Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2015

Huy Cận (1919 - 2005)












http://phannguyenartist.blogspot.com/



Huy Cận

tên khai sinh: Cù Huy Cận
(1919 - 2005)
Hưởng thọ 86 tuổi


Nhà thơ, Nhà hoạt động chính trị








Tiểu sử


Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại Hà Tĩnh trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân. Ngày sinh hiện nay là do ông cậu của ông khai khi vào học ở Huế, còn ngày sinh chính xác là ngày 29 tháng Chạp năm Bính Thìn (dương lịch là ngày 22 tháng 1 năm 1917). 

Lúc nhỏ Huy Cận học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng. 
Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn. 



Hoạt động chính trường



Tháng 8 năm 1945, Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ Lâm thời (gồm Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận) vào kinh đô Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại. 

Sau Cách mạng tháng Tám, khi mới 26 tuổi, ông là Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin, phụ trách các công tác văn hóa và văn nghệ. 
Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII. 
Huy Cận mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội. Hưởng thọ 86 tuổi







Đời tư - Gia đình

Về đời tư, Huy Cận có hai người vợ. Người vợ đầu của ông là bà Ngô Xuân Như, (em gái nhà thơ Xuân Diệu) Bác sĩ Viện Y học cổ truyền Việt Nam đã mất năm 2009.
Người vợ thứ là bà Trần Lệ Thu, cán bộ giảng dạy Nga văn ở một trường Đại học tại Hà Nội.
Huy Cận và Xuân Diệu là 2 người bạn tri kỷ. Xuân Diệu cùng sống với gia đình Huy Cận cho đến hết cuộc đời tại ngôi nhà số 24 đường Cột Cờ (nay là đường Điện Biên Phủ), Hà Nội. 
Ông có 4 người con, 2 trai và 2 gái. Con trai cả của ông là tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, người bị công an Việt Nam bắt năm 2011 vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bị tuyên án 7 năm tù, 3 năm quản chế. 

Nay đã được thả và định cư tại Hao Kỳ











Ngậm Ngùi





Nhạc Phạm Duy
Thơ Huy Cận
Tiếng hát Vũ Khanh

Nắng chia nửa bãi, chiều rồi...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ...
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
















Sáng tác
Trước tháng 8 năm 1945








Lửa thiêng

1940
(gồm những bài đã đăng báo, khoảng 1936-1940)


Ê chề
Áo trắng
Đẹp xưa
Đi giữa đường thơm
Ði rất êm
Ðiệu buồn
Bình yên
Bi ca
Buồn
Buồn đêm mưa
Cách xa
Cầu khẩn
Chết
Chiều xuân
Chiều xưa
Dấu chân trên đường
Em về nhà
Gánh xiếc
Giấc ngủ chiều
Học sinh
Hối hận
Hồn xa
Hồn xuân
Hoạ điệu
Khung tình
Lời dịu
Mai sau
Mưa
Ngậm ngùi
Ngủ chung
Nhạc sầu
Nhớ hờ
Quanh quẩn
Song song
Tâm sự
Tình mất
Tình tự
Tựu trường
Thân thể
Thu
Thu rừng
Thuyền đi
Tiễn đưa
Tràng giang
Trình bày
Trò chuyện
Trông lên
Vạn lý tình
Xuân
Xuân ý








Kinh cầu tự
(1942, văn xuôi triết lí)







Vũ trụ ca

Gồm 38 bài, chưa xuất bản thành sách nhưng đã đăng báo từng bài lẻ. Lần đầu được in trong "Huy Cận toàn tập" (Tập 1).

Tập thơ được sáng tác trong thời gian 1940-1943.

Áo xuân
Cây lúa
Có tình yêu nào mà không đau
Cảm thông
Chiêm bao thỉnh thoảng em về
Gối tay
Gió một hướng...
Hỏi mặt trời
Hỡi em yêu, hỡi em thương
Hoa đăng
Hoa về
Hương dậy đất
Lên đàng
Lửa quanh đời
Mộng sắc duyên
Muộn màng
Nắng đào
Nằm nghe người thở
Nằm trong tiếng nói
Sơ khai
Tình đau một thuở
Thần thánh chết rồi
Tin vui
Trời, biển, hoa, hương
Trưa
Vĩnh viễn








Các tập thơ của Huy Cận sau Cách mạng tháng 8






Trời mỗi ngày lại sáng
(1958)






Đất nở hoa

(1960)







Bài thơ cuộc đời
(1963)






Hai bàn tay em
(thơ thiếu nhi, 1967)






Những năm sáu mươi
(1968)






Chiến trường gần đến chiến trường xa
(1973)






Họp mặt thiếu niên anh hùng
(1973)






Những người mẹ, những người vợ
(1974)






Ngày hằng sống ngày hằng thơ
(1975)







Ngôi nhà giữa nắng
(1978)







Hạt Lại Gieo
(1984)

Áo thời gian
Bãi biển cuối hè
Bên biển
Cành bàng xương mảnh
Chú tôi
Chiếc hôn
Dạo trên bờ biển
Dậy sớm
Hạt lại gieo
Một nét Vĩnh Linh
Một sáng mai xuân
Mưa đêm rừng cọ













