Trần Văn Khê
(24/7/1921 – 24/6/2015)
còn có nghệ danh Hải Minh
nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền
Ông là tiến sĩ ngành âm nhạc học người Việt Nam đầu tiên tại Pháp và từng là giáo sư tại Đại học Sorbonne, Pháp, thành viên danh dự Hội đồng Âm nhạc Quốc tế, UNESCO. Ông là người có bề dày trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, có công trong quảng bá âm nhạc Việt Nam nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung ra thế giới.[2]
Tiểu sử
Trần Văn Khê sinh ngày 24 tháng 7 năm 1921 tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình có bốn đời làm nhạc sĩ, nên từ nhỏ ông đã làm quen với nhạc cổ truyền. Năm lên 6 tuổi ông đã được cô (Ba Viện) và cậu (Năm Khương) dạy đàn kìm, đàn cò, đàn tranh,[3] biết đàn những bản dễ như "Lưu Thuỷ", "Bình Bán vắn", "Kim Tiền", "Long Hổ Hội". Ông nội ông là Trần Quang Diệm (Năm Diệm), cha ông là Trần Quang Chiêu (Bảy Triều), cô là Trần Ngọc Viện (tức Ba Viện, người đã sáng lập gánh cải lương Đồng Nữ ban), đều là những nghệ nhân âm nhạc cổ truyền nổi tiếng. Cụ cố ngoại ông là tướng quân Nguyễn Tri Phương.[4] Ông ngoại ông là Nguyễn Tri Túc, cũng say mê âm nhạc, có ba người con đều theo nghiệp đờn ca.[5] Một trong số đó Nguyễn Tri Khương, thầy dạy nhạc và nhà soạn tuồng cải lương nổi tiếng. Riêng mẹ ông là Nguyễn Thị Dành (Tám Dành), sớm tham gia cách mạng, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 và bị thương rồi mất trong năm đó.[6] Cha ông vì thương nhớ vợ nên qua đời năm 1931. Ông có một người anh họ ngoại (con ông Nguyễn Tri Lạc) là nhạc sĩ Nguyễn Mỹ Ca.[6]
Mồ côi từ rất sớm, mẹ mất năm 9 tuổi, cha mất năm 10 tuổi, nên ông cùng với hai em là Trần Văn Trạch (về sau là một ca sĩ nổi tiếng, có biệt danh Quái kiệt), Trần Ngọc Sương được cô Ba Viện nuôi nấng. Cô Ba Viện rất thương, cho anh em ông đi học võ, học đàn kìm.
Năm 10 tuổi, Trần Văn Khê đậu tiểu học, sang Tam Bình, Vĩnh Long nhờ người cô thứ năm nuôi. Đến đây Trần Văn Khê được học chữ Hán với nhà thơ Thượng Tân Thị. Trong kỳ sơ học năm 1934 tại Vĩnh Long được đậu sơ học có phần Hán Văn. Cả tỉnh chỉ có Trần Văn Khê và Nguyễn Trọng Danh được đậu bằng chữ Hán.
Năm 1934, ông vào trường Trung học Trương Vĩnh Ký, được cấp học bổng. Học rất giỏi, năm 1938 ông được phần thưởng là một chuyến du lịch từ Sài Gòn đến Hà Nội, ghé qua Phan Thiết, Đà Nẵng, Nha Trang, Huế. Nhờ đậu tú tài phần nhất năm 1940, thủ khoa phần nhì năm 1941, ông được đô đốc Jean Decoux thưởng cho đi viếng cả nước Campuchia xem Chùa Vàng, Chùa Bạc tại Nam Vang, viếng Đế Thiên Đế Thích. Khi về Việt Nam, nhờ thầy Phạm Thiều giới thiệu, ông được Đông Hồ tiếp đãi, dẫn đi chơi trong một tuần.
Thời gian này, ông cùng Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan lập dàn nhạc của trường, và dàn nhạc của học sinh trong câu lạc bộ học sinh mang tên là Scola Club của hội SAMIPIC. Ông là người chỉ huy hai dàn nhạc đó.
Năm 1942, Trần Văn Khê ra Hà Nội học y khoa. Tại đây, cùng với Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Tấng (nay đổi thành Phạm Hữu Tùng), Nguyễn Thành Nguyên, hoạt động trong khuôn khổ của Tổng hội Sinh viên. Do thể hiện một trình độ cảm nhạc xuất sắc, ông được cử làm nhạc trưởng của giàn nhạc trường, nhân giới thiệu những bài hát của Lưu Hữu Phước. Ông còn tham gia phong trào "Truyền bá quốc ngữ" trong ban của GS Hoàng Xuân Hãn, "Truyền bá vệ sinh" của các sinh viên trường Thuốc, và cùng các bạn Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng tổ chức những chuyến "đi Hội đền Hùng", và đi viếng sông Bạch Đằng, Ải Chi Lăng, đền Hai Bà.
