Thứ Tư, 9 tháng 12, 2015

Lê Thương (1914 - 1996)
















Lê Thương
 Ngô Đình Hộ
(8/1/1914 Hà Nội -17/9/1996 Sài Gòn)
Hưởng thọ 82 tuổi

  Nhạc sĩ, nhà giáo







 

 
Lê Thương lúc trẻ



Lê Thương (1914–1996) là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất cho thời kỳ tiền chiến của tân nhạc Việt Nam. Ông là tác giả của bộ ba ca khúc Hòn vọng phu bất hủ.

 
Tiểu sử

Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914, tại phố Hàm Long, Hà Nội, trong một gia đình bố mẹ là những nghệ sĩ cổ nhạc. Một bài viết khác cho rằng Lê Thương sinh tại Nam Định. Chi tiết về cuộc đời ông rất ít được nhắc tới. Theo hồi ký của Phạm Duy, Lê Thương sinh năm 1913 và là một thầy tu nhà dòng hoàn tục.

Năm 1935, Lê Thương hành nghề dạy học ở Hà Nội, sau đó ông chuyển về dạy ở Hải Phòng. Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên. Họ cũng là những hướng đạo sinh và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.

Năm 1941, Lê Thương vào miền Nam. Ban đầu ông ở An Hóa, tỉnh Bến Tre, sau đó Lê Thương chuyển về sống tại Sài Gòn. Tuy là một nhạc sĩ tài danh, nhưng nghề chính của ông là dạy học. Ông từng là giáo sư Sử Địa, có một thời gian giảng dạy tại một số trường trung học tư ở Sài Gòn. Ông cũng từng là giáo sư Pháp ngữ tại trường trung học Pétrus - Ký vào thập niên 60. Lê Thương cũng từng làm công chức ở Trung tâm Học liệu, bộ Quốc gia Giáo dục và là giảng viên Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ thời Việt Nam Cộng hòa. 

Âm nhạc

Lê Thương là một trong những nhạc sĩ Việt Nam tiên phong viết tân nhạc với bài Bản đàn xuân. Ngoài Bản đàn xuân, trong thời kỳ ở miền Bắc, Lê Thương còn sáng tác những tác phẩm khác như Tiếng đàn đêm khuya, Một ngày xanh, Trên sông Dương Tử, Thu trên đảo Kinh Châu...

Từ khi vào miền Nam năm 1941, Lê Thương phổ thơ nhiều bài như Lời kỹ nữ (thơ Xuân Diệu), Lời vũ nữ (thơ Nguyễn Hoàng Tư), Bông hoa rừng (thơ Thế Lữ), Tiếng thùy dương (tức Ngậm ngùi thơ Huy Cận) và Tiếng thu (thơ Lưu Trọng Lư)...

Lê Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc. Thời kỳ kháng chiến, ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng Lòng mẹ Việt Nam hay Bà Tư bán hàng nói về một bà mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những lý do Lê Thương bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng Phạm Duy và Trần Văn Trạch năm 1951.

Lê Thương thuộc những người đầu tiên viết truyện ca và đã để lại những bản truyện ca hay nhất như Nàng Hà Tiên, Lịch sử loài người, Hoa thủy tiên... Đặc biệt hơn cả là bộ ba Hòn vọng phu, được xem như một trong những tác phẩm lớn nhất của tân nhạc Việt Nam. Văn Cao cũng từng thừa nhận ảnh hưởng bởi Lê Thương với phong cách âm nhạc bắt nguồn từ âm nhạc cổ truyền Việt Nam.





Trần Văn Khê, Trần Văn Trạch và Lê Thương 
Sài Gòn năm 1949



Lê Thương cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết nhạc hài hước với những bản Hoà bình 48 (phê phán sự mỵ dân đội lốt hoà bình), Làng báo Sài Gòn (đả kích báo giới bồi bút, bất tài và ham tiền), Đốt hay không đốt (châm biếm máu Hoạn Thư), Liên Hiệp Quốc... Những bản này được nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn nhiều lần vào thập niên 1940. Lê Thương còn đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn như Nhớ Lào (nhạc Lào), Bông hoa dại tức Ô Đuồng Chăm Pá (nhạc Lào), Lòng trẻ trai (nhạc Hoa Kỳ), Hoa anh đào tức Sakura (cổ nhạc Nhật Bản), Màn Brúc đánh giặc (dân ca Pháp)...

Một thời gian, Lê Thương có cùng nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh các truyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng. Và cùng Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương được xem như những nhạc sĩ mở đầu của dòng nhạc dành cho thiếu nhi với những bản Tuổi thơ, Cô bán bánh, Con mèo trèo cây cau, Thằng bé tí non, Ông Nhang bà Nhang, Truyền kỳ Việt sử, Học sinh hành khúc... Nổi tiếng hơn cả là bài Thằng Cuội thường được trẻ em hát trong mỗi dịp tết Trung Thu, mặc dù nhiều người không biết đó là một ca khúc của nhạc sĩ Lê Thương: 
Bóng trăng trắng ngà 
Có cây đa to 
Có thằng Cuội già 
Ôm một mối mơ 
Lặng yên ta nói Cuội nghe 
Ở cung trăng mãi làm chi 
Bóng trăng trắng ngà 
Có cây đa to 
Có thằng Cuội già 
Ôm một mối mơ...

Ngoài âm nhạc, Lê Thương còn gia nhập vào ban kịch của Thế Lữ vào những năm thập niên 1930, và ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch khi ông sống ở Sài Gòn. Lê Thương đã sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, và viết nhạc phim cho hãng phim Mỹ Vân.

Lê Thương lập gia đình cùng một phụ nữ học ở Pháp về và họ có 9 người con. Ông cũng có hai người tình, người tình đầu là một cô hát ả đào nổi tiếng ở Hà Nội. Người thứ hai là một vũ nữ tại Chợ Vườn Chuối Sài Gòn.

Sau 1975, ông không tham gia hoạt động văn nghệ. Vào thập niên 1990, ông bị mất hẳn trí nhớ và qua đời ngày 17 tháng 9 năm 1996 tại Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh).










Sáng tác










Bản đàn xuân
Đàn xuân tủi lòng nẩy cung đợi mong
Reo ai oán trong khuê phòng
Tình tang tang tính tính tình
Tình tang tang tính tính tình
Lạnh lùng hơn gió ngoài đồng
Ngồi se chỉ hồng
Hỏi ai hiểu không
Tiếng oanh muốn nhắn lời thay những tiếng ngân
Như chiếc bóng người chưa dám nhắc chân
Chờ tin thơ chim hoàng oanh đưa
Còn xa bay trong áng sương mờ.

Đàn ca cảnh vườn
Nhủ hoa thả hương
Hương hoa luyến theo cung đàn
Tình tang tang tính tính tình
Tình tang tang tính tính tình
Để cùng bay khắp trần hoàn
Lời hoa kể rằng
nhiều đêm rạng trăng
Thấy ai ướm má hồng ru những tiếng êm
Hoa cũng muốn trời cho có trái tim
Để yêu riêng nhân tình hoa
Và xuân tươi, tươi đến muôn mùa

Đàn bao tuổi rồi, đàn ca chẳng ngơi
Bao giây đứt trong quãng đời
Tình tang tang tính tính tình
Tình tang tang tính tính tình
Của tình duyên số mạng người
Đàn ca nửa lời
Để cung nhẹ lơi
Có dây nắn tiếng cười dây nắn tiếng than
Dây nắn tiếng trầm dây nắn tiếng vang
Tuỳ theo dây tơ tình tơ duyên
Và theo dây lưu luyến u huyền.












Trèo lên đỉnh non cao, lên đỉnh non cao
Nghe lời chim gọi gió
Nghe lời chim gọi gió
dào dạt chưa
Trèo lên đỉnh non cao, lên đỉnh non cao
Bỗng đâu gặp gỡ tình cờ
Một nàng sơn nữ hững hờ trong mây
Tóc cô trong gió lẳng lơ
Trong nắng vàng rỡn cặp má hồng tươi
Mắt như nước lặng in trời
Cánh đào thắm nét miệng cười như mơ

Làn sóng xuân vờn mắt say
Tình xuân đượm đoài mày thanh thanh
Làn sóng xuân vờn mắt say
Tình xuân nồng đượm đôi mày thanh thanh cười
Xuân đắm đuốí trời tình
Lòng ta như muốn tan thành hư không

Ta ôm thiếu nữ trong lòng
Người yêu thoát biến thành bông hoa rừng

(NHẠC)

Bông hoa nay vẫn còn hương
Lòng ta còn bông hoa nay vẫn còn hương, vẫn còn hương

Lòng ta còn vết đàn thương không cùng
Đính hoa ở một bên vết đau thương không cùng, thương không cùng

Đính hoa ở một bên lòng
Nghìn năm tiếc giấc mơ màng khi xưa











Con cóc leo võng
http://mp3.zing.vn/bai-hat/Con-Coc-Leo-Vong-Tam-Anh/IW6WEBC9.html 
Con cóc nó leo cây võng cách... con cóc nó leo cây võng cách... nó leo sao nó rơi ngay xuống cọc ối thôi đau nó liền cạch đến già...Cóc lom com... con cóc cóc lóc nhóc... cóc con té đau nhưng không khóc con cóc thế mà chì...
Con cóc nó leo cây võng cách... con cóc nó leo cây võng cách... nó
leo sao nó rơi ngay xuống cọc ối thôi đau nó liền cạch đến già...
Cóc lom com... con cóc cóc lóc nhóc... cóc con té đau nhưng không khóc con cóc thế mà chì...

.........................(Dạo Nhạc)................................

Con cóc nó leo cây võng cách... con cóc nó leo cây võng cách... nó leo sao nó rơi ngay xuống cọc ối thôi đau nó liền cạch đến già...
Cóc lom com... con cóc cóc lóc nhóc... cóc con té đau nhưng không khóc con cóc thế mà chì...
Con cóc nó leo cây võng cách... con cóc nó leo cây võng cách... nó leo sao nó rơi ngay xuống cọc ối thôi đau nó liền cạch đến già...
Cóc lom com... con cóc cóc lóc nhóc... cóc con té đau nhưng không khóc con cóc thế mà chì...
Cóc lom com... con cóc cóc lóc nhóc... cóc con té đau nhưng không khóc con cóc thế mà chì...
Cóc lom com... con cóc cóc lóc nhóc... cóc con té đau nhưng không khóc con cóc thế mà chì...











Cô bán bánh






Con mèo trèo cây cau










 Đàn bao tuổi rồi

http://mp3.zing.vn/bai-hat/Dan-Bao-Tuoi-Roi-Anh-Tuyet/ZWZ9ZZBB.html 
 
Đàn ngân tủi lòng
Nảy cung đợi mong
Reo ai oán trong khuê phòng
Tình tang tang tính, tình tang tang tính tính tình
Lạnh lùng cơn gió ngoài đông
Ngồi se chỉ hồng
Hỏi ai hiểu không
Tiếng oanh muốn nhắn lời
thay những tiếng ngân
như chiếc bóng người chưa dám nhấc chân
chờ tin thơ chim hoàng oanh đưa
còn xa bay trong ánh sương mờ

Đàn bao tuổi rồi ? Đàn ca chẳng ngơi
Bao ray rứt trong quãng đời
tình tang tang tính tình
tình tang tang tính tàng
cuộc tình duyên số mạng người
đàn ca nửa đời ... để cung nhẹ rơi
có giây nắn tiếng cười,
Dây nắn tiếng trầm dây nắn tiếng vang
tùy theo giây tơ tình tơ duyên
và theo dây lưu luyến u huyền
Tình tang tang tính tình
Dây nắn tiếng trầm dây nắn tiếng vang 










Tang tính tịch tình tang, tang tính tịch tình tang
Đàn kia tiếng âm vang kêu cố quốc sa trường
Tang tính tịch tình tang, tang tính tịch tình tang

Lòng ai ước vọng như hòn núi cao ...tang tính tang
Núi cao đứng tựa cửa ngàn
tang tính tịch tình tang tang
tang tính tịch tình tang tình
Nhiều khi gió táp phũ phàng, phũ phàng nôn sông
tang tình sông
cũng nuôi biết bao chờ mong
phá tan nát cả tấm lòng
tang tính tịch tình mong như nước của dòng sông

Nào ai dạo bước gian nan,
mãi nơi xa tắp bền gan đợi chờ
tang tính tịch tình khơi ..câu hát ngỏ tình xưa

Tang tính tịch tình tang tang tính tịch tình tang
Đàn ca tiếng dư vang ngâm mấy khúc huy hoàng
Tang tính tịch tình tang
Trong ánh lửa vầng dương
bạn mong nhớ bạn
con màng nhớ cha
tang tính tịch tình tang
nhớ cha nhớ ngày sẽ về
tant tính tịch tình huê
bên điệp cỏ đồng quê mình
rồi sau bóng xế chan hòa,
chan hòa đêm sông ...tang tính tang
tới cơn gió đưa màn sương
tới cơn sáng tỏ con đường
tang tính tịch tình thương
Bên lúa ruộng gần sông

Đàn ca nhẹ bước huy hoàng
Nhắn đưa ba tiếng, đời đang rạng ngời
tang tính tịch tình tôi
Như khúc nhạc đời tươi

Đốt hay không đốt










Một nghìn năm trước
Trong đời Trần Nam quốc
Có cô công chúa lòa
Cả đời nuôi nấng hoa
Trời làm nắng gió
Sau một chiều giông tố
Các hoa trên gác lầu
Phải một cơn đớn đau

Nàng bạch mẫu đơn
Trôi lạc mất con
Khấn xin công chúa lòa
Tạ đền nụ hoa cho bà
Lòng nàng công chúa
Thương người và hoa quá
Đến đêm xin khấn trời
Xin đền nụ hoa đã rơi
Nàng bày trên gác
Ước chừng mười tô nước
Khấn xin ba tháng ròng
Nhưng trời chỉ cho nước trong
Ngày tháng chóng qua
Thu hè đã xa
Cuối đông năm đó trời
Cho nàng thủy tiên xuống đời

Nằm chìm trong nước
Đang chờ thời gian lướt
Thấy cô công chúa lòa
Cô nàng Thủy Tiên tiến ra
Trình bày trên bát
Ba lòng vàng thơm ngát
Khiến cho đôi mắt loà
Của nàng công chúa sáng ra
Nàng mở mắt xong
Trông vào tô nước trong
Thấy xuân năm đó trời
Cho nàng Thủy Tiên xuống đời










Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao.
Lúc khắp quốc dân tranh đấu hy sinh cho nền độc lập.
Học sinh nề chi tuổi xanh trong lúc phấn đấu.
Đem hết can tràng của người Việt Nam tiến lên!

Ca Khúc 1 :

Học Sinh là mầm sống của ngày mai.
Nung đúc tâm hồn để nối chí lớn.
Theo các thanh niên sống vì giống nòi.
Liều thân vì nước, vì dân mà thôi.

Ca Khúc 2 :

Học Sinh là người mới của Việt Nam.
Đã thoát ra một thời xưa tối ám.
Đem sức thanh tân chống mọi suy tàn
Học Sinh làm sáng đời dân Việt Nam.

Ca Khúc 3 :

Học sinh vào đời chiến thủ ngày nay,
Nung đúc can tràng để binh lý chí.
Trong lúc nước Nam ước mộ anh tài,
Học sinh bền chí lập công từ đây.










Hòn Vọng Phu 1,2,3


 Lệnh vua hành quân trống kêu dồn,
quan với quân lên đường,
đoàn ngựa xe cuối cùng,
vừa đuổi theo lối sông.
Phiá cách quan xa trường,
quan voi quân lên đường,
hàng cờ theo trống dồn
ngoài sườn non cuối thôn,
phất phơ ngậm ngùi baỵ

Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn,
Vui ca vang rôi đi tiến binh ngoài ngàn.
người đi ngoài vạn lí quang sang,
người đứng chờ trong bóng cô đơn.
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nuối ngàn trùng.
người không rời khỏi kiếp gian nan,
người biến thành tượng đá ôm con.

Ngựa phi ngoài xa hí vang trời,
chiêng trống khua trăm hồi,
ngần ngại trên núi đồi,
rồi vọng ra khắp nơị
Phiá cách quan xa vời,
chiêng trống khua trăm hồi,
ngần ngại trên núi đồi,
rồi dậy ra khắp nơi
thắm bao niềm chia phôi.

Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về,
ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề.
Nhìn chân trời xanh biếc bao la,
người mong chờ vẫn nhớ nơi xa
Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về,
bao nhiêu phen thời gian xóa phai lời thề,
người tung hoành bên núi xa xăm,
người mong chồng còn đứng muôn năm 



Hòn vọng phu 2
Người vọng phu trong lúc gió mưa,
Bế con đã hoài công để đứng chờ,
Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về
Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ

Có đám cây trên đồi gióng trông trong mơ hồ,
Ngày nào tròn trăng lại nhớ đến tích xưa..
Khi tướng quân qua đồi, kéo quân, quân theo cờ,
Đoàn cỏ cây hãy còn trẻ thơ cho đến bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già
Mà chờ người đi mất từ ngàn xưa,
Nàng đứng ôm con, xem chàng về hay chưa? Về hay chưa?

Có ai xuôi vạn lý nhắn đôi câu giúp nàng,
Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng.
Thôi đứng đợi làm chi, thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ
Những người mang mệnh biệt ly

Trời chuyển mưa trong tiết tháng ba,
Suốt năm nước nguồn tuôn đổ xuống "Bà", hình hài người bế con nươc chảy chan hòa, Thấm vào đến tận tâm hồn đứa con,
Nên núi non thương tình kéo nhau đi thăm nàng nằm thành Trường Sơn vạn lý xuyên nước Nam.
Dâng lá hoa suối nguồn với muôn chim vô vàng
Bầy cảnh Nam Bắc đầy cỏ hoa
như cố khuyên nàng trở về, chớ đừng để xuân tàn,
nhiều đồi rủ nhau kéo thành đảo ra tới tận khơi ngàn...
Xem chàng về hay chưa, về hay chưa?

Chín con long thật lớn, muốn đem tin tới nàng, Núi ngăn không được xuống, chúng kêu ca dưới ngàn.
Nàng cố đợi nghìn năm, một nghìn năm nữa khác sẽ qua, đến khi núi lở sông mòn, mới mong trở thành Hòn Vọng Phu 

Hòn vọng phu 3

 
Nơi phía Nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nuớc non xưa đến giờ?