Trang thơ Huy Cận

Anh đầu thai vào đời em mỗi sáng
Anh mang thầm em
Anh thợ gốm
Anh thương em
Anh viết bài thơ
Anh xa em một nửa
Đàn tơ-rưng
Đã rằng nương bóng trăng thanh
Đêm trăng mưa
Đêm về với biển
Đảo
Đến Tây Hồ nhớ Bạch Cư Dị
Đời hỏi gì ta
Đoàn thuyền đánh cá
Bà dì, bà mợ, bà cô
Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Bà ơi ngày hạ
Bâng khuâng
Bến lò rèn làng tôi thuở nhỏ
Bụng lân tài
Buổi sáng hôm nay
Buổi trưa hè
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Cái dạ yêu đời
Cảnh địa ngục
Cẩm thạch - Hương trầm
Cửa sông
Chép bài thơ cũ
Chùm hoa núi tặng
Chùm thơ viết ở đảo Long Châu
Chiếc võng tơ em tặng
Chiều thu quê hương
Chim làm ra gió
Chong chóng
Con chim chiền chiện
Diệu ơi, Diệu đã về yên tịnh
Em ạ, vườn xoan...
Em đi xe tháng
Em bé và mặt trăng
Em ơi! Trời xanh
Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa
Gặp chị điên
Gặp em một sáng
Gọi điện thoại
Gửi bạn người Nghệ Tĩnh
Giã từ, từ giã...
Gió đến nửa đêm chưa hết lạ
Gió chuyển mùa
Gió lạnh chiều đông
Gió một hướng
Giọng em
Hai bàn tay em
Hôm qua ta gặp bạn mai sau
Hôn em
Hỡi em yên lặng
Hồn thuở ban sơ
Hoa giữa nắng
Hoa sấu bầy ong
Huế vấn vương
Hương đất
Khắc khoải
Lê Văn Hưu
Mây trắng
Mùa hạ chín
Mắt Lý Công Uẩn
Mẹ ơi, đời mẹ...
Mơ cho đã
Mưa xuân trên biển
Nén hương nhớ Bác
Núi Bài Thơ
Ngày thu trong
Ngày xuân nghĩ đến: Nguyễn Du - Hồ Xuân Hương
Ngày xuân thăm chùa Trăm Gian
Ngã ba Đồng Lộc
Ngô Quyền
Nghĩ cũng lạ...
Nhà thơ dân gian
Những mảnh tình
Nhớ
Nhớ mẹ năm lụt
Phố Đông Ba của tôi ngày bé
Sang xuân
Sau giông trời mát...
Say mùa hè
Sống một đời
Sớm mai gà gáy
Soi gương buổi sáng
Ta viết bài thơ gọi biển về
Tên em
Tình em như đám cháy rừng
Tóc em toả xuống mặt anh
Tạo hoá sinh em...
Tặng em buổi sáng hôm nay
Tổ quốc
Thăm lò chum
Thi nghé
Tiếng biển về khuya
Trái Đất còn quay
Trò chuyện với kim tự tháp
Trống đồng
Trăng rằm mọc
Trăng sao cũng hoá xứ người
Trăng xuân
Trưa nay suối biếc...
Ví bằng
Về thăm quê xã Đức Ân
Vỗ về
Viết một bài thơ
Vườn hồng
Vườn hồng sau mưa
Xem ảnh tuổi nhỏ của em
Xem tranh Tề Bạch Thạch
Xem triển lãm tượng gỗ dân gian
Xuân hành
Yêu
Yêu đời
Yêu nhau nhớ mấy cho vừa...






Bút tích nhà thơ Huy Cận











Xuân Diệu, Ngô Xuân Như, Huy Cận
(chiến khu Việt Bắc)










Thép Mới, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Đỗ Quảng, Huy Cận

















Huy Cận











Huy Cận lúc trẻ












Tham khảo thêm về nhà thơ Huy Cận







Huy Cận : một Vẻ đẹp của quá khứ
Vương Trí Nhàn




Từ hồi tuổi mới 20 – 25 , Huy Cận đã biết tạo cho thơ mình một vẻ đẹp khá già dặn . Cái tên Lửa thiêng , có lẽ không hẳn đã hợp với các bài thơ trong tập , đơn giản là vì chất thiêng ở đây còn thấp thoáng một vẻ phôi phai trần tục và khó lòng nói là đã có được sắc thái riêng . Mà phù hợp hơn, khi muốn tìm ra cái phần tinh hoa trong thơ Huy Cận lúc ấy , tôi muốn dùng chữ đẹp xưa , như tên một bài thơ khác của ông . Thật vậy , nếu nhớ tới Xuân Diệu , luôn luôn ta nhớ cái líu ríu cuống quýt mau với chứ vội vàng lên với chứ của ngày hôm nay thì giọng thơ Huy Cận thật khoan thai trầm mặc , nó là tiếng nói của một nhà thơ luôn sống với một quãng lùi để có thể nhìn mãi tận xa xưa . Cũng giống như Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, thơ Huy Cận hồi ấy cho chúng ta biết một khía cạnh đặc biệt làm nên cái điệu tâm hồn Việt Nam . Ngậm ngùi . Chiều xưa . Tràng giang. Nhạc sầu . .. Những bài thơ đó thuộc về cách nghĩ một thời . Quá khứ hằn lên với những vết mòn . Mờ xa mà thắm thiết . Và xa vắng , và đìu hiu . Tôi nghĩ tới cái màu ngói cổ . Tôi nghĩ tới cái cái hoà sắc riêng của những đền chùa Việt Nam , những bức tường rêu phong , những hàng cột không chói lọi sơn son thiếp vàng , mà màu đỏ ở đây như có cái vẻ trĩu xuống đất , lẫn vào chung quanh , nhẫn nại , cam chịu .
Cũng đã có lần Huy Cận nói tới một vẻ đẹp hoang dại dân dã Đường trong làng hoa dại với mùi rơm -- Tôi cùng người đi dạo giữa đường thơm . Nhưng những bài thơ hay nhất của ông thường có cái vẻ sang trọng pha chút quý phái . Cố nhiên không bao giờ ta quên rằng hồn thơ ấy chỉ có thể hình thành nhờ ảnh hưởng Tây phương . Dấu vết của thơ Pháp còn trải khắp tập Lửa thiêng ( kiểu như Sớm hôm nay hồn em như tủ áo -- ý trong veo là lượt xếp từng đôi ). Có điều , ở những bài hay nhất trong tập , ta gặp lại cái vang hưởng Trung Hoa vốn đến với ta từ lâu lắm . Xa rồi khuất ngựa sau non -- Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu . Tràng đạc là gì ? Có phải là tiếng chuông lắc trên cổ con ngựa ? Sao không nói sông dài mà lại phải gọi Tràng giang ? Không ai định hỏi và xưa nay tác giả cũng không nói . Cũng như ta không bao giờ thắc mắc về những gió thanh tân , tình vạn lý , những đồng trăng lục nhạt vàng thanh lối gần . .., chỉ có cảm tưởng những chữ ấy câu ấy nói hộ một điều bấy lâu vẫn sống âm thầm dai dẳng trong mỗi tâm hồn .
Cái vẻ chín tới này không chỉ có mặt trong Lửa thiêng mà về sau , còn một lần nưã đến với Huy Cận . Những năm sáu mươi của thế kỷ XX không chỉ là một giai đoạn thanh bình hiếm có đến với đất nước sau cuộc kháng chiến chống Pháp , mà còn đánh dấu một bước phục hưng thực sự trong đời sống thơ ở Hà Nội . Nó không đi tìm những cái mới lạ . Mà nó quay về với cái lãng mạn và bằng sự hồn nhiên của mình , đạt tới một trình độ cổ điển mới . Chế Lan Viên có ánh sáng và phù sa với cái phần e ấp chờ đợi hồi hộp khát khao ít thấy ; ánh sáng và phù sa tuy không được dư luận coi là tiêu biểu song theo tôi lại là cái phần hay nhất trong sáng tác của họ Chế . Rồi Tế Hanh có Gửi miền Bắc không dễ dãi như tác giả này vốn có ; Xuân Diệu có Cầm tay , chùm thơ tình , mà chất lượng hoàn toàn có thể đọ với Thơ thơ ngày xưa . Và Huy Cận có Trời mỗi ngày lại sáng , Đất nở hoa , Bài thơ cuộc đời … Nếu đối diện với những bài hay nhất rút ra từ ba tập này , chúng ta sẽ thấy lại cái vẻ chín , đầy đặn , chắc chắn của thơ ông . Thu tới ngoài kia -- Nghe nhân thơm trong trái nặng -- Nghe nhựa ấm trong cành thưa --- Nghe run rẩy tiếng gió ru lúa chín -- Xôn xao cuống lá rụng thay mùa. Sinh thời , nói chuyện với tôi , Nguyễn Minh Châu tỏ ý rất chịu bài Chín với mấy câu mở đầu như vậy . Còn đám học trò cấp ba chúng tôi hồi trước chiến tranh thì mê đủ thứ , cả cái cảm giác lộng lẫy toát lên từ sự hài hoà của trời đất trong Đoàn thuyền đánh cá , lẫn cái đạm bạc như một bức tranh thuỷ mạc của Mưa xuân trên biển ( mà một câu trong đó là Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm ) , rồi nữa , cái lạ lùng bất ngờ của những bài thơ Huy Cận viết từ nước ngoài ( Trò chuyện với Kim Tự tháp , Xem tranh Tề Bạch Thạch v..v.. ) . Quá mê các bậc đàn anh tới mức chịu đi sau làm cái bóng của họ là lỗi của một lớp người trẻ tuổi , song quả thực , có dễ gì vượt được một chuỗi tài năng cùng lúc toả sáng như vậy . Họ đã chín trong hoàn cảnh của họ , còn chúng tôi phải chăng cái sự sống sít , dang dở theo mãi như một nghiệp chướng ? …
Một bạn Việt kiều , cũng quê Hà Tĩnh như Huy Cận , sau mười lần về nước , gần đây có nhận xét rằng người Hà Nội có vẻ quá “chúi mũi “ vào thưởng thức văn chương , tự ru ngủ trong những câu thơ vần vèo thánh thót mà coi nhẹ tư tưởng bộc lộ qua trang viết . Lúc tỉnh táo và thử làm khác mình đi , tôi cũng muốn nghĩ thế . Nhưng biết làm thế nào ?! Thơ , với chúng tôi , đó là tuổi trẻ , là sự có mặt trong đời , là hy vọng , là cái sự hồn nhiên được gặp gỡ với bao nhiêu tâm hồn . Như với Huy Cận mà hôm nay ra đi . Chỉ vừa nghe tin ngày 19-2 ông đã vĩnh viễn nằm xuống là tâm trí đã xôn xao như những gì nhạy cảm nhất đang cùng rung lên trong lòng . Không còn những chuyện tầm thường nhếch nhác của đời sống hàng ngày , không còn bao nhiêu trơ lỳ , già cỗi , thóai hoá , nó chia rẽ những người cùng sống một thời , mà chỉ còn những câu thơ hay nhất tác giả từng viết , những câu thơ thời trẻ bọn tôi đã thuộc , lục tục kéo tới . Tác giả Lửa thiêng là thế , thơ Huy Cận đã thuộc về một phần tài sản tinh thần của cả mấy thế hệ hôm nay .