Năm 1943, ông cưới bà Nguyễn Thị Sương, và sau đó có nhiều sự kiện làm Trần Văn Khê phải xin thôi học để trở về miền Nam. Con trai đầu lòng của ông là Trần Quang Hải, sinh năm 1944, sau này cũng là một nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Việt Nam danh tiếng. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến cho tới đầu năm 1946, ông có thêm người con trai thứ hai đặt tên là Trần Quang Minh nên ông được tổ chức bố trí lùi về vùng Pháp kiểm soát cuối năm 1946. Năm 1946 cũng là năm ông sáng tác bản nhạc Đi Chơi Chùa Hương phổ nguyên văn toàn bộ bài thơ của Nguyễn Nhược Pháp. Năm 1948, bà Sương sanh tiếp cho ông cô con gái Trần Thị Thuỷ Tiên.
Ông sang Pháp du học từ năm 1949 nên chưa biết mặt cô con gái út Trần Thị Thuỷ Ngọc còn nằm trong bụng mẹ. Hè năm 1951, ông thi đậu vào trường Chính trị Khoa giao dịch quốc tế. Cho đến năm 1958, ông theo học khoa nhạc học và chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự chỉ đạo của các Giáo sư Jacques Chailley, Emile Gaspardone và André Schaeffner. Tháng 6 năm 1958, ông đậu Tiến sĩ Văn khoa (môn Nhạc học) của Đại học Sorbonne. Luận văn của ông có tên: “LaMusique vietnamienne traditionnelle” (Âm nhạc truyền thống Việt Nam).
Từ năm 1963, ông dạy trong Trung tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương, dưới sự bảo trợ của Viện Nhạc học Paris (Institut de Musicologie de Paris). Ông là thành viên của Viện Khoa học Pháp, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm châu Âu về Khoa học, Văn chương và Nghệ thuật cũng như nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế khác; là Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện quốc tế nghiên cứu âm nhạc bằng phương pháp đối chiếu của Đức (International Institute for Comparative Music Studies).[7]
Ông đã đi 67 nước trên khắp thế giới để nói chuyện, giảng dạy về âm nhạc dân tộc Việt Nam.
Sau 50 năm nghiên cứu và giảng dạy ở Pháp, năm 2006, ông chính thức trở về sinh sống và tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc dân tộc tại Việt Nam. Ông cũng là người đã hiến tặng cho Thành phố Hồ Chí Minh 420 kiện hiện vật quý, trong đó có nhiều loại nhạc cụ dân tộc và tài liệu âm nhạc.
Năm 2009, ông là một trong những trí thức nổi tiếng ký vào thư phản đối dự án Boxit ở Tây Nguyên.[8]
Sau một thời gian bị bệnh, ông qua đời vào khoảng hai giờ sáng ngày 24 tháng 6 năm 2015 tại bệnh viện Nhân dân Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh.[2
Thực hiện di nguyện
Mâu thuẫn về nơi đặt di cốt
Theo di nguyện nói của ông Trần Văn Khê trước khi mất, hài cốt sẽ được mang về Vĩnh Kim (Tiền Giang), chôn bên cạnh mộ phần của cha mẹ ông và dòng tộc bao đời nay vẫn ở đó[9]. Tuy nhiên, di nguyện văn bản hợp pháp sau cùng ông quyết định hỏa táng và để các con mình bàn bạc quyết định chỗ lưu tro cốt.
Ngày 26/12/2015, con thứ của ông là Trần Quang Minh, người con duy nhất còn ở lại Việt Nam đã di cốt của cố giáo sư từ nhà riêng của ông tại Thành phố Hồ Chí Minh tới an vị tại Linh Hoa Tuệ Đàn thuộc Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương. Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương tài trợ toàn bộ kinh phí xây dựng một không gian thờ phượng và tưởng niệm cố giáo sư Trần Văn Khê tại một vị trí trang trọng, bao gồm cả các bộ bàn ghế tiếp khách và trang thiết bị truyền hình, âm thanh, nơi trưng bày các hiện vật, tranh ảnh… để phục vụ cho những cuộc giao lưu, những nghiên cứu âm nhạc dân tộc của ông.[10] Đây là quyết định gây mâu thuẫn. Quyết định này được các con gái của ông Khê ủy nhiệm, nhưng lại không được con trưởng của ông là Trần Quang Hải tán thành[9].
Thành lập nhà lưu niệm
Di nguyện của ông Trần Văn Khê là sau khi ông mất, toàn bộ tiền phúng viếng sẽ để ra để thành lập Quỹ Trần Văn Khê và chuyển ngôi nhà 32 Huỳnh Đình Hai trở thành Trung tâm Trần Văn Khê.