Đuờng chiều mịt mù cát bay tỏa buớc ngựa phi
Đuờng truờng nếp tàn y hùng cuờng vẫn còn bay trong gió
Bóng từ xa sắp dần qua bóng chàng chập chùng vuợt núi non cũ
Với hành luơng độ đường
Chiếc hùng guơm danh tuớng
Duới tà uy đếm nhịp đi vó ngựa phi
Dấn buớc tang bồng giữa nơi núi rừng

Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san
Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan tiễn đưa bóng chàng
Đuờng về nuớc chập chùng xa
Nhiều đồi núi cheo leo
Cây với rừng ruờm rà
Đuờng Vạn Xuyên, đuờng cổ Lũy
Duyên núi sông vẫn như thắm nhòa

Đò vạn lý, Đò ải quan,
đò rừng lá nuớc trong bao cá lội từng đàn
Thành Cổ Loa, Đền Vạn Kiếp,
Bao tháng năm vẫn chưa xóa nhòa

Tiếng núi non lưu luyến tấc lòng bao nghìn năm
Tiếng gió cồn như tiếng trống dồn buổi khuya vắng
Từ bóng cây ngôi mộ bên đuờng
Từ mái tranh bên đình trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thuơng vang động trong lòng
Đồi lan, đồi quế rắc kho huơng nồng
Rừng sao đua đòi rừng trắc
Lo che ánh lửa vầng duơng tiếp đưa bóng chàng

Đuòng cao đuờng thấp khắp khe chân chàng
Nhìn qua con đuờng mòn cũ
Quanh co mấy buổi tà duơng mới mong tới làng

Nhớ cố huơng lưu luyến sao tiếng tấc lòng mau dồn chân
Vết buớc đi trên phím đá mòn còn in dấu
Từ bóng cây ngôi mộ bên đuờng
Từ mái tranh bên đỉnh trong làng
Nguồn sử sanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thuơng vang dậy trong lòng 











Làng báo Sài Gòn





 
Lịch sử loài người 1 - 2





 
Lời kỹ nữ





 
Lời vũ nữ








Lòng mẹ Việt Nam

http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/long-me-viet-nam-quang-le.vo1YVWSpGb.html 
 
Bà tư bán hàng có bốn người con
Thằng hai đã lớn ba em hãy còn
Học theo các trường nay đã thành khôn
Năm loạn lạc kia trong nước Việt Nam
Mấy con của bà đều lên lối đường
Đầu quân chiến trường theo chí người dân
Đem thân lên đường xông pha chiến trường
Đành lòng bỏ xa gia đình từ đó
Kiếp sống tung hoành quên thân xác mình
Hằng mong ước thành công lớn về sau
Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên
Suốt ba năm liền bà tư mẫu hiền
Ngày đêm khấn nguyện cho mấy người con

Bà tư nóng lòng đêm nhớ đàn con
Gần đây vài tháng có nghe tiếng đồn
Người con lớn bà đang sống ngoài xa
Nhân cuộc hành binh tháng chín thời kia
Đứa con của bà chẳng may mắc nạn
Ngày nay đã nằm trên chiến địa xa
Đem hung tin về người kia lỗi thề
Vì người con trai ước rằng khi chết
Chớ nói cho bà tin anh vĩnh biệt
Kẻo đem nói thiệt thân mẫu tủi thương
Anh để một thư nhờ người gửi đưa
Chiếc thư mong chờ ngày sau nước độc lập
Con sẽ gặp mẹ đứng chờ con

Bà tư thắp đèn cầu khấn người con
Bà xin cho mấy đứa em hãy còn
Ở trong núi rừng anh dẫn về cho
Xong một ngày kia ba lá tình thư
Nói con bây giờ đường xa cách trở
Vậy xin kính thờ đôi chữ bình an
Thương con bao tình đêm ba tấm hình
Bà thề nguyện dâng con mình cho nước
Thân con lưu lạc mẹ xin phó mặc
Đời con muốn đặt tổ quốc ở trên
Thư rằng mẹ xin thành mẹ Việt Nam
Có con sa trường chỉ mong ước rằng
Ngày sau nước còn công ấy nhờ con










Một ngày xanh








Nàng Hà Tiên
Ba trăm năm xưa bên bờ Cửu Long Giang
Một người đàn bà hay xuống mé sông
Đứng tiếp giữa các khách chạy đò ngang
Lòng ngao ngán tiếc thân chưa có chồng
Ngày kia tự nhiên có một thiếu niên nào
Từ quan san xa khách đâu tìm đến
Mới bước xuống xe vừa trông gặp má đào
Chàng thiếu niên bèn ngỏ lời kết duyên
Hai năm sau sinh một nàng tiên

Nàng nghịch đùa sông
Thác nước thay dòng
Nàng cầm nguồn mưa
Tưới ra biển hồ
Chiều chiều nàng mong
Chờ một làn sóng
Đến dâng cho nàng
Khúc đàn âu yếm mơ màng

Mươi mươi lăm năm sau nàng Hà Tiên
Bực mình vì lòng sông thiếu thốn duyên
Đêm thân tiên nương đi tìm vịnh Xiêm
Hoạ chăng có bóng quý nhân độ thuyền
Ngày kia một cơn gió mang tới biên thùy
Một công tôn đi đứng trong kiệu quý
Bóng dáng quý nhân vừa trông đã thấy mờ
Hoá ra nàng gặp một giấc mơ
Tiên cô đi yêu một bài thơ

Từ mộng thuyền quyên
Tới giấc mơ huyền
Lòng người được quen
Thú vui hoặc huyền
Từ rày Hà Tiên
Thành một bờ bến
Đón đưa những người xuống đò
Để tới mơ hồ 










Độc độc huyền
Đem giải tiếng điên tiếng khổ tiếng tiền
Cung đàn tối như đêm
Tay quen nắn dây oán miệng ca lời than
Anh mù mở đôi mắt hư đã mòn từ xưa
Trông mãi một phương
Tang tịch tang tang
Những người đi đường dừng lại mà nghe
Tang tịch tang tang
Đứng chực nghe đàn bỏ tiền mà nghe

Không gian xưa nay vẫn đợi chờ tiếng huyền đài
Thoát nợ con người lưu lạc suốt đời
Như đàn ngân đương chơi
Tính tang tính tình
Đứng đó để mà nghe
Tính tang tính tình
Rộng lòng rồi được nghe

Vô số con người ngao ngán trong đời
Không tiền đứng tạm bên đường nghe kể càng thương
Nghe oán tình duyên đôi khi chùi đôi mắt sâu
Người mù gạt mối thương sầu để lòng nhẹ đau
Giọng đàn vi vút tìm quên
Đôi khi tìm trong tiếng ca
Thình lình vài khách không nhà
Ngỏ lòng vị tha than vài ba tiếng lệ rơi 











Nhớ Lào

Nhớ nước non xứ Lào
Cùng tiếng "khenè" bên rừng
Noòng khoe xiêm áo
Múa hát ca không ngừng
Noòng khoe xiêm áo
Múa hát ca không ngừng
Nhớ suối reo bên rừng
Cất tiếng ca đồi thông
Nhớ những cô má hồng
Ngồi dệt sà rông
Nhớ bóng dăm cô nàng
Ngoài bờ Mê Không
Gánh nước đi vô làng
Ngoài bờ Mê Không
Gánh nước đi vô làng

LỜI 2:
Nhớ thú vui trong làng
Kỳ hát boun trang hoàng
Người Lào giầu sang
Hát múa bên dân thường
Người Lào giầu sang
Hát múa bên dân thường
Nhớ đám trai an nhàn
Quấn quít bên người quen
Nhớ những hơi rượu cần
Của mọi người dân
Nhớ bóng thưa khiêm nhường
Của một Lào Nương
Cất bước đi trên đường
Của một Lào Nương
Cất bước đi trên đường


CHÚ THÍCH:
Khenè: kèn thổi Ai Lao làm bằng ống sậy
Noòng: tức là Nàng
Sa-rồng: chăn người Ai Lao hay phủ mặc
Hát boun: kỳ hội lớn có nhiều múa hát của Ai Lao
Mê Không: sông Cửu Long chảy dọc suốt quốc gia Ai Lao 










Nhớ thày xưa

 
Trên đường về xóm thôn Tây Hồ
ngày xưa có ngôi trường của em lúc bé
Chừng vài mươi đứa nhỏ bé thơ
đùa nô sáng trưa giữa hai bài A B
Ông Thày em vẫn khuyên luôn hồi
Thày mong các con khuyên bải nhau tấn tới
Để trẻ thơ nước Việt chóng thành
đám dân thương nòi mà dấn thân đi giúp đời.

Sau nhiều năm gắng công nên người
ngày kia ghé thăm nơi trường quê lúc bé
Gặp Thày xưa đã già tóc sương
mà lòng vẫn vương đám nhi đồng thày thương
Gương thày đã hiến thân suốt đời
hy sinh mấy mươi năm trời trong giáo giới
Làm cho em nức lòng ước gì sẽ không phụ lòng
Thầy ước mong cho giống nòi











Ông Nhang bà Nhang








Ông nỉnh ông ninh
ông ra đầu đình
ông gặp ông nảng ông nang
ông nảng ông nang
ông ra đầu làng
ông gặp ông nỉnh ông ninh.
Nang ninh đầu đình
và ninh nang đầu làng
và nang ninh đầu đình
và ninh nang đầu làng
và nang ninh đầu đình
và ninh nang đầu làng
và nang ninh đầu đình
và ninh nang đầu làng
cả nang ninh làng đình
nang ninh cả nang ninh
đình làng nang ninh làng đình ninh.
Em thở em thơ
em qua hàng dừa
em gặp em hải em hai
em hải em hai em qua vườn xoài
em gặp em thở em thơ.

Em thở em thơ
em qua hàng dừa
em gặp em hải em hai
em hải em hai
em qua vườn xoài
em gặp em thở em thơ.

Thơ hai vườn xoài
và hai thơ vườn dừa
và hai thơ vườn xoài
và hai thơ vườn dừa
và thơ hai vườn xoài
và hai thơ vườn dừa
và hai thơ vườn xoài
và hai thơ vườn dừa
cả thơ hai vườn xoài thơ hai
cả hai thơ vườn dừa hai thơ vườn xoài thơ.

Cô chiểu cô chiêu
cô qua cầu kiều
cô gặp cô thỏa cô thoa
cô thỏa cô thoa
cô qua vườn cà
cô gặp cô chiểu cô chiêu.

Thoa chiêu cầu kiều
và chiêu thoa vườn cà
rồi thoa chiêu cầu kiều
và chiêu thoa vườn cà
và thoa chiêu cầu kiều
và chiêu thoa vườn cà
rồi thoa chiêu cầu kiều
và chiêu thoa vườn cà
cả chiêu thoa cầu kiều chiêu thoa
cả thoa chiêu vườn cà chiêu thoa cà vườn thoa.










Chuyện lòng ao ước gởi ai
chung một mối tình lâu dài
Để lòng được thêm chút vui
trong lúc chờ xuân tái lai
Vì tình đời trong thu trời
chim tìm quên thôi
chỉ mong tình thương ..
thương ái ân chính chuyên .. lâu bền đó thôi ~
Ai mong nhớ ta trong thoảng canh dài
như ao ước cuộc tình thủy chung
với người hằng mong nhớ ai
Trong linh hồn ta vẫn cố nuôi
một hình bóng ai đang cười
Ta ưa tìm trên nét môi
một tình ai kia không lời
Nhưng những thói đời vẫn phân chia
tiền tài gia thế đạo cương thường
ngăn trở tình duyên xóa bao thề ước ~
Cho hay tình duyên vẫn có thế thôi
để lòng ước mong suốt đời ~  










Thằng bé tí hon

Vào thời xưa có một thằng bé tí hon.
Dáng đi ngoan ngoan cái mặt tròn tròn,
Má thì hường hường tên nó là Tí Non.
Mà mẹ cha nó đẻ bảy đứa lớn khôn.
Giữa năm tai ương bỗng nghèo bồn chồn.
Sáng chiều buồn buồn, làm sao mà có cơm.
Thương con đã nhịn phần ăn, đã nhường nệm chăn.
Kiếm củi tảo tần hòng giữ đám con.
Nhưng ăn có nào được no.
Tấm lòng mẹ cha đâm nghĩ kế là đem dấu đám con.

Bàn cùng nhau lúc giờ đà khuya, rất khuya.
Sáng mai đem con dẫn vào đường rừng,
Thế rồi lẻn về hoạ may người cứu con.
Nào ngờ đâu cũng nhờ thằng bé Tí Non.
Nó nghe hết trơn lấy đầy ruột mì.
Nó dồn một bí. Vào trong một túi con.
Hôm sau tính rằng đường đi có lạc một khi.
Dấu vết bánh mì chỉ lối sẽ ra.
Nhưng khi rắc đầy đường đi.
Bỗng từ ngàn cây chim chóc xuống đầy ăn hết... lối về.

Lạc rừng sâu mới tìm một lối cố ra.
Bỗng nhiên xa xa thấy một tòa nhà,
Dáng thì thật thà bèn xin vào ghé nhờ.
Nhà nhà kia chính là một nơi gớm ghê.
Chính nơi tư gia của thằng Kẹ già.
Tánh thèm thịt thà.
Đòi ăn trẻ nít không.
Con yêu thèm thịt non thấy mùi trẻ con.
Cứ hỏi quanh dồn: "đùi chúng chắc ngon."
Nhưng may cũng nhờ vợ can.
Hứa chờ vừa ăn xin tới giữa đêm thịt xương thêm ròn.

Mà vợ Yêu cũng đẻ bảy đứa bé con.
Giống nhau như gương cũng nằm một giường.
Giống bảy thằng "còm" bên thằng Tí Non.
Rồi để cho khác "người" và mấy đứa con.
Nó đem nón xanh úp đầu trẻ...
Còn nón đỏ một màu đội bên thằng Tí Non.
Đêm sương giữa rừng lạnh khuya, lúc nhà ngủ mê.
Yên lặng tứ bề thằng bé Tí Non.
Mon men lén vào giường bên.
Nó liền trèo lên thay mấy nón xanh đội cho anh mình.

Một giờ sau lúc thằng Kẹ đi dón chân.
Nắm tay con dao nó hầm hừ vào nón đỏ thằng nào là giết rồi nướng ăn.
Thịt thì ngon có mùi "kẹ" hơi khét nôn.
Nó ăn năm con biết mình "lầm đường".
Tức mình chạy vào, tìm ăn bọn Tí Non.
May thay bé này cùng anh mấy người chạy nhanh.
Núp dưới cây cành tận đáy hố sâu.
Con Yêu lấy một bộ hia.
Bước bảy dặm quê đi kiếm tứ bề mệt thân chẳng nề.

Nằm nghĩ thân chú Kẹ mệt hai bắp chân.
Ngáy nghe rân rân biết rằng Kẹ nằm Tí
Liền lại gần để mưu một kế thần.
Kẹ nằm mê Tí liều một phen gớm ghê.
Gỡ ngay đôi hia Tí liền chạy về.
Lúc mẹ ngồi chờ lệ chan hoà bốn bề.
Đôi hia đã được nhà vua lấy về
Và cho mấy túi tinh vàng để sống ấm no.
Anh em lúc gặp mẹ cha.
Khóc ròng rồi ca tang tính tính tang từ nay giàu sang.












Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ
Lặng yên ta nói Cuội nghe:
”Ở cung trăng mãi làm chi”
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ

Gió không có nhà
Gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng
Trên trời nước ta
Lặng nghe trăng gió bảo nhau:
”Chị kia quê quán ở đâu”
Gió không có nhà
Gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng
Trên trời nước ta

Các con dế mèn
Suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ
Đền công cho dế nỉ non,
Trời cho sao chiếu ngàn muôn
Các con dế mèn
Suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ

Sáng rơi xuống đồi
Sáng leo lên cây
Sáng mỏi chân rồi, sáng ngồi xuống đây
Cùng trông ánh sáng cười vui
Chị em ta hãy đùa chơi
Sáng rơi xuống đồi
Sáng leo lên cây
Sáng mỏi chân rồi, sáng ngồi xuống đây

Các em thích cười
Muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang
Mười lăm tháng Tám trời cho
Một ông trăng sáng thật to
Các em thích cười
Muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang







 




Thu trên đảo Kinh Châu


Đàn chim bay thiết tha, trên núi cao miền xa
Mang theo những nỗi buồn mộng mơ
Nguồn thảm sầu đã qua.
Khi ta đi liễu đang còn xanh lá
Trong đám cây oanh hót vài lời ca để chòng đám hoa

Ngày nay cúc đẫm thâu, hoa héo khô vì đâu.
Chim oanh nhắc tiếng một vài câu để thương đời cúc thâu
Sông Kinh Châu có con buồm trắng
Gió thu mang người biệt ly vào cảnh sầu đó chăng

Hồn thu theo gió đến ngọn núi chót cao cạnh mây
Gió đưa hồn thu xuống cây
Bao lá rơi để gió thu cuốn đi. 









Em không . . . nghe mùa thu
Dưới trăng ngà thổn thức
Em không . . . nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng . . . người cô phụ

Em không . . . nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô

Em không . . . nghe mùa thu
Dưới trăng ngà dưới trăng ngà
Em không . . . nghe mùa thu
Dưới trăng ngà thổn thức
Em không . . . nghe mùa thu
Dưới trăng ngà thổn thức

Em không . . . nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng . . . người cô phụ
Dưới trăng ngà . . . dưới trăng ngà . . . thổn thức

Em không . . . nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá . . . vàng khô









 
Tiếng thùy dương





 
Trên sông Dương Tử





 
Truyền kỳ Việt sử









Tuổi thơ

http://mp3.zing.vn/bai-hat/Tuoi-Tho-Anh-Tuyet/ZWZ9ZZBA.html 
 
Trời xanh xanh mát
Hương thơm thơm ngát
Cùng nhau ta múa điệu ca
Cùng nhau ta hát đời ta
Nhụy hoa thanh khiết
Men hoa ngây ngất
Hát cho tâm hồn được khuây
Cũng như cánh đẹp được bay

Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bảy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên

Cười vui ca hát
Tươi thắm đôi môi ướt
Bàn tay năm ngón cùng xinh
Màu da trong trắng mượt tinh
Chìm trong đôi mắt bao ướt mơ trong vắt
Sướng thay cho đời trẻ thơ
Mỗi trang là một bài thơ

Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bảy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên

Trẻ con theo tánh ưa trái cây ưa bánh
Hàm răng hay sún vì chua
Mà ai cho bánh thì ưa
Dầm mưa dang nắng
Chơi cát dơ mẹ mắng
Sống vui trong bầu trời thơ
Sướng thay cho đời trẻ thơ

Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bảy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên

Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bảy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên










Xuân yêu Đương

















LÊ THƯƠNG
Mang Tình Cổ Tích Dệt Ngàn Cung Thương

Vương Trùng Dương


"Lê Thương là một trong những đỉnh cao nhất của dẫy Trường Sơn âm nhạc Việt Nam..." ca sĩ Duy Trác bày tỏ sự ngưỡng mộ với người nhạc sĩ được quen biết sau bốn thập niên. Và dọc theo dẫy Trường Sơn đó, thiên nhiên đã tạo dựng ra nhiều hình ảnh, theo tương truyền, được dệt thành hoa gấm về chân dung người đàn bà thủy chung, cao quý, dâng trọn trái tim với người chồng xa cách để biến thành thiên thu từ dân gian được đưa vào văn học: Hòn Vọng Phu. Dựa vào sự tích đó, nhạc sĩ Lê Thương đưa vào âm nhạc với 3 ca khúc như bức tranh hoành tráng, nguy nga bằng “truyện ca” Hòn Vọng Phu đã đi vào trái tim mọi người, yêu thích và cảm phục.

Về hình ảnh “Hòn Vọng Phu”, ở Trung Hoa đã có tự ngàn xưa, trong tác phẩm “Hòn Vọng Phu”, nữ sĩ Quỳnh Dao đã ghi lại ở chương đầu của sự tích: “Ở phía Bắc Trung Hoa, giữa những rặng đồi núi chập chùng, ẩn hiện rõ nét hình thù người mẹ bồng con mà dân giả bao nhiêu năm qua đều ngậm ngùi thương nhớ đến câu chuyện thật cảm động... có một thiếu nữ xinh đẹp vừa lấy chồng chưa tròn một năm thì người chồng phải xa lìa vợ trẻ lên đường chinh chiến. Bao nhiêu năm đợi chờ mùa lá rụng ôm con mong ngóng tin chồng về. Nàng không quản ngại gió mưa sương tuyết phủ phàng... cho đến một ngày kia mẹ con người chinh phụ không còn chịu đựng nữa đã thoát hồn vào cõi hư vô. Trời cao đã chứng giám tấm lòng trung trinh của nàng. Thân xác mẹ con nàng đã hóa thành tượng đá và đã đi vào lịch sử, đi vào lòng kính ngưỡng của thế gian. Và từ đó, hình ảnh mẹ con nàng trở thành núi Vọng Phu...”. Ngọn núi Vọng Phu nhìn ra ngoài biển, dưới chân núi là vùng hoang giả, rừng cây um tùm tăm tối đầy hang động. Khu rừng đó gọi là Đoãn Tùng Cương, băng qua nữa là Sơn Phong và Sơn Cốc.