trái: Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Huy Cận












Trở về




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.






















Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

Mặc Đỗ (1917 - 2015)











Mặc Đỗ

Đỗ Quang Bình
(1917 - 2015)
Hưởng thọ 98 tuổi
Nhà văn, Nhà báo, Dịch giả












Nhà văn Mặc Đỗ tên thật là Đỗ Quang Bình. Sinh năm 1917 tại Hà Nội. Di cư vào Nam năm 1954. Tị nạn đến Hoa Kỳ năm 1975, và qua đời tháng 10 năm 2015, hưởng thọ 98 tuổi.







Tác phẩm đã xuất bản:







 1
Bốn Mươi











2
  Siu Cô Nương 










3
Tân Truyện I, II










4
Tuyển tập truyện ngắn











5
Trưa Trên Đảo San Hô 












ảnh Trần Cao Lĩnh









Dịch thuật








1
Lão Ngư ông và biển cả
(E.Hémingway)
Quan điểm 1956; Cảothơm 1965; Đất sống 1973-1974



2
Con người hào hoa
(F.S.Fitzgerald)
Quan điểm 1956



3
Một giấc mơ
(Vicky Baum)
Cảo thơm 1966 (nxb.Hội nhà văn in lại 2003)



4
Người vợ cô đơn
(F.Mauriac)
Cảo thơm 1966; Đất sống 1973 (nxb.Hội nhà văn in lại 1997)



5
Thời nhỏ trong gia đình Luvers
(B.Pasternak)
Tập san Văn 1967



6
Tâm cảnh
(A.Maurois)
Tập san Văn 1967



7
Anh MÔN
(A.Fournier)
Cảo thơm 1968



8
Vùng đất hoang vu
(L.Tolstoi)
Đất sống1973



9
Giờ thứ 25
(Georghiu)
Đất sống 1973




10
Thần nhân và thần thoại Tây phương
Biên khảo, nxb.Trương Vĩnh Ký, Saigon 1974 
(nxb.Văn hoá Thông tin in lại 1995) 









Con đường Mặc Đỗ từ Hà Nội Sài Gòn tới Trưa trên đảo san hô

Ngô Thế Vinh
2015-06-20


Mặc Đỗ nhà văn, nhà báo, dịch giả là một trong những tên tuổi của văn học Miền Nam trước 1975. Sau 1975, sang Mỹ tỵ nạn ở cái tuổi 58 còn tràn đầy sức sáng tạo nhưng anh đã chọn một cuộc sống quy ẩn, chữ của Mai Thảo. Mặc Đỗ gần như dứt khoát không xuất hiện hay có tham dự nào trong sinh hoạt cộng đồng văn chương ở hải ngoại -- [biển ngoài, chữ của Mặc Đỗ], thái độ chọn lựa đó khiến tên tuổi anh hầu như rơi vào quên lãng.