Tuy nhiên, ngày 1/1/2016, con trai trưởng Trần Quang Hải viết thư cho Ban tang lễ (ban được ông Khê ủy nhiệm cùng con trai trưởng để thực hiện di nguyện) xin từ bỏ ý định thực hiện di nguyện do một số lý do: Quỹ 700 triệu từ tiền phúng viếng không thể đủ để thành lập quỹ (theo quy định là 1 tỷ) và duy trì hoạt động sau này, ngôi nhà 32 Huỳnh Đình Hai thủ tục quá nhiêu khê và vẫn chưa được nhà nước cấp phép[11].
Gia đình
Ông Trần Văn Khê có người em trai là nhạc sĩ Trần Văn Trạch và em gái út là Trần Ngọc Sương. Nhạc sĩ Trần Văn Trạch là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng ở Sài gòn trước năm 1975. Trần Ngọc Sương sinh năm 1925, từng là ca sĩ lấy biệt hiệu là Ngọc Sương, sau đổi lại là Thủy Ngọc trong những năm 1948-50, và hiện sống tại Montreal, Canada.
Người vợ duy nhất của ông Trần Văn Khê là bà Nguyễn Thị Sương (1921-2014). Ông Trần Văn Khê có bốn người con với bà Sương: Trần Quang Hải hiện là nhà nghiên cứu nhạc dân tộc tại Paris, Trần Quang Minh, kiến trúc sư, hiện sống ở TP Hồ Chí Minh, Trần Thị Thủy Tiên hiện sống tại Paris, và Trần Thị Thủy Ngọc, nhạc sĩ đàn tranh và làm việc cho một ban nghiên cứu Đông Nam Á của trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học ở Paris[12].
Khi ông Khê sang Pháp học năm 1949, do hoàn cảnh, ông và bà Sương không còn sống với nhau nữa. Năm 1960, bà Sương và ông ly dị,[13] tuy nhiên sau này vẫn coi nhau là bạn[14]. Sau đó ông có những người phụ nữ khác nhưng ông không kết hôn thêm lần nào nữa. Ông nói: "Đa tình thì có thể nhưng rất may là tôi không phải là người bạc tình và cũng chưa bao giờ cùng lúc có hai ba người. Chỉ có người này đi qua người khác đến. Cũng chưa có người phụ nữ nào oán trách tôi, khi chia tay chúng tôi đều giữ lại được tình bạn."[15]. Mấy chục năm cuối đời ông sống một mình.
Khi ông Khê sang Pháp học năm 1949, người con gái út của ông là Trần Thị Thủy Ngọc còn nằm trong bụng mẹ chưa ra đời. Sau này, năm 1961 Trần Quang Hải (trưởng nam) sang Pháp, tới năm 1969 đến lượt Thủy Ngọc (con gái út) sang Pháp ở với cha. Còn Trần Quang Minh và Thủy Tiên ở lại Việt Nam, sống với mẹ[13]. Đến 1986, Thuỷ Tiên qua Pháp định cư. Trần Quang Hải kết hôn với ca sĩ Bạch Yến (ca sĩ) sống tại Paris. Trần Quang Minh có gia đình vẫn sống ở TP HCM cho đến nay.
Hội viên
Giáo sư Trần Văn Khê là thành viên của nhiều hội nghiên cứu âm nhạc trong nước Pháp, Mỹ, Trung Quốc và trên trường quốc tế:
Hội Nhà văn Pháp
(Société des Gens de Lettres) (Pháp)
Hội Âm nhạc học
(Société Française de Musicologie) (Pháp)
Hội Dân tộc Nhạc học Pháp
(Société Française d'Ethnomusicologie) (Pháp)
Hội Âm nhạc học Quốc tế
(Société Internationale de Musicologie)
Hội Dân tộc Nhạc học
(Society for Ethnomusicology) (Mỹ)
Hội Nhạc học Á châu
(Society for Asian Music) (Mỹ)
Hội Âm nhạc Á châu và Thái Bình Dương
(Society for Asian and Pacific Music)
Hội Quốc tế Giáo dục Âm nhạc
(International Society for Music Education)
Thành viên và chủ tịch hội đồng khoa học của Viện Quốc tế Nghiên cứu Âm nhạc với Phương pháp Đối chiếu
(International Institute for Comparative Music Studies) (Đức)
Hội đồng Quốc tế Âm nhạc truyền thống
(International Council for Traditional Music) nguyên phó chủ tịch (Mỹ)
Hội đồng Quốc tế Âm nhạc
(International Music Council/UNESCO),
nguyên uỷ viên ban chấp hành, nguyên phó chủ tịch, đương kim Chung sanh hội trưởng danh dự (Pháp)
Viện sĩ thông tấn, Hàn lâm viện châu Âu, Khoa Học,
Văn chương, Nghệ thuật...
Giải thưởng
1949: Giải thưởng nhạc cụ dân tộc tại Liên hoan Thanh niên Budapest.