Việt Nam có nhiều hình ảnh mẹ bồng con nằm rải rác từ Lạng Sơn vào tận Hà Tiên, mang sự tích người vợ ôm con, trong chồng hóa đá được đặt tên hòn Vọng Phu. Ở Lạng Sơn, truyện kể nàng Tô Thị đứng trông chồng là Đậu Tháo đi chiến đấu chống quân xâm lược phương Bắc, đợi chồng hóa đá, hình tượng đó tại Đồng Đăng, được đi vào ca dao:

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa

Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh

Ai lên xứ Lạng cùng anh

Mải mê quên hết lời em dặn dò.

Gần Thanh Hóa, trên núi Nhồi, nổi bật hình ảnh hòn đá lớn như chân dung người đàn bà đứng bế con. Vẫn theo tương truyền ngày xưa, người chồng theo tiếng gọi núi sông, chinh chiến kéo dài, người đàn bà mòn mỏi chờ mong, ôm con đứng trông chồng đến khi hóa thành đá.

Ở Khánh Dương, Khánh Hòa có hòn Vọng Phu, còn gọi là hòn Mẫu Tử. Theo Nguyễn Tử Quang trong tác phẩm Điển Hay Tích Lạ “Chóp núi Vọng Phu là một khối đá hoa cương khổng lồ, đứng thẳng lên trời, bên cạnh lại có một khối đá khác nhỏ hơn, hai khối đá nầy tương tự hình người”.

Cách Khánh Dương về hướng Bắc chạy dọc theo quốc lộ I không bao xa, núi Đá Bia nằm trên Đào Cả thuộc Phú Yên, sừng sửng khối đá lớn trông như tạc hình ảnh mẹ bồng con đứng nhìn ra biển, còn gọi là núi Mẹ Bồng Con.

Trong dẫy Núi Bà, thôn Chính Oai, xã Cát Khánh, Phù Cát, Bình Định, một hòn đá xanh cao, mọc đứng trên ngọn núi cao nhìn ra Vũng Tô, Vũng Nồm, nhìn từ xa trông giống hình người đàn bà dắt con đứng nhìn ra biển, được gọi là đá Vọng Phu, hòn Vọng Phu.

Sự tích hòn Vọng Phu còn dựa theo câu truyện dân gian. Trong thời tao loạn, có hai anh em ruột vì chạy giặc phải ly tán từ thuở nhỏ. Khi chàng trai và cô gái gặp nhau vì không nhận ra nhau nên thương yêu nhau và kết duyên vợ chồng, sinh hạ được đứa con, ăn ở với nhau rất hạnh phúc. Thế rồi một ngày, người chồng gội đầu cho vợ, thấy có vết sẹo, lần mò câu chuyện, người chồng mới vỡ lẽ vết sẹo đó do chính chàng gây ra cho cô em gái từ thuở nhỏ. Người chồng đau khổ, ân hận, không dám nói cho vợ biết, lặng lẽ ra đi. Biệt tăm chàng, người vợ thương nhớ chồng, ôm con lên núi đứng chờ cho đến khi hóa đá.

Chân dung người đàn bà bế con trông chồng hóa đá được đề cập nhiều qua thi văn, Lê Thương - người nhạc sĩ tài hoa - đã mang hình ảnh vợ chồng thời chinh chiến dựng thành “trang sử” hùng tráng và bi thương qua lời ca và tiếng nhạc, trở thành tác phẩm âm nhạc quý báu trong kho tàng âm nhạc Việt Nam. Qua âm nhạc, Hòn Vọng Phu của Lê Thương cho thấy sự trưởng thành của âm nhạc Việt Nam trong giai đoạn đầu; ở đó thể hiện trọn vẹn câu chuyện nhân gian thành trang sử đầy màu sắc về hình ảnh, tâm tư và cả bối cảnh bi hùng, cao đẹp của thời chinh chiến.

Trong các hình ảnh về Hòn Vọng Phu, bối cảnh Lê Thương tạo dựng trong ca khúc ở địa danh núi Nhồi, giữa vùng Thanh Hóa - Nghệ Tỉnh. Và nếu nhìn lại thời gian xa xưa, từ Cổ Loa thành - địa danh của Vĩnh Yên - nhìn về “Nơi phía Nam giữa núi mờ, ai bế con như đứng chờ” thì chân dung Hòn Vọng Phu trong ca khúc được tạo dựng nơi đây. Ba ca khúc trong Hòn Vọng Phu dàn dựng ra qua lời ca, tiếng nhạc theo tiến trình câu chuyện với đầy đủ hình tượng trong thời chinh chiến, nam nhi theo tiếng gọi của non sông, nữ nhi trong bổn phận nuôi con, thờ chồng, kẻ đi, người ở đều mang trong lòng tình yêu thương cao quý, trang trải nỗi niềm luyến nhớ, đau thương giữa nghĩa vụ và tình yêu, giữa phong ba thời cuộc và tình nghĩa vợ chồng. Hình ảnh đó khơi dậy câu truyện được lưu truyền, nó tàng ẩn cái tình, cái nghĩa cái thủy chung, vừa náo nhiệt vừa tĩnh lặng tạo thành bức tranh sống động trong nhiều bối cảnh thời đao binh của lịch sử nước nhà.

Theo nhạc sĩ Lê Thương, việc sáng tác ba bản Hòn Vọng Phu xuất phát từ những bước luân lạc kéo dài tại xứ dừa Bến Trẹ những rung cảm êm đềm lẫn ghê rợn, tuyệt vọng đã giúp cho chàng nhạc sĩ giang hồ gốc Thăng Long chắp nối dần các tình tiết thành một “truyện ca”. Và từ năm 1945 đến đầu 1948, ba bản Hòn Vọng Phu lần lượt được tái bản tại Sài Gòn.

Hòn Vọng Phu I mở đầu với hình ảnh chiến chinh, “là một bức tranh phác họa vài nét tiêu sơ theo điệu quân hành. Thực hiện nó bằng cảm xúc mãnh liệt cộng với trí tưởng tượng mông lung, diệu vợị.. Viết HVP-1 lúc đang sống bên bờ kinh đào Chạc Sậy nối liền sông Đại với sông Bến Tre” (Lê Thương). Không khí thời đó giống như hình ảnh trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Lê Thương miêu tả hình ảnh hùng dũng của chàng trai với tiếng gọi núi sông:

Lệnh vua hành quân trống khua dồn

Quan với quân lên đường

Đoàn ngưa xe cuối cùng

Vừa ruổi theo lối sông...”

Không khí và hình ảnh bắt gặp trong Chinh Phụ Ngâm “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi” phận nam nhi phải “Xếp bút nghiên theo việc đao cung” để rồi “đi vào nơi gió cát”. Và, người vợ ở nhà mang nỗi nhớ khôn nguôi, nuôi con, ngong ngóng bóng chinh nhân trở về. Hòn Vọng Phu I đã phác họa tổng quát câu chuyện khi chia ly trở thành ly biệt:

“Người không rời nửa kiếp gian nan

Người biến thành tượng đá ôm con”!




Hòn Vọng Phu II (Ai Xuôi Vạn Lý) bày tỏ tâm trạng người vợ, thương chồng, nhớ chồng, chờ chồng bất kể nắng mưa:

“Bế con đã hoài công để đứng chờ.

Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về.

Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ...”




Khi nàng đứng chờ thì than ôi:

“Đoàn cỏ cây hãy còn trẻ thơ,

Cho đến bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già”

Thế nhưng nàng vẫn “Đứng ôm con xem chàng về hay chưa ?”.

Đứng trên ngọn núi chờ chồng, mong ai xuôi vạn lý để nhắn tin nhưng rồi tháng năm vẫn biền biệt trôi, mòn mỏi đứng vọng về chân trời xa xôi cho đến khi hóa đá.

Hòn Vọng Phu III (Người Chinh Phu Về), qua mùa chinh chiến, trên đường về chập chùng núi non, mang bao niềm nhớ thương mong giải bầy với người yêu bao năm xa cách... nhưng nhìn về phương Nam, than ôi! giữa núi mờ, nàng biến thành tượng đá ôm con.

Trong thời kỳ bùng nổ chiến tranh Việt-Pháp, giai đoạn người trai phải tham gia vào cuộc chiến, có người nhạc sĩ trẻ Lê Thương. Và, chính 3 ca khúc đó đã tạo thành được kích thước rộng lớn. Vì theo ông: “Lý do khác thôi thúc tôi viết Hòn Vọng Phu là do cảm mến thân phận người chinh phụ qua Chinh Phụ Ngâm khúc nổi tiếng... Không có gì đẹp hơn bằng cách chuyển cuộc ra đi của người chồng vì mối tình ngang trái thành cuộc ra đi vì đại nghĩa, và hình ảnh người đàn bà cũng trở nên hợp hơn, đúng hơn với người chinh phụ! Người đàn bà luôn luôn chịu thiệt thòi. Cần phải trả lại cho họ cái chức phận thiêng liêng, cao quý ”.

Theo diễn biến lúc hùng, lúc bi, lúc giục giã lúc lắng đọng, dòng nhạc và lời ca của Lê Thương lột tả được ý nghĩa sâu lắng, thể hiện được tinh hoa của âm nhạc để đi vào trái tim, niềm rung cảm của mọi người.

Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914 tại phố Hàm Long, Hà Nội. Theo học trường Nhân Bắc ở Hà Nội đến năm 1935 hành nghề giáo. Bố mẹ ông là nghệ sĩ chơi nhạc cổ ở Hà Nội vì vậy khi ở học đường, ông tham gia phong trào ca hát. Sau khi thuyên chuyển về dạy học ở Hải Phòng, Lê Thương cùng với Văn Cao, Hoàng Quý, Hoàng Phú, Phạm Ngữ Canh Thân... thành lập nhóm sáng tác ca khúc âm nhạc lấy tên Đồng Vọng. Lê Thương là một trong năm nhạc sĩ khai sinh cho nền tân nhạc Việt Nam với nhạc phẩm Tiếng Đàn Âm Thầm (1934) và Trưng Vương (1937), tiếp đó với các ca khúc Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương Tử...Nhạc sĩ tiên phong trong thể loại truyện ca như Nàng Hà Tiên (1940) rồi được tiếp nối với Hoa Thủy Tiên, Lịch Sử Loài Người, Truyền Kỳ Lịch Sử...

Năm 1940, Lê Thương rời Hải Phòng vào Bến Tre, lên Sài Gòn và tham gia trong dòng sinh hoạt văn nghệ cùng anh em văn nghệ sĩ. Qua Hồi Ký của Phạm Duy: “Trong số những bạn đồng nghiệp, tôi yêu nhất nhạc sĩ Lê Thương. Anh rời Bến Tre lên Sài Gòn làm nghề thầy giáo. Lê Thương làm thơ, làm nhạc rất bay bướm nhưng anh có cuộc sống rất giản dị... Vào những năm đầu của cuộc chiến Nam Bộ, cũng như hầu hết những người trai của thời đại, Lệ Thương có những đóng góp tich cực vào cuộc đấu tranh chống xâm lăng, giành Tự Do, Độc Lập của toàn thể nhân dân... Thì ra Lê Thương cũng đi vào kháng chiến để tạo những huyền thoại về người mẹ Việt Nam..". Lê Thương vào thành rất sớm. Vào năm 48, anh soạn bài Hòa Bình 48... Vào thời đó, nằm trên trục tuyên truyền của phe tả, chim bồ câu được chọn làm biểu tượng cho hòa bình... nhưng anh Lê Thương của chúng ta cho rằng con chim đó dang bị đau nặng... Bài Hòa Bình 48 là loại nhạc châm biếm chính trị (satire politique) do Lê Thương dẫn đầu... Lê Thương còn soạn thêm những bài ca châm biếm như Liên Hiệp Quốc, Làng Báo Sài Gòn, Đốt Hay Không Đốt...

... Lê Thương cũng là người chuyên soạn nhạc cho thiếu nhi, thiếu niên qua những bài Thằng Cuội, Tuổi Thơ... Bài Bà Tư Bán Hàng và bài Học Sinh Hành Khúc phổ biến đến độ có những câu nhại... Tôi vẫn quan niệm bài hát nào có lời ca nhại là bài hát thành công nhất. Tôi cũng cho rằng trong làng tân nhạc, Lê Thương là người trí thức nhất. Mỗi bài nhạc, mỗi giai đoạn nhạc của anh đều chứa đựng thông điệp”.

Nhìn lại toàn bộ nhạc phẩm của Lê Thương, bao gồm hầu hết mọi thể điệụ Bên cạnh nhiều nhạc phẩm về thiếu nhi rất quen thuộc, nhạc châm biếm, những bài thơ được phổ thành ca khúc như Bông Hoa Rừng, Tiếng Thùy Dương, Người Chơi Độc Huyền... cùng nhiều ca khúc với tình tự quê hương, dân tộc được trải dài suốt nửa thế kỷ là công trình đóng góp thật quý giá. Lê Thương thích tham gia vào kịch nghệ, cuối thập niên 30 với ban kịch Thế Lữ. Khi vào Sài Gòn, tham gia vào ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch, sáng tác nhiều bài hát cho kịch phẩm. Vào thập niên 50 ông viết nhạc phim cho hãng Mỹ Vân.

Là giáo sư dạy về nhạc sử ở Trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ Sài Gòn, ông triển khai nền âm nhạc Tây phương để chuyên chở vào nền âm nhạc Việt Nam để tạo sắc thái đặc biệt. Qua hàng trăm nhạc phẩm đều phản ánh tâm hồn dân tộc, dòng nhạc bình dị, đơn giản; giai điệu nhẹ nhàng không cầu kỳ, rắc rối được thể hiện qua tiết tấu. Trên bục giảng, là một nhà giáo nghiêm nghị nhưng trong giao tiếp, ông là người hòa nhã, tận tình, lịch sự, từ tốn và hòa nhập với mọi người. Vì vậy, căn nhà của ông trên đường Bùi Viện trở thành thân quen cho giới nghệ sĩ. Lê Thương còn là giáo sư Sử Địa, có tài vẽ tay trái, kiến thức rộng và giảng dạy rất lôi cuốn trong bộ môn khô khan.

Về mặt tình cảm, là nghệ sĩ, Lê Thương cũng phong lưu đa tình nhưng kín đáo, không ba hoa, khoác lác vì vậy không bị tai tiếng. Người tình đầu tiên sống với ông là cô đầu hát ả đào nổi tiếng ở Hà Nội, sống với nhau nhưng không thành hôn. Người bạn đời trăm năm với ông, gốc Hưng Yên, ở Pháp về gặp nhau tại Sài Gòn, sống với nhau được 3 người con mới làm giấy hôn thú, tiếp tục hành trình, có tất cả 9 người con. Người bạn đời của nhạc sĩ “là người bình dân, mộc mạc, không bao giờ nhảy sổ vào công việc của chồng, suốt đời lẳng lặng trông nom săn sóc chồng con” (Phạm Duy). Tuy nhiên, mối tình của Lê Thương với vũ sư Năm Ngọc ở chợ Vườn Chuối thời Lê Thương làm việc ở Trung tâm Học Liệu, tuy kín đáo nhưng bị lọt vào mắt mấy tay cầm bút.

Sau tháng 4-75, Lê Thương kẹt lại ở quê nhà, không còn cơ hội thuận lợi tham gia trong sinh hoạt nghệ thuật. Bước vào đầu thập niên 90 tinh thần và thể xác suy yếu. Cuộc sống gia đình càng thêm khó khăn, may mắn được sự giúp đỡ của vài nghệ sĩ quý trọng ông. Vào giữa thập niên 90, ông hoàn toàn mất trí. Trong khi hàng triệu người ở quê nhà và hải ngoại đón tết Trung Thu, tác giả Thằng Cuội nhắm mắt lìa đời ngày 17-9-1996, hưởng thọ 83 tuổi. Lê Thương trở về với cát bụi, theo “Gió không có nhà, gió bay muôn phương, biền biệt chẳng ngừng trên trời nước Nam...”

Hơn nửa thế kỷ đóng góp cho âm nhạc Việt Nam, Lê Thương sáng tác hàng trăm tác phẩm, nhiều ca khúc khai sinh cho nền âm nhạc Việt Nam tuy đánh dấu cái mốc lớn lao trong lịch sử tân nhạc nhưng thời gian rồi sẽ phôi phai như nhiều ca khúc khác cùng thời của ông. Thế nhưng, ngày nào còn nhắc đến hình ảnh Hòn Vọng Phu, ngày đó tên tuổi Lê Thương vẫn còn bay lượn giữa muôn nghìn âm thanh bồng bềnh trong tâm thức.

Vương Trùng Dương











Nhạc Tiền Chiến – Lời thuật của Nhạc sĩ Lê Thương





LỜI NÓI ĐẦU


Mấy năm nay nhiều thính giả tìm nghe lại những bài tiền chiến, những bài tân nhạc từ khởi đầu phong trào cho đến thời bắt đầu tranh thủ độc lập.

Thính giả đứng tuổi thường thích nhạc tiền chiến vì những kỷ niệm tuổi trẻ của mình, nhất là kỷ niệm tình ái, vẫn phảng phất tiếng ca điệu nhạc “thời đó” mà mình đã ưa thích. Nghe lại những bài hát xưa là một thích thú như lật được lại trang tình sử của cái thời không bao giờ trở lại.

Thính giả trẻ tuổi có thể thích nghe nhạc tiền chiến vì nhiều lẽ trong đó có khoái cảm của người khám phá; họ như tìm được loại nhạc lạc loài điềm tĩnh hơn đời kích động này và có thể gân cốt họ nhẹ phần miên man khích thích?

Đúng hay không vẫn tùy nhân tâm. Nhưng muốn hiểu sơ qua thời phát hiện của nền Tân nhạc gọi là tiền chiến, có lẽ là lúc ta nên tĩnh tâm nhìn lại một dĩ vãng rất gần với chúng ta mà nhiều cõi lòng đã tưởng chẳng có gì hay là “mất hút” để xét lại cái công trình chung của giới Tân nhạc chúng ta, già như trẻ, đang phải xây dựng, tô điểm cho tòa nhà âm nhạc, không những cho lợi tư riêng mình mà cho cả người lân cận và đàn em.

Mà trong công việc xây dựng này, những người thời tiền chiến đã khổ công ra sao. Họ đã dò dẫm đường đi gặp bao trởi ngại “đợi chờ mai hậu” để ngày nay được “mai hậu” gọi về cho nghe đôi niềm tâm sự: thời… tiền chiến.

Nói đến thời mới cách đây 30 năm, trong lúc đất nước còn qua phân, nhân tâm còn rời rạc và tác giả như tác phẩm còn tản mác, kể cũng khó mà tìm ra những tài liệu đích xác, nhất là về năm tháng xuất hiện.

Song một số tài liệu sống là các nhân chứng có mặt tại miền Nam, trong số bài báo rãi rác, và những hiểu biết về bản thân có giúp độc giả biết khái quát về thời tiền chiến qua những chủ điểm tạm xếp như sau:
Mấy năm đầu Tân Nhạc (1938 – 1940)
Thời thanh niên lịch sử (nhóm Đồng Vọng và Tổng Hội Sinh Viên (1941 – 1944)
Thời đầu tranh thủ độc lập (1945 – 1946)
I. Ảnh hưởng của những bài hát ta điệu tây

Chưa tiện bàn đến những nguyên nhân tạo nên tinh thần đổi mới trong xã hội Việt – Nam trước Thế giới đại chiến thứ nhất và hậu quả đầu tiên trong lãng vực ca nghệ là sự phát động kịch trường cải lương, và những bước thăng trầm của giới này, chúng tôi nói ngay đến ảnh hưởng của những “bài hát ta điệu tây” do các nghệ sĩ tiền phong Tư Chơi (Huỳnh Hữu Trung) và Năm Châu (Nguyễn Thành Châu) đề xướng trên các gánh Trần Đắt và Phước Cương, từ khoảng 1933-1934. (Phong trào này sẽ bàn riêng)

Năm đó là năm 1937, năm bành trướng nhất của những bài hát nói trên. Tại đài phát thanh Radio Saigon như tại Hà Nội, Huế, đâu đâu cũng thấy ca hát theo giọng Tino Rossi, từ các rạp hát tiệm khiêu vũ, quán rượu, đến thư phòng, gác trọ. Nhiều hãng dĩa như Béka, đã bắt đầu ném ra thị trường những bài hát ấy do các cô Ái Liên và Kim Thoa ca.