Tiểu sử Mặc Đỗ

Tên Đỗ Quang Bình, sinh năm 1917 tại Hà Nội trong một gia đình Nho học nhưng hấp thụ một nền văn hoá Tây phương. Học Luật nhưng không hành nghề và chọn viết văn. Tên Mặc Đỗ được thân phụ đặt cho, có nghĩa là người họ Đỗ trầm lặng. Khởi đầu viết khá sớm các truyện ngắn, kịch và dịch sách đăng báo. Sau Hiệp định Geneve 1954 di cư vào Nam, cùng với Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan thành lập nhóm Quan Điểm, xuất bản sách của các thành viên trong nhóm. Về sinh hoạt báo chí, Mặc Đỗ đã cùng với các nhà văn Vũ Khắc Khoan, Tam Lang Vũ Đình Chí, nhà thơ Đinh Hùng, Như Phong Lê Văn Tiến, Mặc Thu Lưu Đức Sinh sáng lập tờ nhật báo Tự Do đầu tiên ở Miền Nam. Sau 1975 Mặc Đỗ tỵ nạn sang Mỹ.

Tác phẩm:

Bốn Mươi (1956), Siu Cô Nương (1958), Tân Truyện I (1967), Tân Truyện II (1973), Trưa Trên Đảo San Hô (2011), Truyện Ngắn (2014), chỉ trừ Tân 2 Truyện II (1973) do Nxb Văn, sách Mặc Đỗ đều xuất bản với tên Nxb Quan Điểm.

Dịch thuật:

Lão Ngư Ông và Biển Cả / Ernest Hemingway (Quan Điểm 1956); Con Người Hào Hoa / F.Scott Fitzgerald (Quan Điểm 1956); Một Giấc Mơ / Vicki Baum (Cảo Thơm 1966); Người Vợ Cô Đơn / Francois Mauriac (Cảo Thơm 1966); Thời Nhỏ Trong Gia Đình Luvers / Boris Pasternak (Văn 1967); Tâm Cảnh / André Maurois (Văn 1967); Anh MÔN / Alain-Fournier (Cảo Thơm 1968); Vùng Đất Hoang Vu / Leo Tolstoi (Đất Sống 1973); Giờ Thứ 25 / Virgil Georghiu (Đất Sống 1973).

Trong Mộng Một Đời, rất sớm từ thuở niên thiếu, Đỗ Quang Bình – chưa có bút hiệu Mặc Đỗ, đã nuôi mộng trở thành nhà văn, "Để luyện văn phong, người trai chọn phương pháp đúng nhất là dịch văn ngoại ra Việt văn. Kỹ thuật viết của những tác giả truyện đã dịch đã giúp khá nhiều cho việc hoàn thiện những cấu trúc cho truyện dài dự định sẽ viết." Lựa chọn của Mặc Đỗ có tác dụng "đôi": một viên đá bắn 2 con chim/ kill two birds with one stone, anh tạo được một văn phong rất Mặc Đỗ với ảnh hưởng nền văn học Tây phương, và thành quả tiếp theo là các tác phẩm dịch thuật của Mặc Đỗ từ hai ngôn ngữ Pháp và Anh sang tiếng Việt rất chuẩn mực và tài hoa, đã như một phần sự nghiệp thứ hai của anh bên cạnh sự nghiệp sáng tác. Các sách dịch của anh được liên tục tái bản những năm về sau này.

Hơn nửa thế ky


Về tuổi tác Mặc Đỗ hơn tôi hơn một thế hệ. Rất sớm đọc văn anh từ tiểu thuyết Bốn Mươi (1957), Siu Cô Nương (1959) tới Tân Truyện (1967). Tôi có mối giao tình với anh từ thập niên 1960, cho đến nay cũng đã hơn nửa thế kỷ. Cảm tưởng khi mới gặp, anh có phong cách của một nhà văn.
Khi tôi chọn học Y khoa, làm báo Sinh Viên Tình Thương và bắt đầu viết báo viết văn. Báo Tình Thương Y khoa có gửi biếu anh. Năm 1962, một bản thảo truyện dài được viết xong, tôi gửi tới hai anh Mai Xuyên Đỗ Thúc Vịnh Bóng Tre Xanh, và Mặc Đỗ Bốn Mươi đọc trước. Từ hai anh tôi đã nhận được những lời phê bình thẳng thắn.
Anh Đỗ Thúc Vịnh chú trọng tới sự trong sáng và văn phạm của tiếng Việt cùng với vốn sống của người viết, anh rất quan tâm tới thế hệ Những Người Đang Tới, cũng là tên một tác phẩm khác của anh sau này. Nhà văn Đỗ Thúc Vịnh thì nay đã mất [1920-1996], vậy mà cũng đã ngót 20 năm qua rồi.
Anh Mặc Đỗ có quan niệm, với người trẻ bắt đầu viết văn nên tập viết truyện ngắn trước và kỹ thuật là phần quan trọng. Tác phẩm đầu tay của tôi không phải là tập truyện ngắn mà là một cuốn tiểu thuyết. Về chọn lựa bước khởi đầu này, tôi đã không theo được lời khuyên của anh. Mây Bão xuất bản 1963 với nguyên vẹn nội dung với mẫu bìa của người bạn tấm cám hoạ sĩ Nghiêu Đề.
Do gần nửa phần đời sau ở hải ngoại, từ 1975 cuộc sống nhà văn Mặc Đỗ gần như khép kín, thật khó để để vẽ một chân dung toàn diện về anh. Chọn lựa và trích dẫn từ những bức thư anh gửi cho tôi, bớt đi những phần quá riêng tư có lẽ giúp bạn đọc biết được nhiều hơn về một nhà văn Mặc Đỗ quy ẩn.
Sang thế kỷ 21 kỷ nguyên của computer, Mai Thảo thì vẫn cứ ẩn nhẫn viết tay kể cả trên những phong thư hàng tháng gửi báo Văn tới từng độc giả dài hạn, riêng anh Mặc Đỗ vẫn thuỷ chung với chiếc máy chữ xách tay thuở nào. Các thư anh gửi cho tôi đều là thư đánh máy. Chỉ một bức thư hiếm hoi hoàn toàn viết tay của anh mà tôi có được là do một tai nạn, chiếc máy chữ yêu qu. thiết thân của nhà văn Mặc Đỗ bị rơi và hư gẫy. Ít lâu sau đó, anh được một ông bạn ở Pháp tặng cho một máy đánh chữ khác như món quà Giáng sinh, từ đó tôi lại nhận được những lá thư đánh máy, chỉ với chữ k. là thủ bút của anh.
Cher Vinh,
Tôi lọng cọng đánh rơi cái máy chữ yêu qu., nhà thương Mỹ thích thay parts hơn là chữa, trong khi chờ một bàn tay Á đông đành nắn nót viết, tập trung vào mấy ngón tay mệt óc quá, cho nên chỉ có thể ngắn gọn, trang thư qua printer mất personality.
Cám ơn Vinh đã cho tôi thấy Vinh rõ hơn nữa. Nhúm lửa trong tôi, có trước ngày tôi nghe lời bạn chôn bản thảo "Đứng ngồi không yên" dưới ba lớp giấy gói và gác lên nóc tủ, nhúm lửa đó tôi thấy thấp thoáng đôi chỗ qua những lời đối thoại của Vinh. Sau ngày đó bút của tôi không tìm thấy AN nữa - chữ AN Phật dạy. Mừng thấy bút Vinh vẫn AN.
Kết luận, thấy Vinh hơi lạc quan. Nhìn thêm cái "nửa vơi", ngắm con người chúng sinh. Yêu nước cũng là một thứ tham. Thân, [Mặc Đỗ, Feb 5 1996]