Huy chương bội tinh hạng nhứt của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Văn hoá bội tinh hạng nhứt của Bộ giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
1975: Tiến sĩ âm nhạc danh dự (Docteur en musique, honoris causa) của Đại học Ottawa (Canada).
1981: Giải thưởng âm nhạc của UNESCO ở Hội đồng Quốc tế Âm nhạc (Prix UNESCO - CIM de la Musique).
1991: Officier de l'Ordre des Arts et des Lettres, Ministère de la Culture et de l'Information du Gouvernement français
(Huy chương về Nghệ thuật và Văn chương của Bộ Văn hoá Pháp).
1993: Cử vào Hàn lâm viện châu Âu về Khoa học, Văn chương, Nghệ thuật; viện sĩ thông tấn.
1998: Huy chương Vì Văn hoá Dân tộc của Bộ Văn hoá Việt Nam.
1999: Huân chương Lao động hạng nhất do Chủ tịch Trần Đức Lương cấp.
2005: Giải thưởng Đào Tấn do Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc trao tặng.
2011: Giải thưởng Phan Châu Trinh về nghiên cứu
Chú thích
^ Vĩnh biệt GS-TS Trần Văn Khê – một người tài hoa … Q.Như- H.Thuận, 13:37 - 24/06/2015 (GMT +7)
^ a ă Singapore Swim Association. “Giáo sư Trần Văn Khê qua đời”. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015.
^ Mai Anh, "GS. Trần Văn Khê - Nhà nghiên cứu âm nhạc truyền thống làm vinh danh nước Việt", trang Đại học Quốc gia Hà Nội. Truy cập 2008-10-22.
^ Trần Văn Khê, "Đờn ca tài tử trong không gian văn hóa Nam bộ", bảo Tuổi Trẻ 15/01/2006 10:50 GMT+7. Truy cập 2015-06-29.
^ a ă Nguyễn Phúc Nghiệp, "Về một gia tộc nổi tiếng âm nhạc ở Việt Nam", trang tỉnh Tiền Giang cập nhật 18-04-2008. Truy cập 2015-06-29..
^ Bạch Dương, "GS Trần Văn Khê và những ngôi nhà", Bạch Dương ghi, Báo Tiền phong 13:31 ngày 05 tháng 10 năm 2008. Truy cập 2015-06-29.
^ http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/con-trai-gs-tran-van-khe-bo-y-dinh-thuc-hien-di-nguyen-cua-cha-3337343.html
^ “Cuộc đời, sự nghiệp GS. Trần Văn Khê qua lời hồi ức của con trai (I)”. Báo điện tử Dân Trí. 24 tháng 6 năm 2015. Truy cập 24 tháng 6 năm 2015.
Tham khảo
"Bảo vệ tích cực" di sản âm nhạc Hữu Trịnh, 29/08/2007 12:52:48
Trao giải thưởng Đào Tấn cho Giáo sư Trần Văn Khê báo Tuổi Trẻ cập nhật 21/11/2005 15:29 GMT+7 theo TTXVN
Nhạc sĩ Tuấn Khanh
Quả thật, có thể công việc nghiên cứu công phu và kỳ tài của nhạc sĩ Trần Văn Khê luôn được ngưỡng mộ nhưng chỉ có giá trị biểu trưng trong đám đông. Nghe tên thì nhiều nhưng để tìm hiểu và biết về ông thì chẳng có mấy ai.
Năm 2014, tôi gọi điện thoại cho nhạc sĩ Trần Văn Khê để xin hẹn gặp mặt phỏng vấn. Lúc đó, ông chỉ vừa về nhà sau môt đợt nằm ở nhà thương khá dài. Khi nghe mục đích cuộc trò chuyện là để đưa lên báo, ông ngập ngừng một chút rồi hỏi lại “thật ra, công việc của bác là nghiên cứu, khô khan lắm, có gì để nói cho công chúng thích thú đâu?”. Câu nói có cả sự khiêm tốn, nhưng cũng có cả một nỗi niềm trong thời đại nhộn nhịp mê mãi mua vui hôm nay. Trong tíc tắc ấy, tôi chợt nhận cả một khung cảnh đồ sộ nền âm nhạc Việt Nam, trong một tình cảm buồn vui lẫn lộn.
Quả thật, có thể công việc nghiên cứu công phu và kỳ tài của nhạc sĩ Trần Văn Khê luôn được ngưỡng mộ nhưng chỉ có giá trị biểu trưng trong đám đông. Nghe tên thì nhiều nhưng để tìm hiểu và biết về ông thì chẳng có mấy ai. Có thể đó là lý do khiến bất cứ ai tìm kiếm trên các trang mạng về nhạc sĩ Trần Văn Khê, có rất ít các bản video nói chuyện về âm nhạc dân tộc Việt được tìm thấy, so với hàng trăm lần, hàng trăm bài diễn thuyết đã được ghi hình của ông. Tất cả những chương khai sáng về văn hóa Việt bị nhấn chìm trong biển của các video ca nhạc thương mại, đặc biệt có những lời ca ngợi ngất trời vĩ đại, cùng lượt người xem chạm đỉnh.