Việc truyền bá những bài Tây hoặc những bài Ta hoặc điệu Tây đã gây ảnh hưởng nên chú trọng:

Một là những bài này dần dần đã đổi thị hiếu của công chúng làm cho họ càng ưa chuộng mới lạ mà muốn quên lãng những cái gì không thay đổi trong nhạc cổ truyền.

Hai là với cái hào hứng mới nhập cảng trong tinh thần thanh niên, người ta thấy một sự tiêu thụ to tát, những tác phẩm và sự thay đổi luôn hồi trong sở thích, làm cho những bài đàn truyền-bá chẳng bao lâu đã lâm vào “cõi già” mà cần phải được thay thế.

Tóm tắt, nghệ sĩ Việt Nam bị đặt trước một vấn đề phải giải quyết. Trước bổn phận phải ngăn cản sự phách những giá trị nghệ thuật của dân tộc do những cung điệu ngoại lai đang gây nên, và phải thỏa mãn những nhu cầu ồ ạt đang bột phát tứ tung, họ phải vạch một đường mới cho nhạc nghệ là sáng tác.

Giữa lúc này vài nhạc sĩ Việt-Nam đã bắt đầu truyền bá những bài hát mới đầu tiên như Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước, Trần Quang Ngọc tại Hà Nội, Lê Thương tại Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên tại Saigon trong miền Thị Nghè, và trên đài Radio Saigon, Nguyễn Xuân Khoát và Phạm Đăng Hinh với nhóm học sinh theo học đàn, v.v…

II. Tân-Nhạc xuất hiện – 1938

Năm xuất hiện chánh thức của phong trào Âm Nhạc Mới là tháng 3 năm 1938, khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên từ Saigon ra hô hào tại đất Bắc.

Ông Tuyên được thống đốc Nam Kỳ thời đó là Rivoal trợ cấp để đi diễn thuyết về âm nhạc cải cách tại Bắc Hà.

Tới Hà Nội vào tháng 3, ông có nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp một cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buối đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó như đã cho việc hô hào của ông là thừa, vì bài hát cải cách đã có sẵn tại đó.

Tại hội Tri Tri Hải Phòng, ông đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 mặt, nhưng ông đã có người thông cảm. Chính vào buổi nói chuyện này, cử tọa đã yêu cầu chúng tôi lên trình bày cho diễn giả nghe một bản nhạc mới của miền Bắc. Câu chuyện trở nên lý thú, khi ông Tuyên đã gặp một người đồng hành và một tri âm.

Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ Học Hoài Đức, ông Tuyên còn trình bày nhạc mới tại rạp chớp bóng Palace một lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài “Bông Cúc Vàng”.

Đến đây báo Ngày Nay, một cơ quan ngôn luận rất được đọc thời bấy giờ, mới nhóm khởi việc hô hào và đăng tải những “tác phẩm đầu” của nền nhạc mới.

Những bài như “Bông Cúc Vàng”, “Kiếp Hoa” của Nguyễn Văn Tuyên, “Bình Minh” của Nguyễn Xuân Khoát (thơ Thế Lữ), “Bản Đàn Xuân” của Lê Thương, “Khúc Yêu Đương” của Thẩm Oánh, “Đám Mây Hàng” của Phạm Đăng Hinh, “Đường Trường” của Trần Quang Ngọc, v.v… mới lần lượt được in trên mặt báo vào tháng 9 năm đó.

Một cái dây bứt động cả rừng, người ta mới thấy những người yêu nhạc đăng và xuất bản những bài hát mới để dùng vào khiêu vũ hay để hòa nhạc vui vẻ.

Từ đầu 1939, một số bài nhạc của vài nhóm đã thấy treo bán tại các hiệu sách.


III. Những nhóm tân nhạc và bài ca xuất bản


Trong việc nhóm khởi phong trào Tân Nhạc, một điều hiển nhiên là rải rác khắp nơi, có những nhóm người lo sáng tác. Việc làm âm thầm của từng nhóm không có dịp phô bày công khai, nhưng phải nói là từ khi đĩa hát và phim nói (1934) và cả những bài nhạc Âu Mỹ được bán trên thị trường thì việc sáng tác được thúc đẩy mạnh mẽ hơn.

Chỉ cần có người khởi xướng một việc gì hữu lý là các người khác bộc lộ ý định nuôi dưỡng từ lâu bằng cách noi theo và đôi khi vượt cao hơn cả người đi trước.

Đó là cơ hội xuất phát của các nhóm Tân Nhạc và việc xuất bản bài ca. Thời gian đích xác và việc làm trước sau của các nhóm khó lòng quả quyết, song ta có thể qui vào năm 1930-40 là thời kỳ phát hiện công khai của đa số các nhóm.

– Nhóm Myosotis: nhóm này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Vũ Khánh, Trần Dư, Phạm Văn Nhường v.v… hoạt động từ vài năm trước trong vài “sa-lông” và đôi khi tại rạp chiếu bóng vào dịp làm nghĩa.

Việc thực hiện đáng kể của nhóm vào khoảng cuối 38 là việc xuất bản. Những bài như “Đôi oanh vàng”, “Hoa tàn”, “Phút Vui Xưa” đã bắt đầu truyền bá từ cuối năm 1937 đồng thời với những bài: “Joie d’aimer”, “Souvenance”, “Ton doux sourire” (nhạc không lời cho hạ-uy-cầm) của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Nhóm này với ban đàn Myosotis là lợi khí, đã ra đời từ ít lâu và thường hòa nhạc tại các tư gia để trau dồi nghệ thuật.

Nhóm Myosostis có hai chủ trương: Thẩm Oánh chủ trương “Theo đạo Trung dung” và tạm gọi những bản đàn hồi đó là những bản đàn cải cách Âm Nhạc của những bản đàn cải cách phải theo ý nhạc nhạc Việt Nam và phải có cảm tưởng thuần túy Á Đông (T-O — Việt nhạc số 5 ngày 16-10-1948). Còn Dương Thiệu Tước thì chủ trương soạn theo âm điệu Tây Phương, ông nghĩ rằng “Nếu đã có nhà văn Việt Nam cũng rất có thể viết được những bản nhạc có âm điệu Tây phương (T-O — 1 bid).

Theo phương hướng này hai nhà soạn nhạc ấy đã cho xuất bản trước nhất mấy bài kể trên.

Đại để những bài kể trên bài về sau: Hồ xưa, Xuân về, Tiếng khóc trong phòng the của Thẩm Oánh.

Tâm hồn anh tìm em, Một ngày mà thôi của Dương Thiệu Tước, chịu ảnh hưởng khiêu vũ Tây phương nhiều.


– Nhóm TRICÉA: gồm mấy nhạc sĩ Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn cũng đem ấn loát mấy bản nhạc vào 1939 như Khúc Ca Ban Chiều, Trên Thuyền Hoa của Văn Chung. Biệt Ly, Sao Hoa Chóng Tàn, Tiếng Hát Đêm Thu của Dzoãn Mẫn và Bẽ Bàng, Vườn Xuân của Lê Yên.

Nhóm này thì như nhạc sĩ Thẩm Oánh đã nói: (Việt Nhạc số 5) “chủ trương đi sát quần chúng” hơn. Luồng nhạc của Văn Chung chịu nhạc hưởng Trung Hoa nên đã có vẻ Á Đông từ buổi đầu. Tuy vậy Lê Yên và Dzoãn Mẫn vẫn thiên về bay bướm nhịp tiết nên gợi nhiều âm hưởng nước ngoài. Triệu tập được 7 người, xuất bản hoặc truyền bá được mấy bản như Đóa Hồng Nhung, Hồ Xuân và Thiếu Nữ của Văn Chung. Một Hình Bóng, Một Buổi Chiều Mơ của Dzoãn Mẫn. Một Ngày Vui của Lê Yên, nhóm ấy đã vội tan rã.


– Nhóm PHẠM ĐĂNG HINH ra đời sau Tricéa. Nhóm này do nhạc sĩ Phạm Đăng Hinh đứng đầu gồm các nhạc sinh theo học ông về vĩ cầm và đại vĩ cầm. Chuyên đàn những bản nhạc do ông soạn, nhóm này ra mắt có một lần tại rạp Majestic Hà Nội (V.N. số 5). Rồi tiếc thay ban đàn điêu luyện ấy 15, 16 cây đàn vĩ cầm hòa hiệp mô tả thanh âm có nhiều quy pháp cũng sóm ngừng hoạt động. Nhạc sĩ Phạm Đăng Hinh, người đã từng du học Hồng Kông vội lưu lạc để lại mấy tên bài đơn lẻ: Đám Mây Hàng sau đổi là Cám Dỗ trong phim Việt Nam Trận Phong Ba quay tại Hương Cảng năm 1940.

Tại Hải Phòng, kẻ viết bài hồi đó còn đang dạy tại trường trung học Lê Lợi và có diễm phúc là đếm được thường xuyên tại lớp sự khi có mặt hí hởn của một nhóm “híp – pi tiền chiến” ưa ca hát thấu trời và thích du ngoại, là các “bạn trẻ”: Canh Thân, Hoàng Quí, Phạm Ngữ, Hoàng Phú, Văn Trang (hiện giờ là thương gia Saigon), Nàng Cúc Phương, Nàng Thư Nhàn, v.v… Ngoài những cuốc xe đạp đi Uông Bí, Núi Voi,…, nhóm nhạc sĩ trẻ ấy sáng tác Tân Nhạc.

Họ đã giúp chúng tôi xuất hiện lần đầu trên sân khấu Nhà Hát Lớn Hải Phòng với bài Tân nhạc vào lúc thi sĩ Thế Lữ ra hoạt động cho Hội Ánh Sáng tại đất Cảng, hè năm 1939.

Những bài Tiếng Đàn Đêm Khuya, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương Tử, Thu Trên Đảo Kinh Châu… được giới thiệu với khản giả. Cuối năm này, nhóm kịch Thế Lữ còn đem nhạc mới Lê Thương về Hà Nội, Vĩnh Yên cùng vở kịch Ông Ký Cóp của Vi Huyền Đắc gặt hái nhiều kết quả khả quan.

Nhóm nhạc sĩ trẻ nói trên, phần đông là tráng sinh hướng đạo nên có đà soạn nhạc đàn ca. Tinh thần Đồng Vọng liền dội lên trong loạt xuất bản tươi mát là nhạc thanh niên, thiếu sinh và cả mỹ thuật.

Phạm Ngữ cho xuất bản bài Nhớ Quê Hương (1939-1940) và Hoàng Quí chuẩn bị tiến cử một loạt ca khúc trẻ mà hởi đầu là ca khúc Chùa Hương lâng lâng hồn chiêu mộ.

Tại Nam Định, một tỉnh văn nghệ hữu hạng, nhạc sĩ Đặng Thế Phong sau đó cũng đề cử mấy bản nhạc mới của anh như Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến (nhân dịp vở kịch Cái Vạ của nhóm Vũ Trọng Can lưu diễn tại Nam Định và sau đó tại rạp Olympia Hà Nội)

Luồng nhạc Đặng Thế Phong đựng một mê luyến mênh mông như tiên kiến cho cuộc đời đoản mệnh.


IV. 1939 – Cuộc diện đổi thay


Phong trào Nhạc mới phát khởi được hơn một năm thì xảy cuộc Âu-chiến. Như một tiếng sấm động trời, tiếng súng của chiến tranh đã đánh vỡ tan không khí truy hoan của nhân loại.

Tin chiến trường tàn phá rầm rộ báo hiệu một cuộc tơi bời tràn tới. Đó đây trong cảnh động binh rải rác, người ta lặng lẽ chuẩn bị sống giờ thảm khốc sắp diễn và tinh thần trở về thực tế.

Pháp đã quy hàng và lo đường trỗi dậy.

Phong trào Phục-Hưng do thống chế Petain bên đề xướng đã lan sang đất Việt. Phong trào này nẩy nở trong đau khổ của chiến bại, dự bị cuộc tái sinh cho dân tộc Pháp.

Người ta liền nghĩ đến thanh niên, những “rường cột của nước nhà” trong việc xây dựng lại.

Nhiều nghị định đã quyết đổi mới cuộc sinh hoạt: đả đảo mơ mộng, đào tạo cho thanh thiếu niên một tinh thần mạnh mẽ với một thân thể cường tráng để dựng lại giang sơn nghiêng ngửa.

Báo chí sách vở bị kiểm duyệt. Các vũ trường bị đóng cửa. Những cuộc chợ phiên (kermesses) không còn là nơi đùa cợt của trai gái nữa, hoặc bị bớt đi nhiều.

Tin rằng những chiến công oanh liệt của các vị anh hùng được đem ra cho dân chúng sùng bái có thể kích thích đám thanh niên Việt vùng lên trên đường phụng sự “mẫu quốc”, người ta chuyển hướng văn nghệ về lịch sử.

Nhưng hai dân tộc Việt Pháp tại hai chân trời, từng nếm mùi cay đắng của chiến bại đã mượn dịp biểu lộ trên dòng tư tưởng và nghệ thuật hai chí hướng khác nhau. Dân Việt sẽ tìm cơ hội vùng lên nhưng để xây dựng một Quốc gia độc lập.

Đó là mục tiêu xa gần của phong trào Thanh Niên lịch sử trong Tân Nhạc.


V. Thời “Thanh Niên Lịch Sử” trong Tân Nhạc


Để thúc đẩy những hoạt động thanh niên, người Pháp tổ chức phong trào cắm trại (campeurs). Những bài hát suy tôn thống chế như “Mrechal, nous voilà” cia Dambrine, bài hát kích thích thanh niên như Relèvement, Debout, belle jeunesse của Parmentier muốn hô hào thanh niên Việt quay nhìn vị thủ tướng già đã ôm cành “hòa bình vi quý”, nhưng đoàn thiếu niên Việt lại thích nghe những điệu “Việt Nam bất diệt” của Hoàng Gia Lịnh, “Trên sông Bạch Đằng” của Hoàng Quý hay “Tiếng gọi sinh viên” của Lưu Hữu Phước hơn vì đó mới là tiếng gọi thân tình của giòng giống.

Trong các phong trào mà chánh quyền thời đó chủ trương hay khuyến khích hoặc cho phép phong trào thể thao huyến luyện thân thể cường tráng, phong trào hướng đạo đào luyện tinh thần thượng võ, hội Truyền Bá Quốc Ngữ cho ông Phan Thanh cầm đầu, hội Ánh Sáng do nhóm Tự lực văn đoàn chủ xướng, vấn đề ca nhạc vẫn là nồng cốt trong các dịp tuyên truyền, hội họp hoặc gây quỹ bằng buổi hát.

Âm nhạc hùng tráng, vui tươi đắc dụng hơn hết trong các hoạt động thường xuyên và cơ sở sẵn sàng nhất là các đoàn thể Hướng đạo.

Thế là phong trào tân nhạc lại được thêm đất dụng võ thuận tiện để tiến triển về mọi mặt.

– Bài nhạc Hướng đạo

Tại các nơi, họp trại ca nhạc vẫn được coi như chủ chốt.

Từ đầu, những bản ca quốc tế về hướng đạo được phổ lời Việt như tập Đời Vui Sướng của ông Phạm văn Xung, trưởng đoàn Lê Lợi Hà Nội và tập Tiếng Chim Ca của Lưu Ngọc Văn và Đào Văn Thiết đã được xuất bản từ năm 1938 trở đi.

Lác đác trong những tập trên cũng kèm theo vài cung điệu xứ sở được phổ lời Việt (như điệu Ngũ-điểm mai, Mãi tạp hóa… là những tiểu điệu Trung Hoa do ông Trần Phềnh nhập cảng vào sân khấu hát chèo cải lương thời đó).

Tất cả đều ngụ ý phụng sự chánh nghĩa dân tộc bằng các phương tiện sẵn có, nhưng phải đợi nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quí ra đời ngay sau đó thì các bài hướng đạo, thanh thiếu nhi mới có tính cánh Việt Nam và dựng được cái sinh khí mạnh mẽ của trai đất Việt thời tranh đấu.

Từ năm 1940, súng đã nổ tại Lạng Sơn và thời cuộc Đông Nam Á đã bắt đầu khẩn trương. Nhật quân đang hăm họa trực tiếp Đông Dương.

Những tin tức chiến tranh tại trời Âu chiếm hết chú ý của độc giả. Lác đác trên mặt báo, hàng sách, nhạc tình cảm vẫn xuận hiện: Con thuyền không bến của Đ. T. Phong trên tạp chí Bạn Gái, Xuân Yêu Đương (Xuân Ngày Nay 40), Bản đàn xuân (Xuân Ngày Nay 1941) của Lê Thương, Giọt mưa thu của Đ. T. Phong, Hồn xuân của Nguyễn Xuân Khoát (báo Ngày Nay), Trở lại cùng anh của Dzoãn Mẫn, Bóng ai qua thềm của Văn Chung v.v…

Nhưng đó chỉ là những cánh hoa rải rác mọc xa những luồng gió đang thổi mạnh luồng nước đang dâng lên luồng gió “đồng vọng” đem tươi mát tráng sinh, luồng nước dâng sóng nhạc của sinh viên.


– Đầu năm 1941 – Trẩy Hội Đền Hùng


Một trong những dịp náo nhiệt khơi mào cho phong khí hùng ca báo hiệu một chuyển hướng trong tinh thần sáng tác Tân nhạc là kỳ trẩy hội Đền Hùng vào mùa xuân Tân Tỵ (1941 vào 10-3 âm lịch) do tờ Việt Báo tổ chức.

Người ta còn nhớ hai đòan xe lửa chở hàng ngàn thanh niên nam nữ vào buổi sáng xuân êm ả, đi từ Hà Nội lên Phú Thọ để thăm mộ Hùng Vương.

Có lẽ từ ngày nội thuộc cho tới ngày đó, dân Việt mới có dịp nô nức tỏ lòng ngưỡng mộ vị Tổ ngàn xưa. Đặt chân lên phần mộ của tổ tiên, bao lòng đã nhiệt thành hướng về cội rễ, nhiễm lấy quốc hồn nguyên bản.

Bài Thanh Niên Ơi của Thẩm Oánh ngày hôm ấy đã đóng một vai tuồng chiêu lệnh và được hàng ngàn lồng ngực ca lên trong cảnh đồi hùng vỹ.


HOÀNG QUÝ và NHÓM ĐỒNG VỌNG


Ngày trẩy hội đền Hùng cũng có đầy hướng đạo sinh nam nữ tham dự.

Những con người hướng đạo như Hòang Qúi và đoàn trưởng, đòan sinh lại được thúc đẩy.

Từ cuối năm 1943 đến tháng 2-1945, Hoàng Quí đã tập hợp sáu, bẩy chục bài ca nhẹ nhõm, tươi sáng, dùng để ca múa khi đốt lửa trại.

Hồn nhạc Đồng Vọng hướng về tuổi thiếu sinh, hướng đạo nên luôn nhẹ nhõm trong sáng. Trước sự đòi hỏi của “đời sống ngòai trời”, những đề tài của nhóm Đồng Vọng quả là thích hợp không những cho thời đó mà mà cả cho thời bây giờ và mai sau nên thiếu nhi khắp nước còn học và còn nhớ bài: Gọi Bạn Lên Đường (H.Quí), Vui Lên Đường (Văn Cao), Tiếng Chim Gọi Đàn (H.Quí), Trước Cảnh Cao Rộng (P.Ngữ), Dưới Bóng Thông Xanh, Chiều Xuân (H.Quí), Vui Xuân (L.H.Phước).

Xen vào những cung hát yêu đời, cũng có mấy tâm khúc hòai lịch sử ngày nay vẫn lan tràn khắp nước: Ngày Xưa (Hòang Phú), Bạn Đường (L.H.Phước), Hồn Nam Tướng (Lê Xưân Ái), Lời Vọng Ngày Xưa (H.Quí), Đi Hội Đền Hùng (L.H.Phước), Bóng Cờ Lau, Nước Non Lam Sơn (H.Quí), Anh Em Bước Lên (L.H.Phứơc).