Từ bốn mươi Siu Cô Nương tới Tân truyện

Bốn Mươi (1957) là một tiểu thuyết, Mặc Đỗ viết về giai tầng trí thức tiểu tư sản, ở cái tuổi không còn ngờ vực "tứ thập nhi bất hoặc"; họ xuất thân từ những gia đình giàu có, đi du học rồi tốt nghiệp, trở về nước và sống trong sự xa hoa của một xã hội thượng lưu. Họ là những chính khách salon, theo cái nghĩa rất thời thượng, tự đồng hoá với giai tầng sĩ phu trước kia, rất xa lạ với đời thường nhưng có ảnh hưởng trên chính trường, họ tin vào vai trò lãnh đạo của giai cấp trí thức tiểu tư sản trong cuộc chiến Quốc-cộng.
Siu Cô Nương (1959) là tiểu thuyết thứ hai của Mặc Đỗ, viết về ba người đàn ông và hai phụ nữ trong bối cảnh một Miền Bắc 1954, sau hiệp định Geneve khi một Việt Nam sắp chia đôi. Ba người đàn ông ấy cũng thế hệ bốn mươi có l. tưởng, tin vào vai trò lãnh đạo giai tầng trí thức tiểu tư sản với chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ kiểu Tây phương – không chấp nhận cộng sản. Và họ giã từ Hà Nội, di cư vào Miền Nam -- tỵTần, chữ Mặc Đỗ dùng sau này để chỉ những cuộc lánh nạn cộng sản. Không gian sinh hoạt của các nhân vật trong Siu Cô Nương trải rộng hơn Bốn Mươi nhưng vẫn là một thứ xã hội trên cao, với mấy mối tình ngang trái, tất cả chỉ cái cớ cho những tình huống lịch sử mà viễn kiến của nhà văn là cái nhìn tiên tri. Cũng để nhận ra rằng: cái thème chính của tác phẩm Bốn Mươi, Siu Cô Nương là cuộc đấu tranh giai cấp, đưa tới cuộc nội chiến Nam Bắc kéo dài 20 năm sau đó. Với hậu quả là cuộc tỵTần lần hai sau 1975 với hàng triệu người Việt Nam tung ra khắp thế giới.
Hãy để chính Mặc Đỗ nói về tác phẩm Siu Cô Nương của mình: "Tôi nhớ trong đoạn kết Siu Cô Nương một nhân vật trên chuyến xe lửa ra đi ngó xuống những ruộng đồng hai bên đường với những nông dân đang cặm cụi đã thắc mắc, mai ngày những con người kia sẽ thành thù địch ư? Thắc mắc này trải dài trong 500 trang truyện tiếp SCN." [Thư Mặc Đỗ, Sept 28, 1994]
Tân Truyện I (Quan Điểm1967) và Tân Truyện II (Văn 1973) là hai tập truyện ngắn mà Mặc Đỗ gọi là tân truyện / nouvelle. Mỗi truyện như một viên ngọc của một chuỗi ngọc thể hiện quan niệm dựng truyện ngắn với nhiều vận dụng kỹ thuật của Mặc Đỗ và ngôn ngữ thì giàu hình ảnh nhưng cô đọng và chau chuốt. Mỗi tân truyện của Mặc Đỗ đều để lại cho người đọc một ấn tượng rất đặc biệt và khó quên.
Tưởng cũng nên ghi lại đây quan niệm viết của Mặc Đỗ: "Từ khi bắt đầu viết tôi đã chọn một đường lối nhất định, không bao giờ đem đời tư của riêng một ai, quen hay không quen vào truyện. Tất cả đều là những nhân vật được cấu thành do những chi tiết, hình ảnh, ngôn từ, đã ghi được qua bao nhiêu dịp quan sát, nhận định; mỗi nhân vật là một hội tụ đúng chỗ của những tài liệu chọn lọc." [Phụ lục: Truyện Không Thể Viết, Trưa Trên Đảo San Hô. Nxb Quan Điểm 2011]
Một số truyện ngắn trong Tân Truyện I & II được Mặc Đỗ chọn cho in lại trong hai tập truyện Trưa Trên Đảo San Hô (2011): 13 truyện và tuyển tập Truyện Ngắn (2014); 30 truyện, gồm cả 13 truyện đã in trong tập Trưa Trên Đảo San Hô. Và không có một truyện nào được ghi thời điểm sáng tác.