Khó mà tả được một cảm giác như vậy, cũng giống như những lần tôi hỏi các sinh viên ngành nhạc do vô tình gặp gỡ, khi hỏi rằng biết Đặng Thái Sơn là ai không, họ trả lời có, nhưng chỉ là biết cái tên, còn lại vẫn là một khoảng trống mù mờ vô tận.
Dĩ nhiên, việc tìm đến một thú vui giải trí qua ngày tháng là điều không thể trách cứ gì, đối người Việt Nam hôm nay, hoặc với một giai cấp rủng rỉnh tiền. Nhưng giữa sự mất cân bằng dến vậy, những ai nghĩ về văn hóa Việt cũng nên có chút băn khoăn và cần suy nghĩ rằng quả có điều gì đó bất bình thường đang lớn dần trên đất nước này.
Đừng quên, ở đất nước như Hoa Kỳ, khi các tác phẩm điện ảnh giải trí vô bổ như Avengers hay Mad Max có thể gây nên những cơn sốt rầm rộ, thì các buổi diễn nhạc kịch Broadway với giá vé rất cao, cũng luôn không còn chỗ ngồi trước 3 tháng. Những buổi diễn thuyết về triết học Phật giáo và khoa học của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở các trường đại học có khán phòng 5000-6000 chỗ ngồi, muốn tham dự phải chật vật ghi danh lấy chỗ trước cả tháng với giá ít nhất là 350 USD, không khác gì buổi biểu diễn đặc biệt của một danh ca nhạc rock đương thời. Sự cân bằng ấy, cho thấy một sự phát triển bình thường, và bất kỳ ai có bi quan về tương lai thế nào., cũng có thể tạm yên tâm về lộ trình phát triển văn hóa ấy của cả một quốc gia mình như vậy.
Quả thật, có thể công việc nghiên cứu công phu và kỳ tài của nhạc sĩ Trần Văn Khê luôn được ngưỡng mộ nhưng chỉ có giá trị biểu trưng trong đám đông. Nghe tên thì nhiều nhưng để tìm hiểu và biết về ông thì chẳng có mấy ai. Có thể đó là lý do khiến bất cứ ai tìm kiếm trên các trang mạng về nhạc sĩ Trần Văn Khê, có rất ít các bản video nói chuyện về âm nhạc dân tộc Việt được tìm thấy, so với hàng trăm lần, hàng trăm bài diễn thuyết đã được ghi hình của ông. Tất cả những chương khai sáng về văn hóa Việt bị nhấn chìm trong biển của các video ca nhạc thương mại, đặc biệt có những lời ca ngợi ngất trời vĩ đại, cùng lượt người xem chạm đỉnh.
Khó mà tả được một cảm giác như vậy, cũng giống như những lần tôi hỏi các sinh viên ngành nhạc do vô tình gặp gỡ, khi hỏi rằng biết Đặng Thái Sơn là ai không, họ trả lời có, nhưng chỉ là biết cái tên, còn lại vẫn là một khoảng trống mù mờ vô tận.
Dĩ nhiên, việc tìm đến một thú vui giải trí qua ngày tháng là điều không thể trách cứ gì, đối người Việt Nam hôm nay, hoặc với một giai cấp rủng rỉnh tiền. Nhưng giữa sự mất cân bằng dến vậy, những ai nghĩ về văn hóa Việt cũng nên có chút băn khoăn và cần suy nghĩ rằng quả có điều gì đó bất bình thường đang lớn dần trên đất nước này.
Đừng quên, ở đất nước như Hoa Kỳ, khi các tác phẩm điện ảnh giải trí vô bổ như Avengers hay Mad Max có thể gây nên những cơn sốt rầm rộ, thì các buổi diễn nhạc kịch Broadway với giá vé rất cao, cũng luôn không còn chỗ ngồi trước 3 tháng. Những buổi diễn thuyết về triết học Phật giáo và khoa học của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở các trường đại học có khán phòng 5000-6000 chỗ ngồi, muốn tham dự phải chật vật ghi danh lấy chỗ trước cả tháng với giá ít nhất là 350 USD, không khác gì buổi biểu diễn đặc biệt của một danh ca nhạc rock đương thời. Sự cân bằng ấy, cho thấy một sự phát triển bình thường, và bất kỳ ai có bi quan về tương lai thế nào., cũng có thể tạm yên tâm về lộ trình phát triển văn hóa ấy của cả một quốc gia mình như vậy.