Ngoài L.H.Phước và Văn Cao sẽ đem lại một nhạc nghiệp thênh thang sắp tới, Hòang Quí phải mang một kiếp sống không dài để mệnh chung vào khỏang năm 1946. Nguyễn văn Nghiêm, Phan Ngữ ít thấy họat động, Lê Xuân Ái vẫn còn sáng tác ít nhiều về sau với những bài Huyền Trân Công Chúa, Thiên L‎ý Mã, Con Thuyền Trên Sông và nhất là bài Chinh Phụ Hoài Khúc đã mội thời gây sôi nổi trên làn sóng điện đài Pháp Á (1948) và được sân khấu cải lương ưu chuộng.

Hoàng Phú sau đổi tên là Tô Vũ, tác giả những nhạc khúc tâm tình nổi tiếng như: Tạ Từ, Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa…lúc nào cũng ưu mỹ, trầm tư khác với anh là Hòang Quí. Thế hệ Hoàng Quí còn đáng ghi ở nhiều nét mà ngày nay hầu như thiếu sót: Đó là sự quên mình cho đoàn thể, cho kẻ khác. Giữa lúc phải chăm lo học hành, Hoàng Quí phải chăm lo cho đàn sói con, cho đàn em trong nhà, cho bạn tráng sinh đồng đội và âm nhạc.

Với bận tâm hết mực ấy, điều đáng ca ngợi là anh lại càng sáng tác những khúc yêu đời. Xây dựng cho người nhiều hơn, cho lòng mình thật ít, tuy nhiên, nhạc ngữ của Hoàng Quí cũng đầy sáng họa: Đêm Trong Rừng, Hương Quê (1946), Sa Trường Tiến Hành Khúc, nhất là bài Cô Láng Giềng, một luồng nhạc cảm u uất, và bài Đêm Trăng Trên Vịnh Hạ Long và bài Tú Uyên làm khi hấp hối là những sáng tác anh còn để lại.

Với đà thanh niên lịch sử thời đó, ngòai nhóm Đồng Vọng tất nhiên, không nên bỏ quên nhiều tác giả rải rác cùng nuôi một quan niệm soạn nhạc nhằm vào trẻ thơ, thiếu nhi. Nhiều bài hát thiếu sinh khác đã được truyền bá, trong đó có Khúc Nhạc Xuân của Nguyễn Quí Thuận, thêm bài Trường Cũ, Tuội Xuân, bài Chiều Quê của Anh Hải (Quê nhà tôi, chiều khi nắng êm đềm…), Dặm Về của Lê Ngọc Hùynh (hiện giờ đang làm giáo sư tại Saigon và cũng là tác giả những bài Tiếng Thu với danh hiệu Nam Huân, Trên Đường Hưng Quốc, Yêu Đóa Hồng Nhung), Thằng Cuội, Hoa Thủy Tiên của L.T., Trên Đường Xa của Lê Như Khôi, Chèo Thuyền của Lê Hữu Mục (em của Lê Ngọc Huỳnh và hiện là giảng sư Đại Học), Giang Tay Bước của Thẩm Oánh, Quãng Đường Mai (1940) của Nguyễn Hữu Ba v..v…nhiều bài của Trần Quang Ngọc, một đòan trưởng hướng đạo mà tác phẩm đã đăng trong Ngày Nay từ 1958 v..v..

Luồng gió Đồng Vọng càng thênh thang vô ngã bao nhiêu thì luồng nước dâng sóng nhạc của Tổng Hội Sinh Viên với Lưu Hữu Phước càng súc tích bấy nhiêu.


LƯU HỮU PHƯỚC và TỔNG HỘI SINH VIÊN


Kể về sinh họat văn nghệ từ 1943 đến 1945 thì Tổng Hội Sinh Viên đã chế ngự phong trào tân nhạc và gây những ảnh hưởng sâu đâ5m chưa từng có.

Nhóm khởi trong đám sinh viên Đại Học ở Hà Nội, trong đó sinh viên miền Nam tỏ ra nhiều khả năng văn nghệ. Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đạc biệt đến việc dùng Tân nhạc trong cuộc đấu tranh, chính trị chống thế lực ngọai bang thời đó là Pháp-Nhật.

Từ ‎ định tổ chức Quán Trọ Thanh Niên (Auberges de la jeunesse) không thành, đến họat động diễn thuyết về lịch sử, lập trại thanh niên, hội đã gây tinh thần yêu nước mãnh liệt trong dân chúng, nhất là đám học sinh.

Với một lập trường quốc gia cấp tiến và những đoàn viên trẻ tuổi hăng say, hội đã đem Lưu Hữu Phước lên một cao độ sáng tác quy mô, bền bĩ, soạn lời ca và nghiên cứu đề tài cho thành một quán quân vô địch trong một thời sôi độnglịch sử, những năm từ 1943 đến năm 1945.

Nhạc nghiệp Lưu Hưu Phước đi đôi với THSV và Phong trào Tân Nhạc đã ghi được những bước tiến mạnh dạn, về sinh khí trong nhiều lọai sáng tác:

Những trang sử oai hùng được lật lại trong những bài Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Hội Nghị Diên Hồng, Nam Tiến, Hát Giang Trường Hận…Thanh niên được kích động mạnh mẽ trong những bài Tiếng Gọi Thanh Niên (trước tiên là Tiếng Gọi Sinh Viên) đã được dùng làm bản Quốc Thiều cho chánh thể Quốc Gia Miền nam, Trung Đoàn Lam Sơn, Suối Lồ Ồ, Nhớ Đạo Anh Hùng, Lên Đàn, Gọi Đoàn…Thiếu sinh được thúc dục trong những bài Gieo Ánh Sáng, Thiếu Sinh Hành Khúc, Mừng Xuân, Đoàn Hùng, Bạn Đường…Thiếu nữ cũng đựoc ca tụng trong bài Việt nữ gọi Đòan Thiếu Nữ Việt Nam…

Nhiều cản trạng sầu niệm của tâm hồn qua thời binh lửa cũng được giãi bày như Kinh Cầu Nguyện, Hồn Tử Sỹ, sau những bài mô tả đoàn quân ma, Đói Lạnh, hoặc trước những giờ ngưỡng vọng được ca khúc Khải Hoàn.

Qua lãnh vực thơ kịch, Lưu Hưu Phước đã phổ nhạc vào kịch thơ Tục Lụy của Khái Hưng, Thế Lữ và sáng tác tiểu ca kịch Con Thỏ Ngọc.

Nhiều khi anh cũng đem nhạc cảm chân thành, nhìn về điệu cổ truyền Việt Nam. Từ bản Ru Con, Thượng Lộ Tiểu Khúc đến Hương Giang Dạ Khúc, một tác phẩm Mỹ Thuật được xuất bản với nặc danh “Nhạc Sỹ Không Tên”. Phải chăng Lưu Hưu Phước cũng thành công cả trên phương diện “phong nhạc”?

Thời kỳ phong phú nhất về sáng tác của Lưu Hưu Phước là những năm từ 1942 đến 1945. Sau đó thời cuộc đã đưa anh đến những đoạn đường luân lạc mà thiếu sinh vẫn là nguồn cảm hứng và an ủi của anh trong việc sáng tác.

Đối với một “Lưu Hưu Phước tiền chiến” với những bài Thanh niên lịch sử nhiều thính giả và nhất là cựu sinh viên thời đó vẫn còn nuôi nhiều thiện cảm vì những kỷ niệm dạt dào tình thương dân tộc mà THSV đã gây nên bằng Tân Nhạc.


SINH HỌAT TÂN NHẠC TẠI MIỀN NAM (1941-1945)


Đầu hè năm 1942, Nhật chiếm Hải Phòng và thời cuộc Đông Dương ngày càng gây cấn. Văn nghệ cũng theo đà chung mà đượm những âu lo.

Tại đất Bắc, nhất là Hà Nội, kinh đô trí thức thời đó, Tân nhạc đang sinh hoạt mạnh. Nhưng tại Sàigòn, đất sinh sống của ca kịch Cải Lương với bản Vọng Cổ đã dứt khỏi nhịp 16 mà sang nhịp 32, như tại miền Trung, và riêng Huế, Đà Nẵng, Tân nhạc chỉ tiệm tiến, mặc dù phong trào khỏe và ban nhạc Bình Minh của Thanh Tịnh đã bắt đầu xuất hiện từ năm 1941.

Khi chúng tôi phiêu lưu đến đất Đồng Nai (và “mọc rễ” nơi đây đến giờ) và thử một cuộc vận động cho Tân nhạc thì có gặp hai người đã từng nân đở Tân nhạc là ông Nguyễn Văn Cổn, văn thi sỹ và cố nhạc sỹ Jean Tịnh, một cây vỹ cầm điêu luyện trong giới ca hát Cải lương. Cả hai đang làm việc tại Radio-Saigon, một cơ quan tư nhân đầu tiên phát thanh các “bài ta điệu tây” rồi đến bài Tân nhạc.

Hãng Radio-Saigon còn xuất bản một tạp chí cùng tên có đăng vài bài “âm nhạc cải cách” như Bông Cúc, nhạc Jean Tịnh, lời thơ Nguyễn văn Cổn (Radio-Saigon số 3 1-1-1943) rồi Thu Trên Đảo Kinh Châu (L.T.).

Đi tìm hãng dĩa Béka và gặp ông Tôn, nhà Keller, thì buổi gặp gỡ, sau khi nghe mấy bài Tân nhạc, ông khen hay và kết luận bằng câu “đồ đó chưa xài”. Tại hãng Asia Phim Ảnh (ông Định) như Asia dĩa hát (thầy Mạnh quá cố) cũng không thấy kết quả nào, chúng tôi sang gõ cửa hội Bắc Việt tương tế (hồi đó là Bắc Kỳ Ái Hữu).

Một buổi diễn thuyết được hội tổ chức tại nhà hội (hiện giờ là đường Hiền Vương) trong đề tài Câu Chuyện Âm Nhạc Mới với sự góp mặt của ban nhạc Phi Luật Tân của Julio và sự trình diễn hạ Uy Cầm của hai nhạc sỹ Scawell và Nguyễn Thông (1-12-1941) nhưng chỉ đem một tiếng vang nhỏ.

Quả thật lúc đó, Tân nhạc chưa gây được mảy may ảnh hưởng trong quần chúng miền Nam đang say mê Cải lương vào thời đại thịnh và trong rất nhiều gia đình quý‎‎ phái, nhạc Âu Tây là món tiêu khiển thường nhật nhưng âm nhạc mới là cái gì, họ chưa thèm lưu ‎ nếu không là khinh miệt.

Năm 1943, một năm trổi dậy của nhạc mới, tình thế bổng đổi hẳn.

Hội Nam Kỳ Đức Trí thể dục (SAMIPIC) mà hoạt động thường xuyên của tiểu ban mỹ thuật là âm nhạc, ca kịch mời bà Thái Thị Lang (được gọi hồi đó là bà Nguyễn Văn Tỵ) diễn tấu những nhạc khúc của bà về dương cầm như bài Lý Ngựa Ô, Bình Bán. Cố nhạc sĩ Võ Đức Thu trình bày dương cầm, một nhạc phẩm mới nhan đề Việt Nam tân âm điệu.

Tại vũ trường đã thấy truyền bá (và cả xuất bản) bài Tình Hận, nhạc Phạm Công Nhiêu và Antoine Đạm với lời Pháp hoa Việt (Ông Antoine Đạm đã từng tổ chức Minh tinh ca vũ đoàn lưu diễn khắp xứ)

Thời sôi động nhất năm 1943 là tuần lễ hoạt động của Tổng hội sinh viên tại Saigon với ca kịch Tục Lụy.

Trong một chương trình diễn xuất lộng lẫy chưa từng có cho Tân nhạc ca vũ kịch Tục Lụy với hàng chục ca khúc của Lưu Hữu Phước, hòa âm Lê Văn Kính, các nữ sinh trẻ đẹp (các cô Đào hát Lan, Đào hát Huệ, cô Thiều, cô Bình,…) bên những sinh viên tuấn tú của đất Đồng Nai, tổng hội sinh viên đã tạo nên một hứng sống không thể quên được cho khán giả Sài thành.

Trong buổi diễn còn giới thiệu những bài Ngày Xưa (Hoàng Phú), Một ra đi là không trở về của Lương Ngọc Châu v.v…

Sau kỳ hoạt động của tổng hội sinh viên tại Saigon, tờ tuần báo Thanh Niên nơi đây bắt đầu ủng hộ Tân nhạc.

Báo vui lòng dành chỗ cho một loạt bài nhận định về Phong trào nhạc mới của Lê Thương từ 25-3-43 đến 26-8-44.

Số Thanh Niên 40 ngày 30-9-44 còn đăng bản Tuyên ngôn về âm nhạc của 3 tác giả cùng ký tên: Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê, Nguyễn Tôn Hoàn.

Bản tuyên ngông xét lại những ý thức nhạc thuật cũ mới Đông Tây và nêu một tinh thần phục vụ cho âm nhạc thời tranh đấu cho quốc gia dân tộc và tuyên dương phương pháp cấu nhạc của nhóm.

Cũng trong số báo này còn đăng các bài Hội Nghị Diên Hồng, Thượng lộ tiểu khúc, Gieo ánh sáng, Hờn sông Gianh, Xếp bút nghiêng, và tiểu ca kịch Con thỏ ngọc.

Khắp nơi, nhạc sĩ Tân nhạc càng ngày càng đông, nhưng cô lập từng nhóm vì giao thông bế tắc.

Tại Huế, các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, Văn Giảng, Lê Quang Nhạc hoạt động hòa nhạc. Sau bài Dưới bóng cờ (N.V. Thương) ra đời, Ngô Ganh đã truyền bá nhiều bài nhạc thiếu nhi mới sáng tác.

Tại Đà Nẵng, nhóm nhạc sĩ La Hối, Phan Huỳnh Điểu, Dương Minh Ninh cũng đang chuẩn bị cho những sáng tác năm sắp tới.

Nơi khác, nhạc sĩ dạy đàn hoặc truyền bá Tân nhạc càng đông. Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước cho xuất bản Cánh hoa đào, Hồ xưa, Cô lái đò (T.O.) Vầng trăng sáng, v.v…(D.T.T.) Lớp dạy nhạc của Thiện Tơ, Trần Đình Khuê, Dzoãn Mẫn, D.T. Tước (Hà Nội) Nguyễn Thông, Lê Ngát, Dzoãn Ân (Saigon) được mở đó đây.

Từ cuối 1943, nhóm Đức Quỳnh, Vũ Chấn, Dzoãn Ân, v.v… cũng toan cùng người bỏ vốn lập gánh hát Kim Thư dùng toàn Tân nhạc, nhưng không thành. Còn nhiều người khác nữa, Canh Thân, Phạm Ngữ (Hải Phòng) cũng truyền bá Tân nhạc.

Một số bản nhạc phổ về Chèo cổ của Nguyễn Xuân Khoát như Phụng mệnh quân vương, Quyết chí tu thân, Lơ thơ tơ liễu, Trấn thủ lưu đồn (42-44) Sau đó nhạc sĩ quay sang phổ nhạc một số câu đồng dao: Con cò, con mèo trèo cây cao, Con voi, Thằng bờm.

Một số bản nhạc phổ vào thơ cũng xuất hiện trên báo chí hoặc lan truyền trong giới người ưa nhạc, như những bài Màu thời gian của Nguyễn Xuân Khoát phổ vào bài thơ của Đoàn Phú Tứ (Xuân Thu nhã tập xuân Nhâm Ngọ 1942) Cô hái mơ của Văn Cao (thơ Nguyễn Bính) các bài Lời kỹ nữ (thơ Xuân Diệu) Bông hoa rừng (thơ Thế Lữ) Tiếng thùy dương (thơ Ngậm ngùi của Huy Cận) Lời vũ nữ (thơ Nguyễn Hoàng Tư) Tiếng hát thu (theo thơ của Lưu Trọng Lư) v.v… của Lê Thương, bài Tống biệt (thơ Tản Đà) của Võ Đức Thu v.v…

Nhạc tình cảm loại mỹ thuật dần chiếm phần quan trọng nhất trong xuất bản. Nhiều tác giả mới đã xuất hiện. Phần đông đều sáng tác tuy hứng sống và theo nhiều thể tài khác nhau, lúc thì hướng về chiến đấu hay thanh niên của trào lưu đang nổi bật, lúc thì quay về lòng mình, về tuổi trẻ vẫn cho lòng mình trống trải.

Cũng trong giai đoạn 44-45, nhiều bài nhạc tôn giáo (giáo-nhạc) xuất hiện và được phổ biến. Bài A di đà Phật của Thẩm Oánh được giới thiệu nhân tuần lễ khánh thành chùa Quán sứ Hà Hội được trùng tu cuối năm 1942.

Tại Huế (theo nhạc sĩ Thẩm Oánh), ngành Phật-nhạc, một thời gian sau, phát triển điều hòa với các nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba (bài Sám hối…) và Văn Giảng đóng góp.

Bên ca khúc giáo đường Thiên chúa giáo thì sau một thời lâu dài truyền bá những bài vãn ca theo cung điệu la-tinh, thời sáng tác dồi dào có lẽ chỉ bắt đầu với Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh (Hà Nội) gồm những nhạc sĩ Hùng Lân, Tâm Bảo, Thiên Phụng, Hải Linh tích cực sáng tác hàng trăm bài tập hợp trong những tập Cung thánh những năm 1944-45.

Đáng lưu ý hơn nữa là việc khởi công hoạt động của Hội khuyến nhạc Bắc Việt thành lập khoảng 1944 do nhạc sĩ Nguyễn Văn Diệp làm hội trưởng. Hội được sự cộng tác của nhiều nhạc sư, nhạc sĩ hữu danh như ông Lưu Quang Duyệt, nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiếu, v.v… và nhiều nhân viên đội quân nhạc vệ binh Hà Nội.

Nhờ có lực lượng hùng dũng, điêu luyện nên cuối năng 1945, hội KNBV đã ghi được công đầu bằng một cuộc đại hòa tấu long trọng vào kỳ đại hội âm nhạc năm đó. Bài hòa tấu Tươi Sáng (?) đã được hoan nghênh nhiệt liệt.

Một thành công khác của hội khuyến nhạc và việc tổ chức Cuộc thi sáng tác tân nhạc đầu tiên tại Việt Nam vào cuối 44 đầu 45.

Nhiều bài nhạc được giải thưởng hoặc khuyến khích như hai hành khúc trầm hùng Việt Nam hùng tiến của Thẩm Oánh và Việt Nam minh châu trời đông của Hùng Lân cùng trùng giải đầu đồng hạn, và bài Trung thu đất Việt của Tống Ngọc Hạp. Bài này có phần phụ họa của ông Lưu Quang Duyệt cũng được giải thưởng.


VI. Cảnh đua nở Tân Nhạc các năm 1945-46


Khi tiếng súng bắt đầu nổ tại miền Nam (23-9-45) thì cuộc tản lạc còn kéo dài nhiều năm hay ít nữa một đôi năm cho những người trở về thành phố. Từ Phan Thiết trở vào tình trạng ấy là tình trạng chung.

Miền Bắc, từ Phan Thiết trở ra, tiếng súng chỉ nổ vào 1 năm sau (19-12-46). Thời gian ấy, tạm hưởng hòa bình trong nền độc lập tương đối, miền Bắc sinh hoạt văn nghệ mạnh và nhạc bản xuất hiện nhiều trong khi miền Nam đã im hơi lặng tiếng từ lâu.

Những cuộc giao thông hạn chế, từ cuối 1944 lập lại giữa các miền đem nhạc phẩm miền Bắc vào Nam thường là những bài hơi cũ, không đầy đủ. Đến hết năm 46 hay 47 khi tại miền Nam, tân nhạc bắt đầu sống dậy tại vài thành phố tạm ổn định thì đến phiên miền Bắc tản lạc, phải chờ đến 1948, mới có những cuộc hoạt động rải rác.