Như một giã từ

Nói rằng nhà văn Mặc Đỗ hoàn toàn không viết gì khi ra hải ngoại thì không đúng. Anh có viết nhưng phải nói là rất ít. Anh đã góp bài cho ấn bản đầu tiên báo Lửa Việt với truyện Cái Áo Len Màu Rêu, anh cũng góp bài cho Tạp Chí Văn Học Nghệ Thuật của Võ Phiến gồm các bài nhận định văn học, truyện ngắn trong những số đầu tiên: số 1 (Kế hoạch chống đàn bà, truyện ngắn), số 2 (Làm văn học nghệ thuật trong hoàn cảnh tỵ nạn), số 4 (Văn Nghệ Việt Nam ở hải ngoại), số 7 (Con người Nga trong khuôn đúc cộng sản) VHNT bộ cũ (1978) [http://tapchivanhoc.org]
Trong một thư riêng anh viết: "Một hai năm đầu khi mới đến đây tôi có viết đôi chút để tiếp tay vài bạn cũ ra báo trong khi còn hiếm bút, sau này làng ta trở nên phồn thịnh thì tôi yên tâm ngồi im, trừ một số nhỏ dịp phải trả nợ nhiều số báo được tặng không (Văn, Thời Tập) thì có đóng góp một chút." [Mặc Đỗ 25/08/1991]
Và một năm sau, trong lá thư đánh dấu 17 năm tỵTần, anh viết: "Từ hôm qua tôi bắt đầu nhận được báo Xuân, sớm nhất là Văn [của nhà văn Mai Thảo, ghi chú của người viết]. Vui thấy bạn còn nhớ cho báo đều đặn, đọc báo thì chẳng mấy vui. Rất hiếm đọc những bài viết cho thấy cái công phu của người chau chuốt nghệ thuật. Luôn luôn nổi rõ sự vội vàng sản xuất và vội vàng chấp nhận... Sự đời ở biển ngoài đã biết rồi, thưởng thức hiếm có dịp, thành ra chẳng thấy vui." [Mặc Đỗ 11/01/1992]
Trong sáng tác, Mặc Đỗ có quan niệm khá nghiêm khắc, cả với chính anh. Anh luôn luôn nhắc tới kỹ thuật là quan trọng nhất trong việc viết truyện.
Anh kể lại: "đã mất khá nhiều bạn trẻ đã cho tôi đọc bản thảo hay sách đã in vì tôi rất thẳng trong . kiến đưa ra sau khi đọc, tôi cũng than chuyện đó với một vài anh bạn già (không viết) thì được trả lời ai bảo đụng tới nhược điểm của người ta! Tôi tiếp tục không nghe lời khuyên đó vì tôi thấy cần phải sòng phẳng với ai có bụng tin tôi và chính tôi nữa..." [Mặc Đỗ 5/02/1994].
Khi viết về chính anh: "Riêng phần tôi, sau từng trải và đánh giá mọi khả năng còn lại, tôi bây giờ rất sáng suốt mà bi quan và tiêu cực. Thái độ này tôi giữ từ sau khi tự tay đốt cuốn truyện 'Bong Bóng Bay' kết quả của cả chục năm hì hục." [Mặc Đỗ 01/11/1995] Cuộc "phần thư" lần này trên đất Mỹ là do chính tay anh, chứ không phải do kẻ bạo Tần của thế kỷ 21.
Rồi ở cái tuổi đã ngoài 90, anh quyết định cho in tập truyện ngắn Trưa Trên Đảo San Hô (2011), mà anh gọi là "tác phẩm cuối đời" với một bìa lưng hoàn toàn trống trải chỉ với mấy câu thơ thật thanh thoát [Hình III]:
Tự nhiên thành núi băng
Lục địa lạnh một ngày tách biệt
Lênh đênh vào có không
Trưa Trên Đảo San Hô gồm 13 truyện ngắn, được sắp xếp theo ngược dòng thời gian: 7 truyện đầu được viết thời tỵ nạn [tị-Tần chữ của Mặc Đỗ: anh ví chế độ Cộng sản Việt Nam với nhà Tần 221-297 BC được coi là triều đại tàn bạo nhất trong cổ sử Trung Hoa], 3 truyện tiếp theo được viết tại Sài Gòn trước 1975; 3 truyện cuối được viết tại Hà Nội khoảng 1946-52. Mặc Đỗ viết: "Ba truyện cuối trong toàn bộ cũng là ba truyện đầu tiên tôi viết sau nhiều năm học, tập, và đến lúc tự xét thấy có thể bắt đầu viết." Chỉ là một tập truyện ngắn nhưng đã ghi dấu ấn ba chặng đường và cũng là ba không gian sáng tác của Mặc Đỗ: Hà Nội, Sài Gòn Việt Nam và Hoa Kỳ.
Trong Lời cuối, anh tâm sự: "Thấy tương lai rất ngắn trước mặt (cũng như viễn tượng viết truyện ngắn/dài) tôi tự xuất bản tập truyện này sau một thời gian vắng bóng trong làng văn ở ngoài nước, coi như một giã từ."
Nhưng rồi tiếp theo đó, ba năm sau "Đứng ngồi không yên" -- tên một tác phẩm của anh bị thất lạc, anh lại cho in thêm một tuyển tập Truyện Ngắn (2014), gồm các tân truyện viết trước và sau 1975; cả hai tác phẩm tác giả tự xuất bản vẫn với tên Tủ Sách Quan Điểm.


Tác phẩm thất lạc

Nhà của gia đình anh Mặc Đỗ ở Sài Gòn, không phải là ngôi biệt thự sang trọng như bối cảnh sinh hoạt của tiểu thuyết Bốn Mươi, chỉ là một căn phố lầu trên đường Trần Hưng Đạo nhưng rất ấm cúng bao năm, sau 30 tháng Tư, 1975 tôi có ghé thăm, trông thật lạnh lẽo, những chiếc ghế nệm bỏ trống, bức tranh lập thể sơn dầu của Tạ Tỵ rất đẹp cũng không còn treo trên tường nơi phòng khách, sau đó tôi mới được biết cả gia đình Mặc Đỗ đã âm thầm rời Sài Gòn đêm ngày 29 tháng Tư, chỉ một ngày trước đó. Dĩ nhiên, cũng như mọi người, anh chẳng mang được gì ngoài một chiếc túi nhỏ xách tay.
Trong một thư, sau này anh kể rõ hơn về số phận tập bản thảo "Đứng ngồi không yên" và sau đó đã thành tro than ra sao. "Sau khi hoàn tất cuốn "Đứng ngồi không yên" tôi có đưa cho ba bốn người mà tôi kính trọng, [anh có kể tên nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh] vì nhiều lẽ đọc. Tình cờ tất cả chung một nhận định: lắm động chạm đủ thứ! Nhận định đã khiến tôi suy nghĩ và gói kín trọn vẹn bản thảo và tư liệu trong chiếc hộp, cột dây và gắn si cẩn thận với mảnh giấy dán bên ngoài: Để dành cho thế hệ sau. 75 tôi đi rồi thì một thằng cháu chạy đến lục lọi, nó lấy đi cùng với những thứ khác cái hộp tưởng qu. lắm. Về nhà nó mở ra rồi vừa tức vừa sợ nó vứt tất cả trong chiếc thùng sắt đổ dầu đốt cháy sạch. Bao tâm tư đốt cháy khói khét lẹt! Mãi sau này tôi được kể lại chi tiết đã tức cười nghĩ, Thế cũng đáng! Đáng đốt! "Bên trên là nói chuyện với BS NTV, Biệt Cách Dù. Đây là nói chuyện với nhà văn NTV... Vào thu rồi, đang chuẩn bị nhận một flushot nữa và nhớ lại lũ trẻ trung học Pháp thời trước/ sau TCII gọi những ông bà già là những PPH (Passera Pas cet Hiver/ sẽ không qua khỏi mùa đông này – ghi chú của người viết). Chúng tôi thì chắc chưa!" [Mặc Đỗ, 28/09/1994]

