời tiên.
Lá vàng êm! Lá vàng êm!
Như mũi kim mềm sẽ khâu liền kín khung cửa tình duyên.
Lá vàng khô! Lá vàng khô!
Như nét môi già đã nhăn chờ trên nẻo đường băng giá.
Còn rơi rụng nữa,
Cành khô và lá,
Thành ngôi mộ úa.
Chờ đến một trận gió mưa.
Cho rữa tình già xác xơ
Cho biến thành nhựa sống nuôi tình thơ.
Ông viết “Đường chiều lá rụng” năm 1958, khi chưa tới tuổi 50, và 15 năm trước một loạt các bài về nhựa sống nuôi tình thơ của tuổi mộng mơ, tuổi ô mai, tuổi mười ba. Phạm Duy rong chơi giữa cõi tử sinh và mộng mơ như người không tuổi, vì cảm xúc và trực giác hơn là vì tuổi tác. Trong nhiều ca khúc của ông, ta đều gặp trạng thái trên. Tôi tự hỏi trẻ mãi không già là vậy chăng?
Với âm nhạc và hơn 50 năm viết nhạc không ngơi nghỉ, Phạm Duy là một phần không thể xoá trong tâm hồn chúng ta. Ngày xưa, Nguyễn Du đã khống thiết tự hỏi là ba trăm năm nữa có còn ai khóc ông không. Dù chẳng muốn cường điệu tôi vẫn nghĩ rằng nghìn năm nữa dân ta vẫn không quên nhạc Phạm Duy. Cho nên mình cũng chẳng tiếc gì một chương sách bị bóc, khi âm nhạc và lời ca Phạm Duy vẫn làm ta rung động từ ngày bú mớm cho tới khi chúng ta từng người "sẽ lên đường trở về", như ông kết trong bài "Lữ hành" năm 53, như một lời tiên tri tuyệt vời.
Xin mừng tuổi thọ 75 của chú Phạm Duy.
Quỳnh Giao
(Văn Học số 126 tháng 10/1996)
Trường Ca Mẹ Việt Nam
Những Ca Khúc Bất Hủ Của Nhạc Sĩ Phạm Duy
Nay thì Kiều phần 2 và Hồi Ký 4 đã hoàn thành, lời hứa đã đúng hẹn và đây là lúc tôi xin được buông rơi tất cả. Buông bút, treo đàn, hạ màn nhung, cởi áo tuồng, chùi phấn son, tắt đèn, rời sân khấu ... Tôi buông rơi hết, không có nghĩa là tôi chối từ những gì tôi đã làm ra trong dĩ vãng. Tôi vẫn chịu trách nhiệm về từng soạn phẩm của mình, nhưng tôi không còn đứng giữa chợ đời để nhận lời khen hay tiếng chê đến từ bất cứ ai, từ bất cứ đâu, cho bất cứ loại nhạc gì!
Cầm bằng cho gió cuốn bay đi, tất cả!
Bây giờ thì tôi mới thật sự là:
... vui một mình tôi đi!
(trích lời cuối trong Hồi Ký 4 của Phạm Duy)
Phạm Duy Tốn, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh
tại Paris (Pháp)
Nhà văn, nhà báo Phạm Duy Tốn
(1881 - 1924)
Cụ thân sinh ra nhạc sĩ Phạm Duy
Trong vòng tay mẹ
(bà Nguyễn Thị Hòa)
100 tình khúc của một đời người
70 năm tình ca Việt Nam (21)
(Phạm Duy)
Mộ phần nhạc sĩ Phạm Duy
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.