Rất nhiều lần, các buổi hòa nhạc hiếm có ở Nhạc viện hay Nhà hát lớn Sài Gòn vắng khách, đặc biệt các hàng ghế tốt nhất dành cho các nhân vật quan trọng, với vé mời thành kính, luôn để trống vì không có người đến. Ghế dành cho các quan chức vị trí càng cao, nguy cơ để trống càng lớn. Và nếu đến thì cũng vội vã ra về lúc giải lao giữa chừng, Không ít lần, những người khán giả yêu âm nhạc đã phải im lặng xót xa, vì sao một chương trình như vậy ở nước ngoài, không phải ai cũng có được cơ may tham dự, thì ở Việt Nam luôn lạnh lẽo đến đáng buồn tủi. Thậm chí, các chương trình chiếu phim miễn phí giao lưu văn hóa của các nước Pháp, Đức… cũng không phải là điểm đến đầy ấm áp văn hóa, tương đồng với thành phố lắm cao ốc và dự án phát triển khổng lồ của xã hội Việt. Thậm chí nơi đó, những nhà đạo diễn lừng danh, những người làm nghề điện ảnh thì lại càng hiếm hoi.
Đinh Sơn, người thầy từ miền Bắc mà tôi yêu quý như cha mình trong những năm ở Nhạc Viện, từng nói trong một mùa hè, một lần ngồi ngó ra song cửa nhìn học sinh khoa dân tộc tràn ra về sau giờ học “có lẽ nhiều năm nữa, mình mới có một thế hệ bật ra được một người như Trần Văn Khê”. Ông giải thích rằng ông chứng kiến trong đời mình những thế hệ Tây học hết sức trí thức, chỉ mới ngoài hai mươi đã tranh cãi nhau kịch liệt về triết học. Đi ra bờ hồ thấy các thanh niên ngồi đọc sách báo nước ngoài, trò chuyện với khách du lịch bằng ngoại ngữ là chuyện thường ngày. Nhưng giờ đây mọi thứ càng ít đi. Con người trong xã hội không học tri thức sống nữa mà chỉ học công thức để sống sót. Ngoại ngữ không phải để trau dồi và mở cánh cửa ra thế giới mới, mà chỉ để được dung nạp ở nước ngoài hoặc mong hiểu được nhanh những cách thức làm giàu, từ tác phẩn ngoại văn. “Một thế hệ vàng như xưa nếu trỗi dậy, cũng sẽ chỉ bật ra được một vài người làm rạng danh đất nước. Trần Văn Khê là một người hiếm hoi của thế hệ hiếm hoi như vậy đó”, thầy tôi nói. Nhiều năm sau, khi ông qua đời, tôi lại càng thấy những điều ông nói là căn bản của sự phát triển của một quốc gia, càng thấm thía biết bao.
Trách sao được khi hôm nay nhà hát hòa nhạc luôn vắng. Trách sao được khi điện ảnh nghệ thuật luôn heo hút người chia sẻ trí tuệ. Điều đó là câu hỏi về vấn đề thế hệ. Trong lần xem ra mắt một cuốn phim nghệ thuật của nữ đạo diễn người Pháp gốc Việt, chiếu tại Viện trao đổi văn hóa với Pháp (Idecaf, quận 1), một nhà làm phim lâu năm, có tên tuổi trong nước, tóc hoa râm, đã đứng lên có ý kiến, thành thật xin được giải thích vì coi hết phim, ông vẫn chưa hiểu. Cả rạp chết lặng. Và cả người nữ đạo diễn cũng chết lặng. Bài giảng văn về chính tác phẩm của mình được đọc vội nơi đó trong sự xấu hổ của rất nhiều người, và thương xót cho thế hệ của mình, thế hệ đi trước mình.
Một lần nhận được một lời mời làm phim quảng cáo cho một hãng thực phẩm của nước ngoài. Sau khi xem xong phần phim quảng cáo, tôi đề nghị sử dụng hình thức nhạc giao hưởng để làm cho phim, thì sẽ phù hợp. Hai người bạn trẻ gần 30, đại diện của hãng quảng cáo nước ngoài ấy, khi nói chuyện luôn pha các câu tiếng Anh vào để diễn đạt như thể tiếng mẹ đẻ không đủ sức diễn đạt, đã nhìn nhau, và hỏi rằng “Sorry, anh cho biết nhạc giao hưởng là loại nhạc gì?”. “Mấy em chưa bao giờ nghe đến kiểu nhạc giao hưởng à?”… Hai người bạn trẻ hơi bối rối “Maybe tụi em biết nhưng không nhớ hết. Thôi anh về làm giúp tụi em một bản demo nhạc giao hưởng như anh nói, rồi tụi em sẽ feedback (hồi đáp) cho anh liền”. Dĩ nhiên, tôi trả lại dự án đó và ra về, vì biết rồi mọi chuyện sẽ rất “khô khan”, không khác gì nỗi lo như nhạc sĩ Trần Văn Khê đối diện với đời sống hôm nay vậy.