Tác phẩm lớn không thể viết


Sau Lời Cuối trong tập truyện Trưa Trên Đảo San Hô còn có thêm một Phụ Lục Truyện Không Thể Viết, Mặc Đỗ tâm sự: "Với một người viết đáng buồn nhất khi thấy cần thành thật với chính mình và quyết định không thể viết tác phẩm thèm viết... Theo dòng lịch sử đất nước, tôi không thấy thời cơ nào có thể so sánh với gần tròn một thế kỷ qua, với ba biến cố đặc biệt nối đuôi nhau, cùng hết sức giàu sinh động trong muôn vẻ chi tiết. Cảnh khổ ly tán được cụ thể hoá bằng một vụ phân ly giữa hai miền Nam Bắc. Kinh nghiệm độc lập người Việt ở hai miền cùng thâu góp, chất ngất, trong nước mắt. Biến cố thứ hai hào hùng thay! Nhưng đã hiện hình chẳng bao lâu sau, và kéo dài tới nay đã hơn ba mươi năm. [những dòng chữ này có lẽ Mặc Đỗ viết khoảng 2005, ghi chú của người viết] Hai biến cố đó xô tới biến cố lạ lùng, ngót hai triệu người Việt Nam thình lình tìm được tới, và bắt đầu mọc rễ trên những bến bờ lạ. Khơi lên từ cảnh đời một cô gái lai Mỹ, thiên truyện mọc lên trong đầu tôi khả dĩ ôm trọn ba biến cố vừa kể... Trong nhiều tháng sau tôi mê mải với đề tài Truyện, ra công sắp xếp cái sườn để gài lên những tình tiết... Ai sẽ viết? Cái vốn quan sát nhận định, rung cảm, chứa sẵn trong đầu, tôi có thể dùng cho phần đầu Truyện. Nhưng từ đêm 29 tháng Tư 1975 tôi đâu còn ở trong nước để quan sát, nhận định, rung cảm nữa... Tôi đã không thể viết... Tôi mong cho tôi, cũng mong cho đông đảo độc giả Việt Nam vì hiện chưa có một tác phẩm nào ghi lại liên tục giai đoạn lịch sử độc đáo vừa bi hùng vừa đáng cười ra nước mắt...Kho tàng đó đang chờ những người Việt Nam dám lãnh vinh dự và trách nhiệm là nhà văn." [TTĐSH, lược dẫn Phụ Lục tr.219-230]
Đó là nỗi buồn và cũng là cái giá rất đắt phải trả của một nhà văn lưu đầy. Không thể viết nhưng Mộng-ngày bao năm trước về một tác phẩm lớn vẫn cứ vất vưởng như một ám ảnh khôn nguôi đối với nhà văn Mặc Đỗ.

Vào đời tràn háo hức
Tiếp theo liền dằng dặc ưu tư
Nhắm mắt còn ưu tư


Tìm chữ An trong Đạo Phật


"Ngay từ thời đọc 'Cạn Dòng' tôi đã buồn thấm thía trước viễn tượng sớm muộn sẽ thành sự thật và nông nỗi bất khả kháng trong thời thế toàn cầu hiện nay. Vinh và các bạn đang theo đuổi một cố gắng đúng, rất nhiều người khác tại các nước khác cũng theo đuổi những cố gắng khác với chung một mục đích cứu vãn đời sống trên mặt đất, khổ một nỗi loài người bây giờ quá ham tranh chấp đạp lên mọi lẽ phải. Sinh thời nhà tôi chúng tôi thường nhìn nhau, thu gọn mối sầu mênh mông vào một vòng nhỏ với cảm nghĩ: Tội nghiệp lũ con, cháu, chắt... sinh sau! Cũng như tôi, bất cứ độc giả nào đọc 'Nghẽn Mạch' không thể không xúc động trước những sự thật đã hiển hiện sớm hơn cả viễn tượng lo lắng." [Mặc Đỗ 06/04/2007]
Dưới bức thư đánh máy, anh Mặc Đỗ có thêm một dòng tái bút viết tay:
"Vinh có nghĩ tới trận chiến lớn sẽ có thể xảy ra và Việt Nam sẽ hứng chịu?"
Với một Biển Đông hiện đang ầm ầm dậy sóng hình như sắp chứng nghiệm cho lời tiên tri của anh. Mặc Đỗ luôn luôn nói tới chữ AN [viết hoa] trong đạo Phật. Cũng vẫn chữ "AN" trong một thư từ Austin, anh viết:
"Cher Vinh, Năm nay Xuân từ Đồng Bằng Cửu Long không đem 'AN' đến cho tôi. Đọc 'Tìm về' trước Tết, cái arrière-goût dai dẳng từ trước cho đến sau Tết, không dứt. Tôi còn nhớ hồi nhỏ ở nhà khi có đám giỗ lớn, họp đông họ hàng, hay có một vài vị lớn tuổi, không hiểu dòng dõi với tiền nhân như thế nào nhưng đã được nghe truyền lại, kể thành tích chiến công Nam Tiến với những chi tiết... Mỗi lần Me tôi thường khóc và nói rằng, oán thù bao giờ rũ cho sạch được! Tết năm nay tôi cứ bị ám ảnh bởi nhận định bi thương đó... Bây giờ sắp tới thời không còn giấu bụi dưới thảm, càng buồn hơn. Nén buồn xuống chỉ còn mơ ước: Con người VN hồi tỉnh và biết nắm tay nhau cùng đối phó, và đối thoại." [Mặc Đỗ, 18/02/2000]
* [Tìm Về là tên một chương sách Tìm Về Phương Đông, trong Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng, Nxb Văn Nghệ 2000]
Ba nhà văn chủ lực trong nhóm Quan Điểm mà tôi được biết, phần cuối cuộc đời đều có khuynh hướng tìm về đạo Phật. Tuyết ngưu Vũ Khắc Khoan của Thành Cát Tư Hãn nơi xứ vạn hồ miệt mài với Đọc Kinh và nghe Kinh, để rồi "lâng lâng trong mù sương nơi ngưỡng cửa pháp hội, một mình."
[1917-1986], Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng của Cách Mạng và Hành Động [1920-2000] sau 1975 tịnh tu, mang nặng suy tư từ những trang Kinh Lăng Nghiêm, viết sách Phật và giảng dạy Phật Pháp. Vũ Khắc Khoan và Nghiêm
Xuân Hồng thì đã lần lượt ra đi trong sự thanh thoát và cả lặng lẽ tiếng kinh kệ. Mặc Đỗ thì sống quy ẩn từ bao năm như một hành giả không ngừng đi tìm một chữ AN trong đạo Phật.