Tình trạng nói trên cắt nghĩa tại sao khó mà biết rõ những tác phẩm và tác giả Tân nhạc gọi là tiền chiến của thời xáo động từ 44 đến 46.

Không nắm được tài liệu trong tay, cũng không biết được phần đông các nhạc sĩ miền Bắc xuất hiện từ sau 1941, 42, vì (như đã nói trên, chúng tôi đã vô Nam từ giữa năm 1941) những điều nói lên về nhạc phẩm tiền chiến vào những năm chót chưa hoàn toàn đích xác được.

Vậy chỉ xin kể tên bài và tên tác giả nào mà, sau khi biết và thâu thập tài liệu về họ, chúng tôi còn giữ được sau những mất mát đáng tiếc do thời cuộc gây nên.

Đầu tiên phải kể Văn Cao, nhạc sĩ nổi bật từ 1945 với những tác phẩm Thiên Thai, Trương Chi, Buồn tàn thu, được ưa thích khắp nơi. Với tư cách chiến sĩ, Văn Cao sáng tác thật nhiều nhạc chiến đấu như nhạc mỹ thuật, ta chỉ cần nhắc tên ít bài như Tiến quân ca, Bắc Sơn, Chiến sĩ Việt Nam, Chiến sĩ hải quân, Chiến sĩ không quân, Thăng Long hành khúc.

Đỗ Nhuận, người chiến sĩ như Văn Cao, sáng tác cũng nhiều. Được mọi nơi truyền bá là các nhạc phẩm Nguyễn Trải Phi Khanh, Đoàn lữ nhạc, nhất là bài Nhớ chiến khu.

Phạm Duy, người du ca tiên khởi từ năm 1943 “người reo nhạc buồn của Văn Cao khắp chốn” (lời tặng của Văn Cao) đầu năm 46 sáng tác Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu rồi Xuất quân (46). Nhưng nhạc nghiệp Phạm Duy còn dài hàng trăm bài mỹ thuật đủ loại về sau.

Từng lai vãng miền Nam và được nhiều quen biết tại Saigon, có các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, tác giả Đêm Đông, Bướm hoa, Trên sông Hương, Leo núi Bạch Mã, giọng nhạc yêu kiều, tha thiết, Nguyễn Đình Phúc, tác giả Cô lái đò, Lời du tử… giọng nhạc vọng hoài tràn thi tưởng.

Miền Trung và riêng vùng Hội An, Đà Nẵng, một nhóm nhạc sĩ đồng thời xuất hiện, đem ra một phong khí nhạc đẹp sáng, gợn gió trùng dương như những bài Xuân và tuổi trẻ (La Hối) Mùa đông binh sĩ, Trầu cau (Phan Huỳnh Điểu) Trai đất Việt (Dương Minh Ninh) Trên sông Hương (Nguyễn Văn Thương và các bài nói trên). Sau đó ít lâu còn Ngọc Trai, tác giả Nhắn người chiến sĩ, Bến Hàn giang, Nhạc sĩ với giấc mơ.

Loại hành khúc chiến đấu thì thịnh hành hơn hết và được nhiều tác giả sáng tác suốt mấy năm liền. Dồn dập trong năm 45, 46, người ta còn nhớ những bài Việt Nam thống nhất (Đào sĩ Chu, hiện giờ là dược sĩ) Gò Đống Đa (Văn Cao) Giải phóng quân, Tuyên truyền xung phong (Phan Huỳnh Điểu) Độc lập muôn năm, Khóc cơ hàn (Nguyễn Văn Thương) Không làm nô lệ (Mộng Quỳnh) Hồn Việt Nam (Bùi Công Kỳ) Diệt phát xít (Nguyễn Đình Thi) Đoàn quân ma, Mai Pha (Lưu Hữu Phước) Việt Nam phục quốc (Thẩm Oánh) còn nhiều nữa, chưa tiện kể hết.

Loại nhạc mỹ thuật, hoặc thanh niên, nói chung những bài không ngụ ý gì hơn là miêu tả một ý sống, một cảm giác đối với cuộc đời, một cảnh sinh hoạt thông thường… thì rất nhiều.

Những “bức họa âm thanh” ấy chỉ cốt đẹp về thể chất và gợi cho người nghe một cảm-sống. Có những tên bài đọc không đã gợi nhiều thi-tưởng:

Dạ khúc của Mỹ Ca (một cố nhạc sĩ khả ái cùng Sầm Giang – Định Tường) Bến xuân, Suối mơ của Văn Cao, Bóng ai qua thềm của Văn Chung, Tiếng Xưa, Đêm tàn bến ngự của Dương Thiệu Tước, Cây đàn bỏ quên, Chinh phụ ca của Phạm Duy, Giáo đường im bóng của Thiện Tơ, Mơ hoa của Hoàng Giác, Gấm vàng của Dương Minh Ninh, Cô lái đò, xa cách muôn trùng của Thẩm Oánh, Con thuyền xa bến của Lưu Bách Thụ, Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát, v.v…, còn hàng trăm bài tương tự mà danh sách muốn kê khai phải nhiều trương giấy.

Phần đông nhạc sĩ tiền chiến, dầu vẫn nuôi một thành tâm phụng sự và sẵn sàng lăn mình vào chiến cuộc như một chiến sĩ văn nghệ khi cần, nhưng tâm hồn họ vẫn không thể quên lãng phần rung cảm cá nhân đưa đến chỗ sáng hóa tự do là nhạc phẩm mỹ thuật.

Nét chải chuốt trong nhạc phẩm loại này mang nhiều công phu tạo tác và dựng nhiều cá tính của tác giả nhất.

Phải chăng ngày nay nhạc tiền chiến còn được nhiều người ưa thích cũng nhờ ở nét độc sáng nhận thấy ngay trong mỗi tác phẩm, nhất là mỹ thuật ít thấy trong đó sự toa rập vào một khuôn của đề tài, của nhịp điệu như sự đổ xô khai thác những đề mục “hái ra tiền” để rồi đổ xô sang một đề mục khác.

Một điểm dễ thương nữa của giới tiền chiến là hầu hết đều nếm mùi túng bần về tiền, đau xót về tình hay nạn tai ít nhiều vì bài nhạc mình làm ra theo lý tưởng.

Không nghe nói đã có ai phản quốc trong họ hoặc đã trớ trêu bịp bợp như nhiều nhà chánh trị một thời và muôn thời. Hơi ngây thơ với cuộc sống, đầy cạm bẫy, khá dại dột với lòng nhạy cảm cả tin đời, họ dễ bị lôi cuốn vào những tai bay vạ gió cho được khổ để mà than thân bằng nhạc.

Họ cũng có những tị hiềm trẻ con, những giận dữ tức cười, vì chỗ chủ quan trên đường nghệ thuật. Mà họ phải chủ quan mới có vững tin về nghệ thuật.

Thời tiền chiến, nhất là những năm còn xa chiến tranh, lúc đó đất nước còn đủ ba “kỳ”, còn có chỗ cho họ phiêu lưu tìm hứng. Lúc đó chỉ có một đường yêu nước là nên độc lập cho quốc gia dân tộc.

Nhiều người đã chết trong thời binh lửa hoặc đang sống đó đây không bè bạn. Hát lên nhạc phẩm xanh mướt của tuổi thanh xuân, chắc sưởi ấm được tâm hồn họ ngoài xa cách…


LÊ THƯƠNG


*Cám ơn bạn Fa và LaBoheme ở trang nhà khanhly.net/phoxua gởi tặng và bỏ công ngồi gõ bài viết “Nhạc tiền chiến – Lời thuật của Lê Thương” do nhà xuất bản Kẻ Sĩ phát hành vào năm 1970.

(Nguồn: khanhly.net/phoxua)


Lê Thương




Nguồn:








LÊ THƯƠNG: Chúng ta đã biết gì về phẩm cách, tài năng của ông?




I. Tóm lược tiểu sử.
Từ khoảng 1933-1934 ở Việt Nam, sự ra đời những "Bài hát ta điệu tây" do các nghệ sĩ tiền phong như Tư Chơi (Huỳnh Hữu Trung) và Năm Châu (Nguyễn Thành Châu) đề xướng trên các gánh Trần Đắt và Phước Cương, gọi là “Âm nhạc cải cách” có thể được xem như là thời phôi thai của nền Tân nhạc Việt Nam.
Đến năm 1937, những bài hát này được phổ biến rộng rãi hơn. Tại đài phát thanh Radio Saigon như tại Hà Nội, Huế, đâu đâu cũng thấy ca hát theo giọng Tino Rossi, từ các rạp hát tiệm khiêu vũ, quán rượu, đến thư phòng, gác trọ. Nhiều hãng dĩa như Béka, đã bắt đầu tung ra thị trường những bài hát ấy do các cô Ái Liên và Kim Thoa ca.
Trong thế hệ những nhạc sĩ tiên phong của nền tân nhạc Việt như: Dương Thiệu Tước, Văn Chung, Lê Yên, Thẩm Oánh, Nguyễn Xuân Khoát, Dzoãn Mẫn, Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ... có một nhạc sĩ lấp lánh tài ba xuất hiện, đó là nhạc sĩ Lê Thương. Từ những nhạc phẩm Tiếng Đàn Âm Thầm (1934) và Trưng Vương (1937) sau đó là Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương Tử, Tiếng Đàn Đêm Khuya, Thu Trên Đảo Kinh Châu... tên tuổi nhạc sĩ Lê Thương đã rất quen thuộc, được dân chúng hết sức mến mộ. Và, sau đó trở nên sáng chói trên vòm trời âm nhạc nhờ trường ca Hòn vọng phu. Bài Hòn Vọng Phu I (còn có tên là Đoàn người ra đi) ra đời năm 1943. Bài Hòn Vọng Phu II (còn có tên Ai xuôi vạn lý) năm 1946) và Hòn Vọng Phu III (còn gọi là Người chinh phu về) viết năm 1947. Tên tuổi của nhạc sĩ Lê Thương vang dội từ bấy đến giờ (hơn 70 năm) và vẫn còn tiếp nối nhiều thế hệ nữa.
Bút danh Lê Thương là ông ghép họ của mẹ với tên con sông Thương, dòng sông của tuổi thơ đầy ắp kỷ niệm trong những dịp nghỉ hè ở một đồn điền tại Đồng Đăng của gia đình một người bạn học. Nơi đây ông cũng có dịp nhìn ngắm tượng đá vọng phu, nội dung của huyền thoại Tô Thị đã in vào lòng ông, để sau này thành một trong những tố chất làm nên trường ca Hòn Vọng Phu bất tử.
Nhạc sĩ Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914 tại Yên Viên, Hàm Long, Hà Nội, ông mồ côi mẹ từ năm chín tuổi, cha tục huyền, bốn anh em gồm ba trai một gái, được bà nội đem về nuôi. Bà nội là Trùm một họ đạo Thiên Chúa ở khu phố Hàm Long thời ấy nên Lê Thương được bà dưỡng dục trong môi trường của gia tộc sùng đạo. Kiến thức âm nhạc do năng khiếu bẩm sinh và hấp thụ trong môi trường nhà Dòng, chứ không được học ở một trường lớp nhạc lý nào khác. Khi tu ở nhà Dòng ông có tên là Bénilde (theo nhà thơ Huy Trâm) tu được một thời gian rồi hoàn tục, 1935 ông đi dạy học. Thuở còn đi học, Lê Thương rất tích cực tham gia các phong trào ca hát. Khoảng năm 1937, khi thuyên chuyển về dạy học ở Hải Phòng, ông đã cùng với Văn Cao, Hoàng Quý, Hoàng Phú, Phạm Ngữ, Canh Thân... cùng với một số ca sĩ thời bấy giờ thành lập nhóm Đồng Vọng để sáng tác và hát phụ diễn cho ban kịch của Thế Lữ mỗi khi ban kịch này có chương trình biểu diễn tại Hải Phòng. Năm 1941 Lê Thương vào Nam dạy học ở tỉnh Kiến Hòa và Sài Gòn. Ngày 23/9/1945 Pháp đánh Sài Gòn, ông chạy xuống Mỹ Tho, theo kháng chiến ở các vùng quê, bị Pháp ruồng đuổi, phải chạy trốn trở lại thành phố Mỹ Tho để rồi ngồi tù vào khoảng cuối 46 qua 47. Cuối 1947 ông được thả và trở về Sài Gòn.
Năm 1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên ra Hải Phòng diễn thuyết, Lê Thương đến dự và do thính giả yêu cầu, Lê Thương có trình bày một bản tân nhạc. Theo cách phân chia của Lê Thương trong bài viết “Nhạc Tiền Chiến- Lời thuật của Lê Thương” thì nền Âm Nhạc Mới (Tân Nhạc) của Việt Nam bắt đầu vào thời điểm này: “Năm xuất hiện chánh thức của phong trào Âm Nhạc Mới là tháng 3 năm 1938, khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên từ Saigon ra hô hào tại đất Bắc.” Ông giải thích them: “Ông Tuyên được thống đốc Nam Kỳ thời đó là Rivoal trợ cấp để đi diễn thuyết về âm nhạc cải cách tại Bắc Hà”, “Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ Học Hoài Đức, ông Tuyên còn trình bày nhạc mới tại rạp chớp bóng Palace một lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài “Bông Cúc Vàng”.
Đến đây báo Ngày Nay, một cơ quan ngôn luận rất được đọc thời bấy giờ, mới nhóm khởi việc hô hào và đăng tải những “tác phẩm đầu” của nền nhạc mới”, “Một cái dây bứt động cả rừng, người ta mới thấy những người yêu nhạc đăng và xuất bản những bài hát mới để dùng vào khiêu vũ hay để hòa nhạc vui vẻ.
Từ đầu 1939, một số bài nhạc của vài nhóm đã thấy treo bán tại các hiệu sách.”
(nguồn: khanhly.net/phoxua)
Tháng 9 năm 1938, trên Báo Phong Hóa do nhà văn Nhất Linh làm chủ bút đăng các nhạc phẩm như "Bông cúc vàng", "Kiếp hoa" của Nguyễn Văn Tuyên, "Bình minh" của Nguyễn Xuân Khoát, "Khúc yêu đương" của Thẩm Oánh... Và ca khúc "Bản đàn xuân" của Lê Thương. Bản Đàn Xuân là nhạc phẩm chính yếu giúp tên tuổi ông nổi trội lên. Ca từ và âm điệu của bài này đều mang tính trữ tình rất vừa phải, nhẹ nhàng, quyện với nhau nghe rất du dương thơ mộng. Âm hưởng ngũ cung mang tính hoài niệm rất hợp với cách vui xuân của dân Việt. Xin dẫn nguyên bài để độc giả lãm tường:
“Đàn xuân tủi lòng nẩy cung đợi mong/ Reo ai oán trong khuê phòng/ Tình tang tang tính tính tình/ Tình tang tang tính tính tình/ Lạnh lùng hơn gió ngoài đồng/ Ngồi se chỉ hồng/ Hỏi ai hiểu không/ Tiếng oanh muốn nhắn lời thay những tiếng ngân/ Như chiếc bóng người chưa dám nhắc chân/ Chờ tin thơ chim hoàng oanh đưa/ Còn xa bay trong áng sương mờ.
Đàn ca cảnh vườn/ Nhủ hoa thả hương/ Hương hoa luyến theo cung đàn/ Tình tang tang tính tính tình/Tình tang tang tính tính tình/ Để cùng bay khắp trần hoàn/ Lời hoa kể rằng/ nhiều đêm rạng trăng/ Thấy ai ướm má hồng ru những tiếng êm/Hoa cũng muốn trời cho có trái tim/ Để yêu riêng nhân tình hoa/ Và xuân tươi, tươi đến muôn mùa
Đàn bao tuổi rồi, đàn ca chẳng ngơi/ Bao giây đứt trong quãng đời/ Tình tang tang tính tính tình/ Tình tang tang tính tính tình/ Của tình duyên số mạng người/ Đàn ca nửa lời/ Để cung nhẹ lơi/ Có dây nắn tiếng cười dây nắn tiếng than/ Dây nắn tiếng trầm dây nắn tiếng vang/ Tuỳ theo dây tơ tình tơ duyên/ Và theo dây lưu luyến u huyền.” (http://lyric.tkaraoke.com/10650/ban_dan_xuan.html)
Lê Thương cũng là nhạc sĩ đi tiên phong trong thể loại “truyện ca” như Nàng Hà Tiên (1940) rồi được tiếp nối với Hoa Thủy Tiên, Lịch Sử Loài Người, Truyền Kỳ Lịch Sử... Thời kỳ kháng chiến, ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng Lòng Mẹ Việt Nam hay Bà Tư Bán Hàng nói về một bà mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những lý do Lê Thương bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng Phạm Duy và Trần Văn Trạch năm 1951.

Trần Văn Khê, Trần Văn Trạch và Lê Thương năm 1949
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Th%C6%B0%C6%A1ng#/media/T%E1%BA%ADp_tin:TVKhe-TVTrach-LThuong.jpg
Từ khi vào miền Nam năm 1941, Lê Thương phổ một số bài thơ như Lời kỹ nữ (thơ Xuân Diệu), Lời vũ nữ (thơ Nguyễn Hoàng Tư), Bông hoa rừng (thơ Thế Lữ), Tiếng thùy dương (tức Ngậm ngùi thơ Huy Cận) và Tiếng thu (thơ Lưu Trọng Lư).
Lê Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc. Ông thuộc những người đầu tiên viết truyện ca và đã để lại những bản truyện ca hay nhất như Nàng Hà Tiên, Lịch sử loài người, Hoa thủy tiên... Đặc biệt hơn cả là bộ ba Hòn vọng phu, được xem như một trong những tác phẩm lớn nhất của tân nhạc Việt Nam.
Ngoài ra, Lê Thương cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết nhạc hài hước với những bản Hoà Bình 48 (phê phán sự mỵ dân đội lốt hoà bình), Làng Báo Sài Gòn” (đả kích báo giới bồi bút, bất tài và ham tiền), Đốt Hay Không Đốt (châm biếm máu Hoạn Thư), Liên Hiệp Quốc… Những bản này được nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn nhiều lần vào thập niên 1940. Lê Thương còn đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn như Nhớ Lào (nhạcLào), Bông hoa dại tức Ô Đuồng Chăm Pá (nhạc Lào), Lòng trẻ trai (nhạc Hoa Kỳ), Hoa anh đào tức Sakura (cổ nhạc Nhật Bản), Màn Brúc đánh giặc (dân ca Pháp)...
Lê Thương cùng Nguyễn Xuân Khoát, được xem như những nhạc sĩ mở đầu của dòng nhạc dành cho thiếu nhi với những bản nhạc cho tuổi thơ: Cô bán bánh, Con mèo trèo cây cau, Thằng bé tí non, Ông Nhang bà Nhang, Truyền kỳ Việt sử, Học sinh hành khúc... Thời VNCH ông cùng nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh các truyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng. Nổi tiếng hơn cả là bài Thằng Cuội:
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ
Lặng yên ta nói Cuội nghe
"Ở cung trăng mãi làm chỉ"
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mợ
Một bản nhạc lời ca ngây thơ và ngộ nghĩnh:
Ông Ninh Ông Nang:
Ông Nỉnh ông Ninh, ông ra đầu đình
Ông gặp ông Nảng ông Nang
Ông Nảng ông Nang, ông ra đầu làng
Ông gặp ông Nỉnh ông Ninh
Nang Ninh đầu đình
Và Ninh Nang đầu làng...
Một bản nhạc rất phổ thông ở các trường trung tiểu học là bài Học Sinh Hành Khúc:
Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao.
Lúc khắp quốc dân tranh đấu hy sinh cho nền độc lập.
Học sinh nề chi tuổi xanh trong lúc phấn đấu.
Đem hết can tràng của người Việt Nam tiến lên!