Nhạc sĩ Trần Văn Khê là một con người tự trọng. Đây không phải là lần bệnh tật tuổi già đầu tiên của ông mà khó khăn đeo đuổi, nhưng ông luôn im lặng vì e rằng sự “khô khan” của đời mình sẽ là điều làm phiền ai đó hơn là được chia sẻ. Chỉ đến khi những người yêu mến ông quá sốt ruột và viết những lời kêu gọi trên facebook, thì mới có một đợt quan tâm lan rộng trong một tầng lớp hiếm hoi còn tiếc thương văn hóa Việt, tiếc thương nhân tài Việt.
Không thể không buồn khi chuyện một ngôi sao ca nhạc tầm ruồng hôm nay khoe nhà cửa, siêu xe… được các báo săn đón, đăng tải đến mấy kỳ hoặc kéo link khắp nơi, còn một thư viện văn hóa của người Việt có thể hóa rồng vào chốn hư không thì chỉ được có vài dòng tin quấy quá. Người Đức vẫn có câu “mỗi người già là một thư viện quý, khi họ mất đi, chúng ta lại càng ngu dốt hơn”. Có bao nhiêu thư viện quý như vậy đã và sẽ ra đi trong tiếng trống hội đùng đoàng vô tâm trên đất nước này? Không thể không buồn khi các danh ca, đại kịch sĩ… khoe khoang tổ chức đi từ thiện rầm rộ, bộ thức chiêm bái uy nghiêm trước ống kính truyền hình, nhà báo… nhưng tảng lờ chuyện thật của đời, từ nhạc sĩ Trần Văn Khê cho đến nghệ sĩ Trang Thanh Xuân, nhạc sĩ Thanh Bình… Nếu có nói đến, lưỡi dao báo chí cũng chỉ lách và lọc từng nỗi đau của con người để câu chút ít sự quan tâm cho bản báo, giọng điệu giả nhân giả nghĩa. Đó cũng là những điều mất cân bằng kỳ quái trong xã hội văn hóa hôm nay. Không ít, mà nhiều, rất nhiều.
Điều gì đã khiến người Việt từ những thế hệ vàng, chuyển sang những thế hệ khô khan với tri thức và văn hóa của con người, vốn đã từng lộng lẫy? Sự thụt lùi ấy không đong đo được, như một dấu chấm hỏi trĩu nặng không lời đáp theo chiều dài xứ Việt, với mỗi chúng ta.. Câu hỏi vẫn gõ đều như tiếng kinh chiều mỗi ngày, báo hiệu những ngày tháng khô khan như sa mạc trên đất nước hôm nay, đang lắm lời tự ngợi ca và tự huyễn hoặc mình.
Thành phố của tụi mình, đất nước của tụi mình…
Đinh Sơn, người thầy từ miền Bắc mà tôi yêu quý như cha mình trong những năm ở Nhạc Viện, từng nói trong một mùa hè, một lần ngồi ngó ra song cửa nhìn học sinh khoa dân tộc tràn ra về sau giờ học “có lẽ nhiều năm nữa, mình mới có một thế hệ bật ra được một người như Trần Văn Khê”. Ông giải thích rằng ông chứng kiến trong đời mình những thế hệ Tây học hết sức trí thức, chỉ mới ngoài hai mươi đã tranh cãi nhau kịch liệt về triết học. Đi ra bờ hồ thấy các thanh niên ngồi đọc sách báo nước ngoài, trò chuyện với khách du lịch bằng ngoại ngữ là chuyện thường ngày. Nhưng giờ đây mọi thứ càng ít đi. Con người trong xã hội không học tri thức sống nữa mà chỉ học công thức để sống sót. Ngoại ngữ không phải để trau dồi và mở cánh cửa ra thế giới mới, mà chỉ để được dung nạp ở nước ngoài hoặc mong hiểu được nhanh những cách thức làm giàu, từ tác phẩn ngoại văn. “Một thế hệ vàng như xưa nếu trỗi dậy, cũng sẽ chỉ bật ra được một vài người làm rạng danh đất nước. Trần Văn Khê là một người hiếm hoi của thế hệ hiếm hoi như vậy đó”, thầy tôi nói. Nhiều năm sau, khi ông qua đời, tôi lại càng thấy những điều ông nói là căn bản của sự phát triển của một quốc gia, càng thấm thía biết bao.
Trách sao được khi hôm nay nhà hát hòa nhạc luôn vắng. Trách sao được khi điện ảnh nghệ thuật luôn heo hút người chia sẻ trí tuệ. Điều đó là câu hỏi về vấn đề thế hệ. Trong lần xem ra mắt một cuốn phim nghệ thuật của nữ đạo diễn người Pháp gốc Việt, chiếu tại Viện trao đổi văn hóa với Pháp (Idecaf, quận 1), một nhà làm phim lâu năm, có tên tuổi trong nước, tóc hoa râm, đã đứng lên có ý kiến, thành thật xin được giải thích vì coi hết phim, ông vẫn chưa hiểu. Cả rạp chết lặng. Và cả người nữ đạo diễn cũng chết lặng. Bài giảng văn về chính tác phẩm của mình được đọc vội nơi đó trong sự xấu hổ của rất nhiều người, và thương xót cho thế hệ của mình, thế hệ đi trước mình.