Xướng Họa và Khai Bút


"Hôm cuối năm, ông bạn già, anh Đoàn Thêm [nhóm Bách Khoa, tác giả Những Ngày Tháng Không Quên, ghi chú của người viết] làm bài thơ 'Than già' gửi cho bạn già đọc. Bài thơ có năm vần rồi-trôi-nòi-thôi-hồi. Một bạn già khác hoạ lại, rồi lác đác nhiều bạn già khác cũng hoạ. Thấy anh em vui tôi cũng nhẩy vô, tuy trong đời đây là lần thứ hai tôi thử trò chơi nghĩ rằng chỉ dành cho các bậc túc nho. Nhảy vô thấy cũng thú giống như thú chơi mots croisés chẳng hạn... Tôi chép hai bài tặng Vinh đọc chơi làm quà cuối năm. Chơi trò xướng hoạ mới thấy cái thú vận dụng tiếng Việt, một vần có thể xoay chuyển qua nhiều nghĩa. Càng thú nữa là xướng hoạ không để đăng báo, thành danh. [Mặc Đỗ 11/01/1992]

Dư Sinh

Lời đẹp nghìn xưa đã dạy rồi
Đời người lãng đãng bóng mây trôi
tham đeo đẳng không đành thoát
Muôn kiếp sinh sôi vẫn một nòi
Nợ nước tình nhà và sự nghiệp
Tuyết sương rồi cũng thế mà thôi
Sống thừa mới thấy thừa chi lắm
Lão giả chen nhau kiếm chỗ ngồi

Năm Mới

Đã đến thời thôi đếm tuổi rồi
Ngồi bên bờ cỏ để buông trôi
Cúi đầu cố học ngu không hết
Nghển cổ tầm sư lạc mất nòi
Tính sổ cuộc đời nhiều mực đỏ
Bài thua úp xuống xoá đi thôi
Cười xem thời vận mong Bùi Tín
Áo gấm về quê chẳng mấy hồi

Phải nói là ngạc nhiên đến thú vị khi thấy một người theo Tây học như Mặc Đỗ, mới bước vào trường thơ xướng hoạ mà về vần và niêm luật, nhất là bài thứ hai Dư Sinh anh đã đạt được tới mức độ gần hoàn chỉnh.
"Sáng mùng một tết Tây 2003, tỉnh dậy nằm suy ngẫm chợt nhớ tới những người Việt Nam lưu lạc khắp nơi", anh Mặc Đỗ gửi tặng tôi bài thơ mới làm.

Khai bút

[Giao thừa lẻ hai vào lẻ ba]
Những khớp xương nghe đời phôi pha
Nhưng như xưa tấm lòng vẫn ấm
Tiễn đưa chào đón chén trà đậm
Cuộc tình trời đất dài thăm thẳm
Hai bàn tay khép mời nguyện ngắm
Theo nén nhang sợi khói bay cao
Những mối yêu nguyên vẹn thuở nào
Một mình bàu bạn không trăng sao
Tư bề không tiếng sóng dạt dào
Thời gian ngồi lại không chờ đợi
Buồn vui không cũ cũng không mới
Mặc Đỗ


Chuẩn bị một chuyến đi thanh thản


Sau ngày Chị Mặc Đỗ mất, là một chấn thương lớn đối với anh, cả về tinh thần và sức khoẻ. Mối quan tâm lớn của anh là chuẩn bị cho riêng mình một chuyến đi thật nhẹ nhàng và thanh thản. Anh kể: "Tôi có một ông bạn Pháp 14 năm nuôi vợ ở tình trạng living death." Năm 2006, anh đã tự tay viết một di chúc về sức khoẻ / Advance Medical
Directives of Binh DoQuang, anh chia xẻ điều đó với tôi như một witness/ nhân chứng ở xa, do tình thân và cũng có thể do nghề nghiệp y khoa của tôi. "Tôi viết directive bằng Pháp văn cho thật đúng . nghĩ trước khi dịch ta Anh văn hợp với legalese."
Anh viết về sự hiểu biết của anh đối với căn bệnh Alzheimer cùng những hậu quả do tiến trình căn bệnh trên người bệnh, gia đình và xã hội và với tất cả sáng suốt - như "một lão giả" chữ của Mặc Đỗ, anh đã thanh thản viết xuống giấy sự chọn lựa của anh:
"Si j'amais j'attraperais ce mal Alzheimer, situation bien établie par mon docteur et d'autres spécialistes consultés, je demande que toute nourriture solide et liquide soit interrompue, nourriture ou d'autre substance donnée par quel moyen que ce soit. J'implore tous les membres de ma famille, toutes les autorités judiciares, administratives, religieuses, politiques, et autres, à ne pas s'opposer à ma décision et me laisser périr comme un vieil arbre  aisiblement."
Chọn lựa của anh có thể là một tấm gương cho nhiều người, biết chấp nhận chu kỳ sinh diệt như lẽ tuần hoàn của trời đất, nó cũng cứu vãn cho một nền y tế Mỹ đang bị phá sản/ bankrupt chỉ vì vẫn muốn duy trì lâu dài những cuộc sống thực vật/ vegetative state hay living death, vẫn chữ của anh Mặc Đỗ.
Năm 2015, đã chín năm sau ngày anh viết di chúc sức khoẻ ấy, sáng nay từ nhà thương nơi tôi làm việc, rất vui mới được nói chuyện điện thoại khá lâu với anh [14/06/2015], vẫn là một nhà văn Mặc Đỗ giọng nói còn sang sảng và tinh thần thì rất ư là minh mẫn. Phải chăng một phần do gene, phần kia do một cuộc sống kỷ luật từ thời còn rất trẻ, sáng dậy sớm tập thể dục tắm nước lạnh và sống điều độ suốt những năm sau đó, có thời ở Sài Gòn anh đã chọn chế độ dinh dưỡng gạo lức muối mè, có lẽ vậy mà anh dễ dàng sống tới trăm tuổi, vẫn tự sinh hoạt độc lập với nguyên vẹn phẩm chất của cuộc sống. Một ngày nào đó mong còn xa, sự ra đi của anh theo quan điểm y khoa sẽ được coi như một cái chết tự nhiên/ natural death, như một cây cổ thụ khô và tự héo dần - vẫn chữ của nhà văn Mặc Đỗ.

Ngô Thế Vinh
Long Beach, 20/ 06/ 2015
 












Mặc Đỗ qua nét bút Tạ Tỵ









Bút tích Mặc Đỗ



















Trở về




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.