Học Sinh là mầm sống của ngày mai.
Nung đúc tâm hồn để nối chí lớn.
Theo các thanh niên sống vì giống nòi.
Liều thân vì nước, vì dân mà thôi…
Ông dạy sử địa tại một số trường trung học tại Sài Gòn và trở thành công chức, làm việc tại Trung Tâm Học Liệu, bộ Quốc Gia Gíao Dục, của Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời dạy nhạc sử tại trường Quôc Gia âm Nhạc Và Kịch Nghệ Sài Gòn. Ngoài âm nhạc, Lê Thương còn gia nhập vào ban kịch của Thế Lữ năm 1930, và ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch ở Sài Gòn. Lê Thương đã sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, và viết nhạc phim cho hảng phim Mỹ Vân. Ông còn tham gia đóng phim Đất Khổ, trong vai vị Linh Mục. Phim của đạo diễn Hà Thúc Cần quay từ 1971-1973, Trịnh Công Sơn thủ vai chính.
Lê Thương lập gia đình cùng một phụ nữ học ở Pháp về và họ có 9 người con. Ông cũng có hai người tình, người tình đầu là một cô hát ả đào nổi tiếng ở Hà Nội. Người thứ hai là một vũ nữ tại Chợ Vườn Chuối Sài Gòn. Ông mất vào ngày 17-9-1996 thọ 82 tuổi.


II. Ba bài Hòn Vọng Phu

Nhạc sĩ Lê Thương (Hình chụp năm 1948)
Trong sự nghiệp sáng tác của Lê Thương, vượt hơn trên tất cả là 3 bài Hòn Vọng Phu được giới âm nhạc cho rằng về nhạc thuật, các trường ca nổi tiếng của Việt Nam như Trường ca Con Đường Cái Quan (Phạm Duy), Trường ca Sông Lô (Văn Cao), Khúc Hát Sông Lô (Đỗ Nhuận) và Trường ca Hội Trùng Dương (Phạm Đình Chương) khó sánh bằng. Ba bài Hòn Vọng Phu có thể nói là một bi hùng ca được viết rất đa dạng về tiết tấu, cung bậc, âm giai. Ông khéo léo phối họp một cách rất nhuần nhuyễn giữa thang âm 7 bậc của phương tây và ngũ cung của Việt Nam để diễn tả một câu chuyện dân gian với hình ảnh người đàn bà bế con chờ chồng với tấc lòng son sắt để rồi hóa đá. Ông tâm sự: “Lý do khác thôi thúc tôi viết Hòn Vọng Phu là do cảm mến thân phận người chinh phụ qua Chinh Phụ Ngâm khúc nổi tiếng... Không có gì đẹp hơn bằng cách chuyển cuộc ra đi của người chồng vì mối tình ngang trái thành cuộc ra đi vì đại nghĩa, và hình ảnh người đàn bà cũng trở nên hợp hơn, đúng hơn với người chinh phụ! Người đàn bà luôn luôn chịu thiệt thòi. Cần phải trả lại cho họ cái chức phận thiêng liêng, cao quý ” (theo Vương Trùng Dương)
Ngôn ngữ trong Hòn Vọng Phu là thứ ngôn ngữ được thăng hoa đầy tính thẩm mỹ. Lời hát quyện chặt với nốt nhạc, ăn chắt với tiết tấu trên từng quãng nhạc; nhịp điệu khi nhanh, khi chậm, khi hiền hòa, khi quặn đau thắt lòng, khi hùng tráng, khi dồn dập để diễn tả chính xác đến mức tài tình từng nội dung của từng đoạn ca từ


*- Hòn Vọng Phu 1: Đoàn người ra đi (Hương Mộc Lan xuất bản lần đầu vào năm 1946)


- Hoàn cảnh và nguồn cơn sáng tác:
Theo lời kể của chính Lê Thương trong thư gửi cho nữ Bác sĩ Phương Hương năm 1987 (người từng giúp đỡ ông qua cách quà biếu gửi về từ Mỹ) chúng ta thấy được hòan cảnh sáng tác Hòn Vọng Phu 1 là lúc ông đi vào Nam, ngang qua tỉnh Phú Yên bị thu hút bởi tượng Vọng phu cùng quang cảnh non nước “man rợ” (sic) ở vùng này để rồi ông hình thành “lệnh vua hành quân trống vang dồn…” Có thể nói rằng hình ảnh tượng đá Vọng Phu ở Phú Yên là hình ảnh chính, động lực chính ảnh hưởng mạnh nhất trong trường ca Hòn Vọng Phu so với những tượng đá Vọng phu ở nhiều nơi trên nước Việt nam. Ông giải thích: “Núi Vọng phu ở Phú Yên tại một vùng địa lý hơi man rợ, thâm u là đá đẹp nhất, xem từ biển nhìn vào làm cho tôi cảm mến.
… Nhớ lại năm 1470 đầu niên hiệu Hồng Đức tại vùng này có "thạch bi sơn" làm biên giới Việt Nam và Chiêm Thành còn sót lại... Cảnh trí đường đèo quanh co, cây cỏ um tùm man rợ làm cho dân gian ghi tạc mấy câu vè siêu thực đầy tính bí hiểm: “Mưa Đồng Cộ, Gió Tu Hoa, Cọp ổ Gà, Ma Hòn Lớn”
Lời sơ giải của dân gian kể là: Trên một cao nguyên nhỏ vùng đèo, thường có mây dày đặc chỉ cần gọi nhau trên đó là có mưa rớt xuống (còn nhiều di tích dân cổ Chiêm Thành trên đó)
Đường lên ngọn cao nơi đó, sườn núi bị soi mòn, gió biển thổi qua các khúc quanh co, nghe như tiếng hú âm u. Đó là Mưa Đồng Cộ, gió Tu Hoa…”
“Còn Hòn Lớn thì nghe như một cái đảo âm u ngang vùng Phan Rang gì đó, có rất nhiều “ma hồi” đêm cứ lập lòe nhát các ngư phủ ghé thuyền tránh gió đến đó qua đêm!
Quang cảnh hú vía của thiên nhiên, trộn vào ảnh cảm địa lịch qua từng bước đường nam tiến vẫn ám ảnh tâm hồn tôi, một cậu trai giàu tưởng tượng để lúc sống bên bờ kinh Chẹc Xậy (tỉnh Bến Tre thân mến) phải thể hiện thành bài Hòn Vọng Phu 1.
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn...”
Đó là những hình ảnh tác động trực tiếp đến ông, và, phần sâu xa nhất trong tâm thức ông là tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn. Ông đã trả lời cho tác giả Lê Phương Chi như sau: “Đồng thời, một xúc tác sâu xa trong tâm hồn tôi là ảnh hưởng những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm, đã in sâu vào tiềm thức khi còn ngồi ghế nhà trường:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Tất cả những ấn tượng đó nằm sâu trong tâm thức đã từ lâu thôi thúc tôi thai nghén tạo nên ba tác phẩm Trường ca nhạc cảnh Hòn Vọng Phu.”
Và: “Cũng xin thú thật là tôi còn chịu ảnh hưởng sâu xa trong Chinh Phụ Ngâm, cụ thể là:
Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt.
Thì trong Hòn Vọng Phu I tôi biến thành:
Lệnh vua, hành quân, trống ... kêu dồn...
Ngoài sườn non cuối thôn...
Và câu:
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San,
vào nhạc phẩm tôi đã biến nó thành:
Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn.
Với câu:
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba ...
tôi biến nó thành:
Bến Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng.
Bến Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng ...
Có thể nói, những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm đã in sâu vào tiềm thức những ngày tôi còn học ở nhà trường. Rồi với những ấn tượng thắng tích đá Vọng Phu qua truyền thuyết thiếu phụ ôm con mòn mỏi trông chồng đến nỗi hóa đá, đã hằn sâu trong tâm tư tôi, nay gặp ngoại cảnh núi sông hùng vĩ hiện ra trước mắt, đó là môi trường thuận lợi tác thành những giai điệu trong nhạc phẩm Hòn Vọng Phu I.”
Vậy là Hòn Vọng Phu 1 được ra đời năm 1943 tại Bến Tre, nơi ông dạy học.
Nội Dung:
Nhạc sĩ Lê Thương muốn xây dựng hình ảnh người chinh phu, chinh phụ tuyệt đep, là biểu tượng cho sự hi sinh nên trong Hòn Vọng Phu ông đã bỏ đi những chi tiết không phù họp với truyền thống phương Đông. Ông chỉ xây dựng hình ảnh hào hùng của người ra đi vì chinh chiến và sự son sắt chờ chồng của người chinh phụ. Ông nói: “Tất cả luân lý đông phương hầu như căn cứ trên lẽ tiết trung của Con Người các thế hệ, các giai cấp trong một nhân sinh quan sâu đậm Tình và Nghĩa.
Người Mẹ ôm con đợi chồng rồi hóa đá quả là một truyện ly kỳ tuyệt đẹp. Thành đá đây là thành “chứng quả tình thâm, tình vợ chồng chưa toại lòng nhau đã cách biệt. Tình cha con chưa từng ôm ấp đã chia ly, tình đồng loại chưa sum vầy đã tan rã.” (Thư gửi P.H.)
Ở Hòn Vọng Phu 1 có 4 câu sau đây mà tôi đồ rằng đó chính là cái “Key” để dẫn dắt hành trình tâm lý cho cả bài trường ca:
“Chiêng trống khua trăm hồi,
ngần ngại trên núi đồi,
rồi dậy vang khắp nơi
thắm bao niềm chia phôi…”
Cuộc xuất binh đấy thanh thế, trống đánh chiêng khua, cờ bay phất phới, nhưng, trước khi âm thanh ấy bừng bừng sấm dậy vang dội khắp nơi thì nó lại có một khoảng thời gian “ngần ngại” như một dấu lặng. Lê Thương đã hết sức tinh tế, tả chân cái tình huống vừa hùng tráng của phút ra quân, vừa nỗi lòng bần dùng trước cảnh chia ly không hẹn ngày trở lại. “thắm bao niềm chia phôi” của kẻ chinh phu và người chinh phụ. Bài hát viết bằng điệu Nhịp đi, (có thể dùng điệu Fox) nhanh, hùng tráng, thuộc ton Re thứ; từng cụm âm thanh liên tục, dồn dập, xô đẩy nhau diễn tả thật trọn vẹn cái khí thế trong lúc xuất binh… đến phần kết thúc bằng 2 câu: “Người tung hoành bên núi xa xăm, Người mong chồng còn đứng muôn năm” thì nhạc chậm lại và dứt bằng nốt re âm vang kéo dài. Âm vọng của tiếng “muôn năm” trầm hùng tỏa lan bất tận khiến người nghe lòng đầy bồi hồi thương cảm.


*- Hòn Vọng Phu 2: Ai xuôi vạn lí (Hương Nam xuất bản vào tháng 10 năm 1946)


- Hoàn cảnh sáng tác:
Trong thư gửi bác sĩ Phương Hương , nhạc sĩ Lê Thương cho biết: “Bài Ai xuôi vạn lý ( Hòn Vọng Phu 2) là cuối năm 1945 sang 46, tôi theo kháng chiến tỉnh Mỹ Tho đi từ Cai Lậy, thuộc Nhiêu, Vĩnh Kim qua sông, đi với các em phần đông là học sinh Petrus Ký mà tôi là trưởng đoàn Ca Nhạc với những bài thanh niên lịch sử và riêng Hòn Vọng Phu 1 nghêu ngao qua các làng dừa từ Thành Triệu, An Khánh, Phú An Hòa, Quới Sơn, Giao Long, Giao Hòa, cho đến Dòng Sầm, gần Bình Đại...
Bỗng Tây đem tàu tấn công 3 Cù Lao, Minh, Bảo, An Hóa. Tiếng Canon 75 bắn tủa vào các bờ sông có dừa, máy bay phun lửa “spitfire” từ trời bắn xuống. Đoàn phải tan rã các em trong đoàn chạy hầu hết về gia đình, chỉ còn tôi và người bạn Ánh (nay đã chết) trốn được vào vùng lá Dòng Sầm cách Bình Đại 4 cây số.
Chúng tôi được vài gia đình người Cao Đài làm đầu tộc đạo nơi đó thương xót giấu trong bìa lá và giúp lương thực sống trong sự khủng khiếp hằng ngày vì tên Pháp lai Leroy và bọn lính Partisans đầu đỏ xục xạo làng xóm gieo khủng khiếp. Lúc đầu chúng tôi còn trốn vào sâu trong ruộng, đem gạo cơm đi ăn tối về nằm trong kho lúa. Sau vì còn thấy nguy hiểm nên anh tư- bà con với ông đầu tộc đạo dẫn chúng tôi vào bìa lá dòng Sầm dày 4,5 trăm thước sát cửa biển Bình Đại.
Tại nơi yên tĩnh này chúng tôi được sống bên bờ rạch dày đặt lá dừa nước! May mà còn chiếc mùng “Tuin”(tulle) để tránh muỗi, đêm đêm nghe dế than, cá thòi lòi đập đuôi lạch bạch dưới sình và tâm hồn lo âu vô vọng. Tôi hay nghĩ đến sự chết thê thảm cô đơn và lẩn vẩn trong trí óc sự tiếc nuối mênh man như lòng người chinh phụ trong giang san Đèo Cả.
“Thôi đứng đợi làm chi. Thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly.”
Nhờ cây viết máy Kao lo khô mực và nước rạch nhỏ vào cho ướt lại, tôi viết mấy ô nhịp trên.
Tâm hồn rạo rực trong mỗi buổi chiều tà làm bốc lên những tiếng mới của bài Hòn Vọng Phu 2, tức Ai xuôi vạn lý, được ghi vội vã lộn xộn nhưng cuồng nhiệt như tâm hồn tôi ghì lấy sự sống.”
Qua lời tỏ bày của Lê Thương, chúng ta thấy được nhờ sự gian nan, thiếu thốn mà ông bật lên những cung nhạc tài hoa trong Hòn Vọng Phu 2. Những lần chạy trốn hiểm nguy, cái chết cận kề, cái chết luôn lảng vảng trước mặt, bằng sự cảm nhận thiết tha với sự sống, ông đem hòa nhập những điều này vào nỗi lòng chinh phụ.
-Nội Dung
Hòn Vọng Phu 2 hay cả 3 bài đều là những bản Ballad. “Ballad là một bài ca có cấu trúc tự nhiên đơn giản, thường ở hình thức kể chuyện hay diễn tả. Một ballad thường có một vài đoạn có cấu trúc tương tự và có thể có một đoạn điệp hoặc không. Nói cách khác, ballad là một câu chuyện, thường là một bài tường thuật hoặc bài thơ, được ngâm hoặc hát lên. Bất cứ hình thức chuyện nào cũng có thể được kể như là một ballad, chẳng hạn như những miêu tả mang tính lịch sử hay chuyện thần tiên theo hình thức đoạn. Nó thường rút gọn lại, luân phiên giữa các dòng theo nhịp 3 và 4 (nhịp ballad) và các vần lặp lại đơn giản, thường kèm theo một đoạn điệp. Nếu ballad dựa trên đề tài chính trị hay tôn giáo thì có thể là một bài tụng ca (hymn).” (nhaccodien.info)
Phần đầu ông viết theo thể điệu Espressivo để người hát diễn tả cảm xúc của mình được tự do thoải mái. Chính vì vậy 2 câu:
“Khi tướng quân qua đồi, kéo quân, quân theo cờ, Đoàn cỏ cây hãy còn trẻ thơ, cho đến bây giờ đã thành / đoàn cổ thụ già” nhờ một dấu nghỉ giữa 2 chữ “thành” và “đoàn” nó đã làm cho ta cảm nhận được cái dài đằng đẵng của thời gian. Từ lúc xuất chinh, cỏ cây chỉ là thơ trẻ mà giờ đây chao ôi đã trở thành một khu rừng cổ thụ!
Bài Vọng Phu 2 là bài đặt biệt nhất trong 3 bài. Đặc biệt vì 2 bài kia chỉ thuần là kể chuyện; riêng bài này Lê Thương, trong lúc xuất thần ông thấy mình đang là chứng nhân của cảnh người vọng phu cương quyết trơ gan cùng phong nguyệt, đứng lặng nhìn về phía trời xa, một dạ đợi chồng. Ông không còn đóng vai kể chuyện nữa mà nhập vào câu chuyện, hiện diện trong cổ tích để nói lên nỗi lòng thương cảm của mình với nàng chinh phụ. Ông năn nỉ người vọng phu, xin nàng hãy thắp nén hương cho chàng rồi hãy về đi. Về, để cái xuân sẽ tàn mà thời gian sẽ không bao giờ đúng hẹn. “Có ai xuôi vạn lý nhắn đôi câu giúp nàng, Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng.Thôi đứng đợi làm chi, thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly…”
Sự thương cảm đã được đẩy lên cao độ, ông quý yêu nàng, khâm phục nàng bằng tất cả tấm lòng nên tôn xưng nàng là “Bà”. Chữ bà được trịnh trọng viết hoa trong bản nhạc. Bà là danh xưng tôn quý dành cho những người phụ nữ có công đức, tài ba giúp đỡ dân lành. Được thờ tự trong am miếu. Lê Thương, với tấm lòng đạo đức, nhân hậu đã tôn vinh người vọng phu như thế!
Một chi tiết mà có lẽ ít người để ý đến là “Trời chuyển mưa trong tiết tháng ba, Suốt năm nước nguồn tuôn đổ xuống "Bà", hình hài người bế con nước chảy chan hòa”. Dân gian có câu “Tháng Ba bà già đi biển” ý nói thời tiết vào tháng Ba ở vùng biển rất là tốt, biển êm sóng lặng, không hề có mưa giông gió bão. Thế nhưng lòng son sắt của người đàn bà chờ chồng kia đã động đến thiên đình, dù theo thông lệ không cho mưa vào tháng ba, trời làm mưa như thác đổ, để giúp nàng quên đi cái nắng đổ lửa, cái gió cát xốn xang lòng mắt. Và cũng để “Thấm vào đến tận tâm hồn đứa con”.


Ở bài này sự nhân cách hóa của nhạc sĩ Lê Thương đáng xưng tụng là “xuất quỷ nhập thần”. Nhìn tượng vọng phu đứng trên dãy Trường Sơn, ông lãng mạn giải thích, núi non thương tình nên kéo nhau đến kính cẩn quì trước mặt nàng tung hô tình yêu bất diệt, và, từ đấy, núi non không đi nữa cùng ở lại với nàng, trở thành dãy Trường sơn của nước Việt. “Nên núi non thương tình, kéo nhau đi thăm nàng Nằm thành Trường Sơn vạn lý xuyên nước Nam.” Ô! Lê Thương đã sinh đẻ ra dãy Trường Sơn của chúng ta một cách thơ mộng và đáng yêu như vậy!