Một lần nhận được một lời mời làm phim quảng cáo cho một hãng thực phẩm của nước ngoài. Sau khi xem xong phần phim quảng cáo, tôi đề nghị sử dụng hình thức nhạc giao hưởng để làm cho phim, thì sẽ phù hợp. Hai người bạn trẻ gần 30, đại diện của hãng quảng cáo nước ngoài ấy, khi nói chuyện luôn pha các câu tiếng Anh vào để diễn đạt như thể tiếng mẹ đẻ không đủ sức diễn đạt, đã nhìn nhau, và hỏi rằng “Sorry, anh cho biết nhạc giao hưởng là loại nhạc gì?”. “Mấy em chưa bao giờ nghe đến kiểu nhạc giao hưởng à?”… Hai người bạn trẻ hơi bối rối “Maybe tụi em biết nhưng không nhớ hết. Thôi anh về làm giúp tụi em một bản demo nhạc giao hưởng như anh nói, rồi tụi em sẽ feedback (hồi đáp) cho anh liền”. Dĩ nhiên, tôi trả lại dự án đó và ra về, vì biết rồi mọi chuyện sẽ rất “khô khan”, không khác gì nỗi lo như nhạc sĩ Trần Văn Khê đối diện với đời sống hôm nay vậy.
Nhạc sĩ Trần Văn Khê là một con người tự trọng. Đây không phải là lần bệnh tật tuổi già đầu tiên của ông mà khó khăn đeo đuổi, nhưng ông luôn im lặng vì e rằng sự “khô khan” của đời mình sẽ là điều làm phiền ai đó hơn là được chia sẻ. Chỉ đến khi những người yêu mến ông quá sốt ruột và viết những lời kêu gọi trên facebook, thì mới có một đợt quan tâm lan rộng trong một tầng lớp hiếm hoi còn tiếc thương văn hóa Việt, tiếc thương nhân tài Việt.
Không thể không buồn khi chuyện một ngôi sao ca nhạc tầm ruồng hôm nay khoe nhà cửa, siêu xe… được các báo săn đón, đăng tải đến mấy kỳ hoặc kéo link khắp nơi, còn một thư viện văn hóa của người Việt có thể hóa rồng vào chốn hư không thì chỉ được có vài dòng tin quấy quá. Người Đức vẫn có câu “mỗi người già là một thư viện quý, khi họ mất đi, chúng ta lại càng ngu dốt hơn”. Có bao nhiêu thư viện quý như vậy đã và sẽ ra đi trong tiếng trống hội đùng đoàng vô tâm trên đất nước này? Không thể không buồn khi các danh ca, đại kịch sĩ… khoe khoang tổ chức đi từ thiện rầm rộ, bộ thức chiêm bái uy nghiêm trước ống kính truyền hình, nhà báo… nhưng tảng lờ chuyện thật của đời, từ nhạc sĩ Trần Văn Khê cho đến nghệ sĩ Trang Thanh Xuân, nhạc sĩ Thanh Bình… Nếu có nói đến, lưỡi dao báo chí cũng chỉ lách và lọc từng nỗi đau của con người để câu chút ít sự quan tâm cho bản báo, giọng điệu giả nhân giả nghĩa. Đó cũng là những điều mất cân bằng kỳ quái trong xã hội văn hóa hôm nay. Không ít, mà nhiều, rất nhiều.
Điều gì đã khiến người Việt từ những thế hệ vàng, chuyển sang những thế hệ khô khan với tri thức và văn hóa của con người, vốn đã từng lộng lẫy? Sự thụt lùi ấy không đong đo được, như một dấu chấm hỏi trĩu nặng không lời đáp theo chiều dài xứ Việt, với mỗi chúng ta.. Câu hỏi vẫn gõ đều như tiếng kinh chiều mỗi ngày, báo hiệu những ngày tháng khô khan như sa mạc trên đất nước hôm nay, đang lắm lời tự ngợi ca và tự huyễn hoặc mình.
Thành phố của tụi mình, đất nước của tụi mình…
Sầm Giang Tái Ngộ 14 - Trần Văn Khê - Nghiên cứu tiếng cười trong Hát Bộ
Giáo sư Trần Văn Khê nói về nhạc sĩ Phạm Duy trong chương trình "Thơ phổ nhạc"
ĐỜI VẪN ĐẸP SAO - GIÁO SƯ: TRẦN VĂN KHÊ - MAYQ MEDIA
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.