Còn nữa. Nhiều đồi núi khác cũng động lòng, vội vã ra đi đến tận ngàn khơi để tìm giùm nàng, xem chàng về hay chưa. Và, vì chưa có câu trả lời nên quyết tâm đứng đấy, chết đi, thoát thai thành những hòn đảo rải rác nhiều nơi trên biển cả. “Nhiều đồi rủ nhau kéo thành đảo xa, ra tới tận khơi ngàn...Xem chàng về hay chưa, về hay chưa?”
Cũng vậy, sức liên tưởng, tưởng tượng của Lê Thương thăng hoa đến nỗi ông biến dòng sông Cửu Long vì muốn đem tin đến nàng nhưng bị núi non dựng chắn, đành phải nằm kêu ca dưới miệt đồng bằng, đợi chờ nhiều ngàn năm nữa “Chín con long thật lớn, muốn đem tin tới nàng, Núi ngăn không được xuống, chúng kêu ca dưới ngàn.” Mới mong tới gặp được người vọng phu. Ôi! núi, sông, chim chóc, cây cỏ đều động lòng trước tình yêu của nàng chinh phụ, đều liều thân để giúp nàng!
Cũng trong bài 2 có 4 câu sau đây, tưởng cũng nên lạm bàn đôi chút:
“Có con chim nhỏ bé
Dám ca câu sấm thề
Cuối thu năm Mậu Tý
Tướng quân đem kiếm về…”
Tại sao “Cuối thu năm Mậu Tý”?
Về cái thời gian này, tôi cố công tra cứu rất nhiều nhưng chưa thấy có lời giải đáp, nên mạo muội lý giải theo thiển kiến của mình, xin quý bậc cao minh chỉ giáo, thêm.
Trong sấm Trạng Trình và các sấm ký khác không hề tiên tri có một năm Mậu Tý nào có xảy ra biến đổi cho Việt Nam. (Danh xưng Việt Nam để chỉ nước ta được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói đến từ lúc ông sinh tiền (1491-1585) như: "Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh" (Vịnh về non sông đất nước Việt Nam; Tiền trình vĩ đại quân tu ký/ Thùy thị phương danh trọng Việt Nam" (Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ/ Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam?)… (theo Hải Thanh/Pháp Luật Việt Nam). Vậy, khi Lê Thương nói có con chim nhỏ bé, dám ca câu sấm thề, cuối thu năm Mậu Tý, tướng quân đem kiếm về. Tôi đồ rằng vì muốn cho người vọng phu tin tưởng ngày về của chồng đã đến, không còn mờ mịt xa nữa nên ông bèn hô lên có câu sấm! (đây là trận tâm lý chiến của Lê Thương, biết đàn bà thường hay tin tưởng sự siêu nhiên)mà ông tự đặt ra (xin để ý đến chữ “dám”) và “bán cái” qua cho “con chim nhỏ bé” để an ủi nàng.
Nhưng tại sao Mậu Tý mà không là một năm Dần, Mẹo nào đó? Chúng ta hãy quay về thời gian sáng tác bài Hòn Vọng Phu 2. Lê Thương viết bài này vào cuối 1945 sang đến 1946, năm 1946 là năm Bính Tuất, như vậy ông muốn bảo với người vọng phu thời gian ngắn nhất là 2 năm nữa, là năm Mậu Tý (1948). Nhưng sao không là năm Bính Tuất (1946) hay Đinh Hợi (1947) cho gần hơn? Xin thưa, vì hai năm này không đúng theo nốt nhạc!
Vậy thì chỉ có năm Mậu Tý là năm gần nhất và khả thi trong âm nhạc để tướng quân đem kiếm về!


*- Hòn Vọng Phu 3: Người chinh phu về (Dân Tộc xuất bản lần đầu vào năm 1949)


-
- Hoàn cảnh sáng tác:
Thời điểm năm 1947 là lúc nhạc sĩ Lê Thương trở về lại Sài Gòn, cũng là thời gian ông viết bài Hòn Vọng Phu 3 để hoàn tất một trường ca bất hủ. Ông nói về HVP3 như sau: “Người Chinh Phu về (HVP3) với tình nghĩa vợ chồng đổi sang tình nghĩa non sông, nhìn đứa con để trao cho nó thanh kiếm sơn hà. “Trao nó đi gây lại cơ đồ”. Linh tính làm người Việt Nam giữa thời khói lửa vẫn đinh ninh là Hạnh Phúc vẫn là mục tiêu không kỳ hạn mà dân tộc phải tìm lâu dài cho đến khi quân bình được những cảm tình trái ngược mà lẽ đời sôi động của cuối thế kỷ đã lôi cuốn bao lớp người vào lãng phí sinh mạng như vào hận tủi bi thiết của nhân sử nòi Việt.”
Năm 1947 này, bài HVP 1 và 2 được dân chúng đón nhận thật nhiệt liệt. Tất cả những niềm vui này đã làm Lê Thương phấn chấn tinh thần thêm lên trong bài HVP 3 với niềm vui trở về.
- Nội Dung
Trong phần mở đầu, Lê Thương dùng điệu Largo (chậm và trang nghiêm) để diễn tả sự xao xuyến, bồi hồi của người chinh phu trở về vì liên tưởng đến vợ mình vẫn đang trông ngóng. Tiếp theo nhạc đổi qua điệu To di Marcia (Tempo I Marcia) tức nhip điệu hành khúc. Đoạn nhạc này thật dồn dập, quãng trước thôi thúc đuổi quãng sau. Không cần phải có hòa âm, phối khí gì cả, chỉ cần khi xướng âm nó chúng ta vẫn nghe, thấy được tiếng vó câu dồn dập, tiếng ngựa hí vang trời của đoàn quân trở về trong niềm vui chiến thằng: Đường chiều/ mịt mù/ cát bay/ tỏa bước ngưa phi…
Điệu nhạc cứ dập dồn như thế để diễn tả hết đoạn tả cảnh người chinh phu bắt đầu hăng hái, phi ngựa trở về. Đến đoạn tả cảnh đường xa, qua biết bao núi rừng, sông ngòi, thôn xóm… thì ông dùng điệu Ritardando để chậm lại, diễn tả mối thương tâm của người chinh phụ khi phải chứng kiến cảnh hoang tàn của mộ bia của đình làng như một sử tích:
“…Từ bóng cây ngôi mộ bên đường
Từ mái tranh bên đình trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thương vang động trong lòng…”
Đến đây, Lê Thương lại nẩy sinh một ý kiến mới, một ý kiến tích cự hơn trong câu chuyện có nhiều phần tiêu cực là hướng đến sự thiêng liêng cao cả của truyền thống chống ngoại xâm, khác đi huyền thoại nhân gian kể về sự tích Hòn Vọng Phu. Trong truyện kể khi người chinh phu trở về, người vợ Tô Thị bồng con lên núi chờ chàng và đã hóa đá. Nhưng Lê Thương vì muốn nêu cao tinh thần yêu nước, cương quyết chống ngoại xâm cho đến cùng, từ thế hệ này sang thế hệ khác của dân tộc Việt Nam. Thanh gươm báu là tượng trưng cho lòng yêu nước được kế thừa nên ông đã kể lại chuyện rằng: Nàng chinh phụ nhắn, xin lỗi chồng phải nhờ người khác trông nom đứa con, để mình nàng đến tận mỏm núi cao mà vời vợi trông chàng “Hỡi người chinh phu, anh hùng non sông
Trao người con quý cho người trông nom,
Thiếp xin lỗi thề”.
Nên chi, khi người chồng trở về: “Thấy đứa con xanh ngắt nỗi hùng còn trong đó Cầm chiếc gươm chinh phụ di truyền Chàng bế con trao lại gươm bền Rồi chỉ vào sơn hà biến cố Trao nó đi gây lại cơ đồ”.
Vâng, ngọn đuốc thiêng yêu nước phải được di truyền thắp sáng.
*
Trường ca Hòn Vọng Phu quả thật xứng đáng là một trường ca trác tuyệt. Đã hơn 70 năm qua Hòn Vọng Phu luôn luôn được trình diễn từ những ca sĩ lừng danh như Thái Thanh, Duy Khánh, Hoàng Oanh, Thanh Tuyền, Hồng Vân… cho đến các ca sĩ nổi tiếng hiện nay. Những ban họp ca chuyên nghiệp cho đến nghiệp dư, các trường học. (Người viết bài này cũng từng hân hạnh đứng trong ban họp ca trường học của mình để tập hát HVP).
Những nhạc sĩ lớn như Phạm Duy đã viết trong hồi ký rằng: “Trong số những bạn đồng nghiệp, tôi yêu nhất nhạc sĩ Lê Thương…” và, "…Tôi cũng cho rằng trong làng tân nhạc, Lê Thương là người trí thức nhất. Mỗi bài nhạc, mỗi giai đoạn nhạc của anh đều chứa đựng thông điệp…” Cũng trong Hồi ký, Tập 3, chương 2, Nhạc sĩ Phạm Duy sau khi nói về bài Hòa Bình 48 của Lê Thương sự châm biếm là khi đó “người ta lấy hình ảnh con chim bồ câu ngậm chiếc lá trông rất khỏe mạnh. Nhưng anh Lê Thương của chúng ta cho rằng con chim đó đang bị đau nặng:
“Con chim hòa bình đang đau nặng.
Ngày và đêm càng thêm lo lắng
Đang lo chùi mài dao gươm đặng
Ngày mai đem ra chém giết nhau…”
Rồi Phạm Duy đưa ra môt cái nhìn so sánh rất thành thật: “Với bài hát phổ biến năm 1948, trước hết, Lê Thương đã nhìn ra quốc tế trước tôi. Phải đến thập niên 60 tôi mới soạn những bài hát như Người Lính Trẻ, Chuyện Hai Người Lính…”
Không chỉ Phạm Duy mà có nhiều nhạc sĩ tên tuổi khác đều tỏ lòng quý mến, khâm phục tài năng âm nhạc của Lê Thương. Một cây cổ thụ trong nền âm nhạc Việt Nam là nhạc sĩ Văn Cao cũng thừa nhận ông đã ảnh hưởng Lê Thương trong việc học tập và kế thừa nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.


III. Vài kỷ niệm với nhạc sĩ Lê Thương
Tôi hân hạnh được quen biết nhạc sĩ Lê Thương khoảng năm 1984 hay 1985, không nhớ rõ. Ông dáng người có vẻ phốp pháp, bụng hơi phệ, Cặp mắt kính dày cộm, giọng nói có hơi khàn của người lớn tuổi nhưng trầm, ấm, âm vang xa. Trong khoảng 2 tiếng đồng hồ chuyện trò, ông làm tôi cảm mến rất nhiều. Nói năng giản dị nhưng ân cần, điểm giữa là những tiếng cuời, có khi thật hiền, có khi thật sảng khoái; ông làm người nghe cuốn hút theo. Hiểu biết của ông về âm nhạc, về lịch sử, về văn chương thật mênh mông. Đây là lần đầu tiên tôi mới biết bài Học Sinh Hành Khúc mà tác giả chính là ông. Những học sinh trước năm 1975 hầu như ai cũng quen thuộc, từng hát bài này, quen thuộc đến độ đã không ít người hát “chế” câu đầu thành “Học sinh là người hũ tiếu ăn hai ba tô”. Tôi nhớ mãi câu nói thật vui, thật hóm hỉnh của ông mục đích là dặn tôi nhớ số để sau này trở lại chơi. “ Thuốc ba con 5 thì dễ nhớ rồi phải không, vậy thì nhớ ông Lê Thương chỉ hút 2 con 5 thôi nhé” (Nhà ông ở số 55 đường Bùi Viện.) Những năm tháng về sau tôi thường đến nhà ông, để được nghe ông hết lòng trình bày những gì tôi muốn thỉnh giáo. Để nghe những lời nói, những câu chuyện thật hóm hỉnh nhưng sâu sắc của ông. Lúc nào ông cũng rất lịch sự lắng nghe tôi nói, đối xử với tôi như người ngang hàng.Đây là một đức tính rất hiếm hoi ở người lớn đối với hậu sinh nhỏ thua mình trên 30 tuổi.

Nhạc sĩ Lê Thương.( Hình treo tại nhà.)
Sau 1975 ông có soạn một tập sách , đặt tên là Tạp Sự, ghi lại những chuyện đời của các ca nhạc sỉ cải lương, tân nhạc miền Nam được khoảng trên 300 trang viết tay. Khi Lưu Hữu Phước vào Nam, ghé thăm ông, biết cuốn này, muốn xin ông đem in, ông hẹn trả lời sau. Mấy hôm sau khi nhà thơ Huy Trâm đến chơi ông đem việc này hỏi ý, Huy Trâm nói in nguyên văn thì cũng tốt nhưng sợ là họ thêm bớt chi đó làm hại đến công trình tâm huyết của mình. Sau đó Lê Thương không nhắc đến việc này nữa.

Tượng bán thân của nhạc sĩ Lê Thương do người bạn thân là nhạc sĩ Lê Cao Phan điêu khắc.
Những văn nghệ sĩ thường lui tới nhà ông giai đoạn này mà tôi thỉnh thoảng gặp là các nhạc sĩ: Lê Cao Phan, Nguyễn Hữu Thiết, Châu Kỳ, Đức Quỳnh, Bắc Sơn … các nhà thơ như Huy Trâm, Tô Như, Hải Phương…Ông lúc nào cũng niềm nỡ, ân cần và khiêm tốn với tất cả mọi người. Ông luôn nói với những người nhỏ thua ông nhiều tuổi, trong đó có tôi, là hãy cứ gọi ông bằng anh cho thân tình văn nghệ.
Đã ngoài 70 tuổi nhưng Lê Thương rất khỏe, ông đạp xe đạp đến tận Gò Dưa để thăm mộ Hoàng Trúc Ly. Nhiều lần ông và tôi mỗi người một chiếc xe đạp, cót két đạp từ Sài gòn xuống Thủ Đức, đều đi về trong ngày. Ở Thủ Đức có chị Kiêm Lang là một người rất yêu thích văn chương, ca nhạc thường mời anh chị em văn nghệ sĩ xuống nhà chơi, đãi đằng, văn nghệ, có cả lén nhảy đầm. Nhạc sĩ Đức Quỳnh là người có những bước nhảy rất đẹp, thường nhảy biểu diễn, được mọi người vỗ tay tán thưởng thật nhiều.



Bàn thờ nhạc sĩ Lê Thương
Khoảng năm 1988, nhạc sĩ Lê Thương, một hôm bảo tôi rằng ông đượcThông Tin Văn Hóa Sài Gòn, qua nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, cho phép tổ chức Đêm Nhạc Lê Thương. Tôi rất vui mừng khi nghe tin này, và, tôi thật ngạc nhiên khi ông bảo là nhờ tôi viết script cho chương trình. Tôi hơi hoảng, xin từ chối vì không đủ khả năng. Ông cười tuềnh toàng, nói tôi đã nghĩ rồi, anh làm được mà, gắng giúp tôi đi nhé. Sau đó ông sắp xếp đưa tôi đi gặp một số ca sĩ như Thanh Lan, Hồng Vân … và ca đoàn nhà thờ ở Ngả Tư Bảy Hiền. Việc chưa đi vào đâu thì ngoài Hà Nội gửi điện vô báo là cho phép tổ chức Đêm Nhạc Lê Thương với điều kiện chỉ được trình diễn nhạc của Lê Thương từ trước năm 1945. Ông báo tin cho tôi bằng giọng nói thật bình thường chẳng chút buồn bã. Ông nói thêm là anh biết đấy trước 45 tôi đâu có đủ nhạc để trình diễn một chương trình dài như vậy. Rồi ông cười khè khè. Thế là “Đêm Nhạc Lê Thương” im lìm hủy bỏ.
Năm 91 tôi đi Mỹ, khoảng ba bốn năm sau, hay tin ông bị mất trí nhớ nặng. Ông mất vào năm 1996 trong sự bàng hoàng thương tiếc của anh chị em trong giới văn nghệ và cả dân chúng nữa.

Căn nhà của nhạc sĩ Lê Thương hiện nay (2016) Phần mặt tiền cho thuê.
Lê Thương, một nhạc sĩ tài ba, một vị thầy giáo tài giỏi, đức độ, một người nặng lòng với nước non, một nghệ sĩ lãng mạn với tâm hồn bay bổng thanh cao. Tình yêu trong âm nhạc của ông là một loại tình yêu không đắm chìm trong thân phận, dang dở yêu thương của đời thường, mà ông hướng về sự thanh cao, trong sáng như trăng rằm, keo sơn son sắt như “Bà” Tô Thị. Ông phả vào tâm hồn thanh niên học sinh những câu ca “vì dân, vì nước”. Nói về tính hài hước của Lê Thương, người quen biết với ông đều nhận thấy. Trong đời sống thường hằng, cũng như qua những bài nhạc như: Hòa Bình 48, Đốt Hay Không Đốt… Lê Thương đã cho chúng ta những nụ cười mỉm nhẹ nhàng nhưng nhiều khi nôn cả ruột. Nhưng nếu tôi dược chọn trong 2 từ ngữ hài hước và dí dỏm để chỉ về ông, tôi sẽ chọn dí dỏm. Vừa nhẹ nhàng vừa sâu sắc. Vừa thâm trầm vừa trí tuệ. Vừa hóm hỉnh vừa chừng mực. Không có sự nhố nhăng, hời hợt hay quá khích trong tinh thần hài hước của Lê Thương.
Sinh thời ông không bon chen, lặng lẽ giữ cho mình một thái độ sống thật chuẩn mực cho nên dù nhạc của ông được phổ biến khắp nơi nơi, từ thành phố đến thôn quê, từ các em nhi đồng cho đến người lớn tuổi ai cũng biết, cũng thích, nhưng thanh danh ông lại ít được nhắc đến. Nếu tôi không lầm thì ông chưa hề được những tổ chức về âm nhạc từ trong nước đến hải ngoại vinh danh, dù một lần. Về trường ca Hòn Vọng Phu, tôi bỏ thời gian tìm tòi rất nhiều thì tất cả những phần của các ca sĩ, các ban hợp xướng chưa có người nào hát đủ cả 2 lời của bản trường ca. Ngay cả các lời của bài hát cũng chưa có bài nào được đầy đủ. Ước mong trong tương lai có người đứng ra tổ chức một chương trình vinh danh nhạc sĩ Lê Thương, trình diễn thật đầy đủ bản trường ca bất hủ này để tỏ lòng biết ơn sâu xa người nhạc sĩ sáng như sao Bắc Đẩu trên vòm trời âm nhạc Việt Nam.

Phu nhân của nhạc sĩ Lê Thương đứng cạnh bàn thờ của ông (2016)


Hiện nay, căn nhà số 55 đường Bùi Viện Q. 1 Sài gòn của nhạc sĩ Lê Thương may mắn chưa đổi chủ. Bà Lê Thương năm nay 86 tuổi, vẫn còn sống nhờ sự chăm sóc của người con gái tên Thủy trong căn nhà giữ y như ngày xưa. Chị Thủy cho biết là khoảng 10 năm qua, chị đại diện cho gia đình hằng quý nhận được tiền tác quyền nhạc của ông khoảng vài triệu đồng (gần 100 Đô Mỹ) từ Hội Bảo Vệ Tác Quyền Âm Nhạc Việt Nam tạ Sài Gòn.


Thật là tình cờ, tôi viết những dòng chữ cuối cùng này vào ngày 17-9- 2016, đúng hai mươi năm ngày qua đời của nhạc sĩ Lê Thương và cũng là đêm hội tết Trung Thu của miền Nam California. Trên TV đang trình chiếu cảnh tết TrungThu cho các em nhi đồng tại khu một khu thương mại. Các thiếu nhi ăn mặc quốc phục, có em còn đội khăn đóng nữa, tay cầm lồng đèn đi tung tăng, hát ngọng ngịu: Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già ôm một mối mơ…” Lòng tôi không khỏi cảm hoài nhớ đến tác giả của nó, một nhạc sĩ biểu tượng cho bước tiên phong, sự hiến dâng cho nền âm nhạc Viêt Nam, giờ đây đã “mờ mịt thức mây”. (Chinh Phụ Ngâm).


Đặng Phú Phong
Trung Thu năm Bính Thân – 2016.


Tài liệu tham khảo:
- Nhaccodien.info
- Zin.vn.com
- amnhac.fm
- cafevannghe.wordpress.com
- http://motgoctroi.com
- langmai.org
- Wikipedia.org
- lyric.tkaraoke.com
- Khanly.net
- Hồi Ký Phạm Duy (NXB Trẻ-2008)
- Đặc biệt cảm ơn Sư cô Chân Không, nhà thơ Huy Trâm, nhà thơ Hải Phương, cô Sen Nguyễn, nhà thơ Du Tử Lê, nhà thơ Trần Dạ Từ đã giúp nhiều chi tiết cũng như khích lệ tôi hoàn tất bài viết này.











Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Nghệ sĩ Trần Văn Trạch, Nhạc sĩ Lê Thương









Nhac sĩ Phạm Duy & Nhạc sĩ Lê Thương 











Như một nén nhang muộn thắp cho Nhạc sĩ Lê Thương và cũng là thầy Ngô Đình Hộ dậy môn Sử Địa năm đầu tôi vào trung học.

PN









Trở về







MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.